==
Phùng Quán
Ba Phút Sự Thật
3. Cuộc viếng thăm bất chợt nhà thơ Tố Hữu
Cách đây ba năm, vào dịp hè, tôi được thư của nhà thơ Phạm Hổ mời đến nói chuyện với các cháu dự Trại sáng tác văn học thiếu nhi do Trung ương Đoàn phối hợp với Hội Nhà văn tổ chức. Tôi đã đến trò chuyện với các cháu về tác phẩm Tuổi thơ dữ dội, và cùng với ban lãnh đạo trại tổ chức cho các cháu xem phim dựa theo tác phẩm. Sau lần đó, các cháu thường kéo đến nhà tôi chơi, đọc cho tôi nghe thơ, truyện mới sáng tác. Tình bằng hữu, thi hữu trẻ già này cho đến hôm nay vẫn còn nguyên vẹn.
***
Một buổi tối trời lạnh, mưa lất phất, một tốp bảy cháu kéo đến nhà tôi. Ba cháu ở Hà Nội, hai cháu đồng bằng sông Cửu Long, một cháu Tây Ninh, một cháu Tây Nguyên - người dân tộc Êđê, "Chà, trời mưa gió tối tăm thế này mà các cháu chịu khó đến chơi, làm bác cảm động muốn chết!" – Tôi cười nói. Một cháu người Hà Nội láu lỉnh tiếp lời: "Bác đừng chết vội, Bác phải còn viết tiếp Tuổi thơ dữ dội cho chúng cháu xem". "Bây giờ thế này nhé. Cách đây không xa, có cái quán bán xôi nóng thịt kho, ngon lắm. Hôm nay bác đang có tiền, bác xin khao mỗi đứa một bát. Đồng ý chưa Ta đi đi không họ bán hết mất". Cháu gái ở Tây Ninh rụt rè thưa: "Chúng cháu được bác Định Hải cho biết, bác là cháu của nhà thơ Tố Hữu. Chúng cháu muốn được bác dẫn đến thăm nhà thơ, nghe nói nhà cũng ở gần đây…". Tôi hơi sững một chút. Tôi đang ứng xứ với các cháu theo cung cách của người già với con nít. Các cháu lại đang đặt cho tôi một yêu cầu nghiêm túc của người lớn. Tôi hỏi: "Nhưng các cháu nghĩ thế nào mà lại cương quyết từ chối việc hấp dẫn là ăn xôi nóng thịt kho để đến thăm nhà thơ vào cái lúc đêm hôm mưa gió thế này?". Một cháu ở đồng bằng sông Cửu Long nói: "Chúng cháu ao ước được gặp nhà thơ đã làm ra thơ Mẹ Tơm, Mẹ Suốt, Sáng tháng năm, Bác ơi, Nươc non ngàn dặm…"
"Đó là một lý do đẹp! Nhưng… tôi nhìn lên đồng hồ - tám giờ. Bây giờ đến thăm nhà thơ kể cũng hơi muộn. Bác chỉ sợ nhà thơ đã đi nghỉ, không tiếp… Nhưng nếu các cháu đã quyết tâm như vậy, bác cũng xin dẫn đường. Nếu nhà thơ đồng ý tiếp thì bác cháu ta vào. Nếu không thì bác cháu ta kéo nhau đi ăn xôi nóng với thịt kho". Cháu gái người Êđê có gương mặt rất xinh, và cái miệng cười rất hóm, cúi xuống ngắm cái lọ hoa cắm mấy bông hồng bạch để trên bàn nói: "Bác cho cháu xin bông hồng nho nhỏ này nhé". Cháu cầm bông hoa hát lên một câu gì đó bằng tiếng Êđê nhưng vẻ mặt lại nghiêm trang như lời đọc phù chú. Cháu bẻ từng cánh hoa một, vừa bẻ vừa nói theo kiểu bói hoa: "Tiếp - không tiếp - tiếp - không tiếp… Cuối cùng cháu reo lên vẻ mừng rỡ thật sự: Nhất định nhà thơ sẽ tiếp bác ạ". Thế là mấy bác cháu tôi đội mưa đội gió từ Hồ Tây đến đường Phan Đình Phùng. Các cháu đứng nép sát vào nhau trước cánh cổng sắt, im thin thít, có vẻ hồi hộp lắm. Tôi cũng hồi hộp không kém, vừa nhẩm lại câu bói hoa của cháu gái Êđê, "Tiếp - không tiếp…" vừa đưa tay bấm chuông. Lát sau có một người đàn ông đi ra mở cổng. Tôi lễ phép hỏi: "Xin lỗi anh, nhà thơ Tố Hữu có nhà không ạ?". "Có ạ ". "Không biết nhà thơ đã đi nghỉ chưa?". "Vừa mới đi nghỉ". Tôi thoáng một chút bối rối, đưa tay vuốt nước mưa trên mặt, nói: "Tôi muốn nhờ anh vào nhà thưa lại với nhà thơ, có các cháu ở Trại sáng tác văn học thiếu nhi, người Hà Nội, miền Nam, Tây Nguyên… muốn được gặp thăm nhà thơ. Nhà thơ có thể tiếp được không?". Một lát sau, anh trở ra: "Nhà thơ mời các cháu vào". Anh đi trước dẫn đường. Tôi đi theo anh. Các cháu xúm quanh, níu chặt lấy hai cánh tay tôi, như kiểu trẻ con sợ bị lạc đường, líu ríu băng qua cái sân rải sỏi ướt nước mưa và loang lổ bóng cây. Đèn phòng khách bật sáng. Chúng tôi bước vào. Các cháu đứng dồn vào một góc, nét mặt lo lắng, căng thẳng, ngóng về phía cửa ra vào.
Một phút sau, nhà thơ từ trên gác xuống, ăn mặc chỉnh tề như sắp đi dự họp hoặc đến nói chuyện với một cơ quan nào đó, nét mặt tươi cười. "Cậu ạ! ông ạ!" Chúng tôi líu ríu, cung kính chắp tay chào. "Các cháu ngồi xuống cả đi, sao lại đứng thế" - nhà thơ chỉ hàng ghế trước mặt, và ngồi đối diện với các cháu. Người nhà bưng khay trà, bánh ngọt kẹo ra, bày lên bàn. Tôi đứng dậy thưa với nhà thơ lý do cuộc viếng thăm bất chợt này, và giới thiệu với các cháu nhà thơ. Nhà thơ hỏi các cháu về trại sáng tác, sở trường sáng tác của mỗi cháu, kết quả của trại… Nhà thơ chăm chú nghe các cháu trả lời. Không khí phút chốc trở nên cởi mở, đầm ấm, giống cảnh tượng một người ông âu yếm trò chuyện với đàn cháu nội, ngoại từ các nơi xa về thăm.
Chính giữa phòng là cái lò sưởi xây. Trên bệ đặt một chiếc nhà rông, pho tượng Lênin, và một cặp ngà voi tuyệt đẹp gắn trên giá gỗ. Một cháu người Hà Nội xuýt xoa: "Sừng con gì mà đẹp quá". Cháu gái người Êđê nói với bạn: "Không phải sừng - ngà voi đấy". "Thưa cậu, cháu này ở Tây Nguyên, người dân tộc Êđê - Tôi chỉ cháu gái nói - cháu 15 tuổi vừa làm thơ vừa sáng tác cả ca khúc. Nhà thơ nói: "Ngày trạc tuổi cháu, bác cũng đã làm thơ - nhà thơ cười - nhưng không được vào trại sáng tác mà làm thơ như các cháu đâu… Quê cháu có gần làng Rô không? Hồi trẻ bác đã từng sống và hoạt động ở đó…". "Thưa ông, bản cháu các làng Rô khá xa nhưng cháu đã được đến thăm làng Rô mấy lần., đi thực tế sáng tác. Cháu nghe người làng Rô kể hồi ông còn trẻ măng đã đến vùng này tuyên truyền, gây cơ sở cách mạng. Một cụ già làm nghề bẫy sập voi, thương ông như con đẻ. Cụ già hứa bẫy được con voi có cặp ngà thật đẹp để tặng ông. Khi cụ già bẫy được voi thì ông bị bọn Pháp bắt vào nhà tù. Cụ già trước lúc mất, trao cặp ngà voi cho người con trai cả và dặn: "Cặp ngà này là để tặng cho một người cộng sản và là một nhà thơ, tên là Tố Hữu. Con phải giữ cẩn thận và phải tìm được cho được Tố Hữu trao tận tay. Có như vậy cha chết mới được yên lòng". Người con sau đó đi du kích đánh Pháp, bị Pháp đánh trọng thương. Trước lúc hy sinh người con trao lại cặp ngà voi cho con trai nhỏ của mình, dặn lại lời trăn trối của ông nội. "Con cứ tìm đi rồi sẽ gặp người cộng sản Tố Hữu. Cha tin chắc nhà thơ đó vẫn sống và đang sống đâu đó trên đất nước này…". Hồi đánh Mỹ ông đi chiến trường miền Nam, làm thơ "Nước non ngàn dặm", trở lại thăm làng Rô. Cháu nội cụ già săn voi lớn lên nối nghiệp cha làm du kích đánh Mỹ gùi cặp ngà voi đến, trao tận tay ông… "Thưa ông có phải đúng cặp ngà voi này không ạ?". "Đúng đấy cháu ạ". Cháu gái Tây Ninh viết truyện ngắn, đứng lên, mắt rưng rưng: "Thưa ông từ ngày cháu đi học cấp một, cháu chỉ thầm ao ước một lần trong đời được nhìn thấy tận mắt "Đứa con của vạn nhà - Em của vạn kiếp phôi pha - Anh của vạn đầu em nhỏ - Không áo cơm cù bất cù bơ". Thế mà đêm nay không ngờ…" Cặp môi nhỏ của cháu chợt run lên, nghẹn lời, lặng lẽ quệt nước mắt. Cháu gái người Êđê lấy trong túi áo ngực ra bốn quả táo vàng ươm xếp vào cái tách trà, hai tay cung kính bưng lại đặt trước mặt nhà thơ: "Cháu xin phép được tặng ông mấy quả táo ạ". Nhà thơ cầm một quả táo lên ngắm nghía hỏi: "Cháu nghĩ thế nào mà lại tặng táo?". "Dạ thưa vì ông đã làm được câu thơ đẹp như quả táo. Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt ạ". "Cám ơn cháu - nhà thơ trầm ngâm nói - quả táo thế hệ bác còn bé tý, đến thế hệ các cháu nó đã lớn lên bằng ngần này… Cuộc sống thật là tốt đẹp".
Tôi nói: "Thưa cậu, hai giờ chiều mai, trại sáng tác của các cháu làm lễ bế mạc. Nếu cậu không bận việc cháu xin thay mặt trại mời cậu đến dự với các cháu?". "Hai giờ chiều à? Được, cậu sẽ đến. Tổ chức ở đâu thế? "Dạ Hội trường khách sạn Khăn quàng đỏ đường Hoàng Hoa Thám. Cháu sẽ xin đến dẫn đường". "Cậu sẽ hỏi anh lái xe, chắc anh ấv biết chỗ thôi".
Trên đường trở về nhà, các cháu nổ ra một cuộc tranh luận về thơ khá sôi nổi.
***
Đúng hai giờ chiều hôm sau nhà thơ đã có mặt ở hội trường. Tôi đến muộn mấy phút. Bước vào đã thấy nhà thơ ngồi sau dãy bàn kê trên bục đối diện với các cháu, cùng với nhà văn Vũ Tú Nam, nhà thơ Phạm Hổ, và đồng chí cán bộ lãnh đạo Trung ương Đoàn. Nhà văn Vũ Tú Nam đứng lên giới thiệu: "Trại sáng tác chúng ta hôm nay được một vinh dự và một phần thưởng rất lớn. Nhà thơ Tố Hữu đến thăm chúng ta. Về tuổi tác thì nhà thơ vào bậc ông nội, ông ngoại của các cháu. Nhà thơ là người đã sáng lập ra Hội Văn nghệ Việt Nam, sáng lập ra Hội Nhà văn - và trại sáng tác của chúng ta hôm nay cũng là một phần công lao đóng góp của nhà thơ…".
Tôi từ hàng ghế cuối cùng bước lên cùng dãy bàn, chắp tay nói: "Xin phép ban lãnh đạo trại, cho tôi được mạn phép nói một lời, trước khi nhà thơ trò chuyện với các cháu". Tôi kể vắn tắt cuộc viếng thăm nhà thơ tối qua. Và chính nhờ cuộc viếng thăm bất chợt này mà nhà thơ hôm nay có mặt với chúng ta. Kính thưa nhà thơ Tố Hữu, các vị đại biểu, và các cháu. Sau cuộc viếng thăm nhà thơ tối qua, trên đường cùng các cháu trở về nhà, tôi bỗng nhận ra một điều vô cùng thấm thía: "Thì ra nhân dân không quên một điều gì hết, việc hay eũng như việc dở. Việc dữ cũng như việc lành. Bất cứ ai làm được một việc tốt cho đất nước, dù việc nhỏ cũng được ghi khắc vào ký ức nhân dân. Nguồn ký ức này được truyền từ đời này sang đời khác, thế hệ này sang thế hệ khác. Giống như một dòng sông chảy lặng lẽ, tha thiết trong tiềm thức của nhân dân, vì càng chảy qua nhiều thế hệ dòng s.ông càng được thanh lọc, mỗi ngày mỗi thêm sâu thẳm, thêm xanh đằm, thêm rộng lớn… Lòng biết ơn là một phẩm cách vô cùng lớn lao của dân tộc chúng ta". Nhà thơ Tố Hữu trò chuyện với các thế hệ nhà văn nhà thơ tương lai về thơ, về cuộc đời, với giọng chan chứa hy vọng và niềm thương mến. Nhà thơ tặng mỗi cháu một tập thơ Từ ấy vừa được tái bản không rõ lần thứ bao nhiêu.
1993
(*) Bài viết này là di cảo của Phùng Quán, được bà Vũ Thị Bội Trâm (bà quả phụ Phùng Quán) vô tình phát hiện trong kẹt tủ khi chuyển nhà tử bên Hồ Tây về chung cư Vĩnh Phúc. Phía trên bài viết bằng chữ bút sắt với nét mực tím này có đề rõ "Kính gửi Ban Biên tập Tiền Phong Chủ nhật". Bà Trâm đã chuyển di cảo đến đúng địa chỉ mà tác giả muốn gửi gắm. Và đã được báo Tiền Phong Chủ nhật đăng trên số 32 ngày 10-8-2003. Vậy là sau gần 10 năm bài viết mới đến được nơi cần đến. (BT)
hết: 3. Cuộc viếng thăm bất chợt nhà thơ Tố Hữu, xem tiếp: 4. Một thoáng Văn Cao
Scane và Hiệu đính: Nguyễn Học ( Mõ Hà Nội)
====
Phùng Quán
Ba Phút Sự Thật
4. Một thoáng Văn Cao
Hồi còn đánh Mỹ, tôi làm việc ở Vụ Văn hóa quần chúng. Chị Băng, vợ anh Văn Cao làm ở Ban B, cùng trong ngôi nhà 51- Ngô Quyền, Bộ Văn hóa. Hồi ấy giá gạo ngoài ở Thái Bình lên đến 3 đồng một ký. Người Thái Bình đói kéo nhau về Hà Nội ăn xin. Một buổi trưa tôi ngồi uống nước chè chén 5 xu (ghi sổ nợ) ở cái quán xế bên cửa Bộ. Chợt nhìn thấy Văn Cao cùng với Đoàn Văn Chúc - Giảng viên Trường Đại học Văn hóa vịn vai nhau, chếnh choáng, xỉêu vẹo đi ngang qua. Tôi ơi ới gọi hai anh vào uống nước, hút thuốc. Lâu không gặp Văn Cao, tôi sửng sốt thấy gương mặt anh bạc trắng như tờ giấy, hai má hóp sâu, chòm râu lơ thơ làm cho khuôn mặt anh càng thêm nhọn hoắt. Trong quán lúc này có bốn năm người khách. Họ đều nhìn anh. Và tôi biết chắc là họ không biết anh là ai.
- Anh hút thuốc lào đi. Tôi đưa điếu cày cho anh, nói với chị chủ quán: - Chị cho tôi gói thuốc lào
Văn Cao chậm rãi thông điếu, hỏi chị chủ quán:
- Thuốc lào của chị là thuốc lào Tây hay thuốc lào ta?
Chị chủ quán ngơ ngác:
- Làm gì có thuốc lào Tây ạ?
Tôi cười giải thích:
- Ý anh ấy muốn hỏi thuốc lào của chị là thuốc lào mậu dịch hay thuốc lào chui. Thuốc lào mậu dịch là thuốc lào Tây.
Chị chủ quán nói:
- Thế thì thưa ông anh, thuốc lào Tây ạ, em không có thuốc lào ta.
Một ông khách móc túi lấy gói thuốc lào bọc trong túi giấy bóng, đưa cho anh:
- Tôi có thuốc lào ta đây. Chính hiệu Tiên Lãng, mời ông ăn thử.
Văn Cao đỡ gói thuốc lào, vê một điếu bỏ vào nõ, nói với ông khách:
- "Ăn thuốc" đó mới đúng là ngôn ngữ của người ghiền thuốc lào - Văn Cao rít một hơi tận sức, từ từ nhả khói - Đúng là chính hiệu Tiên Lãng, ông cho tôi xin thêm điếu nữa?
- Mời ông cứ tự nhiên.
Văn Cao hỏi tôi:
- Quán có tiền đó không, cho mình vay 5 đồng. Hai thằng từ sáng đến giờ chỉ toàn rượu suông, muốn đi ăn bát cháo.
- Em chỉ có ba đồng, anh cầm tạm.
Văn Cao bỏ tiền vào túi. Hai người đứng lên, lại vịn vào nhau, xiêu vẹo dắt nhau đi.
Ông khách cho thuốc lào ái ngại nhìn theo hai người đi khuất ở ngã tư Ngô Quyền - Trần Hưng Đạo:
- Nhìn cái nước da trắng bệch của ông ta mà tôi phát sợ. Chắc chẳng còn sống được bao lâu nữa.
Tôỉ hỏi ông:
- Ông có biết ông ấy là ai không?
- Không, tôi đoán là dân ở Thái Bình mới lên. Từ hôm gạo lên 3 đồng một ký, dưới đó nhiẻu người đứt bữa…
Tôi nói:
- Ông ta là người đã viết một bài hát mà mỗi lần hát ìên, cả nước phải đứng nghiêm, kể cả cụ Hồ.
Ông khách trợn tròn mắt:
- Ông ta là nhạc sĩ Văn Cao?
- Đích thị là Văn Cao!
Ông khách đang uống dở hớp nước, ngồi ngẩn ra một lúc lâu như người bị nghẹn, rồi buông lửng một câu:
- Thế thì còn ra thế nào nữa…!
Lát sau chị Băng từ trong cửa Bộ đi ra. Vừa nhìn thấy tôi, chị túm lấy hỏi:
- Từ sáng tới giờ anh có thấy anh Văn đi ngang qua đây không?
- Anh vừa đi cách đây hai mươi phút. Anh hỏi vay tôi năm đồng, tôi chỉ có ba đồng đưa cho anh.
- Có khổ thân tôi không! Ở nhà khách người ta đợi suốt từ sáng tới gần trưa.
- Khách ở đâu đến mà quan trọng thế? Chắc là nhà báo quốc tế đến phỏng vấn anh về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác.
Chị Băng nhăn nhó khổ sở:
- Khách từ Hà Giang xuống, ở Xí nghiệp chế biến chè. Họ muốn nhờ anh Văn vẽ cho cái nhãn chè. Người ta đem xuống 50 đồng với 10 gói chè loại 1. Chờ mãi không được thế là người ta đem tiền, đem chè đi nhờ họa sĩ khác.
Nghe chị kể tôi cũng thầm tiếc cho anh. 50 đồng với 10 gói chè Hà Giang loại 1. Chao ôi, thật đáng tiếc!
Hôm sau tôi gặp Văn Cao, kể lại chuyện hôm qua, hỏi anh:
- Sao anh lại bỏ dở một cái đơn đặt hàng ngon lành thế? Hay anh quên?
- Mình nhớ chứ, chỉ cần ngoạch trong nửa tiếng là có 50 đồng… Nhưng mình bỏ đi lang thang uống rượu suông với thằng Chúc và phải hỏi vay con gái.
Anh lắc đầu:
- Mình rất cần tiền mà cũng vô cùng chán tiền…
***
Tôi được quân đội cách mạng giáo dục từ ngày còn là một thiếu niên: "Nhân tài là báu vật của Tổ Quốc. Những người lính chúng ta có nhiệm vụ phải chăm nom, săn sóc, bảo vệ họ như con ngươi của mắt mình".
Năm tôi 17 tuổi là lính trinh sát của Trung đoàn 101. Tôi được cử vào đội bảo vệ cho một nhóm văn nghệ sĩ có tên tuổi ở vùng tự do khu Bốn đi thực tế chiến trường. Chính uỷ trung đoàn Trần Quý Hai đã đến chỉ thị và dặn dò chúng tôi như vậy. Lúc đó chiến trường Thừa Thiên bom đạn đầy trời, chật đất. Sau hơn một tháng đội chúng tôi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao. Hơn một chục trận càn vây ráp lớn nhỏ nhưng bọn giặc không đụng được cái lông chân của văn nghệ sĩ. Đội bảo vệ chúng tôi có 8 người, hy sinh mất hai. Còn tôi thì bị thương ở cẳng chân, suýt nữa phải cưa trên đầu gối. Bao nhiêu năm tháng trôi qua, tôi đã trở thành người lính già đầu bạc, nhưng lời dặn dò của chính uỷ ngày đó vẫn còn tươi nguyên trong ký ức của tôi.
Năm nhạc sĩ Văn Cao 60 tuổi, tôi có làm bài thơ chúc thọ anh, trong đó có đoạn như sau:
Chúng tôi thường mơ đến anh
Như trẻ nhỏ mơ đến những anh hùng, truyền thuyết
Chúng tôi thường mơ
Một hôm nào đó nhạc sĩ Văn Cao bị bốn
bề vây súng giặc
Chúng tôi sẽ xông ra lấy ngực che đạn
cho anh
Chúng tôi thường mơ
Trên chiến trường quê hương Trị Thiên
Chúng tôi sẽ đánh một trận lừng danh
đất nước
Trên sông Hương, sông Thạch Hãn, sông Bồ
Để anh về anh viết trường ca
Như Trường ca Sông Lô!…
hết: 4. Một thoáng Văn Cao, xem tiếp: 5. Chuyện vui về triết gia Trần Đức Thảo (1)
Scane và Hiệu Đính: Nguyễn Học ( Mõ Hà Nội )
Nguồn: Nguyễn Học ( Mõ Hà Nội )
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 23 tháng 7 năm 2006
No comments:
Post a Comment