Monday, August 17, 2015

NHÃ CA * TÌNH CA CHO HUẾ ĐỔ NÁT I

Tình Ca Cho Huế Đổ Nát

Nhã Ca

Tình Ca Cho Huế Đổ Nát



MỤC LỤC [−]







BÌA NGUYỄN KHÁI

Mi Ki thân mến,

Tôi phải nói với Ki về thành phố đó. Chúng ta đã sinh ra, đã sống ở đó, ít nhất là một phần của tuổi thơ ấu. Tuổi thơ ấu của Ki đã cho tôi thật đầy đủ. Những ngày ở bãi biển Thuận An, đi lang thang ngoài biển, bắt cào cào, đào trộm khoai, chơi cút bắt, hay thơ thẩn một mình ngoài đồng rộng chạy đuổi theo những bông cỏ lăn theo gió. Tắm ở phá Tam Giang, giữa trưa nắng, cát nóng bỏng như lửa. Ki đã chạy nhảy, chân giẫm từ đám cỏ khô này qua đám cỏ khô khác để tới rừng dương, nhìn một cái hồ nhỏ đầy cá mặt trăng. Cá mặt trăng, những mặt trăng nhỏ, trắng muốt của tuổi thơ chúng ta tung tăng trên mặt hồ, bên những cành dương rủ bóng, kênh kiệu một cách đáng yêu với bờ đê, với bãi biển kêu gọi, rủ rê suốt ngày tháng.

Rời bỏ Thuận An, Ki bé nhỏ, quê mùa của tôi bước chân lên thành phố. Bỡ ngỡ và rụt rè, bị bắt nạt, nước mắt, đó là đặc điểm của Ki thời đó. Bị bắt nạt là đáng lắm, bởi Ki chỉ biết có bãi cát trắng phau, với những đợt sóng liếm vào bờ suốt ngày không biết chán. Ki chỉ biết có những con đường làng cát bẩn rụng đầy hột keo khô, lẫn với vỏ nghêu, vò sò vỡ. Bị ném vào một thành phố đầy trẻ con tinh ranh, Ki làm sao chống đỡ nổi. Tội nghiệp Ki của tôi hồi tám chín tuổi với một phố Huế xa lạ, giục giã sự tò mò. Ki vẫn giữ khuôn mặt đen dịu, đôi mắt vàng chói nắng biển, mái tóc cắt ngắn kiểu con trai, mặc quần sọt với áo sơ mi bởi vì ba chúng ta muốn có một đứa con gái ngộ nghĩnh hơn là xinh đẹp. Ki bắt đầu đi học, Ki có bạn mới, Ki quên bãi biển Thuận An, quên làng quê buồn hiu nhưng thơ mộng đến nỗi có những đêm mơ thấy bầy cá mặt trăng bơi lội tung tăng trên mặt hồ đớp ánh sáng xanh mát, hoặc những cành dương dài như những cánh tay khẳng khiu vẫy vẫy, Ki đã khóc trong giấc ngủ. Hoặc đôi khi đang ngồi trong lớp học, Ki bỗng nghe thấy một âm thanh gì rì rào quen thuộc, Ki nôn nao cả người và chợt nhớ ra âm thanh đó giống tiếng sóng biển mà Ki đã nghe hoài huỷ hồi ở quê mẹ. Chúng ta thực tức cười phải không Ki, hồi đó chúng ta cứ tưởng Huế với Thuận An là hai miền xa cách như bây giờ Sài Gòn với Hà Nội vậy. Vừa biết Huế, gia đình ta ở An Cựu, cạnh nghẹo đường xay. Chúng ta có thể chạy lông bông, nhưng không còn được thong thả như hồi ở nhà quê nữa vì chúng ta phải canh chừng những chiếc xe nhà binh với những ông Tây to lớn, mặt luôn luôn đỏ kè như say rượu. Chúng ta thấy phía này có ruộng, phía kia có bờ sông, có cầu đúc nối sang bên chợ. Ki có còn nhớ cây bông búp cao mọc ở cạnh chân cầu đó chớ. Cây búp mà chúng ta thường ao ước nhặt những búp khô rụng, thổi phồng lên như đã từng thổi chiếc bong bóng lợn của dượng Tin cho hồi còn ở Thuận An. Thêm một hai tuổi gì đó, chúng ta rời An Cựu, được gửi học nơi nhà một ông giáo nhà ở tít dưới Mù U, Ki đã trốn học, đã khóc và bị ăn roi đến quắn đít vì bướng. Ki đi học đàng hoàng. Mùa nắng Ki mặc áo hoa, đi guốc. Mùa mưa, Ki còn nhớ không, chúng ta mang cái tơi bằng lá, tròng từ đầu xuống cổ, có sợi dây thừng nhỏ rút trước cổ, buộc chặt cho gió khỏi bay. Ngôi trường tiểu học ở thật xa tít giữa bãi hoang có nhiều đất sét. Xung quanh lại có nhiều mồ mả nữa. Những đứa trẻ tinh quái thường doạ có nhiều mả Tàu Ô lắm, rồi chúng ta được nghe nhiều chuyện kinh hoàng về giặc Tàu Ô. Nhà chúng ta ở nơi một con đường rất dốc. Dốc cao đến nỗi người lớn nói đứng trên đầu dốc có thể nhìn thấy cột cờ Phú Văn Lâu. Nhưng Ki nghểnh cổ, nhón chân, cũng chỉ nhìn thấy những đọt phượng mùa hè đầy bóng đỏ rực, mùa đông lủng lẳng những quả dài sắc cong như lưỡi mác. Phía trên đầu dốc kia là Đàn Nam Giao, nghe nói đường đi xa lắm, chân của Ki thì quá ngắn. Cho tới khi tôi đi được chiếc xe đạp, ngang qua con đường đất vòng quanh Đàn Nam Giao, tôi cười mãi về sự tưởng tượng của Ki hồi còn nhỏ, và nhớ Ki như một phần hồn, phần thơ ngây của mình đã mất vĩnh viễn.

Ki còn nhớ không, trước mặt nhà chúng ta là ngôi nhà cô bạn nhỏ tên Chín. Trước sân nhà Chín có vài cây nhãn, dưới gốc cây bọn con nít thường chơi trò buôn bán với vỏ hến, lá cây hoặc những sa thạch vò nát đẹp phơi nắng. Bọn nhỏ còn đánh thẻ, đánh thẻ nẻ đau, đôi khi bầm tím cả đôi chân. Tụi nhỏ còn đánh ô làng bằng hạt cây thầu đâu, cây thầu đâu mà khi lớn lên tôi biết nó còn được gọi thêm hai ba tên là sầu đâu hay sầu đông cũng được. Trong căn nhà của Chín, Ki thường hay thắc mắc về một ông cụ già mà người lớn gọi là ông Huyện. Ông thường đội khăn đóng, mặc áo dài đen, mỗi lần sang Chín chơi trông thấy ông Ki thường núp sau bể cạn. Người ta nói thời trước ông Huyện oai lắm, ông làm quan, dân đi ngang qua nhà phải cúi đầu không thì bị lôi vô đánh đòn. Ki không những cúi đầu mà còn trốn biệt sau chiếc bể cạn, Ki sợ đánh đòn lắm. Nhưng ông Huyện hiền lành lắm, ông lôi Ki ra chỗ núp cười bảo vô nhà chơi với Chín. Ông nhìn tụi nhỏ nghịch đất cát, ông ngồi ngắm mấy chậu cây. Ki vô nhà thấy có treo tấm ảnh của ông lớn lắm, ông ngồi trên chiếc ghế chạm trổ có lính hầu đứng quạt nữa. Một tấm gỗ láng bóng nổi lên ba chữ nho to tướng như bằng vàng, giữa nhà có sập gụ. Ki lấy làm ngạc nhiên vì nhiều nhà có những thứ lạ mắt như thế. Huế cũng quyến rũ Ki lắm chứ, những ngày đi học, ghé vô sân chùa lượm me rụng, đào rụng, hay tha thẩn dọc đường hái trái ngũ sắc chín đen, trái mắm ruóc chín vàng, ăn ngọt đỡ khát nước. Dần dà Ki quen với Huế, thân với Huế hẳn hoi, Ki thường ngẩn ngơ ngắm những chị lớn tóc xoã dài, áo trắng đội nón lá, đi thướt tha yểu điệu. Trông họ đẹp và rườm rà quá. Rồi chính Ki, Ki cũng bỗng theo họ từ lúc nào. Nhưng khổ thay càng ngày Ki càng thấy trong cái thân thể Ki đang trú ngụ bỗng xa rời Ki mãi. Cho tới lúc cái thân thể đó rũ bỏ chiếc áo ngắn để thay bằng chiếc áo dài lụa đầu tiên, mái tóc ngắn được nuôi dài và biết che bằng nón lá. Nó đã hất hủi ánh nắng mặt trời vàng tươi Ki mang từ biển, tay chân nó đã chê bỏ những cơn gió mùa hè ngây ngất, mắt nó, mũi nó đã rời xa mùi hoa khế, mùi me chua, lạnh lùng với bông hoa ngũ sắc, thì Ki hoàn toàn bị bỏ rơi rồi. Tôi mất luôn Ki, mất mà không biết Ki đã bỏ tôi đi từ lúc nào, chỉ biết có một lúc giật mình thấy có đứa bé trong hồn mình bỏ đi biệt tích, bỏ đi một cách lặng lẽ, không để lại một dấu vết gì nữa.

Ki thân mến,

Gợi lại để Ki biết là tôi vẫn còn nhớ tới Ki, không phải là nhớ nữa, mà là một kỷ niệm, một khát khao để tôi tìm về trong bất cứ năm tháng nào, nếu có dịp. Nhưng bây giờ nhìn về, có nhớ nhung thắm thiết bao nhiêu thì sự thắm thiết đó cũng chỉ nhắc nhở tôi khoảng cách lớn dần ra mãi. Tôi càng nhắc càng chứng tỏ tôi càng bỏ xa Ki biệt mù. Nhưng hôm nay tôi phải nhắc lại với Ki để nói về một thành phố. Vì chỉ có Ki mới đủ thẩm quyền để bắt tôi phải than thở, phải đau đớn, phải khóc lóc. Và tôi muốn cho Ki biết tôi đã đi đứng, ăn nói, thương yêu thù ghét thành phố của tuổi thơ đó như thế nào. không nói thì Ki cũng có thể biết, bởi vì trong những năm sống ở Huế, làm một cô gái Huế xoã tóc, đội nón, đi guốc trắng, thỉnh thoảng trên đường về một mình, bên cạnh bụi hoa ngũ sắc tôi còn trông thấy hình ảnh Ki, tóc cắt ngắn, quần sọt, áo sơ mi, đôi mắt mang màu nắng của biển vừa đứng ở đó, đứng ở đó rồi biến đi rất nhanh làm tôi bàng hoàng như mình đánh mất một thứ, một thứ thiêng liêng ghê lắm thương yêu ghê lắm, tiếc ghê lắm mà không thể nào trở về với nó được. Không thể trở về vì hai người đang cố tình trốn chạy nhau. Còn nhiều dịp nữa, trong những lần nhìn những cô bé con chơi buôn bán, đánh thẻ, đánh ô làng, nghịch đất, tôi thấy trong tâm hồn tôi ló ra một nhánh hồn bé nhỏ muốn với tới, một cô bé nào đó ngoảnh mặt nhìn tôi với nụ cười nửa mỉa mai nửa khinh bỉ. Ki đó phải không?

Nhưng tôi cũng phải quên Ki đi ngay. Quên Ki để đạp xe đạp qua cầu Tràng Tiền với bè bạn. Quên Ki để làm những cuộc đi chơi xa hơn, thích hơn. Tôi biết nhiều về Huế quá. Tôi đi hết những lăng tẩm. Tôi biết chuyện vì sao ông Huyện có bức ảnh chụp với lính quạt hầu lại có nụ cười hiền lành dễ thương đến thế. Tôi còn biết cả lịch sử huy hoàng của Huế khi đặt chân đến Đại Nội nữa. Chiếc ngai bằng vàng, những chậu cây bằng vàng trái ngọc, những Đàn Nam Giao tế trời tế đất. Tôi nghe tiếng chuông Linh Mụ với một tâm hồn dào dạt mơ mộng chớ không như Ki hồi trước, chỉ ru giấc ngủ hoặc để đánh thức thời giờ đòi quà buổi sớm mai. Tôi còn biết thưởng thức bao vị chua cay của Huế, đi ăn bánh bèo, bún bò, bánh khoái. Tôi tập thú đi chơi một mình, mơ mộng một mình. Những ngày mưa tầm tã, bầu trời thảm đạm, một mình một áo mưa đi lang thang, gió đánh rát cả da mặt, mặt nước sông Hương mù mịt nước. Chân đạp trên bao lá khô. Tất cả như mù mịt hết. Dòng sông, nhịp cầu, trường học, những ngôi nhà che kín trong khu vườn rộng, tất cả nhòe nhoẹt trong mưa hết. Tôi cười lại Ki, tôi làm gì có những phút thoát trần như thế.

Tôi cũng phải nhắc tới tình yêu trong thành phố đó cho Ki nghe nữa. Những hoàng tử áo xanh, những công chúa áo vàng ngày thứ Hai đầu tuần. Những lá thư tình viết thả rơi. Những cái liếc mắt sau vành nón… Một mối tình như một cơn giông bão từ phương nào ồ ạt đến. Thơ mộng, lãng mạn, đau đớn sung sướng, nước mắt, thôi thì đủ cả. Có lúc nào Ki đứng đằng sau tôi, trước mặt tôi nhìn tôi lúc đó không? Tôi có đáng được sung sướng đau khổ như thế không? Và Ki ơi, Ki có biết được ngày tôi bỏ Huế?

Lúc lên máy bay, chuyến đi đầu tiên để bỏ thêm một phần hồn thân yêu của mình nữa. Có cô gái che vành nón liếc ánh mắt tiễn đưa. Nhưng tôi đã bay rồi. Tôi bay để làm một chuyến đi cách xa Ki thêm mãi, và cách xa cô gái kia mãi mãi.

Từ đó tôi ít khi nghĩ tới thành phố đó lắm. Tôi lăn vào đời, tôi đẻ ra những tuổi thơ, tôi nhìn những tuổi thơ đó lớn lên, tôi nuôi tuổi thơ con cái, nhìn tuổi thơ đó như nhìn Ki hồi nhỏ. Nhưng Huế thì như một cái bóng thật mờ lấp ló đằng sau cuộc đời mình, đôi lúc cho lại tôi vài phút êm đềm, nhưng cũng hiếm hoi lắm.

Tôi không còn thì giờ để nhớ tới đàn cá mặt trăng trong chiếc hồ nhỏ lẻ loi giữa rừng dương. Tôi quên khuấy mất những hột keo khô rơi lấm tấm đầy trên con đường làng cát bẩn. Tôi quên ánh nắng mặt trời trên bãi cát hung vàng mái tóc Ki. Có nhiều lúc nhìn nụ cười con thơ, nhìn chúng tò mò coi một chú gián bò trong góc nhà, tôi nghe tiếng ai hỏi trong đầu: Nhớ tôi không? Nhớ bầy đom đóm nơi đường rầy không? Nhớ cây khế nơi nhà ông xếp ga không? Nhớ đàn cá mặt trăng không? Ki ơi, tệ quá, nào tôi còn nhớ gì nổi.

Ki tha thứ cho tôi nhé. Đừng giận bởi vì đã có lúc tôi nhớ ra Ki rõ lắm, nhớ như mình nhớ mình thì làm sao không rõ ràng được. Đó là lần tôi về Huế để gặp mặt lần cuối ba của tôi. Quên, ba của Ki và tôi chứ. Lúc khóc lóc đã mệt, vật vã đã rừ hết tay chân, tôi bất chợt nhìn ra kẽ hở của song cửa. Một bụi cây Ki ơi. Từ một bụi cây dẫn tôi ra một đường phố, một đường phố dẫn ra một trường học, một khu vườn. Chúng rủ tôi đi xa nữa, một bãi biển, một mặt hồ đầy cá mặt trăng, một khu vườn sầm uất của Trấn Hải Đài ở Thuận An nữa. Tôi nhìn thấy Ki đi trên bờ thành luỹ. Tôi nhìn thấy Ki ngã từ trên nhánh ổi xuống và ba chạy tới vội vã bế Ki lên. Tôi còn thấy chiếc sân rộng trong khu Trấn Hải Đài ngày ba ngồi thắt cho Ki hai chiếc gióng mây và chuốt cho Ki cái đòn gánh tre để Ki giả đò đi gánh nước. Nhiều nơi nữa, trong sân ở một ngôi nhà ở An Cựu, ba bế Ki ngồi lên lòng và hai chân ba rung rung. Cả chiếc xe đạp cũ kỹ mà ba thường đặt cái gối bông nhỏ đằng sau bót ba ga, bắt Ki ngồi ôm lưng thật chặt để ba thả xe chạy xuống con dốc Nam Giao đi sang phố mua cho con búp bê nhỏ. Nhưng hình ảnh đó cũng chớp nhanh lắm để trả tôi với bụi cây trước mắt. Những lá xanh đang thẫm màu dần nhưng còn bám vài tia nắng yếu ớt của ngày cuối năm. Huế mình như thế đó, cuối năm bao giờ mặt trời cũng muốn lười biếng, cũng nhõng nhẽo đến rơi nước mắt. Ki đang đứng đằng sau lưng tôi, đang đứng trong hồn tôi để giúp tôi trào thêm những giọt lệ.

Ba bỏ đi rồi, mất biệt rồi, đứt luôn cả sợi dây tơ đang mỏng dần giữa tôi và Ki. Vậy là hết.

Phải, đã hết thực rồi, Ki ạ. Bây giờ tôi đứng trước Huế, nhìn Huế với một con mắt khác, một tâm hồn khác. Mấy ngày liền tôi đã thấy sợi dây tơ mềm cột chặt tôi với Huế đã đứt lìa hẳn. Nhưng lạ lùng thay, đôi lúc tôi vẫn còn thấy Ki che mặt, giận dỗi, khóc lóc, rên rỉ vật vã ở trong tôi. Có phải tiếng khóc cuối cùng của tôi thương tiếc người cha, hay tiếng khóc của Ki đau đớn vĩnh biệt, một phần hồn tách lìa một thân xác để đi biền biệt mãi.

Tôi giơ tay chào Ki và từ giã luôn nhé.

Không Ki ơi, tôi đã lầm ghê lắm. Lầm lớn lắm. Đúng tôi vẫn còn nhìn thấy Ki, đúng Ki là một phần hồn thuỷ chung duy nhất còn ở lại trong tôi, với tôi trong những giờ phút mà chính tôi cũng không còn sự sáng suốt để dẫn dắt mình nữa. Tôi đã chạy loạn cùng khắp, và chính trong những giờ phút tôi mê muội nhất thì tôi lại nghe tiếng kêu của Ki. Con đường này, chiếc cầu này, khu vực này. Tôi chạy tới, chạy lui và tiếng kêu dẫn đường cho tôi tìm thấy lối sống.

Đúng là Ki thật rồi. Nhìn thấy Ki tất tả trong đám trẻ con chạy loạn, nhìn thấy Ki bên những cánh tay khúc chân thịt non còn bê bết máu. Nhìn thấy một phần thân thể Ki nơi chiếc miệng rỏ đầy giãi của con chó đang quắp đuôi chạy trong đám bụi mù, trong ánh lửa đạn. Tôi nhìn ra Ki tức là đã nhìn ra Huế. Trong bao năm tôi tưởng như tôi đã chôn vùi hình ảnh Ki cùng xứ Huế với những ngày thơ, với lăng tẩm đền đài đằng sau đời sống mới ở một xứ khác. Tôi lầm phải không Ki. Trong một tháng chạy loạn, có lần tôi đã tưởng Huế của chúng ta đã hết, đã tan nát, đã bị vùi chôn. Đã hết khi tôi bưng kín mắt, nằm ép trong góc tối của khu nhà trong cung An Định. Khi tôi chạy băng qua cầu An Cựu mà không nhìn thấy cây bông búp. Nhưng không, tôi vẫn thấy trên những đống gạch to lớn chưa từng thấy của thành phố, hình ảnh của Ki ngày nào bé bỏng non thơ đi lang thang trên đó. Hình ảnh của Ki trôi trên những đợt mây xám, len lén trong ánh sáng hẩm hiu của bầu trời lất phất mưa để đi thăm những đổ vỡ, những mảnh tường xâm mình với bao thứ bom đạn.

Tôi còn nhìn thấy Ki nhiều lần nữa. Chẳng hạn như một hôm sau mười mấy ngày nằm trong hầm tối, vừa chui lên miệng hầm, không khí mát lạnh làm tôi tỉnh người. Và những bóng lá xanh mướt ve vãn trước mắt tôi, một bụi cây, một nhánh cỏ mà làm cho người ta yêu đời biết bao nhiêu. Trí tưởng tượng của tôi như đang ngợp hết cả vùng trời, tôi nhìn thấy Ki tung tăng trong ánh nắng vàng của dĩ vãng, ánh nắng đó còn bám lại trên mái ngói của trường Đồng Khánh, của những bức tường đã và đang sụp đổ. Tôi thấy Ki đứng tần ngần bên cạnh ông Tám thợ may, ông già râu dài đến rốn ngày xưa cho Ki cục đường, bây giờ nằm chết cong queo bên đường mười mấy ngày chưa được chôn cất. Ki cũng còn đứng bên những ngôi mộ của một số bạn bè cũ đã lớn lên, Ki đang đứng cùng tuổi thơ của họ xung quanh ngôi mộ đắp vội vàng, cùng với bầu trời mưa phùn nhỏ những giọt lệ không đủ làm ướt áo.

Mi Ki thân mến,

Ki thấy không, chúng ta thật đã có quá nhiều chuyện để nói với nhau về Huế. Nhưng chưa hết đâu Ki, tôi còn một chuyện nữa phải nhắc lại với Ki. Chuyện con heo khổng lồ trong tuổi thơ của mình ấy mà. Ki còn nhớ chứ? Thật chuyện của mình răng mà lộn xộn quá đi, nhưng tôi chắc là Ki sẽ phải reo vui, khi tôi còn nhớ và nhắc tới con heo khổng lồ ấy. Đã có một dạo, trong những lần tha thẩn với Huế, chúng ta đã không thể nào không dừng lại trước một căn nhà lá nghèo nàn trên Lích Đợi, giữa con đường đi nghẹo lên Tây Thiên. Ki đã nhớ ra rồi phải không? Con heo của ông già lười biếng ấy mà. Chúng ta đã cùng nhau đặt tên cho ông cụ là "ông già lười biếng", vì chả bao giờ thấy cụ mần ăn chi hết… Buồn cười quá Ki nhỉ. Lúc nào mình ghé lại cũng thấy ông cụ ngồi bên cái ấm nước chè lá với mấy cái ly nhựa. Hình như suốt ngày ông cụ chỉ cố gắng nấu được nồi nước chè lá thật ngon để mời những người khách đến thăm con heo kỳ dị ấy. Tội nghiệp Ki biết bao, dạo ấy, Ki nhỏ chút, khi đứng trước cái chuồng heo to lớn chiếm hết nửa căn nhà. Còn heo thì thôi, nó to như một con bò, nằm chình ình hết hai phần ba cái chuồng, lông to cứng tủa ra như rễ tre, những túi thịt vĩ đại xệ xuống, khiến chúng ta đã cố tìm mà không thấy hai mắt nó ở đâu. Con heo cũng đã quá già, không còn đủ sức đứng dậy, suốt ngày cứ nằm rệp trên đống rác rưởi dơ dáy của chính nó.

Người ta tới thăm con heo khổng lồ này cũng đông lắm, và cứ mỗi lần có khách ông già lười biếng này lại khoe khoang:

"Con heo ni tui đợi tới khi mô hoà bình mới làm thịt ăn mừng!"

Ông già nói xong lại nhướng đôi mắt hấp hem lên nhìn trời. Con heo khổng lồ của ông già vì rứa, còn được gọi bằng "con heo hoà bình" nữa. Hồi đó, cái tên này đã làm Ki ngạc nhiên. Tại sao lại phải đợi hoà bình. Mà hoà bình là cái gì thế nhỉ? Huế hiền lành của chúng ta có ai đánh đấm gì đâu mà phải đợi hoà bình?

Ki ơi, đến bây giờ thì chắc Ki đã hiểu tại sao ông già lười biếng của chúng ta lại chờ đợi rồi chứ? Nhưng dù Ki có hiểu hay không, chúng ta đã chẳng thể biết nổi trong những ngày khốn khổ hồi Tết Mậu thân vừa rồi, ông già và con heo hoà bình có còn không? Mà nếu còn, cũng liệu có đủ sức để mà chờ đợi thêm nữa không?

Những câu hỏi răng nghe buồn hả Ki. Nhưng Ki cũng đừng trách tôi nhé. Khi tôi ngồi viết những dòng này cho Ki thì Huế của chúng ta còn đang được nói đến nhiều lắm, với những hầm hố chôn những, những xác thịt rữa nát được tìm thấy bỏ vô hàng trăm bao ny lông xếp cao như núi. Tôi ở nơi xa, nghe tin nào Bãi Dâu, nào các lăng tẩm, nào Phú Thứ, những hầm xác tập thể đã được quật lên, rồi những tiếng khóc khổ đau ngày nào lại được dịp oà vỡ lại. Tôi đã không có mặt với Huế trong những ngày tháng này, để cùng tìm kiếm với thành phố những người thân thích đã bị bắn, bị chôn. Ở xa xôi, tôi chỉ còn cách tìm lại với Ki, với tuổi thơ ấu của mình, vì Ki, hình ảnh đã được Huế nuôi dưỡng từ thuở bé thơ, hẳn Ki còn ở mãi với Huế. Hãy tiếp tục khóc với Huế, sống với Huế thay tôi, Ki nhé.

Tội nghiệp Ki quá. Nhưng chưa hết đâu, Ki còn phải thay tôi lắng nghe tiếng cỏ đang cựa mình mọc lên trong đất đai câm nín của Huế, thay tôi góp hết sức sống còn lại của chúng ta vào Huế cho một mùa phục sinh mới Huế của chúng ta, của những người đã chết vùi chết dập và những người còn sống sót, thế nào rồi cũng phải phục sinh, phải thức dậy.

Làm thế nào được, phải không Ki? Sức sống của nhân loại vẫn mãnh liệt lắm. Như tôi đã mạnh mẽ vươn lên khỏi tuổi thơ ấu, bỏ Ki lại chơ vơ với những kỷ niệm của thành phố. Sức sống của Huế cũng vậy, Ki còn nhớ không? Ngày tôi sắp xa rời Ki, chúng ta đã cùng chụp chung một tấm hình với các bạn. Bức hình ba đứa với Kim Hường, Tâm Tuý, khuôn mặt Ki ở giữa. Người ta nói chụp hình ba đứa xui lắm. Thật rứa Ki ạ. Đã quá lâu rồi, ba đứa trong tấm hình ngày nào không còn dịp gặp nhau lại, nhưng Ki biết sao không, bữa kia, tôi đã vừa nghe người ta báo tin Tâm Tuý không còn nữa.

Theo lời kể lại, hồi Tết Mậu Thân vừa rồi, Tuý sửa soạn về bên chồng. Trước tết, Tuý cắt tóc ngắn, đánh móng tay, rạo rực với bao nhiêu dự định. Sáng mồng Một Tết, Tuý còn mặc áo đẹp, nhởn nhơ mừng năm mới. Nhưng chỉ hôm sau, sáng mùng Hai Tết, Tuý đã bị bắt, rồi bị chôn trong khu vườn ngay khi hoa mai còn đang nở.

Sau này, khi những người thân sống sót trở về đào xác Tuý lên, Ki tưởng tượng được không, dù bị vùi xuống không hòm không chiếu, thể xác Tuý không những vẫn nguyên vẹn, mà mái tóc Tuý, móng chân móng tay của Tuý còn mọc dài hơn ra. Ki ơi, có thể thật rứa không Ki. Mà thật rứa, thì mần răng giải thích, ngoài điều tôi đã nói với Ki: sức sống của con người vốn mãnh liệt lắm.

Phải chăng, khi bị vùi xuống đất giữa lúc còn rạo rực sống, dù tim đã ngừng đập, ngực đã ngừng thở, giữa lòng đất đen lạnh, cô bạn nhỏ của chúng ta, Tâm Tuý, vẫn còn cố gắng trải thêm chút sức sống mà cái chết hối hả không kịp dập tắt, để thể xác còn tiếp tục nở thêm.

Mi Ki thân mến,

Ki thấy đó, như Tâm Tuý, như bao nhiêu người khác, Huế của chúng ta, dù bị vùi dập và tàn phá, vẫn nhất định hồi sinh, nhất định thức dậy, như cỏ nhất định phải mọc trên mặt đất.

Hãy chịu đựng nhé, Huế. Nhưng đừng quên chờ đợi, hy vọng. Giữa những xương trắng vừa được bới đào lên, giữa những đám tang tập thể, giữa đêm tối chưa ngớt kinh hoàng vì những trận đánh lớn quanh quẩn đe doạ, Ki nghe thấy không, lời hứa phục sinh của Huế vẫn nhất định chưa tắt, Ki tin tôi đi, trong lòng tôi, ngay lúc còn đi giữa máu me đổ nát của Huế vẫn còn giữ được nguyên biết bao kỷ niệm mà ngày nào, đôi chân ngắn ngủi của chúng ta đã từng bước tới.

Dù sao Ki ơi, những buổi chiều gió nổi trên mặt sông Hương gợn sóng bạc, những buổi sáng mùa hạ rực rỡ trong Thành Nội, những ngày mưa mù mịt hàng cây sầu đông sau trường Đồng Khánh, hay những cơn giông thịnh nộ, cũng vẫn còn trở lại.


Tôi xin gửi về Ki, về Huế, tập truyện nhỏ này, như những tình ca được viết riêng cho Huế và quê hương đổ nát.

Mong rằng những tình ca vụn vặt, đầy nước mắt ấy, sẽ góp thêm phần nào vào việc lay gọi Huế thức giấc, để những tình ca khác sẽ tiếp tục, thơ mộng hơn, tươi sáng hơn.

Mi Ki ơi,

Ki đã làm tôi cảm động quá. Sống mãi giùm tôi với Huế nhé, Ki nhé.


Sàigon, 4 - 1969



Chuyến máy bay đưa tôi trở về Huế đáp xuống phi trường Phú Bài đúng 12 giờ 30. Giờ Ngọ. Giờ này đúng là tuổi của đứa con trai tôi, và cũng là tuổi của người cha thân yêu, lúc này, đang nằm hấp hối trên giường bịnh.

Khi bước xuống sân bay, đứng chơ vơ đón những đám cát bụi do những chiếc quạt máy bay khác quạt tới, tôi cúi xuống nhìn chiếc bóng của mình ngắn ngủi nhú khỏi hai chân bằng một gang ngắn, lúc đó, hình như có một hình ảnh nào đó êm đềm vừa trôi qua trong tôi, lúc tôi kịp nhắm mắt để tránh những hạt cát đang quật vào mắt mũi. Một lời van xin đã bật ra trong đầu óc.

Tôi mở choàng mắt, những vạt nắng nấp sau những đám mây lam, thật thấp, chiếu xuống những tia vàng úa, buồn não. Cầu xin một sự yên lành. Ba ơi, chắc gì còn kịp. Chân tôi bước như muốn ríu lại, cuối cùng, tôi cũng qua hết chiếc sân rộng, vào dãy nhà đợi.

Buổi tối hôm trước, tôi đang còn ở thành phố Sài Gòn. Lâu lắm rồi tôi chưa về lại Huế. Nhiều dịp Tết trôi qua, lần nào cũng tự hứa sẽ trở về, nhưng những dịp tự hứa đó cũng bị những lười biếng, buông thả xoá mất hết. Lúc này thì không thể không trở về được. Tấm điện tín đến vào lúc 11 giờ đêm. Lúc đó tôi đang đưa ông Táo.

Tối 23 tháng chạp, không hiểu sao chỉ có lễ đưa ông Táo, tôi đã diện như đi một dạ hội. Áo dài đỏ chót, tóc tai chải đàng hoàng. Khi tôi mặc chiếc áo đỏ, người giúp việc đã buông một câu: Cúng ông Táo mà chị mặc cái áo đỏ chói. Tôi cười: Biết đâu sẽ hết dịp mặc. Lời nói của tôi linh ứng ngay lúc đó. Chỉ một phút sau, tôi nhận được điện tín từ Huế đánh vào. Về ngay, ba đang hấp hối. Đang hấp hối? Cái gì mà kỳ cục vậy. Lá thư ba tôi viết từ tuần trước còn rành rành nơi ngăn tủ. Con nhớ về ăn Tết, chúng con phải về, ba đã rời bệnh viện. Chúng tôi đã mua vé cho cả gia đình, sẽ về Huế vào ngày mồng Hai. Lâu lắm tôi mới trở lại Huế, và lần này, cả đoàn vợ chồng con cái lần đầu tiên trở về trình diện cái quê hương mà tôi vừa thương yêu vừa thù ghét. Không thể chờ đợi thêm được nữa. Em phải về trước, bằng mọi cách. Chồng tôi nói thế. Và sáng hôm sau, tôi đã theo một chuyến máy bay quân sự để trở về đây. Chiếc áo đỏ còn lung linh trong trí nhớ tôi như một nỗi kinh hoàng. Chiếc áo đỏ này cũng đã được xếp ngăn nắp cất kín.

Tôi theo một xe hơi đi đón người nhà lên thành phố. Không đủ sức chờ đợi chuyến xe đưa hành khách được nữa. Tôi muốn tức khắc có mặt ở nhà lúc này. May ra còn kịp, nhất định phải kịp. Ba không thể đi một chuyến đi dài mà không nhìn kịp mặt con. Phải thế.

Mấy năm rồi, tôi không trở về, những lá thư ba viết thật dài và những lá thư trả lời ngắn ngủi không đủ để nói gì hết. Lời nói thú tội của tôi đang còn chờ một dịp. Lần này, cầu mong cho con về kịp, và con sẽ nói, nói hết với ba. Không, tôi cũng chả cần phải nói gì, ba tôi cũng đã hiểu hết. Những ngày bỏ Huế dài bằng những lỗi lầm của tôi mà gia đình gánh chịu. Chiếc xe chạy qua những thửa ruộng nhỏ, phía xa là những rặng núi dài, con đường tráng nhựa ngày xưa nay đã cũ và đầy những ổ gà. Cảnh vật không có gì thay đổi hết.

Tôi tựa vào thành xe nghe tiếng tim mình đập rộn rã, tiếng rộn rã của một nỗi mừng cùng một nỗi khắc khoải chờ đợi. Bầu trời xám xịt, những ánh nắng vàng quái đồng tình với tôi về một nỗi quạnh hiu và những đám mây buồn như muốn chảy nước. Tôi lờ mờ hình dung hình ảnh ba tôi với nhiều khuôn mặt, nhưng hình ảnh nào cũng vội biến đi rất nhanh để nhường lại cho một đôi mắt đã hết tinh thần đang cố bám những làn hơi chờ đợi.

Xe qua một vài xóm nhỏ tới một thửa ruộng, cảnh vật không có gì đổi thay nhưng tôi không còn nhớ gì hết. Khi xe qua một con cầu, tôi mới thảng thốt rối rít xin dừng lại. An Cựu ở phía đằng sau lưng mất rồi. Tôi gọi chiếc xích lô và đi ngược trở lại. Tôi ôm mớ hành lý lên lòng, hành lý chả có gì cho một chuyến đi xa, tất cả được gói gọn bỏ trong cái túi nhỏ. Tối hôm trước, khi hay tin, tôi đã cầm tấm điện tín, ngồi trong màn mà khóc. Tất cả cái gói nhỏ này do chồng tôi xếp cho. Em cứ về, mồng Hai anh sẽ ra và đến sau. Anh sẽ cố gắng thu xếp công việc, đổi vé sớm hơn.

Cho tới lúc này, tôi vẫn không tin tưởng gì về sự có thể đổi vé được. Xe đi qua một đồn lính đến một ngã ba, rồi chạy thẳng xuống theo con lộ số 1. Tôi đưa tay ra dấu, xe chạy vào một con ngõ được chắn lại bằng một cánh cửa sắt khép hờ. Tôi nhảy lên từ trên xích lô xuống chạy một mạch từ ngõ qua khoảng sân và đứng sững lại giữa nhà. Nhiều tiếng gọi tên tôi cùng bật ra một lúc. Đứa em gái của tôi chạy ra sân, người phu xe đang tần ngần đợi ở đó.

Cả nhà đang ngồi quanh mâm cơm, nhưng chả ai ăn được miếng nào, tôi ngửi, thấy mùi canh cải cúc quen thuộc, vì một làn hơi mỏng bay lên từ tô canh, bên những chén cơm để nguội ngắt. Mẹ tôi đứng dậy trước tiên, hai tay bà đưa ra đằng trước. Nỗi mừng vừa chiếu một tia sáng nhỏ ở đôi mắt đã che khuất bởi làn lệ mỏng: Con ơi, ba con đợi con về kia, ba con nằm ở trong phòng kia. Nhiều tiếng khóc nổi lên. Cái túi nhỏ nơi tay tôi bỗng rơi xuống đất. Tôi khoát tấm màn nhỏ thay cánh cửa ngăn phòng, bước vào. Chân tôi cơ hồ muốn lướt trên mặt đất.

Tất cả những hình ảnh tôi tưởng tượng về ba tôi đã hoàn toàn sai lệch. Ba tôi bây giờ chỉ còn như bộ xương người. Khuôn mặt choắt lại, hai gò má nhô cao, hai mắt nửa khép nửa mở. Cả khuôn mặt đó cùng mớ tóc chưa kịp bạc hết, chải lật đằng sau được đặt trên chiếc gối cao. Nếu không còn nghe được tiếng thở nhẹ, đôi khi khò khè, tôi không thể tin ba tôi còn đang ở giữa lưng chừng sự sống và sự chết. Sự có mặt của tôi càng làm cho gia đình tôi mủi lòng, xung quanh tôi đầy cả tiếng khóc.

Tôi đứng sững một giây và rồi như một sự vỡ oà không kịp gượng, chân tôi khuỵu xuống, mặt tôi đã úp gọn vào bàn tay cứng ngắt của ba tôi. Ba ơi, con đã trở về nhưng cả ba cả con, không ai còn kịp nghe nhau nói nữa. Tôi tưởng khi gục xuống bàn tay của ba tôi, tôi sẽ khóc ghê gớm lắm, và ít nhất tiếng khóc đó cũng giúp tôi vơi bớt được nỗi buồn khổ đau đớn trong lòng. Như đêm qua tôi cũng đã khóc, như khi ngồi trên máy bay, tôi cũng đã khóc, và sau đó tôi tỉnh táo lại.

Lần này cớ chi sự đau đớn của tôi không trào ra bằng mắt. Không, ba tôi còn sống, ba tôi còn nằm kia, da thịt còn nóng. Ai kêu giùm tôi một bác sĩ, ai gọi giùm tôi một chiếc xe đi. Làm cách nào để cứu ba tôi sống lại chứ. Tại sao mẹ tôi chú tôi chỉ biết cuống quít chờ đợi ba tôi chết và khóc lóc thế kia. Tôi đứng bật dậy. Má ơi, ba chưa chết, kêu giùm con bác sĩ đi chú ơi. Tiếng khóc của người đàn ông không làm ai mủi lòng như vậy mà chú tôi đang khóc như một đứa bé.

Tôi giậm chân, tôi quay quắt. Tôi đứng bật dậy. Làm ơn gọi bác sĩ giùm tôi, ba tôi đang chống chọi kìa. Nhưng không ai trả lời tôi hết, những tiếng khóc thút thít làm đầu óc tôi như muốn nổi điên lên. Cái chết nào có dễ dàng đến như thế. Con ơi, con đừng có la lối nữa, không kịp nữa đâu, bác sĩ chạy rồi. Bác sĩ chạy rồi, bao nhiêu sự hung hăng của tôi nhờ lời nói của chú tôi đập nát hết. Lúc này tôi nhìn rõ ba tôi hơn. Lưỡi ông đã trụt, hai mắt đã lạc hết tinh thần. Ba tôi đang mặc một cái áo ka ki nhà binh, nơi tay còn đeo đồng hồ và phía trên đầu có đặt cái radio nhỏ.

Chú tôi nói: Chiều qua, ba còn đưa tay vặn máy ra, lại đeo được đồng hồ. Đến nửa đêm hai tay mới tê liệt hẳn. Ba có nói gì nữa không? Má tôi vừa khóc vừa trả lời: Ba gọi tên con, tên anh con, rồi im luôn cho tới giờ. Má tôi nói xong cầm chén sâm, rỏ vào miệng ba tôi mấy giọt, ba tôi nấc lên, và hai hàm răng đập lại, chứng cớ còn nuốt được. Nhưng tới giọt sâm thứ hai thì miệng ba tôi không còn động đậy gì nữa. Lúc này tôi mới nhớ tới anh tôi, má tôi giải thích cho biết là anh ấy đã đi trình diện nhập ngũ, đã đánh tới mười mấy cái điện tín nhưng chưa thấy về.

"Ông ơi, con nó về đây, con nó về mà ông bỏ nó ông đi sao đành ông ơi". Tiếng kêu của má tôi như một tiếng xé lòng. Tôi gục mặt vào ngực ba tôi, bao nhiêu sự cố gắng của tôi đã cùng bật ra một lúc bằng tiếng kêu nhỏ: "Ba ơi". Rồi tôi không khóc, nhưng nước mắt tôi đã chảy giàn giụa. Và khi tôi nhìn vào khuôn mặt ba tôi, thì lạ lùng thay, nơi hai khóe mắt đã dừng tròng của ba tôi, lăn ra hai dòngg lệ nhỏ. Ba đã nhận ra con, ba đã biết con trở về. Ba ơi. Nhưng làm thế nào cho ba đừng chết.

Không còn hy vọng gì nữa hết. Môi ba tôi đã khô dần và nơi trán đã rịn ra những giọt mồ hôi cùng những giọt lệ tiếp tục chảy dài hai khóe mắt.

Tất cả các cánh cửa sổ được mở ra một lúc. Ánh sáng lùa vào lê lết trên khuôn mặt tái ngắt của ba tôi. Nhưng ánh sáng đó, hắt hiu dần vì những đám mây mỗi lúc một đặc. Em gái tôi nói đóng cửa lại, sợ ba tôi nhiễm gió lạnh, nhưng chú tôi nghẹn ngào: Để vậy cho sáng sủa, ba thích sáng sủa để ba nhìn vườn cây của ba trồng.

Nhiều người tới thăm đang đứng ở nhà ngoài, má tôi dẫn vào, họ đứng yên lặng một lát rồi đi ra, ai ai cũng có bộ mặt phiền não. Ngoài vườn, gió chiều đang bắt đầu xao động trên các lá cây, ánh sáng thật mỏng manh yếu ớt, lung linh từng giọt trên lá. Trên tấm chăn trắng đắp trên người ba tôi, phía chếch nơi bụng, một vệt nắng dài đang u buồn đậu trên đó. Tôi ngồi ghé vào một bên giường, lần này, tôi không còn đủ lý do gì để quay quắt được nữa.

Ba tôi nằm đó, đầy sự yên tĩnh, những giọt nước mắt cùng mồ hôi trên trán đã được lau khô và hơi thở ba tôi điều hoà như đang chìm vào giấc ngủ không mộng mị. Vệt nắng cứ chạy lui dần xuống phía chân ba tôi và hao mòn mãi cho tới lúc chỉ còn một giọt nhỏ.

Tôi đưa tay sờ ngực ba tôi, cầm chặt bàn tay ba tôi, áp má vào bàn tay còn bọc toàn gân xanh và da nhăn cố kéo lại chút hơi hám quen thuộc. Mới ngày nào ba tôi ra vào, mới chiều nào ba tôi lúi cúi trồng những luống hoa, những buổi tối học thi ba tôi thức đợi thúc giục tôi đi ngủ.

Mới ngày nào ba tôi còn bàng hoàng đau đớn khi đứa con gái bướng bỉnh cãi lời lặn tìm một hạnh phúc. Mới ngày nào những lá thư trách móc, rồi những lá thư dịu dần và chi chít những dòng chữ bao dung, thương mến. Ba ơi, con định trở về một ngày còn kịp để khóc với ba, ôm lấy chân ba để nghe chính ba nói lời tha thứ. Tôi ngồi im lặng, nghe chính tôi đang có muôn lời thổn thức nhưng ba, ba đã không còn thắc mắc gì, ba sống bình yên một cuộc đời tầm thường trong bổn phận, ba chết cũng bình yên như thế.

Lúc này, cả gia đình tôi, không ai còn muốn rời căn phòng nhỏ bé này một phút nào nữa. Cô em gái tôi đã nhảy thót lên giường, ôm lấy một cánh tay ba tôi. Mẹ tôi vừa khóc vừa gục mặt vào ngực ba tôi, chú tôi thì hết đưa tay sờ ngực lại đưa tay sờ trán, mấy đứa em chú bác lăng xăng hết thở dài lại ôm mặt nức nở. Tôi bị dồn xuống phía cuối giường. Tôi cũng đáng được dự phần đau khổ chung này như mọi người lắm chứ. Tôi đưa tay cầm lấy bàn chân ba tôi.

Nhưng bàn tay tôi vừa cầm lấy bàn chân khô gầy của ông, tôi vội thả ra sững sờ, bàn chân ông lạnh dần và rất nhanh lên phía trên thân thể. Tôi nhảy phóc lên giường, mặc cho mọi người khuyên can kéo xuống. Tôi đủ sức mạnh để gạt hết mọi người ra ngoài. Ba ơi, ba làm sao thế. Ba ơi, ba đừng chết. Không mà, không, không, vạn lần không, ba ơi. Không được đâu. Ba đừng chết nữa. Đó ba tôi vừa thở hắt ra một cái khoan khoái. Tôi vừa cười vừa khóc: Ba đừng chết nghe ba.

A, ba sống rồi, ba tỉnh rồi. Tôi kêu lên, nước mắt tôi chảy xuống cả ngực áo, cả mặt mũi ba tôi. Đó, ba tôi mở mắt lớn dần lớn dần. Và ba tôi bắt đầu nhìn khuôn mặt từng người. Nhiều tiếng kêu, nhiều tiếng khóc quá, tôi cũng đã kêu khóc như mọi người. Đôi mắt ba tôi, đôi mắt của người chết sống lại, linh lợi tươi vui và vô vàn đằm thắm. Đôi mắt dừng lại nơi khuôn mặt tôi. Tôi kêu một tiếng lớn như dùng hết sức mình: Ba, ba ơi.

Ba tôi đã nghe rồi. Tôi nhìn thấy miệng ba tôi cử động. Đôi mắt của ba tôi, trời ơi, hình như gió đang run nhẹ những ngọn lá ngoài vườn, giọt nắng từ cuối giường cũng vừa giọt lên, nhảy nhót cùng với tia mắt mừng vui, và tất cả sự lung linh bày tỏ tột cùng nỗi mừng rỡ đó chiếu ngời những sinh lực. Ba tôi sống lại rồi. Ba, ba. Nhưng giọt nắng bỗng chìm đi, rồi hai cánh tay ba tôi, hai cánh tay đã chết từ đầu hôm bỗng từ từ giơ lên, cố gắng, cố gắng một chút nữa. Một cánh tay chụp lấy vai tôi, còn một tay kia, chạm nhẹ vào khuỷu tay tôi rồi lưng chừng ở đó. Không một tiếng nấc nhỏ, đôi tròng mắt ba tôi đứng sững. Thôi rồi, chú tôi đang làm gì vậy, mẹ tôi đang làm gì vậy? Bàn tay bà đưa lên vuốt mắt ba tôi, hai con mắt vừa long lanh báo tin mừng vui kia đã khép lại, bình yên trong giấc ngủ muôn đời. Hai cánh tay ba tôi cũng được chú tôi gỡ xuống, vuốt nhẹ ngay ngắn. Thế là hết. Tôi đưa tay lên ngực ba tôi, nơi ngực ba tôi còn nóng hổi.

Ba tôi vừa mới đưa tay lên ôm tôi, vậy mà ba ơi, ba ngủ sao tài tình đến như vậy? Thôi con mất ba thật rồi, ba nằm đó mà con biết con mất ba. Nhưng ba, ba còn kịp gặp mặt con, rồi con còn kịp chứng kiến giây phút giữa sự sống chết, và ba ơi, ba kịp nhìn ra khuôn mặt đứa con hư. Trong sự đau đớn đến lịm người, tôi còn đủ chỗ để sung sướng một cách ngu xuẩn.

Ai cũng được dịp khóc thả cửa. Vệt nắng trên người ba tôi cũng đã tắt tự bao giờ.

Giọt nắng đã về trời, ba ơi, linh hồn ba đang nương theo giọt nắng.

Không, tôi phải bật khóc, phải lăn lộn như mọi người kia. Tiếng khóc nào làm đầu tôi tê nhức đến như thế? Giọt nắng nào làm tôi gửi hồn bay bổng mơ màng? Tấm vải đỏ phủ lên khuôn mặt của ba tôi, và giữa bao nhiêu tiếng động đó, mùi trầm hương đã xông lên thơm ngát. Một chén cơm, một quả trứng, một bát nhang. Ba tôi đó ư? Sức sống vừa cựa quậy trong người ba tôi, nơi hơi thở mong manh của ba tôi, biến mất từ lúc nào thật tài tình. Ba tôi đã chết, chết thực rồi, tôi còn mơ mộng làm chi nữa. Hãy gắng một chút nữa đi, những tiếng binh binh đang gõ nhẹ trong đầu óc. Gắng hơn một chút nữa đi, tôi đang lo buồn hay đang trống rỗng vì bụng đói. Thôi đừng khó chịu vì những tiếng kêu la nữa. Hãy đấm tay xuống bàn, đấm mạnh vào tường, đấm cho dội ngược cho biết đau đớn.

Ba mày chết đó kia. Mày có thương xót gì không? Đã thấy thương xót gì chưa? Oà khóc ra chứ? Tôi đứng dựa vào tường, thảng thốt nhìn những người khác khóc, tôi muốn được tham dự hay muốn được cười khan một tiếng. Phật ơi, Chúa ơi, lúc này sao ông cũng dửng dưng vậy. Cho con được bình tĩnh, cho con được dựa vào chút tỉnh táo của ông với.

Một cánh cửa sổ đã được gió khép lại tự bao giờ. Ngoài vườn, những lá cây đã rũ xuống, những vệt nắng mỏng manh cũng biến mất. Giữa chiếc sân rộng cây mai trổ hoa sớm vàng rực. Vài tiếng pháo đã nổ lẻ tẻ.

Tôi nhìn đồng hồ: 4 giờ 15 phút. Trừ đi 10 phút khóc là ba tôi chết lúc 4 giờ 5 phút. Đã quá giờ xấu. Chú tôi vừa khóc vừa nói với một người hàng xóm tới thăm.

Chiều 24, tháng Chạp đã mang về một trời đầy mây dày, báo hiệu cho những cơn mưa sầu thảm cuối năm, linh hồn của ba tôi đã nương theo giọt nắng về trời cùng một lúc. Giữa tiếng khóc kể như ri, tôi dở tấm khăn điều phủ mặt, cúi hôn lên vầng trán lạnh ngắt của ba tôi, và giơ tay lên chùi nhanh giọt lệ đang muốn nhỏ xuống khuôn mặt đã bất tỉnh từ làn da tới sợi tóc. Ba tôi đã dứt hết mọi phiền luỵ.

Để tôi nhớ những gì tôi đã làm trong những ngày buồn thảm đó. Tôi đã làm gì? Tôi đã khóc như thế nào, đau đớn rã rời như thế nào? Không biết bao nhiêu chi tiết vụn vặt, bao nhiêu lần rơi lệ, bao nhiêu lần mủi lòng, tất cả đều được tôi đón nhận bằng khối óc trơn lì như một cơn mê bởi sự đồng thiếp. Cơn đồng đã nhập vào cơn mê. Tôi được đưa đẩy bằng những công việc ma chay và tôi sợ nhất là một phút nào đó, cơn đồng thiếp vụt rời ra khỏi tâm thức mình, tôi trở lại những đau đớn bắt đầu cho tới khi được hôn mê trở lại là một khoảng thời gian xa cách đầy kinh khủng.

Huế ơi, tha thứ cho lần trở về này. Đôi mắt của tôi đã trông nhìn thấy Huế, đã che lấp bởi giải khăn tang. Thành phố Huế đối với tôi đã là một sự thao thức kinh khủng, bao nhiêu lần mơ ước được trở về để ba dẫn đi ăn một tô bún bò, để cùng với ba ngồi trên một chuyến đò ngang qua sông Hương, để nhìn mái tóc bạc của ba lất phất bay trong gió, để cùng soi hai mái tóc xuống mặt nước sông Hương và hưởng sự sung sướng tuyệt diệu của niềm im lặng được tha thứ. Ba ơi, ba ơi.

Làm thế nào để có một phút đó nữa, làm thế nào để còn ước mơ được nữa. Ba ơi, làm sao để con được trông thấy ba với một bản đàn cổ nhạc, với chiếc đàn bầu, trông thấy ba cặm cụi bên những khóm hoa, bên chuồng gà, nơi mái hiên, nơi con dốc Nam Giao ba đi xe đạp, xe Honda xuống, ba đi ra đi vô nơi chiếc sân rộng ở sân Công Chánh, ba giảng cho nghe một bài Nam Ai, Nam Bình, ba ngồi cầm cây đàn ghi-ta, đàn một bài tân nhạc. Làm sao còn dám nhìn những con đường ba đã đi xe đạp, xe Honda, nhìn con sông ba vẫn dắt con qua những chuyến đò.

Không, tôi chỉ nhìn thấy Huế như một thứ bội bạc. Tại sao Huế lại đốt pháo, lại ăn mừng, lại vui, lại tĩnh tâm được trước sự đớn đau của tôi. Những người Huế đó họ đang đến đầy sân, chật nhà. Tôi thấy họ cười hỏi đầu đường, họ rầu rĩ khi vào đến sân, họ âm thầm khi đứng trước quan tài. Tôi cầu cứu đám đông luôn luôn chật nhà ban ngày và buồn đến chín người khi ngồi một mình nhìn những ngọn đèn cầy lung linh. Tôi nằm sấp dưới sàn nhà, nhìn cái tim đèn dầu phụng le lói dưới quan tài. Tôi thổn thức gọi ba ơi, gọi ba rồi Huế ơi. Chiếc quan tài màu lam, in những hoa sen trắng. Lúc chết ba tôi mặc bộ quần áo màu vải lam, đội mũ vải lam và khuôn mặt ba tôi, cũng cứng lạnh như chì, ba tôi về với đất thật rồi.

Đám tang ba tôi đưa khỏi nhà vào sáng 28 Tết. Năm cùng tháng tận rồi, phần người sống vẫn phải rình rang. Tôi vướng víu trong bộ quần áo tang và mũ mấn che kín tóc tai, mặt mũi. Tôi đi sát đằng sau quan tài, một tay níu lấy mép áo quan phải mủi lòng theo những lời kể lể, phải lúc nào cũng nước mắt dầm dề như người ta nói về chữ hiếu, tôi khổ sở bực bội và muốn phát điên trong sự bó mình đó.

Người anh cả đã về kịp, áo thụng, gậy tre, làm mọi cử chỉ như máy theo sự sai bảo của mọi người. Tôi muốn được làm đàn ông như anh, không khóc lóc, không kể lể gì hết. Ba ơi, ba đi cho vui vẻ, ba đi cho bình yên. Khi con lên máy bay người ta nói: Thượng lộ bình yên. Thượng lộ bình yên nghe ba. Khi con đi xa, ai cũng chúc con may mắn, ai cũng nhìn con với ánh mắt trìu mến. Con cũng chúc ba: May mắn nghe ba. Đáng lẽ ra đoạn đường đưa ba phải về nơi quê hương của ba. Quê hương của ba ở ngoài Thanh Hoá, con chưa biết gì hết, ba ơi. Ba chết rồi ai đưa con về quê hương của ba.

Thôi thời thế giặc giã, ba nằm ở quê hương của chúng con vậy nghe ba. Đám tang ba, khi lên ngọn núi, đường dốc quá, và nhiều tiếng khóc quá, con mê người đi rồi, một phần vì bị đồng thiếp, một phần vì bị mệt mỏi. Nhưng con cũng còn đủ sức để ước rằng, giá con được đứng ngoài, nhìn người ta đưa đám ba, bàn luận với ba về đám ma, chắc ba vui lòng hơn, phải không ba?

Tôi cố kìm lại những giọng thì thầm lảm nhảm. Đi cho yên, dừng bước mau. Đáy huyệt sẽ hiện ra một lát nữa thôi. Đi chầm chậm bớ anh em hậu thập, tiền ngang. Dô ta, nghe đây anh em, chậm bước, sang bên trái đi thẳng.

Hồn ma yên chủ thương. Đồ con khỉ, cho thêm dăm ba trăm một ngàn. Tao cấm gọi cái kiểu đó. Tôi giận dữ muốn hét lớn chửi vào mặt tên đầu đám. Má tôi đã ra giá một tiền thưởng. Mấy cái mặt rạng rỡ hẳn lên. Những ngọn nến trắng trên quan tài chập chờn. Tôi nhìn lên chóp núi, những đám mây lam gợi hình ảnh ba tôi, nằm yên lặng trong phòng mắt nhắm, một ngọn nến một bát hương một chén cơm đặt phía trên đầu. Rồi một đám tang khác của ba tôi cử hành ngoài hư vô, những miếng giấy vàng bay bay như từ chân mây rớt xuống.

Lúc đứng lưng chừng ngọn núi Tam Thái, tôi hất mũ mấn lên, nhìn xuống thành phố Huế, tôi không nhìn thấy gì nhiều ngoài những mái ngói cũ kỹ, ẩn hiện trong những ngôi vườn um tùm cây xanh. Nhưng tôi cũng tưởng tượng sau những vườn cây kia con đường thẳng trước trường Quốc Học và Đồng Khánh, trước mặt nó là sông Hương, và qua bên kia sông là Phú Văn Lâu, là cờ vàng ba sọc đỏ thật lớn. Huế ngàn năm không thay đổi. Tôi cũng nhìn thấy xung quanh tôi, những người đưa đám có người mang áo trắng, tóc thề, những cô bạn gái của em tôi, những bà con thân thuộc. Quen thì có quen, nhưng tôi không nhích nổi môi để tỏ cử chỉ chào hỏi, làm quen được.

Những vàng hương được đốt lên, những ánh lửa lăn theo tàn giấy xuống chân núi, vướng trên bụi cây, những mồ mả. Mộ ba tôi chôn tít trên cao, nằm riêng rẽ. Ba ơi, ba không thích đám đông, khi ba sống, ba thích được một mình. Chúng con chọn cho ba một nơi yên tĩnh, ở đây, ba có thể nhìn xuống vườn nhà, nơi những đọt dừa xanh cao nhất vươn lên đó.

Áo quan được đặt xuống huyệt, hai đầu đứt đã được bút rút lên. Xung quanh tôi sao nhiều tiếng khóc thế. Cho ba tôi bình yên. Đừng khóc, đừng khóc.

Nhưng chính tôi vừa kêu lên một tiếng thảm thiết quá chừng, tôi khóc lúc nào vậy? Anh tôi rũ xuống như một người bị rút hết xương sống. Những nắm đất ném lên tới tấp. Những người phu đám nhảy xuống huyệt đứng lên quan tài, những tiếng gõ như xé rách tim tôi cùng với tiếng hát nện mồ: Ngày nào nói nói cười cười… Ới khoan, khoan hỡi hò khoan… Bây giờ đã trở thành người hư vô… Ngày nào… Khoan hỡi hò khoan, hết khoan là đến hụi. Ngày nào gác tía lầu son, bây giờ một đống xương tàn thảm chưa… Ngày nào ngày nào… Khoan hỡi khoan. Ngày nào tiếng khóc trong nôi, ngày nào tiếng nói tiếng cười lớn khôn, ngày nào điện ngọc lầu vàng… Dại khôn cũng nắm xương tàn lúc ni… Ối ông ơi… Khoan hỡi hò khoan, ới khoan, ngày nào, ngày nào…

Ngày nào ba ơi. Tôi có là gỗ đá mới không khóc ròng vì những lời bộc trực một cách tàn ác thê lương của đám phu mộ. Xương sống tôi đã gãy, tôi cũng rũ người xuống bên cạnh đống đất chưa vun. Ba ơi, tôi muốn kêu to cho tiếng lọt xuống mồ đất sâu nhưng tiếng kêu của tôi không bao giờ còn lọt ra khỏi miệng nữa, bởi tôi biết ba tôi đã chết.

Tội nghiệp cho gia đình tôi, khi đã khóc lóc đến lả người ở phần mộ trở về nhà, ai nấy bỗng im lìm như tượng đá. Má tôi nằm nơi chiếc giường mà trước đây ba tôi đã nằm. Bà úp mặt vào tường không còn lệ để khóc. Tôi cũng buồn chán không muốn ra khỏi nhà, việc nhìn lại Huế, sống lại với một vài kỷ niệm của tôi lúc này cũng trở thành vô nghĩa. Nhưng đến ngày 29 Tết, tôi chợt nhớ đến Nga, cô bạn gái đã lâu không gặp. Tôi đi bằng một chuyến xe buýt qua phố Trần Hưng Đạo gặp Nga, không tiện đi long dong với nhau ở phố, chúng tôi đứng ở cửa hàng nói chuyện. Nga không biết gì tới việc ba tôi mất. Mày nói gì kỳ vậy, mấy tuần trước bác còn qua đây biểu Nga chọn len cho bác mà. Tôi nói với Nga như thế còn lâu, nhìn thấy phút trước, phút sau chết lúc này đầy khắp mọi nơi. Nga nói ở đâu chứ Huế thì yên lắm. Nga không tin có gì xảy ra làm thay đổi Huế được, Nga hỏi thăm về đám tang ba tôi và hẹn chiều sẽ sang. Chiều 29 là ngày cuối năm. Buổi chiều Nga sang thật. Khi hai đứa mở cái ví cũ đặt nơi bàn thờ ba tôi, cả hai đều nhìn nhau và cùng ứa nước mắt khi nhìn cái ảnh cũ chụp chung hai đứa còn bé ở ví ba tôi. Chiếc ảnh đã cũ, ngày hai đứa còn đi học.

Tôi cũng thấy ở một ngăn khác, chiếc ảnh của tôi ngày còn bé tóc cúp ngắn, đeo kiềng vàng. Chắc đó là hình ảnh về tôi mà ba tôi quý nhất. Sau đó hai đứa đi bộ ra phía cầu, rồi leo lên một chuyến xe buýt sang phố Trần Hưng Đạo. Huế chỉ có con đường này là phố chính, đi dọc phố Trần Hưng Đạo ngược lên là Phú Văn Lâu rồi đến cầu Bạch Hổ. Tôi cũng chưa nhìn được Huế gì ngoài một vài con đường xe buýt An Cựu - Đông Ba đi qua và cầu Tràng Tiền, đài phát thanh Huế. Nhưng tôi vẫn nhớ như in từng hình ảnh khác của Huế, dù tôi không nhìn thấy, nhưng hình ảnh vẫn đứng ở vị trí cũ, tôi đã thuộc như in vào đầu. Huế của tuổi thơ ấu và Huế bây giờ chắc chắn không có gì thay đổi hết. Lúc đứng với Nga ở cửa hàng, tôi nhìn thấy những áo trắng, những mái tóc thề. Những thứ đó tôi đã từng thấy ở khắp các vùng tôi đến, nhưng ở đâu tôi cũng thấy hình ảnh đó kệch cỡm, lố bịch. Tôi chỉ thấy đẹp khi những hình ảnh đó xuất hiện tại Huế, trên những dáng dấp của những đôi mắt mang màu mây nước sông Hương và dáng gầy tha thướt. Chợ Đông Ba chiều Ba mươi Tết vẫn đông, năm nay không có ngày 30, người ta lấy ngày 29 Tết làm buổi chợ chiều 30, cảnh tấp nập, cổ kính, trầm tĩnh như mọi năm về trước. Tôi nghĩ sau một vài xáo động, Huế vẫn không bao giờ có thể thay đổi được. Nga kể cho tôi nghe một vài mẩu chuyện về Huế, vài sinh hoạt tuổi trẻ. Tôi hỏi Nga về phần các cô thì sao? Nga nói chả có gì thay đổi đâu, có vài cô đi Sài Gòn mang những mini jupe, mang những quần áo thời trang về, nhưng thấy không ai hưởng ứng thành thử cũng bỏ luôn. Nga nói: Kệ, Huế quê một cục vậy mà hơn. Đố ai làm Huế thay đổi. Cũng như Vân, bây giờ Vân cột chặt với Huế rồi, bác ở chung quê hương với Vân rồi. Nga nói đúng, ba tôi không cách chi trở về quê hương của ông nữa.

Và ba tôi cũng đã tha thứ hết cho tôi khi tay ông đưa lên muốn ôm lấy tôi: Con đừng nói gì nữa hết, ba đã hiểu con. Trong một lần trước khi làm một bài thơ nói tới Huế, tôi đã kết bằng câu: Cho tôi trở về đứng mê sảng ngó. Bây giờ tôi đang đứng đây, đứng tại Huế, phút mê sảng đã qua. Nhưng tôi đã được mê sảng.

Chiều hôm đó Nga đưa tôi về, khu An Cựu tôi ở giới nghiêm 7 giờ, mặc dù tình hình Huế vẫn rất an ninh. Xuống xe buýt, chúng tôi đi dạo một quãng. Khi chúng tôi chia tay nhau, Nga nói: Hẹn mồng Hai Tết, nhớ nghe.

Nga dặn tôi mồng Hai đừng đi đâu, nó sang và hai đứa đi thăm mộ ba, đi chơi, dạo một vòng thăm lại Huế. Tôi gật đầu bừa, ngày mồng Hai chồng tôi sẽ về cùng với hai đứa con nhỏ nhưng ít nhất cũng 1 giờ trưa mới tới. Buổi sáng, tôi với Nga tha hồ mà đi trước trên những kỷ niệm.

Trời xuống lạnh thật bất ngờ và những tiếng pháo nổi lên tứ phía. Ngang qua nhiều nhà tôi đã ngửi thấy mùi trầm hương, và bên trong những cánh cửa khép hờ đã có bình hoa mai vàng đẹp một cách trang nghiêm đang bình tĩnh đợi chờ đêm giao thừa.

Những tà áo bay ngược chiều hoặc cùng chiều lại phía tôi nhởn nhơ trong gió chiều đằm thắm, làm tà áo trắng của tôi bị chìm nghỉm lẫn trong niềm riêng u tịch.

Cái chết của ba tôi làm tôi gần lại với Huế, mà bao năm vì tuổi trẻ tôi đã coi Huế như một chỗ không phải để những người như tôi dung thân và tôi không có cảm tình được. Lúc này tôi nhìn Huế, như một nước nhỏ thanh bình lặng lờ nào thật xa lạ với cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

Ngày mồng Hai Tết của Nga và tôi không bao giờ có nữa, ngày mồng hai Tết của chồng con tôi trở về cũng không bao giờ tới. Đêm mồng Một, những tràng pháo đang ròn rã nổ vui mừng chào đón Xuân, bỗng bị những tràng AK50, B40 làm im nghỉm. Một ngày hai ngày, một tuần hai tuần rồi một tháng chạy loạn. Tôi trú ẩn ở Dòng Chúa Cứu Thế và cung An Định, sang bên này Tân Lăng, về tuốt Thuỷ Dương trở lên An Cựu, rồi vội vã thoát thân một mình, và tới Sài Gòn rồi, tôi mới tin rằng tôi đã xa được địa ngục Huế.

Địa ngục Huế trong một tháng đã làm thay đổi tất cả điều mà trước đó một ngày tôi quả quyết Huế không bao giờ thay đổi. Tôi trở về một mình lành lặn tay chân, đẹp đẽ mặt mũi. Và nửa tháng sau tôi lại theo dõi tin tức ở các báo chí về những thảm cảnh Huế một cách say sưa hồi hộp thương cảm như chính mình đã xa Huế lâu năm chưa biết gì về cảnh tan nát đó.

Trong những ngày chạy loạn ở Huế, tôi khoác chiếc áo măng tô hai mặt vải của ba tôi và thường trực nhớ tới những phút cuối cùng của đời người đó, và tôi đã lợi dụng sự thương nhớ đó để cầu xin sự phù hộ. Khi tôi đã bình yên ở Sài Gòn, bốn ngày sau tôi tìm thăm Phương ở Huế cũng mới trốn thoát vào và hỏi thăm những bạn bè cũ. Tôi được biết một bạn cũ là Tâm Tuý đã chết và Nga còn sống.

Phương thấy Nga đang ngồi tìm kiếm gì đó trên đống gạch vụn của ngôi nhà vừa mới xây mà đã thành ngôi nhà xưa.

Thưa ba,

Con đã thoát chết, chiếc áo mưa của ba con cũng đã mang theo vào tới Sài Gòn, nơi ba ao ước được vào thăm cho biết mà chưa vào được.

Con còn rất mừng và sung sướng cho ba được chết trong lúc thành phố còn nguyên lành. Và mặc dù quanh ngôi mộ ba những hoa lan đã bị tàn phá cày xới, nhưng con tin rằng không bao lâu cỏ cũng sẽ mọc, cây sẽ trổ hoa lấp hết dấu vết cũ rồi con cũng sẽ được trở về nữa.

Và Nga thân mến,

Phương có nói cho mình biết rằng, Phương có trông thấy Nga đang ngồi tìm kiếm gì đó trên đống gạch vụn của ngôi nhà cũ ở phố Trần Hưng đạo. Nga ơi, mình cũng hình dung ra được hình ảnh ấy và những bức tường còn lại lỗ chỗ những vết đạn, cùng những giọt nắng khô trên những giọt lệ nhỏ. Dù sao cũng mừng là Nga còn sống.




Sáng ngày thứ mười mấy rồi, không ai nhớ nổi, tỉnh dậy là Tâm bò ra miệng hầm liền. Tâm phải bò ngang trên mình nhiều người mới ló đầu ra khỏi miệng hầm được. Bên ngoài trời đã sáng, nhưng trong nhà ánh sáng lờ mờ vì nhiều cửa sổ đã đóng kín mít. Ngọn đèn dầu vặn nhỏ đặt trong góc hầm như sắp hết dầu, màu vàng ửng đỏ một cách kỳ cục. Có một bàn tay của người nào nằm đó vẫy lên, ngọn đèn tắt ngấm. Trong hầm tối um, Tâm nghe tiếng bà chị cằn nhằn:

"Không chịu ngủ ra ngoài mần chi mà bò lên mình người ta rứa".

Có lẽ đêm qua chị ngủ không được, nằm thao thức, lo sợ quá rồi bây giờ cáu kỉnh. Tâm làm thinh. Mấy ngày hôm nay Tâm đã làm thinh nhiều lần. Nhiều lần Tâm muốn cất tiếng hét, Tâm nghĩ lại kịp: đừng để cáu kỉnh, đừng để khổ thêm nữa.

Tâm lắng tai nghe, sao hoàn toàn yên tĩnh thế này. Đêm qua tiếng súng lớn nhỏ bắn suốt đêm, mọi người nằm sát nhau trong hầm, bịt tai, co quắp cả người lại vì những tiếng nổ lớn dội người. Tiếng súng tắt từ lúc nào trong giấc ngủ mệt mỏi về sáng Tâm không biết nữa. Giọng ông anh nói thì thầm:

"Đứa mô ở miệng hầm đó, ra ngoài coi thử, răng súng đạn êm rơ rồi".

Giọng anh tỉnh không. Tâm tưởng tượng ra được khuôn mặt anh lúc đó. Mới mấy ngày mà mắt anh sâu hút, môi tái, mặt xanh và tay chân gầy tọp như que củi. Anh ôm chặt mấy đứa con, không rời chúng nửa bước. Hình như mạng sống của anh phải dính liền với mấy đứa trẻ nhỏ. Tiếng bà Xếp run run:

"Ni, đứa mô nơi miệng hầm đó. Ra coi thử, răng êm ru bà rù rứa".

Nhưng chị dâu Tâm thận trọng:

"Đừng, đừng mở cửa. Họ ở ngoài vườn đó. Họ bắn chết chừ".

"Để con ra cho".

Tiếng con Thầm nói, rồi có tiếng rột rẹt. Chắc nó ngồi dậy.

Tâm quay đầu lại giơ tay ra hiệu. Tâm chợt nhớ lúc đó trong hầm tối thui, Tâm lên tiếng:

"Đừng, đừng. Để tao ra cho".

Tâm bò ra khỏi miệng hầm. Người anh nói nhỏ theo, cẩn thận nghe. Tâm phải khó khăn lắm mới đứng thẳng người trên miệng hầm được. Cả một đêm nằm bẹp một chiều, tay chân cơ hồ như rã rời, tê cứng. Căn nhà vắng lặng một cách ghê rợn. Tâm đi từng bước ngắn, cẩn thận, lúc nào cũng cẩn thận, chực chờ để chạy lui trở lại, chui tọt vào miệng hầm. Tâm đi lần ra tới cửa, áp tai vào cánh cửa để nghe ngóng. Bên ngoài cũng yên tĩnh đe doạ, bồn chồn, thứ yên tĩnh làm bóp thóp tim người ta. Không, không có gì hết. Chắc cũng không có ai ở ngoài vườn nữa. Chắc đêm qua họ rút lui cả rồi. Tâm nhớ tới khuôn mặt trẻ măng của anh bộ đội chính quy Bắc Việt. Chiều qua, anh còn đứng gác trước cổng, tay cầm súng AK, bên cạnh xác một anh đồng đội nằm chết co quắp chưa được mang đi. Con Thầm, con Bông sợ quá không dám ló mặt ra khỏi miệng hầm, sợ phải khiêng xác người. Không biết bây giờ anh còn gác ở đó không? Tâm mở nhẹ cánh cửa, đứng thập thò đầu nhìn ra sân. Cây mai vàng trông đến tả tơi, tội nghiệp, nó bị trúng một quả mọt chê, mấy cành trĩu bông bị gãy, xác mai vàng rụng tràn dưới gốc đã úa màu. Nhưng trời ơi, trong bầu trời lam chì như sắm rớm trăm ngàn giọt lệ, trong sự tiêu điều tê tái của cỏ cây, sao những búp xanh vẫn còn may mắn đâm chồi, những nụ chồi mơn mởn mọc mạnh mẽ tự nhiên hết sức. Nhưng Tâm, Tâm không còn chút hy vọng nào. Người Tâm cứng chắc vì đã thường trực sợ hãi, tuyệt vọng cùng cực. Có tiếng chân người bước ra khỏi miệng hầm, Tâm quay lại. Hầm phía bên trái của một gia đình khác tản cư tới đây cũng đã dậy hết và vừa chui hết ra khỏi hầm. Mấy khuôn mặt lấm lét nhìn Tâm. Tâm đưa tay ra dấu bảo họ đừng khua động. Họ ngồi bệt trên nền nhà, Tâm mở lớn cửa, đi thẳng ra sân.

Ngoài đường không có một bóng người. Đêm qua cả nhà bàn với nhau nếu sáng ra nhìn thấy có người đi trên đường thì tản cư theo họ ngay. Không biết đi lên phía Tây Thiên hay đi xuống cầu. Tình hình hoàn toàn mù tịt, từ nhà này còn không liên lạc được với nhà bên cạnh, nói chi tới tin tức xa gần nào khác. Có cái máy radio thì bị họ lấy từ hôm đầu rồi. "Chúng tôi cần có ra-dô để nghe đài giải phóng, đợi đón ngày Bác Hồ đi máy bay vô Sài Gòn, thế nào Bác cũng ghé Huế". Tâm nhớ lại câu đầu tiên nghe đạo đức vào hôm mồng Hai của họ: "Ba hôm nữa là hoà bình. Đã lấy xong Sài Gòn rồi. Bác Hồ cũng sắp vô". Họ nói một cách chắc chắn. Nhưng tới hôm nay là ngày thứ mười rồi. Mỗi ngày đạn bắn càng rát, mọt chê câu càng nhiều, và phía họ, Tâm thấy khiêng người bị thương đi ngang qua nhà vô kể.

Tâm đi tới bên lu nước mưa đặt dưới gốc cây xoài, nhướng cổ nhìn ra ngõ. Tâm vừa ngóc đầu lên thì cắc, một tiếng đạn bay trong veo như xuyên qua tim phổi một cách êm ái. Tâm giật mình, tính ngã người ra phía sau. Rồi một tiếng hô lớn:

"Đứng lại".

Tâm đứng lại cũng không vững nữa, tay Tâm bám chặt vào miệng lu nước. Mắt Tâm hoa lên vì sợ. Anh lính Bắc Việt đã đứng trước mặt Tâm, và hạ súng xuống:

"Chị mà tôi tưởng ai. Sao ra vườn chi sớm vậy?"

Tâm lắp bắp mãi mà không nói thêm được câu nào. Hắn nhìn Tâm trân trân, rồi miệng hơi mỉm cười:

"Vào nhà đi. Tụi Mỹ nguỵ sắp pháo kích. Chúng nó sắp đánh tới dưới cầu rồi".

Tâm nhìn ra cổng. Ngay trước cổng nhà, hai ba người bị thương hay chết không biết nữa, thấy nằm ngay đơ. Tâm lùi một bước:

"Trời ơi".

Tâm đưa tay lên che mặt. Hắn nhìn Tâm vẻ hơi ngạc nhiên, rồi vác súng lên vai, trở ra cổng.

Tâm đứng nhìn theo hắn một lúc, rồi nghĩ tới những tiếng đạn mọt chê nổ bất chừng. Tâm đi vội vào nhà. Mọi người đã ra khỏi hầm và đang ngồi trên nền nhà. Mấy đứa trẻ tay cầm bánh tét ăn ngon lành. Tâm mủi lòng cho mấy đứa cháu quá, mặt mày đứa nào cũng hốc hác, xanh xám lại vì sợ, vì nằm dưới hầm đất ẩm thấp.

Thấy Tâm trở vào, ông anh hỏi:

"Răng, có người ngoài đường không?"

Cả nhà đã bàn nếu thấy có người đi ngoài đường là theo họ tản cư ngay. Mấy hôm nay đạn mọt chê câu lên rất nhiều, chỉ có buổi sáng là hơi ngớt. Chị dâu Tâm chán nản:

"Thôi, đi mô cũng rứa thôi. Đi cũng chết, ở cũng chết".

Người anh gắt:

"Chết răng được. Có số mạng cả chớ".

Chị dâu Tâm lặng im. Nhưng nước mắt chị đã rưng rưng. Anh Tâm thương chị lắm. Phải gắt gỏng với chị như thế là chuyện bất đắc dĩ. Bà Xếp mà mấy ngày nay được các cán bộ Việt cộng gọi là Mẹ Giải phóng đã đứng lên cắt đặt cho mọi người công việc:

"Thôi, lo cơm nước đi. Con Tâm ra ngoài không được. Để tao ra tao hỏi dò xem.

Một lát, những nhà bên cạnh đã có tiếng nói. Tâm đứng trước hiên nhìn ra đường. Mấy anh Việt cộng vác súng đi ngờ ngờ ngoài đường. Bà Xếp đã ra hỏi chuyện anh lính Việt cộng gác ngoài cổng. Tội nghiệp bà. Hôm mồng Hai, họ tràn vào nhà, họ gọi bà là Mẹ Giải phóng, bà sợ quá líu lưỡi. Dạ, mạ giải phóng, tui là mạ giải phóng… rồi bà ngã lăn quay ra đất. Mấy ngày sau, mỗi lần thấy họ vào nhà định lục soát bắt thanh niên là bà giả vờ cầm đòn bánh tét hay chai dầu Nhị Thiên Đường ra níu níu kéo kéo họ lại. Nì anh ơi, ăn miếng bánh tét. Ngon lắm. Xức chút dầu. Mạ giải phóng mời mà. Đi, xức chút dầu cho ấm.

Bà cứ cuống quít lên, vậy mà mấy anh thanh niên nhờ đó đã đủ thì giờ trốn dần được hết. Thỉnh thoảng trong nhà quen miệng gọi bà là mạ giải phóng thì bà xua tay, lắc đầu: "Đừng, đừng, ai mà ưa làm thứ mạ ác ôn đó".

Nấu xong nồi cơm, ăn vội mỗi người một chén thì đạn mọt chê đã câu tới. Mọi người hốt hoảng chui vào hầm. Tâm chui vào sau cùng. Nhưng không ai nằm xuống mà ngồi khom người, bàn chuyện. Ông anh nói nhất định phải trốn đi nội ngày hôm nay mới thoát được. Chị dâu Tâm sợ quá nói không ra tiếng. Rồi chị ngồi ôm đứa con nhỏ nhất khóc âm thầm. Tội nghiệp, chị khóc hoài huỷ đến nỗi khi lên khỏi miệng hầm Tâm thấy mắt chị sưng húp. Bà Xếp giọng run run, kể:

"Khi hồi tau ra đường thấy người chết nằm đầy ở ngoài. Nì, tụi nó đào hầm hố cá nhân hết. Trước cửa chùa đó, có cái hầm cá nhân tau thấy có thằng chết nát bấy, cái đầu văng ra ngoài thấy tởm quá.

Tâm ôm mặt:

"Thôi đừng kể nữa, mạ ơi".

"Tau run quá".

Bà Xếp nói xong thì run thật. Tâm thấy khối thịt của bà rung rung bên vai. Người bà nóng như cái lò sưởi. Kê vào thịt bà Tâm thấy đỡ lạnh. Bà lại nói:

"Răng tau thấy cái thằng gác trước cửa mình nhất định không chịu đi theo bộ đội của nó. Lớp mới không mà".

Chị dâu Tâm nói góp:

"Lạ hỉ. Nó bắt các cô đi khiêng đạn, khiêng xác chết mà nó không bắt con Tâm đi".

Ông anh thắc mắc:

"Ừ, lạ hỉ. Nó lầm lầm lì lì, rứa mà tui thấy nó nhìn con Tâm với đôi mắt khác hẳn. Thấy con Tâm mắt nó vui lên".

"Việt cộng mà cũng đa tình hỉ".

Con Thầm nói theo. Tâm tát nhẹ một cái vào má nó. Nó đưa tay xoa xuýt. Mấy đứa nhỏ mệt mỏi nằm bẹp xuống chiếu. Tiếng mọt chê bên ngoài vẫn rơi đều đều. Một tiếng nổ thật gần. Mọi người ôm chầm lấy nhau. Bà Xếp vừa run run vừa lạy Phật. Tâm ôm chặt đứa cháu. Dù trong cơn lo sợ, câu chuyện về anh lính trẻ Việt cộng vẫn làm Tâm bận tâm.

Buổi chiều hôm đó, khi cả nhà đang ăn cơm dưới hầm thì có tiếng gọi nhỏ: "Mẹ Giải phóng, mẹ Giải phóng!" Bà Xếp lạch bạch chui lên. Một lát sau bà Xếp gọi:

"Con Tâm mô rồi. Lên đây nghe nì".

Tâm đi lên. Hắn ngồi trên sập gụ. Tâm đứng trước mặt hắn:

"Dạ có chuyện chi?"

"Cô à. Tôi định nói với cô chuyện này…"

Bà Xếp đã đi xuống. Hắn nói to như để mọi người trong hầm cùng nghe".

"Ngày mai ráng thu xếp mà đi tản cư. Đừng ở lại nữa".

Hắn cho biết có lệnh chuẩn bị để rút lui. Và cũng có lệnh không cho một gia đình nào trốn đi khỏi vùng hết. Tâm hỏi:

"Rứa răng anh cho chúng tôi đi".

Hắn làm thinh không trả lời. Hắn nhìn lơ ra sân. Cây mai vàng ngoài sân ngả nghiêng thật tiêu điều. Tâm nghĩ là hắn cũng như ta, vẫn còn trông thấy những đọt lá xanh, những mầm non đang nhú ra mạnh mẽ. Tâm khó đoán được hắn đang nghĩ gì khi quay lại nhìn mình với ánh mắt vui tươi.


Một buổi sáng, trong lúc chúng tôi đã tuyệt vọng về gia đình anh chị tôi và con Tâm bị kẹt lại Từ Đàm, má tôi đang ngồi khóc tỉ tê nơi miệng hầm thì nghe tiếng gọi:

"Mạ ơi, mạ ơi".

Tiếng gọi ở ngoài sân. Rồi tiếng xe đạp ngã cái rầm. Cả nhà chạy ra. Con Tâm mặc áo quần trắng tơi tả, đang cố dựng chiếc xe đạp lên mà không dựng được. Bên cạnh nó, một ông già vừa dựng xong xe, quay lại, kêu:

"À, cả nhà còn đây nì".

Con Tâm lại vất xe đạp xuống, chạy ào lại phía mạ tôi. Nó ôm chầm lấy bà.

"Mạ, mạ…"

Hai mẹ con ôm nhau như khóc. Chúng tôi vây chung quanh hỏi han ríu rít. Một lát sau mọi người đã trở vào nhà. Tôi têm cho ông già một miếng trầu. Tâm chỉ tay, nói:

"Ông Võ Thành Minh đó chị".

Nào tôi có biết ông Võ Thành Minh là ai. Tâm nói tiếp:

"Ông Minh là người nhà của cụ Phan đó chị. Làm cách mạng đó. Hồi trước ông thổi sáo phản đối hiệp định Genève đó chị".

Tôi bồi hồi cả người. Đây là một đồng chí của cụ Phan sao? Tôi nhìn lên, bắt gặp đôi mắt ông đang nhìn tôi dịu dàng. Cái nhìn của ông như phảng phất sắc khí cách mạng năm nào, cuốn hút nhanh chóng cảm tình đặc biệt của người khác. Hai vạt áo dài của ông buộc chéo phía trước, đầu đội mũ bê rê đỏ. Trong tuổi tác già nua của ông như vẫn còn bùng lên một sự trẻ trung, một sức lực mạnh mẽ. Tâm nói:

"Ông khoẻ lắm chị. Ông rủ em lên lầu Dua-ra coi đánh nhau. Hai ông cháu lăn trên núi Ngự bình, chút nữa chết. Ông đi phát gạo, tải thương suốt ngày. Mấy hôm nay hai ông cháu tìm đường về mà bị đuổi lui hoài".

Tôi hỏi:

"Ông lấy chi mà đi tải thương rứa ông?"

Ông chỉ chiếc xe đạp. Ông nói ông để người nằm dài trên xe, rồi đẩy đi. Đôi khi người ngồi trên yên, gục mặt lên ghi-đông, ông đẩy.

"Việt cộng để yên cho ông đi rứa à?"

Tâm nói chen:

"Răng không. Họ mời ông đi gặp chỉ huy, ông nói cụ Hồ tụi bay mời tao chưa đi huống hồ gì tụi bay. Ông đi luôn, tụi nó bắt giữ rồi thả, bắt rồi thả".

"Ông sợ tụi nó không ông?"

Ông Minh cười. Tôi không làm sao hiểu được ý nghĩa nụ cười đó.

Chúng tôi cố giữ ông lại ăn cơm chiều. Khu vực chúng tôi đã yên ổn. Phía cầu An Cựu, Mỹ đã lên kiểm soát được. Nhưng ông nhất định đi ngay. Má tôi khẩn khoản nhờ ông đưa gia đình về giùm. Ông hứa sẽ liên lạc và đưa gia đình anh tôi về dưới này. Xong ông dắt xe đạp ra ngõ.

Má tôi ôm chặt lấy Tâm. Hai mẹ con cùng khóc, phần sung sướng được trông thấy nhau, phần lo cho người còn kẹt lại. Tối hôm đó Tâm kể cho tôi nghe câu chuyện trên. Còn phần còn lại, nó như xúc động quá, không kể tiếp được. Tôi hỏi chiếc đồng hồ đeo tay đâu rồi. Nó nói không biết. Tôi hỏi tên bộ đội chính quy Bắc Việt nọ có còn không? Nó nói, chắc chết rồi. Con Tâm nói trước khi chết, hắn ra dấu cho con Tâm nên trốn ra khỏi vùng này. Nó bị thương khá nặng, và còn cố gắng ngồi cạnh cho con Tâm và ông Minh đi khuất vào đường quẹo, hết khu vực Việt cộng kiểm soát.

Con Tâm nói xong lặng lẽ nằm xuống chiếu. Nó quay mặt vào vách hầm. Tôi lay vai nó. Nó nói: Để em ngủ, mai em kể tiếp cho mà nghe. Rồi nó nói: Về đây yên ổn quá, chắc ngủ được. Có tiếng đại bác bắn đi, và cũng có tiếng bắn tới, nổ thật gần. Ngọn đèn cầy đặt tận trong góc hầm như lung lay, muốn tắt. Tôi nghĩ tới những xác chết chưa chôn ở nhà bên cạnh, những xác chết mở mắt trừng trừng, chờ mà không biết có còn ai về để vuốt mắt. Hôm nay, mười mấy ta rồi, tôi cũng không nhớ nữa.


Vừa dừng xe trước cửa ngõ nhà bác, Diễm đã bấm chuông inh ỏi. Chị Bé Tý chạy ra, vừa cười vừa với cái giỏ mây: "Vô đây đã Diễm, vô cúng". Diễm lắc đầu quầy quậy: "Thôi, để em về, sáng mồng Một em sang mừng tuổi hai bác, các anh các chị. Em về, nhà em hôm ni cũng cúng Ba mươi mà chị". Chị Bé Tý nhìn chăm chăm vào bàn tay của Diễm đang cầm chặt chiếc ghi-đông xe đạp: "A, con ni khá quá hí, đeo nhẫn rồi ta. Ra giêng cưới há? " Diễm cúi đầu e thẹn: "Dạ". "Mời tao đi phụ dâu nghe? "_"Dạ, mời chị chớ". "A, con này đeo nhẫn không sợ tụi nó nói dị chết. Mi đi lấy chồng còn học không?" Diễm buồn buồn: "Không biết nữa chị, ba anh Phan nói em cứ đi học". "Học con khỉ, ở đó mà học". Diễm lật cái nó đội lên đầu: "Thôi em về chị, má đợi. Hôm ni ở nhà cũng cúng".

Diễm xoay ghi đông, cua vòng ra sân rồi leo lên. Diễm sửa lại hai vạt áo dài, vạt sau giắt vào sợi dây thung nơi cái bót ba ga, Diễm ngẩng đầu lên hết cho hết tóc ra đừng sau, rồi đạp xe, đi thong thả. Diễm phải vất vả lắm mới lách xe qua khỏi được con đường Trần Hưng Đạo dọc theo vườn hoa Nguyễn Hoàng, phía gần cầu là chợ hoa. Diễm nhìn chỉ thấy những cành hoa mai vàng giơ cao lên khỏi đầu người. Diễm đạp xe qua cầu Tràng Tiền, đi rẽ ngả bưu điện, rồi đạp qua vào con đường nhỏ, đến hàng Đoát. Diễm biết chắc thế nào đi trên con đường này, giờ này cũng gặp Phan. Con đường hàng Đoát này vắng nhất và cũng đẹp nhất. Diễm không thể nào quên được những buổi trời chạng vạng. Phan và nàng, hai người hai chiếc xe đạp, đạp song song vừa đi vừa nói chuyện. Diễm cũng không quên được vẻ hốt hoảng vụng về của cả hai đứa khi dang hai ghi-đông xe ra cho xa nhau, một đứa chậm chạp một tí, một đứa đạp nhanh lên, khi có người từ đằng xa đi ngược chiều tới. Và lịch sử mối tình của hai đứa cũng đầy di tích trên con đường ngắn này. Hình như hôm đó Diễm đi xe đạp, cũng trên con đường này, chiếc sên xe bị sút xa. Diễm dựng xe lên loay hoay sửa mãi mà không được. May mà Phan gần đó, và phút làm quen không mấy khó khăn. Nửa giờ sau, Diễm lên xe đi về, trời chiều, những ngọn điện đường đã bật. Phan đạp xe đi hộ tống đằng sau. Khi tới gần nhà Diễm chậm lại một chút, quay mặt lại giấu trong nón: "Cám ơn anh, Diễm vô nhà". Và Diễm đạp xe rẽ vào ngõ chè tàu. Về sau, nghe Phan nói lại là chàng bắt đầu yêu Diễm ngay buổi tối hôm đó, khi hai vạt áo trắng cùng chiếc xe đạp ghi đông chữ U khuất sau hai dãy chè tàu xanh, cắt bằng phẳng.

Ngang qua nhà Phan, Diễm không dám nhìn vào nhưng nàng biết Phan sẽ trông thấy nàng. Một lát Diễm nghe tiếng xe đạp lách cách đằng sau, rồi tới sát bên. Diễm cúi mặt, chiếc nón che kín chỉ chừa hai mớ tóc buông xoã phía trước vai. Nhưng Diễm đợi chờ, hai má nàng nóng bừng.

"Diễm".

"Dạ".

"Em đi mô về đó?"

"Em đi sang nhà bác trai đưa trái cây cúng. Má sai em đi".

"Chừ em đi mô?"

"Em về nhà".

Câu chuyện thật nhạt nhẽo, nhưng Diễm thấy quá quen thuộc, nàng đoán trước những câu hỏi của Phan. Lần nào cũng chừng đó câu hỏi, rồi hai đứa đưa nhau trên đoạn đường từ hàng Đoát, nghẹo qua đường Nguyễn Huệ, đi ngang qua Ty Công chánh rồi về đường Trần Thúc Nhẫn. Nhưng lần này thì không, Phan nói tiếp:

"Anh đưa Diễm tới vườn bông Bến Ngự thôi nghe, lên cầu về tối lắm. Hôm ni anh cúng Ba mươi".

"Em cũng cúng Ba mươi".

"Sáng mồng Hai anh sang hí. Mồng Một anh về Truồi, ông nội dưới nớ".

"Dạ".

Phan nhìn thấy ngón tay của Diễm đang bấu trên ghi đông:

"Diễm".

"Dạ".

"Diễm đeo nhẫn à?"

Diễm liếc nhìn Phan rồi háy một cái.

"Đeo dị òm".

Phan cười, mặt hơi cúi xuống.

"Ừ, mai anh đeo luôn hí".

"Dị òm, bắt chước người ta chi lạ rứa".

"Dị chi mà dị".

"Đi quá, anh đi xê ra, rủi gặp ai…"

Phan vừa bẻ ghi đông quẹo ra vừa nói nhỏ:

"Kệ họ, mình sắp cưới rồi mà…"

Diễm đưa tay trật nón ra đằng sau, nàng nhìn con đường hàng Đoát sắp nhập vào con đường thẳng Nguyễn Huệ:

"Má nói khi mô cưới hẳn hay".

"Chán mấy bà già".

"Anh không thấy à, khi mô anh tới má cũng bắt em đi rót nước, sai gọi em lăng xăng. À, hay bữa ni anh lên nhà em ăn cúng Ba mươi".

"Không được, ông rốp chửi chết. Hôm ni lạy bàn thờ. Dưới chú anh cúng buổi trưa, nhà anh cúng túi".

"Mệt hỉ".

"Ừ".

Bàn tay Phan thả ghi đông, đưa sang chụp tay Diễm. Diễm để yên, nhưng lắc đầu quầy quậy:

"Anh làm rứa té chết. Dị chết".

Ngón tay Phan đã vuốt trên ngón tay đeo nhẫn của Diễm:

"Em hỉ?"

"Dạ chi anh".

"Thương anh không?"

"Thương anh hoài. Khi mô cái nhẫn này rời khỏi tay em thì em chết".

"Chớ không phải em tháo ra, em vất dưới sông Hương hay liệng trên núi Ngự à?"

"Mần chi có".

"Em hỉ?"

"Chi anh?"

"Nói thiệt nghe".

"Anh dị òm. Còn có mấy ngày mà lo chi cho mệt".

"Biết răng mà noái. Khi sáng anh tới má em noái cho cưới tháng Giêng để anh còn đi Thủ Đức. Còn chưa đầy mười ngày".

"Em chưa noái chi cho tụi bạn em biết hết. Tụi bạn noái em bí mật quân sự".

"Đầu năm em với anh đi thăm tụi nó, nói cho tụi nó biết".

Diễm lắc mạnh cánh tay:

"Anh, tới gần cầu, anh về đi".

"Em sợ túi không?"

"Không, khoảng đường ni sáng rồi, qua khỏi cầu, đi lên dốc một tí, có ông cảnh sát gác nơi cầu anh tề".

"Anh về hỉ".

"Dạ, anh về". Diễm trả lời xong cúi đầu đi thẳng. Hàng chè tàu đã lấp ló đằng xa nơi cột điện. Khi Diễm rẽ vào nhà, ngọn điện đường cũng vừa bật lên. Má nàng đang gội đầu trước hiên. Diễm dựng xe dưới gốc cây khế. Má nàng ngẩng lên:

"Đưa đồ cúng cho bác chưa, Diễm".

"Dạ rồi".

"Con thay áo, đi gội đầu bồ kết nì. Má có để sẵn phần cho con. Ra vườn hái trái chanh mà gội cho trơn tóc. À con ơi, con lau lại cho má cái sập gụ nghe. Tối ni rảnh đánh tứ sắc chơi".

Diễm vừa đi vào nhà đã nghe tiếng mẹ vọng theo:

"Chút xíu nữa con dặn bác Bảy mang xích lô tới bác Thị đón ông nội về. Ra sau hè mà gọi qua cũng được, đừng đi ra ngõ chi cho xa con hỉ".

Diễm đi vào phòng, thay quần áo rồi nằm duỗi ra giường. Chút nữa hãy đi hái chanh, đi gội đầu. Diễm nhìn bình bông nhỏ cắm mấy bông tường vi của Phan mang sang cho hồi sáng. Mấy đoá tường vi màu hồng sáng lạng, nhưng lòng Diễm chợt vui chợt buồn. Nàng nghĩ tới những mùa xuân cũ, những mùa xuân cũ khác hẳn xuân này. Năm nay Diễm không thấy nô nức đón xuân như mọi hôm, mà Diễm thấy mình bắt đầu lớn, bắt đầu thay đổi. Thay đổi cả một đoạn đời cũ. Đi lấy chồng, lấy chồng đối với Diễm như bước vào một đoạn đời dài lắm và đầy xa lạ, bỡ ngỡ. Ở với một người cho tới già, tới chết, dù đó là người yêu, Diễm cũng thấy trong lòng sôi động bao lo sợ, nghi ngờ. Dĩ vãng của Diễm yên lặng quá, hiện tại, Diễm không một điểm nhỏ phàn nàn, còn tương lai nữa. Diễm như một đứa bé con đang đứng trước một ngôi nhà quá lớn và hiểu được rằng không bao giờ mình khám phá hết nổi nó. Diễm nhìn ngón tay đeo nhẫn của mình, nàng đưa lên môi, chà chà cạnh nhẫn lên làn da môi mềm mát. Thôi thế cũng xong, một ước mộng bình thường, cứ thế, ta sẽ sung sướng. Diễm cắn chặt ngón tay đeo nhẫn: Anh Phan, răng em có sắc mấy cũng không cắt nổi ngón tay đeo nhẫn.

Diễm mở cái rương nhỏ, ngắm nghía chiếc áo phin trắng nõn. Chiếc áo này Diễm sẽ mặc để tiếp Phan vào ngày mồng Hai. Phan sẽ hỏi: "Ai may áo đó". Diễm sẽ sung sướng mà cho Phan biết là chính nàng đã cắt và may lấy. Em sẽ là một bà nội trợ giỏi.

Chắc chắn mà, không tin thì thôi, Diễm mỉm cười một mình.

Sau đó, Diễm nhớ là mình phải ra vườn hái chanh gội đầu, nhân tiện đó Diễm sẽ gọi luôn bác Bảy. Diễm vừa đi vừa nhảy ra vườn. Chiếc áo trắng vải phin nõn còn lung linh trong trí tưởng tượng của nàng. Hình ảnh Diễm đang ở trong đó cùng áo cánh trắng thêu hoa hồng đỏ trên ngực và mái tóc chảy dài. Nhưng ơ kia, làm gì có cánh hoa hồng đỏ tựa như trái tim thêu trên ngực? Diễm bật cười: Thêu như vậy cũng đẹp, nhưng chiếc áo đó đã không thêu. Màu đỏ không hợp với sở thích của nàng. Nàng coi màu đỏ như sự bất trắc, sự hung bạo. Bởi thế, Diễm thích đi lấy chồng hơn là đi học nghề cô mụ. Tụi bạn Diễm đã nạp đơn xin học ngành này gần hết.

Cây chanh đã hiện ra trước mặt Diễm. Diễm chỉ cần nhìn lên, chỉ cần với một cành vít xuống, tha hồ mà nàng lựa chọn. Hạnh phúc của nàng cũng giản dị quá, mọi lúc đều như vừa vặn trong tầm tay của nàng. Diễm nghĩ đêm nay, sau khi ngồi chầu rìa coi cả nhà đánh tứ sắc, Diễm sẽ nằm lăn ra nơi cái sập gụ, trước khi ngủ, nàng sẽ ăn hết những cánh hoa tường vi cuối năm của Phan gửi tặng.
° ° °
Anh Phan,

Rứa là anh đã kẹt dưới Truồi không lên được rồi. Anh ơi, em cũng đã kiệt lực. Em ngồi viết thư cho anh lúc đang sống trong một căn hầm hết sức chật. Một cái hầm nổi, làm sát góc nhà với mười bốn mạng người. Ngày nào cũng chừng đó tiếng động, chừng đó nỗi kinh hoàng. Từ đêm mồng Một rạng ngày mồng Hai, cả nhà bị mắc kẹt không còn tản cư vào đâu được nữa. Em viết thư này cho anh là ngày Mười bốn, và gia đình em đã chịu sống mười ba ngày trong chiếc hầm nhỏ hẹp này. Xung quanh, Thạch bạn em đã trúng đạn chết, xác lấp vội vã ngoài vườn. Ngay trong nhà mình, phòng bên cạnh cũng có một gia đình hàng xóm xin làm hầm, mang sang hai người bị thương, đêm nào họ cũng la hét khóc lóc ghê quá. Mấy ngày đầu, mấy anh ngoài nớ còn cho thuốc băng bó, mấy ngày nay họ bỏ liều rồi. Chắc mấy người đó chết quá anh ơi, mà họ chết là thành ma trong nhà mình rồi.

Em có bị bắt đi khiêng đạn và chở người bị thương bằng xe ba bánh lên phía Tây Thiên mấy lần, lần nào đi cũng sợ muốn chết giấc vì những quả bom dưới Phú Bài câu lên. Những người đi với em chết nhiều lắm. Em đi khiêng đạn được năm hôm, khiêng người bị thương được hai hôm thì khiếp quá, ngất xỉu mấy lần. Em theo mấy người trốn về lại bị nạn kiểm soát. Họ tới tận nhà. Má phải xoa nghệ lên mặt em, vả vào mắt em cho sưng húp để xưng bệnh cho họ khỏi bắt đi. Mà em muốn bệnh thật, em bệnh vì lo sợ, vì buồn phiền, vì thương cảm. Má đã rơi nước mắt ròng khi đưa bàn tay tát vào mắt em cho sưng vù. Em cũng không cầm được giọt lệ khi nhìn thấy anh Văn trốn trên trần nhà mười mấy hôm, khi ăn khi nhịn, sợ tới chết điếng người vì những trái mọt chê rơi đều đều dội tứ tung trên miệt bến Ngự, Từ Đàm.

Mấy hôm nay thì đạn đại bác bắn quá lắm. Em nằm ép mình sát đất, cứ bị dội người lên vì đất đai nhà cửa rung chuyển, ngực em cơ hồ như đã vỡ vụn bên trong nhưng lạ là em không thấy đau đớn và tắt thở. Em vẫn thở được nhưng hơi thở nặng nề, em vẫn nhai được những bát cơm nấu vội vã, đôi khi chưa kịp ăn đã vất bát cơm, nằm sát xuống mặt hầm, hoặc ôm cứng lấy nhau, và khi dứt tiếng nổ, thấy mắt mình hết nổ đom đóm, ngắt vào da thịt thấy đau, em mới biết rằng mình còn sống. Anh Phan, chắc em chết không gặp anh. Chắc chết quá anh ơi, súng vẫn bắn như mưa trên đầu những người chờ đợi. Nhưng anh ơi, trong những phút kinh hoàng như thế này, trong những phút nằm chờ một quả bom canh đúng rơi trúng miệng hầm, đôi lúc em vẫn còn đầy tưởng tượng lãng mạn. Em nhớ anh hơn, nao nức hơn, và thấy mối tình mình trở nên quan trọng hơn. Em nhớ buổi chiều cuối năm đi với anh trên con đường hàng Đoát. Thơ mộng quá, đẹp quá, phải không anh? Và em đã thề thốt gì với anh, anh còn nhớ không? Anh ơi, nếu em chết, anh tìm cho được xác em, nhìn ngón tay em đeo nhẫn nhé. Nhưng em sợ chết quá, em chết đi rồi anh sẽ còn ai để thương, còn ai để cưới làm vợ, mà anh lấy người khác em ghen, em chết không nhắm mắt. Con gái Huế ghen dễ sợ lắm, ghen cay như ớt. Anh ơi, ớt đầy một vườn mà bữa ăn nào em cũng thèm tới rớt nước miếng. Em muốn được ăn trái ớt trước khi chết để thành một con ma ghen kinh khủng, em nói bậy quá rồi. Lại bắt đầu bắn đó anh. Làm sao đưa cơm lên cho anh Văn, làm sao cho anh ấy trốn đi được. Ngọn đèn cầy đặt trong hầm lại sắp hết. Phải tiết kiệm, thôi em tắt. Nằm xuống khoảng tối em sẽ nhớ anh, nhớ anh như điên để rủi có chết đêm nay còn tưởng tượng ra anh, anh nghe. Ngọn đèn lụi quá rồi, chữ em viết không biết đang lên dốc Nam Giao hay xuống dốc bến Ngự.


Anh Phan,

Tai nạn đã xảy ra rồi. Sáng hôm nay chị Tư ra khỏi miệng hầm thật sớm để đưa vắt cơm lên trần nhà cho anh Văn, sợ lát nữa mấy ổng vào kiểm soát, chị vừa ra khỏi miệng hầm thì bị mảnh bom chơm. Máu ra nhiều quá. Em phải xé chiếc áo dài mới để băng bó cho chị. Bây giờ chị đang nằm lịm nơi chân em đây này. Còn anh Văn, anh ấy đã chết. Anh Phan, anh Văn không bị bom không bị đạn, anh đói lả và rơi từ trên trần nhà xuống, chết liền tại chỗ. Xác anh Văn đang nằm nơi chiếc sập gụ của ông nội, nhằm chung với ông nội em còn sống. Má đã khóc lóc xin mấy anh ngoài nớ ra vườn chôn tạm anh Văn nhưng họ nói ra ngoài đó máy bay thấy đào đất rồi bắn xuống. Trưa nay mấy ổng họ rút lên phía trên nữa rồi. Má nói có thể trốn được. Nhưng trước khi trốn đi tản cư, phải tìm cách chôn anh Văn đã. Cách tốt nhất là đặt anh Văn trong hầm này, khi về hãy hay. Nhưng lại gặp chuyện phiền phức khác là chị Tư và ông nội. Chị Tư bị thương, khó khiêng đi, ông nội thì nhất định ở nhà. Cả nhà khóc mãi, ông vẫn không đổi ý. Chị nói thà chết ở nhà, và năn nỉ cả nhà nên tìm cách trốn đi.

Anh ơi, gia đình em sao thê thảm thế này. Không, đâu phải chỉ gia đình em. Nhà chú Bảy xích lô đã chết hết, cả một cái hầm sập xuống. Đứa cháu bên đó chạy sang cho hay vậy. Ngoài đường còn những xác người chưa chôn. Chị Thọ cho biết là bây giờ chỉ có hai lối đi, một là xuống cầu bến Ngự, rồi băng về bên kia sông, nghe nói có Mỹ, một là đi ngược lên Tây Thiên. Nhưng lên Tây Thiên thì gặp họ cũng không sống được. Bà Minh, anh Vỹ, anh Cao, bác Hịch đã bị họ bắt theo lên Tây Thiên hết rồi. Nhà mình có anh Văn đã chết. Còn bà già, con nít. Có em thì họ chưa bắt đi, vì vậy má nói phải trốn. Đêm qua họ đem mấy cậu sinh viên vào xử tại sau vườn nhà. Em nghe thấy tiếng súng bắn, tiếng người hét, họ vào nhà xin chiếu, chiếu hết rồi. Em nghe họ đào sau vườn. Họ lấp đất, rồi họ kéo nhau đi. Đại bác vẫn câu lên đều đều. Má nói đến chiều tối, khi bớt tiếng đại bác, sẽ tìm cách trốn ra khỏi nhà. Ở đây thì thế nào cũng chết. Nhưng ông nội sợ chết đường. Em không chịu ý kiến ông nội. Thà mình cứ đi tìm lối thoát còn hơn ở nhà chịu chết. Phía dưới gốc cầu người ta đi cũng nhiều, chết cũng nhiều, buổi sáng khi khóc anh Văn, em nhìn ra cửa ngõ thấy một bà mẹ đang nhét một đứa nhỏ vào bụi chè tàu trước cổng rồi vừa khóc vừa chạy. Em chưa kịp la thì phải vào hầm vì những tiếng nổ gần quá, con Mẹo có ra coi, hắn nói thằng nhỏ chết rồi, đang bị kiến đỏ bu đầy người, có con chó Mực đang rình rập vào ăn thịt. Lũ chó đói quá, chúng cứ xông vào nhà. Trên sập của ông nội có một đống gạch thật lớn. Ông lấy ném để canh xác anh Văn. Từ sáng đến giờ, ông nội vừa khóc vừa đọc kinh, đôi khi ông chửi bới lung tung. Có một trái đạn rớt giữa sân, mảnh bay đầy sân nhà mà chỗ ông nằm vẫn yên lành, ông nói đạn sợ ông rồi, ông chỉ sợ bầy chó đói.

Anh ơi! Chắc em chết, gia đình em chết hết. Em khóc ròng đây, em khóc muốn ngất khi nghĩ rằng, khi yên, anh sẽ tới tìm em nơi này, anh sẽ không thấy xác em đâu nữa. Tay em nằm trong bụng con chó này, mặt em ở trong bụng con chó khác. Anh ơi, em tội tình chi mà không được một nấm mồ. Anh Văn, ông nội em… Em thèm cúng giỗ, thèm được người ta cúng giỗ quá. Bây giờ em mới hiểu tại sao mọi nhà đều cúng chiều Ba mươi, tại sao có trầm hương, có cô hồn, có ác quỷ.
° ° °
Anh Phan,

em vừa nghe cả nhà bàn sáu giờ chiều nay sẽ trốn đi vùng khác, ông nội ở lại, chị Tư ở lại, xác anh Văn đặt trong hầm. Má em với Út, với Tây, với Bằng sẽ trốn đi. Mẹo đi theo. Bác Chắc ở lại canh chừng ông nội và rửa vết thương cho chị Tư. Ông nội, chị Tư sẽ vào hầm nằm chung với anh Văn để khỏi đuổi chó. Em sẽ đặt lá thư này dưới chiếc sập gụ, chiếc sập gụ lát nữa đây sẽ được đem tới kê trước miệng hầm. Nếu em chết, má sẽ chỉ cho anh thấy lá thư này. Em nghĩ là má sẽ sống, cả em cũng phải sống. Chiếc nhẫn mấy ngày nay đã lỏng lẻo, nhưng em vẫn đeo, coi như một thẻ bùa may mắn. Anh ơi, anh đang ở Truồi hay ở đâu. Em lo sợ quá. Chiều tối em sẽ đi, chưa biết là tìm thấy sự sống hay sự chết.

Đến hôm nay đèn cầy hết, thực phẩm chỉ đủ cho hai người ăn trong mười lăm hôm. Cầu mong sẽ yên sớm hơn. Nghe nói Mỹ đã chiếm được Công Chánh, phía hữu ngạn. Anh có về đến đó chưa?

Em đã ăn hết những bông hoa tường vi của anh đêm Ba mươi Tết, thuốc trường sinh, thuốc thương yêu.

Anh ơi, em phải sửa soạn để đi, lá thư này xin gửi lại dưới sập gụ và nếu anh còn sống, em còn sống.
° ° °
Từ trường Kiểu Mẫu, Phan đã mấy lần kiếm cách đi lên mạn bến Ngự, nhưng mấy ngày nay, súng nhỏ súng lớn nổ ran về miệt đó. Phan đi lần được tới bờ sông, người Mỹ đuổi Phan trở lui lại, Phan đứng dọc đường đón tất cả mọi người tản cư đi qua, hỏi thăm tin tức, nhưng chàng cũng không nhận được một tin tức nào. Cho tới khi gặp được một người từ bến Ngự chạy về lánh nạn ở Tân Lăng, Phan đến hỏi tin tức, được biết gia đình Diễm một nửa còn mắc kẹt ở lại, một nửa đã trốn theo đường rầy về An Cựu, nhưng tới nửa đường thì Diễm bị một trái bom rơi trúng, cả thân thể Diễm bay kẹt vào một bụi cây. Chỉ nghe chừng đó Phan đã bụm mặt khóc oà, chàng không còn đủ sức hỏi thăm thêm gia đình Diễm nữa. Mười mấy ngày sau, khi bến Ngự đã dẹp xong, Phan là người trước nhất đi dọc theo đường rầy xe hoả về bến Ngự. Dọc đường, Phan đã nhận ra xác Diễm. Diễm chỉ còn lại đầu tóc, gương mặt đã bầm dập, cả người đã sinh thối, nàng kẹt vào giữa bụi cây, và những dòng nước vàng đã chảy xuống. Cánh áo phin trắng của Diễm đã rách nát, nhưng nơi ngực áo, hai chữ P D lồng nhau thêu bằng chỉ trắng vẫn chưa bị mục, và nhờ đó Phan nhìn ra xác Diễm. Diễm mất một cánh tay, và nơi bàn tay còn lại, Phan không nhìn thấy ngón đeo nhẫn đâu hết. Ngón tay đeo nhẫn của Diễm đã bị cắt lìa. Phan tìm cùng khắp không thấy vết tích đốt tay và chiếc nhẫn đó nữa.

Khi đem xác Diễm về tẩm liệm, mọi người phát giác ngón tay đeo nhẫn của nàng đã nằm gọn trong đám ruột bầy nhầy, không ai hiểu tại sao, và chiếc nhẫn cũng không tìm thấy.

Chôn cất Diễm xong, Phan đi tìm mẹ Diễm, bà đang nằm tại một bệnh viện của Mỹ. Phan tìm tới ngôi nhà cũ của Diễm, ông nội nàng đã chết, chị Tư cũng đã chết, xác của Văn, của ông nội, của chị Tư bị chó chui vào gặm nát, người mất tay, người mất chân. Khi dở cái sập gụ ra để lôi những xác chết, Phan đã tìm thấy bức thư của Diễm.

Chiếc xe của Diễm vẫn còn nguyên, dựng ở một góc tường chưa bị sập. Phan dắt chiếc xe đạp ra khỏi nhà, chàng dắt đi bộ chớ không ngồi lên đạp.

Căn nhà của Phan chỉ bị thủng mấy lỗ đạn. Những ngày sau đó, bạn bè của Diễm còn sống sót, chiều đi ngang qua con đường hàng Đoát thấy Phan ngồi trên chiếc xe đạp, dắt theo một chiếc xe đạp, và bên ghi đông chiếc xe không người, lủng lẳng cột một chiếc nhẫn vàng. Bạn bè không ai dám hỏi thăm, dám an ủi, vì Phan không bao giờ trả lời, không bao giờ đứng lại nghe ai nhắc tới tên Diễm.

Con đường hàng Đoát đến bây giờ vẫn còn đẹp, và chiều chiều vẫn còn những đôi tình nhân song song đạp xe đi trên đó. Bóng dáng của Diễm cũng như những đống gạch vụn, những dấu bom đạn đã lùi dần trong trí nhớ bạn bè. Người ta bắt đầu quen dần với cảnh Phan vừa đi vừa dắt thêm một chiếc xe đạp bên cạnh. Không ai còn thì giờ nhắc tới mối tình của họ.

No comments: