HOI LY1 IX
NGUYỄN ĐỈNH THI- NGUYỄN KHẢI - NGUYÊN NGỌC-
Phần năm - Tư liệu riêng về một số
nhà văn Việt nam hiện đại (Tiếp theo)
246
Chương XVIII: Nguyễn Đình Thi
bài Nguyễn Đình Thi như tôi biết và bài Từ lần gặp ấy, tôi đã hiểu thêm Nguyễn
Đình Thi.
Nay tôi kể thêm mấy mẩu chuyện khác về anh.
1. Nguyễn Đình Thi từ thời thơ ấu đến bài thơ Đất nước.
Người ta thường nói Nguyễn Đình Thi sinh ở Luang Prabang (Lào).
Nhưng chính Nguyễn Đình Thi lại nói với tôi, anh sinh ở Phongxalỳ. Anh nói
rất cụ thể, hồi ở với tôi tại Đà Nẵng (tháng 7.2000)
Bố anh là một nhân viên bưu điện sơ cấp bị điều sang Lào, phụ trách
một trạm bưu điện ở Phong xa lỳ. ở đây ông lấy con gái một Việt kiều vốn là
một đầu bếp, người Đông Thái, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Ông này trốn sang Lào vì có
dính vào vụ Hà Thành đầu độc. Dân ở đây rất lạc hậu, một dân tộc thiểu số của
Lào gọi là Phù Nọi. Dân Phù Nọi ăn cả đất. Thi từng bắt chước họ ăn đất.
Phong xa lỳ là một khu vực quân sự (territoire militaire). Toàn lính là
lính, lính Tây, lính ta, khố xanh, khố đỏ, và tù chính trị. Xa nước, nên từ nhỏ
Nguyễn Đình Thi hay nghĩ về đất nước, hay tưởng tượng về đất nước. Nhưng
đất nước trong tâm trí cậu bé là thế: một đám tù chân xiềng tay xích, lính giải đi
làm cỏ vê hàng ngày.
Thi lên 6 tuổi, bố thấy con sắp thành dân Phù Nọi đến nơi, muốn đưa
anh về nước. Rất may, năm 1930, bố anh được điều về Việt Nam. Mẹ anh
thường cưỡi ngựa. Bà cưỡi ngựa, đi hàng trăm cây số. Bóng bà đi ngựa leo dốc
còn in mãi trong trí nhớ anh sau này – anh nói đó l à một hình ảnh rất thơ.
Gia đình anh về nước, đi từ Phong xa lỳ, qua Luang Prabang, Tà Khẹt,
về Hà Nội. Lần đầu nhìn cái ôtô, anh gọi là cái nhà biết đi. Lúc đầu gia đình ở
Hà Nội, phố Bạch Mai. Sau đi Hải Phòng, rồi lại trở về Hà Nội. Anh tự thấy là
một chú nhãi Hà Nội, thuộc đủ ngõ ngách, phố xá của Hà Nội.
Gia đình Nguyễn Đình Thi không phải trí thức. Không biết chữ Hán.
Coi như ngoại đạo đối với văn học. Trong đám sách vở nghèo nàn của bố, anh
chỉ được đọc và nhớ có một câu thơ của Bà huyện Thanh Quan: “Ngàn mai gió
cuốn chim bay mỏi”. Sau này ngẫm lại cuộc đời mình, anh thấy đời anh cũng
chỉ là “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Ngoài ra có được đọc bản dịch
Những người khốn khổ của V. Hugo. Cảm động nhất là đoạn Jean Valjean tìm
Cosette. Cosette trong đêm tối mù mịt, xách xô nước, tự nhiên thấy nhẹ bỗng đi.
Té ra Jean Valjean xách hộ. Anh nghĩ, suốt đời chỉ mong xách hộ xô nước cho
một đứa bé nhà nghèo.
Anh biết rất ít văn học Việt Nam. Mãi sau này mới đọc Đoạn tuyệt,
Nửa chừng xuân. Đến ba mươi tuổi mới đọc Tam quốc, Thuỷ hử.
Không biết chữ Hán, không biết Thơ mới, không biết Tự lực văn đoàn.
Không cảm được cái hay của ngôn từ chữ Hán. Không thích “Viễn phố” bằng
“bến xa”, nghe gợi nhiều hơn, không thích “lâm tuyền”, thích nói “suối xa”.
247
Cho nên làm thơ ngoài luồng Thơ mới, ngoài luồng Tự lực văn đoàn, cảm thấy
thế nào cứ làm như thế, điếc không sợ súng.
(Nghe tôi nói lại lời Nguyễn Đình Thi như thế, Nguyên Ngọc không
tin, cho là Thi nói dối. Nguyên Ngọc dứt khoát không tin ở sự thật thà của
Nguyễn Đình Thi).
Nguyễn Đình Thi rất thích cảnh rừng núi – anh nói thế – vì anh đã ở
Phong xa lỳ, nên về sau lên Việt Bắc thấy quen thuộc như đã biết từ bao giờ rồi.
Mẹ Nguyễn Đình Thi là một người đàn bà rất đảm. Khi gia đình ở Hải
Phòng, bố anh lại bị điều vào Sài Gòn (Chợ Lớn). Bà không theo vào. Bà mở
một xưởng làm kẹo bột. Về Hà Nội cũng làm kẹo.Đi kháng chiến , bà trồng hẳn
một quả đồi sắn. Nguyễn Đình Thi nói “ Bà ghê lắm, giỏi lắm!” (Thế mà hình
như bà mù chữ ).
ở Hải Phòng, anh chứng kiến Nhật đổ bộ. Anh nói: “Nhục lắm! Nó đi
đâu cũng ra hiệu hỏi nơi có đĩ”. Anh lớn lên vào lúc cuộc đại chiến thứ hai.
Nhật vào. Phong trào Việt Minh. Thời thế đặt ra những câu hỏi lớn. Nguyên
Hồng gọi là “thời kỳ đen tối” (1940- 1945). Theo Nguyễn Đình Thi, đây là thời
kỳ trắng đen, thật giả lẫn lộn. Vì thế dễ lầm lẫn (Nguyễn Công Hoan, Nguyễn
Tuân đã lầm lẫn), phải suy nghĩ tợn. Suy nghĩ về đời, về đất nước, về sự sống,
về chân lý, về đường đi... Cho nên Nguyễn Đình Thi thích đọc và viết triết học.
Anh viết Kant năm 1942, lúc 18 tuổi. Tiếp đó là nhạc. Mãi sau mới làm thơ và
viết văn.
Như thế là Nguyễn Đình Thi đi từ triết đến nhạc rồi mới đến thơ văn.
Thơ văn có cấu trúc nhạc. Ông bố Nguyễn Đình Thi ngày xưa có chơi đàn
nguyệt, đàn bầu. Còn anh thì tự học nhạc chỉ bằng một cái đàn mandoline và
một cuốn nhạc phổ thông. Có một buổi học nhạc một mục sư. Nói chung là tự
học.
Từng chứng kiến cảnh mất nước từ ở Lào, rồi cảnh Nhật vào Hải
Phòng, đến hiệp định 6/3 lại chứng kiến Pháp kéo vào từ Hải Phòng, theo
đường số 5 (Trường Chinh giao nhiệm vụ cho Nguyễn Đình Thi đi đả thông
đồng bào hai bên đường số 5: không đón tiếp, mặc nó, nhưng không gây sự).
Vì thế, được làm chủ đất nước, sướng lắm – “Trời xanh đây là của
chúng ta! Núi rừng đây là của chúng ta!”.
Hồi học trường Bưởi, Nguyễn Đình Thi thích nằm ngửa ở sân trường
nhìn trời xanh không biết chán. Sau này nhớ lại: “Trời xanh đây là của chúng
ta!”.
Kháng chiến, Nguyễn Đình Thi có chuyện buồn: hai người thân mất
(vợ và cô em vợ - định gả cho Thi), cộng thêm nỗi đau đất nước bị dày xéo:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Giây thép gai đâm nát trời chiều”
Anh nói, tám năm kháng chiến mới viết được hai câu ấy. Khắp nơi giặc
chăng giây thép gai: Hành quân ở Bắc Giang, nhìn lên đồi cao thấy giây thép
gai in trên nền trời đỏ như máu.
Hành quân liên miên, đi ngày, đi đêm. Toàn đi bộ, một ngày có khi 50
248
cây số, từng qua vùng thượng Lào: “Ngày nắng cháy, đêm mưa dội”, cứ thế đi
dưới trời mưa.
Vì thường hành quân đêm nên có hai hình ảnh rất ấn tượng đối với
anh: lửa và sao. Lửa đốt sưởi lúc nghỉ chân. Không phải đèn mà lửa:
Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây.
(Nhớ)
Đến chiến dịch Điện Biên Phủ, lính đi trong chién hào ngập nước có
khi tới ngực. Mặt mũi đen nhẻm vì chỉ có bùn và khói súng, cười răng trắng
xoá, từ bùn vụt lên: “Rũ bùn đứng dậy sáng loà”. Nguyễn Đình Thi nói:
“Nguyễn Tuân rất thích hình ảnh này. Còn chị Mộng Tuyết gặp anh lần đầu,
kêu lên: “A, anh rũ bùn đứng dậy sáng loà đấy à!”
Bài thơ Đất nước làm ở Việt Bắc từ 1948. Ghép hai bài thơ kháng
chiến với nhau. Sau bẵng đi đến 1955 mới làm tiếp ở Thái Nguyên – xã Phú
Minh, bên sông Cầu (làm tiếp bài thơ Đất nước và bắt đầu viết tiểu thuyết Vỡ
bờ)
Anh nói, bài Đất nước kết cấu theo âm nhạc. Chủ âm a từ mở bài, thân
bài đến kết bài:
Tôi nhớ những ngày thu đã xa...
(...)Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
(...) Nước Việt Nam từ máu lửa,
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
1.Nguyễn Đình Thi tập viết tiểu thuyết.
Năm 1968(20.11.1968), Nguyễn Đình Thi có một cuộc nói chuyện với
cán bộ và sinh viên khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội. Lúc ấy tôi còn dạy ở
Đại học Sư phạm Vinh. Nhân ra Hà Nội, tôi đến nghe ghé.
Nguyễn Đình Thi nói về những ngày đầu anh tập viết truyện, viết tiểu
thuyết. Anh nói, con đường vào nghề văn của anh là đi từ ngọn xuống gốc – con
đường không thuận. Bắt đầu viết từ năm 1942. Viết sách khảo cứu trước. Vào
Việt Minh, bắt đầu biết chủ nghĩa Mác, học được gì viết nấy: viết tiểu luận, viết
về ca dao..., vẫn làm lý luận trước. Khác với con đường của Nguyên Hồng, Tô
Hoài, từ vốn sống thực tế mà sáng tác. Thực ra, anh nói, nếu không có cách
mạng thì cũng có thể đi từ gốc đến ngọn, viết theo vốn sống tự nhiên của mình.
Song vừa vào nghề đã gặp cách mạng, cách mạng yêu cầu phải có vốn sống về
quần chúng cơ bản, về nông thôn. Do xuất thân gia đình viên chức tiểu tư sản,
toàn ở thành thị, lúc bé lại ở Lào, về nước chỉ đi học, vốn sống về quần chúng
công nông không có gì. Thành ra phải có cả một quá trình đi theo cách mạng, về
nông thôn, vào bộ đội, vốn sống phải thu nhặt dần dần, từ 1942 đến 1955, chín
năm phấn đấu mới viết được cuốn tiểu thuyết đầu tay: cuốn Xung kích.
249
Những năm kháng chiến, tại chiến khu Việt Bắc, Nguyễn Đình Thi ở
chung với mấy ông lãnh đạo văn nghệ: Tố Hữu, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao.
Anh thử viết một truyện ngắn, viết xong mời mấy vị đàn anh đến đọc cho nghe.
Họ ngồi quanh bếp lửa nhà sàn. Đọc xong thấy các vị chẳng nói gì, chỉ liếc
nhau, tủm tỉm. Biết là hỏng rồi. Các vị ngại chê nên không nói gì. Lại thử lần
nữa. Vẫn thất bại. Buồn quá. Làm mấy bài thơ thì bị phê bình. Viết văn cũng bị
chê. Chủ yếu do viết không hay, không sâu – anh tự thấy như thế.
Thi biết nhược điểm của mình. Tuy cũng tiếp xúc với thực tế, nhưng
không sao nhớ được những chi tiết cụ thể của đời sống (nói như Tô Hoài, con
mắt anh không sao chọc thủng được tờ giấy. Nghĩa là cứ bị sách vở che khuất).
Mà văn xuôi thì rất cần chi tiết. Anh nghĩ cách khắc phục. Anh cho rằng cơ thể
con người ta là một thể thống nhất. Nếu tay ghi lại thì óc cũng lưu giữ được.
Lần này anh đi theo chiến dịch Trung du (cuối 1950, đầu 1951). Anh
hạ quyết tâm phải thành công. Nếu lại thất bại thì bỏ nghề, xin công tác khác.
Anh đi với tiểu đoàn 29 (tiểu đoàn Lũng Vài), tiểu đoàn này đánh công kiên, tức
đánh đồn, rất giỏi - đánh công kiên là khó nhất. Mở chiến dịch Trung du là lần
đầu ta đánh công kiên. Anh đem theo rất nhiều sổ tay để ghi chép. Vừa đi vừa
ghi chép, ghi la liệt như máy.Anh nói, nếu có ai nhìn anh vừa hành quân vừa ghi
ghi chép chép thì chắc buồn cười lắm. Cái gì cũng ghi: lá nguỵ trang đầy
đường. Có ba con bò gặm cỏ ở bờ đê. Một cái vạc nước sôi sùng sục trên ba
tảng đá... ghi tuốt. Lúc bao vây đồn giặc, anh cũng đào một hố công sự bên
cạnh anh chỉ huy (Thái Dũng, Tây gọi là Commandant manchot – quan tư cụt
tay). Pháo chưa nổ. Im lặng hầu như tuyệt đối. Anh lắng nghe và ghi: tiếng gà
gáy ở một xóm xa, tiếng gió thổi, tiếng mõ, tiếng chó sủa ở một làng tề... Khi bộ
đội bắt đầu rót pháo, anh nhổm lên quan sát đồn giặc bốc lửa ra sao rồi thụp
xuống ghi. Xung kích vào đồn, anh chạy theo và ghi những gì nhìn thấy. Ghi
mò nguệch ngoạc – chưa nhập tâm thì cứ phải ghi hết – anh nghĩ thế. Tất nhiên
vẫn chưa đủ. Trận đánh kết thúc, anh theo bộ đội ra ngoài đồng xem họ tập trận
để ghi các động tác lăn lê bò toài, cách ném lựu đạn thế nào... Phải hiểu cả các
loại vũ khí và cách tổ chức của quân đội. Điều này không được viết ra vì phải
giữ bí mật. Không được viết, nhưng vẫn phải biết, vẫn phải ghi để có sens du
réel, phải có sens du réel mới viết được. Các cuộc họp tổng kết kinh nghiệm
củachiến dịch cũng phải dự và ghi. Sinh hoạt của bộ đội mình nói chung là họp,
anh ghi thành hẳn một cuốn sổ về các cuộc họp. Nhưng chỉ biết một trận đánh,
một đơn vị chưa đủ. Đằng sau tiểu đoàn 29 mà anh bám sát, chẳng những có cả
một chiến dịch mà còn có cả một xã hội nữa.
Chiến dịch Trung du kết thúc, trên giao cho anh viết một bài tường
thuật. Nhân tìm hiểu để viết bài này, anh có được cái nhìn bao quát cả trận đánh
và cả cái nền rộng rãi đằng sau trận đánh.
Khi thấy đã tạm đủ rồi, anh trở về, nói dối các vị đàn anh là đi công tác
(người ta không tin mình viết được, nên nói đi sáng tác thì ngượng, ngồi ở nhà
sáng tác trước mặt mọi người lại càng ngượng), kì thực anh tìm đến ở nhờ nhà
một đồng bào ở chân núi Tam Đảo để viết. ấy là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của
250
anh: cuốn Xung kích.
Anh dự định viết một truyện vừa. Sắp xếp một loạt bức tranh những
đám đông. Muốn biểu hiện chiến tranh nhân dân, phải tả những đám đông.
Nhân vật chính nói chung đều phỏng theo người thực. Thí dụ, chính trị viên cụt
tay là Thái Dũng, vốn là một ông giáo, chỉ huy tiểu đoàn 29. Promotype của
Kha là một anh học sinh ở Hải Phòng, trẻ, có tài, chưa vợ con, vẫn có tính học
sinh. Nhân vật Sản thì có nhiều nguyên mẫu góp vào: Thái Dũng, một anh công
nhân ở Hải Phòng và một anh khác vốn là học sinh trường cơ khí (école
pratique) phụ trách chính trị viên tiểu đoàn 29. Có một nhân vật phụ mà thành
công hơn cả nhân vật chính: chú bé Luỹ. Một em bé đi lính tự nhiên đem lại
một cái gì rất cảm động cho bộ đội ta.
Mở đầu chương một, anh nói, mình tìm cách sút gôn mà loay hoay mãi
không được. Sau mới nghĩ ra:Đưa luôn vào cảnh hành quân của bộ đội, dân
công. Thế là trót lọt – Viết một mạch ba tuần lễ, xong.
Viết xong, rất hồi hộp. Đọc thử cho bộ đội nghe. Họ thích nhất cảnh bộ
đội cởi truồng lội suối, cảnh dân công, bộ đội đối đáp nhau. Thích hơn các đoạn
tả đánh nhau. Vậy là tả đánh nhau không đạt lắm. Tả sinh hoạt khá hơn vì gần
với tâm trạng mình hơn. Tuy vậy vẫn không tự đánh giá được, thấy vẫn cần
phải đưa cho ai đó đọc. lần này không dám đưa cho mấy vị đàn anh trong nghề
nữa. Các vị khó tính quá. Anh chủ trương trước hết đưa cho những người mà
anh gọi là “nhà văn một nửa”. Người đầu tiên là Xuân Thuỷ. Xuân Thuỷ cho là
được, chỉ chê một số chỗ chưa đúng ngôn ngữ quần chúng. Thí dụ, đoạn tả bộ
đội dân công đi lại qua cầu chen chúc nhau, có một cô dân công mắng một anh
bộ đội sờ soạng mình: “Cái anh này sao lại cứ sờ sờ vào người ta như thế!”.
Xuân Thuỷ nói, đàn bà người ta không nói như vậy. Và ông chữa cho là: “Đồ
phải gió, chân với tay”. Mắng mà vẫn nội bộ. Câu trước là do Nguyễn Đình Thi
bịa ra, thô quá! Anh nói, vậy là văn chương mà thô hơn quần chúng. Tiếp theo
anh đưa cho cụ Lành. Ông Lành khuyên cho mấy đoạn: đoạn tả hành quân và
chi tiết anh đại đội trưởng ngồi tính giờ, ghi vào nắm tay. Tố Hữu còn thêm cho
một chi tiết: Sản nói với Kha trước khi Kha tắt thở: “Tao hôn mày” để biểu
hiện tình cảm một cách văn minh.
Cuối cùng anh đưa cho Trường Chinh. Trường Chinh khen có tính
đảng: tả đúng chiến tranh nhân dân, có sự phối hợp giữa chi bộ quân đội và cấp
uỷ đảng địa phương, như thế là ở đâu cũng có đảng lãnh đạo. Nguyễn Đình Thi
nói, thực ra lúc viết, anh không có ý thức như vậy. Đây là ý thức của một ông
lãnh đạo đảng. Ngoài ra cũng có người phê tả thương vong hơi nhiều, e không
có lợi, sợ ảnh hưởng đến tư tưởng quân đội (ý kiến này là của một cán bộ chính
trị trong quân đội).
Trường Chinh giục in luôn để phục vụ kịp thời.
Thành công này đã làm cho Nguyễn Đình Thi tin tưởng. Anh viết tiếp
Vào lửa, Mặt trận trên cao, Vỡ bờ.
Thực ra tiểu thuyết không phải chỗ mạnh của Nguyễn Đình Thi: Tô
Hoài, Nguyễn Khải trước sau vẫn cho Nguyễn Đình Thi không viết được tiểu
251
thuyết.
Năm 1970 tôi có được nghe Nguyễn Đình Thi nói về tiểu thuyết Vỡ bờ
(ở trụ sở báo Văn nghệ). Anh nói Vỡ bờ tập I, anh còn viết dưới cái cánh che
chở của ông Tolstoi già. Tập II đã thoát được cái cánh ấy. Thực ra Vỡ bò tập II
rất dở. Tập I còn đỡ hơn. Mới biết dù thông minh đến đâu, con người ta cũng
khó đánh giá đúng văn của mình – “văn mình – vợ người” – văn mình bao giờ
chả hay.
2. Vịt giời và vịt nhà.
Nguyễn Đình Thi có lần ví mình như con vịt. Bơi được một tí, bay
được mấy mét và chạy lạch bạch dưới đất. Một ví von có ý tự trào về sự nghiệp
của mình. Tôi chắc anh đã suy nghĩ nhiều về sự ví von này. Vì nó rất đúng với
thành tựu nghệ thuật của anh và có hàm ý mỉa mai, cay đắng. Nhưng sự ví von
này còn che dấu một ý khác. Anh nói, không chỉ có nghĩa khiêm tốn đâu, nếu là
con vịt giời thì nó bay cao, bay xa lắm đấy.
Theo tôi, sự ví von này chứa đựng một mâu thuẫn có thực trong cuộc
đời nghệ thuật của anh.
Một thanh niên trí thức, tuổi trẻ, tài cao. Mười tám tuổi đã viết sách
triết học. Rồi soạn nhạc, làm thơ. Lại lớn lên đúng vào một thời kì lịch sử đầy
bão táp, chẳng những chứng kiến mà còn đích thân tham gia vào những sự kiện
trọng đại có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh của đất nước: Phong trào Việt
Minh, Cách mạng tháng Tám, cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
Một con người như thế, gặp thời thế như vậy, tất nhiên có nhiều ước
vọng lớn, muốn bay cao, bay xa, thật cao, thật xa.
Nhưng tổng kết cuộc đời mình, anh để lại được những gì? Nhạc một ít,
thơ một chút, kịch dăm vở, tiểu thuyết mấy cuốn, lý luận vài tập. Nói đa tài thì
đa tài thật. Nhưng chẳng tài nào được đẩy đến nơi đến chốn, được phát huy đến
tột đỉnh. Cho nên có lần Xuân Diệu nói với tôi: “Không biết nên gọi Nguyễn
Đình Thi là nhà gì nhỉ”.
Vì sao vậy? Có phải anh không chịu phấn đấu đâu. Trái lại thế. Không
phải ngẫu nhiên mà anh đã tổng kết đời mình bằng câu thơ rất buồn của Bà
huyện Thanh Quan: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”.
Giải thích tình trạng này, tôi cho rằng chính những tìm tòi suy nghĩ của
anh đã khiến anh luôn luôn đi chệch ra khỏi đường ray chính thống, và vì thế
luôn luôn bị phê phán, bị huýt còi. Một con người suốt đời đi theo đảng mà luôn
luôn va vấp với đường lối văn nghệ của đảng. Một con đường nghệ thuật quả là
không thông thuận.
Tôi cho rằng một trong những người hiểu sâu sắc Nguyễn Đình Thi là
Nguyễn Khoa Điềm.
Cuối năm 1982, nhân ra Hà Nội học Nguyễn ái Quốc, Nguyễn Khoa
Điềm có đến thăm tôi (Đồng Xa, ngày 21.11.1982). Anh đánh giá rất cao
Nguyễn Đình Thi mà anh cho có thể trở thành một trí tuệ lớn của thời đại. Anh
nói: “Thời nay, cái quyết định là trí thức, là trí tuệ, chứ không phải kinh nghiệm
thực tế. Từ 1930 đến nay, các nhà văn ta chỉ đi từ thực tế, rồi dùng tài, dùng
252
tâm mà viết. Chưa có trí tuệ lớn để tổng kết: “Đã đến lúc cần có một nhà văn
có trí tuệ như thế. Người đó là Nguyễn Đình Thi chăng?”
Và Điềm có một so sánh giữa Nguyễn Đình Thi và Huy Cận. Anh nói:
“Huy Cận chỉ đứng ngoài thực tế mà phản ánh và triết lý. Triết lý ngày xưa của
Lửa thiêng còn gây được một cái gì mênh mông, rộng xa. Triết lý bây giờ của
Huy Cận chả có nội dung gì cả”. Anh khẳng định: “Nguyễn Đình Thi thì khác.
Anh muốn triết lý như một người trong cuộc”.
Đúng thế, Nguyễn Đình Thi tham gia cách mạng, vừa đi vừa tìm
đường, “nhận đường”. Một con người thực sự nhập cuộc. Trước 1945, hai lần
nếm cơm tù đế quốc. Đến kháng chiến, gia nhập bộ đội, dự nhiều trận đánh.
Thời chống Mỹ, vào Nam, tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh.
Cũng vào cuối năm 1982 (Đại học Sư phạm Hà Nội, ngày 19.11.1982),
tôi được nghe Nguyễn Đình Thi kể rất tỉ mỉ về những nếm trải của anh cùng bộ
đội, nhân dân trong những ngày gian khổ nhất: Ăn đói, mặc rét (ở Thái Nguyên,
gặp Tố Hữu. Trời rét. Tố Hữu lấy cái áo dạ của mình khoác cho, nhưng sau phải
trả lại vì không được phép mặc áo cấp phát của cán bộ Trung ương). Nhiều
phen hút chết vì bom mìn, vì kiết lỵ. Anh nói, có phải được chết oai phong gì
đâu, mà chết dấm chết dúi trong bờ trong bụi. Dọc đường Trường Sơn, bao
nhiêu nấm mồ vô danh. Tự thấy mình may mắn, còn được sống mà viết. Nhiều
cái chết rất thảm: chết vì đói rét, chết vì cây đổ, chết vì rắn độc...
Anh tự thấy mình cũng chẳng dũng cảm gì, vậy mà từng phải sống
những giây phút hết sức căng thẳng, giữa cái sống cái chết ranh giới chỉ là một
sợi tóc. Nhưng vì thế mà càng thương, càng kính phục nhân dân mình. Anh kể
chuyện hôm giải phóng Sài Gòn, anh đi cùng một số đồng bào từ Mỹ Tho vượt
qua sông Cửu Long, quãng Bến Tre, rồi băng qua lộ 4. Có nhiều chị phụ nữ địu
con. Trạm trưởng cũng là một nữ. Khi qua sông, các chị vẫn đùa nhau một cách
rất hồn nhiên: “Này người yêu của mày nó đang nằm lòi ruột ra kia kìa!” Qua
lộ 4 là qua cửa tử. Vì đồn địch chỉ cách có trăm mét. Chẳng có ai bảo vệ cả, vì
không phải cán bộ to. Một giao liên đón, anh ta quan sát xem địch có phục kích
không, rồi vẫy tay một cái, thế là chạy thục mạng. Nguyễn Đình Thi đau dạ dày,
ôm bụng chạy. Đằng sau các chị địu con chạy sòng sọc... Địch mà biết, nó chỉ
lia một băng là chết hết.
Nguyễn Đình Thi không như ai kia, chỉ đứng ngoài cuộc, nấp cho kín
mà vỗ tay ca ngợi nhân dân anh hùng.
Từ thực tế ấy anh suy nghĩ về dân tộc, về nhân dân, về con người, về
văn học nghệ thuật. Về sự hi sinh không bờ bến của quân đội và nhân dân mình.
Hy sinh không cần ai biết đến, không cần Tổ quốc ghi công. Anh nói, viết được
sự thật này, chết không uổng. Có thực tế, anh lại có trí thức, đọc rộng, hiểu
nhiều. Tôi đã từng được nghe anh nói về tiểu thuyết Pháp, tiểu thuyết Nga, về
thơ Baudelaire, thơ Tagore, về tư tưởng của Nguyễn Trãi, về thơ ca, vũ đạo,
điêu khắc của Việt Nam, về nền văn hoá rất cao của dân tộc ta nên có thể tồn tại
được bên cạnh hai nền văn hoá lớn là Trung Quốc và ấn Độ. Như vậy là tư duy
của anh không bị bó hẹp trong một cái khuôn văn hoá chật hẹp nào.
253
Những ý nghĩ của anh, vì thế, không giáo điều, không hẹp hòi, máy
móc. Nhưng chính vì thế mà chệch ra khỏi đường lối văn nghệ của đảng.
Về điểm này, một lần nữa tôi lại thấy Nguyễn Khoa Điềm hiểu rất
đúng về Nguyễn Đình Thi. Có điều hồi ấy anh phải diễn đạt một cách dè dặt,
cho đúng khuôn phép: “Nguyễn Đình Thi có chỗ chông chênh, song anh muốn
nói một cái gì về chủ nghĩa nhân văn, với một tầm nhìn lâu dài, tạo ra những
giá trị tư tưởng lâu dài. Cái thiên hướng đó chưa nhịp nhàng với xã hội hiện
nay nên bị đánh giá sai đi, bị hiểu lầm”.
Tôi thì nói thẳng, những suy nghĩ tìm tòi của anh chính vì không hẹp
hòi, máy móc, giáo điều nên thường chệch ra ngoài đường lối văn nghệ của
đảng.
Trước hết là thơ. Anh chủ trương một lối thơ không phụ thuộc vào vần
điệu bên ngoài, vần điệu ngoài tai, chỉ cần nhịp điệu bên trong. Không phải cứ
hết vần là hết thơ. Thơ không vần vẫn là thơ dân tộc. Anh nói, đúng là âm thanh
của ngôn ngữ có khả năng miêu tả được sự vật. “Xè xè nấm đất bên đường”,
“xè xè” là tả cái gì thấp. “Nhưng thơ hiện đại nên bớt “xè xè” đi, càng bớt
được nhiều càng tốt”. Anh muốn thơ thực sự là lời nói bằng thứ ngôn ngữ bình
thường giản dị nhất. Anh đề cao thơ trí tuệ, thơ tư tưởng. Thơ tất nhiên phải có
tình cảm, nhưng tư tưởng phải sâu sắc, sáng rõ, còn tình cảm thì nên kín đáo.
Anh nói, “thơ của ta, tư tưởng thường mù mờ , tình cảm thì lộ liễu”. Quan niệm
của anh có thể mở ra một cuộc cách mạng về thơ ca phù hợp với thời đại. Ngày
nay ai nấy đều thấy như thế. Nhưng hồi ấy (1948, 1949) anh đã bị phê phán
kịch liệt. Vì trái với đường lối văn hoá dân tộc, khoa học, đại chúng hiểu theo
nghĩa thô thiển nhất. Có kẻ còn tỏ ra phẫn nộ, như Lưu Trọng Lư, hò hét muốn
đuổi anh ra khỏi vương quốc thơ ca.
Về tiểu thuyết thì cuốn Xung kích coi như trót lọt. Nhưng đến Vỡ bờ thì
sinh chuyện. Anh ném ra cô Phượng, một nhân vật tư sản khá phức tạp nhưng
có cảm tình với cách mạng. Anh muốn nói cách mạng tháng Tám là cuộc cách
mạng của toàn dân tộc, trong đó có giai cấp tư sản. Anh rất tâm đắc với nhân
vật này, một nhân vật được sống thật là mình. Nhưng người ta cho anh đi theo
dòng tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Cô Phượng là nhân vật Tự lực văn đoàn.
Lôi thôi trầy trật nhất là kịch. Hầu như vở nào cũng bị phê phán. Tôi đã
được nghe anh than phiền về chuyện này ở Đà Nẵng (31.7.2000).
Anh nói kịch của anh kết cấu theo diễn biến tình cảm hơn là theo xung
đột kịch. Đúng là kịch của anh, do đó, giầu chất thơ. Tôi cho rằng kịch của
Nguyễn Đình Thi là kịch tư tưởng, có thiên hướng về chủ nghĩa nhân văn. Một
lối kịch tượng trưng thường dùng biểu tượng tượng trưng để ném ra tư tưởng
này khác.
Kịch như thế là trái hẳn với đường lối văn nghệ của Trường Chinh: văn
nghệ phải phục vụ chính trị (hồi ấy chủ nghĩa nhân văn cũng bị phê phán vì cho
là thuộc phạm trù ý thức hệ tư sản), chủ đề phải rõ ràng, không được dùng biểu
tượng hai mặt.
Cho nên Con nai đen bị cấm diễn. Hoàng Văn Hoan chê chủ đề không
254
rõ. Ông ta nói, ta đang đói. “Dân đói thì như nồi nước sôi. Phải thận trọng!”
Nguyễn Trãi ở Đông quan thì cho là ám chỉ Trung ương họp. Người ta
còn đặt vấn đề: Sao không viết Nguyễn Trãi ở Lam Sơn, Nguyễn Trãi anh hùng,
Nguyễn Trãi chiến thắng, mà lại viết Nguyễn Trãi bị cầm tù. Còn nhân vật cô
Câm thì muốn nói gì? ức mà không nói được? Thâm lắm đấy! Tác phẩm này
cũng bị cấm. Thực ra lúc bấy giờ anh muốn nêu vấn đề trí thức. “Thời ấy nổi
lên mấy vở kịch về trí thức: Kịch Khuất Nguyên là trí thức và vấn đề trong đục;
Kịch Galilée là trí thức và vấn đề chân lý; Nguyễn Trãi ở Đông quan là trí thức
và vấn đề dân tộc”.
Đến Giấc mơ anh muốn đưa ra một vở kịch thật hiện đại: một anh
thương binh ngất đi, mơ thấy nhiều cái chết: cái chết của Tần Thuỷ Hoàng, cái
chết của Cléopâtre, cái chết của Chử Đồng tử, cái chết của anh thương binh. Vở
kịch có một cuộc đối thoại với một gã lái buôn. Nó đi đâu cũng đem theo cái
bàn tính và tay nải tiền. Cái gì nó cũng mua được hết, nhưng cuối cùng không
mua được khóm tre của anh thương binh. Kịch rắc rối, lại pha huyền thoại như
thế tất nhiên cũng không được chấp nhận.
Rừng trúc thì viết theo lối cổ điển thôi, nhưng có gài một chủ đề có ý
nghĩa nhân văn (bên cạnh chủ đề đoàn kết đánh giặc) đặt vào lời Chiêu Thánh:
“Việc nước là quan trọng, nhưng việc của con người cũng không là nhỏ”.
Còn Hoa và Ngần thì đề cập đến chuyện một cô gái, chồng đi chiến
trường đã báo tử. Nhưng khi cô yêu người khác thì chồng lại trở về. Trong
chiến tranh, nội dung kịch như thế tất nhiên cũng không được diễn.
Thật ra nếu những tác phẩm trên của Nguyễn Đình Thi đạt tới phẩm
chất nghệ thuật cao, là những kiệt tác, thì không ai có thể phủ nhận được, không
gì giết chết được. Có chôn xuống đất đen thì nó cũng sẽ đội đất chui lên. Như
Giông tố, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, như Vang bóng một thời của Nguyễn
Tuân...
Nhưng tất cả chỉ mới là những thử nghiệm. Nếu anh cứ tiếp tục thử
nghiệm thì rồi có thể có lúc sẽ đạt tới độ chín, và biết đâu đấy, có thể tạo được
những tác phẩm chẳng những có giá trị lâu dài mà còn mở ra được mội thời đại
mới cho nền văn nghệ Việt Nam hiện đại.
ấy là nói giả thiết thế thôi. Sự thật thì Nguyễn Đình Thi đã chùn bước.
Anh sợ – Dương Thu Hương thì nói thẳng: Nguyễn Đình Thi là thằng hèn, một
trí thức hèn, từng ví mình như hạt bụi (chị nói trong cuộc gặp mặt của Nguyễn
Văn Linh với văn nghệ sĩ – 10.1987).
Không rõ bản thân Nguyễn Đình Thi có thấy mình là hèn hay không,
chỉ biết có lần , trong một buổi nói chuyện ở Đại học Sư phạm Hà Nội, anh tự
cho là người luôn luôn bị lỡ tàu.
Hôm ấy anh nêu lên ý kiến của Goethe về sự xuất hiện những tác phẩm
lớn. Goethe nêu lên ba điều kiện:
- Dân tộc có gì lớn để viết?
- Có thiên tài để viết không?
- Thiên tài có được viết ở thời kì sung sức nhất không? Hay cứ bị lỡ
255
tầu hoài.
Thì ra anh hiểu lỡ tầu là như thế.
Nhưng liệu anh có phải là thiên tài không? Và tàu nó không đợi anh,
hay anh không dũng cảm bước lên tàu?
3. Chuyện con cua và con ếch.
Năm 1983, Hà Xuân Trường thay Trần Độ làm trưởng ban văn hoá văn
nghệ Trung ương. Nguyễn Văn Hạnh tiếp tục ở lại một thời gian làm phó cho
Hà Xuân Trường. Các vị tổ chức một cuộc hội thảo trong ba ngày về văn học
nghệ thuật. Cuộc hội thảo tập hợp rất đông văn nghệ sĩ thuộc các ngành nghệ
thuật khác nhau. Nguyễn Đình Thi có đến dự. Hôm ấy tôi được chứng kiến
Nguyễn Đình Thi sợ Tố Hữu như thế nào. Ba ngày liền các đại biểu tự do đăng
kí phát biểu. Hôm đầu, tôi hỏi Nguyễn Đình Thi có phát biểu không. Anh nói
không. Nhưng đến buổi cuối cùng, anh lại nói.
Giới văn nghệ nói chung rất phục Nguyễn Đình Thi (trừ bọn viết văn).
Anh lại có thuật nói hấp dẫn. Anh bước lên, đứng trước cái bàn có phủ khăn.
Đứng im, không nói gì. Mọi người im phăng phắc chờ đợi. Tưởng như con
muỗi vo ve cũng nghe thấy. Bỗng anh bước ra khỏi cái bàn, vung tay hỏi hội
nghị: “Chúng ta đang làm cái gì thế này?” Mọi người ngơ ngác tự hỏi: họp
bangày, không biết mình làm cái gì nhỉ? Càng cảm phục và chờ đợi. Thi vung
tay nói lớn: “Chúng ta đang làm một nền văn nghệ lớn. Và chúng ta cũng lớn!”
Đúng lúc ấy Tố Hữu đi vào. Hà Xuân Trường theo sau. Tố Hữu ăn mặc
xuềnh xoàng, áo sơ mi bỏ ra ngoài quần. Người nhỏ bé.
Nguyễn Đình Thi đang hùng hồn bỗng cụt hứng, xỉu hẳn lại, không nói
được nữa.
Tố Hữu ngồi ngay ghế đầu, vẫy tay nói với Thi: “Anh cứ nói tiếp đi!”.
Nhưng Thi chỉ nói lý nhí mấy câu gì đó không nghe rõ, rồi bỏ đi xuống.
Tôi hình dung con cua đang giơ hai càng một cách hiên ngang như
muốn thách thức với cả trời đất. Con ếch tới, vỗ nhẹ vào mai một cái, con cua
vội co dúm người lại. Nguyễn Đình Thi là con cua, Tố Hữu là con ếch.
Thảm hơn nữa là sau đó, khi Tố Hữu phát biểu, Thi thỉnh thoảng lại đế
vào một câu để tỏ ra rất tán thưởng ý kiến của Tố Hữu. Một thái độ nịnh hót rất
lộ liễu. Lưu Trọng Lư cũng thế. Rất tội!
Nguyễn Đình Thi là một trí thức, đọc rộng, biết nhiều – lại có nhiều
trải nghiệm trong thực tế và có quan hệ với các cấp trung ương, những ông lãnh
đạo đảng và quản lý nhà nước. Vì thế anh có nhiều ý kiến ngược dòng chính trị,
có tầm khái quát khá táo bạo. Nhưng cứ phải dấu đi, cứ phải ngậm miệng.
Trong vở kịch Nguyễn Trãi ở Đông Quan, anh đưa ra một nhân vật mắc bênh
câm. Cô Câm. Chắc hẳn anh muốn nói cái khổ của anh trí thức, của bản thân
mình: biết đủ thứ, muốn nói mà không nói được.
Nhưng tâm lý con người ta là thế, khi trong bụng có lắm ý kiến lấy làm
tâm đắc, thì thế nào cũng có lúc phát ra chỗ này chỗ khác.
Tôi đã được nghe khá nhiều ý kiến như thế của Nguyễn Đình Thi.
Chẳng hạn những ý kiến như thế này:
256
“Tổng bí thứ Đảng là ông vua cộng với ông Thánh, là Hoàng đế cộng
với giáo hoàng. Phong kiến nó tách ra làm hai. Cộng sản chỉ có một, nên đẻ ra
Staline và Mao Trạch Đông. Vua thì phải giết kẻ kế cận. Mao, Staline đều chặt
đầu kẻ ngang mình. Hồ Chí Minh cũng được thờ như ông thánh, nhưng không
tự nhận là thánh, không giết kế cận. Đấy là chỗ may cho dân tộc mình”.
“ Ta hiện nay có tình trạng người có quyền không biết chuyên môn. Kẻ
có năng lực thì không có quyền. Kẻ biết không được nói. Kẻ nói thì không biết”.
“ Trong chiến tranh, văn học cứ phải đánh trống thổi kèn. Toe, toe,
toe, tiến lên! Phải lên giây cót. Không lên giây cót là mất nước ngay. Văn học vì
thế là văn học tuyên truyền, đánh trống thổi kèn. Phê bình thì đánh giá lẫn lộn,
cái hay bảo dở, cái dở bảo hay, làm sai lạc hết tiêu chuẩn”.
“ Văn nghệ sĩ như đám cung nữ, múa hát cho vua xem. Còn phê bình
là lũ hoạn quan, lũ thái giám, chuyên bảo vệ các cung nữ”.
“ Ta không được nói cái nhỏ, không được nói bóng tối, không được nói
đời tư. Con người đối diện với mình là rất văn học. Nhưng ít được nói đến. Vì
thế văn học trào phúng không phát triển được”.
“Đường lối văn nghệ có thể sai, nhưng sáng tác vẫn có thể có sáng tạo
do gắn với đời sống. Còn lý luận phê bình thì phụ thuộc hơn vào đường lối.
Đường lối sai ảnh hưởng đến lý luận phê bình.
Người sáng tác có tài vẫn tìm cách khơi được dòng để sáng tạo. Có
đièu kiện thì nói thẳng, không có điều kiện thì nói quanh co, song vẫn nói được,
nếu có tài và gắn với đời sống”.
“Phê bình kém vì chỉ có một cái đầu được nghĩ thôi. Không ai được
nghĩ. Tự do không có. Không phải phê bình kém mà vì phê bình không được
nghĩ và nói theo cái đầu của mình. Hiện nay chỉ có phê bình đề tài, không phê
bình tác phẩm”.
“Văn học cho đến nay, về phương diện phản ánh chiến tranh vẫn còn ở
dạng hồi ký. B. Polévoi, Simonov cũng thế thôi. Viết về chiến tranh phải có gan
viết về cái chết. Người anh yêu nhất chết. Và cái chết phải vượt ra ngoài vấn đề
chiến tranh. Không dám nói cái tình trong chiến tranh thì kể bao nhiêu sự kiện
cũng không hay ho gì. Phải lùi xa mà phản ánh hiện thực, và phải có tầm nhân
loại. Mà nhà văn ta sợ không dám khái quát ở tầm cao, tầm trung ương”.
“Có hai cái gây ra drame và tạo cho nhân vật một destinée: tình yêu
và lí tưởng. Tiểu thuyết ta không dám đặt ra vấn đề gì cả. Vì hai vấn đề trên
phải tránh. Thành ra nói như sách, nói theo đáp án định sẵn”.
Những ý kiến như thế cứ “thòi” ra chỗ này chỗ khác, hoặc trong những
cuộc nói chuyện ở đâu đó, hoặc dùng lối biểu tượng hai mặt để “xì” ra một cách
bóng gió trong tác phẩm của mình (chủ yếu là kịch).
Thành ra Tố Hữu rất ghét Thi. Vì Tố Hữu là tay thông minh, thừa biết
Thi thực bụng nghĩ gì. Vả lại những ý kiến kể trên của Thi, thế nào chẳng có
thằng tâu với Tố Hữu. Ghét nhưng vẫn dùng. Vì Thi biết sợ. Lãnh đạo ngại nhất
là thằng không biết sợ. Sai không sao, ngại nhất là thằng bướng. Thằng bướng
thì phải diệt ngay (như Nguyên Ngọc chẳng hạn)
257
Nguyễn Đình Thi sợ Tố Hữu có lẽ còn do nguyên nhân khác: Từ rất trẻ
anh đã được ngồi ghế cao: Lãnh đạo văn hoá cứu quốc, Tổng thư kí hội nhà
văn, Hội văn nghệ, Đại biểu quốc hội khi mới ngoài 20 tuổi. Thi không quen
ngồi dưới đất. Một tính cách dở dang: vừa muốn làm nghệ sĩ, vừa muốn làm
quan. Đã muốn làm quan, đã muốn có ghế và giữ ghế thì tất phải sợ cấp trên –
cấp trên trực tiếp là Tố Hữu.
Hoàng Ngọc Hiến thì cho rằng, Nguyễn Đình Thi chắc có một cái vết
gì đấy trong lý lịch nên sợ. Những tay nịnh hót đảng, lên gân lên cốt về chính
trị, nói chung là đều có vết gì đó trong lý lịch như Hoàng Xuân Nhị, Lê Văn
Thiêm, Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Nam Mộc, Phan Ngọc...
* *
*
Năm 2000, tôi vào Sài Gòn. Một buổi sáng tôi ngồi uống cà phê với
anh Hoài Thanh (Cán bộ giảng dạy Đại học Sư phạm Sài Gòn) ở một cái quán
vỉa hè đường Nguyễn Du, thấy Nguyễn Đình Thi đứng ngay gần đấy. Anh đứng
trông ra đường, chắc đang đợi xe đến đón đi đâu đó. Tôi gọi anh và mời anh
uống cà phê. Hoài Thanh nói: “Trông Bác vẫn trẻ lắm!”. Nguyễn Đình Thi nói:
“Tôi lúc trẻ người ta bảo là già, lúc già người ta lại khen là trẻ”. Hỏi anh về
sức khoẻ, anh nói bị tuần hoàn não.
Khi anh ốm nặng (2004) tôi có đến thăm. Hôm ấy anh vừa được uống
cổ linh chi, một thứ thuốc quý hiếm, được coi là thần dược. Người khoẻ lại hẳn.
Chân tay co duỗi thoải mái. Anh thử biểu diễn cho tôi xem, có vẻ vui và tin
tưởng lắm. Chị Tuệ Minh chăm sóc anh. Anh nói nhỏ với tôi: “Anh đến thăm
tôi thế này là quý hoá lắm!” Rồi anh giới thiệu tôi với chị Tuệ Minh.
Vậy mà chỉ mấy ngày sau, anh qua đời.
* *
*
Về sáng tác và nhất là về con người Nguyễn Đình Thi, kẻ khen không
ít, người chê cũng nhiều.
Điều ấy chắc anh biết rõ. Nhưng anh không bao giờ thanh minh, không
bao giờ tự bào chữa.
Hoàng Ngọc Hiến cho đó là một chỗ rất được của Nguyễn Đình Thi.
Láng Hạ, ngày 1.1.2008
258
Chương XIX: Nguyễn Khải
Nguyễn Khải khác hẳn Nguyên Ngọc. Thiết thực, không phiêu lưumạo hiểm, không muốn chết, không muốn đi tù. Anh tự nhận luôn là thằng hèn
cho người ta khỏi phải bàn tán lôi thôi.
Sau cuộc hội nghị nhà văn đảng viên, bản đề cương của Nguyên Ngọc
bị Tố Hữu đánh, Nguyễn Khải vốn nhất trí với Nguyên Ngọc trong vụ này, nên
sợ quá. Anh nói thẳng với Nguyên Ngọc: “Tao nhát lắm, chưa đánh đã khai.
Cho tao chạy đi thôi, mày thông cảm, đừng khai tao ra nhé”.
Nguyễn Khải rất thiết thực và tỉnh táo, vậy mà cũng có lúc mê muội.
Tôi gọi là dại – tôi đã viết như thế về Nguyễn Khải trong bài Dại khôn Nguyễn
Khải. Mới biết cái danh, cái lợi cũng dễ mê hoặc lắm. Hồi được gọi ra Hà Nội
để chuẩn bị Đại hội nhà văn lần thứ tư (Trần Độ, Nguyễn Văn Hạnh dự định sắp
đặt Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc làm chánh, phó Thư kí Hội Nhà văn). Nguyễn
Khải xem ra cũng hăng hái lắm. Anh nói với tôi y như là sẽ làm Tổng thư ký
đến nơi: Anh phẩy tay “Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên thì phế cả đi! Còn về lý
luận phê bình thì anh phụ trách cho tôi. Nhưng ta phải khôn khéo, đổi mới
nhưng phải khôn khéo. Trần Độ cứng quá, cứ ỉa ra đấy cho người ta phải dọn.
Chính trị ghê gớm lắm, không đùa được đâu! Nếu cần quỳ xuống lậy, ta cũng
phải quỳ”.
Trong bài viết về Nguyễn Khải, tôi có nhắc đến chi tiết này, cho là một
cái dại của anh và hạ một câu: “Bây giờ nghĩ lại, xấu hổ chết được!”. Tôi tưởng
anh giận tôi, hoá ra anh lại thích thú. Thích vì thấy hiểu mình quá. Tôi rất quý
cái thành thực ấy của Nguyễn Khải. Có một cô nghiên cứu sinh tên là Tuyết
Nga làm luận án về Nguyễn Khải. Cô tìm gặp anh để tìm hiểu. Anh đưa cô xem
bài viết của tôi, nói là cứ đọc bài này là hiểu anh. Và anh cầm bài viết đọc luôn
cho cô ta nghe. Đến chỗ “Bây giờ nghĩ lại xấu hổ chết đi được!”, anh đỏ bừng
mặt và cười hô hố – Cô nghiên cứu sinh kể lại với tôi như vậy.
Trong bài viết nói trên, tôi có nói đến một bậc đàn anh trong nghề dạy
tôi phải đào nhiều hang. Ta là con chuột, lấp hang này, ta chui hang khác. Đó là
Đinh Gia Khánh. ở bài này, tôi dẫn câu Nguyễn Khải nói, có một nhà văn, trước
1975, chẳng có tư tưởng gì cả. Đấy là Nguyễn Minh Châu. Đúng là trước 1975,
tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu cũng chỉ là minh hoạ đường lối, tư tưởng của
đảng. Sau 1975 mới có tư tưởng. Tư tưởng Nguyễn Minh Châu đặt ở nhân vật
Khúng trong Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát. Tôi cũng dẫn lời anh chê một
nhà thơ viết hồi ký, đọc lúc đầu có không khí, sau chẳng thấy có tư tưởng gì. Đó
là A T(Hồi ký Từ bến sông Thương). Tôi còn dẫn ra câu anh nói về một giáo sư
danh tiếng mà đọc (hồi ký) cũng chả thấy có tư tưởng gì. Đó là ĐTM.
Như vậy là đọc văn hay viết văn, Nguyễn Khải rất chú ý đến tư tưởng
của tác phẩm. Nhưng ở anh, có một mâu thuẫn: một mặt muốn phát biểu tư
tưởng riêng, vì ý nghĩa của văn chương là ở đấy. Nhưng mặt khác lại muốn
sống yên ổn với đời nên chỉ có thể mạnh dạn nửa vời, mạnh dạn trong một
259
khuôn khổ nào đấy thôi. Chính trị ghê gớm lắm, không đùa được đâu, chắc anh
luôn luôn tự dặn mình như thế. Vả lại nghĩ đi nghĩ lại, anh không thể quên công
ơn của cách mạng đối với mình. Từ một cậu bé con rơi con vãi, sinh ra đã bị
khinh bỉ, bị lăng nhục, sau cách mạng trở thành nhà văn có danh, có lợi đủ cả.
Cũng phải biết điều một chút chứ!.
Thông minh và tỉnh táo, Nguyễn Khải luôn có ý thức về thân phận của
mình, về cái giá trị của mình đối với đời. Anh kể chuyện, hồi anh là đại biểu
quốc hội, đi ôtô từ Ba Đình về nhà khách. Đến chỗ đường tàu, xe phải dừng lại
cùng một số đồng bào đi xe đạp, xe máy. Anh nhìn xuống, thấy rợn người: có
một tay đang nhìn lên anh, cặp mắt đầy căm thù. Anh nghĩ mình cũng chỉ là loại
nghị gật, vô tích sự, thằng ăn hại, dân nó khinh ghét là phải.
Chiến thắng 30.4.1975, anh đi vào Nam. Gặp Nguyên Ngọc, Nguyễn
Trọng Oánh. Anh cảm thấy Ngọc và Oánh nhìn mình như muốn nói: “ Mình
chiến đấu gian khổ bao lâu không thấy mặt nó đâu, bây giờ chiến thắng rồi, nó
vào. Rồi nó sẽ viết nhiều, viết hay hơn mình cho mà xem!”. Nguyễn Khải nói:
“Biết thân phận thế, tôi cứ ngồi len lén, không dám nói năng gì”.
Mà cái tài của Nguyễn Khải là thế thật, có cần đi thực tế gì đâu. Trước
1975, anh chỉ ngồi ở ngoài Bắc mà viết về HoàVang chiến đấu như thật. Cho
nên có ai đó đã làm vè giễu anh:
Anh đi anh lại về ngay,
Hoà Vang cũng ở ngoài này đó em.
* *
*
Khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, Nguyễn Khải đưa gia đình
vào Sài Gòn. Lúc đầu xem chừng sinh hoạt còn khó khăn. Anh ở quận Bốn
(448B/9, phường 18, Nguyễn Tất Thành) tôi có đến thăm. Nói chuyện với tôi,
thấy anh cứ nhấp nhổm chạy ra chạy vào: gia đình bán giải khát và cho thuê
điện thoại. Có khách đến, phải chạy vội ra phục vụ. Mấy năm nay thì khá hơn
rồi. Anh có người con (Nguyễn Khải Hoàn ) kinh doanh nhà đất, kiếm được.
Nhưng nhà cứ mua đi bán lại, nên anh cứ phải chuyển chỗ ở luôn. Mỗi lần tôi
vào Sài Gòn, lại thấy anh ở một chỗ khác. Biết tôi vào Sài Gòn, thế nào anh
cũng mời đến uống rượu.
Đến Nguyễn Khải, lúc nào cũng có rượu. Anh nói, bây giờ rượu Tây
sẵn, nghĩ thương ông Nguyễn Tuân. Ngày xưa mỗi lần họp, thấy ông lấy ra một
cái bi đông rượu, rót vào cái nắp, mời vị này, vị khác. Nay rượu Tây đầy ra đấy,
ông không còn để mà uống.
Nói chuyện với Nguyễn Khải, tôi không ngờ hồi mới vào Sài Gòn, loại
văn nghệ sĩ cỡ Chế Lan Viên, Nguyễn Khải mà khổ đến thế: “Vũ Thị Thường
nói, đi đường chỉ mong nhặt được tiền ai đó đánh rơi. (Hệt như câu nói của
Hoàng Ngọc Hiến hồi ấy: “Đi đường thấy có một đồng xu rơi cũng phải nhặt.
Kiếm đâu ra một xu bây giờ!”)
“Chế Lan Viên ở quận Tân Bình chỉ thèm ăn một bữa ngon, phải ra
tận quán bà luật sư Huỳnh Ngọc Đại để được bà ấy đãi một bữa cơm Tây. Ai
260
mời, đâu mời cũng đi. Chỉ để kiếm bữa ăn thế thôi, và xách về một chai nước
mắm hay mấy cân gạo nó cho. Nguyễn Khải cùng đi với Chế Lan Viên. Một
thằng làm thơ, một thằng viết ký, một ca sĩ đi theo hát. Tôi gọi là hai kép, một
cô đầu cùng đi kiếm bữa ăn và ngồi nghe mấy tay giám đốc dốt nát vào đấy ba
hoa. Nó có tiền nên hai nhà văn cứ phải gật gù nghe nó dạy dỗ”.
Nguyễn Khải có nhiều ý kiến rất táo bạo:
“Đảng không bao giờ coi trọng trí thức, biến trí thức như Hoàng Xuân
Nhị thành hèn hạ. Mà bị nó khinh. Tôi từng gặp Hoàng Xuân Nhị ở nhà Tố
Hữu. Tố Hữu không thèm nói chuyện với ông ta, cứ để cho ông ta ngồi một
mình. Tóc bạc phơ. Tố Hữu chỉ nói với tôi là một thằng còn rất trẻ. Trần Đức
Thảo thì bị biến thành một thằng thần kinh. Sang Pháp, bao nhiêu Việt kiều mời
đến, không đến, cứ ở Đại sứ quán, tuy bị nó khinh như chó.
Thuỵ An thì bị tù. Trong tù đi lao động, ngã vào dây thép gai, bị mù
một mắt. Nay vẫn ở Sài Gòn, sống rất khổ. Không đi Pháp vì là con gái lớn
phải ở lại nuôi mẹ già...”
“Chúng ta thuộc lứa người bị bỏ phí cả một thời trai trẻ để học theo
một cái lý thuyết vớ vẩn, chả nghĩ ra được cái gì, chẳng làm ra được cái gì
trong giới hạn của chủ nghĩa Mác – Lê - một thứ triết học của người cầm
quyền. Mà có hiểu Mác – Lê thực đâu. Toàn nghe lãnh tụ nói và nói theo. Trong
cái khung của một ý thức hệ, còn ai nghĩ ra được cái gì nữa. Chủ nghĩa Mác
thành ra một thứ tôn giáo. Tin mà không hiểu. Bao người hy sinh vì cái lý
thuyết vớ vẩn ấy. Chủ nghĩa xã hội toàn đẻ ra những con người quái gở như
Mao Trạch Đông, Staline, Pônpốt, rồi Nguyễn Chí Trung..., toàn lũ điên”.
“ Ta có một thời cứ tin tưởng ở cái không có. Như tin ở chủ nghĩa xã
hội”.
“Chính trị và quan điểm giai cấp trùm lên tất cả. Con người không có
tình bạn. Bạn bè mà có vấn đề chính trị là không được quan hệ”.
“Chủ nghĩa xã hội nếu không thay đổi thì con người thành mọi rợ,
rừng rú. Từ ăn, ỉa, mặc, ở... Sợ quá!”
Nguyễn Khải nói về uy quyền ghê gớm của Lê Đức Thọ một thời. Anh
chứng kiến Sáu Bắc (Lê Đức Thọ) tiếp Sáu Nam (Lê Đức Anh). Hôm ấy, Thọ
gọi một số văn nghệ sĩ đến hỏi chuyện. Thọ đang tiếp khách. Bọn Khải phải
ngồi đợi ở phòng bên cạnh. Lát sau, khách ra về. Hoá ra khách là lê Đức Anh.
Nguyễn Khải thấy Lê Đức Anh đi ra, cứ đi giật lùi, giật lùi ra mãi giữa sân mới
dám quay đít lại. Thọ tiếp chúng tôi. Đúng lúc ấy thấy Phạm Hùng đi sang.
Hùng đề nghị gặp Thọ một lát. Thọ phẩy tay: “Để lúc khác nhé, giờ đang bận
tiếp khách văn chương”. Thọ coi Hùng chẳng là cái gì, tuy Hùng lúc đó là thủ
tướng, thay Phạm Văn Đồng ”.
“Nói chung cộng sản coi văn nghệ sĩ như rác. Lê Duẩn coi Tố Hữu
cũng chỉ như một con hát. Nhưng lại sợ văn nghệ. Vì chỉ dùng tuyên truyền,
dùng nước bọt mà giành được nước. Chỉ nói, có làm gì đâu. Nói đủ cả, chẳng
làm gì. Thí dụ, cứ nói phê bình tự phê bình mà chưa bao giờ phê bình tự phê
bình cả. Có dám nói thật đâu mà phê bình tự phê bình. Chỉ toàn đào tạo gia
261
nhân, đầy tớ, bọn nịnh hót. Sợ văn học cũng vì thế. Vì văn nó nói sự thật, nó lật
tẩy. Rất sợ biểu tượng hai mặt. Chỉ đề cao văn tuyên truyền, đề cao vè. Thật ra
bọn nhà văn nói chung nhát, không dám chống chế độ đâu!”.
“ Chế Lan Viên một thời, dựa thế Tố Hữu cũng hách lắm. Tô Hoài gọi
là thằng nặc nô của đảng. Hồi chỉnh huấn văn nghệ sĩ, Chế Lan Viên làm tổ
trưởng, nói với Nguyễn Tuân: ông tưởng ông to lắm à? Tôi phụ trách ông kia
mà! Họp chấp hành, ý kiến Chế Lan Viên là quyết định. Thí dụ, ban chấp hành
bàn có nên kết nạp Phan Quang không? Mọi người chờ ý kiến của Chế Lan
Viên. Chế lan Viên đi đái vào, nói: “Thằng Thép Mới nó còn ở ban chấp hành
được thì thằng Phan Quang sao không cho vào hội được!”. Ai cũng gọi là
thằng tuốt; Thằng Nguyễn Đình Thi, thằng Tô Hoài, thằng Hoàng Trung
Thông, chẳng sợ ai cả. Không thể đối đáp kịp mồm Chế Lan Viên. Phải về nhà
mới nghĩ ra cách bác lại, nhưng hôm sau, không còn lý do để tranh cãi nữa, vì
lão ấy lại nói chuyện thân mật”.
“Nhưng Chế lan Viên chết rất khổ. Vũ Thị Thường phục vụ rất mệt.
Gần chết hay quát tháo vợ con. Vũ Thị Thường nói chỉ thèm được ngủ, khi Chế
lan Viên chết, việc đầu tiên là ngủ bù một giấc, dạy mới có sức mà khóc”.
Nguyễn Khải có một ưu điểm là có óc liên tài thật sự. Rất phục người
tài. Tôi đã được nghe anh phục Đỗ Chu như thế nào khi Chu mới xuất hiện. Đối
với Nguyễn Huy Thiệp lại càng phục hơn nữa.
Anh nói: “Kim Lân là con đẻ của đất Kinh Bắc. Đỗ Chu cũng thế. Trẻ
con có học hành gì đâu mà viết rất hay: Thung lũng cò, Hương cỏ mật... Vợ
nhặt của Kim Lân thì văn tuyệt hay. Con người Kim Lân rât thích. Hồn nhiên,
chân thật, tiếp xúc không phải ý tứ gì. Có Kim Lân, mình cũng bớt lố bịch, cứ
lấy ông ta làm chuẩn. Nguyễn Tuân còn điệu bộ, làm dáng. Tôi rất ghét uốn éo,
điệu bộ. Rất ghét cái ông Vũ Kỳ bắt chước Cụ Hồ: áo bà ba, đi guốc mộc tiếp
khách.
Muối của rừng, Thiệp viết rất giỏi. Hêminhuê viết Ông già và biển cả
còn dài dòng. Thiệp viết cực ngắn. Đi săn, trang bị đầy đủ. Cuối cùng cởi
truồng trở về. Lại còn bị lũ khỉ giễu cợt. Không có vua có cái chi tiết bố chồng
dòm con dâu tắm. Sợ quá!
Nhưng bây giờ xem ra hết tài rồi. Viết tiểu thuyết "Tuổi 20 yêu dấu",
rồi truyện võ hiệp, thành ngòi bút khác mất rồi.
Ma Văn Kháng là dân Hà Nội, viết về dân tộc thiểu số cứ xôm cốp bên
ngoài thế thôi. Phải viết về dân tộc mình, về cái mình thuộc, mình am hiểu chứ.
Tô Hoài thì rất tinh quái, rất hóm. Nguyễn Đình Thi đẹp trai, hấp dẫn
gái, thế mà toàn ăn của thừa. Mình phải ăn từ bếp lên chứ! Này, có lần tôi đến
LM gọi cửa mãi, thấy đi ra, khuy ngực xốc xếch. Bên trong thấy có Tô Hoài.”
Nguyễn Khải cho kết quả của Đại hội nhà văn lần thứ 7 là tốt: “Ban
chấp hành như thế là khác trước rồi. Trước đây, vào chấp hành, thằng nào
cũng để kiếm chác một cái gì đó: một chỗ dựa, một chỗ có tiền, một suất đi
nước ngoài... Giờ bọn Vàng Anh, Hồ Anh Thái nó chẳng cần gì! Đừng hòng
Hữu Thỉnh, Nguyễn Khoa Điềm bảo được nó. Nó không nghe đâu!”.
262
Nguyễn Khải cho viết văn là phải có tư tưởng. Vì thế anh chịu khó đọc
sách, gần đây hay đọc triết. Hình như có một bậc thánh hiền nào đó nói rằng,
đọc sách mà không nghĩ thì vô dụng, nghĩ mà không đọc sách thì nghĩ lung tung
rất nguy hiểm. Nguyễn Khải chịu đọc và chịu nghĩ.
Một lần tôi đến anh, thấy anh đặt trên bàn cuốn "Tinh thần pháp luật "
của Montesquieu. Anh nói: “Lâu nay chúng ta chỉ đi bên cạnh nền văn minh
nhân loại. Nói thế là đủ hiểu. Chẳng biết gì. Phủ nhận tất cả những cái gọi là
phi vô sản. Bây giờ mình mới được đọc những Montesquieu, Voltaire,
Rousseau...
Đọc triết học phương Đông từ Cao Xuân Huy, Nguyễn Hiến Lê... đến
khi đọc bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến, cuốn "Bàn về tính hiệu quả", mới ngộ
ra được. Phải nhìn từ xa, tuân theo quy luật tự nhiên. Gò ép nó, cải tạo nó là
hỏng. Liên Xô cứ đòi uốn nó, cải tạo nó. Cải tạo sao được con người. Con
người không thể cải tạo được. Bây giờ đấy: đủ cả mafia rất ghê gớm”.
Hoàng Ngọc Hiến dịch triết rất hay mà chả thấm được triết. Cứ tức
tối, căm thù. Tôi rất quý Hoàng Ngọc Hiến, nhưng đọc bài của Hiến (có lẽ là
bài trên Talawas) tôi không thích nữa.
Về điểm này, tôi chưa thật hiểu rõ ý của Nguyễn Khải.
Tôi nhớ ông Tolstoi già trong Chiến tranh và hoà bình có luận về tình
yêu của con người và tình yêu của Thượng đế. Khi yêu bằng tình yêu của con
người thì có thể từ yêu thương chuyển sang thù ghét, còn tình yêu của Thượng
đế thì có thể thương yêu cả kẻ thù, thậm chí cảm thấy vui sướng khi thương yêu
kẻ thù. Ăngđré Bôncônxki, trong giờ phút hấp hối, đã thấy mình bỗng có được
tình yêu đó. Anh ta vui sướng khi thấy mình thương cả Anatole là kẻ tình địch
của mình.
Nguyễn Khải muốn có thứ tình yêu cao cả đó chăng, mà anh gọi là thái
độ triết học?
Điều đó có phải là một điềm gở ở anh không?
* *
*
Tôi gặp Nguyễn Khải lần cuối cùng ngày 24.7.2007 (cùng với Hồ
Quốc Hùng). Tất nhiên khi anh mất rồi mới biết đấy là lần cuối cùng: Thật
không ngờ! Tôi cứ tưởng sẽ còn nhiều lần được gặp anh. Anh với tôi cùng sinh
một năm (1930), nhưng anh còn sinh sau tôi tới chín tháng (tôi sinh đầu năm –
tháng ba, anh sinh cuối năm – tháng chạp).
Anh đi đâu về. Trông thấy anh, tôi bấm bụng cười thầm vì chợt nghĩ
đến nhận xét rất đúng nhưng rất tục của Đỗ Chu hồi nào: “Răng hơi hô, trông
lúc nào cũng như hớn hở, đi ngực ưỡn, hai tay ve vẩy, trông như con đàn bà
nứng l”.
Nhưng bây giờ thì anh có vẻ yếu rồi, chống ba toong, cao lênh khênh,
đi lòng khòng.
Anh vẫn nói nhiều. Nào chuyện tướng tình báo Phạm Xuân ẩn, kho tài
liệu giúp anh viết về chính quyền Sài Gòn, nào chuyện cải cách ruộng đất xoá
263
sạch thành tích cách mạng, chuyện Chế Lan Viên chết rất khổ. Khổ mà rất khí
khái, không xin xỏ gì hết, tuy Tố Hữu, Hà Xuân Trường đến thăm luôn, chuyện
Nguyễn Tuân, chuyện Nguyễn Huy Thiệp, chuyện Cụ Hồ và tướng Giáp rất
giỏi nín nhịn...
Anh nói đang viết một bài gọi là sự hình thành một bút pháp. Từ thực
tế sáng tác của mình mà viết. Xưa đã thấy người nông dân cần có tầm mắt nhìn
xa vượt ra khỏi sự hẹp hòi của hợp tác xã. Nhưng vượt ra bằng cách nào chưa
biết. nay mới thấy có điều kiện: kinh tế thị trường giải phóng cho nông dân...
Anh nói rất nhớ Hà Nội. Thèm không khí Hà Nội. Vào Sài Gòn anh
chẳng chơi với một bạn mới nào. Ra Hà Nội bây giờ cũng lại chỉ đến những bạn
cũ đã già. Không nói chuyện với đám trẻ được. “Người ta nói sáu mươi tuổi thì
tính năm, bẩy mươi tính tháng, tám mươi tính ngày... Tôi muốn sống lâu để xem
thời thế ra sao. Lịch sử do con người làm ra, làm sao biết trước được!”
Tôi nhớ lại ngày xưa anh đã có một câu nói gở rất thiêng về Nguyễn
Tuân. Anh khen Nguyễn Tuân đẹp lão và nói: “Đẹp lão thế là sắp sửa đấy!”.
Ba ngày sau Nguyễn Tuân qua đời.
Bây giờ anh nói bẩy mươi tuổi tính tháng.
Anh nói ngày 24.7.2007.
Năm tháng sau, ngày 15.1.2008, nghe tin anh qua đời.
Đúng là tuổi bẩy mươi tính tháng.
* *
*
Ngay sau khi Nguyễn Khải mất, tôi có anh bạn (Hoàng Dũng) trong
Nam ra Hà Nội, nói Nguyễn Khải chết không có đất chôn.Đúng ra là không
được chôn ở nghĩa địa Sài Gòn (tại Thủ Đức), phải đưa lên nghĩa địa Củ Chi rất
xa. Tiêu chuẩn được chôn ở Thủ Đức, ngoài những ông thành uỷ viên hay trung
ương uỷ viên không kể, phải có 65 năm tuổi đảng. Trần Duy Châu, nguyên hiệu
phó Đại học Sư phạm Sài Gòn, khi chết mới có 58 tuổi đảng, không đủ tiêu
chuẩn, phải đưa đi Củ Chi. Nguyễn Khải tất nhiên cũng phải đưa đi Củ Chi.
Võ Văn Kiệt thấy thế chắc lấy làm xấu hổ, nên can thiệp. Ông tuyên bố
nhường suất chôn ở Thủ Đức của ông cho Nguyễn Khải.
Láng Hạ 23.1.2008
Chương XX: Nguyên Ngọc
Trong một bài chân dung viết về Nguyên Ngọc, tôi gọi anh là conngười lãng mạn. (Nguyên Ngọc, con người lãng mạn).
Cũng có thể nói, Nguyên Ngọc là người của cái tuyệt đối. Anh không
chấp nhận sự nửa vời, trạng thái lừng chừng. Phải tuyệt đối anh hùng, phải tuyệt
đối trong sáng. Không phải anh chỉ nghĩ thế, mà còn sống như thế. Rất dũng
cảm, thích mạo hiểm. Anh từng đi đánh thổ phỉ ở Tây Bắc. Từng đi ngựa theo
một đoàn buôn thuốc phiện lậu từ Cao Bằng đi Lai Châu. Đi B dài cùng Nguyễn
Thi. Nguyên Ngọc ở lại khu Năm, còn Nguyễn Thi thì vào tuốt Nam Bộ. Họ
chia tay nhau bên một khu rừng xà - nu bạt ngàn, hẹn trở về phải đi đường số
một. ở khu Năm, Nguyên Ngọc sống và chiến đấu như một anh hùng. Một nhà
văn như thế thì tìm đâu ra nhân vật trong đời sống thực tế quanh mình. Mà nhất
thiết anh phải viết về chủ nghĩa anh hùng. Đó là quan niệm thẩm mĩ của anh.
Viết Đất Quảng, anh tìm được một nguyên mẫu mà anh cho là lý tưởng. Viết
đến tập II, thì được tin cái anh nguyên mẫu nọ té ra cũng dao động, lập tức đốt
ngay bản thảo.
Tìm đâu ra những con người tuyệt đối như thế? Phải bịa ra sao?
Không, Nguyên Ngọc tìm lên núi cao và ra tận biển khơi. Anh tìm đến những
con người như thuộc thời hồng hoang nguyên thuỷ, cái thời chưa có kinh tế thị
trường, chưa có chuyện danh và lợi làm vẩn đục lòng người...Sống như tự
nhiên, như tảng đá, gốc cây, con thú rừng. ấy là Đinh Núp, Thnú ở Tây Nguyên,
là Thào Mỵ ở Hà Giang, Mèo Vạc, là những chiến sỹ anh hùng trong Đường
mòn trên biển...
Nguyễn Khải thường nhắc lại lời Nguyễn Minh Châu nói với Nguyên
Ngọc khi Ngọc vừa trở ra Bắc sau 1975: “Bọn mình cố phấn đấu để trở thành
anh hùng, còn ông thì cố phấn đấu để trở thành người bình thường”.
Đầu óc Nguyên Ngọc chỉ có cái tuyệt đối, cái phi thường mới lọt vào
được. Cho nên nói chuyện với anh, thấy anh toàn say sưa kể những chuyện như
sử thi, như thần thoại vậy.
Anh cho bài viết của tôi về anh, đã nói đúng cái môi trường có tác
động tới anh từ nhỏ: phố cổ Hội An và bãi biển Cửa Đại, nơi còn giữ được
trong thời hiện đại không khí hoang sơ, hoang dã, với những con người rất đỗi
hồn nhiên, trong sáng. Từ đó, năm 17 tuổi, cuộc kháng chiến đã đưa anh lên
tuốt Tây Nguyên, lên tận đỉnh Ngọc Linh. Hồi ấy, tâm hồn lãng mạn của anh đã
từng mơ ước gặp được một mối tình sơn nữ.
Nguyên Ngọc trên đường đời đã vớ được cây xà nu. Anh liền lấy nó
làm nhân vật tư tưởng của anh. Anh đích thực là một cây xà nu, thẳng băng,
nhọn hoắt, chọc thẳng lên trời.
Con người như thế, tuy người ta rất phục, nhưng không ai chịu nổi,
không ai theo được. Sống thế mệt quá, căng thẳng quá! Anh mà làm lãnh đạo
thì kể cũng khó đoàn kết được quần chúng. Hôm tôi trò chuyện với Nguyễn
265
Đình Thi trên đường đi Tam Kỳ (năm 2000), Nguyễn Đình Thi cho biết, hồi
bọn Tàu đánh ta ở biên giới, Nguyên Ngọc lúc ấy làm bí thư đảng đoàn Hội nhà
văn, định đưa anh em lên mặt trận biên giới đấy.
Một con người không biết mềm mỏng trong giao tiếp, rất cứng. Anh rất
ghét Nguyễn Đình Thi, cho là thằng giả dối. Trong hội nghị, hễ Thi phát biểu,
anh bỏ ra ngoài. Anh rất khinh Huy Cận. Anh cho con người nhân cách bẩn như
thế viết hay sao được. Người ta nói, thơ Huy Cận trước cách mạng hay đấy chứ!
Anh nói dứt khoát: “không hay!”. Anh rất ghét bọn chấp hành Hội nhà văn từ
khoá năm, khoá sáu và tờ Văn nghệ của Hữu Thỉnh. Văn nghệ đưa đến, anh vất
ngay vào sọt rác. Hội cấp tiền bồi dưỡng sáng tác cho anh, anh từ chối. Nhà anh
ở khu tập thể quân đội số 8 – Lý Nam Đế. Từ cổng đi vào gặp rất nhiều nhà văn
quen thuộc. Anh đi một mạch thẳng, chẳng trò chuyện với ai, khinh tuốt.
Nguyễn Văn Hạnh nói, Nguyên Ngọc không có tâm lý làm nhân vật số
hai. Anh chỉ có thể làm nhân vật số một. Tất nhiên Tố Hữu rất ghét Nguyên
Ngọc. Tố Hữu từng nói với Tô Hoài: “Nguyên Ngọc cứ để nó làm bí thư đảng
đoàn thì nó sẽ làm vua”. Nguyên Ngọc thì bướng. Tố Hữu thì hách, tất nhiên rất
ghét nhau.
Hồi Nguyên Ngọc làm bí thư đảng đoàn Hội nhà văn, anh tổ chức một
cuộc hội nghị nhà văn đảng viên. Anh đưa ra một bản đề cương chống giáo
điều, đổi mới văn học. Tố Hữu đến, lên phát biểu đã phê phán quyết liệt bản đề
cương coi là hiện tượng ngược dòng. Vậy mà khi kết luận hội nghị, Nguyên
Ngọc vẫn khẳng định bản đề cương đã được hội nghị nhất trí tán thành. Rõ ràng
là bất chấp thái độ Tố Hữu.
Tối hôm đó ở 4 Lý Nam Đế (Trụ sở Văn nghệ quân đội), Nguyên Ngọc
đang ngồi với Nguyễn Khải, Nguyễn Chí Trung, Nguyễn Trọng Oánh, Giang
Nam, thì Chế Lan Viên đi bộ từ 51 Trần Hưng Đạo đến: “Tôi khuyên các anh
đến xin lỗi anh Tố Hữu, tôi đưa các anh đến”. Không ai nói gì. Nguyên Ngọc
trả lời: “Cám ơn anh, tôi tự thấy chả có gì phải xin lỗi cả. Còn nếu cần đến anh
Tố Hữu thì tự tôi đến cũng được, không cần anh phải dẫn đi. (Chế Lan Viên
ghét Nguyễn Đình Thi, muốn đưa Nguyên Ngọc lên để hạ Nguyễn Đình Thi. Vì
thế không muốn Nguyên Ngọc đổ).
Nguyên Ngọc yêu ghét rất phân minh. Người anh ghét chủ yếu là
những nhân cách xấu: Nguyễn Đình Thi, Huy Cận, Vũ Quần Phương, Phạm
Tiến Duật, Đào Vũ, Hà Xuân Trường, Phan Cự Đệ... Anh rất quý Trần Độ,
Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Hoàng Ngọc Hiến...
Nhưng Nguyên Ngọc hoàn toàn không phải là con người khắc khổ. Tôi
bia bọt với anh nhiều lần. Anh sống rất thoải mái. Có chất nghệ sĩ. Tô Hoài từng
đi một chuyến công tác với Nguyên Ngọc lên Tây Bắc. Ông nhận xét, Nguyên
Ngọc về tình cảm thì mềm, chỉ lý luận và cách ứng xử thì cứng. Nguyên Ngọc
là đối tượng hấp dẫn của một cô gái Mèo xinh đẹp tên là Vàng Thị Mỹ ở Đồng
Văn, Mèo Vạc, Hà Giang. Cô làm phiên dịch cho bộ đội. Tô Hoài nói, ba mươi
năm gặp lại Vàng Thị Mỹ, thấy vẫn đẹp. Cô ghi vào cuốn sổ tay của mình:
“Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng ơi! (Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng là tên một
266
tác phẩm của Nguyên Ngọc ). Chắc nhớ và yêu Nguyên Ngọc lắm mới viết như
thế. Và Nguyên Ngọc chắc cũng yêu cô. Vì anh tả Thào Mỵ đẹp tuyệt vời, đẹp
như tiên “Khi im lặng trầm uất như một ngọn núi Mèo cô độc, khi lẳng lơ như
những bông hoa thuốc phiện quyến rũ, khi phấp phới như ngọn gió ào ạt trên
đỉnh Săm Pun...” Văn như thế thì cũng đa tình đáo để. Cho nên, Nguyên Ngọc
tư tưởng rất cấp tiến, thích những lý thuyết mới mẻ, cởi mở. Rất ghét giáo điều.
Yêu cầu dân chủ và đổi mới thật sự. Cho nên Nguyên Ngọc tán thưởng Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu, Chiều chiều, Ba
người khác của Tô Hoài...
Nguyên Ngọc và Nguyễn Khải là hai tính cách đối lập. Một đằng rất lý
tưởng, rất lãng mạn. Một đằng thiết thực và tỉnh táo. Một đằng dũng cảm, một
đằng thì nhát. Nhưng Nguyên Ngọc thích Nguyễn Khải vì Nguyễn Khải chân
thật.
Nguyên Ngọc và Tô Hoài cũng là hai cực đối nghịch. Một đằng quan
niệm con người là con người, tầm thường vậy thôi. Một đằng quan niệm con
người là thiên thần, là thơ, là lý tưởng. Nhưng họ gặp nhau ở tư tưởng câp tiến.
Nguyên Ngọc nói với tôi nhiều lần: “Chế độ này thế nào cũng sụp đổ.
Nhưng không biết nó sẽ sụp đổ theo kịch bản nào”.
* *
*
Hiện nay Nguyên Ngọc đang giúp Quảng nam xây dựng một trường
Đại học dân lập ở Hội An. Tôi hỏi anh, xây dựng trường theo kiểu gì? Anh nói
vắn tắt: “Theo kiểu Mỹ”. Nguyễn Khải cho là ảo tưởng, là phiêu lưu. Nguyễn
Văn Hạnh thì nói: “Nguyên Ngọc có thể gọi là một nhà tư tưởng, có thể đặt tên
phố như một danh nhân. Nhưng quản lý một trường học thì không được.”
Nguyên Ngọc mời anh làm hiệu trưởng. Anh từ chối.
Nguyên Ngọc trước sau vẫn là một con người lãng mạn.
Láng Hạ, 9.1.2008
Chương XXI: Hoàng Ngọc Hiến
Hoàng Ngọc Hiến là một trong hai người bạn đồng tuế thân nhất củatôi (người thứ hai là Phạm Luận, cán bộ giảng dạy ở Đại học Việt Bắc). Có thể
gọi là tri âm tri kỉ, hiểu nhau từ cái hay đến cái dở, chỗ mạnh và chỗ yếu, hoàn
toàn tin cậy nhau, luôn quan tâm bảo vệ nhau.
Tôi với Hoàng Ngọc Hiến như có duyên trời xe kết vậy.
Anh ở tận Nghệ Tĩnh, tôi ở Việt Bắc. Thế mà tình cờ gặp nhau. Tôi
cùng gia đình tản cư từ Bắc Ninh lên Thái Nguyên hồi kháng chiến chống Pháp,
anh thì chạy cải cách ruộng đất cũng vọt lên đấy. Anh có một người học trò tên
là Lới, trong đoàn uỷ cải cách ruộng đất, báo cho biết phải chạy ngay lên Việt
Bắc vì lý lịch xấu, có thể nguy. Và anh ta lấy quyền đoàn uỷ viên giải quyết
ngay cho Hiến (Trong cải cách, bố Hoàng Ngọc Hiến bị quy địa chủ và bị tù).
Lên Thái Nguyên, anh dạy văn ở trường Lương Ngọc Quyến. Còn tôi lúc đó là
cán bộ Sở giáo dục Việt Bắc thường đến Lương Ngọc Quyến là trường trọng
điểm của Sở, để kiểm tra, theo dõi về chuyên môn.
Dạy ở Lương Ngọc Quyến ít lâu, anh được gọi về trường Đại học Hà
Nội. Thầy Nguyễn lương Ngọc cho Hiến có hiểu biết về triết học, bố trí làm trợ
lý cho Trần ĐứcThảo. TRần Đức Thảo thấy Hiến là đảng viên, không nhận. Vì
thế Hiến phải chuyển sang làm trợ lý cho Hoàng Xuân Nhị dạy văn học Nga Xô
viết.
Từ Đại học Sư phạm Hà Nội, Hiến được cử sang Liên Xô làm nghiên
cứu sinh. Tôi thì chả đi đâu cả, chỉ quanh quẩn ở trong nước. Nhưng rồi tình cờ
tôi và Hiến lại gặp nhau ở Đại học Sư phạm Vinh. Tôi thì bị điều từ Hà Nội vào.
Hiến lẽ ra được ở Hà Nội, vì Đại học Hà Nội cử đi học, nay đỗ phó Tiến sĩ trở
về, phải được ở Hà Nội. Nhưng Đỗ Đức Uyên bí thư đảng uỷ và Hoàng Dung bí
thư liên chi cho Hiến mắc chủ nghĩa xét lại Khrútxốp, không nhận lại nữa, tống
anh vào Vinh.
Từ Vinh, tôi được chuyển ra Hà Nội trước. Hiến ra sau. Nhưng rồi lại
gặp nhau ở trường Viết văn Nguyễn Du. Anh phụ trách trường này, còn tôi
được mời đến dạy.
Rồi nhờ có Phan Ngọc Thu, một học trò cũ của tôi, lúc đầu ở Đại học
Sư phạm Huế, sau ở Đại học Đà Nẵng, tổ chức đào tạo giáo viên cấp II lên trình
độ đại học và bồi dưỡng giáo viên chuyên văn, thường mời tôi và Hiến vào
giúp. Thế là lại gặp nhau luôn, khi ở Huế, khi ở Đà Nẵng, khi ở các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long. Tôi thích đi, Hiến cũng thế. Tôi là thằng ham chơi, vui
đâu chầu đấy, Hiến cũng vậy, cứ ới là đi, để tán chuyện, để đánh chén. Ngoài ra
tôi hay mời anh đến làm phản biện cho nghiên cứu sinh của mình. Mời là anh
đến ngay...
Tuy nhiên tôi và Hiến có những chỗ không giống nhau. Anh dạy văn
học nước ngoài, thích lý luận, thiên về tư duy trừu tượng, say mê triết học Đông
Tây. Tôi chỉ dạy văn học Việt Nam và thiên về nghiên cứu văn học sử và phê
268
bình văn học.
Hiến rất thích nhận xét khái quát, đúc thành những mệnh đề chắc nịch,
tuy có phần cực đoan, chẳng hạn:
- Đặc điểm người Nghệ Tĩnh: “Cái gì cũng biết, trừ hạnh phúc.”
- Phân loại cán bộ giảng dạy đại học: “Có hai loại động vật và thực
vật. Loại động vật, suốt ngày lăng xăng, chạy từ đề tài này sang đề tài khác,
không nghiên cứu được cái gì nên hồn, dù thông minh, cũng chỉ có những ý kiến
loe loé thế thôi, chẳng làm nên sự nghiệp gì. Loại thực vật, ngồi yên kiên trì suy
nghĩ, như cái cây cắm rễ xuống đất thật sâu, có thế mới làm khoa học được.”
- ý kiến sinh viên nhận xét thầy: “Nói chung chê thì đúng, khen thì
thường sai...”
Hiến cái gì cũng muốn giải thích, cũng tìm quy luật. Thí dụ:
Anh nói:
“ Lê Hoài Nam nếu cao hơn 5 phân, số phận khác hẳn”. Lê Hoài Nam
là chủ nhiệm khoa Văn Đại học Sư phạm Vinh, sau là bí thư đảng uỷ trường và
Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Quy Nhơn. Anh người thấp lùn, hơi dị dạng.
Hiến cho rằng vì đặc điểm cơ thể như vậy nên Lê Hoài Nam rất ngại xuất hiện ở
chỗ đông người, nơi thành phố lớn, nên cứ lùi dần, lùi dần vào nơi hẻo lánh:
Vinh, rồi Quy Nhơn.
Có lần tôi nhận xét, các danh nhân thế giới thường là người ở các tỉnh
nhỏ, nhưng về Thủ đô thì thành danh nhân. Danh nhân người gốc ở Thủ đô rất
ít. Như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Hồ Chí Minh, như Marx, Tolstoi, Lomonosov, Napoléon... Hiến giải
thích luôn: “Vì ở Thủ đô lắm cái hấp dẫn làm cho con người ở đây phung phí
hết tinh lực, Người các địa phương tinh lực không mất, về Thủ đô được phát
huy lên”.
Vì sao Hồ Chí minh chết đúng vào ngày Tuyên ngôn độc lập 2.9? Hiến
giải thích : “Vì ông cố tình chết vào ngày ấy. Ông Hồ là đáo để lắm. Chỉ cần
dứt đứt các giây dợ ở ống thở ôxy là chết chứ gì”.
Hiến thường có những nhận xét rất gọn và rất ác về người này người
khác trong giới đại học. Hồi ở Đại học Sư phạm Vinh, tôi với Hiến thường đạp
xe đi về cùng đường với nhau (Hà Nội – Vinh hay Hà Nội – Thanh Hoá) dọc
đường, thường “luận anh hùng” trong thiên hạ. Thường tôi hỏi, Hiến trả lời. Thí
dụ:
- NĐN (một giáo sư tiến sĩ được đánh giá rất cao ở Đại học Sư phạm
Hà Nội) chỉ là một giáo viên cấp III giỏi.
- Không nên đánh giá ĐVK (giáo sư tiến sĩ của Đại học tổng hợp Hà
Nội) là giỏi hay dốt. Anh ta là người không có trí khôn.
- HL (cán bộ dạy sử của Đại học Sư phạm Vinh) kết tinh mọi cặn bã
của dân Nghệ Tĩnh.
- Có một giáo sư văn học, trước khi dự lớp, anh đánh giá là một con sư
tử (về chuyên môn, khoa học), khi dự lớp về, anh nói: chỉ là một giáo viên phổ
thông.
269
- Một vị giáo sư văn học khác, anh cho chẳng hiểu văn là gì cả.
- Anh nhận xét ĐT, một cây bút phê bình khá tài hoa ở hải ngoại, chỉ là
một ông chánh tổng Annam ở Paris.
- PTL (giáo sư trường Đại học Sư phạm Hà Nội). Hiến nói: “Một điều
nhục nhã của mình là đồng hương với PTL. Thậm chí chỉ quen biết PTL thôi
cũng đã là một sai lầm, một sai lầm không thể sửa chữa được”.
Hiến có những nhận xét rất cảm tính, nghĩa là chưa có căn cứ đầy đủ.
Nhưng anh rất tin ở trực cảm của mình.
Trường Đại học Sư phạm Vinh có chủ trương cán bộ giảng dạy phải
theo sát thực tế phổ thông. Ai đã đi hướng dẫn thực tập sư phạm thì không nói
làm gì, những những người không hướng dẫn thực tập cũng phải về ở một đoàn
thực tập nào đấy khoảng một tuần lễ, gọi là tham quan thực tập. Hiến cũng phải
về một đoàn, anh chọn một đoàn ở gần chỗ khoa Văn sơ tán, do LBH phụ trách.
Đêm ấy, LBH và Hiến cùng ngủ trong một căn phòng kê hai cái giường song
song. LBH hỏi Hiến một cách trịnh trọng: “Anh là người sâu sắc, từ ngày anh
về trường này, anh nhận xét tôi là người thế nào?”. Hiến trả lời luôn: “Cậu là
người thiếu nhân cách”. LBH ắng đi một lúc vì nhận xét quá bất ngờ của Hiến.
Nhưng rồi gặng hỏi Hiến: “Anh cho dẫn chứng?”. Hiến bí không tìm ra dẫn
chứng. Mãi sau cũng cố đưa ra một ví dụ: “Chẳng hạn, cậu không biết tiếng
Pháp mà cứ làm như biết”.
Trong quan hệ hàng ngày với tập thể cán bộ, sinh viên, Hiến rất hồn
nhiên, chân thật, dễ tính, nên được anh em mến. Nhưng hình như anh có máu
phiến loạn, thích gây sự với lãnh đạo.
Hồi những năm 60 của thế kỷ trước, tôi nhớ Phạm Văn Đồng có viết
một bài về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Bài ấy, người khác có thể
coi là thường, không hay hoặc chưa đúng chỗ này chỗ khác. Nhưng Hoàng ngọc
Hiến thì phải nói: “Phạm Văn Đồng viết bài ấy là thiếu văn hoá”.
ở Đại học Sư phạm Vinh, Hiến bị lãnh đạo quy tội thiếu quan điểm
giáo dục, vì không chịu đi thực tế, luôn luôn bỏ ra Hà Nội, lẩn tránh việc hướng
dẫn sinh viên thực tập sư phạm. Hôm ấy, chi bộ họp kiểm thảo Hiến về khuyết
điểm này, có Lê Hoài Nam là đảng uỷ viên của trường xuống dự. Hiến nói: “
Tôi cho rằng không đi thực tế mà nắm được thực tế mới giỏi. Tôi kém, nên còn
phải đi thực tế một lần. Anh Lê Hoài Nam không đi lần nào mà nắm được thực
tế mới giỏi chứ!”
Những câu nói như thế, tôi chắc Hiến đều có nghiền ngẫm cẩn thận.
Phóng ra những đòn như thế, Hiến bao giờ cũng chuẩn bị rất chu đáo. Tôi biết
rõ điều này. Vì cùng được mời đi nói chuyện với anh nhiều lần, tôi thấy anh bao
giờ cũng chuẩn bị bài bản rất cẩn thận.
Trở lại tính thích gây sự của Hiến đối với lãnh đạo. Như đã nói, Hiến ít
ở khoa (Đại học sư phạm Vinh), hay ra Hà Nội. Có lần anh vắng mặt đúng vào
dịp công đoàn khoa văn xếp loại cán bộ theo ba mức A, B, C. Tiêu chuẩn cũng
nhẹ nhàng thôi. Loại A chỉ là không có khuyết điểm gì đáng kể thôi. Hầu như cả
khoa không có trường hợp nào phải xếp loại B cả. Tổ công đoàn, được sự chỉ
270
đạo của chi bộ Đảng, lập kế hoạch: khi Hiến ở Hà Nội vào thì họp xếp loại. Chủ
trương của Chi bộ là phải, nhân cuộc xếp loại này, nghiêm khắc kiểm điểm
Hiến về tư tưởng. Trình tự cuộc xếp loại được dự kiến như sau: người được xếp
loại tự xếp loại trước. Anh em trong tổ có ý kiến sau. Người ta đoán chắc Hiến
sẽ tự nhận loại A. Lúc đó anh tổ trưởng sẽ điều khiển tổ viên phân tích thiếu sót
của Hiến, đại khái như sau: Anh Hiến chỉ đáng xếp loại B thôi, vì khuyết điểm
này, khuyết điểm khác... Nhưng gần đây anh đã tỏ ra có tiến bộ, thí dụ như gánh
nước uống cho anh em tập tự vệ, vậy ta chiếu cố xếp lên loại A...
Nhưng, bất ngờ, Hiến chỉ tự xếp loại B. Bài bản đã dự kiến thế là bị
phá sản. Tuy thế, tổ trưởng là tay khá thông minh, anh ta vẫn tìm được cách
thực hiện phương án cũ: “Đúng, anh Hiến tự xếp mình loại B là đúng (Phân tích
khuyết điểm của Hiến một chập). Nhưng vì gần đây có một vài tiến bộ nên ta
chiếu cố xếp lên loại A”. Hiến nhất định không nghe, chỉ nhận loại B thôi. Anh
nói: “Đối với tôi A hay B cũng thế thôi. Và tôi chẳng tiến bộ gì cả. Còn nếu các
anh muốn tìm chỗ tiến bộ thật sự của tôi thì tôi xin mách: tôi rất tiến bộ về
chuyên môn, soạn bài rất kỹ”. Mà đúng như vậy thật. Tôi đã dự giờ Hiến dạy
một lần. Anh soạn bài rất nghiêm túc. Anh muốn ý tưởng của mình phải được
trình bầy thật sáng rõ, rành mạch, gây ấn tượng và có sức thuyết phục.
Hoàng Ngọc Hiến có một phản ứng khá dữ dội, chung quanh vụ “hiện
thực phải đạo” (Hoàng Ngọc Hiến viết bài Về một đặc điểm của văn học nghệ
thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua đăng Văn nghệ số 23 (9.6.1979) có luận
điểm nổi tiếng “hiện thực phải đạo”). Hồi ấy anh còn ở Triệu Việt Vương. Tôi
đến anh một buổi chiều. Anh kể một câu chuyện vừa xẩy ra với anh: sau bài
“hiện thực phải đạo”, anh bị đánh rất mạnh. Trên tạp chí cộng sản, Hà Xuân
Trường có bài đả Hiến. Hiến viết bài tranh luận lại. Tạp chí cộng sản không
đăng, cho người đến mời anh lại toà soạn để nói chuyện. Tay phái viên đến mời
anh, nói xong, lấy cái điếu cầy định làm một hơi. Hiến quát ngay: “Thôi, không
hút. Đi ngay, không hút sách gì cả!”. Đến toà soạn tạp chí, mấy biên tập viên đã
chờ sẵn: “Nào mời anh lên gác. Chuyện văn chương phải nói nơi kín đáo”.
Hiến lại bác lại ngay: “Chuyện văn chương không việc gì phải kín đáo!”.
Hiến giải thích với tôi: “ấy đối với bọn này cứ phải tấn công như thế,
tấn công ngay từ thằng đến mời”.
Ban biên tập tạp chí Cộng sản giải thích với Hiến: “Hiện nay bọn Tàu
đang gây sự ở biên giới. Tạp chí phải dành giấy để đăng bài phê phán chủ
nghĩa bá quyền Bắc Kinh, không đăng bài của anh được”. Hiến phản ứng ngay:
“Tại sao ta thừa giấy để đánh bọn cường bạo nước ngoài, lại thiếu giấy để
đánh bọn cường bạo trong nước!”.
Năm 1980, người ta tổ chức một cuộc hội nghị khoa học đặt ở Viện
bảo tàng cách mạng xế xế Nhà hát lớn Hà Nội. Hội nghị toàn quốc, rất đông.
Tôi có gặp một số bạn quen ở Vinh, Huế ra họp.
Hoàng Ngọc Hiến hôm ấy nói buông mà rất rành mạch, hấp dẫn. anh
nhắc lại cái câu đã nói ở trụ sở tạp chí cộng sản: “Tại sao ta thừa giấy để đánh
bọn cường bạo nước ngoài, mà lại thiếu giấy để đánh bọn cường bạo trong
271
nước!”.
Đến giờ nghỉ. Mọi người, hoặc tản ra dạo chơi ngoài vườn hoa, hoặc
ngồi trò chuyện với nhau trong hội trường. Tôi cũng ngồi lại trong hội trường
nói chuyện với mấy anh bạn cũ ở Vinh, ở Huế. Hiến cũng ở lại hội trường,
nhưng ngồi một mình cách vài hàng ghế, trước mặt chúng tôi. Hà Xuân Trường
lững thững từ hàng ghế đầu đi xuống chỗ Hiến, vỗ vai anh thân mật. Hiến gạt
phắt tay Trường ra: “Tôi không phải hạng người cho anh vỗ vai nhé!”. Trông
Hiến lúc ấy rất dữ. Hà Xuân Trường sững người và hơi ngượng. Anh phân bua
với chúng tôi: “Đấy, các anh xem, anh Hiến anh ấy như thế đấy!”.
Buổi trưa hôm ấy, Hiến rủ tôi về nhà ăn cơm. Trong bữa cơm, Hiến hỏi
tôi: “Sao, cậu thấy mình nói có được không?”. Tôi khen: “Khá lắm!”. Chị Tố
Nga, vợ Hiến, mách luôn: “Lẩm bẩm suốt đêm làm gì mà không khá!”.
Thì ra Hiến không phải chỉ chuẩn bị ý, mà còn luyện nói nữa.
Hiến thế mà cũng là một tay đấu khẩu khá nhanh trí và đáo để.
Cũng vào khoảng trước sau năm 1980, khoa Văn Đại học Sư phạm Hà
Nội có tổ chức một cuộc hội thảo khoa học, đề tài: giáo dục tư tưởng qua giảng
dạy văn học. Hiến lúc đó vẫn còn ở Đại học Sư phạm Vinh. Anh ra dự hội nghị.
Không biết bản báo cáo viết của anh gửi ra như thế nào, nhưng anh trình bầy
miệng thì khá gai góc, và hình như anh lại cố tình diễn đạt cho thật ấn tượng về
cái ý rất gai góc của mình. Anh cứ thủng thẳng nói đi nói lại: “Những gì chi bộ
Đảng, đoàn thanh niên, đài phát thanh, báo Đảng đã nói hay viết, thì trong lớp
ta không nói. Ta chỉ nói những điều chi bộ Đảng, đoàn thanh niên, đài phát
thanh, báo Đảng không nói, không viết”.
ý kiến của Hoàng Ngọc Hiến đã gây chấn động hội nghị. Những người
lãnh đạo hội nghị rất lo ngại (lãnh đạo hội nghị là Nguyễn Văn Hạnh quyền chủ
nhiệm khoa và Trần Thanh Đạm phó chủ nhiệm khoa). Đạm thấy nhất thiết phải
uốn nắn lại. Anh động viên Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thị Hoàng lúc đó là đảng
viên dự bị hay cảm tình đảng gì đó lên phê phán Hiến. Tôi không nhớ ý kiến
của cô Hoàng thế nào, chỉ nhớ một câu mỉa mai của Châu: “Đứa trẻ con ngồi
trên vai bố, cứ tưởng mình cao hơn bố”.
Hoàng Ngọc Hiến giơ tay xin phát biểu. Anh cố tình tự khoe: “Tôi đã
góp phần làm cho hội nghị thành công. Vì một hội nghị khoa học có tranh luận
học thuật thì mới là một hội nghị có kết quả. Tôi đã gây được cuộc tranh luận
cho hội nghị. Ngoài ra tôi rất sướng vì đã được ngồi trên vai anh Đỗ Hữu
Châu”.
Sau hội nghị này, Trần Thanh Đạm gửi giấy cho chi bộ Đảng của khoa
Văn Đại học Sư phạm Vinh phản ánh về sự “lệch lạc tư tưởng” của Hiến.
ít ngày sau, tôi đến chơi Hiến – Anh vẫn ở Triệu Việt Vương. Một căn
phòng rất hẹp, chỉ độ 16 mét vuông. Kê được hai cái ghế salon và một cái bàn
nước nhỏ. Tôi và Hiến ngồi ở salon. Chị Tố Nga, vợ Hiến giải chiếu ngồi trên
nền nhà. Chị cứ chỉ tay vào mặt Hiến mà nói đi nói lại xa xả: “Tôi không thấy
có ai ngu như anh Hiến!”. Nói mãi chán, chị bỏ ra đi. Hiến thủng thẳng nói với
tôi: “Hắn nói thế mà đúng. Như ta vẫn nói đế quốc Mỹ là ngu ấy mà!”. Té ra,
272
anh lại ngẫm nghĩ về lời nói của vợ, như một đối tượng nghiên cứu.
Chị Tố Nga, vợ Hiến, là một người cũng khá đặc biệt: chuyên môn mạt
sát chồng trước mặt khách khứa bạn bè, thậm chí trước cả học trò của chồng.
Nhưng đám học trò của anh đã có kinh nghiệm: bà ấy nói thầy Hiến thì được,
chứ người khác tưởng bở, cũng phụ hoạ theo, nói theo, là chết với bà ấy. Còn
Hoàng Ngọc Hiến thì coi thường, bỏ ngoài tai, xem như nói ai đó, chẳng dính
dáng gì đến mình.
Hoàng Ngọc Hiến, tư duy khoa học thì tỏ ra sâu sắc, nhưng trong đời
sống thực tế, nhiều khi rất nhẹ dạ, cả tin.
Vào khoảng 1987, Hội văn nghệ Quảng Nam- Đà Nẵng có mời tôi và
Hiến vào nói chuyện với giới văn nghệ trong ấy. Chúng tôi ở với nhau độ một
tuần lễ, sau đó, Hiến vào Sài Gòn, tôi ra Hà Nội.
ít ngày sau, tôi đang ngồi ở nhà (tại Đồng Xa) thì thấy Hiến đạp xe tới.
Lúc đó mới độ 8 giờ sáng. Tôi hỏi ra bao giờ. Anh nói ra sáng nay, tàu 7 giờ
sáng tới Hà Nội. Tôi ngạc nhiên: vừa về Hà Nội đã vội đến tôi làm gì! Hoá ra
anh vừa tham gia một đảng gọi là đảng “Nhân dân hành động” và ra Hà Nội để
phát triển Đảng. Người đầu tiên anh định kết nạp là tôi. Anh nói, không sợ gì
cả. Tay thủ lĩnh là một tay tiến sỹ ở Mỹ về. Rất trí thức. Đảng này đã thống nhất
với cộng sản chuẩn bị ra đa đảng. Trong đảng này có một uỷ viên bộ chính trị
và một thiếu tá công an cộng sản. Đảng phát triển chủ yếu vào trí thức.
Anh lại hỏi, thằng Thanh nhà ông vào Sài Gòn đã có việc làm và nhà
cửa gì chưa, để anh lo giải quyết cho.
Tôi không tin, từ chối: “Cậu định làm chính trị à? Không sợ công an
à?”
Hiến có vẻ xem thường, cho tôi là thằng nhát.
ít lâu sau tôi được biết đảng này phát triển mạnh ở vùng Vĩnh Long,
vừa bị bắt một loạt. Tôi vào Cần Thơ, Dạ Ngân bảo thế.
Một thời gian sau, tôi gặp lại Hiến ở trụ sở văn nghệ.
Tôi hỏi Hiến: “Biết gì chưa?”
Hiến: “Biết rồi! Biết rồi!”
Tôi lại hỏi: “Có sao không?”
Hiến: “Không sao, không sao – Nhưng này, đừng nói với ai nhé!”
Dương Thu Hương khi biết chuyện này, nói với tôi: “Ông Hiến mà là
đàn bà thì chửa hoang hàng tỉ lần”.
Tôi cho rằng Hoàng Ngọc Hiến có số “quý nhân phù trợ”. Nghĩa là
luôn gặp may. Tôi ví anh với nhân vật Pie Bêdukhốp trong Chiến tranh và hoà
bình của L.Tolstoi. Người to lớn, ra trận cứ trương ngực ra mà đi giữa chiến
trường, nhưng tên đạn cứ tránh không dính. Đấu súng tuy không biết bắn súng,
mà lại thắng một tay thiện xạ... Hiến cũng thế. Ăn nói táo tợn với người có chức
có quyền, hành động nhiều khi dại dột. Nhưng chẳng sao cả. Vẫn đi Pháp, đi
Mỹ đều đều. Anh kể tôi nghe cái vụ “phải đạo” của anh hồi 1980, anh có một cú
thoát hiểm rất ngoạn mục. Người ta tổ chức hẳn một cuộc hội nghị để đánh anh.
Lê Đức Thọ trực tiếp chỉ đạo. Loại có vấn đề như tôi, không được mời. Hơn 50
273
người được mời có chọn lọc để nhằm phê phán Hiến. Hiến là người thứ 50
(avant dernier) được phép phát biểu. Người cuối cùng là Chế Lan Viên (thứ 51)
. Người ta bố trí một tay sắc sảo như thế để có thể đập tan ý kiến của Hiến và
hội nghị kết thúc luôn.
Giờ nghỉ, Lê Đức Thọ trò chuyện với Hiến mới biết Hiến là người
đồng hương với mình. Cùng quê Đức Thọ, Hà Tĩnh (Lê Đức Thọ ở Nam Định,
nhưng quê gốc ở Đức Thọ, Hà Tĩnh, anh em Lê Đức Thọ đều lấy biệt danh có
chữ Đức hoặc chữ Thọ: Đinh Đức Thiện, Mai Chí Thọ, Lê Đức Thọ)
Thế là Hiến gặp may. Vì tình đồng hương, Lê Đức Thọ đã cứu anh. Ai
đó trong hội nghị nói Hiến chịu ảnh hưởng tư tưởng mỹ học của Kant. Thọ
dõng dạc khẳng định trước hội nghị: “Hoàng Ngọc Hiến chẳng kăng kiếc gì hết,
Hoàng Ngọc Hiến là Mác Lênin”.
Tình thế thành ra đảo ngược. Chế Lan Viên chót đánh Hiến, thấy thế,
đâm hoảng, bèn lảng qua chỗ Hiến đang ngồi với Lê Đức Thọ, nói khẽ với anh:
“Lúc nãy tôi có nói điều gì quá, anh bỏ qua đi cho nhé!”.
Sau này, Chế Lan Viên còn nhờ tôi nhắn lại với Hiến hai lần như thế.
Lại còn nói phách “Tôi có trọng anh Hiến thì tôi mới tranh luận với anh ấy
chứ!”.
Có lẽ vì hay gặp may mà Hiến luôn luôn lạc quan.
Lại vẫn cái vụ “hiện thực phải đạo”. Tôi nhớ giáp Tết âm lịch năm ấy,
Khái Vinh có mời tôi, Hiến và Xuân Diệu ăn thịt chó ở Hàng Lược. Lúc đó, dân
Nhật Tân đã lục tục đem đào tới bán. Khái Vinh nói, anh Hiến là người có tài
mà khổ, bị đánh dữ quá!. Xuân Diệu nói: “Con người ta có trải qua đau khổ thì
mới nên người”. Nhưng Hiến lại phát biểu một cách đắc ý: “Những điều tôi
được nhiều hơn những điều tôi mất”. Và anh dẫn chứng: “Đứa con gái tôi vào
Sài Gòn, giáp Tết bị mắc kẹt ở đấy không ra được vì giao thông khó khăn. Có
một anh phi công cho lên ngồi ghé phụ bay ra không mất tiền, vì biết là con
ông “hiện thực phải đạo”. Cũng con bé ấy học đến lớp cuối cấp, sắp thi đại
học, rất cần có người luyện cho môn toán. Rất may, có một cô giáo tự nguyện
đến luyện giúp miễn phí vì biết là con ông “hiện thực phải đạo”. Đó là chưa kể
nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đến tận nhà Hiến tặng hoa. Và bài “hiện thực phải
đạo” đã làm cho anh nổi tiếng một thời và được nể trọng trong giới trí thức cấp
tiến.
Đúng là Hoàng Ngọc Hiến có quý nhân phù trợ thật.
Hồi Hiến sang Mỹ, có một bọn Việt kiều chống cộng quá khích định
hành hung anh. May sao lại có một thượng nghị sĩ Mỹ phái một vệ sĩ của ông ta
tới bảo vệ – Mới đây Hiến kể với tôi như vậy.
* *
*
Tôi rất tin cậy Hoàng Ngọc Hiến. Nên chịu ảnh hưởng Hiến về nhiều
mặt, đặc biệt là trong việc dùng thuốc. Thuốc huyết áp, thuốc bổ, thuốc loãng
xương... Tất nhiên tôi có chịu ảnh hưởng anh cả về tư duy khoa học. Hiến có tài
liệu nào anh cho là hay hoặc nghĩ ra điều gì có vẻ tâm đắc, đều trao đổi với tôi.
274
Trò chuyện với Hiến bao giờ cũng có ích, dù ít dù nhiều, đối với cái nghĩ của
mình. “Dữ quân nhất dạ thoại, thắng độc thập niên thư”. Người xưa nói thế,
vận dụng vào trường hợp Hoàng Ngọc Hiến e có hơi quá. Nhưng quả là trò
chuyện với Hiến bao giờ cũng thu lượm được một cái gì đó có ích. Hiến rất ghét
giáo điều và nghĩ cái gì thì nghĩ đến nơi đến chốn. Tôi cho rằng, mấy phát biểu
sau đây của Hiến là những ý kiến nghe được:
Nghiên cứu khoa học, quan trọng nhất là nghĩ bằng cái đầu của mình
và viết bằng lời văn của mình. Đọc người khác rất cần, song phải thấm thế nào
đó để trở thành của mình, để khi nghĩ là nghĩ bằng cái đầu của mình và viết
bằng lời văn của mình.
Quán tính của con người là thường quy những điều chưa biết vào cái
sơ đồ có sẵn, sơ đồ biết rồi. Do lười nghĩ. Quán tính rất mạnh, lay chuyển được
quán tính, được cách nghĩ là khoa học.
Khoa học trước hết là đặt vấn đề đích đáng. Tìm ra cái mới hoàn toàn
rất khó. Thường chỉ chỉnh lại một tý. Vấn đề đặt ra đúng, nhưng chưa đúng
hẳn. Chỉnh lại một tý như chỉnh ti vi cho hình nét hơn, âm rõ hơn.
Thí dụ, nói Đam Săn anh hùng dũng cảm là đúng. Nhưng thực ra tính
cách Đam Săn phong phú hơn: hồn nhiên, trung thực, lãng mạn, ngỗ nghịch...
đặc biệt là một cá tính tự do.
Nói Số đỏ đả kích những ông chủ bà chủ của xã hội cũ là đúng, nhưng
đâu chỉ có thế. Số đỏ là cả một xã hội hài hước gồm đủ hạng người, ai cũng
buồn cười, một xã hội ngớ ngẩn, nhí nhố, lố bịch... , kể cả bình dân.
Hiến khẳng định vai trò quan trọng của cảm hứng và trực giác. Tôi
cho rất đúng. Anh nói, cảm hứng lay động toàn bộ năng lực tinh thần của người
nghiên cứu. Trong giây phút ấy, con người, cùng một lúc, có vô số liên tưởng,
kể cả liên tưởng vô thức. Do đó rất sáng suốt. Nhưng phải băn khoăn nhức nhối
về nhân sinh, về văn học mới có cảm hứng dẫn tới tìm tòi phát hiện. Cảm hứng
làm cho câu, chữ có hồn. Cảm hứng phát huy trực giác, khiến cảm nhận được
cái mới. Mọi tìm tòi đều bắt đầu bằng trực giác. Sau đó mới dùng suy lý lôgic
chỉnh lại (vì thế Hiến rất phục những phán đoán trực giác của ai đó, chỉ ra chính
xác bản chất một đối tượng nào đấy, không cần lý lẽ chứng minh gì hết).
Phân tích tác phẩm gay nhất là đọc hết cuốn sách mà chẳng thấy có ý
gì cả. ý là một ý nghĩa mới đích đáng trả lời một câu hỏi ta đang tìm tòi, đang
suy nghĩ để giải đáp. Tác phẩm chẳng giải đáp được một câu hỏi nào cần thiết,
là vô nghĩa.
Phân tích tác phẩm là phân tích chi tiết. Phải chọn chi tiét có vấn đề.
Phân tích một chi tiết mà mở ra cả một vấn đề về đạo lý, về triết lý. Phân tích
một chi tiết như thế có sức thuyết phục và sang trọng hơn là phân tích tràn lan.
Cuối cùng phải tìm từ, tìm chữ đích đáng để diễn đạt. Một bài viết hay
là có được một hai từ đích đáng kết tinh được cái hiểu, cái ý của mình. Đó là
cái thần của bài viết.
Hiến nghĩ thế nên rất chăm chỉ học chữ, học từ.
Có khi học ở dân gian. Thí dụ, anh rất khoái vì học được chữ “bõ hờn”
275
của một ông người Mường tên là Cò Lửa, chủ nhà chúng tôi ở nhờ hồi kháng
chiến chống Mỹ tại Thạch Thành, Thanh Hoá. Phần nhiều học ở sách vở. Thí dụ
chữ “hương nguyện”, “phường hương nguyện” anh học được của Mạnh Tử khi
nghiên cứu triết học cổ phương Đông. Có lẽ tương đương với chữ philistin
chăng?
Có những chữ thông thường nhưng anh đem đến cho nó một nghĩa mới
nào đấy. Như “kể lại nội dung” và “viết nội dung”. (Bài “Kể lại nội dung và
viết nội dung” (Văn học gần ...và xa. NXB giáo dục 2003). Hay như chữ “trí
thức bình dân” trong bài anh giới thiệu Tuyển tập Nguyễn đăng Mạnh (NXB
Giáo dục 2006)... Có thể gọi trường hợp này là sáng tạo từ mới.
Gần đây Hoàng Ngọc Hiến say mê đọc Nho, Phật, Đạo qua sách của
Francois Fulien. Anh lấy làm khoái chí học được ở F.Julien, sự phân biệt giữa
tư duy Đông và Tây. Tây là chân lý (Vérité). Đông là dịch lý (transformation).
Một đằng cứ cãi nhau về chân lý, về đúng hay sai. Một đằng chủ trương “cùng”
hay “thông”. Đúng sai không quan trọng, quan trọng là không bế tắc, là thông,
là được việc, là có hiệu quả thực tế...
* *
*
Như đã nói, Hoàng Ngọc Hiến sống rất hồn nhiên, tự nhiên.
Hồi chống Mỹ, sơ tán ở Thạch Thành, Thanh Hoá, không mấy khi có
được miếng thịt mà ăn. Hôm ấy, anh em kiếm được một đĩa thịt. Hiến vừa ăn,
vừa xụt xịt mũi, vừa gật gù: “Ăn thịt ngon thật!”.
Tối tối, anh rất chịu khó cùng với tôi xách đèn đi bắt ốc sên về cải
thiện, tin rằng ba con ốc sên bằng một quả trứng vịt (Hồi ấy có kẻ phao lên như
vậy).
Hiến hay nghĩ ra những chuyện kỳ cục và buồn cười để đùa vui. Thí dụ
như chuyện phân loại cán bộ khoa văn trường Đại học Sư phạm Vinh thành ăn
cướp và ăn cắp. Hình như tư duy khoa học mãi, nghĩ mãi những điều có nghĩa
lý, người ta phải thư giãn đầu óc bằng những chuyện vô nghĩa lý.
Hiến đúng là vui đâu chầu đấy.
Có một lần Ngô Thảo nhân quen một Việt kiều về nước, mời tôi, Hiến
và Hoàng Cầm đến đánh chén ở một nhà hàng. Xe đón tôi trước, đón Hiến sau.
Trên xe, tôi gọi điện cho Hiến chuẩn bị ra ngõ để đón xe. Chị Tố Nga, vợ Hiến,
cầm máy trả lời: “Lão ấy mời đi họp thì đến chậm, nhưng mời đi ăn thì đúng
giờ lắm!”.
Một lần khác, mới năm ngoái đấy thôi, anh Vũ Văn Viết ở Việt Trì
mời chúng tôi lên dự lễ khai trương ngôi trường phổ thông dân lập do anh vừa
xây dựng. Anh cần nhiều người ở Hà Nội lên dự cho thật long trọng. Nhưng
hôm ấy nhiều người trong danh sách mời không đi được vì bận việc hay đang đi
công tác xa. Ngồi trên xe thấy vắng vẻ quá, tôi nẩy ra ý mời Hiến, tuy Hiến
chẳng quen biết gì Vũ Văn Viết cả. Và Viết cũng không mời Hiến.Tôi gọi điện.
Hiến nhận lời ngay, và lập tức đáp xe ôm đến chỗ hẹn.
Cái giống nghệ sĩ thật sự bao giờ cũng rất tự nhiên – nói như Lưu Công
276
Nhân, “tự nhiên như ruồi”. Họ rất khó tính trong sáng tạo, nhưng rất dễ tính
trong sinh hoạt đời thường. Khoa học cũng là một hoạt động sáng tạo, nhà khoa
học cũng là một loại nghệ sĩ, nhất là khoa học về văn chương.
Vì thế Hoàng Ngọc Hiến cũng rất hồn nhiên, tự nhiên, “tự nhiên như
ruồi”.
Hiến là dân Nghệ Tĩnh nhưng lại chê dân Nghệ “cái gì cũng biết, trừ
hạnh phúc”. Nhưng chính Hiến cũng rất Nghệ. Một tay đầy nghị lực. Tập thể
dục rất kiên trì. Nghiện cả thuốc lá, thuốc lào mà bỏ hẳn (Bỏ mà vẫn cho hút
thuốc lá là thích nhất. Anh nói “Khi nào sắp chết sẽ hút lại”). Gần 80 tuổi vẫn
cả ngày ôm cái máy vi tính để lấy thông tin và luyện ngoại ngữ. Rồi đọc sách,
dịch sách, viết sách... Tôi là dân Bắc Kỳ, kém xa Hiến về mặt này.
Hiến đích thực là dân Nghệ, đúng thế, nhưng là một tay Nghệ “cái gì
cũng biết, kể cả hạnh phúc”. Vì tôi biết chưa bao giờ anh từ chối một lạc thú
trần thế, trần tục nào.
Láng Hạ, 20.5.2007
1 comment:
Tôi không thể cảm ơn Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đủ để giúp tôi khôi phục lại cuộc hôn nhân của mình với niềm vui và sự an tâm của nhiều vấn đề gần như dẫn đến ly hôn. Cảm ơn Chúa, tôi đã tổ chức Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đúng giờ. Hôm nay tôi có thể nói với bạn rằng Tiến sĩ EKPEN TEMPLE là giải pháp cho vấn đề này trong hôn nhân và mối quan hệ của bạn. Liên lạc với anh ấy tại (ekpentemple@gmail.com)
Post a Comment