Chương XVI: Tô Hoài
Nhưng mãi đến năm 2000, tôi mới viết được một bài về ông.
Tôi trước sau vẫn thế, khi viết về một nhà văn nào đó mà chưa hiểu tư
tưởng chi phối một cách có hệ thống sự nghiệp sáng tác của ông ta, thì tôi
không thể viết được. Về Tô Hoài, tôi cứ nghĩ mãi không biết tư tưởng của ông
là gì. Nhiều tác phẩm của ông tôi thích, nhưng không tìm ra một tư tưởng
chung. Tư tưởng Nguyên Tuân là lòng yêu nước, tinh thần dân tộc gắn với
những giá trị văn hoá cổ truyền của đân tộc; Nam Cao là nỗi đau đớn trước tình
trạng con người không giữ nổi nhân tính, nhân phẩm vì miếng cơm manh áo và
cái chất hèn, chất nô lệ đã thấm vào trong máu không biết từ kiếp nào. Xuân
Diệu là niềm khát khao giao cảm hết mình với cuộc đời trần thế này... Còn tư
tưởng Tô Hoài là gì? Tôi lúng túng quá! Trong khi đó, Xuân Diệu có lần nói với
tôi: “Tô Hoài nó chẳng có có tư tưởng gì cả. Nguyễn Đình Thi còn có tư tưởng,
chứ Tô Hoài chẳng tư tưởng gì”. Tôi lại càng hoang mang. Một nhà văn cỡ
như Tô Hoài mà không có tư tưởng! Vô lý quá!.
Hồi tôi biên soạn cuốn Tổng tập văn học Việt Nam tập 30A, 30B (1979,
1980), tôi có đến Tô Hoài mấy lần (ở Đoàn Nhữ Hài). Tôi có một anh bạn tên là
Phan Ngọc Thu, phụ trách trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn
của Đại học Đà Nằng. Anh đứng ra tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn cho
các giáo viên PTTH chuyên văn ở miền Trung, miền Nam. Anh thường mời tôi
và Tô Hoài vào giúp. Vì thế, tôi có dịp gặp Tô Hoài nhiều lần, khi ở Đà Nẵng,
khi ở Bến Tre hay Long Xuyên...
Tôi để ý thấy Tô Hoài, ở đâu cũng thế, mua hết các báo chí hàng ngày
để đọc.Cả báo trung ương và báo địa phương. Đọc cả những tin vặt vãnh linh
tinh. Ông rất chăm đọc báo, nhưng không thích xem ti vi và phim ảnh, dù là
phim Vợ chồng A Phủ do ông soạn kịch bản.
ở khách sạn Long Xuyên có một cái núi non bộ lớn, người ta nuôi cá,
nuôi khỉ, nuôi bồ nông, cò, vạc... Cứ xích chân, xích cổ vào hòn giả sơn. Tôi
thấy Tô Hoài cứ đứng hàng giờ quan sát các con vật và thỉnh thoảng lại phát
hiện ra một điều gì lạ ở chúng, như chân con vạc nó thế nào đấy, hay con khỉ lại
biết chơi trò thủ dâm...
Thì ra Tô Hoài thích quan sát tỉ mỉ, phát hiện những cái lạ ở người hay
những con vật tầm thường quen thuộc quanh ta. Cho nên ông viết nhiều về
phong tục của người dân Nghĩa Đô, quê ông. Và trong thời kháng chiến chống
Pháp, công tác ở Viêt Bắc, ông thích viết về phong tục độc đáo của những dân
tộc H' Mông, Mán... Phong tục, theo tôi, chính là những chuyện lạ đời thường
của các dân tộc. Ông phát hiện người H’mông sinh hoạt có nhiều cái rất Tây:
Váy áo như đầm. Gọt khoai, gọt củ, quay ngược lưỡi dao vào trong. Ăn bánh
bột ngô để nguội hàng tuần như người Tây ăn bánh mì, dùng thìa gỗ hoặc bốc,
không dùng đũa. Theo đạo tin lành. Ông đọc sách của Sabina nói người
231
H’mông đi từ phương Tây, qua Đông Âu, Bắc á rồi bị dồn xuống phương Nam.
Thuyết của Tầu thì cho người H’mông vốn ở vùng sông Dương Tử di cư xuống.
Tô Hoài cho thuyết của Tây đúng hơn. Người Mèo rất khái tính, bị xúc phạm là
tự tử (bằng lá ngón). Nhà có con gái đẹp, thanh niên kéo đến quấy nhiễu đông
quá, có khi ông bố đem súng ra bắn để giải tán. Thời Tây, công sứ Châtel thi
hoa hậu chỉ thi con gái dân tộc thiểu số như gái Hmông, gái Mường, gái Mán...
Tô Hoài, ở Hà Giang, đã gặp hai người đàn bà từng thi hoa hậu ở Hà Nội thời
Pháp thuộc. Người Mán khi ăn xong, cả nhà tắm nước nóng rồi lại mặc quần áo
cũ và đi đất. Về chuyện chợ tình Sa Pa, Tô Hoài cho biết, sự thực, đối với người
Mèo, người Mán, chợ là nơi ăn chơi, nơi gặp gỡ người quen, trong đó có
chuyện trai gái. Nay ta biến thành chợ tình. Rất nhảm!
Tô Hoài hay tả kỹ loài vật và cũng thấy ở chúng có lắm “phong tục” lạ
như người vậy thôi. Sở trường tả loài vật, ở Tô Hoài, xét ra cũng nằm trong cảm
hứng phong tục. Mà hình như về phương diện này, ông cũng chẳng phân biệt
người hay vật. Trong tập truyện O chuột, ông viết về toàn loài vật quanh ta,
nhưng lại xen vào đó một truyện về người (Cu Lặc). Truyện này Nguyễn Minh
Châu rất thích. Ông kể chuyện Cu Lặc không khác gì con vật. Vợ chồng gặp
nhau, lấy nhau do bản năng tình dục.Và họ bỏ nhau vì cả hai đều ăn khoẻ quá,
không sống nổi với nhau được.
Tô Hoài khác với phần lớn văn nghệ sĩ, không ngại làm những công
việc sự vụ hành chính, những công việc vặt vãnh chẳng “văn chương” chút nào.
Ông nhận đủ việc, từ đại biểu quốc hội, chấp hành Hội nhà văn trung ương, chủ
tịch Hội văn nghệ Hà Nội, đến tổ trưởng khu phố. Việc gì cũng làm. Cũng đi
tuần tra ban đêm, cũng đôn đốc “triệt để chó”, cũng đến từng gia đình kiểm tra
hố xí hai ngăn... Về hưu, ông không sinh hoạt chi bộ ở cơ quan Hội nhà văn như
hầu hết các nhà văn cao tuổi khác, mà sinh hoạt với chi bộ địa phương. Và ông
không muốn người ta biết mình là nhà văn. Vì ông thích nói chuyện với mọi
người như một người thường nói chuyện với người thường về những chuyện
thường.
Tôi để ý đến cặp mắt của ông: nhỏ, dài và hẹp. Gọi là mắt ti hí. Mắt
như thế là tinh quái lắm. Cái gì cũng biết, không gì qua mắt được. Mà toàn phát
hiện những điều ngộ nghĩnh, buồn cười ở người ta và diễn đạt bằng một vài từ
rất gọn và đích đáng. Người nào bị phát hiện ở khía cạnh ấy lập tức trở thành
tầm thường. Ngay – danh nhân, vĩ nhân cũng vậy. Thí dụ, ông cho Nhật kí
trong tù của Hồ Chí Minh chỉ là một tập thơ kêu oan. Kể ra cũng đúng:
Ta người ngay thẳng lòng trong trắng
Lại bị tình nghi là Hán gian
(Đường đời hiểm trở)
Hôm nay xiềng sắt thay giây trói
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung
Tuy bị tình nghi là gián điệp
Mà như khanh tướng vẻ ung dung
(Đi Nam Ninh)
232
Những bài thơ như thế thì đúng là thơ kêu oan. Nhưng coi Nhật kí
trong tù chỉ là tập thơ kêu oan thì quả là đã tầm thường hoá tập thơ của cụ Hồ.
Phạm Tiến Duật khi nói thì đúng là khua môi múa mép, ông gọi là
thằng lái trâu. Còn Chế Lan Viên thì ông gọi là thằng “nặc nô” của Đảng. Ông
phát hiện Huy Cận ngày nào cũng ra trụ sở Hội Liên hiệp văn nghệ (51 Trần
Hưng Đạo), tuy chả có việc gì cả, chỉ cốt được ăn một bát phở miễn phí. Huy
Cận rất tham, đi đâu cũng vơ vét, càm cắp. Tô Hoài kể chuyện, một lần ông và
Nguyên Ngọc tình cờ gặp Huy Cận ở sân bay quốc tế Mạc Tư Khoa. Tự nhiên
Cận lân la đến vỗ vai nói chuyện thân mật với Nguyên Ngọc. Tô Hoài vội bấm
Nguyên Ngọc lảng đi: “Này nó sắp gạ ông xách đồ cho nó đấy!”. Quả nhiên,
sau đấy Huy Cận hai tay xách hai cái cặp nặng, lại buộc giây kéo một cái thùng
giấy lệt xệt đằng sau. Buồn cười nhất là ông phát hiện Nguyễn Xuân Sanh sở dĩ
bị Tố Hữu ghét, vì chỉnh huấn, chuyển biến nhanh quá, không đúng quy luật -
đấu tranh tư tưởng thì phải lâu dài gian khổ chứ! Còn Hoàng Cầm thì hồi bị tù,
hết hạn người ta cho ra, lại xin ở lại thêm để viết nốt bản kiểm thảo. Ông cho
biết Thợ Rèn sở dĩ nổi tiếng là vì lúc đầu người ta tưởng là Cụ Hồ, là bút danh
của Cụ Hồ. Thanh Tịnh thì ai đến chơi cũng đem đồ cổ ra khoe. Nhưng theo Tô
Hoài, ông ta cứ tán ra thế thôi, chứ nhiều cái ông ta bê ở Bát Tràng về. Bùi
Giáng thì rất mê Kim Cương, chỉ ước khi chết, được Kim Cương đái lên mồ...
Trương Tửu là tay huênh hoang thế thôi, thực chất chỉ là trôtkit mồm... Mấy
ông Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Đồ Phồn, Huyền Kiêu thì tự thấy trước cách
mạng có tội nên ra sức nịnh đảng...
Có những chuyện có lẽ chỉ có Tô Hoài mới đi kể với người khác. Vì là
chuyện rất nhếch nhác, rất bẩn. Mà là chuyện của bản thân ông. Tôi nhớ hồi ở
khách sạn Traphaco, Đà Nẵng, tự nhiên ông kể với tôi chuyện ấy. Chứ tôi có
hỏi đâu, có biết đâu mà hỏi: “Hồi hoạt động Văn hoá cứu quốc ở Hà Nội, bị lộ,
nó bắt bốn người: Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Hữu Đang, Như Phong
và đưa về Nam Định xử. Vì Vũ Quốc Uy bị bắt ở Nam Định khai ra. Nguyễn
Đình Thi, Như Phong, gia đình có tiền chạy án nên được tha. Tôi và Nguyễn
Hữu Đang nhờ thế cũng được tha. Trước khi thả ra, nó giam chúng tôi ở nhà
lao Nam Định, bốn thằng giam chung một phòng. Ngồi buồn tình, bốn thằng tụt
quần ra thi cái ấy xem cái của thằng nào to. Của Thi dài đuỗn ra như quả chuối
tiêu, được nhất, Nguyễn Hữu Đang nhì, nhưng Đang không chịu vì Đang cho
của mình ngắn hơn nhưng to hơn. Tô Hoài và Như Phong bét.
Đấy, gặp Tô Hoài một hai buổi là biết đủ mọi thứ chuyện linh tinh như
thế. Và nghe ông nói một chập, thấy con người ta, nói chung đều tầm thường cả
thôi, đều là người thường vậy thôi. Mà cuộc đời không có ai là thần thánh thì
cũng vui, thì càng vui chứ sao! Tôi chắc Tô Hoài nghĩ như thế. Vì khi kể những
chuyện ấy, ông có vẻ lấy làm thú vị.
Nhận xét văn của người khác, Tô Hoài cũng thường phát hiện rất tinh
những nhược điểm. Thí dụ, văn Anh Đức là thứ văn cải lương, có lúc viết anh
hùng là “hùng anh”. Nguyễn Khải xây dựng nhân vật theo lối ghi chép rất sáng
tạo, nhưng văn Nguyễn Khải vậy mà chưa thoát được lối biền ngẫu. Nguyễn
233
Đình Thi là anh sinh viên, rất xa đời sống, nên mắt không chọc thủng được tờ
giấy để nhìn vào hiện thực. Thi tả cảnh chùa có cây bạch đàn. Xưa làm gì có
bạch đàn ở chùa! Thơ Bùi Giáng, theo ông cũng là một thứ thơ Bút Tre. Thơ
Hoàng Cầm thì là thứ vàng mã trang kim. Một thứ thơ trang sức hoa lá cành,
sơn son, giát vàng, thực chất không có gì. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức viết văn
học sử, tuy có tài liệu đấy, nhưng không có hồn. Lưu Trọng Lư giờ hết thời rồi.
Tài năng cũng chỉ có một thời thôi. Thơ Huy Cận và thơ Tố Hữu giờ chỉ còn là
thơ thù tạc. Vậy mà Huy Cận cứ tuyên bố: “Chưa bao giờ tôi sáng tác dồi dào
như bây giờ”... Tô Hoài biết rõ cả lai lịch Bút Tre. Bút Tre tên thật là Đặng Văn
Đăng, sáng tác trước cả Tô Hoài, ký tên Lục Y Lang, Chàng áo xanh, có bằng tú
tài Tây. Bút Tre định lăng xê một kiểu thơ sử dụng rộng rãi enjambement, chứ
không phải anh vô học làm thơ... Tô Hoài đọc cả những cây bút trẻ. Ông cho
bọn này có học. Viết được. Nhưng thiếu một cái gì đó. Thiếu chữ của riêng
mình, thiếu phong cách. Hồ Anh Thái, viết mới đấy. Nhưng rắc rối, khó hiểu.
Chưa thấy hay. Bọn trẻ nói chung rất kiêu ngạo. Nguyễn Huy Thiệp giỏi viết cái
ác. Phạm Thị Hoài rất trí thức, đồng thời lại muốn dân dã...
Một điều lạ là Tô Hoài biết cả những chuyện đời tư, rất riêng tư, thậm
chí cả những chuyện thầm kín của người ta một cách rất cụ thể. Biết có đầu có
đuôi, có ngành có ngọn, nói ra vanh vách. Ông nói, do phụ trách đảng uỷ văn
nghệ nên biết nhiều chuyện, nhất là qua những đợt kiểm tra đảng.
Một vài ví dụ: Ngân Giang từng lấy nhiều chồng, có nhiều con. Hồi
kháng chiến ở vùng tự do dinh tê vào thành. Giải phóng Hà Nội là viên chức
lưu dung. Vì thế có mặc cảm, nên hay khoe mình đã tham gia kháng chiến.
Anh Thơ lấy một bác sĩ tên là Vịnh, người miền Nam tập kết, công tác
ở bênh viện Việt Xô. Bà Trường và Nguyễn Đình Thi làm mối. Anh Thơ có
thời gian vào Nam, làm tập thơ Quê chồng. Sau lại bỏ ra Hà Nội. Chồng theo ra
và chết ở Hà Nội. Hồi kháng chiến Anh Thơ định lấy Tây địch vận. Hồi ấy có
phong trào phụ nữ xung phong lấy hàng binh làm địch vận cho ta. Sau có người
theo chồng sang Pháp, tự hào là đã tham gia công tác cách mạng, như diễn viên
múa Thuý Cẩm... Lấy Tây cũng là hy sinh vì nước, như Chiêu quân cống Hồ
trong truyện cổ...
Anh Thơ viết hồi ký bịa ra nhiều chuyện cụ thể như thật. Vì có mặc
cảm mình xấu nên cứ bịa ra là mình ngày xưa rất đẹp, lắm người mê, như
Nguyễn Bính chẳng hạn. Tô Hoài nói : “Bà ấy mà mê Nguyễn Bính, chưa chắc
Bính đã xúc động gì. Bính nó có hàng trăm gái theo ấy chứ. Anh Thơ lúc trẻ
cũng xấu, lợi hở như miếng thịt trâu. Tính thì đồng bóng. Sang Liên Xô với
Nguyễn Văn Bổng, Thanh Tịnh, lại hỏi thăm Goocki, tưởng ông ấy còn sống.
Anh Thơ mà đẹp thì chết với tôi rồi!”.
Nguyễn Bính xấu giai thế mà lắm vợ. Bính là con một ông có Hán học,
phụ trách trạm ngựa. Nhà khá nhưng sa sút. Giống gia đình Nam Cao. Vì thế
Trúc Đường là anh thì được học hành tử tế (như Nam Cao), còn Bính thì không
được học mấy.
Bính vào Nam, từ trước 1945. Năm 1954, không có tiêu chuẩn tập kết
234
vẫn cứ ra Bắc. Trước khi ra Bắc có lấy một người vợ đẻ ra cô con gái nay phụ
trách Sở Giáo dục Bến Tre. ở Hà Nội, Tố Hữu bầy ra tờ báo tư nhân Trăm hoa
giao cho Bính. Bính làm trái ý Tố Hữu, bị phê phán, Bính bực mình bỏ đi Nam
Định. Bính có hai vợ chính thức. Hiện cả hai đều làm bảo tàng lưu niệm
Nguyễn Bính.
NTNT trước dạy học ở Sơn Tây, có mối tình đầu với Nguyễn Quang
Sáng, Sáng giúp T viết văn. T có lần tặng Sáng một bó hoa bảo là vừa tự tay
hái ở vườn về. Sáng xem hoa thấy không có cuống, cắm tăm, tức lắm, tìm T, tát
cho một cái. T hay viết nhật ký, Chánh là chồng, bắt được, lộ hết chuyện bồ
bịch. NTTH lắm lúc chất vấn mẹ: “Con là con ai? Con Nguyễn Quang Sáng,
Thu Bồn, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Văn Bổn, Xuân Trình... hay ông Chánh?
H cũng đã có hai đời chồng.
PTTN cũng có hai đời chồng. Sau yêu một bồ nhí, có cưới hẳn hoi,
nhưng sau nó bỏ. Không có con. (Tôi hỏi Tô Hoài: “Dương Thu Hương bảo tôi,
YN thì mê Nguyễn Đình Thi, còn PTTN thì mê Tô Hoài , có đúng thế không?”
Tô Hoài nói: “Cô ấy xấu, tôi không thích”.
Bạch Diệp lấy Xuân Diệu. Vì cao tuổi mới lấy chồng nên thiết thực và
cảnh giác. Đám cưới tổ chức to nhưng không đăng kí kết hôn. Xuân Diệu chắc
do thủ dâm nhiều nên bất lực. Như gà nhẩy lên là tuột ngay. Bạch Diệp bỏ luôn,
sau có lấy chồng khác nhưng không có con.
Nguyễn Đình Thi lấy vợ sớm, có ba con, hai trai, một gái: Lễ, Chính,
Như. Thi ở gửi rể. Vợ chết, gia đình vợ định gả cô em tên là Nghĩa cho. Nhưng
cô này bị sốt ác tính chết. Hoà bình lập lại, Thi cần có vợ, định nhằm con gái cụ
Ngô Tất Tố hay cô Hồng con Nam Cao. Sau người ta làm mối lấy bà Trường,
nhưng không có con. Thi nam tính mạnh, người đen, nói chuyện có duyên, đàn
bà thích. Nhưng Thi là tay bạc tình, ngủ với cô này đã nghĩ đến cô khác. Gia
đình Nguyễn Đình Thi như cái địa ngục. Thi hay bồ bịch, còn bà Trường thì
ghen ghê gớm. Gia đình cụ Ngô Tất Tố cũng thế, cụ sống với hai bà vợ suốt
ngày xung đột...
Chế Lan Viên trước cách mạng, có thời gian dạy học ở Đà Nẵng. Có
một nữ sinh tên là Giáo rất mê. Giáo nhà giầu, gia đình không cho lấy Chế Lan
Viên. Cô cứ đến ở với Chế Lan Viên, mãi đến cách mạng tháng Tám mới cưới.
Hoà bình lập lại ở miền Bắc, hai vợ chồng sống ở Hà Nội. Chế Lan
Viên ốm, phải sang chữa ở Trung Quốc. Giáo ngoại tình với một tay làm mi báo
tên là Quang. Chế Lan Viên chữa bệnh về, biết chuyện nhưng định bỏ qua. Hai
vợ chồng đêm nằm đắp chung chăn, nói chuyện. Giáo nói, cái đầu của em thì
thuộc về anh, nhưng thân mình em thì thuộc về Quang. Vậy là họ không trở lại
với nhau được. Sau Chế Lan Viên lấy Vũ Thị Thường, cán bộ phụ nữ, quê Thái
Bình, đã quá lứa lỡ thì. Thường xui Chế vào Sài Gòn ở, một là Thường có bà
con di cư ở trong ấy, hai là vì vợ cũ của Chế hay đến bám quấy nhiễu, xin tiền...
Đúng là chẳng có chuyện gì dấu ông được. Ông biết cả chuyện Lưu
Trọng Lư túng tiền, ăn cắp xe đạp của Chế Lan Viên bán; Học Phi thì hủ hoá
nhiều quá, biết tội nên xin đi B. Còn Trần Huyền Trân thì sở dĩ bị khai trừ, vì
235
lấy vợ nghệ sĩ, hai vợ chồng cứ dắt nhau đi lang thang biểu diễn, không sinh
hoạt đảng. Lê Văn Trương thuộc thế hệ đàn anh của ông, nhưng ông có đến nhà.
Ông rất sợ, vì trên bàn Lê Văn Trương có bầy hai cái đầu lâu. Lê Văn Trương,
Đinh Hùng thích chơi đầu lâu. Lê Văn Trương tiêu sài rất hoang vì viết khoẻ, có
tiền. Ông quen cả hai tay nhà văn tên là Hiến và Hồng viết thuê cho Lê Văn
Trương vì túng tiền. Tô Hoài không thích văn Lê Văn Trương nhưng thích nhân
vật người hùng của Lê Văn Trương. Triết lý sức mạnh của Lê Văn Trương là do
Trương đọc bản dịch Nietzsche của Phạm Ngọc Khuê. Khuê và Trương Tửu là
trốtkit...
Về vụ Nhân văn – Giai phẩm, thế mà không phải ai cũng biết rõ. Tô
Hoài thì nắm được từ gốc đến ngọn. Theo Tô Hoài, đó thực chất là một vụ án
chính trị, nhưng vì quàng vào một số nhà văn nên người ta cứ tưởng là một vụ
án văn chương. Nhân sai lầm của cải cách ruộng đất và ta chuẩn bị cải tạo tư
sản ở Hà Nội, hai thằng Tây, một là Tổng giám mục ở nhà thờ Hà Nội tên là
Dudley, hai là tay tuỳ viên văn hoá của Sứ quán Pháp tên là Durand Fischer,
bèn xúi giục mấy ông đảng xã hội: Hoàng Văn Đức, Đỗ Đức Dục, Vũ Đình Hoè
đòi ngang quyền với đảng Lao động. Fischer có liên hệ với Nguyễn Hữu Đang,
Thuỵ An, Minh Đức (Trần Thiếu Bảo). Lúc này tư nhân ra báo không phải xin
phép (hồi ấy ta vẫn còn theo chế độ của Pháp). Ta bắt ba người có dính đến
Pháp là Đang, An và Bảo. Còn hai thằng Tây thì ra lệnh trục xuất khỏi Việt
Nam sau một tuần lễ. Còn Hoàng Văn Đức, Đỗ Đức Dục, Vũ Đình Hoè thì lặng
lẽ cho thôi thứ trưởng. Chuyện có thế thôi, có thể tổng kết rõ ràng, nhưng chẳng
có ai làm cả. Bây giờ sửa sai thì cứ lặng lẽ kết nạp lại vào Hội nhà văn và tặng
giải thưởng Nhà nước cho mấy ông Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm... Cho nên
vụ án vẫn mù mờ chưa mấy người hiểu rõ.
Tổng chỉ huy chống nhân văn là Hoàng Văn Hoan. Tố Hữu chỉ là
người thừa hành.
Ta có một trại giam tù chính trị ở Quảng Bạ (Hà Giang). Có người bị
giam suốt đời ở đó như Chu Bá Phượng. Còn Nguyễn Hữu Đang thì bị giam 15
năm. Khi ra tù, phụ cấp cho 40 đồng một tháng. Đang khi ra tù không hề biết có
cuộc chiến tranh chống Mỹ và sự kiện giải phóng miền Nam 30.4.1975.
Đúng là Tô Hoài cái gì cũng biết. Mà toàn thiên về phía mặt trái của
cuộc đời, mặt trái của người đời.
Những hiểu biết tỉ mỉ, thóc mách như thế, ông cứ nhẩn nha, đều đều kể
lại với tôi. Có lẽ vì ông thấy tôi khoái những chuyện ấy và ông cũng thích kể
những chuyện ấy.
Vậy là đã rõ. Tôi bèn viết bài Tô Hoài với quan niệm con người là con
người. Tôi cho rằng tư tưởng chi phối mọi tác phẩm củaTô Hoài là thế. Nghĩa là
trên đời này chẳng có ai là thần thánh gì hết. Cho nên Tô Hoài có cảm hứng đặc
biệt viết về đời thường, người thường, chuyện thường. Cứ đều đều một giọng
sành sỏi lọc lõi, cố che dấu một nụ cười tinh quái, có phần khinh bạc. Tô Hoài
có lúc còn chủ trương viết những chuyện chẳng cần có chuyện, càng nhạt càng
hay – có lần ông nói với tôi như vậy và tự thấy là một thuyết kì quặc của mình.
236
Nhưng ông từng nghĩ như thế. Mỹ học của Tô Hoài là như vậy chăng?
Tất nhiên trong thời chiến tranh, ông không thể không phải khuôn theo
xu hướng chung của nền văn học cả nước, nghĩa là phục vụ chính trị, ca ngợi
chủ nghĩa anh hùng. Nhưng ngay thời ấy, đôi khi ông cũng cho xen vào ít
nhiều khía cạnh “người thường” ở những nhân vật anh hùng. Như nữ cán bộ
cách mạng Hai Tâm đa dâm, lẳng lơ trong tiểu thuyết Mười năm chẳng hạn. Tác
phẩm này vì thế đã từng bị phê phán kịch liệt. Thậm chí dân Hà Đông còn kéo
đến phản đối tác giả, cho là ông đã bôi nhọ người quê mình.
Còn những tác phẩm như Truyện Tây Bắc, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ,
Kim Đồng, Vừ A Dính, Miền Tây thì đúng là chuyện anh hùng. Nhưng ông tự
đánh giá chỉ có những trang tả cảnh miền núi là đáng kể, ngoài ra không có gì
đặc sắc. Cảnh chiến đấu viết không bằng cảnh phong tục.
Nhưng truyện Tô Hoài viết sau 1975, nhất là sau 1986, mới thực sự là
Tô Hoài: Chiều chiều, Cát bụi chân ai, Ba người khác, Giấc mơ ông thợ dìu...
Chuyện đời thường, người thường nổi trội hẳn lên. Nhưng thường mà vẫn lạ
mới là vănTô Hoài. Phát hiện những cái lạ trong những chuyện vặt vãnh đời
thường chính là chỗ sắc sảo, lọc lõi, tinh quái của ông. Vì thế tôi gọi Tô Hoài là
“Nhà văn của chuyện lạ đời thường”.
Nhớ hồi ông làm nhóm trưởng nhóm nghiên cứu một đề tài khoa học
(đề tài “Văn hoá và phát triển”), có Hoàng Ngọc Hiến, Vương Trí Nhàn, Ngọc
Trai tham gia. Hoàng Ngọc Hiến kể rằng, ông đưa Ngọc Trai vào chẳng qua là
để tổ chức những bữa liên hoan cho tốt, vì Ngọc Trai người Huế, nấu ăn rất
giỏi. Mỗi lần họp nhóm, Hiến để ý thấy ông tỏ ra khó chịu khi anh đến đúng
giờ. Rút kinh nghiệm, lần sau anh đến muộn, quả nhiên thấy ông tươi vui hẳn
lên. Đúng ông rất ghét quan trọng hoá. Đến đúng giờ tức là quan trọng hoá.
Chắc hẳn, ông nghĩ, làm khoa học ở cái nước này là chỉ làm chơi, cốt tiêu tiền
nhà nước cho vui thôi mà. Có gì quan trọng đâu!
Đối với chuyện viết văn, Tô Hoài cũng không hề quan trọng hoá: Viết
văn khó, nói thế thì đúng, nhưng nói là một nghề đặc biệt khác thường thì
không phải. Cũng như các nghề khác thôi, như làm ruộng, làm mộc, làm rèn
hay chài lưới vậy thôi. Ông không tán thành tác phong tài tử, viết phải đợi có
cảm hứng. Tại sao không làm như các nghề bình thường khác vẫn làm! Không
hứng cũng cứ viết. Còn viết hỏng, bỏ đi, lại là chuyện khác.
Mà nghề văn đâu phải là nghề khổ nhất. Nguyễn Vỹ làm thơ: “Nhà
văn Annam khổ như chó”. Nguyễn Vỹ có bằng tú tài, hắn có khổ gì lắm đâu!
Nhiều nghề khác khổ hơn chứ!.
Nhưng đã là nghề thì phải học nghề. Nhiều anh viết chưa có nghề. Phải
chuyên môn hoá, thành nghề hẳn hoi. Đừng viết nhiều thể văn khác nhau. Làm
chơi thì được, như thỉnh thoảng ông có làm thơ. Nhưng làm thật thì không nên.
Về mặt học thì Tô Hoài rất chịu khó. Cái học nhà trường của ông
không nhiều, nên ông phải gắng tự học. Ông học tiếng Pháp Nam Cao. Ông có
bà dì tên là Phượng dạy trường Tiểu học tư thục Công Thành ở dốc Tam Đa.
Nam Cao cũng dạy ở đấy. Bà Phượng (nguyên mẫu của nhân vật Oanh trong
237
Sống mòn) giới thiệu Nam Cao dạy tiếng Pháp cho Tô Hoài. Lúc ấy trò đã có
tên tuổi rồi, mà thày thì chưa.
Hồi Pháp thuộc, đọc thư viện lớn ở Tràng Thi, phải có bằng thành
chung (diplôme). Tô Hoài chỉ mới học hết cấp tiểu học. Ông đến Vũ Ngọc Phan
nhờ giới thiệu với thư viện Hà Nội để đọc sách. Vũ Ngọc Phan có một biệt thự
ở Thái Hà ấp. Phan nói cứ đến đọc sách ở thư viện riêng của ông, ông hướng
dẫn cho. Tô Hoài thành ra rất thân với gia đình Vũ Ngọc Phan, nhiều khi cùng
ăn cơm với gia đình. Nhà Vũ Ngọc Phan cũng gần nhà cụ Lê Dư -Sở Cuồng là
bố vợ của Phan. Mấy chị em Hằng Phương, Hằng Huân, Hằng Phấn... con cụ Lê
Dư đều rất đẹp. Các cô ngồi xe nhà đi học, bao nhiêu thằng bám theo. Bọn Đinh
Hùng ghen với Tô Hoài về cái số may mắn của ông. Nhưng lúc bấy giờ Tô Hoài
chỉ là một chàng trai nhà quê, mặc áo dài thâm, đi guốc, ăn thua gì! ở nhà Vũ
Ngọc Phan, Tô Hoài đọc được nhiều tiểu thuyết Pháp.
Ông cũng chịu khó đọc tác phẩm của các nhà văn khác, đọc cả sách lý
luận phê bình, sách văn học sử, đọc từ Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Nguyễn
Đăng Mạnh đến Phong Lê, Trần Hữu Tá, đọc cả Văn Giá... Đọc và có nhận xét
hẳn hoi.
Đến thời kháng chiến, lên Tây Bắc, để hiểu người Hmông, ông học
tiếng H’mông. Một lần đi cùng vợ chồng A Phủ từ Phù Yên lên Điện Biên, ông
vừa đi vừa học tiếng H’mông. Ông còn đọc nhiều sách nghiên cứu về các dân
tộc Hmông, Mán, sách về tục ngữ Mường... Nguyễn Tuân cũng đi Tấy Bắc,
nhưng theo Tô Hoài, chủ yếu là đi xem vườn hoa cây cảnh, còn ông mới đi sâu
nghiên cứu các dân tộc, tuy bên cạnh đó cũng có thú giang hồ, xê dịch, thú
exotique chẳng kém gì Nguyễn Tuân.
Ông đặc biệt rất chú ý học chữ. Ông chê nhiều người viết văn bây giờ
thiếu chữ và dùng chữ rất ẩu. Nhiều chữ họ không hiểu. Làm văn thì phải học
chữ. Có cách học và chịu khó thì lúc nào cũng học được. Ngôn ngữ Việt Nam
rất phong phú về những từ tế nhị như những từ chung quanh chuyện ăn, uống,
chết... Ông cho nên biên soạn một cuốn từ điển về từ ngữ các nghề nghiệp. Ông
thấy tiếng Việt ta có chữ “ăn nằm” rất hay, tránh nói thô. Ông phân biệt “mồm”
với “miệng”. Nói “miệng’ sang hơn nói “mồm”. Cờ nhà chùa thì phải gọi là cờ
“điều” chứ không phải là cờ đỏ, sơn đen thì phải gọi là sơn “then”, quần đen thì
phải gọi quần “thâm”... Ông khoe học được một từ nghề nghiệp mới: “ thầy
dìu”. Thầy dìu là thầy dạy khiêu vũ, dìu dắt (entrainer) người tập khiêu vũ.
Theo ông “tai vách mạch rừng” vốn là “tai vách mạch dứng”. Còn “run như cầy
sấy”, Xuân Diệu cho đúng ra phải là “run như cây sậy” . Nhưng Tô Hoài cho
thế là Tây nói chứ không phải ta nói...1
1 Có một chuyện rất vui là, vào những năm 60 của thế kỉ trước, Phạm Văn Đồng có đề xướng một cuộc vận động gọi là “Gìn
giữ sự trong sáng của tiếng Việt”. Ông triệu tập một số nhà văn, nhà ngôn ngữ đến trao đổi về vấn đề này. Tô Hoài không
được mời vì bịcoi làviết sai tiếng Việt, sai ngữ pháp, nghĩa là vi phạm vào sự trong sáng của tiếng Việt (!). Chính Tô Hoài
nói cho tôi biêt chuyện này)
238
Tô Hoài chủ trương chỉ viết về cái gì đích thân mình có sống, có quan
sát được, viết bằng thực tế và tình cảm của mình, không thích viết những cái chỉ
nghe người khác kẻ lại. Một đầu óc rất tỉnh táo, chỉ tin ở sự thể nghiệm của bản
thân mình. Ông đi cải cách ruộng đất bốn lượt, từng làm đội phó phụ trách toà
án. Vậy mà ông kết luận trái hẳn với đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn:
“Cơ sở cách mạng trước 1945 phải là trung nông trở lên, chứ dựa vào bần cố
nông, nó đói, nó “bán” cách mạng ngay”.
Viết văn, Tô Hoài không băn khoăn về chuyện thể loại, chỉ cốt nói
được rõ ràng ý định của mình. Nhưng tôi thấy dù viết tiểu thuyết, truyện ngắn
hay ký, dù viết về đề tài gì, tác phẩm của ông cũng có tính chất hồi ký, tự truyện
– Hình như ông có một thói quen có thể gọi là tư duy – hồi cố hay cảm hứng hồi
tưởng.
Tô Hoài nói, ông tán thành quan niệm của A. Maurois rằng sự thật của
quá khứ khi hồi tưởng lại không tách biệt với cái hiện tại – quá khứ, hiện tại lẫn
vào nhau như là đồng hiện vậy. Tôi đọc bài ký Ông già ở Agra, thấy đúng như
thế. Tôi rất thích tác phẩm này của ông. (André Maurois đề tựa cuốn Đi tìm thời
gian đã mất của Marcel Proust, có câu: “Sự cặp đôi cảm giác hiện tại với kỉ
niệm sống lại đối với thời gian, cùng chính là kính hội tụ đối với không gian”).
Tô Hoài cho viết truyện thì phải lấy nhân vật làm gốc. Chữa văn là
chữa nhân vật. Thừa hay thiếu cũng là từ nhân vật. Ông tán thành kinh nghiệm
của Fadéev: “Viết một câu, rồi câu thứ hai, câu thứ ba cùng đều đều như câu
đầu tiên tức là tuột dần vào một thứ tẻ nhạt khó chịu. Phải tránh đặt câu giống
nhau, phải làm sao cho câu văn nổi bắp, nổi gân lên”. Phải viết sao cho người
ta đọc văn mình, đọc đi đọc lại, vẫn thấy hay. Có truyện đọc lần đầu thấy hay.
Đọc lại không thấy hay nữa. Văn phải đọc đi đọc lại, phải thử đi thử lại mới
đáng tin.”
Tô Hoài đi nhiều, xê dịch còn hơn cả Nguyễn Tuân. Trước cách mạng
tháng Tám, ông đã đi khắp Bắc Trung Nam. Vừa đi vừa viết. Bài gửi về cho nhà
Tân Dân, và nhận nhuận bút qua bưu điện. Ông cho biết, truyện Trăng thề viết
ở Dầu Tiếng...
Nhưng ông cho rằng, mỗi người có một quê hương. Đi khắp nơi để lại
càng hiểu sâu hơn quê hương mình. Vậy là thực tế tự nhiên và những vui buồn
của quê hương ông vẫn là nguồn chất liệu chính đã bồi đắp nên tâm hồn các
nhân vật của ông và những trang viết của ông. Ông vẫn là nhà văn của Nghĩa
Đô, của sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức - Ông là Tô Hoài.
Tô Hoài còn có một trí nhớ tuyệt vời. Ông lên Đà Lạt viết Chiều chiều,
không đem theo một tài liệu nào hết. Viết xong về nhà mới kiểm tra lại tư liệu.
Ông không thích trực tiếp nói tình cảm của mình, muốn nói tình cảm
qua những cái mình mô tả.
Có người xui ông viết tiếp Dế mèn phiêu lưu ký. Ông nói, tôi không
viết. Tôi không dại như Lưu Trọng Lư, viết Tiếng thu II, Tiếng thu III, chẳng ra
gì cả. Đúng là Tô Hoài rất tỉnh. Nhìn người khác hay nhìn mình đều rất tỉnh.
Tỉnh đối với mình, không dễ đâu!.
239
* *
*
Tô Hoài quê ở làng Cát Động, huyện Thanh Oai. Nhưng sinh ở Nghĩa
Đô. Mãi đến năm 20 tuổi mới về quê nội. Mà cũng chỉ thỉnh thoảng thôi. Ông
thân sinh bỏ đi Sài Gòn biền biệt từ khi ông còn nhỏ. Nhà có khung cửi. Ông
cũng biết dệt. Nghĩa Đô có nghề dệt lĩnh, dệt lụa và làm giấy.
Ông lớn lên trong cảnh tàn tạ của làng quê. Nghề dệt, nghề giấy đều lụi
dần. Năm đói (1945) người chết la liệt. Nội thành được phát bông gạo. Nghĩa
Đô thuộc ngoại thành nên tuy chỉ cách có một con đường mà cả làng chết đói –
người ta chỉ phát bông gạo tới Thuỵ Khuê thôi.
Đấy, quê hương, nơi đi về của kí ức ông là như thế. Cho nên truyện
củaTô Hoài nói chung là buồn. Chuyện nhà, chuyện cửa, chuyện làng xóm đều
buồn. Toàn kí ức buồn. Mà kí ức tuổi thơ bao giờ cũng sâu đậm và lâu bền nhất.
Bản thân ít được học. Lang thang lêu lổng, bắt chim, đúc dế... Lớn lên, có thời
gian làm anh bán hàng cho hiệu giầy Ba ta, mỗi tháng đâu được dăm, sáu đồng.
May mà có nghề làm văn, làm báo là cái nghề không cần vốn liếng gì, cũng
chẳng cần bằng cấp để bám vào. Nhưng cũng như Nguyên Hồng, Nguyễn Bính,
Trần Huyền Trân..., Tô Hoài thuộc loại nhà văn lăn lộn với đời. Có thể nói là
“rất bụi”, khác hẳn với cánh viết văn, làm báo sang trọng như Nhất Linh, Khái
Hưng, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Lương Ngọc hay có trí thức như Nguyễn Tuân,
Đoàn Phú Tứ, Thạch Lam, Hoài Thanh... hoặc ăn lương viên chức, lương giáo
học như Nguyễn Công Hoan, Bùi Hiển... Thời trước, loại làm văn làm báo như
thế, xã hội viên chức nền nếp, sạch sẽ rất khinh bỉ, cho là loại vô học, vô nghề
nghiệp... Nhưng cuộc sống như thế lại là cái vốn liếng độc đáo của họ mà các
cây bút kia không có.
Tô Hoài là nhà văn của đời thường, người thường, chuyện thường, và
ông cũng thích sống như một người thường. Mình là gì mà cao đạo! Mà cần gì
phải cao đạo! Cho nên đời cho hưởng cái gì, hưởng cái đó, không chê - chắc
ông nghĩ thế !.
Về mặt này, ông cũng chẳng dấu tôi điều gì. Và tôi cũng tranh thủ hỏi
ông một cách thoải mái:
- Gái H’mông thế nào?
- Anh đã biết mùi đầm bao giờ chưa?
- Hồi cải cách ruộng đất, cán bộ hủ hoá thoải mái. Anh thì sao?
- Nguyễn Khải cho tôi biết, anh có chuyện với L.M. Có đúng không?
Tô Hoài trả lời cũng rất thoải mái:
- Gái H’mông nguy hiểm lắm! Nó ngủ với cán bộ, hôm sau đi khoe cả
làng, cả bản. Nhiều anh bị kỷ luật, có anh bị xử bắn vì chuyện ấy.
- Tây đầm nó quần nhau, đùa nhau rất mệt. Ta không chịu nổi. Lính
tập, bồi bếp ở bên Tây, dính với đầm, sợ lắm!
Tôi có lần sang Rumani, có một cô phục vụ đòi hỏi ghê quá. Mình phải
xin giấy chứng nhận huyết áp cao mới thoát được.
- Hồi cải cách ruộng đất ấy à: có! có!
240
- Chuyện ấy sao Nguyễn Khải nó biết được nhỉ? Tay N.D chồng L. M
có lần mắng vợ: “Đi mà ở với thằng Tô Hoài !”.
Tô Hoài rât thích bia rượu. Thỉnh thoảng tôi tìm đến ông, ông hay rủ
uống bia. Ông yếu bụng nên cũng hay uống rượu mạnh. Ly rượu mạnh ông chỉ
làm một hơi.
Tô Hoài nay đã cao tuổi. Sức khoẻ xem chừng ngày càng xuống. Tiểu
đường thời kì thứ hai. Huyết áp không ổn định. Lại bị gút.
Ông là một pho từ điển sống về giới nhà văn, về đời sống muôn mặt,
về kinh nghiệm viết văn. Ông là một kho chữ nghĩa... Người như thế bây giờ là
của hiếm lắm đấy!
Một trong những may mắn của đời tôi là được tra cứu vào cuốn từ điển
Tô Hoài. Không biết đến bao giờ mới khai thác hết được. Mà ông thì tuổi đã
cao, tôi cũng tuổi đã cao.
Láng Hạ. 9. 6. 2007
Chương XVII: Thanh Tịnh
Tôi quen Thanh Tịnh từ hồi làm Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30A,30B. Tôi tuyển một số truyện ngắn của ông trong tập Quê mẹ. Ông cứ cám ơn
tôi mãi về chuyện này.(Năm 1982, Thanh Tịnh tặng tôi tập thơ của ông. Ông
ghi lời đề tặng: “Kính tặng anh Nguyễn Đăng Mạnh quý mến với lòng biết ơn
chân thành”). Thực ra đó là do chất lượng các tác phẩm của ông. Tôi rất thích
tập truyện Quê mẹ. Ông viết rất hay về những người đàn bà nhà quê hiền lành,
chất phác ở một vùng sông nước miền Trung. Văn của ông thường ẩn dấu một
nụ cười hóm hỉnh kín đáo và rất nhân hậu.
Ông sống độc thân ở một căn phòng trên tầng hai của khu nhà trụ sở
tạp chí Văn nghệ quân đội, số 4 Lý Nam Đế. Trong phòng, ông bầy la liệt các
thứ đồ cổ: bát, đĩa, ấm chén, lọ, ngựa sành, tượng phỗng, lư, đỉnh, kỷ, đôn,
chậu, không kể tranh ảnh... Có cả mấy viên gạch cổ mới đem ở Liễu Đôi về.
Ông còn chỉ tôi xem xác ướp một con kỳ đà rất lớn treo ngang trên chiếc gương
ở phòng toilette... Không biết ông kiếm đâu ra được những của ấy. Ông giảng
cho tôi nghe, con kỳ đà có khả năng dùng răng giữ thuyền rất chắc, như một cái
neo sắt ệây... Ông chỉ vào những bát đĩa, ấm chén, bình hoa... giảng, đĩa này là
thời Lý, bát này là thời Trần, bình này là thời Lê... Tôi chẳng hiểu gì về đồ cổ.
Tô Hoài thì cho ông bịa ra, tán ra thế thôi, chứ nhiều bát đĩa của ông là lấy ở
Bát Tràng về....
Thanh Tịnh vốn là một hướng dẫn viên du lịch thời Pháp. Ông có bằng
guide du lịch cao cấp đào tạo ở Angkor, Căm - pu - chia. Sau cách mạng Tháng
Tám, ông đưa một đoàn du lịch từ Huế ra Hà Nội và dự hội nghị văn hoá toàn
quốc rồi bị nghẽn không trở về được, vì đúng vào lúc cuộc kháng chiến toàn
quốc bùng nổ. Vậy là ra đi tay không, vợ con bỏ lại hết ở Huế.
Ông có lệ, hễ có khách đến chơi, cần trò chuyện riêng, ông lại đốt một
nén hương. Ngửi thấy mùi hương, biết có khách, người ta không đến quấy ông
nữa.
Nghe ông nói chuyện, tôi cũng biết được một ít về kiến thức chuyên
môn của ngành du lịch:
Thời Pháp có hai cấp đào tạo hướng dẫn viên du lịch (guide touriste).
Một là cấp xứ (Đồng Dương gồm 5 xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Miên,
Lào). Cấp này phải có bằng Thành Chung (diplôme). Hai là cấp toàn Đông
Dương. Phải có bằng tú tài. Thi tuyển ở Angkor. Thanh Tịnh thuộc cấp thứ hai
này.
Quan sát một phong cảnh phải xác định point touristique. Thí dụ, đứng
ở quầy bán hoa trông sang Bách hoá tổng hợp mà nhìn hồ Hoàn Kiếm là point
touristique tốt nhất, bao quát được toàn cảnh, cả các di tích.
Lại có saison touristique. Thí dụ lăng Minh Mệnh thì xem vào mùa thu,
mai vàng nở đẹp. Lăng Tự Đức thì xem vào mùa hè, sen nở trong các hồ. Lại
còn temps touristique: cảnh này thì xem ban đêm, cảnh kia xem buổi chiều...
242
Thanh Tịnh cũng thích nói chuyện lịch sử, chuyện cổ sử. Và tôi để ý,
thấy ông thích những lời nói hay, những cách diễn đạt thông minh, thú vị. Ông
nói, Hoàng Minh Giám hay Phan Anh có đưa sang Pháp mấy mũi tên đồng của
ta có từ thế kỉ thứ ba trước công nguyên. Lúc ấy người Âu Châu vẫn còn là con
vượn có đuôi. Tên không bắn bằng cung, ná, mà bằng súng bắn đi hàng loạt như
những viên đạn nhọn. Không phải tên bịt đồng mà là đạn hình mũi tên có
ngạnh. Hiện nay chưa hiểu bắn bằng cái gì, súng gì. Lại có đạn đá nữa. Boris
Polévoi nói: “Một dân tộc đúc đạn đồng chống giặc là một dân tộc quyết chiến.
Nhưng khi họ ngồi đẽo những viên đạn đá để đánh giặc thì thôi, kẻ thù chỉ có đi
về.”
Ông lại dẫn một câu nói rất hay của nhà sư Thích Thiện Tâm hay
Thích Thiện Minh: “Con người ta khi ra đời khóc để cho người khác cười. Bác
Hồ khi từ giã cõi đời, đã cười để người ta khóc. ở vùng Đông á này chỉ có hai
người cười cho người ta khóc, là Thích ca và Hồ Chí Minh”.
Ông nói muốn sửa một câu trong năm điều Bác Hồ dạy:
Yêu Tổ quốc
Yêu gia đình
Như thế hơn là yêu Tổ quốc, yêu đồng bào. Đồng bào nằm trong Tổ
quốc rồi. Còn gọi cha mẹ là đồng bào à!
Ông phê phán cuốn Búp sen xanh của Sơn Tùng, giải thích tên cụ Hồ là
Côn, Côn là cá quý, ngọc quý. Không đúng. Ba anh em cụ Hồ tên là Cung,
Khiêm, Thanh. Cung là cung kính, Khiêm là khiêm tốn, Thanh là trong, là giản
dị. Một hệ thống như thế mới đúng chứ! Cách giải thích củaThanh Tịnh xem ra
có lý hơn.
Ông có vẻ tán thưởng câu nói của một người nước ngoài: “Hồ Chí
Minh, tên giả, ngày sinh giả, ngày mất giả, chỉ có lòng yêu Tổ quốc là có thật”.
Ông kể chuyện vợ chồng Charlie Chaplin thăm Huế. Họ nói về cái nón
Huế. Người Tây có parasol, parapluie, paravent. Cái nón thì có đủ cả: che mưa,
che nắng, che gió. Nó lại là cái quạt, tạo ra gió nữa. Bà vợ thêm: nó còn che
được sự thẹn thùng của cô gái Huế.
Ông rất khoái khi khái quát được đặc điểm của ba thế hệ người một
cách ngắn gọn và dùng toàn vần đ:
- Trẻ đi đàn.
- Lớn đi đôi.
- Già đi độc.
Sự khái quát này chắc có liên hệ đến số phận của bản thân ông.
Vì có chuyên môn hướng dẫn du lịch, nên mỗi khi có khách nhà văn
nước ngoài sang thăm, cần đi tham quan đâu đó, ông lại được Hội nhà văn nhờ
giúp. Không phải chỉ vì ông biết cách giới thiệu những đền đài, thắng cảnh một
cách ngọn ngành đâu ra đấy, mà còn vì ông cũng biết đối đáp với khách văn và
biết khôn khéo tháo gỡ những trường hợp khó xử. Về mặt này Thanh Tịnh cũng
láu lỉnh, tinh quái ra trò.
Một lần ông đưa B. Polévoi đi thăm đền Bà Triệu (Thanh Hoá). Xem
243
phía ngoài xong rồi, Polévoi muốn vào xem hậu cung có tượng Bà Triệu. Thanh
Tịnh nói với bà tự xin vào trước xem thế nào. Ông thấy mấy tay dân công đang
nằm ngủ, cởi trần, phơi slip ngay trong hậu cung. Tởm quá! Không thể để
Polévoi vào được. Ông nói với nhà văn Nga: “Người Việt Nam chúng tôi có lệ
“kính như thần tại”, nghĩa là kính trọng thần như lúc còn sống. Bà Triệu là con
gái, chưa chồng, nên nếu là bà Polévoi thì mới vào được. Mà chỉ rằm, mồng
một mới mở cửa.”
Về sau Polévoi đi thăm đền Hai Bà Trưng. Ông đem ba bó hoa, tặng
hai bà hai bó, còn một bó thì nhờ hai bà đi thăm và tặng bà Triệu hộ.
Thanh Tịnh ở ngoài Bắc, không lấy vợ. Ông vẫn chung thuỷ với bà ở
trong Nam. Sau 1975, ông trở về, vợ ông đã lấy chồng khác, con ông thì đi ngụy
quân, cũng không tha thiết gì với ông cả. Ông lại quay trở về Hà Nội, sống độc
thân ở số 4 Lý Nam Đế như cũ. Ông có câu thơ cám cảnh thân phận của mình:
Ra đi mấy chục năm trường,
Ăn cơm tập thể, nằm giường cá nhân
Cuộc đời buồn thế mà ông hay nói chuyện vui, nói đùa. Có lẽ chính vì
đời buồn quá nên ông phải cố cười cho quên đi.
Ông đùa ngay với nỗi đau của mình. Khi về quê, người ta bảo ông về
làng mà ở. Ông nói: “Bây giờ nhà thờ tổ không còn, nhà ở cũng không, “nhà
tôi” cũng không, đã thành “nhà” người ta mất rồi!”
Ông đọc cho tôi nghe một vế câu đối, không biết do ông đặt ra hay
người ta thách ông. Vế câu đối chưa có ai đối lại được: “Nhà văn, nhà báo, nhà
giáo, nhà thơ, cả bốn nhà đều không nhà ở”. Thanh Tịnh đúng là làm bốn
“nhà” ấy mà không có nhà cửa gì.
Ngồi với ông hôm ấy (19.9.1982) ở 4 Lý Nam Đế, ông kể tôi nghe
nhiều chuyện vui. Tôi còn nhớ mấy chuyện như sau:
- Trong tập Những người thích đùa có một truyện không được dịch. Có
một anh muốn tự tử, dùng nhiều cách mà không chết được, vì mua phải toàn đồ
rởm: dao rởm, thuốc độc rởm, giây thừng thắt cổ rởm. Có người mách cho một
cách chết ngay, chết chắc chắn: đọc báo Nhân dân liền ba ngày.
- Có người thắc mắc đến chất vấn Võ Văn Kiệt: “Sao Thanh Nga trước
1975 đóng vai chống cộng mà nay lại cho đóng vai Bà Trưng? Võ Văn Kiệt trả
lời: “Hay là mời bà Nguyễn Thị Thập, Nguyễn Thị Định đóng vậy?”
- ở khu phố ông người ta bắt được một thằng chuyên ăn cắp xe đạp.
Họ bắt nó biểu diễn mở các thứ khoá. Các loại khoá ngoại tốt nhất nó đều mở
được hết. Hỏi nó: “Khoá nào mày thấy khó mở nhất, không mở được? Nó nói:
“Khoá Việt Nam. Vì xe khoá rồi vẫn đứng nhìn. Mà chính chủ nó cũng không
mở được. Phải dỗ mạnh xe mấy cái mới mở được”.
- Anh có biết thế nào là chủ nghĩa xã hội khoa học không? Khoa học
thì phải thí nghiệm. Khoa học khác thì thí nghiệm trên loài vật. Còn chủ nghĩa
xã hội khoa học thì thí nghiệm trên loài người.
- Một lần ông đưa mấy nhà văn Tây đi du lịch. Họ nghĩ ra cái trò thi kể
chuyện tiếu lâm, xem chuyện nước nào hay hơn. Thanh Tịnh kể chuyện này:
244
“Ngày xưa đàn bà vừa đẻ con, vừa phải cho con bú, vất vả quá, trong khi thằng
chồng chả phải làm gì, chỉ đi chơi. Các bà kiện lên Ngọc Hoàng đòi cho xử
công bằng. Ngọc Hoàng bèn lấy vú đàn bà lắp cho đàn ông. Chồng phải cho
con bú. Nhưng thằng đàn ông ham đi chơi lang thang. Con đói không được bú,
khóc ghê quá. Các bà không chịu được, lại kêu với Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng
bèn lấy lại vú ở thằng đàn ông lắp lại cho đàn bà. Từ đó thằng đàn ông cứ
trông thấy vú đàn bà là nó nhìn chằm chằm và đòi chộp lấy. Vì vú của nó, nó
đòi lại”. Mấy ông Tây phục quá, đành chịu thua.
Vì tính hay đùa vui, lại biết làm thơ, nên hồi kháng chiến chống Pháp,
Thanh Tịnh thường trổ tài làm những bài vè rất vui gọi là độc tấu, vừa kể vừa
làm điệu bộ, tựa như một thứ kịch vui chỉ có một vai độc diễn. Trường Chinh,
Tố Hữu khen lắm, tác dụng tuyên truyền chính trị rất tốt. Thời kháng chiến, bộ
đội ngồi trên bãi cỏ, quanh đống lửa trại mà xem độc tấu Thanh Tịnh thì thú
lắm. Rất vui mà chẳng cần phông màn, trang phục gì cả.
Giờ chiến tranh đã đi qua, Thanh Tịnh sưu tập tác phẩm in thành một
tập thơ. Ông tặng tôi. Đọc chán quá! Vè chứ đâu phải thơ, đâu phải nghệ thuật.
Một thứ vè chỉ có giá trị tuyên truyền nhất thời, không phải nghệ thuật thì làm
sao có giá trị lâu dài! Trong cuốn Chủ nghĩa Mác và văn hoá Viêt Nam, Trường
Chinh nói: tuyên truyền cao đến một mức nào đó thì tuyên truyền trở thành
nghệ thuật. Làm gì có chuyện ấy! Tuyên truyền cao đến như độc tấu của Thanh
Tịnh thì cũng vẫn chỉ là tuyên truyền.
Thanh Tịnh là một trong những nạn nhân bi thảm nhất của lý luận văn
nghệ Trường Chinh.
Hồi ấy, độc tấu Thanh Tịnh bị Đoàn Phú Tứ chê là bồi bút, cu-li bút,
hạ thấp nghệ thuật, thành thằng hề. Thanh Tịnh trả lời, nếu có thể làm cho dân,
cho lính trong kháng chiến được vui thì tôi sẵn sàng làm hề, loại hề bét nhất,
mười lần hề cũng được!Nói thế không sai, thậm chí còn thể hiện nhiệt tình yêu
nước, nhiệt tình kháng chiến rất cảm động của Thanh Tịnh. Nhưng không nên
chỉ làm vè. Phải làm nghệ thuật nữa chứ. Cụ Hồ làm thơ tuyên truyền nhưng
đồng thời cũng làm thơ nghệ thuật. Ông cụ phân biệt rất rõ tuyên truyền và nghệ
thuật.
Hồi ấy, Trường Chinh khen độc tấu Thanh Tịnh là loại khinh binh, loại
xung kích, và ra sức cổ vũ.
Đúng là lòng yêu nước của Thanh Tịnh thì thật cảm động. Nhưng ông
không tỉnh táo.
* *
*
Thanh Tịnh qua đời dễ đã hơn mười năm rồi.
Không biết cái kho đồ cổ của ông nay còn không? Không biết người ta
có giữ cái phòng ông ở làm lưu niệm không?
Láng Hạ 10.6.2007
No comments:
Post a Comment