Chương XIII: Nguyễn Tuân
Từ nhỏ tôi đã đọc Nguyễn Tuân trong kho sách của bà chị cả tôi. Tấtnhiên chẳng hiểu gì lắm! Nhưng cũng muốn bắt chước chủ nghĩa xê dịch của
Nguyễn Tuân: thích lang thang ngắm trời, ngắm đất.Thời kháng chiến chống
Pháp, một mình đi trên đường Việt Bắc, lội suối, leo đèo, rất khoái – thực sự
cảm thấy cái khoái “Đường vui” của Nguyễn Tuân quả là có thật. Hồi về Hà
Nội học Đại học Sư phạm (1957), tôi có lần dắt xe đạp thử đi suốt đêm ở Hà
Nội, từ phố này sang phố khác, bắt chước Nguyễn Tuân làm “Một người lữ
hành trong thành phố chúng ta”, xem Hà Nội sinh hoạt về đêm như thế nào,
thưởng thức những tiếng rao đêm có giọng điệu riêng của các hàng quà rong
xuất hiện rất đúng hẹn cho mỗi thời khắc.
Tôi chính thức được tiếp xúc với Nguyễn Tuân khi dạy ở Đại học Sư
phạm Vinh. Trường Vinh cử tôi ra đón Nguyễn Tuân vào nói chuyện về ký
chống Mỹ. ấy là vào năm 1965, 1966 gì đó.
Xe đi từ sáng sớm, nhưng đến cầu Khuất thì phải dừng lại rất lâu. Cầu
sắt bị phá. Người ta bắc cầu phao. Nhưng buổi sáng người ta phải dỡ phao cho
thuyền bè qua lại. Vì thế mãi đến trưa xe mới đến đồi Kim Tân. ở đây có một
hàng bán miến gà. Xe dừng lại để ăn trưa. Nguyễn Tuân không ăn, tuy tôi bảo
nhà hàng làm cho một bát miến gà đặc biệt (Hồi chiến tranh chỉ có loại miến
làm bằng bột đao, nhưng vào thời ấy, thế là đã sang lắm rồi). Ông lấy trong túi
ra gói cơm nắm, xắt ra mấy lát, ăn với ruốc. Sau đó lấy bi đông rượu rót ra cái
nắp uống.
Trong cuộc đi này, tôi thấy Nguyễn Tuân biết rất nhiều chuyện, nào là
các làng nghề chung quanh Hà Nội (làng này chuyên chữa kính, làng kia
chuyên cắt tóc, làng nọ chuyên làm thợ may...), nào là những nhân vật có tiếng
ở xã này, huyện nọ, nào là những chuyện vui thời kháng chiến chống Pháp trên
đường số 6 từ khu Ba lên Việt Bắc... Và ông hay đố chữ. Nhờ Nguyễn Tuân
hôm ấy tôi mới biết được, tiết canh đánh giỏi là “tiết canh xâu lạt”, người theo
đạo Thiên chúa mà bỏ đạo, gọi là “dở người”. Thí dụ “ông tôi đã dở người”,
“Nam Cao đã dở người”...
Trường Đại học Sư phạm Vinh lúc ấy sơ tán ở huyện Thạch Thành,
tỉnh Thanh Hoá. Khi xe chúng tôi về đến nơi, thấy Ban Giám hiệu đều có mặt ra
đón long trọng lắm, sau đó bầy tiệc lớn chiêu đãi. Tôi thấy Nguyễn Tuân không
có vẻ mặn mà gì, ông chỉ gắp vài miếng trứng tráng.
Từ hiệu bộ, tôi đưa Nguyễn Tuân về khoa văn ở một địa phương gọi là
Thạch Yến. Trần Văn Hối, phó chủ nhiệm phụ trách sinh hoạt, thủ sẵn một chai
vang ngoại đợi Nguyễn Tuân vào thì đưa ra. Trông thấy chai vang, Nguyễn
Tuân nói: “Rượu đàn bà, uống làm gì!”. Hối cụt hứng, buồn quá!
Hồi ấy Nguyễn Tuân rất nổi về những bài ký chống Mỹ viết về những
tên giặc lái tàu bay bị bắn cháy, bật dù xuống đất và bị nhốt ở các trại giam.
Chúng tôi mời ông vào để nói chuyện về những bài ký ấy. Giữa buổi nói
191
chuyện, sinh viên nhờ tôi đề nghị ông nói về Vang bóng một thời. Tôi lựa lời
nói với Nguyễn Tuân. Ông hình như không thích thay đổi bài nói đã chuẩn bị,
cứ tiếp tục nói về ký chống Mỹ. Tôi nài thêm lần nữa, ông mới thủng thẳng nói
mấy câu: “Tôi đọc lại Vang bóng một thời, tôi thấy phục tôi quá! Tôi nhớ ngày
trước tôi làm gì có quan điểm lao động, thế mà tôi lại ca ngợi những người thợ
mộc Tràng thôn lên sửa đền cho thánh Tản viên. Hồi ấy tôi cũng chưa lên núi
Tản Viên, Ba Vì, kháng chiến mới có dịp tới. Vậy mà sao tôi tả đúng thế”. Rồi
ông cười hóm hỉnh: “ấy nói thế người ta lại bảo nhà văn không cần đi thực tế
thì chết” (Nguyên Ngọc cho rằng, nếu Nguyễn Tuân lên núi Tản Viên trước khi
viết Trên đỉnh non Tản thì có khi lại viết hỏng)
Từ lúc bị Nguyễn Tuân từ chối chai vang, Trần Văn Hối bèn sục tìm
trong làng kiếm được một chai cuốc lủi, lặng lẽ đặt ở nơi nghỉ của ông. Lúc ông
rời Thạch Thành, chai rượu vẫn còn nguyên. Ông có rượu riêng đem đi, không
uống tạp như Nguyên Hồng, Hoàng Trung Thông hay Đoàn Phú Tứ...
Bữa tiệc cuối cùng khoa văn tiễn ông có nhiều rau tươi: xà lách xanh
non, cà chua, ớt màu đỏ. Nguyễn Tuân có vẻ thích. Ông khen bữa ăn rất đẹp.
Ông kể chuyện từng được một ông sư đãi một bữa thịt chó độc đáo. Thịt chó
ướp gia vị, đặt vào giữa bông sen, bó lại, đem đồ cho chín dừ. Món ăn vừa tục
vừa thanh, vừa có vị chát của nhựa sen vừa có hương thơm của hoa sen.
Tôi nghĩ bụng, thịt chó mà dám cho vào toà sen, lão sư nào mà hỗn thế.
Nhưng vừa ăn vừa nghĩ đến cái tục cái thanh của nó, chắc cũng thú.
Lần thứ hai, tôi được gặp Nguyễn Tuân là vào mùa thu năm 1967.
Cũng là tình cờ thôi. Tôi ra Hà Nội, có việc đến Nhà Xuất bản Văn học (49
Trần Hưng Đạo) và gặp Nguyễn Tuân ở đó. Hình như ông đến làm việc với Nhà
Xuất bản về việc in một tập ký chống Mỹ thì phải (Nghe nói NXB đề nghị loại
bỏ bài Tờ hoa, còn ông thì nhất định đòi giữ lại, không in thì thôi).
Dịp may hiếm có, tôi đề nghị được gặp ông. Ông đồng ý, không tỏ vẻ
khó khăn gì cả.
Tôi hỏi ông về những tác phẩm gần đây của ông, về quan niệm và cách
viết của ông.
Ông nói liền một mạch, rất sôi nổi:
- Người ta viết văn, giảng văn, nói đã nhiều về tư tưởng, về đạo đức.
Điều ấy không phải không cần. Nhưng tôi muốn giúp độc giả nâng cao trình độ
thẩm mỹ, đem đến cho họ cảm xúc về cái đẹp. Đó là điều băn khoăn của tôi. Tôi
cung cấp cho họ những gợi ý bằng những suy nghĩ của tôi. Còn họ phản ứng
thế nào, tuỳ.
- Về độc giả, tôi không quan niệm là công nông hay trí thức mà chỉ chú
ý phục vụ con người mới, có tư tưởng mới, có văn hoá, có trí thức. Bao giờ độc
giả được tất cả như thế, tôi không biết, nhưng nhất định sẽ như vậy, tôi rất tin
điều đó.
- Về kinh nghiệm viết văn?
Tôi cho tác phẩm văn học mà không tạo ra được cái atmosphère thì
không có giá trị gì. Cái atmosphère nó làm cho cùng một hiện tượng, cùng một
192
sự việc mà thành màu sắc xanh đỏ tím vàng khác nhau. Cái chi tiết nước sông
Hồng dâng cao trong bài “Hà Nội giải tù Mỹ qua phố Hà Nội” là cái chi tiết
tạo không khí như thế.
Kinh nghiệm tạo không khí là phải có quan điểm lịch sử, quan điểm
địa lý, quan điểm thiên nhiên, có óc tưởng tượng mới tạo ra được.
Bài Nguyễn Văn Trỗi, tôi viết ngay khi có tin ấy. Tôi muốn tạo ra cái
résonnance toàn thế giới. Lúc đó tài liệu gầy guộc nghèo nàn quá, tôi phải cố
tạo ra không khí bằng cách ngồi trước quả địa cầu và bản đồ thế giới mà tưởng
tượng.
Có người nhận xét tôi lan man, không phải không đúng. Nhưng bài văn
đâu phải bản báo cáo mà phải có các mục 1, 2, 3, hay như bài rédaction, bài
composition của học trò, cũng không phải bài thơ Đường luật có đề, thực, luận,
kết... Nó tuỳ theo nhà văn định nói gì và cách nói của anh ta. Lan man là hiện
tượng, nhưng nó có cái fil d’idée của nó. Nó không có hại gì về bố cục, về tư
tưởng là được.
Sông Đà bảo là lan man, thực ra là cái fil d’idée của nó là vấn đề giao
thông vận tải...
Có người lại bảo tôi là thiên nhiên chủ nghĩa không nói đến người. Thế
thì bài Xoè của tôi bỏ đi đâu? Người ta có định kiến sẵn khi phê bình nên không
nhìn toàn diện.
Tôi cho nội dung không thiếu. Cái quan trọng là cách nói cho nổi cái
nội dung đó lên, thế mới gọi là có đóng góp. Cách nói, nói thế nào là điều tôi
băn khoăn nhiều và thế mới có ích.
- Tôi không thích khẳng định nhiều quá... Có lối viết đưa ra kết luận rõ
ràng, dứt khoát, có cách viết không kết luận, để tự người đọc kết luận lấy, gọi là
lối nóng, lối lạnh. Tôi thích lối thứ hai này. Người nước ngoài thường than
phiền văn học ta trop d’ affirmatifs, trop de superlatifs, đáng lẽ nói tốt thì lại
nói “rất tốt”, “rất vĩ đại”...
Khi tôi và Nguyễn Tuân trò chuyện với nhau thì cuộc tranh luận về
thể ký còn đang tiếp tục sôi nổi trên các báo chí (1966, 1967). Tôi bèn hỏi quan
niệm của Nguyễn Tuân về thể văn này.
Ông nói: “- Đúng, người ta đang tranh luận về thể ký. Ký và cấu.
Nhiều người tham gia tranh luận nhưng có viết ký đâu. Tôi thì cứ viết. Có người
hỏi làm thế nào để viết ký cho hay, không nhạt. Tôi cho rằng phải có vốn văn
hoá, vốn kiến thức. Người viết có nhiều dụng cụ thì đồ chế tạo nhất định phải
tinh xảo hơn. Kiến thức lịch sử, địa lý, thiên nhiên..., rồi vận dụng các ngành
nghệ thuật. Mà nói chung thì nghệ thuật nào chẳng phải mượn các cách của
nghệ thuật khác để thể hiện. Khi anh không chỉ tả mặt mà còn tả cái gáy, cái
vai, tả người cúi xuống, cái mông bóng lên, là vô tình đã phải vay mượn điêu
khắc rồi”.
Nói ký là bước sơ bộ của truyện, không đúng. Các thể loại văn học đều
bình đẳng. Mỗi thể văn được chọn viết là do cái tài khác nhau. Một ký hoạ chì
than có thể giá trị hơn một bức sơn mài lớn. Cùng một matière có thể người này
193
viết truyện ngắn, làm thơ, người kia viết ký. Không có tài không viết ký được.
Ông A. France, nhà xuất bản bảo ông viết truyện ngắn. Ông ấy nói, tôi
làm gì có thời giờ viết truyện ngắn.
Viết truyện, phải có nhân vật. Nhân vật truyện không bị gò bó trong
không gian, thời gian hay ước lệ sân khấu. Nhân vật truyện muốn làm gì thì
làm, tự do.
Ký không bắt buộc có nhân vật, hay đúng ra chỉ có bóng dáng của
nhân vật. Nên nhân vật không cần có lí lịch, tính cách, số phận rõ ràng.
Ký ghi sự việc, thấy ẩn ẩn hiện hiện một nhân vật nào đó. Thoáng một
tý hình ảnh, ký là sự việc. Sự việc thì cũng phải có thằng người.
Bốn người viết bốn thể tài, cũng đi thực tế. Cùng nghe, thấy, hỏi, ghi
chép. Kịch hỏi khác. Truyện hỏi khác. Giác quan anh viết ký phải dựng lên hết.
Sách cũng là một thực tế. Thí dụ đọc sách về Lai Châu như cuốn La
mission de Pavy, đến một lúc nào đó, có khái niệm về Lai Châu, biết đích xác
lịch sử Lai Châu. Lai Châu thành một thực tế. Viết ký phải đọc nhiều. Thượng
vàng hạ cám, đọc hết. Nhưng đọc xong phải có cái ý của mình, ghi lại. Có chỗ
phải đánh dấu vì hay, để đọc lại.Đọc sách địa chất, tình yêu Tổ quốc càng cụ
thể.
Phản ánh thực tế phải xoáy vào một điểm, nhưng phải có diện rộng soi
vào đó. Đó là kinh nghiệm viết.
Văn khác toán. Toán chỉ có một đáp số. Văn học lắm đáp số. Anh phê
bình lại cứ đòi một đáp số.
Tôi viết Sông Đà. Thằng Tây nói sông Đà đen. Tôi viết Sông Đà đỏ lên,
sau bỏ chữ “lên” đi cho khoẻ.
Nói đến đấy, ông dừng lại nghỉ hơi một lúc. Rồi bỗng quay trở lại cái ý
về lối viết “nóng”, lối viết “lạnh” – chắc ông chợt nhớ đến có kẻ từng phê phán
truyện Chém treo ngành của ông trong Vang bóng một thời.
“Có người nói tôi thích nhấm nháp cái tài chém treo ngành trong
Vang bóng một thời, mà kẻ chém lại là tay sai đế quốc, phong kiến. Thực ra tôi
muốn nói tội ác của chúng nó là như thế đó, nó vừa nhắm rượu vừa xem chém
người – Khi đăng trên Tao đàn tôi lấy tên Bữa rượu đầu lâu (Thực ra, đọc Tao
đàn, tôi chỉ thấy cái tên Bữa rượu máu – NĐM). Người ta cứ muốn phải nói rõ
thái độ đả kích, phê phán. Tôi cho không cần, và đó là lối “lạnh” phải để độc
giả tự kết luận, cho họ tự do. Có phải giảng chính sách đâu mà cứ phải nói rõ
đúng sai và phải chỉ ra thực hiện thế này, thế khác. Văn học khác chứ!
Người ta còn nói tôi thích quay lại thời phong kiến.. Cái cổ không nhất
thiết là cái phong kiến, mà có cả dân gian nữa chứ!
- “Viết văn phải có tinh thần khoa học. Song có cái genre merveilleux,
genre fictif. Ai chả biết quả đất xoay quanh mặt trời. Thế mà bao đời nay vẫn
viết mặt trời mọc, mặt trời lặn mà cứ phải thừa nhận trong văn học. Thế đấy, có
cái rất phi lý mà vẫn tồn tại”.
Nguyễn Tuân nói liền một mạch như thế, rất say sưa. Trên kia tôi đã
nói đến cái lần, tôi được cử ra Hà Nội mời Nguyễn Tuân vào Đại học Sư phạm
194
Vinh để nói chuyện về ký chống Mỹ. Chính trong cái lần ấy tôi đã nung nấu
một bài viết về ký chống Mỹ của Nguyễn Tuân (Bài này do chị Thiếu Mai, lúc
đó ở Tạp chí văn học đặt)
Tháng 8 năm 1968, bài viết được đăng trên tạp chí với đầu đề: “Con
đường Nguyễn Tuân đi đến bút ký chống Mỹ”. Vì bài này mà ông Hoài Thanh
(Thư ký toà soạn Tạp chí Văn học lúc bấy giờ) bị ông Trường Chinh gọi lên
khiển trách. Hồi ấy bị ông Trường Chinh phê thì thành chuyện ầm ĩ lắm.
Nguyễn Tuân cũng biết.
Hôm ấy tôi gặp ông đang sắp hàng ở một quán bia hơi ở Phố Huế
(Nguyễn Tuân gọi là bia bơm), ông vẫy tôi lại gần, cười nói: “Họ lôi cả anh vào
với tôi rồi đấy!”.
Có lẽ vì thế chăng mà Nguyễn Tuân có cảm tình với tôi. Tuy vậy tôi từ
đấy cũng không có lần nào gặp Nguyễn Tuân nữa. Không phải ngại gì cả. Tính
tôi thế. Biết người ta có thích mình đến không mà đến. Nghe nói Nguyễn Tuân
rất khó tính, rất kiêu ngạo. Vả lại ông bằng tuổi cha chú của mình, bạn bè gì mà
đến chơi. Có khi ông ấy lại tưởng mình “thấy người sang bắt quàng làm họ”, cứ
đến quấy nhiễu ông.
Người ta đều nhận thấy Nguyễn Tuân là một cây bút rất tài hoa và
uyên bác. Đúng như thế. Nhân vật chính của tuỳ bút là bản thân cái tôi của tác
giả. Ký, tuỳ bút, hay hay dở là phụ thuộc vào cái tôi ấy có phong phú hay
không. Cho nên không uyên bác không trở thành nhà bút ký, tuỳ bút được. Vì
thế Nguyễn Tuân đọc rất nhiều, đọc đủ loại: côn trùng học, địa chất học, địa lý
học, sử học, giao thông vận tải...
Một lần tôi đến Nguyễn Tuân thấy ông đặt trên bàn một cuốn sách viết
về giao thông vận tải của Mỹ, trong dó có bức ảnh chụp buổi lễ khánh thành
đường xe lửa xuyên Mỹ: hai cái đầu tầu đi ngược chiều áp vào nhau nơi lắp cái
đinh bù- loong cuối cùng nối hai đường tầu với nhau. ở hai đầu tầu, có hai
người rót rượu chạm cốc. Cái đinh bù – loong này làm bằng vàng nguyên khối -
Nguyễn Tuân cười nói: “Nếu ở Việt Nam thì cái đinh bù – loong này đã bị đánh
cắp từ đêm trước”.
Sự uyên bác của Nguyễn Tuân cũng có chỗ độc đáo: ông muốn những
tư liệu của ông chỉ mình ông có, nghĩa là độc quyền tư liệu. Thí dụ, có bao
nhiêu tấm ván trên cầu Hiền Lương, hoặc Hà Nội có bao nhiêu cây tươi... Tìm
cho được nhưng tư liệu ấy cũng phiền phức, công phu lắm: phải đóng vai sỹ
quan quân đội đổi gác trên cầu Hiền Lương để đếm được các tấm ván ở cả đầu
Bắc lẫn đầu Nam, phải tìm đến công ty quản lý cây xanh Hà Nội để biết con số
cây tươi của thành phố. Những tư liệu ấy có ý nghĩa gì quan trọng đối với nội
dung và hình thức bài ký? Tôi ngờ rằng ý nghĩa không nhiều. Nhưng Nguyễn
Tuân có lẽ ít quan tâm đến điều ấy. Cái quan trọng đối với ông là: tư liệu ấy chỉ
mình ông có, “đếch” thằng nào biết.
Đầu năm 1980, bỗng nhiên Nhà xuất bản Văn học cho người đến mời
tôi làm Tuyển tập Nguyễn Tuân.
Tất nhiên là tôi rất mừng và cảm động.
195
Hồi ấy tôi ở một căn phòng thuộc tầng năm của một chung cư gọi là
nhà B2, khu tập thể cán bộ trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Anh Lê Khánh,
biên tập viên NXB Văn học đến thông báo cho tôi và cùng tôi làm Tuyển tập.
Lê Khánh nói, ngày mai ta đến gặp Nguyễn Tuân để bàn chuyện. Tôi
nhất trí ngay. Tôi cũng thấy cần gặp Nguyễn Tuân để hỏi nhiều điều cần thiết để
viết về ông.
Sáng hôm sau, 8 giờ, chúng tôi có mặt ở nhà Nguyễn Tuân. Ông chấp
nhận đề nghị của tôi, hẹn gặp làm việc 8 giờ sáng hôm sau. Ông dặn: “Anh cứ
chuẩn bị sẵn những câu hỏi, đến làm việc cho nhanh”. Hôm sau tôi và Lê
Khánh lại đến.
Tôi bắt đầu hỏi. Nguyễn Tuân gạt đi: “Thôi để lúc khác”. Rồi ông nói
đủ thứ chuyện nhưng không dính dáng gì đến việc viết tiểu sử và làm tuyển tập
cả. Tôi lấy làm lạ bèn hỏi: “Thế bao giờ ta làm việc?”. “Mai, 8 giờ sáng”, ông
lại hẹn đúng như hôm trước.
Tôi không hiểu, nhưng Lê Khánh biết ý. Khi ra về, anh nói với tôi:
“Ngày mai tôi không đến nữa, anh đến một mình thôi. Ông ấy không thích tôi”.
Ngày mai tôi đến một mình. Quả nhiên làm việc rất nhanh chóng trôi
chảy. Tôi hỏi, Nguyễn Tuân trả lời, rất gọn.
Mấy ngày sau, tôi đem chuyện này nói với Xuân Diệu. Xuân Diệu nói:
“Đúng quá còn gì nữa, cậu chẳng hiểu gì cả. Trai gái yêu nhau, nói chuyện tâm
tình với nhau, có người khác ngồi đấy, nói sao được!”. Cái gì Xuân Diệu cũng
liên hệ đến chuyện trai gái.
Khác với Xuân Diệu, Nguyễn Tuân không hề quan tâm gìn giữ những
tài liệu của mình. Làm tuyển tập Nguyễn Tuân, tôi không khai thác được tài liệu
gì quan trọng của ông hết, ngoài hai cuốn kiếm đâu cũng được: cuốn tuỳ bút
Tình chiến dịch và tiểu thuyết Quê hương (Sài Gòn in lại, vất đi nhiều chương
một cách rất tuỳ tiện). Ngoài ra có tập Tôi đọc, tập hợp những bài tiểu luận phê
bình viết sau cách mạng tháng Tám. Cuốn sách này vừa in ra đã bị cấm, phải
huỷ hết. May mà Nguyễn Tuân giữ lại được một bản. Thực ra những bài in
trong Tôi đọc cũng không khó tìm. Toàn những bài đã đăng trên sách báo sau
cách mạng.
Thành ra làm Tuyển tập Nguyễn Tuân, tôi phải tự xoay xoả lấy cả. May
mà tôi đã nghiên cứu Nguyễn Tuân từ hai mươi năm trước (1960) nên biết được
hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Tuân đã in thành sách hay đăng lên các loại
báo chí. Có những tờ báo không tên tuổi, chẳng ai để ý như tờ Tuần lễ. Tôi đã
tìm được ở đấy bài Răng người tình của Nguyễn Tuân, viết năm 1938.
Khi bắt đầu làm tuyển tập, Lê Khánh nói với tôi: “Tuyển văn Nguyễn
Tuân phải cẩn thận, thí dụ như bài Chém treo ngành thì không nên tuyển”.
Nhưng tôi rất thích truyện này, một truyện rất Nguyễn Tuân. Tôi đi tìm
nguyên bản tác phẩm này khi chưa bị kiểm duyệt, đăng trên Tao đàn thời Mặt
trận dân chủ Đông Dương. Mới thấy bọn kiểm duyệt thời Tây rất tinh. Nó cắt đi
ba chi tiết mà tác phẩm chuyển hẳn tư tưởng. Quả là chi tiết trong truyện ngắn
cực kỳ quan trọng: một là nó bỏ cái tên tác phẩm Bữa rượu máu, thay bằng
196
Chém treo ngành, hai là hình ảnh thằng công sứ Tây và thằng tổng đốc ta chuốc
cho nhau hai tuần rượu và cái chi tiết cơn lốc lớn chạy giữa hai hàng tử tù, đuổi
theo và lật cái mũ thằng công sứ quẳng xuống cho lăn lộn mấy vòng trên bãi cỏ
pháp trường.
Tôi đưa ngay tác phẩm này vào Tuyển tập một cách đắc ý. Nguyễn
Tuân rất khoái. Ông mời tôi uống rượu và chửi Hoàng Trung Thông: “Thế mà
Hoàng Trung Thông nó bảo nhấm nháp chém đầu người. Thằng cha cũng làm
văn mà sao nó ngu thế!”.
(Vậy mà mãi sau này, trong “Chân dung và đối thoại”, Trần Đăng
Khoa vẫn lặp lại ý kiến của Hoàng Trung Thông).
Tôi để ý thấy có hai trường hợp, Nguyễn Tuân không đồng ý cho vào
Tuyển tập. Một là bài ông viết về tranh lụa Nguyễn Phan Chánh, hai là bài ông
viết về Dostoievsky. Bài thứ nhất có lẽ do Nguyễn Phan Chánh là bố vợ Lê
Quang Đạo, khi chết được đặc cách đưa vào Mai Dịch. Ông ghét Lê Quang Đạo
chăng? Còn bài thứ hai là vì lý do khoa học. Ông tự thấy chưa đọc hết các công
trình về Đôxtôi, và đọc ai, mượn ý của ai, giờ ông không có điều kiện tra cứu để
chú thích cho sòng phẳng. Về mặt này, Nguyễn Tuân tỏ ra rất nghiêm khắc về
mặt khoa học (Sau , chúng tôi nài mãi ông mới chịu. Nhưng ông yêu cầu phải
cho ông viết mấy dòng gọi là “Tái bút” để thanh minh với độc giả).
Hồi năm 1929, ông học ở trường Thành Chung Nam Định, do tham gia
một cuộc bãi khoá để phản đối một giáo viên người Pháp nói xấu người Việt
Nam, ông bị đuổi học. Trường học ghi vào học bạ, phạt những người tham gia
bãi khoá năm năm không được học ở trường nào, không được làm ở công sở
nào. Ông về Thanh Hoá rủ một người bạn (theo Tô Hoài, là Lương Đức Thiệp)
đi chơi qua Lào, sang Thái Lan, đến Băng Cốc, thì mật thám bắt giải về nước
theo đường Cămpuchia về Sài Gòn, rồi đưa ra quản thúc ở Thanh Hoá, nơi cụ
thân sinh ra ông làm việc.
Khi làm Tuyển tập Nguyễn Tuân, tôi hỏi ông, sang Thái Lan làm gì?
Ông nói: “Người khác sẽ nói là đi tìm đường cứu nước. Nhưng tôi thì nói thật,
vì đi chơi không có giấy phép nên nó bắt, thế thôi”. (Theo Tô Hoài, Nguyễn
Tuân rủ Lương Đức Thiệp sang Xiêm để tìm ngọc ở Pâylinh).
Trong quá trình làm Tuyển tập Nguyễn Tuân, tôi có điều kiện tiếp xúc
luôn luôn với ông. Ông quả là người khó tính, không phải ai đến, ông cũng tiếp.
Có lần ông đuổi một anh thanh niên đường đột đến thăm ông: “Anh đến gặp con
gái tôi đấy à? Nó đi vắng rồi!”. Lại nghe nói có một cán bộ lãnh đạo ông không
ưa, đến chúc Tết ông, ông mở cửa sổ nhìn xuống nói: “Nguyễn Tuân đi vắng”,
rồi đóng sập cửa lại...Nguyễn Văn Hạnh muốn đến ông, nhưng cũng ngại... Vậy
mà đối với tôi, ông tỏ ra rất dễ dãi. Ông cho phép tôi đến ông lúc nào cũng
được, không cần báo trước, miễn là đến sau 10 giờ sáng. Trước giờ đó, ông có
thói quen đi dạo mấy vòng ngoài phố, 10 giờ thì về ăn cơm.
Có điều này, ông nói tôi mới biết: Anh Lý Hải Châu, giám đốc Nhà
xuất bản Văn học đề nghị hai người làm Tuyển tập Nguyễn Tuân, tuỳ nhà văn
quyết định. ấy là Vũ Ngọc Phan và tôi. Nguyễn Tuân đã chọn tôi. Tất nhiên tôi
197
rất cảm động, nhưng vinh dự này cũng đặt lên vai tôi một gánh nặng: phải chọn
lựa tác phẩm và nhất là phải viết bài giới thiệu sao cho xứng đáng với sự tín
nhiệm của ông.
Bài viết chỉ có hơn 60 trang (in chữ nhỏ), mà tôi đã phải viết trong hơn
sáu tháng. Rất may đã được Nguyễn Tuân cho là được. Ông chỉ nói vắn tắt “Tôi
không có ý kiến gì khác”.
Tuyển tập Nguyễn Tuân gồm hai cuốn, xuất bản năm 1981, 1982.
Ngày 29 – 5 – 1982, Nguyễn Văn Bổng, hồi đó làm tổng biên tập tuần
báo Văn nghệ, tổ chức một cuộc toạ đàm về Tuyển tập Nguyễn Tuân ở trụ sở
Văn nghệ. Hôm ấy có mặt Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Tế Hanh, Phạm Hổ, Lý
Hải Châu, Lê Khánh,Từ Sơn, Ngọc Trai, Nguyễn Bao, Thiếu Mai... và tôi.
Tôi nhớ hôm ấy, Xuân Diệu nói: “Nghe nói văn Chùa Đàn rất hay,
nhưng không có trong Tuyển tập. Phải trích vài trang Chùa Đàn cho người ta
biết mặt mũi tác phẩm này chứ. Tại sao không cho người ta có cái thú đọc văn
hay nhỉ! Qua Tuyển tập, tôi mới hiểu được anh Nguyễn Tuân. Tại sao lại cứ đòi
văn phải có ý nghĩa. Trai gái nó hôn nhau thì cần gì ý nghĩa. Sự sống có ý
nghĩa gì đâu. Tôi rất thích truyện “Một vụ bắt rượu lậu”. Dân mình thông
minh, hóm thật đấy. Xưa tôi đã từng làm đoan, tôi cũng đã từng đi bắt rượu lậu
mà không biết.”
Hôm ấy, Nguyễn Tuân rất vui. Ông phát biểu rất hào hứng: “Hiện nay
có một Tuyển tập Nguyễn Tuân ở California, một cuốn ở Paris, một cuốn ở Sài
Gòn, tôi tặng tướng Trần Văn Trà do bài hồi ký của ông ta.”
Hôm ấy, ông cũng nói công khai về việc chọn tôi làm Tuyển tập: “Vũ
Ngọc Phan hồi xưa làm báo Revue Franco – Annamite, đi xe nhà, làm cái “Nhà
văn hiện đại" chữ nghĩa chằn chẵn ra, chẳng có trouvaille gì, gọi là cái
catalogue St étienne littéraire. Có vẻ accadémique. Giữa hai người, chọn
Nguyễn Đăng Mạnh còn đỡ hơn”.
Ông phê bình việc cắt xén truyện Rượu bệnh tôi trích và đổi tên là Bố
Ô: “Trích như thế làm cho không còn có tính chất yêu ngôn nữa, đó là
fantaisiste và fantastique kia mà, lão Bố Ô còn huýt sáo, còn có chuyện cháy
nhà...
Tôi còn có truyện Thạch tinh, không nhớ đăng báo nào: một anh ăn
chơi, bị sỏi thận. Đêm, hai viên sỏi thận (thành tinh) nói chuyện với nhau,
người đó nghe được”.
Ông nói tiếp: “Còn Như Phong, còn Mao, thì không thể có Tuyển tập
Nguyễn Tuân. Ông Như Phong có lần nói, văn Nguyễn Tuân để cho người hút
thuốc phiện và hát ả đào đọc. Tôi giận lắm. Tôi bảo Như Phong: “Tôi giận anh
lắm, thế trước cách mạng, tôi hút, anh cũng hút. Thế có phải lúc đó vì đọc sách
của tôi mà anh hút không?”
Ông Vũ Đức Phúc rất ghét văn tôi, vậy mà gần đây ông ấy phải viết
khen văn tôi. Nhưng mà sau khi khen ông ấy lại sợ người ta hiểu sai, đề cao tôi
quá, lại nói Nguyễn Tuân không phải là nhà văn lớn. Nào tôi có muốn là nhà
văn lớn đâu, tôi chỉ mong làm một nhà văn trung bình, viết về cái gì mình thích,
198
thế thôi.
Hồi Tạp chí Văn hoá – Nghệ thuật có phân ra các ban về văn hoá: ăn,
mặc, ở. Hà Huy Giáp bảo tôi: Anh hay chú ý về cái ăn, vậy anh suy nghĩ xem có
cái gì viết, tìm ra lý luận gì về ăn uống. Tôi viết về giò chả. Ông Vũ Đức Phúc
phê phán là phục vụ bọn phe phẩy mặc áo phin nõn, áo nilông. Sau có chuyện
mậu dịch ta bán phở, thế là phục vụ phe phẩy à?
ở Hàng Buồm có quán Bạch Ngọc cơm tám giò chả rất ngon, mở từ
thời xưa, có thanh toán hết nợ cũ (tháng trước) thì mới bán tiếp. Bà chủ quán
bảo tôi: “Ông ăn uống mãi mà ông dại. Người ta ăn gấp mấy ông nhưng không
nói. Ông ăn, ông nói, nên ông chết”.
Lúc ấy có một anh nhiếp ảnh của báo Nhân dân đến chụp. Nguyễn
Tuân lại chuyển sang nói về chụp ảnh: “Camus nói, le photographe, c’est
l’histoire de l’instant. Có người lại ví quay phim là lia một băng liên thanh, còn
chụp ảnh là lẩy phát một. Chụp ảnh là làm một việc rất thiện ý mà người ta khó
chịu”.
Cuối cùng ông lại quay về chuyện Tuyển tập. Ông nói: “Cái người đàn
bà không đẻ được nữa, người ta gọi là tắt kinh, còn nhà văn không viết nữa,
già, hết thời, tôi gọi là đến thời kỳ “tuyển hồi” (viết hồi ký và làm tuyển tập). In
tuyển tập tập I là un pieds dans la tombe rồi, in tập II thì là đưa cả hai chân...”
Từ sau chuyện Tuyển tập, thấy Nguyễn Tuân dễ dãi với mình, tôi thỉnh
thoảng lại đến ông. Tuy vậy lần nào đến cũng phải kiếm một cớ gì đấy, gọi là có
việc, chứ không phải đến chơi suông.
Hôm ấy, nhân nghe nói, ông có những nhận xét rất ác về giới phê bình
văn học, tôi đến ông để dò hỏi về điều này. Quả là ông không mấy lạc quan về
tình hình phê bình văn học.
Ông nói: “Nước mình không qua tư bản chủ nghĩa, người ta thấy có
trở ngại về kinh tế, song chưa thấy trở ngại về tư tưởng. Lão Khổng Tử ghê
gớm lắm!
Phê bình hiện nay cứ có lối aurait écrire, lối conditionnel. Vào hàng
phở lại đòi ăn cơm và phê bình không nấu cơm, lẽ ra nấu cơm thì sẽ ... hay hơn.
Thành ra để tránh conditionnel, người viết phải dùng toàn inpératif hay
infinitif.
Tây phương nó đòi dân chủ, bàn đã khá triệt để, đòi được tự do, được
quyền phạm sai lầm, revendiquer le droit de l’ erreur. Không phải để làm bậy
đâu mà đòi một cái marge cho tự do tìm tòi. Nếu bắt phải đúng thì ai dám tìm
tòi. Mà sao phạm sai lầm lại là độc quyền của một số người!
Trong lịch sử ta đã có lúc giương lá cờ độc lập tự do để tập hợp nhân
dân, nhưng không mấy khi dám giương riêng lá cờ dân chủ.
On trouve quand on cherche. Quand on cherche, on trouve quelque
chose. Khi người ta tìm có thể không tìm ra cái định tìm, nhưng nhất định tìm
ra cái gì đó, một cái khác với dự định.
Hiện nay đang hình thành một thứ provincialisme, một thứ chủ nghĩa
tỉnh xép trong quan niệm, trong tình thần lãnh đạo.
199
Người ta phê bình Tình rừng của tôi cũng theo lối aurait écrire.
Còn cuộc tranh luận chung quanh thể ký thì cứ cãi nhau ký với cấu, ký
không cấu, đúng là trò cười.
Về Vũ Trọng Phụng thì tôi biết, chả có trốt – kít gì cả đâu. Hồi ấy viết
lách lung tung lắm.
Hiện nay người ta ách nhiều thứ quá. ách truyện ngắn Gogol, ách Le
Rouge et leNoir, ách Guy de Maupassant, Le Boule de suif, định dịch Le steppe
sau lại thôi. ách cả La peau de chagrin... Phê bình thì theo kiểu aurait écrire.
C’ est une gratuité. Tôi ghét nhất loại chính thống orthodoxe mà lại giả vờ thắc
mắc, để do thám, aux écoutes người khác. ách Miếng da lừa vì cho là chủ nghĩa
sống gấp. ách Le Rouge it le Noir vì cho rằng ông cha ta, vợ chồng ngủ với
nhau cũng khăn áo chỉnh tề, nay nó lại dám cởi quần áo ra thì láo quá!
ở ta, một mặt khuyến khích réalisme, mặt khác lại tránh cái réel. Tạo
ra một thứ littérature abstraite, hình như không đúng phương pháp nghệ thuật.
Chỉ nói ý, không có hình tượng thật. Theo tôi cần làm một essai có hệ thống về
vấn đề này.
Tôi thấy cần chuyển câu chuyện sang hướng khác, và muốn tìm hiểu
xem khuynh hướng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân như thế nào khi đọc các sách vở
ngoài nước (từ 1945 đến 1975, sách vở nước ngoài vào nước ta chủ yếu là sách
Liên Xô, Trung Quốc)
Nguyễn Tuân tỏ ra có tình cảm với văn học Nga hơn. Ông nói, thích
Gogol, Tchékhov, thích Le Manteau. Thích Paoutovsky. Cuốn Histoire d’ une
vie, sáu tập của Paoutovsky có đoạn văn rất tuyệt: trên tàu điện, người ta phân
phát cho mỗi người một bông hoa. Một đoạn văn có cái lyrisme rất hay.
Nguyễn Tuân rất ghét lối phê bình văn học kiểu Mao-it của Tầu lúc
bấy giờ. “Cuốn Ballade d’un soldat nói về một anh lính lúc đầu nhát, sau có
thành tích. Họ phê phán: “Sao lại đưa ra một anh lính nhát”. Tra từ điển
Larousse, tôi thấy nó định nghĩa: le courage, c’ est triompher la peur. Không
phải can đảm sinh ra đã có, phải có quá trình chứ. Người ta không thích quá
trình, cứ phải sinh ra đã can đảm rồi.
Chung quy là do thiếu văn hoá. Thiếu văn hoá thì sinh ra hẹp hòi. Đó
cũng là tư tưởng của phong kiến và của nông dân”.
Một lần khác, vào đầu tháng 11 năm 1986, tôi lại đến thăm Nguyễn
Tuân. Nhân đang làm tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tôi muốn hỏi ông một vài chi
tiết cụ thể về nhà văn này mà tôi biết ông rất quý. Ngoài ra muốn ông viết cho
một bài về Vũ Trọng Phụng để in vào Tuyển tập.
Lúc tôi đến, ông đang nằm xem sách. Ông ngồi dậy, có vẻ mệt mỏi.
Trên bàn thấy có một mâm cơm rất đạm bạc. Một bát cơm ăn dở. Vài miếng
dứa trên một cái đĩa.
Tôi hỏi ông về ngôi nhà của Vũ Trọng Phụng ở Cống Mọc, Vũ Trọng
Phụng chết ở đó. Tôi nói anh Vũ Đình Liên cho tôi biết đó là một ngôi nhà lá.
Nguyễn Tuân cau mặt:
- Tôi ghét cái anh Vũ Đình Liên. Nhà ở Chợ Đuổi, chả biết vợ con xích
200
mích thế nào, không ở được với nhau, cứ đến ở nhà Vũ Trọng Phụng. Đúng là
một anh thần kinh!
- Tôi ghét anh Vũ Đình Liên. Tôi biết hồi trước anh ta có chơi bời gì
đâu. Thế mà cứ nói dối là ngày xưa tôi cũng chơi bời cô đầu, cô đít, ra vào tiệm
ăn, tiệm hút... Giống như cái anh Vũ Ngọc Phan. Hay gì, đẹp đẽ gì cái đó mà
cũng phải nói dối, cứ “hư cấu” ra làm cái gì.
Ông lắc đầu, để tay lên ngực; “mùa rét, mệt”. Ông lấy một miếng dứa
ăn tự nhiên, uống một hớp rượu trong cái ly uống sâm banh – ly tròn có chân.
- Tôi đã viết trong bài đăng ở Tao đàn: Vũ Trọng Phụng chết ở ngôi
nhà ngay ngoài phố, gần Cầu Mới, chỗ Ngã Tư Sở, đường Hà Nội – Hà Đông.
- Tôi hỏi: Vũ Trọng Phụng có hút thuốc phiện?
- Có, Vũ Trọng Phụng có hút thuốc phiện, để kéo dài cuộc sống, vì anh
ta bị ho lao. Có đem bàn đèn về nhà.
- Bác quen Vũ Trọng Phụng từ hồi nào?
- Không nhớ.
- Từ hồi còn ở Hàng Bạc?
- ờ.
- Bác có đến chỗ ở cuối cùng của Vũ Trọng Phụng và có đưa ma Vũ
Trọng Phụng?
- Có. Tôi không thể nào nhầm, nhầm thế nào được! Tôi ghét cái anh
Vũ Đình Liên...
Tôi tranh thủ chuyển sang hỏi ông cái điều mà tôi luôn trăn trở:
“Người ta hay nói về phong cách Nguyễn Tuân. Nhưng bác lại ít nói về phong
cách. Quan niệm của bác về phong cách là thế nào?
Nguyễn Tuân ngồi im lặng, vẻ mặt như sắp nói một điều gì đã có quan
niệm rất rõ, Nghĩa là sắp phát biểu một tuyên ngôn rành mạch. Một lát, rồi ông
chỉ tay ra trước mặt, nói chậm rãi:
- “Những người viết mà được chế độ này chấp nhận, hay hay dở chưa
biết, nhưng được chế độ này chấp nhận về thế giới quan, nhân sinh quan. Trên
cơ sở cái nhân sinh quan, thế giới quan chung ấy, mỗi người lại có một cái
nhỡn quan riêng, tiếng Pháp gọi là vision. Đó là cái đẻ ra phong cách. Vì cái
đó mà anh thì thích tả gió, tả nắng, anh thì thích tả mây, tả mưa, người có sở
trường này, người có sở trường nọ. Rồi cách đưa vấn đề cũng khác nhau... Nó
đẻ ra tất cả.
Văn học có cái rất vui là phong cách, cách nói, cách quan niệm về
nghệ thuật khác nhau. Anh giảng dạy lại không đi vào đấy, chỉ nói về nội dung,
về tư tưởng nên trở thành nhạt nhẽo vô duyên. Tại anh thôi, cái chỗ phong phú
nhất, vui nhất, “xôm” nhất anh lại đếch đi vào nên người ta chán”.
Như đã nói, lúc này tôi đang làm Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (1986).
Vì thế tôi thử dò ý xem Nguyễn Tuân có muốn viết gì cho tuyển tập này không.
Ông lắc đầu nói, giờ không viết gì được nữa.
Tôi nói có ý định làm một cuốn sách gọi là “Việt Nam, đất nước,
phong tục, con người qua các trang văn của Nguyễn Tuân”. Ông tán thành và
201
nói cứ làm đi.
Tôi lại hỏi ông, vì sao Tờ hoa bị phê phán? Ông Hoài Thanh, anh Chế
Lan Viên cho là ông ám chỉ sai lầm của cải cách ruộng đất?
Nguyễn Tuân nói:
- Vì ông Trường Chinh không thích nên tất nhiên là họ cũng không
thích.
Tôi gợi ý:
- Tờ hoa chỉ có cái chi tiết con ong bị đập, nó đốt lại thế thôi.
Nguyễn Tuân nói:
- ờ. Còn cái này nữa: con bướm – Con bướm cánh phấn sặc sỡ, đẹp
như những khẩu hiệu. Nhưng mà chả ai nói đến mật bướm cả. Còn con ong nó
rất hiền, nhưng đập nó, trêu ghẹo nó thì nó mới đốt cho.
Ông Trường Chinh không thích. Ông ấy nói với tôi như thế ở một cuộc
hội nghị văn nghệ gì đó trước giờ khai mạc. Ông ấy và tôi cùng ngồi chủ tịch
đoàn. Ông ấy nói: “Đả thằng phi công Mỹ thì anh viết mới được, nhưng tôi
không thích bài Tờ hoa của anh”.
Tiếp xúc nhiều với Nguyễn Tuân, tôi thấy ông không nói yêu ai, mến
ai bao giờ. Điều này trái hẳn với Xuân Diệu. Qua các bài viết của ông, tôi biết
ông rất quý Ngô Tất Tố, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Nguyễn Văn Bổng, Lý Hải Châu... Quý nhưng không thích nói ra
miệng. Theo anh Lý Hải Châu, ông cũng rất quý bác sĩ Trần Hữu Tước. Khi
Trần Hữu Tước mất, ông nói: “Sao những người tử tế thì chết, mà mấy thằng
đểu giả mất dạy thì cứ sống mãi!”.
Nguyễn Tuân đặc biệt rất quý Nguyên Hồng. Hôm làm lễ truy điệu
Nguyên Hồng ở Hà Nội (ngày 11 – 8 – 1982, tại 51 Trần Hưng Đạo), tôi được
chứng kiến tận mắt Nguyễn Tuân thương tiếc Nguyên Hồng như thế nào. Từ
hàng ghế quãng giữa hội trường, ông chống gậy lọm khọm đi lên phía sân khấu.
Ông khóc mãi không nói được.
Một lúc sau mới chậm rãi thuật lại một số kỉ niệm của ông với Nguyên
Hồng. Ông kể lại cái lần gặp Nguyên Hồng trên một chuyến tàu Hà Nội – Nam
Định. Nguyên Hồng được phóng thích từ Căng Bắc-Mê ra, còn ông thì bị đưa ra
đối chất với một số người bị bắt rồi cũng sẽ bị đưa đi tù. Một người ra tù, một
người vào tù. Ông nói với Nguyên Hồng: “Anh là người chuyên tô tượng đúc
chuông, còn tôi thì chuyên phá đình phá chùa”.
Cả hai cùng đi tù. Chi tiết này mấy anh ở Liên Xô không hiểu: sao
khác quan điểm mà đều bị tù? Tôi có đưa chi tiết này vào bài tựa viết cho tập
truyện ngắn của Nguyên Hồng in ở Liên Xô. Chính cái chuyện viết bài tựa này
cũng là một kỉ niệm khó quên. Ông nói: “Hôm ấy tôi hứa viết xong bài, nhưng
rồi lỡ hẹn. Bẩy giờ sáng, anh con trai Simonov dựng tôi dậy, bắt ra xe đến chỗ
làm việc. Anh ta nói: “Chúng ta chỉ đi ăn trưa khi nào viết xong bài tựa”. Cách
làm việc như sau: Tôi nói, một người dịch, một người đánh máy. Vì Nguyên
Hồng mà lần đầu tiên tôi phải làm việc như thế đấy.”
Ông nói tiếp về Nguyên Hồng:
202
“Người ta có bốn cái khổ: sinh, lão, bệnh, tử. Nguyên Hồng bỏ qua hai
khâu lão, bệnh, đi thẳng từ sinh đến tử. Ai dám bảo Nguyên Hồng là lão. Văn
còn trẻ lắm!
Trước khi giác ngộ cộng sản, Nguyên Hồng theo đạo. Anh tin thiên
đường ở trên trời, dưới đất chỉ có khổ não và tội lỗi. Sau này giác ngộ cách
mạng, anh biết thiên đường có thể có trên mặt đất này. Nói đến đấy, ông dừng
lại và bỗng hô to: “Hồng ơi! Hãy yên nghỉ! Hồng ơi! Hãy yên nghỉ”. Ông vừa
nói vừa khóc.
Nguyễn Tuân cũng rất quý Ngô Tất Tố. Ông đã viết một bài ca ngợi
hết lời tiểu thuyết Tắt đèn và nhận đóng vai Chánh tổng trong phim Chị Dậu.
Theo Nguyên Ngọc, Nguyễn Tuân đóng phim Chị Dậu chẳng qua vì có tình với
Ngô Tất Tố. Lúc ấy ông yếu lắm. Tuy chỉ đóng một thoáng thôi, nhưng phải đi
ngựa (phim quay ở đình Đồng Kỵ). Đêm trước ông bị sốt. May, sáng hôm sau
khỏi, ông lại uống rượu rất vui.
Nguyễn Tuân cũng rất quý Lý Hải Châu. Hồi làm giám đốc Nhà Xuất
bản Văn học, Lý Hải Châu đã đấu tranh cho việc làm Tuyển tập Nguyễn Tuân,
Xuân Diệu... Anh Châu làm tình báo cách mạng từ trước 1945, đã từng bị thực
dân kết án tử hình. Anh là một trí thức rất có bản lĩnh. Tôi nhớ khi Tuyển tập
Nguyễn Tuân được xuất bản, Nguyễn Tuân nói: “Không có Lý Hải Châu thì
không thể có Tuyển tập Nguyễn Tuân”.
Nguyễn Tuân cũng có cảm tình với Nguyễn Văn Bổng và Hoàng Phủ
Ngọc Tường. Ông khen Hoàng Phủ Ngọc Tường viết được, có văn hoá.
Nguyễn Tuân cũng rất quý ĐTM. Nhưng ông không đánh giá cao
ĐTM về tư cách nhà văn. Hồi ông vào Đại học Sư phạm Vinh sơ tán ở Thạch
Thành, Thanh Hoá, ông nói với tôi: “Anh ĐTM là người tôi rất quý. Nhưng nếu
có ai hỏi, ĐTM có những tác phẩm gì, thì tôi lúng túng quá!”. Tôi để ý thấy
Nguyễn Tuân tỏ ra rất thích thú câu tâm sự rất riêng này của ĐTM vì ông nhắc
lại với tôi hai lần: “Tôi là thằng đàn ông biết độc có một cái l”. (ĐTM nói tiếng
Pháp: je suis un homme d’ un seul vagin). Nguyễn Tuân nói xong cười thích
thú, cuống mũi nhăn lại, cái mũi đã to, càng to hơn trên bộ ria Hoa Kỳ rất
Nguyễn Tuân.
Đối với Tố Hữu, một mặt ông không quên cái việc nhà thơ đã đánh giá
cao uy tín của ông đối với giới văn nghệ. Sau cách mạng tháng Tám, được Đảng
gọi ra Hà Nội lãnh đạo văn nghệ, người đầu tiên Tố Hữu thấy cần phải gặp là
Nguyễn Tuân và đến năm 1948 thì đưa ông lên làm tổng thư ký Hội Văn nghệ
Việt Nam. Ngoài ra Tố Hữu cũng là người giới thiệu ông vào Đảng. Dù sao ông
cũng không quên thiện ý ấy. Vì có lần tôi hỏi ông về Tố Hữu, ông nói: “Tố Hữu
là người đỡ đầu cho tôi về tư tưởng” (ông nói tiếng Pháp: parrain idéologique).
Và trong liền mấy năm, cứ vào dịp đầu xuân, ông lại gửi cho Tố Hữu một cái
thiếp chúc tết (bonne année) có in nghiêng một cành hoa tím (Tố Hữu có làm
một bài thơ gọi là Hoa tím tặng Nguyễn Tuân in trong tập Gió lộng). Nhưng về
sau, bẵng đi, Nguyễn Tuân không gửi nữa. Tố Hữu buồn lắm, nhờ Hà Xuân
Trường hỏi xem. Hà Xuân Trường nhờ Hoàng Ngọc Hiến. Nhưng Hiến ít có
203
quan hệ với Nguyễn Tuân nên lại nhờ tôi. Rất tiếc là tôi quên mất.
Đầu năm 1987 (1.1.1987), trong một cuộc liên hoan nhẹ ở Nhà xuất
bản Tác phẩm mới (65 Nguyễn Du), tôi có được dự, Nguyễn Tuân kể chuyện
vừa đến thăm Tố Hữu (lúc này Tố Hữu đã mất hết mọi chức vụ). Ông nói: “Văn
bây giờ chỉ viết về tương lai hay quá khứ thôi. Hiện tại không viết. Chỉ viết cái
lẽ ra nên như thế. Vì thế không thấy cái xấu, chỉ thấy cái tốt. Chỉ viết toàn cái
tốt là không tốt. Tôi nói thế với anh Lành, anh ấy cũng tán thành.
Ông Tố Hữu phải có một phen bị quật hẳn xuống như thế ông ấy mới
tỉnh ra, ông ấy phải rơi xuống như bọn mình thì mới thấy khác. Hôm tôi đến
thăm, ông ấy mừng lắm, vui lắm, tiễn tôi mãi ra xa. Tôi xua tay bảo ông về và
hỏi: “Cây táo của anh còn không? Cây táo ông Lành còn không? Cho tôi xin
mấy quả. Người ta nói cây táo có ma nên không có quả?”.
Tố Hữu cười một cách đau khổ - Nguyễn Tuân nhận xét một cách hóm
hỉnh.
Nguyễn Tuân yêu ai, quý ai thì không thích nói ra, nhưng ghét ai thì
nói thẳng, nói công khai, không chút dè dặt. Mà đã ghét thì thường phát ra
những câu rất ác.
Những người ông ghét khá nhiều. Theo tôi được biết, ấy là : Như
Phong, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông, Phùng Bảo Thạch, Hoài Thanh, Vũ
Đình Liên, Vũ Ngọc Phan, Bùi Huy Phồn, Vũ Đức Phúc, Nam Mộc, Phan Cự
Đệ, Anh Thơ, Huy Cận, Hoàng Văn Hoan, Trường Chinh...
Nhưng theo tôi, chỉ kể trong số người viết văn, ông ghét nhất ba người:
Như Phong, Hoàng Trung Thông và Chế Lan Viên.
Như Phong chết rồi, ông còn gọi là thằng mặt lợn.
Ông ghét Hoàng Trung Thông kể ra cũng dễ hiểu. Thông có thời gian
làm Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật và từng quy chụp chính trị nhiều tác phẩm của
Nguyễn Tuân .
Tôi đã chứng kiến Nguyễn Tuân nổi nóng và đã chửi Hoàng Trung
Thông như thế nào khi tôi tìm được nguyên bản Bữa rượu máu để đưa vào
Tuyển tập Nguyễn Tuân.
Vào năm 1973, tôi từng được nghe Hoàng Trung Thông và Lưu Quý
Kỳ nói chuyện về một hiện tượng mà các anh gọi là luồng gió đen hay luồng
gió độc gì đó thổi vào nền văn học miền Bắc nước ta, trong đó có những bài
Tình rừng, Giò lụa... của Nguyễn Tuân.
Nhưng Hoàng Trung Thông vẫn phục tài Nguyễn Tuân. Và khi về già,
cũng muốn có mối quan hệ tốt với ông. Năm 1986, Thông đăng trên Văn nghệ
bài “Anh Nguyễn Tuân”, một bài thuộc loại chân dung văn học. Thông lấy làm
đắc ý lắm. Anh nói với tôi: “Anh là nhà nghiên cứu, anh viết khác. Tôi là người
sáng tác, tôi viết khác”.
Tôi chắc Hoàng Trung Thông nghĩ rằng bài ấy Nguyễn Tuân có xem
và không ghét mình nữa, nên Tết năm ấy (1987) anh bảo con đèo đến chúc Tết
Nguyễn Tuân. Chẳng ngờ Nguyễn Tuân không tiếp.
Nghe nói Hoàng Trung Thông đã khóc.
204
Biết chuyện này, tôi bèn tìm đọc bài viết của Hoàng Trung Thông xem
thế nào. Tôi thấy viết như thế Nguyễn Tuân ghét là phải. Đại khái bài viết có
những câu như thế này: Anh nói Thiếu quê hương,”song chúng ta làm gì mà
phải đến nỗi thiếu quê hương”, “có những lúc tưởng như anh xa rời Đảng, rồi
anh lại gắn chặt với Đảng. Vì anh biết rằng anh không thể xa rời Đảng được”,
“Anh đã viết Tình rừng, dẫu rằng những bài văn đó có đôi chỗ sai sót, nhưng
trong đó vẫn đầy rẫy những tâm tình về sông nước, con người”, “Tôi biết có
lúc Nguyễn loạng choạng, nghiêng ngả. Nhưng khi anh vịn vào từng câu, từng
trang văn, anh đứng thẳng dậy, rồi anh đi, đi đàng hoàng và có lúc đi nghênh
ngang nữa để cùng với những bạn văn của mình đi đến đỉnh cao của văn
chương Việt Nam”...
Đúng là có giọng tuyên huấn! Vẫn viết theo giọng tuyên huấn!
Ngoài ra, Nguyễn Tuân còn ghét điều này nữa ở bài viết ấy: nguyên là
ngày xưa, có một lần Nguyễn Tuân, Hoàng Trung Thông về Đông Anh cùng
với vợ chồng Nguyễn Hồng Phong – Ngọc Trai. Phong quê ở Đông Anh. Đêm
ấy họ đi xem một đoàn cải lương Nam Bộ biểu diễn vở gì đó ở bên cạnh thành
Cổ Loa.
Nguyễn Tuân nhớ gần đó có làng Quậy – rượu Quậy rất ngon – quê
một đào hát ông đã quen rất lâu. Họ bèn đến hỏi thăm thì được biết cô đào ấy đã
thắt cổ tự tử rồi vì bị quy là phản động gì đó trong cải cách ruộng đất. Buồn
quá! Họ uống rượu, rượu rất ngon, đúng là rượu Quậy. Nguyễn Tuân vừa uống
vừa khóc, vừa hát đi hát lại bài hát rất buồn của Đặng Thế Phong: “Ngoài hiên
giọt mưa thu thánh thót rơi...”
Trong bài viết của mình, Hoàng Trung Thông có đưa chuyện này vào.
Nhưng Nguyễn Tuân cho là anh đã diễn đạt không đúng tâm sự của mình lúc ấy
nên càng ghét: “Mình buồn cho những kiếp người chịu oan khuất, buồn cho
đời. Nó lại viết như mình khóc nhân tình vậy” – Chị Ngọc Trai nói lại với tôi
như thế.
Nguyễn Tuân cũng rất ghét Chế Lan Viên.
Một lần tôi đến Xuân Diệu. Xuân Diệu bảo tôi: “Mình nghe nói
Nguyễn Tuân vừa phát biểu một câu rất hay về Chế Lan Viên”. Và anh nhắc lại
cho tôi nghe cái câu rất ác ấy. Nhưng tôi muốn biết đích xác câu nói ấy từ chính
miệng Nguyễn Tuân kia, nên tìm đến ông. Tôi gạ chuyện: “Vừa rồi anh Xuân
Diệu cho tôi biết bác có nói một câu gì đó rất hay về Chế Lan Viên”.
Nguyễn Tuân ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Cái anh Xuân Diệu từ ngày
vợ bỏ đến giờ có khá hơn” (Cho đến nay tôi vẫn không hiểu ý nghĩa của câu nói
đó. Khá hơn là thế nào? Tại sao vợ bỏ lại khá hơn?
Nguyễn Tuân nói tiếp: “Có hai chữ thi nhân và thi sĩ. Tôi thích chữ thi
nhân hơn. Thi sĩ là chỉ anh có nghề làm thơ. Còn thi nhân thì sang và đẹp từ
bản chất con người. Chế Lan Viên không đáng gọi là thi nhân. Thi sĩ thì có thể
được bao nhiêu phần trăm đấy”. Như thế nghĩa là, theo Nguyễn Tuân, Chế Lan
Viên cũng chưa được coi là thi sĩ trăm phần trăm.
Ông tiếp tục: “Một hôm tôi đi vào phòng văn thư của Hội nhà văn. Tôi
205
đi vào đúng lúc Chế Lan Viên đi ra. Hình như anh ta đến để lấy vé máy bay đi
vào Sài Gòn. Anh giơ tay bắt tay tôi. Tôi không bắt. Chế Lan Viên ra rồi, các cô
văn thư hỏi tôi: “Sao bác không bắt tay anh ấy? Tôi hỏi lại: “Thế các vị có biết
vì sao có tục bắt tay không? Các cô không biết. Tôi nói: Ngày xưa ở phương
Tây, hai người tin cậy nhau, không mang theo vũ khí, họ bắt tay nhau. Tôi
không bắt tay anh Chế Lan Viên vì anh ấy trong người có hàng bồ dao găm”.
Ông lại nói tiếp một chuyện khác: “Anh Chế Lan Viên ở trong Nam
bắn tin ra ngoài này cho tôi, không hiểu sao, anh Nguyễn Tuân cứ thấy tôi là
lảng tránh không muốn gặp. Hôm ấy họp chi bộ, tôi nói với cô Lê Minh là bí
thư: “Cô ghi lại rồi bắn tin cho anh Chế Lan Viên hộ tôi: “Đúng là tôi tránh
mặt anh ấy thật. Lý do là tôi đã già rồi. Người già tính khí bất thường. Tôi sợ
gặp anh ấy, lỡ tôi nổi nóng lên, tát cho anh ấy một cái thì làm thế nào. Đồng
chí với nhau mà tát nhau thì phải kiểm điểm thôi”.
Nguyễn Tuân ghét Vũ Ngọc Phan vì, cũng giống như Vũ Đình Liên,
vốn xưa sống khuôn phép như một anh viên chức, thế mà bây giờ cứ nói là hồi
Pháp thuộc mình cũng chơi bời dữ lắm (Tô Hoài cho là Vũ Ngọc Phan không
dám chơi bời vì sợ Hằng Phương). Tô Hoài còn cho biết một lý do khác: ngày
trước túng tiền, Nguyễn Tuân thường đến vay Vũ Ngọc Phan nhưng từ khi đi tù
về (khoảng 1941, 1942, Nguyễn Tuân bị bắt giam ở Căng Nho Quan), Phan
không cho vay nữa. Nguyễn Tuân sai con trai là Toản đến vay, Vũ Ngọc Phan
từ chối. “Nó sợ liên quan đến thằng tù dây đây mà!” - Nguyễn Tuân nói thế.
Ông cũng rất ghét Phùng Bảo Thạch. Thạch chết, Nguyễn Tuân không
đến viếng. Thạch là tay thân Nhật, Nguyễn Tuân cho ẩn náu ở nhà riêng tại Ngã
tư Sở (ông gọi là Am Sông Tô). Vậy mà Thạch đã làm cho ông bị tù. Vì chứa
Thạch nên cũng bị coi là thân Nhật. Thạch bị bắt, bị tra hỏi, đã khai là Nguyễn
Tuân đang nằm ở xóm hát Khâm Thiên và đưa mật thám đến bắt. Nguyễn Tuân
vừa buông màn ngủ thì bị gọi dậy, còng tay luôn.
Ông cũng không ưa Phan Cự Đệ. Có lần ông nói với tôi: “Nghe nói
anh Phan Cự Đệ làm Tuyển tập Nguyên Hồng, tôi buồn quá!”.
Hoài Thanh cũng bị nhiều nhà văn không ưa. Nguyễn Tuân cũng vậy.
Ông gọi Hoài Thanh là thằng nịnh. Hồi Hoài Thanh ốm nặng, Nguyễn Tuân nói,
tôi định đến thăm Hoài Thanh để nhắc lại lời ông ta nói khi đi Trung Quốc về:
Mao Trạch Đông có một cái nốt ruồi rất lớn ở cằm, đúng là tướng đế vương.
Còn Anh Thơ thì Tô Hoài kể chuyện này. Một lần Nguyễn Tuân và
Anh Thơ cùng đi công tác ở Lai Châu. Hồi ấy không sẵn khách sạn như sau
này, còn hoang vu lắm. Lại vào lúc mưa to gió lớn. Người ta kiếm được một cái
phòng đưa hai người vào nghỉ. Tất nhiên mỗi người một giường. Nhưng Anh
Thơ nhất định không chịu, vì sợ... Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân rất bực và chắc
cũng ngượng nữa. Khi về Hà Nội, gặp lại trong một cuộc họp, Nguyễn Tuân nói
vào mặt Anh Thơ: “Bà làm như tôi chực hiếp bà hay sao!”.
Còn Nam Mộc? Nam Mộc từng viết một bài về tập Tuỳ bút Sông Đà
của Nguyễn Tuân. Tay này có vết về chính trị nên lên gân lên cốt ghê lắm. Nam
Mộc phê Nguyễn Tuân trong Sông Đà là “ngựa quen đường cũ”, chưa dứt bỏ
206
được những căn bệnh cũ như chủ nghĩa xê dịch, tư tưởng hoài cổ, rồi nào là
buồn rớt, nhắm nháp thiên nhiên... Tôi chắc Nguyễn Tuân ghét Nam Mộc lắm
nên có lần nói với tôi: “Thằng cha Nam Mộc, vợ nó bỏ là phải lắm!”. Ngoài ra
có chuyện này nữa, nhiều người biết: một lần kia, Nguyễn Tuân bệnh nặng phải
cấp cứu ở bệnh viện Việt Xô. Người ta đưa ông vào một phòng bệnh, đã có
Nam Mộc ở đó. Nguyễn Tuân không chịu ở chung với Nam Mộc, nhất quyết từ
chối không vào: “Hoặc tôi đi chỗ khác, hoặc Nam Mộc phải đi”.
Bệnh viện đành phải giải quyết theo nguyện vọng của ông.
Có một điều này, cho đến nay, tôi vẫn chưa hiểu được: gia đình
Nguyễn Tuân ngày xưa ở Thanh Hoá rất lâu. Cụ Tú Lan làm việc ở Toà sứ
Thanh Hoá rồi nghỉ hưu luôn ở đó. Nguyễn Tuân có thời gian bị giam giữ, quản
thúc ở Thanh Hoá. Có lúc làm thư ký ở nhà máy đèn, đồng thời làm thông tín
viên cho báo Trung Bắc Tân Văn thường trú ở Thanh Hoá. Viết văn, ông
thường ghi nơi viết là Thang Mộc ấp, tức Thanh Hoá gọi theo địa danh thời
phong kiến.
ấy thế mà có lần tôi thấy ông xử quá tệ với Thanh Hoá.
Một hôm có mấy anh ở Nhà xuất bản Thanh Hoá đánh xe ra Hà Nội
thăm Nguyễn Tuân. Họ đến Hoàng Ngọc Hiến nhờ đưa đi. Hiến chưa đến
Nguyễn Tuân bao giờ, giới thiệu tôi thay anh.
Tôi đi cùng với họ đến trước nhà Nguyễn Tuân ở 90 Trần Hưng Đạo.
Tôi bảo xe đỗ ngoài đường đợi tôi vào xem ông có nhà không. Tôi thấy ông
đang ngồi một mình ở phòng riêng. Tôi nói: “Có mấy anh ở Nhà xuất bản
Thanh Hoá muốn đến thăm bác. Họ đang đợi dưới kia. Ông xua tay: “Thôi anh
bảo họ về, tôi cám ơn”. Tôi nài thêm: “Họ có rượu ngon muốn biếu bác”. Ông
nói: “Tôi có rượu rồi, cám ơn”. Tôi lại nài thêm một lần nữa: “Họ nói muốn xin
bác cho in lại những bài bác viết về Thanh Hoá”. Ông vẫn một mực từ chối
“Được, anh cứ bảo họ, tôi đồng ý. Thôi bảo họ về đi”.
Người ta đánh xe từ Thanh Hoá ra thăm mà nhất định không tiếp. Rất
lạ!
Sau này Tô Hoài cho tôi biết , ông rất ghét Thanh Hoá. Ngày xưa ông
viết truyện Đôi tri kỷ gượng, giễu cợt lối văn bằng phẳng, thiếu cá tính của một
nhân vật tên là Mợi. Mợi là Thanh Châu, người Thanh Hoá. Nhưng Thanh Châu
thì có liên quan gì đến Nhà Xuất bản Thanh Hoá?
Nhân dịp tác phẩm Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng được tái bản, vợ chồng
Sơn – Hằng (Hằng là con gái, Sơn là con rể Vũ Trọng Phụng), tổ chức một cuộc
liên hoan ăn mừng tại nhà riêng ở Mọc Giáp Nhất (ngày 23.01.1983). Rất nhiều
nhà văn được mời tới dự: Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bùi Huy Phồn, Lưu Trọng Lư
và vợ con (vợ lạc đường không đến được), Như Phong, Hoàng Trung Thông,
Ông Lưu, nhà nhiếp ảnh từng quen biết Vũ Trọng Phụng. Bà Tuệ, vợ Nguyễn
Tuân, hàng năm đều có đi viếng mộ cụ Tú Lan, nhân tiện cũng viếng mộ Vũ
Trọng Phụng ở gần đấy. Vì thế cũng đến dự liên hoan.
Trong khi chờ đợi dọn tiệc, người ngồi trong nhà, người ở ngoài sân
trò chuyện với nhau.
207
Nguyễn Tuân nói chuyện với tôi và Bùi Huy Phồn ở ngoài sân. Ông
nói, lẽ ra kỷ niệm Vũ Trọng Phụng 70 tuổi tổ chức năm 1982, mọi người đã
đồng ý cả, nhưng Hoàng Trung Thông, Hoàng Trinh, Phong Lê, Vũ Đức Phúc
phản đối.
Nguyễn Tuân hỏi: “Phong Lê là thằng nào, tên thật là gì, tướng gian
ác có lộ ra mặt không, có phải dân Nghệ không? Vũ Đức Phúc, Phong Lê, Như
Phong đúng là cùng một băng đảng với nhau.”
Tôi ngỏ ý mời Nguyễn Tuân đến nói chuyện với học viên sau đại học.
Ông nói, ngại đăng đàn diễn thuyết lắm, sẽ trả lời sau, nhưng không hứa hẹn gì.
Ông nói với Đồ Phồn, lát nữa chỉ dự ăn một lát rồi xin về sớm, vì còn mấy đám
cưới phải đi. Vả lại sợ rượu vào nói cà khịa, phiền : “Không phải sợ nói sai mà
sợ nói đúng mới gay go. Mình là loại quý tôc lọt lưới mà!”.
Nguyễn Tuân nhìn bao quát ngôi nhà của vợ chồng Sơn – Hằng, chê
kiến trúc không ra gì. Ông cười nói: “Đã lâu không đánh nhau với ai đâm ngứa
ngáy, lại cà khịa với cái nhà này”.
Tôi hỏi thăm Nguyễn Tuân về sức khoẻ. Ông nói, chả biết trả lời ra
sao. Già rồi, khoẻ yếu không biết thế nào. Hỏi thế cứ như là nhạo, là chế giễu.
Phải hỏi như hỏi những ông thủ trưởng chứ: “Anh có khoẻ không ạ!”.
Bùi Huy Phồn hỏi về chuyện bà Chu Thị Năm (Chủ cô đầu ngày xưa,
bồ của Nguyễn Tuân). Nguyễn Tuân nói: “ấy có bà ấy kia (bà Tuệ, vợ Nguyễn
Tuân), ông hỏi thế phiền lắm. Bà Tuệ nói: “Không, ngày xưa bà Năm đến chơi,
tôi vẫn tiếp bình thường”. Nguyễn Tuân chỉ bà Tuệ: “Những cái cách mạng
cho tôi được hưởng không nhiều lắm. Được hưởng nhiều là bà này này!”.
Tô Hoài đến góp chuyện. Tôi hỏi anh đang viết gì. Anh nói, sắp in một
tiểu thuyết feuilletion cho Thiếu niên tiền phong về loài chim. Viết để cho thiếu
nhi biết về loài chim, nó sinh hoạt, làm tổ, đẻ con, nuôi con như thế nào. Mình
có một cái vốn như thế, không viết, phí.
Tô Hoài nói riêng với tôi, vì có mặt Lưu Trọng Lư: “Người ta viết có
thời, tài có thời, hồn thơ có thời, có một lúc nào đó thôi. Như ông Lư ngày xưa
làm thơ mới thì chân thật, có hồn thơ, sau này tôi cho chẳng còn nữa. Nhiều
người như thế.
Còn viết văn học sử thì không phải cứ có tài liệu nhiều mà đủ. Phải
viết có hồn. Có tài liệu và có hồn. Anh Đệ, anh Đức có tài liệu mà viết không có
hồn. Anh (Mạnh) viết vừa có tài liệu vừa có hồn. Còn bọn mới thì chả có tài liệu
gì, cứ phóng ý ra thôi”.
Nguyễn Tuân bỗng xoay ra nói về Hoàng Văn Hoan: “Hoàng Văn
Hoan có viết một bài tiểu luận về Vũ Trọng Phụng, hình như gửi cho báo Nhân
dân. Tôi có đọc rồi để đâu, tìm mãi chưa thấy. Đúng là lưới trời lồng lộng thật.
Nó chửi Kiều là ăn cắp của Tầu và cho đề cao Kiều là đề cao con đĩ. Đấy là
một tội. Tội thứ hai là nói Vũ Trọng Phụng cũng viết về đĩ. Bây giờ ai là đĩ?
Chính nó là con đĩ. Nhưng nó chết thì lại có thằng Hoàng Văn Hoan khác. Có
những thằng Hoàng Văn Hoan ở Hà Nội này, khối ra đấy, lại có chức có quyền
nữa cơ chứ!”.
208
Như Phong đến góp chuyện, nói năm 1937, hai mươi tuổi, có đến nhà
Nguyễn Tuân ở Thanh Hoá. Rồi ông nhắc đến bài thơ của Nguyễn Vỹ ví nhà
văn Annam khổ như chó. Nguyễn Tuân cười nói: “Bây giờ nên sửa lại là nhà
văn Việt Nam khổ như sư tử, sư tử bị bẻ hết vuốt, hết móng”. Rồi ông chuyển
luôn sang giọng tâm tình: “Ngày xưa, nhà văn có tình với nhau lắm, hơn bây
giờ. Cái đêm trước ngày đưa ma Phụng, không ai ngủ được. Cánh ở Gia Quất,
cánh ở nhà chú Trô Mã Mây... không ai ngủ được”.
Tôi nói với Nguyễn Tuân: “Bài Một đêm họp đưa ma Phụng bác viết
rất hay”. Ông nói: “Bây giờ không viết được như thế nữa”.
Các mâm cơm dọn ra. Như Phong, Nguyễn Tuân, Hoàng Trung Thông,
Lưu Trọng Lư ngồi một mâm, vừa nói chuyện vui, vừa khích bác lẫn nhau.
Hoàng Trung Thông nói không tán thành lời bình của Nguyễn Tuân về câu thơ
Kiều: “Bóng trăng đã xế, hoa lê lại gần”. Nguyễn Tuân nói: “Cái đó tuỳ ý mọi
người chứ, tôi không theo ai cả”.
Bỗng nhiên thấy Lưu Trọng Lư đùng đùng bỏ ra về. Hình như là do
Như Phong khen Nguyễn Vỹ thế nào đó. Lưu Trọng Lư chạnh lòng, vì do
Nguyễn Vỹ mà Lưu Trọng Lư bị mang tiếng là ăn cắp thơ của Nhật (Bài Tiếng
thu).
Lưu Trọng Lư nhất quyết bỏ về, bắt con không ăn nữa, đưa bố về ngay.
Hôm ấy chụp rất nhiều ảnh kỷ niệm.
Nguyễn Tuân rất vui tính. Bốc lên cũng hò cũng hát rất nhộn.
Theo Tô Hoài, những lúc ấy ông thường hò chèo đò hoặc hát đường
trường. Ông cũng hay diễn trò nhại giọng điệu người này người khác để giễu
cợt. (cũng chính trong buổi liên hoan ở nhà con gái Vũ Trọng Phụng ăn mừng
tái bản Vỡ đê, tôi đã được nghe Nguyễn Tuân nhại giọng Huế của một viên
chức thời Tây (Bố Hoàng Xuân Tuỳ, phán đầu toà, cùng làm việc ở toà sứ
Thanh Hoá với cụ Tú Lan, bố Nguyễn Tuân). Ông này thường nói với lớp trẻ
ngày nay: “Cạc anh giừ sưởng lẳm, cách mạng rồi cạc anh sưởng lẳm! Tui
trước làm việc với thằng Tây, khổ lẳm. Đêm nỏ còn gọi lên hỏi, có chi không? –
Dạ bẩm quan lớn, không thấy sở liêm phóng báo sang có việc chi. Thế mà nỏ
cũng xà lù mẹc. Tui bực quả, chào rồi ra về, đóng cửa đánh sầm một cải. Đấy,
thời trước làm với thằng Tây, khổ rửa!”.
Nguyễn Tuân nói xong, cười thích thú. Ông nhại giọng Huế rất đạt và
có duyên.
Lúc ấy, tôi chợt nhớ ra Nguyễn Tuân vốn là một diễn viên kịch nói có
tài từng đóng vai chính trong các vở Kim tiền của Vi Huyền Đắc và Ngã ba của
Đoàn Phú Tứ. Và đã từng được tuyển vào đoàn tài tử đi sang Hồng Kông đóng
phim Cánh đồng ma.
Nguyễn Tuân rất thích truyện tiếu lâm, tiếu lâm ta, tiếu lâm Tây. Tôi
nhớ có một hồi, ở trong nhân dân ta, phát triển rất mạnh một loại truyện vui gọi
là tiếu lâm hiện đại nhằm giễu cợt những sự việc, những nhân vật đương thời.
Nguyễn Tuân có vẻ rất thích những truyện ấy. Có lần ông kể tôi nghe một
truyện về Phạm Tuân: “Cái hôm người ta phóng con tầu đưa Phạm Tuân lên vũ
209
trụ, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt có tới dự. Một điều lạ là khi nhiên liệu
đã nổ rầm rầm mà con tầu không thấy bay lên. Các công trình sư Liên Xô chạy
đôn chạy đáo kiểm tra kỹ thuật mọi mặt đều chẳng có gì trục trặc cả. Võ
Nguyễn Giáp ngẫm nghĩ một lát rồi đề nghị cho mình đến gặp Phạm Tuân. Tuy
biết Võ Nguyên Giáp không hiểu gì về kỹ thuật, nhưng vì nể một vị đại tướng lại
là uỷ viên Bộ Chính trị Việt Nam nên họ đồng ý.
Võ Nguyên Giáp vào gặp Phạm Tuân một lát , vừa quay ra thì con tầu
đã vọt thẳng lên trời. Các vị có mặt hôm ấy hỏi tướng Giáp đã làm thế nào.
Giáp không nói, chỉ tủm tỉm cười.
Khi về nước, Lê Duẩn lập tức triệu ngay Giáp đến để hỏi. Giáp vẫn
không chịu nói. Duẩn nghiêm mặt: “Anh giữ bí mật quốc gia là đúng. Nhưng
tôi là tổng bí thư mà anh cũng giữ bí mật sao? Võ Nguyên Giáp đành phải nói
thật: “Có gì đâu, tôi thọc tay ngay vào túi quần nó. Quả nhiên thấy có mấy cái
đinh ốc nó vừa xoáy ở con tàu. Tôi quát: “Muốn sống lắp trở lại ngay!” Thế là
con tàu bay vọt lên trời”.
ông còn kể tôi nghe một truyện nữa – một truyện tiếu lâm Tây. Đó là
lần cuối cùng tôi gặp Nguyễn Tuân. Buổi sáng hôm ấy, như mọi ngày, ông có
thói quen đi dạo quanh phố xá mấy vòng rồi tạt vào Hội Nhà văn một lúc. Lúc
đó tôi nhớ đang có mặt Nguyễn Khải, Bùi Bình Thi, Xuân Quỳnh, Hà Minh
Đức và tôi. Ông đến sau, thấy tôi, ông nói, đã lâu lắm không gặp. Chính hôm ấy
ông lại nhắc lại với tôi một cách thích thú cái tâm sự rất riêng của Đặng Thai
Mai đã nói trên kia. Rồi ông kể tôi nghe một truyện tiếu lâm của Pháp: “Có một
lão giám mục kia, vào lúc hấp hối, phát biểu một nguyện vọng cuối cùng là
muốn được xem “cái ấy” của đàn bà ngoại đạo nó như thế nào. Người ta thông
cảm, đáp ứng yêu cầu của ông. Xem xong, ông ta nói: “Tưởng thế nào, hoá ra
cũng chẳng khác gì của các nữ tu sĩ”.
Nói dứt câu, Nguyễn Tuân cười khoái chí.
Nghe nói ở kỳ Đại hội văn hoá toàn quốc tại Việt Bắc năm 1948,
Nguyễn Tuân, ngay trên diễn đàn, dám kể chuyện “cái rắm thơm, cái rắm thôi”.
Hồi ấy sinh hoạt văn nghệ còn thoải mái lắm mới có thể có chuyện tếu như thế
được. Từ năm 1951 trở đi, đừng hòng được như vậy: Đảng ra công khai, biên
giới phía Bắc thông với phe xã hội chủ nghĩa, sự đổ bộ của tư tưởng Xtaline và
Mao Trạch Đông, chỉnh huấn về lập trường giai cấp chuẩn bị cải cách ruộng
đất... Rồi yêu cầu của chiến tranh giải phóng dân tộc phải tập trung cổ vũ chiến
đấu: Ta là chính nghĩa, là anh hùng, không được giễu cợt! Tiếng cười hầu như
mất hẳn trong đời sống văn học.
Tôi cho rằng, ở Nguyễn Tuân, luôn tiềm tàng một cái gọi là chất trẻ
trung tinh nghịch, thể hiện ở người và ở văn.
Trong cuốn 40 năm nói láo, Vũ Bằng tỏ ra biết khá nhiều về cá tính
độc đáo của Nguyễn Tuân. Đọc tập hồi ký này, thấy Nguyễn Tuân bày ra lắm
trò tinh nghịch rất oái oăm, kỳ quái. Chẳng hạn, ngủ lại xóm hát, bỗng dưng leo
lên mái nhà ả đào chơi. Rồi bắt ả đào giả vờ chết để diễn trò khóc lóc ầm ĩ khiến
hàng xóm láng giềng tưởng thật chạy sang chia buồn... Cụ Nguyễn Lương Ngọc
210
còn kể tôi nghe chuyện này về Nguyễn Tuân: đang ngồi ở nhà ả đào, tự nhiên
phóng tay đấm mạnh vào cửa kính cho vỡ toang ra. Chả để làm gì cả. Y như
người dư thừa sinh lực vậy. Hay là đang nửa đêm, dạy cặm cụi đánh giầy cho
tất cả quan viên... Nguyễn Tuân hay có những ý nghĩ nghịch ngợm: chẳng hạn,
tuyên bố, khi chết, muốn người ta đốt xuống cho mình vài hình nhân nhà phê
bình. ở dưới ấy rỗi rãi, trò chuyện với mấy tay phê bình chắc cũng vui. Hoặc
đến các vị trong Ban chấp hành Hội nhà văn, đề nghị cho biết khi mình chết thì
sẽ thuê mấy ô tô đi đưa. Hỏi thế để bây giờ xin trước vài cái đi uống rượu, sau
này xin cứ trừ đi... Trong văn cũng thế. Như trong Một chuyến đi chẳng hạn,
ông nẩy ra ý nghĩ đem giam chung với nhau mấy thằng nghiện thuốc lá nặng,
rồi theo dõi xem chúng ứng xử với nhau như thế nào khi cạn bao thuốc. Còn
trong Sông Đà thì lại tưởng tượng tượng ra cái cảnh ở một bến nước kia, đàn
ông, đàn bà đang tắm táp, tự nhiên nước sông đột ngột rút sạch, mọi người thấy
mình bỗng tênh hênh tô hô cả ra (chi tiết này trong những lần in lại, không thấy
nữa)...
Các vị Vũ Đức Phúc, Nam Mộc, Như Phong, Phan Cự Đệ... chắc cho
thế là nhảm nhí, là vớ vẩn. Tôi thì cho đấy chính là cái chất trẻ trung hồn nhiên
rất có duyên của Nguyễn Tuân.
* *
*
Nguyễn Khải nhiều lần nói, Nguyễn Tuân là người sướng nhất: ngông
nghênh, khinh bạc, chẳng trọng ai, chỉ trọng mình, vậy mà đi đâu cũng được
chiều chuộng, đón rước, nể trọng. Lại có người tự nguyện điếu đóm, phục vụ
tận tình.
Nguyên Ngọc có lần cùng sang Liên Xô với Nguyễn Tuân. Họ ở
Lêningrát vào đúng dịp tuyết đầu mùa. Người ta biết Nguyễn Tuân rất thích
xem tuyết rơi, nên dành cho ông một căn phòng rất thuận tiện để ngắm tuyết (về
nước, ông có viết một bài đăng trên Văn nghệ gọi là Lêningrat, tuyết đầu mùa).
Nam sau Nguyễn Tuân lại sang Liên Xô. Đến Mạc Tư Khoa đúng vào dịp tuyết
đầu mùa. Người ta lại đưa ông về đúng cái căn phòng năm trước ở Lêningrát để
xem tuyết rơi. Theo Nguyên Ngọc, ở Liên Xô, Nguyễn Tuân được coi như một
thượng khách. Lại có một anh tên là Marian, chuyên dịch Nguyễn Tuân sang
tiếng Nga. Trong nhà mình, Marian chỉ treo độc một bức chân dung Nguyễn
Tuân.
Nguyễn Khải kể với tôi chuyện này: Sau 1975, có lần Nguyễn Tuân
vào Sài Gòn. Ông bị khớp nặng, nằm liệt trên lầu. Trịnh Công Sơn ngày nào
cũng tự nguyện lo chuyện ăn uống theo khẩu vị Nguyễn Tuân: nấu cơm niêu đất
ăn với cá bống kho tiêu là món Nguyễn Tuân thích.
ở tầng dưới thì Nguyễn Khải và Nguyễn Thành Long đóng vai tiếp
khách cho Nguyễn Tuân. Ai đến thăm thì lên báo cáo xem ông có tiếp không.
Nhiều người ông không tiếp, phải để quà đấy đi về. Có một lần Marian lúc ấy
đang ở Sài Gòn, đến thăm. Nguyễn Khải và Nguyễn Thành Long nghĩ là trường
hợp này không phải báo cáo, cứ cho lên luôn. Marian hôm ấy lại dắt theo một
211
tay Liên Xô nữa. Nguyễn Khải cứ thấy ông mắng Marian xơi xơi: “Sao mày lại
đưa thằng ấy lên!”. Khải nói: “Lần đầu thấy một thằng “tiểu quốc” mắng một
thằng “đại quốc”, nghĩ cũng mát ruột”.
Nguyễn Minh Châu cũng cho Nguyễn Tuân là sướng. Sau 1975, Hội
An có tổ chức một cuộc kỷ niệm gì đó, mời Nguyễn Tuân vào viết cho một bài.
Lúc ấy Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu đang ở Đà Nẵng, muốn có xe vào
Hội An chơi, bèn bịa chuyện cần một ôtô vào trước để sửa soạn đón Nguyễn
Tuân hôm sau vào. Thế là được cấp luôn một chuyến xe. Thực ra bịa thế thôi
chứ có sửa soạn gì đâu! Nguyễn Tuân vào đã có xe riêng, một mình một xe. Hồi
ấy chuyện xe cộ không sẵn như bây giờ.
Nghe nói, ngày xưa, Nguyễn Tuân chơi cô đầu cũng rất sang. Thường
bồ bịch với đào hát nổi tiếng hoặc bà chủ nhà hát. Không phải bao gái mà lại
được gái bao. Hồi kháng chiến chống Pháp, ở chiến khu Việt Bắc, ông được cô
đào hát nhân tình nào đó gửi vàng từ Hà Nội ra cho ông tiêu.
Riêng tôi được chứng kiến một chuyện cũng lạ.
ấy là ngày làm lễ bế giảng trường Nguyễn Du khoá một long trọng
lắm. Quan khách đến dự rất đông. Có đủ bộ trưởng, thứ trưởng, trung ương uỷ
viên và các nhà văn có tên tuổi ở Hà Nội. Anh điều khiển buổi lễ, giới thiệu lần
lượt các đại biểu. Giới thiệu ai thì người ta cũng chỉ ngồi vỗ tay tại chỗ thôi.
Nguyễn Tuân đến muộn. Không hiểu sao, cả hội trường không ai bảo
ai, cùng đứng dậy vỗ tay dài.
Vì thiên hạ vốn trọng người tài chăng? Nguyễn Tuân đúng là một cái
tài. Nhưng người tài đâu chỉ có Nguyễn Tuân? Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan
Viên, Nguyễn Đình Thi... không tài à?
Tôi cho Nguyễn Tuân được trọng vì vừa có tài vừa có nhân cách.
Nhưng giữ được nhân cách đâu có dễ. Cái nghèo, cái đói, cái sợ (sợ cấp trên)
khiến người ta khó giữ được nhân cách, tuy biết thế là hèn. Vì thế người có
nhân cách càng hiếm, càng quý. Cho nên có một người như Nguyễn Tuân là rất
sang cho giới nhà văn.
Trong nhiều tác phẩm của mình, nhất là trong Chiếu lư đồng mắt cua,
Nguyễn Tuân thường vẽ mình như một kẻ bê tha, trác táng, bẩn thỉu, nhếch
nhác, rượu chè be bét, suốt ngày chui rúc vào cái màn hôi hám của ông Thông
Phu, một con nghiện bị bệnh bại liệt bán thân bất toại. Uống rượu thì say đến
mức úp mặt vào mâm bát mà gào, mà hò hét như thằng điên...
Thực ra trong đời thực, ông có phải như thế đâu. Hồi ở Việt Bắc bà
Trần Minh Tước cùng làm việc với tôi ở Sở Giáo dục Liên khu Việt Bắc vốn
quen thân với Nguyễn Tuân, nói với tôi: “Ông ấy đến cái maillot, cái quần lót
cũng giặt là cẩn thận”.
Còn uống rượu thì không bao giờ quá chén. Tô Hoài gọi là uống rượu
ngữ, nghĩa là có chừng mực chứ không say bét như Hoàng Trung Thông...Ông
Hoài Thanh chê Nguyễn Tuân có lắm lệch lạc về tư tưởng, từng bị cánh nhân
văn lợi dụng, nhưng ông vẫn thấy Nguyễn Tuân không bê tha truỵ lạc như nhiều
tay trong nhóm Nhân văn, nghĩa là Hoài Thanh cũng rất nể Nguyễn Tuân về
212
nhân cách.
Tôi lại nghe nói, sau 1975, một số nhà xuất bản ở Sài Gòn tự nguyện
trả tiền nhuận bút cho những nhà văn “tiền chiến” sống ở miền Bắc, mà trước
1975, họ có in lại sách này sách khác để bán. Các vị đều nhận cả, riêng Nguyễn
Tuân từ chối.
Trở lại câu chuyện Nguyễn Tuân và Nguyên Ngọc ở Liên Xô. Trong
thời gian Nguyễn Tuân ở Liên Xô, người ta cử một cô gái Nga làm phiên dịch
cho ông. Cô gái rất đẹp - đẹp như tượng – Nguyên Ngọc nói thế (Chắc là đẹp
như tượng thần Vệ nữ ở Milô chăng?). Nguyễn Tuân nhờ cô gái mua cho mình
mười bông hồng tươi. ở Nga, giữa mùa rét, hoa hồng rất đắt: 12 rúp (trong khi
một cái bàn là điện hay một cái áo bay có 7 rúp). Hỏi mua để làm gì, ông không
nói. Mua về, ông tặng luôn cho cô gái phục vụ mình. Cô gái Nga lấy làm lạ, vì
cô biết Việt Nam còn nghèo lắm, lại đang có chiến tranh, sao ông nhà văn này
lại chơi sang thế, không dành tiền mua quà cáp gì về nhà. Cô ta áy náy, bèn tự
mình đi mua một ít hàng rồi gói ghém, bắt Nguyễn Tuân mang về. Cô hỏi, các
nhà văn nước ông có như thế cả không? Nguyễn Tuân nói, tôi chỉ là một nhà
văn xoàng ở Việt Nam thôi. Ông nói thế, chắc là để làm sang cho giới văn nghệ
Việt Nam vốn rất nhếch nhác mỗi khi ra nước ngoài.
Hoạ sĩ Đào Đức còn kể chuyện này: Một lần Nguyễn Tuân cùng Kim
Lân sang Liên Xô. Mấy ngày đầu người ta chưa cấp tiền. Nhà văn Simônốp ngỏ
ý biếu mỗi người 50 rúp tiêu tạm. Nguyễn Tuân từ chối, Kim Lân chả lẽ lại
nhận, nhưng tiếc quá, nói với Đào Đức: mình cảm thấy cứ y như là bị móc ví
mất 50 rúp.
Mọi người đều biết, Nguyễn Tuân là người ham chơi, ham “xê dịch”.
Nhưng không vì thế mà vất bỏ nhân cách. Vào lúc đã cao tuổi, ông có được mời
sang Pháp, nhưng ông từ chối. Ông nói với tôi: “Già rồi sang đấy mà chết ở
đấy thì nhục quá!”.
Đấy, Nguyễn Tuân sở dĩ được trọng là vì thế. Mình không giữ được
nhân cách thì ông ấy giữ hộ - đại diện giới nhà văn giữ hộ.
Nguyễn Tuân nổi tiếng là ngông. Đúng thế. Nhưng chơi ngông không
dễ đâu. Không có tài, không có đức, chơi ngông làm sao được! Ngông có cả
một cơ sở đạo lý của nó đấy. Cho nên những bậc chơi ngông xưa nay đều là
những tấm gương đạo đức cả - Tản Đà gọi là “thiên lương”:
“Hai chữ thiên hương thằng Hiếu nhớ”
Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà, Nguyễn Tuân
đều thế cả. Sau Nguyễn Tuân, hình như trong giới văn học, không còn ai dám
chơi ngông nữa thì phải.
ở Nguyễn Tuân tôi thấy có một cái gì rất cổ điển, không phải chỉ trong
văn đâu mà trong lối sống, tác phong sống. Ông không chỉ viết văn cho hay, cho
đẹp mà còn muốn sống đẹp nữa.
Chất cổ điển chính là ở chỗ đó. Các cây bút hiện đại chỉ lo sản xuất văn
chương cho nhiều, cho tốt, còn sống thế nào cũng được, cốt sao cho khoẻ, cho
sướng. Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi... là
213
như thế.
Người xưa tư duy nguyên hợp (syncrétique), óc phân tích chưa phát
triển nên thường không phân biệt thực và hư, chân và ảo, con người và thiên
nhiên, cuộc sống và nghệ thuật. Cho nên người quân tử nói năng cũng có văn
vẻ, ăn uống cũng có phép tắc, chào hỏi cũng có điệu bộ, ngôn ngữ tình yêu cũng
kiểu cách, khóc than cũng lên bổng xuống trầm (văn tế), thậm chí đánh nhau mà
như vũ đạo... Cho nên Trần Hưng Đạo truyền hịch mà thành văn chương,
Nguyễn Trãi viết cáo mà hình tượng tầng tầng lớp lớp... Từ đó, không phân biệt
sự sống và nghệ thuật, cuộc đời hay sân khấu...
Nguyễn Tuân là một trí thức Tây học, một cây bút hiện đại. Những tác
giả phương Tây mà ông chịu ảnh hưởng sâu sắc là những nhà văn vào loại hiện
đại nhất như Marcel Proust, André Gide... Tuy nhiên ở ông vẫn có một cái gì
giống như Nguyễn Công Trứ, Tú Xương, Tản Đà... Không phải chỉ làm nghệ
thuật mà trước hết sống cho đẹp, cho nghệ thuật. Và về nhân cách vẫn phảng
phất cái cốt cách trượng phu quân tử.
Nguyễn Tuân là cây bút có phong cách nghệ thuật rất sâu. Nhưng trong
cung cách sống nhiều khi ông cũng cố tình tạo cho mình một phong dạng
(manière) riêng khá kiểu cách: từ cách để ria mép, cách cầm cái can, ngậm cái
píp, cách đi đứng... không phải ông không có ý tạo dáng cho đẹp. Ông sành sỏi
hát ả đào, đấy cũng là một cái thú chơi cổ điển. Trước cách mạng tháng Tám,
hồi còn ở Thanh Hoá, ông mở một hiệu sách đặt tên là Thư Trang, về Hà Nội,
làm cái nhà ở Cống Mọc, ông gọi là Am Sông Tô...nghĩa là cũng thích văn vẻ
Ngay sau cách mạng tháng Tám, đến dự Hội nghị Văn hoá cứu quốc
giữa Hà Nội, ông vẫn mặc áo gấm, đội khăn xếp... tôi cho cũng là một cách
“diễn” đấy thôi – diễn trò ngông nghênh nghệ sĩ trước bàn dân thiên hạ...
Một con người như thế, tất không thích ai đến thăm khi ốm đau. Ông
có bệnh thấp khớp mãn tính nặng, mỗi lần phát bệnh, chân tay sưng tấy, co
quắp, phải vệ sinh tại chỗ, trông chẳng “mĩ thuật”, chẳng “nghệ sĩ” tí nào.
Một lần tôi đến ông, đúng lúc ông ốm. Ông đang ngồi ở mép phản,
thõng chân xuống. Có một người nữa quay lưng lại hình như một người nhà
đang làm gì để giúp ông. ông nheo mắt nhìn tôi từ xa, lúc đầu ngờ ngợ, sau
nhận ra, ông có vẻ bối rối, luống cuống:
- Sao, có việc gì thế?
- Không có gì. Đến thăm bác thôi.
- Thế thì cám ơn, cám ơn. Thôi để lúc khác nhé.
Sợ tôi chưa hiểu, ông chỉ xuống cái bô ở gậm phản...
Tôi ngượng quá, vội bỏ ra.
Một lần khác, tôi đến thăm ông cũng đúng vào lúc ông ốm. Nhưng lần
này cửa đóng. Ngoài cửa tôi thấy có dán một tờ giấy lớn ghi mấy dòng chữ:
“Bệnh nhân Nguyễn Tuân không tiếp khách, bao giờ khỏi sẽ xin đến tạ. Ai đến,
xin gọi và xướng tên hai lần. Không có tiếng trả lời thì xin vui lòng lui cho.
Cám ơn”.
Đến thăm mà phải xướng tên, ai còn đến làm gì!
214
Như đã nói, tôi gặp Nguyễn Tuân lần cuối cùng vào buổi sáng ngày
thứ bẩy 25 – 7 – 1987 ở trụ sở Hội nhà văn, 65 Nguyễn Du.
Trông ông rất đẹp lão. Nguyễn Khải nhận xét và nói một câu rất gở:
“Đẹp lão thế là sắp sửa đấy!” Nguyễn Tuân nói, ông không sợ chết, chỉ sợ ốm
kéo dài thôi. Hôm ấy, ông nói rất nhiều chuyện vui. Tôi đã từng nghe câu nói
của ông về các nhà phê bình: khi chết đi, muốn người ta đốt xuống cho mình vài
anh phê bình... Hôm ấy ông lại cho ra thêm một câu nữa: “Vừa rồi có mấy anh
nhà văn nước ngoài đến hỏi tôi: “Ông thường có thói quen viết vào lúc nào?”.
Tôi nói, thường vào ban đêm. Họ hỏi lý do. Tôi nói: “Vì lúc ấy các nhà phê
bình họ đi ngủ cả rồi!”.
Tôi thấy ông cầm trên tay một điếu thuốc lá nhưng không hút, lại còn
xin thêm Nguyễn Khải điếu nữa. Ông nói: bác sĩ nói phải hạn chế hút. Mỗi ngày
một điếu thôi, tránh hít sâu vào. Còn rượu thì cấm hẳn. Và phải tránh có xúc
động mạnh. Rồi ông cười: “Làm nghề viết văn mà phải tránh xúc động thì còn
viết gì được nữa!”.
ấy thế mà đúng 3 ngày sau ông qua đời.
Bửu Chỉ ở Huế ra Hà Nội. Chị Ngọc Trai tổ chức một bữa nhậu.
Nguyễn Tuân uống rượu. Hôm sau vào bệnh viện và tịch luôn.
Anh Đình Quang nói, lẽ ra ông chưa chết. Ông tự tử đấy. Ông nằm
cùng với một bệnh nhân nào đó. Ông khó ngủ, dậy bật đèn lên. Ông kia tắt đi.
Người bật lên, người tắt đi, cứ thế mấy lần. Bực quá, ông uống một liều thuốc gì
đó và đi luôn.
Chuyện chả biết có thật thế không. Nhưng anh Nguyễn Xuân Đào, con
trai Nguyễn Tuân lại bảo không phải. Ông chết là vì đêm ấy ông uống đến nửa
chai rượu. Thế thì có trời cứu!.
Nhưng như thế thì cũng là một cách tự sát chứ sao! Vì chính ông đã
biết phải kiêng rượu kia mà! Thuốc lá còn được hút mỗi ngày một điếu. Còn
rượu thì cấm hẳn.
Như vậy thì điều anh Đình Quang nói không hẳn đã sai.
Chung quanh những người nổi tiếng và độc đáo, thiên hạ thường thêu
dệt ra lắm giai thoại. Chung quanh Nguyễn Tuân xưa nay cũng lắm giai thoại.
Thí dụ, nhiều người, tôi cũng thế, nghe nói và tin ở câu chuyện này: Võ
Hồng Cương, bí thư đảng đoàn Bộ Văn hoá đến thăm Nguyễn Tuân. Đứng dưới
sân, Cương gọi vọng lên lầu (Nguyễn Tuân ở trên tầng 3, nhà số 90 Trần Hưng
Đạo): “Anh Nguyễn Tuân có nhà không?”. Nguyễn Tuân mở cửa sổ nói chõ
xuống: “Nguyễn Tuân có nhà nhưng không tiếp khách” (Có “dị bản” khác:
Nguyễn Tuân mở cửa sổ trả lời Võ Hồng Cương: “Nguyễn Tuân đi vắng”).
Nghe có vẻ rất Nguyễn Tuân đấy chứ!. Nhưng sự thật có chuyện ấy không? Tô
Hoài nói, Nguyễn Thành Long nó bịa ra thế thôi. Tôi hỏi Nguyễn Tuân rồi.
Chuyện bịa, không có đâu.
Một thí dụ khác: Tạ Tỵ trong Nam, hồi trước 1975, có viết một cuốn
sách về chân dung một số nhà văn. Anh ta dựng đứng lên một chuyện về
Nguyễn Tuân: Nguyễn Tuân ốm nằm ở bệnh viện Phủ Doãn. Ông thèm rượu
215
quá mà bị cấm, đang đêm bèn leo tường chốn ra bờ hồ Hoàn Kiếm uống rượu
và chết luôn trên ghế đá. Cũng có vẻ rất Nguyễn Tuân đấy chứ!
Tôi đọc bài viết này của Tạ Tỵ đúng vào thời gian luôn tiếp xúc với
Nguyễn Tuân để làm Tuyển tập.
Giờ lại nghe chuyện anh Đình Quang. Chả biết thực hư thế nào!.
Quan Hoa, cuối thu năm 2006
Chương XIV: Nguyên Hồng
Bài nghiên cứu văn học đầu tiên của tôi là bài viết về Nguyễn Hồng. ấylà một chương trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945, viết chung giữa Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Sư phạm Vinh, xuất
bản năm 1963.
Thỉnh thoảng tôi có gặp Nguyễn Hồng, thường ở trụ sở Hội nhà văn
(65 – Nguyễn Du), đôi khi ở báo Văn Nghệ (17 Trần Quốc Toản).
Nguyễn Hồng cũng đến tôi mấy lần, khi ở nhà K2, khi ở nhà B2 khu tập
thể cán bộ Đại học Sư phạm Hà Nội. Có lần ông ở cả ngày, ăn với gia đình tôi
hai bữa cơm.
Trông bộ dạng Nguyễn Hồng, không ai nghĩ là một nhà văn. Mặt đen
sạm, để râu dài. áo cánh màu xanh chàm, bốn túi, mũ lá, dép lốp xỏ cả hai quai
hậu, đi xe đạp thiếu nhi Liên Xô, mất cả chắn xích lẫn chẵn bùn, đèo đằng sau
một bị cói vừa đựng tài liệu, vừa đựng một chai rượu cuốc lủi, kèm theo mấy
thanh giang chẻ lạt.
Lần thứ nhất, ông đến tìm tôi khi tôi ở khu nhà lá thuộc dãy nhà K2,
chung quanh toàn là cán bộ giảng dạy văn học mà không ai biết dó là nhà văn
Nguyên Hồng. Họ cứ nghĩ là một ông phụ huynh học sinh ở quê ra xin xỏ gì đó
cho con đang học vợ tôi. Ông dắt xe vào khu nhà tập thể, hỏi thăm đúng vào
thằng con tôi đang đá bóng ở đầu dãy nhà. Nó không thèm dẫn ông về nhà, mà
cứ đứng từ xa chỉ chỏ.
Nhưng nghe chị Ngọc Trai nói về Nguyên Hồng mới thật thương.
Ngọc Trai từng ở với Nguyên Hồng trong một lớp bồi dưỡng nhà văn tại Quảng
Bá. ấy là lớp học của một số cây bút trẻ chuẩn bị đi B. Ngọc Trai phụ trách
quản trị. Nguyên Hồng phụ trách chuyên môn. Học viên đi B được hưởng tiêu
chuẩn ăn cao hơn. Ngọc Trai và Nguyên Hồng không đi B nên không được
hưởng tiêu chuẩn ấy. Vì thế ăn chung một chế độ, Ngọc Trai và Nguyên Hồng
phải góp thêm tiền. Nguyên Hồng quyết định ăn nửa suất cơm. Ngọc Trai
khuyên thế nào cũng không nghe.
Bữa ăn, học trò thương thày cứ chia cho Nguyên Hồng cả suất như mọi
người. Nguyên Hồng không bằng lòng: “Lại có đứa nào ăn gian đây! Tao có
nửa suất mà sao lại như mọi người?” Ngọc Trai bàn hai người ăn chung,
Nguyên Hồng không nghe. Nguyên Hồng rất đạo đức và gương mẫu. Sáng dạy
ông tập thể dục. Cũng đeo gạch vào balô chạy, rồi tập đi. Ngọc Trai khuyên
không nghe.
Nguyên Hồng đi liên hệ công tác với Vụ Tổ chức Trung ương. Ngọc
Trai đề nghị liên hệ ôtô. Nguyên Hồng cũng không nghe, cứ đi xe đạp, vì cho là
gần, ngay Bách Thảo thôi mà. Còn người ta coi thường vì có vẻ lúi xùi thì
không lo. Ông nói: “Khinh trọng là do nhân cách của mình chứ!
Nguyên Hồng đi xe đạp cùng Ngọc Trai. Buồn cười lắm. Xe không có
chuông. ông vừa đi vừa hô bọn trẻ con trên đường: các cháu cho bác đi nhờ nào,
217
xe đạp đây!... cứ thế suốt dọc đường.
Nguyễn Tuân rất bực với Nguyên Hồng: “Này sao anh lại tự làm khổ
mình như vậy, anh có đến nỗi nào!”. Nguyên Hồng nói: “Anh khác, tôi khác,
tôi làm sao giống như anh được! Người ta có số cả. Số tôi nó thế!”
Có lẽ số Nguyên Hồng thế thật. Sống cũng khổ, chết cũng khổ.
Khi Nguyên Hồng chết, nhà còn có năm bơ gạo, một con gà nhỏ.
Trong túi còn đúng 20 đồng. Hàng xóm cho vay cỗ quan tài. Nguyên Ngọc báo
anh em lên đưa ma, nói, Nguyên Hồng nghèo lắm đấy, không có gì thết đãi đâu.
Chưa làm điếu văn vội, Nguyên Ngọc trước hết lo chạy lên tỉnh, lên huyện, lên
đảng uỷ xã bàn với họ cho tiền, cho lợn, cho gạo để làm ma. Hôm đưa ma
Nguyên Hồng, tôi không lên được. Ngô Thảo có tả quang cảnh đám ma thật là
tội nghiệp: xe tang từ trên đồi đi xuống dốc, phải hò nhau đẩy trở lại làm phanh.
Phường kèn toàn là thương binh cụt tay cụt chân (phải là thương binh mới được
vào hội kèn, ăn công điểm của hợp tác xã).
Nguyên Hồng có người con cả là Hồng Hà (Nguyên Hồng sinh Hồng
Hà khi gia đình ông ở bãi Phúc Xá, bờ sông Hồng) dạy tiếng Anh ở Đại học Sư
phạm Ngoại ngữ Hà Nội, cũng ở gần khu nhà ở của cán bộ khoa Văn Đại học
sư phạm chúng tôi. Một lần biết ông đang ở chỗ Hồng Hà, tôi đến thăm. Không
thể tưởng tượng được nhà ở của một cán bộ giảng dạy đại học mà lại khốn khổ
đến thế. Như một cái lều vịt, dựng trên một bãi rác, sau lưng là một dãy nhà xí,
cái nào cũng mất cửa.
Nguyên Hồng đang ngồi uống rượu. ông nhắm rượu với một đĩa rau củ
cải luộc (ngọn rau, lá rau chứ không phải củ cải). Vậy mà ông cũng nhắm nháp
ra vẻ đắc ý lắm. Nguyễn Đình Thi còn nói với tôi, có lần còn bắt gặp ông nhắm
rượu với cơm nguội. ấy là cái hồi ông phụ trách trại bồi dưỡng nhà văn trẻ ở
Quảng Bá - người ta thường gọi đùa là ông Đốc Hồng. Ông dặn mọi người, sau
10 giờ tối, ông đóng cửa phòng, làm việc riêng, không tiếp khách. Hôm ấy,
Nguyễn Đình Thi có việc gì đó khẩn cấp cần gặp ông. Anh đẩy cửa phòng
Nguyên Hồng sau 10 giờ tối, thấy ông đang nhắm rượu với cơm nguội. Nguyễn
Đình Thi cười: “Đấy, nhà văn Việt Nam ăn chơi như thế đấy!”
Trở lại chuyện tôi đến thăm Nguyên Hồng ở nhà Hồng Hà.
Ông nói: “Chỗ này giống hệt như nơi ngày xưa tôi viết Bỉ vỏ. Chỗ viết
Bỉ vỏ như thế nào? - Đây, ông viết trong lời Tựa cuốn tiểu thuyết: “Bỉ vỏ đã viết
xong trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng nước đen ngầu bọt của
một bãi đất lấp dở dang và một chuồng lợn ngập ngụa phân tro. Bỉ vỏ đã viết
xong trong một căn nhà cứ đến chập tối là ran lên tiếng muỗi và tiếng trẻ con
khóc...”
Trò chuyện với Nguyên Hồng, tôi mới biết ông bị tù từ tuổi thiếu niên.
Ông có một người chú dượng thường ức hiếp, hành hạ vợ, tức là một bà cô của
ông. Ông tức quá, rút dao đâm ông này và bị đưa đi trại cải tạo trẻ con hư (đâu
như ở Bắc Giang).
Lần thứ hai ông bị tù vì tham gia phong trào thanh niên dân chủ của
Đảng cộng sản cuối thời kỳ mặt trận dân chủ Đông Dương (1936 – 1939) ông bị
218
bắt về tội tàng trữ tài liệu cộng sản, giam ở Căng Bắc Mê, Hà Giang.
Không phải ngẫu nhiên mà ông hay viết về nhà tù: Bà Vỷ, Khói ken
nếp và xà lim, phóng sự Tù trẻ con, Tù đàn bà, Tiểu thuyết Bỉ vỏ, Cơn bão đã
đến...
Thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, Nguyên Hồng rất hăng hái
hoạt động. Ông cùng Như Phong tích cực viết cho các báo chí tiến bộ như Thế
giới, Mới, Người mới. Rất phục những chiến sĩ cộng sản trong nhóm Tin tức,
muốn sáng tác theo khuynh hướng tả thực xã hội chủ nghĩa. Sau khi viết Bỉ vỏ,
Những ngày thơ ấu, ông có vị trí khá nổi nên có quan hệ với Mười Cúc, Nguyễn
Thiện Chân. Lê Quang Hoà, Bùi Vũ Trụ... Ông say mê đọc Le Travail,
Rasssemblement, Bạn dân, Thời thế. Đọc Gorki, L.Tolstoi, La Resurrection,
Voyage à Moscou của Henri Barbusse, sách của Hải Triều viết về ba nhà văn
cách mạng. Đọc Ngục Kontum của Lê Văn Hiến, Một ngày ngàn thu của Tôn
Quang Phiệt... Rất mê Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (b) Liên Xô. Ngày
1.5.1938, ông đi nghe Trần Huy Liệu diễn thuyết ở Đấu Xảo. Phan Bôi có mở
một lớp Mác xit, ông có dự cùng với Trần Quang Huy, Đào Duy Kỳ, Nguyễn
Hữu Dụng, Thành Ngọc Quảng, Nguyễn Thường Khanh, Như Phong, Đào Văn
Trường, Trần Đình Chi. Lớp mở ở Phạm Phú Thứ. ông nói, nghe giảng chán bỏ
mẹ, đọc sách thú hơn. Ông nhớ có đọc một cuốn sách vẽ Gorki như con gà ủ
các nhà văn trẻ...
Lúc ấy ông tự coi mình đích thực là cộng sản rồi. Ông quyết chuyển đề
tài viết về giai cấp vô sản. Ông viết về công nhân, về thợ mỏ, về phu đồn điển:
Một quả đấm, Đến cây số 13, Người đàn bà Tầu, Đẹp, Những giọt sữa...Ông đi
vào mỏ Vàng Danh và viết Thanh niên trong bụi đen... Tinh thần lúc ấy hết sức
lạc quan tin tưởng. Ông viết Nắng mới (Đăng trên báo Người mới) với tinh thần
ấy.
Năm 1939, thực dân bắt đầu khủng bố.
Tháng 9 – 1939, ông bị bắt. Lý do: tàng trữ tài liệu cộng sản. Đó là
cuốn Tự chỉ trích của Nguyễn Văn Cừ. Lúc bị bắt, ông đọc câu thơ Tố Hữu và
rất lấy làm tự hào:
Tôi sẽ cười như kẻ sẵn lòng tin
Giữ trinh bặch linh hồn trong bụi bẩn.
ở Căng Bắc Mê, Tô Hiệu mở lớp huấn luyện về lý luận. Dự lớp có Tô
Quang Đẩu, Ngô Minh Loan, Hồ đen, Trần Các, Tô Dĩ, Phan Bôi, Xuân Thuỷ,
Nguyên Hồng. Ông nói, chúng tôi hát rất hồn nhiên, rất say sưa, say lý tưởng,
sống cứ như trong mơ...
Trong tù có những hình ảnh rất đẹp. Ông nhớ hình ảnh chị Bùi Đình
Đổng bụng chửa, ung dung vào xà lim với chồng, dắt theo đứa con lên ba. Đẹp
nhất là hình ảnh Tô Hiệu, áo cổ lọ, mũ nồi, ngực dẹt, tiếng khàn khàn vì bị tra
tấn, làm việc say mê chuẩn bị cho lớp huấn luyện. Ai dự lớp huấn luyện coi như
không được tha.
Trong tù, có tin Liên Xô ký hiệp ước với Đức. Lúc ấy, vấn đề đặt ra là:
Lý tưởng và lòng tin? Không có lòng tin thì làm sao chống lại được sức mạnh
219
của đế quốc hết sức ghê gớm lúc bấy giờ.
Nhưng nghe Tô Hiệu giảng bài, sức thuyết phục còn hơn cả sách vở.
Cái feu, cái ánh sáng ở con người Tô Hiệu rất thuyết phục! Lớp học mỗi ngày
giảng ba buổi. Giờ khác thì soạn bài, ghi trên giấy cuốn thuốc lá, thuốc lào, giấy
gói bánh khảo. Tô Hiệu viết từ 9 giờ tối đến 2 giờ đêm... Sáng đi làm cỏ vê thì
chuyển tài liệu cho các trại.
Vợ chồng Bùi Đình Đổng và Tô Hiệu, sau này được Nguyên Hồng
dùng làm nguyên mẫu cho mấy nhân vật cách mạng của ông trong bộ tiểu
thuyết Cửa biển.
ở tù ra, Nguyên Hồng lấy vợ. Chả quen biết gì nhau đâu, chỉ nhờ mối
lái mà lấy nhau. Đám cưới không có chú rể. Người ta đưa dâu về nhà chồng ở
xóm Cấm, Hải Phòng, nhưng chú rể, tuy đã ra tù, vẫn phải chịu chế độ quản
thúc ở Nam Định.
* *
*
Nguyên Hồng rất giầu tình cảm, rất dễ xúc động, hay khóc. Các con
hay cười bố về chuyện này. Mẹ ông chết năm 1973, ông thương khóc như mưa
như gió, dữ dội quá, làm cho vợ ông sợ quá, phát ốm. Lúc sống, mẹ con hay gắt
nhau, thế mà lúc chết thì khóc như thế. Hôm tôi lên Nhã Nam ăn một trăm ngày
Nguyên Hồng, bà Nguyên Hồng nói với tôi như vậy.
Ông Hoài Thanh cho biết, Nguyên Hồng có lúc đang nói trên diễn đàn
hội nghị, bỗng dừng lại: “Các đồng chí cho tôi khóc một lúc đã”.
Hoài Thanh có vẻ nghi ngờ sự chân thật của Nguyên Hồng, vì thấy có
một cái gì không bình thường trong cách biểu hiện cảm xúc của ông. Thực ra
chính vì ông có một trái tim khác thường – một trái tim lớn. Cho nên trong suốt
cuộc kháng chién 9 năm, đi đâu ông cũng cõng balô tập bản thảo tiểu thuyết
Sống mòn dày cộp của Nam Cao. Mùa hè ông có thể ngồi quạt cho các bạn bè
ngồi viết văn. Trước cái chết oan ức và vô cùng thảm khốc của Lan Khai, ông
gửi cho vợ Lan Khai những dòng chữ như viết bằng máu:
Sống lầm than, chết cũng lầm than
Viết mọi rợ, chết vì mọi rợ.
Một ngọn đèn xanh, hai dòng lệ đỏ...
Kim Lân còn chứng kiến Nguyên Hồng vừa viết văn vừa khóc. Khóc
nức nở. Vừa đấm lưng vừa khóc. Thương cả nhân vật do mình hư cấu ra. Trong
Cửa biển, có nhân vật tên là Gái Đen, phu bến tầu Hải Phòng. Người rất tốt, gia
đình có truyền thống yêu nước, nhưng lấy nhầm phải một thằng phản bội cách
mạng, có mang với nó. Đau khổ quá, lúc trở dạ đẻ, cô quằn quại, vật vã, đẻ
xong thì chết. Ngồi viết ở Đồi Cháy, Nhã nam, đến chỗ Gái Đen chết, ông vừa
khóc vừa chạy xuống bếp, nói với cô con gái đang nấu cơm: “Con ơi, Gái Đen
chết rồi!”. Hôm ở trụ sở báo Văn nghệ, thuật lại chuyện này, ông cũng khóc.
Nói chuyện với ông, tôi rất ngại. Vì ông khóc mà mình chẳng thấy xúc
động gì cả, y như thằng không có tình cảm. Mà nhìn người đàn ông râu ria ngồi
khóc, trông rất tội.
220
Giầu lòng thương người nên Nguyên Hồng quan niệm chủ nghĩa hiện
thực không tách rời tình cảm đối với nhân dân lao động. Cho nên ông không
thoả mãn với chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng.
Ông không thích Mạnh Phú Tư, Tô Hoài, cho là nhạt, không có tâm
huyết, thiếu tình người. Ông thích Hồ DZếnh, đánh giá cao Am cu li xe của
Thanh Tịnh là vì thế. Nguyên Hồng cho tả thực xã hội (hồi ấy người ta không
nói hiện thực mà nói tả thực) phải gắn bó với người lao động nghèo khổ, yêu
thương và có trách nhiệm với người cùng khổ. Vì thế, ông cho Nguyễn Công
Hoan không phải là tả thực. Cũng vì thế mà trong thời kỳ Mặt trận dân chủ
Đông Dương, chịu ảnh hưởng của phong trào cộng sản, ông bắt ngay lấy học
thuyết giai cấp. Ông tự thấy không phải không có tinh thần yêu nước và lòng tự
hào dân tộc, nhưng say giai cấp hơn. Đây là chỗ khác với phần lớn các cây bút
tiểu tư sản đương thời. Họ nhậy cảm với vấn đề dân tộc, còn chuyện giai cấp thì
rất khó “vào”.
Nguyên Hồng thì say giai cấp. Ông viết Người đàn bà Tầu (1939), ca
ngợi tinh thần quốc tế của giai cấp vô sản.
Người đàn bà Tầu, ông coi đấy là một bước rẽ của mình về tư tưởng và
nghệ thuật.
Nhưng cũng là bước rẽ vào nhà tù - ông nói với tôi như vậy.
* *
*
Lần thứ hai, Nguyên Hồng tìm đến tôi, khi gia đình tôi đã chuyển lên ở
nhà B2, tầng năm. Lần này ông ở lại với gia đình tôi cả ngày
Thông thường người uống rượu, thích thuốc lá, trà tầu. Nguyên Hồng
đi đâu cũng xách theo chai rượu, nhưng không hút thuốc lá, uống trà tầu. Trời
nóng ông chỉ xin một cốc nước lạnh.
Hôm ấy đứa con gái tôi mới học lớp một. Nó đi học về, phàn nàn là cô
giáo bắt làm một bài tập kể tên các loài chim có ích. Nguyên Hồng đã gợi ý
giúp nó làm bài tập ấy.
Tôi nhớ lần gặp ấy, Nguyên Hồng có nói một câu mới nghe có vẻ vô
lý, nhưng nghiệm ra thấy rất đúng: “Thày giáo Mạnh này, bọn văn xuôi chúng
tôi rất dại, chỉ có bọn làm thơ là khôn”.
Sự thật quả có thế. Mấy ông văn xuôi thường hay bị đánh: Nguyễn
Tuân (Phở, Tình rừng, Tờ hoa...), Nguyên Hồng (Con hổ ở Suối Cát), Nguyễn
Huy Tưởng (Một ngày chủ nhật), Tô Hoài (Mười năm, Dế mèn phiêu lưu ký),
Nguyễn Thành Long (Cái gốc), Nguyễn Khải (Đối mặt), rồi Phùng Quán, Trần
Dần, Nguyên Ngọc, Nguyễn Dậu, Hà Minh Tuân... Còn bọn làm thơ, phần lớn
là quan chức cao cấp, được Đảng tín nhiệm: Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên,
Xuân Diệu, Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi. Thế hệ sau là Bằng Việt, Hữu Thỉnh,
Vũ Quần Phương, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Đăng Khoa... Tất nhiên có ngoại
lệ, nhưng không nhiều. Phần lớn đúng như Nguyên Hồng nói.
Trong hoàn cảnh của chính thể ta, tôi cho Nguyên Hồng là người cứng
cỏi hơn cả, bản lĩnh hơn cả. Hồi anh Nguyễn Đình Nghi đến thăm tôi, tôi có
221
tặng anh cuốn Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, trong đó có
bài Nguyễn Đình Thi như tôi biết. ở bài này, tôi có ý chê Nguyễn Đình Thi thiếu
dũng khí. Nguyễn Đình Nghi đọc sách và phôn cho tôi, ý nói nên thông cảm với
giới văn nghệ dưới chính thể này. Anh nói, anh là con ông Thế Lữ, nên được
tiếp xúc nhiều với giới nhà văn. Anh biết, chẳng ai có dũng khí được đâu, kể cả
Phan Khôi, Nguyễn Tuân.
Đúng thế thật. Nguyễn Tuân vẫn được tiếng là ngang bướng, vậy mà
tôi nghe nói, có lần ông vừa uống rượu vừa khóc: “Tôi được như thế này là vì
biết sợ”.
Nguyên Hồng không sợ. Hồi ông phụ trách thư ký toà soạn tuần báo
Văn, tờ báo bị quy là Nhân Văn ngóc đầu dậy, ông không chịu, không cho mình
là sai. Ông từ chối kiểm thảo, từ chối đi thực tế cải tạo tư tưởng, trong khi hầu
hết đều tự kiểm thảo và đi thực tế: Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn
Khải, Tô Hoài đi Tây Bắc, Điện Biên, Huy Cận đi vùng mỏ, Đào Vũ đi nông
thôn...v.v
Nguyên Hồng không đi. Ông khinh tuốt, cho tất cả chúng nó đều hèn.
“Tao đéo chơi với chúng mày nữa” - ông tuyên bố thế và bỏ ra ngoài biên chế,
đưa cả gia đình lên Nhã Nam, trở lại Đồi Cháy, nơi ông sơ tán thời khángchiến
chống Pháp. Ông đã phải trả giá rất đắt cho thái độ cứng cỏi này. Đang có nhà
cửa, việc làm ở Hà Nội mà lại bỏ đi như thế, ở thời bao cấp, là một hành vi hết
sức dũng cảm, thậm chí liều lĩnh. Lên Nhã Nam, một phiếu gạo của ông (13 cân
rưỡi) nuôi 9 người: một vợ và 7 con bé lắt nhắt. Lại còn mẹ ông nữa lúc ấy còn
sống. Đói theo nghĩa đen! Vợ đi chăn bò cho hợp tác xã, mùa đông phải gặm
một con cá mắm khô cho đỡ rét. Các con thì mò cua bắt ốc. Ăn ngô ăn khoai
thay cơm.
Hôm cúng 100 ngày Nguyên Hồng (Nguyên Hồng mất ngày 2.5.1982,
một trăm ngày là 10.8.1982), tôi có lên dự cùng với Nguyễn Xuân Sanh và
Vương Trí Nhàn.
Này đây là Đồi Cháy, ấp Cầu Đen đây. Nơi từng hội tụ một số gia đình
văn nghệ sĩ thời kháng chiến chống Pháp: Ngô Tất Tố, Kim Lân, Nguyên Hồng,
Tạ Thúc Bình, Trần Văn Cẩn. Ngày xưa không biết quang cảnh thế nào, còn giờ
đây chỉ có căn nhà của Nguyên Hồng. Nhà lợp ngói, tường đất (gọi là tường
trình). Một cái bếp. Trên chái nhà thấy còn treo một cái bàn thấp, nhỏ, gỗ tạp,
giống như một cái kỷ nhưng rất thô sơ. Nguyên Hồng thường đặt bàn lên
giường ngồi viết, hoặc đem ra gốc cây khế góc sân, giải chiếu ngồi làm việc.
Khoảng 9, 10 giờ sáng ngày 2.5.1982 – bà Hồng kể - Nguyên Hồng
đang làm việc ở gốc khế, xoay ra vác đất đắp vào chân tường nhà bếp. Tường xi
măng mà không có móng, sợ chuột đào đổ, nên phải đắp đất cho vững. Bà Hồng
bảo thuê thợ, ông không nghe. Trời mưa lất phất. Ông thấy mệt, giải chiếu nằm
nghỉ ở bờ tre. Bà Hồng dìu về nhà ngang, sau lên nhà trên. Ông tắt thở khoảng 2
giờ chiều. Trước khi chết chỉ đập đập tay xuống giường có vẻ bực bội, nói với
vợ, gọi cho Hội nhà văn. Bà Hồng thở dài “Ông ấy cả đời chả bao giờ được
sướng. Uống rượu chả có gì nhắm cũng khề khà. Trông dáng dấp như anh cụ li
222
xe ngồi nhắm rượu ở vỉa hè. Túng thiếu thế, nhưng có tiền (tiền sách) là cúng
ngay cho xã để xây dựng trường học (300 đồng)”.
Tôi thấy trong nhà có một cái tủ ọp ẹp, không có khoá, mở ra thấy chất
đầy bản thảo của Nguyên Hồng. Tôi tìm thấy một cuốn nhật ký. Đọc mấy trang,
thấy hoàn cảnh gia đình Nguyên Hồng hồi ấy thật bi đát. Tôi có ghi được mấy
đoạn:
21.4.1968. Nhà tôi đi lĩnh ngô về thì bị hen. Tôi lại phải làm cơm...
24.4.1968. Sáng tôi đi chợ Nhã Nam mua dây khoai cho lợn ăn bữa
cuối cùng. Khoai lang bán 11 đồng một gánh, tôi không dám mưa. Mua thêm
chục mớ rau muống để về cấy. Tôi đến hàng chị Lương xem ra làm sao, nhưng
không mua được gì cả. Tôi đã bắt đầu viết bản thảo ba “Đôi chim tan lạc và
anh bộ đội”.
26.4.1968. Tôi sang huyện. Mua đôi dép cho Thư 5đ5 và bé Diệu cái
bàn chải đánh răng. Xin mua được 3 thếp giấy và 2 cân dầu.
28.4.1968. Nhà tôi trả trâu. Cái Nhã cắt cỏ, cái Thế đi chăn lần cuối
cùng: “Trâu ơi! Tao giả mày, tao nhớ mày lắm!”. Nó tần ngần mãi khi đưa trạc
cho cái Hạnh.
Mẹ tôi đi xin cơm cho con mèo mướp. Vợ tôi nhá ngô cho các gà con.
Tôi giằm ngô, những hột nở mềm nhất cho mèo ăn.
Chủ nhật trống rỗng. Bầu Hội đồng nhân dân tỉnh. Nhã bắt được 40
con cua. Nhã nấu canh cua với rau khoai lang. Tôi nhắm rượu với mấy con cua
con xào tỏi... Thư, Nhã làm đất trồng rau dền. Bãi rau muống đã hái được.
29.4.1968. Cái Diệu khoe “Nhà cái Quỳnh sắp nhịn đói, nhà ta nhịn
đói đã từ lâu rồi!”. Hôm nhà tôi ốm, nó cũng khoe với các bạn Quỳnh, Các
:”Bu tao sắp chết rồi!”
Nhà tôi rên lên: “Phải, tao sắp chết rồi đây”
Tình cảnh Nguyên Hồng như thế mà không ai dám cứu. Hội nhà văn,
Tỉnh uỷ Bắc Giang, Hội Văn nghệ Hải Phòng đều sợ, không dám hỏi han gì
đến.
Nhưng hoàn cảnh như thế mà Nguyên Hồng vẫn viết, hết Cửa biển (4
tập, mỗi tập 500 trang) lại Núi rừng Yên Thế. Lao động như thế, ăn uống như
thế, ông sống được đến ngoài 60 tuổi kể cũng giỏi!.
Bản lĩnh Nguyên Hồng như thế nên Nguyễn Tuân rất phục. Khi
Nguyên Hồng mất, người ta làm lễ viếng ở 51 Trần Hưng Đạo. Nguyễn Tuân
phát biểu, vừa nói vừa khóc. Ông còn nói với chị Ngọc Trai: “Người ta cứ bảo
tôi bướng, chứ tôi bướng sao bằng Nguyên Hồng!”
Chính trong lễ viếng Nguyên Hồng hôm ấy, chị Lê Minh, phụ trách
mục Văn nghệ trên báo Nhân dân, đặt tôi viết một bài về Nguyên Hồng. Tôi
viết một hơi bài Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng, lấy chuyện mau nước mắt
của ông làm lời kết: “Bây giờ nằm dưới ba thước đất, nguồn nước mắt ấy liệu
có bao giờ khô cạn được chăng?”.
* *
*
223
Nguyên Hồng, trong sinh hoạt, có nhiều cái hết sức nhếch nhác. Xem
Cát bui chân ai của Tô Hoài thì đủ rõ. Nhưng có lẽ chưa bao giờ ông lâm vào
tình trạng nhục nhã, ê chề như trường hợp kể sau đây.
Tôi có một anh bạn thân tên là Trần Văn Lộc. Lâu ngày quá, giờ tôi
không còn nhớ đã quen Lộc trong trường hợp nào và từ bao giờ.
Hồi xưa anh học Sư phạm trung cấp ở Khu học xá Việt Nam tại Nam
Ninh (Trung Quốc). Sau lại về học tiếp ở Đại học Sư phạm Hà Nội. Có một hồi
không hiểu sao anh lại tự sát nhưng cứu được. Tôi đến thăm anh ở bệnh viện,
anh ôm lấy tôi khóc ồ ồ, rất tội.
Trần Văn Lộc là em ruột Trần Văn Nhung. Hồi Nhật đảo chính Pháp ở
Hà Nội (9.3.1945), Trần Văn Nhung theo Nhật đánh Pháp và bị tử thương.
Thời gian học ở khu học xá Nam Ninh, Lộc bị bệnh sa ruột (gọi là sa
đì) phải vào chữa ở bệnh viện Nam Ninh. Đúng lúc ấy, Nguyên Hồng cũng sang
điều trị tại đấy, và cũng bị bệnh ấy. Bị bệnh này thì phải giải phẫu. Giải phẫu thì
phải làm vệ sinh cẩn thận, trước hết phải cạo hết lông ở quanh dương vật rồi bôi
thuốc sát trùng.
Nguyên Hồng lên bàn mổ trước. Mấy cô y tá Trung Quốc trẻ trung,
hồng hào, trắng trẻo, làm công việc này một cách rất tỉ mỉ, cẩn thận, nên kéo dài
rất lâu. Nguyên Hồng hoảng quá. Phải làm sao át đi những ý nghĩ bậy bạ. Ông
bèn nghĩ đến đất nước đang có chiến tranh, khói lửa mịt mù, nhân dân cực khổ.
Nhưng không sao át được. Cái ấy dần dần cương lên. Nhưng cô y tá cứ tiếp tục
công việc một cách tỉ mỉ kỹ lưỡng. Cuối cùng một việc “quốc sỉ” đã xẩy ra, nó
vọt vào áo của cô y tá. Cô gái cứ coi như không có chuyện gì, thản nhiên lau
chùi đi và tiếp tục công việc của mình.
Giải phẫu xong, Nguyên Hồng về phòng, kể nỗi nhục nhã này với Trần
Văn Lộc.
Lộc sợ quá, vội buông màn, tự làm vệ sinh trước.
Con người này quá giầu xúc cảm, lại giầu tưởng tượng. Xuân Diệu nói
Nguyên Hồng có năng khiếu của một nhà văn lớn là thế.
Nhưng lý trí yếu, không làm chủ được. Nguyên Hồng có 7 con. Vợ cứ
đẻ sòn sòn. Xuân Diệu thì rất ghét người đẻ nhiều, vô kế hoạch. Đi đâu ông
cũng tuyên truyền sinh đẻ có kế hoạch. Ông bực với Nguyên Hồng: “Sao đẻ
nhiều thế?”. Nguyên Hồng có câu trả lời rất lạ: “Vì vợ tôi nó xấu”.
Xuân Diệu kể với tôi chuyện này, và nói anh không hiểu được ý nó
muốn nói gì.
Tôi nghĩ chắc là không làm chủ được cảm xúc, không làm chủ được
bản năng thế thôi.
* *
*
Nhưng Nguyên Hồng có mấy ông con thật không ra gì. Luôn oán bố.
Bố chết rồi vẫn thù oán. Tô Hoài nói với tôi như vậy. Đang yên đang lành ở Hà
Nội, đùng đùng đưa cả nhà lên cái quả đồi sỏi đá heo hút, khiến vợ con đói
khát, phải mò cua bắt ốc, ăn khoai ăn sắn. Nhưng bố chết rồi vẫn còn thù oán thì
224
quá tệ. Mà cái lý do ông bỏ biên chế, bỏ Hà Nội, phải nói là rất đáng phục chứ!
Hồi Hải Phòng tổ chức một cuộc hội thảo về Nguyên Hồng nhân ngày
giỗ đầu của ông (Nguyên Hồng vốn là chủ tịch Hội Văn nghệ Hải Phòng),
người ta cho xe đón Hồng Hà (anh con cả của Nguyên Hồng) đi dự. Anh ta
không đi.
Vào khoảng 1986, 1987, tôi có biên soạn cuốn Nguyên Hồng, con
người và sự nghiệp. Tôi nói với Hồng Hà về bảo mẹ kể lại những kỉ niệm về bố
rồi viết lại cho tôi một bài để đưa vào tập sách. Anh ta không làm.
Thế mà sinh thời, Nguyên Hồng từng làm một bài thơ dài rất thống
thiết: “Hồng Hà, con ơi!”
Tôi lo lắng cho cái tủ không khoá ở Nhã Nam dựng các bản thảo, nhật
kí của Nguyên Hồng, nay có còn không?
Nguyên Hồng còn có một người con trai khác tên là Giang vẫn ở Nhã
Nam. Hôm tôi lên thăm mộ Nguyên Hồng, có gặp Giang. Anh ta không nói gì
về sự nghiệp của bố mà cứ khuyên tôi nghiên cứu Tản Đà. Mà cứ nói đi nói lại
mấy lần. Trong khi đó, chưa có ai sưu tầm tài liệu để làm Toàn tập Nguyên
Hồng.
Đúng là Nguyên Hồng chết rồi vẫn khổ!
Láng Hạ 30.12.2007
Chương XV: Nam Cao
Năm 1963, tôi có về làng Đại Hoàng, quê Nam Cao, cùng với NguyễnHoành Khung. Lúc ấy ông bà thân sinh Nam Cao hãy còn sống. Tôi đã được
uống rượu với ông cụ, được ăn cam Đại Hoàng. Tôi còn được gặp cô Hồng con
Nam Cao và một ông em của Nam Cao. Một nông dân tên là Đạt.
Tôi về Đại Hoàng để tìm hiểu những nguyên mẫu nhân vật của tác
phẩm Nam Cao, vì biết ông hay dùng nguyên mẫu. Hồi ấy tôi có hướng dẫn một
sinh viên tên là Bạch Văn Hợp làm luận văn sau đại học (tức luận văn thạc sĩ
sau này) , đề tài là: “Từ nguyên mẫu đến nhân vật truyện của Nam Cao”.
Chí Phèo không phải là người cùng thời với Nam Cao. Đó là một nhân
vật truyền thuyết của làng. Ngày xưa có một anh Chí Phèo, làm nghề mổ lợn,
giỏi bắt phèo nên người ta gọi là Chí Phèo. Anh ta thường uống rượu say, đi
trên đường làng, chửi trời chửi đất lung tung, trẻ con chạy theo hàng đàn. Chí
Phèo không đâm chém ai cả. Còn Bá Kiến thì có nguyên mẫu tên là Bá Bính,
gần giống như Bá Kiến: bóc lột dân, dâm ô, cướp cả vợ bố, ngủ với con dâu.
Cũng có bốn vợ. Tôi có ghi lại mấy câu vè về Bá Bính của dân Đại Hoàng (dân
Đại Hoàng hay làm vè, Nam Cao gọi là trần ngôn):
Nam Sang nhất tổng Cao Đà
Có thằng Bá Nghị tên là sọc nhăng
Ông mà lại hoá ra thằng
Khôn ngoan nhất mực, nói năng ai tày
Bốn đời lý trưởng trong tay
Bao chiếm điền thổ xưa nay đã nhiều
Thuế tháng năm nhà nghèo cùng khổ
Mày lại còn lạm bổ lạm thu
Mang về xây dựng cơ đồ
Lắng tai ta sẽ bảo cho ân cần
(Theo ông Trần Doãn Chấn)
Nghe nói vợ ba Bá Bính bị ta thủ tiêu vì hay ra vào đồn giặc, người ta
cho là Việt gian. Còn vợ tư Bá Bính thì lúc chúng tôi về Đại Hoàng, vẫn còn
sống.
Chí Phèo và Bá Bính chẳng liên quan gì đến nhau cả. Bá Bính chẳng bị
ai đâm chém, còn sống mãi sau cách mạng tháng Tám, và có chân trong Hội
Liên Việt.
Như vậy là truyện Chí Phèo hư cấu nhiều, nhất là nhân vật Chí Phèo.
Nam Cao đã bịa ra vụ án mạng Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát. Ông đã sáng
tạo ra một tính cách độc đáo.
Nhưng truyện Nam Cao đã trở thành sự thật đối với thế hệ trẻ làng Đại
Hoàng. Tôi có đến xem bài viết về lịch sử làng Đại Hoàng trình bầy trên một tờ
giấy lớn đặt ở trụ sở uỷ ban xã, do một học sinh lớp 7 soạn. Anh ta ghi luôn
nhân vật truyện của Nam Cao vào lịch sử: “Xưa có một địa chủ cường hào tên
226
là Bá Kiến...”
Trong truyện Chí Phèo, Nam Cao nói làng Vũ Đại lắm bè phái do kiểu
đất “Quần ngư tranh thực”. Điều này có thật.
Người làng còn nhớ năm cánh:
1. Cánh Bá Bính (Tên thật là Trần Duy Bính)
2. Cánh Nhất Hợp.
3. Cánh Bát Ngọ (tên là Trần Thế Ngọ). Còn có một người thật thuộc
cánh này tên là Năm Ngọ.
4. Cánh Lý Bật.
5. Cánh Bát Tụ.
Còn Thị Nở có người nói có, có người nói không. Cô Hồng, con Nam
Cao, thì nói dứt khoát: “ông ấy bịa”.
Hôm ấy tôi thử hỏi một ông người làng gặp giữa đường có biết Nam
Cao là ai không? Ông nói: “Biết chứ! Nam Cao là một cán bộ trung ương” –
Nghĩa là một ông quan cách mạng to. Ông nông dân này nghĩ thế, chắc vì thấy
nhiều người về thăm, trong đó có cả ông Tây bà đầm đi xe tu bin. Mới biết
người dân Việt nam chỉ trọng quan lại, chứ nhà văn thì là cái quái gì! Ngay ở
nhà Nam Cao, tôi thấy có mấy bức ảnh Nam Cao chụp với gia đình, bị để mốc
và hoen ố hết. Những di vật ấy thì có giá trị gì mà giữ!
Xem cảnh làng Đại Hoàng thì thấy hệt như cảnh làng Vũ Đại trong
truyện Nam Cao: Làng Đại Hoàng nhất thôn nhất xã (xã chỉ có một thôn). Đất
vườn nhiều hơn ruộng lúa. Lúa của làng chỉ đủ để nấu cháo hồ vải. Đàn ông
không biết đi cày. Đàn bà không biết đi cấy. Dân làng làm vườn là chính (gọi là
“bòn vườn”): trồng trầu, trồng cam, trồng chuối, trồng dâu:
Cây trồng cau chuối rườm rà
Cam cam, bưởi bưởi, na na, hồng hồng...
(...)Đất thơm là đất trồng trầu
Bãi bồi là đất trồng dâu cứu bần...
Đại Hoàng có nghề dệt vải. Vào làng cứ nghe ran ran tiếng lách cách
dệt cửi. Truyện Nam Cao cũng hay nói đến nghề dệt, thợ dệt (Dì Hảo, Một bữa
no...)
Người nhiều khôn khéo cũng nhiều
Dệt thoi thoi múa, thi diều diều lên
(Vè Đại Hoàng)
Đại Hoàng cũng như làng Vũ Đại, nằm bên bờ một con sông gọi là
sông Châu Giang (Gió sông thổi lên vườn chuối nhà Chí Phèo, Thị Nở gọi là
“mát như quạt hầu”)
Tìm hiểu Nam Cao nhất thiết phải gặp Tô Hoài. Ông là một nhà văn
hiếm hoi gần gũi và am hiểu Nam Cao rất sâu. (Tô Hoài có một bà dì tên là
Phượng (nguyên mẫu nhân vật Oanh trong Sống mòn của Nam Cao) lấy chồng
làng Đại Hoàng (ông giáo Bao, nguyên mẫu của nhân vật Đích trong Sống
mòn). Bà Phượng phụ trách trường Tiểu học tư thục Công Thành ở Bưởi. Nam
Cao dạy ở đó. Bà Phượng giới thiệu Nam Cao dạy tiếng Pháp cho Tô Hoài.
227
Nam Cao ở nhà Tô Hoài, cùng ngủ chung một giường, đắp chung một cái chăn.
Tô Hoài chưa vợ. Nam Cao có vợ rồi nhưng vợ ở quê. Đêm đêm họ tâm sự với
nhau đủ chuyện.
Theo Tô Hoài, Nam Cao cũng có đủ mọi thói xấu trên đời. Nhưng giầu
lòng thương người và rất ngây thơ, cả tin.
Có một lần hai người đi chơi gái. Họ tìm đến một nhà trọ. Phòng hết.
Có một gái điếm nói nhường cho họ phòng ngủ. Nhưng khi họ vào ngủ thì cô
gái điếm kia vào nằm chen ngay vào giữa. ả than thở về số phận như thế nào đó,
Nam Cao rất xúc động, trong khi đó, ả vẫn sờ soạng và cắn tai Tô Hoài.
Nhưng Nam Cao có một điều đặc biệt là hay xấu hổ về những thói xấu
của mình, về những chỗ tầm thường phàm tục của mình. Chỗ hơn đời, hơn
người của ông chính là chỗ đấy.
Tô Hoài kể cho tôi nghe một chuyện này, tôi cho là rất có ý nghĩa.
Trước 1950, biên giới phía Bắc nước ta còn bị tụi Pháp chiếm giữ. Con đường
số 4 từ Cao Bằng đi Lạng Sơn, Tây kiểm soát. Nó đóng nhiều đồn bốt dọc
đường, thường cho xe cơ giới có vũ trang đi lại để kiểm soát và đặt lính phục
kích ở những lối tắt qua đường. Vì thế cán bộ ta đi công tác qua đường số 4 rất
nguy hiểm. Những đoàn cán bộ muốn qua con đường này phải tập trung ở một
khu rừng gần đó (chỗ Thất Khê), chờ một trinh sát viên đi thăm dò, nếu không
có phục kích, anh ta về báo, các đoàn mới được lệnh vượt nhanh qua đường. Tô
Hoài nói, khi có lệnh xuất phát, tâm lý chung của mọi người là không ai muốn
đi đầu. Vì đã chắc gì không có phục kích. Trinh sát làm sao nắm chắc được tình
hình một trăm phần trăm! Nếu có phục kích thì anh đi đầu hẳn là toi.
Một lần Tô Hoài và Nam Cao phải đi công tác qua đường số 4. Nam
Cao cũng nhát như ai. Khi có lệnh vượt đường, Tô Hoài để ý thấy Nam Cao mặt
tái, người run. Nhưng ông nhất quyết đi đầu. Vừa run vừa đi đầu.
Tôi kết luận, Nam Cao bề ngoài lạnh lùng, ít nói, nhưng bên trong thì
sôi sục, luôn đấu tranh tư tưởng để tự vượt lên bản thân mình. Xét ra ý nghĩa tư
tưởng của truyện Nam Cao là thế: dạy cho người ta biết xấu hổ, hay nói cách
khác, muốn lay tỉnh ở con người ý thức về nhân phẩm, nhân tính. Không phải
chỉ nhân vật trí thức, ngay thằng Chí Phèo cũng đấu tranh tư tưởng để trở lại
làm người lương thiện. Chí Phèo chết như một người khao khát trở lại làm
người.
Nguyên Hồng, Kim Lân đều rất phục Nam Cao.
Lần đầu Kim Lân gặp Nam Cao ở nhà Nguyễn Huy Tưởng, phố Lò
Đúc. Ông thấy Nam Cao rất khiêm tốn, tự thấy minh tầm thường. Lắm mặc
cảm. Có vẻ lạnh nhạt. Không thích vồ vập ai.
Đến kháng chiến chống Pháp thì có thời gian họ ở với nhau. Nam Cao
tỏ ra kính trọng mọi người, phục mọi người, chỉ thấy mình là xoàng. Nhưng có
một lần, uống rượu với thịt châu chết. Kim Lân bốc lên hát tuồng. Như Phong
rút súng lục đùa dí vào cổ người khác. Còn Nam Cao thì lớn tiếng: “Tao đéo
phục thằng Goocki”. Té ra con người này cũng không hẳn chỉ có khiêm tốn
đâu! Nam Cao chỉ phục Sêkhốp, cho Goocki ồn ào quá.
228
Bản thảo của Nam Cao viết rất sạch sẽ. Nhưng không quý bản thảo của
mình. Bản thảo Sống mòn nhờ có Nguyên Hồng giữ mới còn, giữ trong suốt
cuộc kháng chiến, đến khi hoà bình lập lại mới giao cho Hội văn nghệ. Tên
truyện vốn là Chết mòn. Khi in, Xuân Thuỷ đề nghị sửa là Sống mòn.
Nam Cao nhát. Rất sợ máy bay. Kim Lân cho biết như thế. Mỗi lần có
máy bay, ông chạy vội xuống hầm, chui chui, nấp nấp, rất tội. Thế mà ông đã bị
giặc bắt và đem ra bắn.
Hồi ấy Nam Cao vào Thanh hoá dự một hội nghị về văn nghệ. Hội
nghị kết thúc, lẽ ra ông trở về Việt Bắc theo đường số 6. Nhưng ông lại muốn đi
vào vùng địch, tạt về thăm làng mình nghe nói đã thành làng du kích. Ông có
nguyện vọng viết về làng Vũ Đại đứng lên đánh giặc. Đã viết được mấy chục
trang nhưng tự thấy không ra gì nên vất đi. Ông cho là vì thiếu thực tế, nên nhân
dịp này về làng để tìm thực tế. Ông đi theo một đoàn cán bộ tuyên truyền thuế
nông nghiệp, đóng vai một anh y tá hay cán bộ Bình dân học vụ gì đó. Họ đi
bẩy cái thuyền nan, vì lúc đó vùng chiêm trũng Ninh Bình, Hà Nam nước trắng
băng. Nam Cao cùng mấy cán bộ lãnh đạo ngồi chiếc thuyền đầu. Vừa ghé đến
làng Vũ Đại thì sa lưới bọn Commandos. Đoàn đã được thông báo đêm ấy
chúng đã rút đi rồi, hoá ra có một toán đóng ở lại. Thật không may cho Nam
Cao!
Không biết lúc viết Chí Phèo, Chết mòn (tức Sống mòn), Nam Cao đã
tới hay đã nghe nói có một cái làng thật tên là Vũ Đại hay chưa. Làng này thuộc
tỉnh Ninh Bình, giáp với Hà Nam, kề ngay đường số 1 (nay thuộc xã Gia Xuân,
huyện Gia Viễn). Chẳng lẽ lại có một sự trùng hợp ngẫu nhiên một cách kì lạ
thế sao giữa một cái tên làng trong truyện hư cấu với một cái tên làng có thật –
cũng không xa làng Đại Hoàng của Nam Cao bao nhiêu. Một sự kì lạ nữa là
Nam Cao lại bị bắt ở đúng cái làng mang cái tên ấy và bị bắn chết ở đó. Mà sao
ông lại đi trên cái thuyền đầu? Các thuyền sau họ đều chạy thoát cả. Số mệnh
xui nên thế, hay là lại do cái tính cách “vừa run vừa đi đầu” như cái hồi vượt
đường số 4 với Tô Hoài năm nào?
Mà lẽ ra Nam Cao có thể chưa bị thủ tiêu, nếu như đêm ấy không có
chuyện một người trong đoàn cán bộ bị bắt bỏ trốn mà không thoát. Bắt được
mấy cán bộ ViệtMinh ở làng Vũ Đại, bọn Commandos đưa tất cả qua đường số
1 sang giam ở nhà thờ Mưỡu Giáp cách làng chừng vài ba trăm mét. Do cuộc
trốn chạy thất bại của anh cán bộ kia, chúng đem tất cả ra bắn ngay tại cánh
đồng Mưỡu Giáp trước cửa nhà thờ. Đó là vào một đêm tháng 11 – 1951, Nam
Cao mới 36 tuổi.
Như đã nói, viết truyện, Nam Cao hay dùng nguyên mẫu.
Hầu như toàn bộ nhân vật trong Sống mòn đều có nguyên mẫu cả, và
hầu hết đều là người làng Đại Hoàng: nhân vật Oanh, nguyên mẫu là Phượng,
một bà dì của Tô Hoài. Chồng của Oanh là Đích, nguyên mẫu của Đích là giáo
Bao, người Đại Hoàng. San nguyên mẫu là Trần Đức Phấn, hồi Pháp thuộc từng
đăng lính sang Tây, sau 1945 xung phong theo đoàn quân Nam tiến. 1954, tập
kết ra Bắc, đóng lon trung tá, có thời gian phụ trách điện ảnh quân đội. Mô (anh
229
lao công đánh trống trường), nguyên mẫu là Trần Văn Đa, sau cách mạng xung
phong đi phát triển kinh tế miền núi ở Phú Thọ. Bá Kiến, nguyên mẫu là Trần
Duy Bính. Liên vợ giáo Thứ, nguyên mẫu là Trần Thị Sen vợ Nam Cao. Còn
giáo Thứ, nguyên mẫu là tác giả - Trần Hữu Tri, tức Nam Cao.
Sách viết xong năm 1944. Nhưng mãi đến 1956 mới in được.
Trong một bài viết về Nam Cao, Nguyễn Đình Thi cho rằng do tác
phẩm phê phán hiện thực như thế nào đấy nên kiểm duyệt thời Pháp không cho
xuất bản. Thực ra không phải. Có hai lý do: một là khoảng năm 1940 – 1945, do
chiến tranh, giấy khan hiếm. Cuốn tiểu thuyết của Nam Cao lại khá dầy mà tác
giả chưa phải là một tên tuổi ăn khách lắm. In ra, các nhà xuất bản sợ bán không
được. Hai là tác phẩm viết quá sát sự thật về toàn những người quen biết trong
làng mình. Vì thế sách in ra cũng ngại. Ông nói với Tô Hoài, đại ý là phải đợi
cho các nguyên mẫu kia “tịch” hết cả đi rồi mới in được.
Năm 1956, khi sách được xuất bản, hầu hết các nguyên mẫu đều còn
sống cả, chỉ duy có nguyên mẫu của nhân vật giáo Thứ, tức Nam Cao, thì không
còn nữa.
Nam Cao có một tập nhật ký. Tô Hoài giao cho HMĐ. Trong cuốn
sách HMĐ viết về Nam Cao, in năm 1960, 1961 gì đó (Nam Cao, nhà văn hiện
thực xuất sắc), anh có trích vài đoạn trong cuốn nhật kí này.
Cuốn nhật ký ấy nay ở đâu? chắc vẫn trong tay HMĐ. Có của quý, cứ
giữ độc quyền, mà không biết dùng, thật phí. Giống như có gươm báu mà
không biết dùng. Giữ làm gì!
Láng Hạ, tháng 11 – 2007
No comments:
Post a Comment