Thursday, January 6, 2011

ĐOÀN DUY THÀNH * HỒI KÝ III

Chương IV


1. Sau chiến thắng tuy nhỏ nhưng vang dội vì cách đánh rất táo bạo ngay trong lòng địch, tôi đang đi sang các xã khác dọc theo đường số 5 thuộc đất Kim Thành vừa tuyên truyền chiến thắng vừa chuẩn bị một trận chiến khác, thì được lệnh ra Thanh Hà gặp cấp trên.

Đó là đầu tháng 4-1950, tôi cùng Ban Thường vụ huyện uỷ đến thôn Phù Tinh khu Hà Đông thuộc huyện Thanh Hà, Hải Dương, gặp đồng chí Lê Thanh Nghị, Phó Bí thư Liên khu uỷ III, Bí thư phân khu uỷ Tả ngạn Sông Hồng về làm việc với Huyện uỷ. Có các đồng chí Đào Đức Chính - phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Hải Dương và một số đồng chí khác.

Sau buổi làm việc xong, anh Nghị gặp tôi nói chuyện và hỏi tôi về tình hình khu tạm chiếm Kim Thành, trận đánh độn thổ ở Thanh Liên. Rồi Anh nói: “Tôi về kiểm tra 4 tỉnh và Thành phố Hải Phòng thuộc Tả Ngạn Sông Hồng, tôi đã quyết định chia Hải Phòng làm 3 quận, nay thiếu cán bộ chủ chốt làm Bí thư Quận uỷ. Tỉnh uỷ Hải Dương giới thiệu đồng chí về làm Bí thư một quận”.

2. Tôi đang quen công tác ở nông thôn, gắn bó với Kim Thành, đường 5 khói lửa, nay sang một môi trường mới, tôi đang phân vân suy nghĩ, anh Nghị nói ngay: “Đồng chí vào công tác nội thành thích hợp đấy, sẽ quen dần...”. Lúc đó tôi mới 21 tuổi và cũng hơi đẹp trai, nên anh Nghị tỏ vẻ mến tôi lắm. Tôi trả lời anh: “Đảng điều động đi đâu, tôi xin chấp hành nghiêm chỉnh...”. Và kể từ đây tôi biết anh Nghị, rất quý anh.

Tháng 6-1950 tôi sang Đèo Voi, nơi Thành uỷ Hải Phòng sơ tán thuộc đất huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang, tôi lại gặp anh Nghị. Anh đã viết xong quyển Bệnh cẩu an, cho tôi một quyển. Tôi hỏi anh sao lại gọi là “cẩu an” chứ không phải “cầu an”. Anh giải thích “cẩu an” là con chó nằm yên, chữ có dùng ý phê bình cán bộ, đảng viên nhiều nơi trong khu Tả Ngạn sợ chết, như con chó không dám hoạt động gì, đầu hàng, đầu thú... còn “cầu an” thì nhẹ quá. Cần nghiêm khắc phê bình nên phải dùng “cẩu an”. Đầu quyển sách nhỏ, thay lời tựa, anh Nghị viết những lời hết sức trân trọng quí mến Bác Hồ như có câu: “Để mừng ngày sinh nhật Người 19-5, con xin kính dâng lên Người bài viết này...”.

Khoảng tháng 5-1950 tôi nhận được nghị quyết của Tỉnh uỷ Hải Dương điều sang công tác ở Hải Phòng, do đồng chí Trần Tạo- Quyền Bí thư Tỉnh uỷ kiêm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Hải Dương kí (lúc này anh Nguyễn Năng Hách là Bí thư Tỉnh uỷ đang ở Khu căn cứ địa Chí Linh). Tôi đến chào anh Trần Tạo để sang Hải Phòng công tác. Tỉnh uỷ đóng ở thôn Bàu Bửa thuộc khu Hà Đông, Thanh Hà. Anh Trần Tạo gặp tôi rất vui vẻ. Anh nói: “Tỉnh uỷ đã chọn rất kĩ số cán bộ của tỉnh, nay chọn đồng chí sang Hải Phòng công tác, đồng chí cố gắng làm tròn nhiệm vụ. Tỉnh uỷ trước đây đã dự kiến đưa đồng chí sang làm Bí thư Huyện uỷ Kinh Môn, nhưng theo yêu cầu của Khu uỷ, Tỉnh uỷ cử đồng chí sang Hải Phòng”. Tôi hỏi thêm anh Trần Tạo về một số tình hình ở Hải Phòng, anh bảo tôi: “Chắc đồng chí Phó Bí thư Liên Khu uỷ đã nói rõ tầm quan trọng của địa bàn Hải Phòng với đồng chí rồi...” Sau đó, anh bảo Văn phòng lấy 500 đồng tiền cụ Hồ, có in hình con trâu xanh cho tôi, để có tiền đi đường sang Đông Triều, đến Đèo Voi Bắc Giang nhận công tác tại Thành uỷ Hải Phòng.

3. Nhớ phong trào! Nhớ nhân dân! Nhớ đồng chí! Đặc biệt là thương vợ mới cưới được 10 tháng. Dù đồng chí Phí Thị Tâm lúc đó mới 18 tuổi, đã trưởng thành, vào Đảng từ năm 16 tuổi, đã làm Bí thư phụ nữ xã Bình Dân, nhưng tình chồng vợ hương lửa đang nồng, chia tay nhau sao khỏi bịn rịn. Hôm tiễn đưa tôi sang Hải Phòng công tác, đứng dưới gốc cây gạo thôn Tường Vu, cây gạo có hàng trăm tuổi, (nay vẫn là cây cổ thụ sống lâu nhất vùng), vợ tôi nước mắt lưng tròng, bắt tay tôi, mặt quay đi để tôi không nhìn thấy giọt lệ tuôn trào. Một số đồng chí xã Cộng Hòa như đồng chí Long, đồng chí Ngoạn Huyện uỷ viên cũng đến gốc cây gạo tiễn tôi. Nửa tiểu đội dân quân du kích xã Cộng Hòa đưa tôi vượt đường 5, đến thôn Cam Đông xã Việt Hưng. Tôi ngủ lại một đêm, chiều hôm sau qua Kinh Môn đến trạm giao thông Nhị Chiều của Hải Phòng để được dẫn đến Đèo Voi Bắc Giang gặp Thành uỷ Hải Phòng. Giúp tôi đi đường xa, huyện đội Kim Thành cử chú Phết liên lạc của huyện đội đi với tôi đến Đèo Voi, sau một tháng chú Phết trở lại Kim Thành.

Đến Hải Phòng, nằm chờ ít ngày ở núi Cò Nhớn Đèo Voi, tôi gặp đồng chí Văn Bút, Bí thư Huyện uỷ An Dương, Kiến An, đồng chí Giản tức Kim, Thường vụ Huyện uỷ Thái Ninh tỉnh Thái Bình đến nhận công tác làm Bí thư Quận uỷ, cùng ở Đèo Voi. Cơm hẩm cá khô, rau muống, đồng chí Bút sau này thường nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Một con cá phèn, sáng tôi ăn đầu, anh Thành ăn đuôi, chiều tôi ăn đuôi, anh Thành ăn đầu...”. Cho đến tháng 6-1950 tôi nhận quyết định về làm Bí thư Quận uỷ Ngô Quyền kiêm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính, Chính trị viên Quận đội. Đồng chí Nguyễn Văn Bút, Bí thư Quận uỷ Bạch Đằng, đồng chí Giản tức Kim vì không quen công tác nội thành nên không dám nhận chức Bí thư Quận uỷ. Thành uỷ quyết định cử đồng chí Minh Sơn làm quyền Bí thư Quận uỷ Cửa Cấm. Sau khi có quyết định tôi đã nhanh chóng hình thành bộ máy cơ quan Quận.

Có điều lúc này Thành uỷ đã chủ trương chuyển hướng, chỉ đấu tranh chính trị, không đấu tranh vũ trang. Ngay cả 2 huyện Thủy Nguyên và Hải An cũng không đấu tranh vũ trang. Bởi vậy tổ chức ra Quận đội rất hình thức, thêm cồng kềnh, có vũ khí không được nổ súng. Tôi quen hoạt động ở Kim Thành, cán bộ chính trị dân vận cũng được đào tạo và trang bị cho súng ngắn, lựu đạn, nếu cần là chiến đấu ngay. Nay có súng phải giấu đi, địch đến bắt phải giơ hai tay cho chúng trói, chúng còng. Nghĩ lại bây giờ thấy rất tiếc Những lúc địch sở hở, ta chỉ cần một quả lựu đạn có thể diệt hàng chục tên địch!

4. Khoảng cuối năm 1950 tôi đang ở ven đô, xã Kiền Bái thuộc huyện Thủy Nguyên để củng cố cơ sở khu 6 thuộc quận Ngô Quyền bị phá vỡ. Bí thư chi bộ, chi uỷ như các đồng chí Huệ tức Hoạt, đồng chí Tố, đồng chí Học, đồng chí Sơn... đều đã bị bắt. Tôi củng cố vừa xong, cử đồng chí Hồng Sơn 40 tức Sơn thọt tạm thời làm Bí thư chi bộ... thì được triệu tập về Đèo Voi họp, vì Thành uỷ có chủ trương tăng cường cán bộ cho Quận, cử các đồng chí Thành uỷ viên hoặc Thường vụ Thành uỷ xuống làm Bí thư Quận uỷ. Quận tôi do đồng chí Nguyễn Mạnh Ái làm Bí thư, tôi xuống làm Phó Bí thư còn các chức vụ khác vẫn giữ nguyên. Đồng chí Hoàng Mậu uỷ viên Thường vụ làm Bí thư quận uỷ Bạch Đằng, đồng chí Nguyễn Văn Phùng làm Bí thư Quận uỷ Cửa Cấm. Các Quận về đóng rải rác ở Thủy Nguyên, Kinh Môn.

Sang năm 1951 tôi làm xong giấy tờ vào nội thành hoạt động.

Trận chiến đầu tiên

Cảng Hải Phòng lúc này là cái cuống họng của đội quân viễn chinh Pháp ở Bắc Bộ, nên chúng bố phòng rất chặt chẽ. Mật thám, chỉ điểm giăng khắp các nẻo phố, nhung nhúc như rươi, hung ác hơn cả dã thú. Vì hoạt động trong lòng địch nên tôi giữ rất nghiêm ngặt nguyên tắc bí mật. Khi đến Hải Phòng, tôi đóng vai người dân ở Hà Nội xuống Cảng tìm mối buôn bán. Mọi việc nói chung được trôi chảy, thuận lợi...

Mùa thu năm 1951 Hải Phòng kỉ niệm 2 ngày lễ lớn của dân tộc 19-8 và 2-9. Năm đó có sự chuyển hướng đấu tranh trong lòng địch. Thành uỷ quyết định không treo cờ và rải truyền đơn như mọi năm mà tổ chức từng nhóm, tổ ba người, cùng với quần chúng cảm tình cách mạng đi nói chuyện tới từng gia đình, từng người về cách mạng tháng Tám, về Hồ Chủ Tịch, về cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược, vận động nhân dân chống bắt lính, ủng hộ kháng chiến, đưa con em ra vùng tự do tòng quân giết giặc...

5. Trong bối cảnh đó, ngày 18-9-1951 lúc tôi đang ăn cơm tối với ông chủ nhà, ông Ngỗi, là cơ sở của ta, thì bị sa vào tay địch. Nguyên do Lê Thanh là Phó Bí thư Huyện Hội phụ nữ huyện Hải An bị giặc bắt, không chịu được đòn thù của địch đã khai phá cơ sở.

Lúc bọn mật thám nhốn nháo xông vào nhà ông Ngỗi, chúng kéo theo cả một số người vừa bị bắt, người nào cũng thâm tím mặt mày, áo quần bết cả bùn lẫn máu. Tôi buông đũa nhìn ra: anh Hùng (Điều) giao thông viên quận tôi, anh Tham (Rỗ) Phó thư kí công đoàn khu 6 thuộc quận Ngô Quyền, anh Đào Hữu Thăng, chị Khương và bốn, năm người nữa đều là cơ sở cách mạng. Thấy nguy cơ bị bắt, tôi tháo vội chiếc đồng hồ và chiếc nhẫn vàng quẳng xuống gầm giường. Nhưng quan trọng là làm thế nào để thông tin cho các đồng chí của tôi vừa bị bắt đừng có nhận nhau, đừng có khai báo. Thằng Xếp Hòa lấy tay đẩy tôi ra khỏi cửa và hỏi: “Anh biết những đứa này chứ?”.

Lợi dụng câu hỏi, tôi nhìn thẳng vào mấy chỗ anh chị em vừa bị bắt và lên tiếng trả lời:

- Không? tôi không hề quen biết mấy người này. Tôi không biết họ là ai, bởi tôi mới ở Hà Nội xuống đây tìm người nhà.

- Mày nói dóc!

- Hắn vừa nói vừa phẩy tay ra lệnh cho mấy tên ác ôn lục soát trong nhà.

Tôi vẫn cố ý cãi to:

- Tôi là người Hà Nội, thẻ căn cước của tôi ở Hà Nội! Giấy đi khám bệnh ở Hà Nội. Tôi vừa xuống đây tìm người nhà để tìm mối buôn bán.

Thằng mật thám Tây lai Mác-tanh, xem giấy tờ của tôi, có một thoáng ngần ngừ song vẫn phẩy tay ra lệnh:

- Mặc áo vào.

Tôi đứng yên không mặc.

- Đù mẹ thằng này bướng!

6. Thằng Phúc vừa chửi vừa thẳng tay nện hai quả thật lực vào ngực tôi đánh “hự”, lấy còng khoá tay và ấn tôi lên xe. Chiếc xe chật ních người. Mặc mấy tên chỉ điểm ngồi kèm sát, tôi đưa mắt nhìn từng người và lắc đầu ngầm ra tín hiệu cho các đồng chí của tôi không khai, không nhận nhau. Về bốt Cống Trắng- Cát Bi, hành dinh của bọn mật thám không quân, tôi đã thấy Lê Thanh. Hình như sau khi chị đã khai báo, địch nới tay cho chị ra ngoài phòng giam. Thấy tôi, chị liền giơ tay đấm vào bụng tôi ba bốn đấm, nói trước mặt mấy tên mật thám:

- Mày biết võ nghệ của tao chưa?

Tôi nhìn chị nửa giận, nửa thương hại, nói luôn:
- Võ của chị đánh tôi không đau đâu, mà tay chị mới đau.
- Tao đã khai mày là chủ tịch rồi!
Tôi trừng mắt nhìn chị và nói:
- Tôi quen biết gì chị? Chị là phụ nữ mà ăn không nói có, chị không để đức cho con cháu mai sau à? Tôi xưa nay không hề quen biết chị.

Nghe tôi nói hai mắt chị cụp xuống, quay mặt và lảng đi về phía buồng giam tù.

Chúng đẩy tôi vào xà lim. Lúc này một phần lo cho bản thân, phải chuẩn bị gồng mình chịu tra tấn, nhưng lo hơn cả là số đồng chí của tôi vừa bị bắt. Phải làm thế nào giữ vững tinh thần của các đồng chí, không khai báo, không nhận nhau? Nếu để chúng tra hỏi họ trước, có thể sẽ rất nguy, danh tính của tôi cùng cơ sở sẽ bị lộ hết.

Vào đây tôi được biết cứ 12 giờ đêm chúng mới lôi người bị bắt lên tra tấn hỏi cung. Hôm ấy chừng 11 giờ tôi đập cửa xà lim, gọi rầm lên. Bọn chúng đang ngủ, chồm dạy chửi tục:

- Tiên sư thằng này, mày định khai báo hay sao?

- Tôi người Hà Nội xuống đây, là người dân lương thiện, sao các ông lại bắt mà không hỏi cho rõ, lại giam ở đây không cho về?

- Đ. mẹ thằng này làm ông mày mất giấc ngủ hả? Lôi cổ nó lên đây! Cho nó, nếm thử các món xào xáo của các ông Tổ sư nhà trời!

Chúng lôi tôi lên đấm đá một hồi, nhưng tôi vẫn cãi to, cố ý để mấy đồng chí dưới xà lim nghe thấy:

- Tôi có đủ giấy tờ hợp lệ của các ông cấp. Tôi là người Hà Nội, các ông bắt oan tôi!
Quả nhiên sáng hôm sau chúng điệu tôi lên đánh trước, đánh quyết liệt.
- Thằng này đêm qua đánh lừa chúng ông...
Chúng dùng găng tay đấm bốc đánh vào hai bên thái dương, vào mặt, đánh thúc vào ngọc hành, chúng “xin âm dương” khi tôi đứng lên, đá mũi giày vào mạng sườn khi tôi ngã xuống. Thằng Đới “hứ hự” to khoẻ nên những cú đá của nó rất nặng cân. Chiếc xương sườn bên trái tôi, nơi có cái nhọt, bị gãy, máu me chan hòa, máu càng vọt ra khi chính tay nó cầm gậy tre thọc sâu vào nơi đó...
- Cơ sở mày ở đâu? Tài liệu mày để đâu? Súng và con dấu mày để đâu?

Tôi chỉ còn nghe láng máng lời tra hỏi, lúc ngất đi, khi tỉnh lại. Nhưng khi tỉnh lại tôi vẫn một mực trả lời không chút khiêu khích:
- Tôi hồi cư về Hà Nội, về cùng các ông, kiếm sự an toàn của các ông. Tôi xuống đây tìm người nhà để làm ăn buôn bán. Xuống đây tôi đã đi trình báo...
- Sao thằng Tham nó biết mày?
- Tôi chỉ đến hiệu nó may cái áo sơ mi. Tên tôi nó còn chưa biết. Các ông đánh nó đau quá, nó nói liều để đỡ đòn đó thôi.

Máu chảy nhiều quá, chiếc sơ mi đẫm máu, tôi ngất đi, tỉnh lại không rõ bao nhiều lần. Chúng khiêng tôi vứt về xà lim. Lúc chúng điệu tôi qua cửa những buồng giam số anh em bị bắt hôm qua, với thân hình mềm nhũn, áo quần rách tả tơi đầm đìa máu đỏ hẳn số anh chị em này biết tôi không khai, không nhận. Đau đớn nhưng tôi thấy yên lòng là bằng hành động này tôi đã ngầm thông tin cho các đồng chí của tôi phải gắng chịu đựng để đảm bảo cơ sở

7. Sau trận đòn ngày đầu, thân thể tôi bầm tím, máu bên sườn vẫn chảy, chẳng có thuốc mà cũng chẳng có băng. Tôi xé những mảnh áo rách nối lại làm băng buộc thấm máu. Những ngày tiếp chúng đánh tôi bằng nhiều cách khác, cho chết mà không có thương tích.

Có lẽ chúng thấy giấy tờ của tôi hợp lệ là người Hà Nội, nên cũng gờm, sợ tôi có thế lực ở trên đó. Vì vậy chúng thay đổi cách đánh. Tra điện qua ngọc hành. Mỗi lúc dòng điện chạy qua thắt cuộn ruột gan, cả người tôi co rúm lại, máu nơi vết đâm phọt ra ướt đất. Tra điện vào mang tai, từng lúc tôi thấy đầu tôi như vỡ tung ra với muôn ngàn con đom đóm. Tôi lại ngã vật xuống, ngất đi. Khi tỉnh lại miệng khô đắng và khát nước, thèm nước.

Chúng cho tôi uống nước vôi. Không uống thì chúng đè ra lấy muỗng tống muối vào miệng rồi đổ nước vôi cho muối trôi xuống. Đòn treo, treo ngược đầu xuống đất, treo hai tay quặt sau lưng, rồi dùng thước nện hai bả vai, hai bên đùi. Tôi có cảm giác như con chó sắp bị đem cắt tiết. Mỗi khi chúng buông thừng xuống, tôi đều bất tỉnh. Đợi khi tôi mở được mắt, chúng lại lải nhải dồn mấy câu hỏi cũ: “Con dấu mày để đâu? Cơ sở mày ở đâu?..” Tôi vẫn chậm rãi trả lời, không khiêu khích nhưng cũng không van xin:

- Tôi chỉ là người dân hồi cư về Hà Nội, về cùng các ông. Xuống đây tìm người nhà để buôn bán. Các ông xét xem nếu tôi là Việt Minh thì sao khi xuống đây tôi lại đi trình báo hộ khẩu ngay.
- Thế mày tìm ai? ở đâu?
- Tôi mới xuống được vài ngày đang đi tìm chưa thấy, chứ nếu đã tìm được xin trình báo các ông ngay.
- Sao nhiều đứa bảo mày là chủ tịch?
- Tôi ở Hà Nội, có quen biết ai ở dưới này đâu. Các ông đánh quá đau, chúng khai lung tung thế.

8. Mười ngày qua, trận đòn nọ nối tiếp trận đòn kia. Đêm đó khoảng mười hai giờ tôi thấy chúng rì rì chạy một cái xe jeep đến. Có thằng Pơ-lê, xếp Hòa và lao xao một lũ ác ôn. Chúng mở cửa xà lim giam tôi. Tôi thấy chúng lôi trong xe ra một cái bao tải lớn. Tôi chắc hôm nay mình sẽ bị chúng giết chết. Bởi ở nơi đây có biết bao nhiêu lần chúng làm như vậy. Chúng tống người vào bao buộc lại, quăng lên ô tô và đưa ra sông Lạch Tray, vứt tòm xuống, hoặc đào hố chôn ngay trên bãi. Sau khi hòa bình lập lại, ta đào bãi có biết bao bộ xương của những người con yêu nước vô danh. Thằng Hòa nhìn tôi nhún vai nói:

-Tao đã bảo mày khai thì chỉ cần khai một người, một việc, là mày được sống. Không cơ sở, không tài liệu, mày phải chết. Hôm nay tao cho mày hết cái gan, cái lì của mày đi. Tao sẽ chôn sống mày.

Vừa nói nó vừa vẫy tay ra lệnh cho mấy tên ác ôn khiêng tôi nhét vào bao. Còn thằng Pơ-lê thì giở phép lịch sự của bọn quỷ sứ, giơ tay ngang mũ, kiểu chào vĩnh biệt người chết. Chúng kéo dài việc khâu, buộc miệng bao. Tôi nằm trong bao thoáng nghĩ đến Tâm, người vợ hiền của tôi, song tự đáy lòng thấy cái chết đến yên ắng. Trong suốt mười ngày vượt qua đòn thù tra tấn, sức lực tàn kiệt, máu bên sườn nơi cái nhọt bị đâm thủng vẫn rỉ ra, nhưng tinh thần tôi vẫn vững vàng.


9. Bao nhiêu cơ sở, bao nhiêu đồng chí cấp dưới trong cơ quan của tôi, bao nhiêu tài liệu, súng ống tôi đã giữ được trọn vẹn cho Đảng, cho cách mạng. Tôi mở mắt ra. Trong bao tối om, hình như chỉ có cái đốm trên đỉnh đầu, nơi bộ óc còn loé sáng. Nằm trong bao và yên trí chỉ lát nữa tôi vĩnh biệt cuộc sống, nhưng tôi vẫn nói vọng ra: “Sao các ông lại giết tôi? Giết một người dân hồi cư theo lời kêu gọi của các ông”, nói đến đó thì tôi nghe thấy thằng Hòa ra lệnh: “Cởi ra đã”.

Chúng lại tháo nút buộc. Thằng Hòa đến cạnh bao ôn tồn thuyết phục:

- Anh là người có học, thông minh, tôi tiếc cho anh biết mấy. Chúng tôi đánh kẻ chạy đi, chứ không ai đánh kẻ chạy lại. Anh chỉ cần khai liên lạc với ai. Chỉ cần nói một người, một người thôi, thì ngày mai tôi lập tức cấp giấy tha anh ngay.

Chả là những khi bị tra tấn tôi chỉ nói xuống đây tìm người nhà, nay nó hỏi liên lạc với ai. Tín hiệu này tôi đã thoáng thấy chúng đã có nghi ngờ bọn chỉ điểm nói tôi là chủ tịch. Tôi trả lời ngay:

- Tôi hồi cư về Hà Nội, tin là vào trong này sẽ an toàn, có sự bảo trợ của các ông, sao các ông lại giết tôi, giết một người dân hồi cư theo lời kêu gọi của các ông? Nếu như đã tìm được người nhà, tôi đã thành thực khai, giấu các ông làm sao được. Nghe vậy thằng Hòa lại quát lên:

- Thằng này muốn chết, phải chết - y lại ra lệnh - Khâu bao và tống mẹ nó xuống sông. Hai ba thằng lại túm đầu ấn tôi vào bao. Thằng Focquet (Phốc-kê) lái xe, mở máy rì rì, ỉn ỉn như chuẩn bị chuyển bánh. Tôi vẫn nói vọng ra:
- Tôi không khai thì các ông cho là không trung thực, nhưng nếu nói bừa thì lại có lỗi với các ông.
Thằng Hòa lại quát:
-Mày nói lí, hôm nay chúng tao sẽ chiều theo ý mày! Sẽ chôn sống mày.

10. Chúng vẫn buộc miệng bao chầm chậm. Tôi lại mở mắt ra. Tối đen, chỉ có hơi xăng của chiếc xe đang nổ máy xộc vào mũi. Hình ảnh Tâm vẫn chập chờn trước mắt, tôi thấy nhói lên một niềm thương. Hình ảnh thành phố cảng, những khu phố quen thuộc mà hàng ngày tôi qua lại, ngập ngụa bóng Tây say, những đồng chí của tôi lặn lội ngày đêm trong lòng địch, những bà mẹ cơ sở nuôi sống tôi. Tất cả hiện lên mồn một trong kí ức cùng với nỗi đau nhức nhói trong tim. Tôi nằm yên trong bao và loáng thoáng nghe thằng Pơ-lê nói với thằng Hòa: “Có thể... (certainement, possible) chứng liệu không chính xác!”.

Độ mấy phút sau thằng Hòa ra lệnh cởi bao lôi tôi ra và nói:

-Ông xếp này bảo là cho mày thêm một đêm để suy nghĩ. Không khai, ngày mai mày sẽ chết...

Chúng lại khiêng tôi vứt vào xà lim. Tôi bò lết vì cả chân tay tê dại, khó nhấc lên được. Chỗ xương sườn bị gãy, nơi cái nhọt bị đâm, vẫn đau nhức ri rỉ máu, mủ. Nhưng tôi cười thầm cái trò hù doạ xỏ lá của bọn chúng. Mấy đồng chí của tôi bị bắt ở ca-sô gần đấy lấp ló nhìn ra. Có lẽ sự chịu đựng và thái độ của tôi trước kẻ thù đã gieo được vào lòng họ những suy nghĩ về bổn phận của mình.

Chị Lê Thanh, từ sau cái hôm đấm tôi mấy đấm vào bụng và nghe những lời nói bóng gió của tôi, tôi thấy chị cứ muốn lánh mặt. Mỗi buổi bọn mật thám điệu tôi lên bàn tra cung, rồi khi hết buổi chúng lại khiêng tôi xuống buồng giam với thân hình đẫm máu, mỗi lần như vậy tôi thấy chị quay mặt và lỉnh đi chỗ khác. Thế rồi một hôm, chị lén ném cho tôi một cuộn băng và nói vội: “Lỡ bước trượt rồi thì đứng lại thế nào hở anh?”. Tôi cũng trả lời vội: “Đứng lại ở đấy và đừng bước nữa thì khỏi ngã” (chị Lê Thanh hiện còn sống).

Cậu Xôi - Phong Cốc là người Phong Cốc - Hà Nam, Quảng Yên. Hắn lầm lì ít nói, người cùng quê với xếp Hòa. Trước kia hắn cũng là cơ sở của kháng chiến, sau khi bị bắt, bị mua chuộc, rồi xếp Hòa dùng hắn để gác bốt và coi tù. Hình như hắn cũng chú ý theo dõi những người bị bắt lên tra đánh. Cứ mỗi lúc y thấy tôi máu me đầy người, không lết đi được sau khi bị tra đánh, thì y đều có cái nhìn thiện cảm. Bởi vậy khi tôi đập cửa xin nước, hắn đều đem lại rất sốt sắng. Có lần hắn còn lén bỏ vào ca nước những cục đường.

11. Rồi một hôm, bọn mật thám lôi Điều lên tra tấn. Sau những phát đạp đánh, Hùng Điều kêu rú lên, rồi thấy chúng điệu Điều ra xe nổ máy. Mấy phút sau chúng bắt về bốt một bà già. Khi Điều bước xuống xe thì Xôi xấn lại, y túm luôn lấy Điều dùng báng súng nện vào ngực, chân đá Điều lăn lên, lộn xuống. Vừa đánh y vừa chửi tục: “Đù mẹ thằng này, mày mù à! Mày không nhìn thấy ai à! Mày định dẫn bắt hết cả dân thành phố này à...” Thì ra vậy! Trong lương tri sâu kín của những người con yêu nước, họ vẫn gặp nhau, tìm đến nhau, vẫn nhìn và làm theo nhau.

Anh Tham (rỗ) là phó thư kí công đoàn khu 6 thuộc quận, cơ sở đổ bể, anh bị giặc bắt. Mấy hôm nay bọn mật thám tập trung đánh và khai thác chức danh của tôi. Chúng đã thất bại khi đem Hùng Điều lên nhận diện. Hôm nay chúng dẫn Tham đến trước mặt tôi. Chúng đẩy Tham và giục:

-Mày nói đi. Tên nó là gì?
Tham chưa kịp mở miệng tôi đã tranh nói trước:
-Tôi ở Hà Nội có quen biết gì nó.
Thằng Hòa đạp tôi một cái và chửi:
- Tao hỏi mày à! Khép cái mồm mày lại.
Rồi quay sang Tham:
-Nó làm cái gì?
Tham ấp úng:
-Con không biết, nhưng chắc nó làm to lắm.

Lập tức cả bọn xúm lại quật Tham xuống, vừa đánh vừa chửi: “Tổ sư mày! Cái mồm mày như đít con nhà thổ. Lúc có, lúc không”. Tôi nhìn Tham, lại nhìn xuống chỗ có cái nhọt, nơi rẻ xương bị đánh gầy và vẫn rỉ máu, bỗng thấy bớt đau.

Mấy hôm sau chúng gọi tôi đến gần một chị phụ nữ quần áo tả tơi, đầu tóc rũ rượi. Xung quanh chị có thằng Lai-xanh và hôm nay, đặc biệt có cả thằng Đơ-he, chánh mật thám liên bang Đông Dương, thằng quản Xồm, tên mật thám phòng nhì khét tiếng hung bạo ở Hải Phòng. Tôi nhẩm chắc phen này sẽ bị chúng đánh chết, bởi chị phụ nữ đó chính là cô Hoa, Bí thư phụ nữ khu 7. Đã qua hai người nhận diện chúng đều thất bại. Lần này đưa Hoa ra nhận diện chắc khó có thể chối được.

Vừa nhìn thấy Hoa, ngay trước cả bọn Tây tôi rọi tia mắt nhìn thẳng vào mặt chị. Thằng Hòa lên tiếng hỏi Hoa: “Thằng này là ai?” Hoa chưa kịp mở miệng, tôi đã nói:

- Tôi không hề quen biết chị này!
- Hãy vạch mặt nó ra xem có phải con Hoa?
Chúng vạch mớ tóc rối bù trên mặt chị, tôi vẫn nhìn thẳng chị. Chị nói:
- Tôi không biết nó là ai, không hề quen nó.
Thằng Lai-xanh đá luôn hai đá vào bụng chị và hỏi dồn:
- Sao mày bảo biết nó là chủ tịch?
Hoa cuống lên:
- Không, con không biết. Tôi không biết! Các quan hỏi ông ấy!
Lai-xanh đá thốc luôn hai nhát giày nữa vào mặt chị và chửi tục:
- Cút mẹ mày xuống xà lim đi - và quay lại hỏi tôi:
- Sao nó bảo mày là chủ tịch?
- Các ông đánh nó đau quá nó khai lung tung.
- Mày hãy vào đây xem tao đánh nó.
- Các ông đánh nó, nó là phụ nữ, thì nó chết. Không chết, nó đau sẽ khai bừa. Các ông sẽ bắt hết dân Hải Phòng của các ông hay sao?

12. Thằng Lai-xanh ngẩn lại một phút và phẩy tay cho tôi trở về chỗ cũ. Mãi đến bây giờ có người đến hỏi chị Hoa đã 72 tuổi còn sống ở Hải Phòng: “Tại sao lúc đó chị lại chối không quen biết anh Thành?”. Chị trả lời: “Chính nét mặt đôn hậu và đôi mắt nhìn nảy lửa của anh ấy làm tôi cuống lên, bật ra câu trả lời: Tôi không biết, các quan hỏi ông ấy”.

Thằng Phiên béo là đảng viên Việt Nam quốc dân đảng. Pháp nhảy dù Bắc Cạn bắt được đem về Hải Phòng sử dụng. Y thành tên ác ôn khét tiếng nhất của bọn mật thám không quân ở bốt Cống trắng. Y đánh, tôi không khai, không van xin, bị đau đến ngất xỉu, nhưng khi tỉnh lại lời nói vẫn bình thản. Một hôm y tìm đến gặp tôi, bữa ấy y không gọi tôi là mày nữa mà nói:

-Ông Duy ạ! (tên tôi trong tù là Duy). Làm tay sai cho Tây cũng nhục như chó!
Tôi chẳng cần đắn đo trả lời ngay:
-Chúng tôi là người làm cho ông đỡ nhục, nhưng ông lại đánh chúng tôi nhiều nhất.
Nghe tôi nói vậy, y cúi gầm đầu xuống lấy mũi giầy hất hất những viên sỏi lăn đi lăn lại. Cũng từ hôm ấy, tôi thấy y không đánh tù hung hăng như trước nữa. Y nhìn tôi bằng con mắt kính phục, nhưng tránh không dám gần.

Những ngày ra Salông và đến căng Đoạn Xá, chúng chẳng khai thác được gì ở tôi, nhưng chúng cũng không tha và đề vào phích tù: “Không có cứ liệu, nhưng nhiều người khai là chủ tịch” và chuyển vào giam ở căng Đoạn Xá.

Bọn quản Xồm thấy phích tù đề “không có chứng cớ” liền tung tay chân bủa lưới quanh tôi. Có nhiều đồng chí của tôi bị bắt vào đây, song gay cấn nhất là Xuân Đào. Anh em gọi hắn là Đào “răng vàng”. Hắn vốn là quận uỷ viên quận Cửa Cấm bị giặc bắt, khai phá cơ sở và được bọn mật thám liên bang sử dụng, thứ nữa là cậu B. giao thông quận Cửa Cấm. B. cũng bị bắt, bị mua chuộc. Xuân Đào theo lệnh của quản Xồm moi tìm những cán bộ bị bắt còn giấu được tung tích. Ngay từ ngày đầu, tôi tìm gặp Xuân Đào, đúng lúc hắn đang chăm chú nhìn cậu cần vụ vắt chanh vào cốc nước giải khát. Đợi cậu thanh niên này vắt hết nước, vứt cái vỏ chanh xuống đất, tôi tiến lên một bước, vừa cất tiếng chào vừa cúi nhặt cái vỏ chanh.

Lúc này Đào đã nhận ra tôi và nói:
-Anh nhặt cái đó làm gì? Chanh đã vắt hết nước.
Tôi tranh thủ nói thẳng với Xuân Đào:
-Anh thừa hiểu nghĩa thật và nghĩa bóng của câu anh vừa nói. Tôi đến gặp anh để nói thật với anh rằng tôi không khai nhận, và không bao giờ tôi khai nhận! Anh có tố giác tôi thì tôi cũng chết và chắc chắn anh cũng không sống được. Bởi anh biết khi tôi đã không nhận thì đối với địch anh chỉ là đứa tâng công nói bừa, nó sẽ không tin nữa và cuối cùng chúng cũng không tha anh. Ở ngoài kia, anh biết đấy, bọn chúng đang thua chạy ở khắp các mặt trận.

13. Đào yên lặng, không trả lời, hất cốc nước chanh tung toé xuống đất mà không uống. Tôi lại tìm đến B. và cũng nói thẳng:
-Cậu khai bắt Xuân Đào đã là cái tội. Bây giờ cậu có tố giác mình thì cậu xem đấy.
Tôi chỉ vết thương nơi cái nhọt vẫn rỉ máu và khẳng định:
- Không bao giờ tôi khai nhận đâu.
Lời nói của tôi quả có tác dụng. Xuân Đào và B. không những không tố giác tôi, mà không còn hoạt động tệ hại như trước nữa. Còn B. thì hối hận. Cậu ta săn sóc, tìm cả bông băng, hàng ngày lau rửa vết thương rỉ máu của tôi và nhất là không khai báo cơ sở với địch nữa. Sau này được tha tôi đã nhận thực cho B. được phục hồi Đảng tịch.

Những ngày ở Đoạn Xá vết nhọt bị đâm trên sườn tôi vẫn sưng bầm. Làm gì có thuốc chữa trị, ngoài thứ thuốc đỏ. Nơi rẻ xương sườn bị gãy và vết đâm có nhiều hút như hút chạch, cả máu lẫn mủ ngày đêm ri rỉ chảy, lầy nhầy như máu cá. Tay ôm viết thương, tôi vẫn cố tìm đến tổ chức. Tôi muốn bằng sự kiên nghị của mình sẽ khống chế được số anh em dao động tinh thần, mặt khác giữ vững được tinh thần cho số đông đồng chí bị giặc bắt. Với tư cách Phó Bí thư chi bộ trong nhà tù, tôi có biết bao công việc phải làm, không thể nhớ hết...(Nhưng đáng quý là có những anh em đồng chí bên tôi lại nhớ được nhiều chuyện vào giai đoạn đó.

Như đồng chí Văn Tân, sau này báo cáo về Trung ương, tháng 3- 1993, có đoạn viết: “Khoảng tháng 4-1952 đồng chí Đoàn Duy Thành có phân công tôi trực tiếp chỉ huy 50 anh em bộ đội đi làm ở bốt pháo thủ, mé bên kia bến Bính... đến 7 giờ hôm đó khi địch tập trung anh em chúng tôi lên ôtô về Cảng thì chúng tôi xông vào đồn cướp súng, phá khẩu cao xạ 4 nòng, rồi theo bãi sú về làng Dương Quan như đã liên lạc từ trước”.

“ Khoảng một tuần sau, đồng chí Đoàn Duy Thành cho tôi kiểm tra lại kế hoạch giải phóng 100 anh em bộ đội đi làm ở núi Voi... Và kế hoạch này ngay chiều hôm sau anh em đã thực hiện thắng lợi giải phóng cả 100 anh em, tước toàn bộ súng ống của bọn lính áp tải...”

14. Như thế, ban ngày mọi hoạt động lôi cuốn tôi, nhưng đêm đêm trong buồng giam nghe tiếng súng công đồn khi gần khi xa, lòng tôi xốn xang, không thể nào chợp mắt được. Tôi nhớ những đêm theo giao liên đi họp, từng đoàn đom đóm lập loè trong lùm cây, nhớ những đêm mưa phùn, đi sát qua đồn giặc, những đám ma trơi vật vờ nơi bãi tham ma, nơi giặc vùi xác đồng bào, cán bộ mình. Nhớ cả những buổi đang đi gặp phải lính tuần đường, tất cả nằm nép xuống bờ nước, lúc bò lên mới thấy đỉa bu quanh lưng, bu khắp mặt lầy nhầy...

Tôi băn khoăn nhiều đến nhiệm vụ Thành uỷ giao phó mà chưa hoàn tất, nào hoạt động với khối công nhân khu ga, khu cảng, khu lán bè... Còn bây giờ, bây giờ phải tìm mọi cách thoát khỏi nhà tù, thoát nhưng phải làm sao không đụng chạm thất thiệt đến tổ chức trong khám. Bởi vậy khi Văn Tân kiểm tra xong kế hoạch trốn cả 100 anh em bộ đội, tôi đã dặn: “Bố trí kiểm tra xong, đồng chí phải ở lại”. Bởi mình phải nghĩ tới mấy ngàn cán bộ, bộ đội ta còn bị giặc nhốt ở đây, căng tù này cũng là một điểm nóng mà người cán bộ phải có trách nhiệm.

Đi đày Côn Đảo

15. Lúc này giặc đại bại ở biên giới. Hàng binh đoàn với cả tướng tá của chúng đã bị ta bắt sống. Vùng đồng bằng sông Hồng, nơi mà chúng cho là an toàn nay bị uy hiếp. Vì vậy chúng tìm cách chuyển số tù binh và cán bộ của ta bị bắt vào phía Nam.

Vết thương bên cạnh sườn của tôi vẫn như cái nhọt bọc. Ngày đêm đau nhức tưởng khó có thể qua được. Xem bưu thiếp của số anh em đã ra đảo gửi về, tôi biết những đồng tiền Đông dương mà chi bộ căng tù Đoạn xá chúng tôi đưa cho anh em trước lúc xuống tàu khi tới đảo đều bị chúng thu hết bằng lối khám trần truồng.

Ngày chúng tôi bị thanh lọc và đợi tàu ra đảo, thành uỷ Hải Phòng qua chi bộ căng tù Đoạn xá gửi cho chúng tôi ba ngàn tiền Đông Dương. Tôi đã gửi mua 10 chỉ vàng, đánh thành 10 cái nhẫn để hở khuy. Tôi nghĩ rằng nếu bị lột trần khám xét thì chỉ còn hai cách: Thứ nhất là cắn bẹt ra rồi nuốt vô bụng, khi đại tiện bới ra tìm lại; hai là bẻ ra gắn vào qui đầu rồi tuốt da xuống thì bố nó cũng không tìm được. Quả nhiên khi ra đảo, bọn cai tù khám bằng lối khám đặc biệt mà anh em tù gọi là “điệu múa phượng hoàng vỗ cánh”. Chúng tôi cho chim đeo vòng vẫn giữ nguyên được 9 chỉ. Riêng đồng chí Thíu (Bình Giang) nuốt vào bụng, khi đại tiện thò tay vào thùng phân mò mãi không thấy.

16. Hôm ấy, 1-10-1952 một đoàn xe nhà binh bịt bùng, kín mít tiến vào sân căng. Anh em chúng tôi lần lượt bị gọi ra xếp hàng xuống tàu đi đày. Nhiều anh em trong trại nhìn tiễn chúng tôi bằng ánh mắt thương cảm. Chúng tôi hô to các khẩu hiệu: “Đả đảo thực dân Pháp - Hồ Chủ tịch muôn năm...!”. Tôi giơ cao tay, nói thật to: “Chào anh em ở lại, chúng ta sẽ gặp nhau ngày Thủ đô giải phóng”.

Xây dựng Đảng trong nhà tù và cuộc vượt ngục lớn nhất

Trong nhà tù, chi bộ đảng, hạt nhân lãnh đạo cuộc đấu tranh mặt đối mặt với quân thù, phải căn cứ vào hoàn cảnh của tù nhân, của từng trại giam để có phương sách xây dựng Đảng, tổ chức đấu tranh thích hợp nhất, vừa bảo tồn được lực lượng, vừa tránh mắc mưu khiêu khích của kẻ thù, hoặc rơi vào sự mua chuộc dụ dỗ sinh ra tư tưởng cầu an hưởng lạc, nằm yên, thậm chí làm tay sai cho địch, không dám đấu tranh chia lửa với bên ngoài. Và khi có thời cơ, phải biết tổ chức tự giải thoát hoặc phối hợp với lực lượng bên ngoài đánh địch tại ngay những nơi chúng cho là an toàn nhất, như các trại tù ở các đảo xa đất liền.

Tôi vừa chân ướt chân ráo đến căng Đoạn Xá, San D1 (Salle Dangereux No 1 - khám tù nguy hiểm số 1), thì gặp ngay được một đồng chí rất tốt. Anh quen biết tôi và qua theo dõi khi tôi bị bắt, thấy tôi không khai báo làm hại cách mạng, anh đã cho tôi biết kế hoạch đào đường hầm xuyên ra ngoài. Đồng thời anh bố trí tôi vào tốp đồng chí nằm ngủ chờ khi có lệnh thì chui đường hầm vượt ngục. Sự việc không thành (Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6, năm 1995 đã có bài viết về sự kiện này), anh Th. Huyện đội trưởng một huyện, bị địch đánh, đã khai ra gần hết các đồng chí trong Ban chi uỷ (Chi uỷ lúc đó có 7 người) và một số đảng viên.

Trong tình thế đó, đồng chí Trần Thành Thọ là chính trị viên Tiểu đoàn, người chỉ huy quân sự cao nhất ở San bộ đội, đứng ra nhận trách nhiệm là người chỉ huy cuộc đào hầm vượt ngục. Đồng chí Thọ bị địch đánh chết ngay đêm hôm ấy. Các đồng chí khác không bị tra tấn, trừ hai anh Tường (tức Thâm) và Cao Văn Đoàn. Sau một tháng giam ở ca sô (hầm tối) cho ăn cơm muối, không tìm được chứng cứ, địch phải thả hết.

17. Ban chỉ ủy cũ coi như bị lộ. Chúng tôi bàn nhau củng cố chi bộ. Tôi được cử làm phó bí thư phụ trách xây dựng Đảng và phòng gian bảo mật (Chi uỷ lúc này chỉ có 3 người là các anh Dụ, Kỉ và tôi). Công việc đầu tiên là rà soát lại các đảng viên đã được sinh hoạt Đảng trước đây, phân tích sự không thành công của cuộc vượt ngục, xem xét các đảng viên sau cuộc vượt ngục, tìm ra những đồng chí sau thất bại này lại hăng hái hơn trong cuộc đấu tranh với địch như đồng chí Văn Tân, Tường (tức Thâm), Châu “lé”... Bởi vì đã có đồng chí trước đây ở ngoài là uỷ viên Thường vụ huyện uỷ như đồng chí Ch. sau cuộc vượt ngục không thành, sinh ra bi quan, hằng ngày ăn cơm xong lấy manh chiếu cuộn tròn nằm ở cuối khám, không trò chuyện với bất cứ ai cho đến khi địch chuyển đi trại giam khác.

Sức khoẻ tôi lúc này rất kém, lại phải dồn sức vào củng cố phong trào tù nhân. Theo sự phân công của chi uỷ, tôi trực tiếp đọc cho đồng chí Sâm “cụt” viết bằng mực hoá học, tại một góc San D1, bản báo cáo gửi Thành uỷ Hải Phòng về công tác của chi bộ. Bọn địch không phát hiện được vì chúng tôi giả như là mấy người học tiếng Pháp và ăn chung cùng mâm với nhau gồm cả Đào Hữu Thăng.

Nhận được báo cáo gửi ra qua đường dây liên lạc của đồng chí Trần Hồi và Phiên (Hoán), Thành uỷ đã báo cáo lên Thường vụ Khu uỷ. Đồng chí Nguyễn Năng Hách (em ruột đồng chí Lê Thanh Nghị) Khu uỷ viên, kiêm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng thay mặt Khu uỷ kí quyết định công nhân chi bộ nhà tù Đoạn Xá là chi bộ chính thức. Chúng tôi chuyển quyết định có đóng dấu son cho các đồng chí chi uỷ viên xem rồi hủy ngay. Lúc này đảng bộ đã có 206 đảng viên, phân bố trong các khám, nhưng đông nhất là San D1 và San sĩ quan quân đội.

18. Hoạt động của chi bộ dần đi vào nền nếp. Các hình thức đấu tranh được tổ chức tốt, bao gồm tổ chức vượt ngục, lãn công khi địch bắt đi lao động, đưa kiến nghị yêu sách đòi cải thiện sinh hoạt, đòi thả những người bệnh nặng và chữa chạy cho tù nhân đau ốm. Tiêu biểu cho giai đoạn này là hai cuộc vượt ngục của 100 tù binh đi lao động ở núi Voi Kiến an (Trong cuộc vượt ngục, ta đã cướp toàn bộ súng của bọn lính coi tù và thoát ra vùng tự do), vượt ngục bằng cách rút chấn song sắt ở căng tin San D1 (Tạp chí Lịch sử đảng số 6-1995 đăng bài: “Chi bộ nhà tù Đoạn Xá Hải Phòng” có nhắc đến các sự kiện này). Các cuộc vượt ngục đã làm cho bọn cai ngục và bọn thực dân Pháp ở vùng duyên hải Bắc Bộ phải thay đổi một phần chế độ hà khắc đối với tù nhân, đồng thời chúng tiếp tục phân tán anh em bằng cách đày đi Côn Đảo, Phú Quốc những người chúng cho là lãnh đạo trong nhà tù.

Đến nhà ngục Côn đảo

19. Lúc này mùa gió chướng sắp đến. Việc chuẩn bị cho cuộc vượt ngục Côn Đảo đang diễn ra sôi nổi nhưng rất bí mật. Qua kiểm tra sàng lọc xem xét của Đảng, đồng chí Lê Đình Thụ và tôi được bổ sung vào Đảo uỷ. Chúng tôi bắt tay ngay công tác chuẩn bị cho cuộc đánh địch cướp đảo, nhằm đưa tất cả tù nhân về đất liền, tham gia kháng chiến. Sau khi đồng chí Văn, Bí thư Đảo uỷ phổ biến chủ trương, chúng tôi soát lại kế hoạch đánh chiếm đảo, phương tiện thuyền và vũ khí. Chúng tôi khẳng định chỉ có đánh chiếm được toàn đảo, sử dụng đại bộ phận tàu thuyền sẵn có của địch để về đất liền mới bảo đảm thắng lợi. Còn thuyền do ta chuẩn bị, khung thuyền bằng gỗ và song, với vải sơn bọc ngoài, khó có thể vượt qua được sóng to gió lớn.

Không khí chuẩn bị cuộc vượt đảo có một không hai này sôi sục trong tâm tư tình cảm của mỗi người tù, nhất là Banh III tù binh. Nhưng bề ngoài chúng tôi rất thầm lặng, nói chuyện với nhau qua ánh mắt, nụ cười thầm kín. Bởi vậy vẫn giữ được tuyệt đối bí mật cho đến giờ nổ súng. Tôi được phân công phụ trách chuẩn bị danh sách và tàu thuyền hiện có trên đảo, có thể dùng làm phương tiện về đất liền được, kế hoạch đối phó với địch sau trận đánh chiếm đảo, những biện pháp đối phó với những tình huống xảy ra như thắng lợi hoàn toàn, hoặc đi được một bộ phận, hoặc cuộc chiến dấu thất bại.

Tôi đã cùng với số anh em giúp việc thu thập tình hình đề ra các biện pháp xử lí. Sau khi chuẩn bị xong, đã đưa ra thường vụ Đảng uỷ góp ý kiến.

Trong việc chuẩn bị này, khó nhất là phương tiện chở anh em về đất liền, chỉ bảo đảm được khoảng 550 người, mà ở đảo lúc đó có 2100 người. Riêng banh III tù binh đã có 500 người. Phải tính đến chuyện dùng các loại thuyền đánh cá nhỏ, không có máy nổ, tự tạo buồm, mái chèo, mà đi từng tốp nhỏ.

Nếu đúng dịp đó có tàu hàng đi qua thì cướp luôn tàu để đi. Nếu phải kéo dài thì giờ thì việc quan trọng nhất là chiếm được máy phát tín của địch ở “Hòn bảy cạnh”, khống chế địch ở đây, phát tín hiệu bình thường về đất liền 2 ngày một lần như địch làm thường lệ và chuẩn bị cho anh em về chuyến sau cùng bằng một ca nô tốt nhất của đảo, có khả năng chạy một đêm đến cửa Mỹ Thanh, khu tự do của ta thuộc tỉnh Bạc Liêu.

21. Từ giữa tháng 11-1952 thỉnh thoảng đã có gió “chướng” thổi qua đảo. Anh em rạo rực chờ đợi. Tôi lúc nào người cũng nóng ran, như bị sốt 40 độ. Gió “chướng” đến rất ngắn, nửa ngày hoặc một ngày đã hết. Tôi đề nghị với anh Văn bố trí cho tôi và anh Thụ đi làm với kíp làm đường ở đầu mom để quan sát tình hình cụ thể và nếu có điều kiện bàn thêm với kíp làm rừng ở bến Đầm. Số anh em làm rừng được làm lều ở cố định, còn kíp làm đường thì sáng đi tối về bằng xe vận tải. Anh Thụ không ốm nên khi xếp hàng được đi làm ngay. Còn tôi ốm yếu, sốt rét da vàng ậng, khi điểm danh tên đội Tây trắng Roberl đẩy tôi về. Y bảo “malade” (ốm) ở lại. Phải tìm cách lừa hắn.

Một hôm tôi xếp hàng, y đang điểm danh ngoảnh đi, thừa cơ tôi nhanh chân lén lên chỗ y đã điểm. Tôi thoát ra đi làm một ngày với kíp làm đường. Tôi có điều kiện quan sát toàn cảnh khu vực sẽ xảy ra chiến đấu. Phải bắt sống toàn bộ hơn một trung đội Âu-Phi mạnh nhất của đảo (toàn đảo chúng có một đại đội, 2 trung đội ốm yếu bố trí ở thị trấn, hơn một trung đội mạnh do viên chánh quản Bordesoul (Bốt-đờ-xun) chỉ huy. Tên này là lính của Trung đoàn Pháp đi đánh nhau với Bắc Triều Tiên về, mang tư tưởng thất bại ở chiến trường Triều tiên và có thái độ cảm tình với anh em tù binh.

Chúng tôi đã bàn thống nhất với nhau kế hoạch đánh nhanh, cướp toàn bộ vũ khí, hoá trang là lính địch chở tù về, tấn công vào trụ sở chỉ huy của chúa đảo Jacty. Khi súng nổ, các nơi đã có kế hoạch hợp đồng tác chiến, nổi lên chiếm toàn đảo. Riêng banh III, tù binh là lực lượng chủ công, do đồng chí Tụy, đồng chí Nghĩa phụ trách, có nhiệm vụ bắt sống tiểu đội lính da đen, tước vũ khí và chi viện cho các đơn vị chung quanh, cùng với đơn vị ở kíp làm rừng, làm đường kéo về, giải quyết những điểm chưa chiếm được. (Đồng chí Tụy hiện nay về hưu ở Hưng Yên).

Hai mũi quyết định cho trận đánh thành công hay thất bại đó là:

1/ Kíp làm rừng ở bến Đầm, đơn vị ở cố định trên rừng có nhiệm vụ đào hầm và làm 5 thuyền đề phòng bất trắc. Thuyền bằng gỗ, song, bọc vải, sơn trám, mát tít, hắc ín... Kíp làm rừng có 28 lính Âu - Phi canh gác, vũ khí đủ, khoẻ mạnh, do chánh quản Bốt-đờ- sun chỉ huy. Phía ta do đồng chí Phan Ru, Thường vụ Đảo uỷ làm chỉ huy trưởng, đồng chí Hoàng Tiễn làm phó chỉ huy trưởng. Đồng chí Tô Lương phụ trách dạy võ để bắt sống toàn bộ 28 tên lính ở đây, tước súng để đánh về thị trấn (Ba đồng chí Phan Ru, Hoàng Tiến và Tô Lương còn sống ở Hưng yên và Hà Nội).

2/ Kíp làm đường sáng đi tối về do đồng chí Phạm Quý Tuyển, Đảo uỷ viên làm chỉ huy trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Đồng làm chỉ huy phó. Khi có lệnh phát hoả ở kíp làm rừng do đồng chí Phan Ru chỉ huy thì kíp làm đường bắt sống 7 tên lính da đen đi coi tù, chiếm ô tô, cùng với kíp làm rừng đánh về thị trấn (đồng chí Tuyển nay ở thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Đồng ở Thái nguyên).

Trong kíp làm đường có đồng chí Hiến (Văn Hiến) tỉnh uỷ viên Hải Dương làm Bí thư Đảo uỷ, đồng chí Lê Mai phó bí thư huyện uỷ Kiến Thuỵ, Kiến An là thường vụ đảo uỷ, đồng chí Tụng- Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện Tứ Kì là Đảo uỷ viên, đồng chí Hòai Đĩnh- Huyện đội Trưởng huyện đội Thanh Hà, Đảo uỷ viên, là bộ chỉ huy chung cho hai kíp làm đường và làm rừng, chỉ đạo đánh về thị trấn.

22. Sự phân công khá tỉ mỉ, chi tiết. Mọi việc chuẩn bị chu đáo, đặc biệt là chuẩn bị tinh thần chiến đấu cho từng đảng viên, từng quần chúng trung kiên trên toàn Đảo. Những phương án tác chiến đến những tình huống bất trắc có thể xảy ra đều được Đảo uỷ bàn rất kĩ. Nhất là công tác địch vận và chính sách tù binh được suy đi tính lại rất thận trọng, sao cho không để xảy ra những sai sót đáng tiếc.

Vì nếu ta căm phẫn giết một tên tù binh, chúng sẽ có cớ trả thù, vừa sai với đường lối nhân đạo của ta. Nhưng với tên chúa đảo Jacty đại gian ác thì sao? Và có bắt viên quan tư thầy thuốc Rozière, người có cảm tình với ta, đi theo để chữa cho anh em mình trên đoạn đường sóng gió không? Rốt cục Đảo uỷ quyết định không đưa ông thầy thuốc đi theo vì ông ta đã già lại thêm bà vợ cũng già. Còn với Jacty cũng tha cho y, chỉ cảnh cáo sâu sắc, để y không được trả thù những người bị bắt lại, hoặc chậm chân không kịp vượt đảo v.v...

Một nhận định tối quan trọng cuối cùng là: Phải đánh chiếm được toàn đảo thì cuộc vượt ngục mới thành công. Vì số thuyền ta chuẩn bị bằng các thứ nguyên liệu tạp nham, không đủ tiêu chuẩn để đi nhiều giờ trên biển khơi, sóng dữ. Nếu bất đắc dĩ phải dùng thì chỉ đi ít người trong điều kiện có gió chướng.

23. Tâm trạng chúng tôi khi ấy thật khó tả. Lúc là sự nôn nóng chờ đợi của những đứa con xa nhà, sống giữa lao tù đày ải của bọn giặc cướp nước, lúc lại xiết bao vui sướng nghĩ đến việc tự mình giải phòng cho mình để trở về với Tổ quốc, với gia đình xa cách nhớ thương... Có thể nói những ước mơ khao khát của hơn hai nghìn con tim như hâm nóng hòn đảo giữa biển khơi trùng dương sóng vỗ, nơi chỉ có tường đá với sàn xi măng lạnh ngắt, cơm hẩm với cá khô thối, coócvê và roi vọt.

Ngày 12-12-1952 đã đến và nổ ra cuộc vượt đảo có một không hai, dưới sự lãnh đạo của Đảo uỷ Côn Đảo. Do sơ suất của kíp làm đường để sổng một tên lính da đen, lại gặp thời tiết không thuận, thiếu gió chướng, nên các đồng chí chỉ huy ở kíp làm rừng và làm đường phải thay đổi phương án, không đánh về cướp toàn đảo mà tổ chức vượt cục bộ bằng 5 thuyền. Ta đã bắt sống hơn một trung đội lính Âu - Phi mạnh nhất đảo (toàn đảo có một đại đội) tước toàn bộ vũ khí. Khi vượt đảo không thành, anh em đã vứt toàn bộ số vũ khí thu được xuống biển. Hai thuyền bị bắt lại, ba thuyền bị đắm, 81 đồng chí hy sinh.

Sau sự kiện này, địch đã buộc phải tăng cường viện binh giữ đảo. Một trung đoàn thủy quân lục chiến và nhiều tàu chiến, canh tuần suốt ngày đêm chung quanh đảo. Trong khi đó chiến trường Đông Dương rất thiếu quân, đặc biệt là chiến trường Bắc Bộ và Thượng Lào, địch thiếu quân nghiêm trọng. Như vậy là chiến trường Côn Đảo đã chia lửa với chiến trường toàn quốc, góp phần vào chiến thắng chung. Mặt khác, sau một thời gian khủng bố ác liệt những người tù còn lại trên đảo, địch buộc phải thực hiện một phần công ước Genève về tù binh.

24. Cuộc vượt Đảo không thành công, 117 anh em bị bắt lại, 81 người hy sinh. Những người bị bắt lại, chúng giam giữ riêng và đánh đập rất dã man. Số anh em không ở kíp làm rừng và làm đường còn ở lại trong trại, do giữ được bí mật nên địch không biết rõ có tham gia cuộc vượt đảo hay không, chúng thực hiện chính sách khủng bố đồng loạt, khoá tất cả các khám, bỏ đói 3 ngày, sau đó chỉ cho ăn cơm với muối, không cho đi lấy nước sạch về nấu cơm, hàng ngày xua lính lê dương vào khám xét đánh đập

Đảo uỷ lúc này hầu hết đã hy sinh, trong đó có đồng chí Văn Hiến (tức Văn) Bí thư Đảo uỷ.
Banh III tù binh còn tôi và đồng chí Lê Đình Thụ. Bên Banh I và Banh II còn đồng chí Nguyễn Đình Thâu.

25. Tôi và anh Thụ cùng đồng chí Nghĩa, Bí thư liên chi đảng bộ Banh III, đặt văn phòng Đảo uỷ và bộ máy chỉ huy toàn đảo tại ngay Banh III. Địch khủng bố gắt gao hơn. Số anh em bị chết nhiều đã làm nảy sinh những biểu hiện hoang mang dao động ở một bộ phận đảng viên và quần chúng. Chúng tôi đã trao đổi, phân tích những nguyên nhân không thành công của cuộc vượt ngục, nhận xét âm mưu của địch và đề ra kế hoạch đối phó của ta. Xác định rõ chủ trương đấu tranh cướp đảo, giải phóng toàn thể tù nhân là đúng đắn, chỉ đạo bộ phận y tế và cấp dưỡng liên lạc chặt chẽ với anh em bị bắt lại, giữ vững tinh thần anh em; cứu chữa những đồng chí bị thương, bị bệnh tật do phải sống trong rừng hàng tuần...

Khi địch tra hỏi về kế hoạch vượt đảo thì phải nhân dịp này vạch trần chế độ lao tù hà khắc của địch, buộc những người tù phải tìm cách tự giải thoát, lên án chúng không thực hiện Công ước Genève về tù binh. Còn về tham gia cuộc vượt ngục này, chỉ khai có 2 kíp tù binh đi làm rừng và làm đường mà thôi, những người chỉ huy đều đã hy sinh rồi.

Sau hơn một tháng lấy khẩu cung 117 người bị bắt lại, địch không khai thác được gì, phải chuyển số anh em này về Sài Gòn, để chuẩn bị đưa ra tòa án binh của chúng xét xử.

Chúng tôi đã báo cáo về Đặc Khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn, nhờ luật sự Nguyễn Hữu Thọ cãi giúp. Luật sự nhận lời và đã nhiều lần vào khám Chí Hòa thăm anh em, lấy chứng cứ cãi trước tòa. Cuối cùng chúng không xử được và khi có Hiệp định dình chiến ở Genève, tất cả anh em được trao trả theo Hiệp định đã kí.

26. Quá trình đấu tranh gian khổ, tôi bị tra tấn ác liệt, bị đánh gẫy một xương sườn số 9 bên trái. Vết thương làm cho lá phổi bên trái chảy nước vàng suốt ngày đêm, hôi thối không thể tưởng tượng được. Lại thêm sốt rét liên miên. Tôi ngỡ như cái chết đã đến gần. Địch bỏ tôi vào nhà xác trong tình trạng mê man không biết gì, chỉ còn thở thoi thóp. Chúng chuẩn bị đem chôn thì nhóm y tế do liên đoàn tù nhân Côn Đảo cử ra như các anh Trần Huy Bích, Phòng... phát hiện là tôi chưa chết. Anh em đấu tranh đòi đưa tôi về Banh III ở với anh em và đùm bọc cứu chữa với tình thân thương xót. Mọi người đã dành cho tôi những thức ăn quý nhất lúc đó ở đảo như sữa, đường để bồi dưỡng.

Tôi càng cảm động trước những hồi ức của các đồng chí sau này về thời kì đó:

27.- Trích lời phát biểu của đồng chí Vũ Quang Đạo - Đại tá, nguyên Trưởng ban Thi đua toàn quân ở cuộc họp ngày 26-2-1993 do Ban Bí thư Trung ương Đảng triệu tập. “Tôi biết rõ đồng chí Thành hồi ấy cách đây 40 năm, tôi còn trẻ và đồng chí Thành cũng rất trẻ. Đã bị tù đày ở Côn Đảo thì người nào cũng gầy còm, nhưng thân hình đồng chí Thành thì rất thương tâm mặc bộ quần áo tù rộng thùng thình, hai tay và hai chân như hai que củi khô, gầy guộc, phổi thì chảy nước, nhưng ánh mắt thì yêu đời. Đồng chí Thành đã tham gia hoạch định kế hoạch táo bạo vũ trang cướp đảo giải phóng tù nhân cùng với anh Văn (Văn Hiến) và anh Thụ (Vũ Hồng)”.

- Trích hồi kí của Bác sĩ Trần Huy Bích, Phó Giám đốc Sở y tế Hải Phòng. “Sau khi cho anh em khám bệnh, lĩnh thuộc, tôi đến thăm anh Duy. Anh là Bí thư Quận uỷ, bị bắt đày ra Côn Đảo, bị tra tấn rất dã man. Đòn thù làm nát lá phổi bên trái. Anh bị viêm màng phổi mủ, một lỗ rò ở ngực, không kín miệng, nước vàng lẫn máu, mủ cứ rỉ ra. Tôi ngồi bên giường hỏi anh tình hình chạy chữa và kể cho anh nghe cuộc đấu tranh xây dựng chính quyền của chúng ta trong nhà lao. Anh mỉm cười, mắt rung rinh, lấp lánh. Nhưng giọng của anh sao mà mong manh thế. Tôi vội hỏi:
- Sức khoẻ của anh có khá hơn không?
- Kém đi, không ăn được...
Cố sức trả lời tôi cơn ho ựa lên ngực, anh nghiêng người khạc đờm, đồng thời nước vàng từ lỗ rò bắn vọt ra.

Ngày mai tôi sẽ chất vấn viên quan ba thầy thuốc Leproux về cách điều trị bệnh của anh. Hôm sau trở lại, tôi sửng sốt vô cùng thấy chỗ nằm của anh bỏ trống, chiếu cuộn sạch trơn. Tôi hốt hoảng hỏi người nằm cạnh.
- Chúng đưa đồng chí Duy đi đâu?
- Nhà xác
- Trời!
Hai bàn tay tôi rủ xuồng. Cuốn sổ trên tay rơi giữa sàn nhà. Thế là chúng cố tình thủ tiêu đồng chí Duy!

28. Tuy mới gặp một lần song những câu chuyện về anh các đồng chí trong lao đã kể, để lại trong tôi những ấn tượng không thể phai mờ. Đảng bộ đã giao cho tôi trách nhiệm phải tìm cách đưa anh về nhà lao để săn sóc. Vậy mà! Tôi chạy vào khu nhà xác. Tôi mở tấm vải che mặt anh khẽ gọi:

-Anh Duy! Anh Duy!
Tôi nhấc tấm ga buông xuống thành giường.
Anh mở mắt nhìn tôi rồi lại nhắm.

Có phải anh còn sống hay tôi đang tưởng tượng? Tôi ghé sát tai trên lồng ngực anh. Tiếng trái tim thoi thóp. Tôi reo thầm. “Anh còn sống, phải làm cho ra nhẽ”. Tôi chạy về nhà thương tìm viên thầy thuốc.
- Ông Leproux!
Leproux hất hàm nhìn tôi, môi dẩu như thách thức.
- Ông Le Proux!
- Cái gì?
- Ông dám kí lệnh đưa một người còn sống xuống nhà xác! Ông không sợ tòa án nước Pháp chân chính buộc ông vào tội giết người vô lương tâm như thế à?
- Cái gì?
- Ông làm việc theo lệnh ai?
- Lương tâm người thầy thuốc hay chỉ thị của bọn chúa đảo? Chúng mượn tay ông để giết người vô tội.
- Vô lí! Duy đã chết từ 16 giờ chiều hôm qua.
- Bây giờ tỉnh lại rồi.
Buộc lòng Le Proux phải theo tôi xuông nhà xác. Lúc này anh Duy dã tỉnh hơn. Vừa lúc Le Proux đến Duy phều phào:
-Nước, nước!
Le Proux đứng lặng, cúi đầu xuống người bệnh. Có lẽ hắn ta đang suy nghĩ. Cần phải gõ vào lương tâm và danh dự người thày thuốc. Tôi thuyết phục hắn. Một lúc sau, hắn nói với tôi, giọng trầm trầm.
-Anh đưa ông ta về nhà lao.
Bọn chúa ngục không thủ tiêu nổi đồng chí Duy bằng cách dê hèn đó!

29. Chúng đưa anh về chuồng cọp lao, cách ly hẳn anh, anh Thu và chúng tôi. Tôi đòi sang săn sóc anh, vừa làm liên lạc nối hai anh với tập thể. (anh Năm Thi và anh Duy). Bọn cai ngục kiểm soát tôi rất nghiêm ngặt. Mỗi lẩn qua gặp anh Duy, nó bắt tôi cởi truồng, hai tay nâng khay men ngang mặt, trên đó chỉ được để ít bông, băng và một lọ thuốc đỏ.

Những hôm trời lạnh, anh Duy ôm ngực “ừ hự, ừ hự” mấy cái, máu mủ lại rỉ ra. Tôi lau vết thương cho anh, lòng buốt như gai nhọn đâm nhót thấu tim. Qua cơn đau anh lại nói chuyện vui và lấy hòn gạch non viết trên sàn xi măng. Anh học văn hoá, học ngoại ngữ... Ở anh, một con người lạc quan hồn nhiên, tưởng chừng như thần chết có đến cửa cũng phải vác lưỡi hái và túi vô đáy bỏ đi nơi khác.

Những ngày đầu, công việc được nhắn qua trí nhớ của tôi, nhưng về sau, tôi đã tìm được cách chuyển công văn qua lại giữa đảng uỷ với hai anh. Tôi còn nhớ hồi còn bé, lên cơn sốt, bà nội tôi mua một thứ bột gì cho tôi uống, mua ở Chợ Bằng mà sao đắng thế! Bà tôi phải lấy giấy túm tròn lại cho tôi nuố. Một mảnh giấy nuốt vào người có gì là độc hại! Tôi liền nghĩ cách cuốn tròn công văn của đảng qua lớp giấy bóng kính để nước bọt không thấm nước. Nếu bọn cai ngục bắt tôi há mồm, tôi sẽ nuốt ngay vào bụng. Với cách đó tôi đã chuyển công văn của đảng đến các anh và đem lại ý kiên nhận định của hai anh gửi về đảo uỷ được đều đặn.

Đảo uỷ lại đấu tranh đòi thả hai anh về với tập thể. Bọn cai ngục không có cách gì giữ các anh ở chuồng cọp lâu như thế, đành phải nhượng bộ.

30. Đưa được anh Duy về rồi, đảo uỷ liền giao cho tôi nhiệm vụ phải cứu sống anh, để làm bằng chứng về tội ác của bọn chúa đảo, vừa phần để uy hiếp tinh thần tên quan ba thầy thuốc rồi sau này chúng ta buộc Leproux phải chữa chạy cho anh em tù đúng chế độ của nhà thương, mặc dù cái chế độ ấy cũng rất tồi tệ.

Nhưng lấy đâu ra chất bổ đê bồi dưỡng cho anh Duy? Giữa nơi bốn bức tường đá ngăn cách. Tôi bèn nghĩ đến một nguồn thực phẩm ở đây, nhưng mới nghĩ đến tôi đã rùng mình. Đó là thịt cóc ở Côn Đảo. Con cóc bé nhất cũng phải bằng cái bát ăn cơm. Trên lưng xù xì của nó, lấp lánh những hạt xanh biếc, trông rất huyền bí. Tôi rất sợ cóc. Nhưng mà các cụ vẫn nói thịt cóc bổ lắm! Thế là tôi dẫm chân lên lưng con cóc, đưa dao xẻo hai cái đùi rồi nhắm mắt đá hất nó đi. Tôi lấy hai cái đùi đó nấu cho anh Duy bát cháo.

Tôi không cho anh biết cháo nấu với thịt gì, cứ lặng lẽ đưa cho anh.
-Cố ăn lấy sức.
Anh Duy đưa bát cháo lên miệng, tợp tợp vài miệng, gật gù.
-Ừ ngon.
Ngồi chờ anh ăn hết bát cháo, mồ hôi lấm tấm trên trán anh, mồ hôi lấm tấm trên cả trán tôi. Chắc có ai nhìn tôi lúc này, sẽ thấy trên khuôn mặt hiện lên vẻ hân hoan như cậu học trò được nhận phần thưởng.
- Ngày mai tôi lại nấu cho anh ăn nhé.
- Ừ, ngon lắm!
Những ngày nắng ấm, tôi đưa anh ra ngồi ngoài sân. Anh nheo mắt nhìn bầu trời ôm vai tôi.

-Đến ngày độc lập, Bích về quê mình chơi. Quê mình có dòng sông Lai Vu. Chúng mình sẽ đi thuyền lên đền Kiếp Bạc viếng Trần Hưng Đạo, sang Côn Sơn thăm nơi ẩn dật của cụ Nguyễn Trãi ngày xưa...

Nghe anh nói say sưa bao nhiêu, lòng tôi càng buồn bấy nhiêu! Vết rò không lành, mỗi cơn ho, nước vàng vẫn vọt ra. Liệu anh còn chông chọi với bệnh tật được bao lâu nữa? Ý nghĩ ấy cử dày vò tôi, thôi thúc động viên tôi phải chăm sóc sức khoẻ, sao cho anh sống trở về dòng sông Lai Vu, đưa anh về thăm đền Kiếp Bạc thờ Trần Hưng Đạo, thăm Côn Sơn của Nguyễn Trãi...”.

***

31. Bệnh tôi không khỏi. Anh em đấu tranh buộc địch đưa tôi về nhà thương Chợ Quán- Sài Gòn để chữa. Hơn nửa tháng ở đó, tôi đã liên lạc được với cơ sở cách mạng ở nội thành do anh Lê Đình Thụ, Thành uỷ viên Sài Gòn- Gia Định cùng tù với tôi giới thiệu. Tôi chuẩn bị vượt ngục thì bị bắt lại, địch tống tôi đến Căng Phú Lâm (Sài Gòn). Mặc dù sức yếu, bị địch theo dõi, tôi vẫn liên lạc được với anh em tích cực ở đây.

Căng Phú Lâm có gần 300 tù nhân, nhưng không có chi bộ, đấu tranh lẻ tẻ, không có lãnh đạo, nội bộ anh em không đoàn kết, cãi lộn nhau, tranh nhau nơi nằm ngủ, khi ăn uống... để kẻ địch khinh thường. Mặt khác, trong căng cũng có một số tên phản động, tay sai của địch, do bị địch nghi ngờ cho vào tù ở lẫn với chúng tôi. Bọn này muốn “đới tội lập công” tìm cách báo cáo với địch về sự hoạt động của ta. Qua tìm hiểu, gặp một số đồng chí cũng ở Côn Đảo về đây như Tặng, Tiến... tôi được biết anh Khánh là chính trị viên đại đội, đảng viên người miền Bắc nên chúng tôi trao đối về kế hoạch để xây dựng chi bộ.

32. Căng Phú Lâm không có đại diện do tù nhân cử ra, địch chỉ định đại diện là ông Từ Việt Anh. Theo ông kể, ông là thành viên trong phái đoàn kinh tế Nam Bộ bị địch bắt, ông thường xưng với anh em tù bằng “ba”, anh 56 em cũng thường gọi ông bằng “ba”. Tôi nói chuyện với ông vài lần, thấy ông không có chính kiến chính trị, thích được tâng bốc, lại được tên sếp căng cho bán foyer (bán thức ăn vặt cho tù nhân) ông nói chuyện với tây bằng tiếng Pháp, thái độ bình thường, không khúm núm. Tôi cũng có đôi chút cảm tình với ông.

Tôi trao đổi với anh Khánh về việc xây dựng chi bộ Đảng. Không rõ anh Khánh đã bàn với những ai, nhưng ít ngày sau đồng chí Tặng kể với tôi, ông Từ Việt Anh tỏ ý không tán thành việc xây dựng chi bộ Đảng ở đây. Tôi biết cách làm của anh Khánh bị lộ vì quá tin vào ông Từ Việt Anh. Tôi phải lờ đi không bàn thêm gì với anh Khánh nữa. Khi tôi gặp một số anh em ở các tỉnh Nam Bộ bị bắt vào, qua tìm hiểu thái độ, tôi nói về tình hình kháng chiến ở miền Bắc, về Bác Hồ làm cho anh em nhận thức đúng về sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để anh em tăng cường tình đoàn kết gắn bó, củng cố lực lượng tù nhân, đấu tranh kiên quyết với địch, cải thiện sinh hoạt. (đồng chí Tặng là Phó Ban tổ chức chính quyền tỉnh Hải Hưng, nay đã về hưu ở Hưng Yên).

33. Rất vui là sau ngày giải phóng miền Bắc, ông Từ Việt Anh tập kết ra Bắc, về Bộ Văn hoá và được cử về Sở Văn hoá Hải Phòng làm cán bộ cải tạo. Ông Từ Việt Anh đến thăm tôi tại cơ quan, kể lại câu chuyện cũ cùng tù ở căng Phú Lâm- Sài Gòn. Gặp lại nhau rất mừng. Sau đó ông còn đến thăm tôi vài lần nữa.

Có lần ông bày tỏ nguyện vọng muốn gia nhập Đảng. Tôi động viên ông học tập, công tác rèn luyện để trở thành đảng viên tốt. Có lần ông ngập ngừng muốn đề nghị tôi gì đó. Tôi đoán là ông muốn xin giấy chứng thực của tôi khi cùng tù ở Phú Lâm, nhưng ngại ngùng chuyện cũ nên không nói ra... Về sau, ông lại về Bộ Văn hoá và nghỉ hưu ở Thành phố Hồ Chí Minh. Năm nay nếu còn, có lẽ ông đã tám, chín mươi tuổi. Lâu nay tôi không được tin về ông.

Khoảng tháng 3-1953, mặc dù bệnh tôi không khỏi, nước vàng trong phổi hàng ngày vẫn rỉ ra, mỗi ngày phải thay băng 2 lần, điều kiện trong tù thiếu thốn bông băng, các bạn tù vẫn tận tình chăm sóc tôi, trong đó có đồng chí Võ Tá Lâm (cháu nội cụ Võ Tánh), đại đội trưởng pháo binh Trung đoàn 100 Bình Trị Thiên, một đảng viên xuất thân gia đình quý tộc ở Huế. Đồng chí Lâm luôn luôn thể hiện là một chiến sĩ cộng sản gương mẫu, tận tuỵ với công việc của Đảng, khiêm tốn...


Thật tình cờ, khi tôi được chuyển về Sài Gòn chữa bệnh thì đồng chí Võ Tá Lâm cùng một số sĩ quan quân đội ta bị bắt được chuyển từ Côn Đảo về căng Hanh Thông Tây. Đến khi tôi bị trả lại Côn Đảo, địch lại chuyển một số sĩ quan từ Hanh Thông Tây ra Côn Đảo. Lúc lên tàu tôi lại gặp đồng chí Võ Tá Lâm.

34. Đến Côn Đảo lần thứ hai, bệnh tôi trầm trọng thêm. Tôi báo cáo với Đảo uỷ về chuyến đi chữa bệnh và công việc làm của tôi ở nhà thương Chợ Quán và căng Phú Lâm. Các đồng chí động viên tôi dù hoàn cảnh nào cũng phải cố gắng để sớm trở về đất liền, tiếp tục tham gia cuộc chiến đấu. Đảo uỷ giao cho bộ phận y tế, lập danh sách cho tôi đi khám bệnh và tố cáo bọn thầy thuốc Pháp ở Sài Gòn thiếu trách nhiệm, bệnh không khỏi, không chữa tiếp, cũng không đề xuất thả về, trong khi phía ta đã trao trả hàng trăm thương binh Pháp và nguỵ ở chiến dịch biên giới Bắc Bộ.

Khi tôi đến khám bệnh lại, tên quan ba thầy thuốc Le Proux hỏi tôi: “Tại sao Sài Gòn chữa không khỏi mà không thả”. Tôi trả lời ngay: “Các ông ở nhà tù Côn Đảo không đề nghị thả tôi, nên họ không thả”. Mấy đồng chí y tế của ta đứng đó nói luôn về hành động nhân đạo của ta đối với tù binh, bệnh binh Pháp, thực hiện công ước Genève về tù binh. Tên Le Proux bí quá, đỏ mặt không nói gì. Suy nghĩ một lúc y ghi vào sổ khám bệnh: Repos définitifjuspu’à libération (nghỉ lao động đến ngày được tự do). Sau đó, anh em tù tiếp tục đấu tranh đòi địch thả một số tù nhân bị ốm nặng, trong đó có tôi và ông Bùi Văn Phái (nay đã hơn 100 tuổi còn sống tại Hải Phòng, cùng về với tôi một chuyến).

Lúc này, địch lo lắng củng cố phòng vệ Côn Đảo kỹ hơn, đồng thời chuyển một số sĩ quan của ta mà địch bắt được như các đồng chí Năm Thi, Hồng Vũ... ra Côn Đảo để làm “giảm áp lực” cho trại Hanh Thông Tây. Chúng rất sợ nếu chiến tranh đến gần Sài Gòn sẽ có cuộc phá nhà tù do các sĩ quan này chỉ huy.

Như vậy lực lượng lãnh đạo ở Côn Đảo được tăng cường.

35.Đảo uỷ lâm thời sau cuộc vượt đảo 12-12- 1952 cùng số cán bộ lãnh đạo quân sự mới ra, xây dựng phương án tổ chức đại hội Đảng để bầu Đảo uỷ chính thức. Tôi tuy bị ốm nặng, vẫn tham gia công tác chuẩn bị cho đại hội Đảng. Đến tháng 8-1953, anh em ta làm ở bàn giấy của tên quan Tư Pháp chúa đảo, báo cho Đảo uỷ biết là tôi đã có giấy được thả, do tên Tư lệnh Pháp ở Nam Bộ kí. Các đồng chí Đảo uỷ bàn với tôi tranh thủ nắm tình hình nhà tù để về báo cáo với Trung ương cục miền Nam và Trung ương Đảng. Hàng ngày, ngoài công việc tham gia vào các kế hoạch chuẩn bị đại hội, tôi cùng với các đồng chí Năm Thi, Hồng Vũ, Lê Đình Thụ, Nguyễn Văn Nghĩa trao đổi về nội dung báo cáo của tôi với đất liền.

Tuy tôi có giấy được thả, nhưng bọn thống trị ở Côn Đảo không chịu thực hiện, mặc dù đã có nhiều chuyến tàu ra đảo quay trở lại Sài Gòn. Anh em lại phải đấu tranh quyết liệt với tên chúa đảo. Nhân chuyến Hội hồng Thập tự Quốc tế đến kiểm tra, đồng chí đại diện tù nhân tố cáo trực tiếp với viên quan Năm (người Thuỵ Sĩ, cụt một tay) và tên quan Tư thanh tra tù binh Đông Dương của Pháp. Bí quá họ phải đưa tôi và ông Bùi Văn Phái đi chuyến tàu với họ về Sài Gòn.

Họ đưa chúng tôi về gửi tại căng Phú Lâm, nói đợi có tàu ra Bắc sẽ đưa trả về quê quán.

36. Tôi biết đây là âm mưu của địch trì hoãn việc thả chúng tôi. Mặt khác, tôi còn có nhiệm vụ Đảo uỷ giao phó là tìm cách về Sài Gòn báo cáo với Đặc khu uỷ Sài Gòn- Gia Định, để các đồng chí báo cáo về Trung ương Cục miền Nam. Tôi liền biên thư nhắn tin bà Năm (tức bà Nguyễn Thị Phương Lan, chị ruột bà Phương Hoa là vợ ông Tấn) vào nhận với tên sếp căng tôi là cháu, xin về ở với gia đình. Tên sệp càng đồng ý.

Tôi về số 7 phố Lefebvre (Nguyễn Công Trứ hiện nay) rồi sang xóm Chiếu ở với bà Năm. Bắt liên lạc được với đồng chí Đặc khu uỷ, tôi đến báo cáo với các đồng chí ba buổi chiều liền, ở ba nơi khác nhau, nội dung như bản báo cáo của tôi gửi về Thành uỷ Hải Phòng, Khu uỷ Tả Ngạn và Trung ương Đảng, nay còn được lưu trữ tại Cục lưu trữ 58 Trung ương. (báo cáo này đã được Ban Bí thư Trung ương Đảng và Cục trưởng cục Lưu trữ cho phép tôi photocopy và in thành nhiều bản gửi một số đồng chí đọc và nghiên cứu về tình hình đấu tranh, xây dựng Đảng trong nhà tù. Báo cáo này tôi viết xong ngày 9-12-1953 tại nhà chú Siêu, thôn Đồn Xá, huyện Quỳnh Côi, Thái Bình).

Tháng 11-1953 tôi về huyện Quỳnh Côi, Thái Bình báo cáo với Thành uỷ Hải Phòng. Viết xong báo cáo chung của Đảo uỷ giao cho với Trung ương Đảng và báo cáo riêng cá nhân kiểm điểm khi bị bắt bị tù, tôi được phép của Thành uỷ Hải Phòng về ăn tết với gia đình ở khu du kích Thanh Hà, Hải Dương. Đầu năm 1954, tôi đi chỉnh quân do Khu uỷ Tả Ngạn tổ chức. Kết thúc chỉnh huấn, tôi được cử vào Hải Phòng để tuyên truyền cho Hội nghị Genève bắt đầu khai mạc 7-5-1954. Hoạt động vào sâu trong lòng địch, nước vàng từ phổi bên sườn trái vẫn rỉ ra, các đồng chí Nghĩa, Chính... hàng ngày vẫn băng bó cho tôi.

Có hôm bị địch bao vây ở thôn Xích Thổ, huyện An Dương, tôi phải chui hầm nước suốt ngày, đỉa bám vào cả bên vết thương.

37. Ngẫm nghĩ lại 26 tháng bị giam đày ở các nhà tù đế quốc, tôi như thấy đã trải qua một chặng đường dài ghê gớm, đúng như câu: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Khi thả tôi ra, địch dự đoán tôi không còn sống quá 2 năm, bởi ba lí do:

1. Phổi đã thành lỗ rò thì không liền được.
2. Có liền được thì dính vào xương sườn chỉ sau một trận ho, phổi rách mà chết.
3. Dễ nhiễm vi trùng lao (BK) rồi chết.

Các bác sĩ ta, Tây đều lấy làm lạ là phổi tôi đã lành, chỉ vôi hoá hai bên, hai bên gần giống nhau (trừ vết thương), sức thở của phổi trở lại bình thường. Các bác sĩ Đức, Tiệp, Nga đều nói đây là trường hợp rất hiếm gặp.



CHƯƠNG V


Ra tù và tiếp tục hoạt động cách mạng



1. Ngày 27-10-1953 tôi từ Côn Đảo về Sài Gòn cùng với ông Bùi Văn Phái hơn 60 tuổi, bằng tàu của Hồng Thập tự Quốc tế.

Do chuyến đi chữa bệnh ở nhà thương Chợ Quán tháng 2-1953, tôi đã liên hệ được với cơ sở ta ở Sài Gòn, tôi nhắn tin bà Nguyễn Thị Năm là cơ sở cách mạng đã từng nuôi đồng chí Phan Bôi (Hoàng Hữu Nam) nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ năm 1946- 1947, đến Căng Phú Lâm đón tôi và ông Bùi Văn Phái về.

Ông già Phái người quê ở Hành Thiện, Nam Định, ông ở lại nhà bà Năm ít ngày thì được ông Nguyễn Thế Truyền, người cùng quê, làm chủ bút báo Thần Chung ở Sài Gòn đón về nhà. Ông Phái giới thiệu tôi với ông Truyền. Ông Truyền cho con trai mời tôi đến toà báo để phỏng vấn, tôi từ chối.

Sau đó ông Truyền có viết một bài trên báo Thần Chung, giới thiệu ông Bùi Văn Phái là đại tá quân đội của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và nhắc tên tôi là Duy cùng về chuyến với ông Phái - đăng ở trang nhất báo Thần Chung với cái “tít” rất to “Quân tử cố cùng” ca ngợi sự dũng cảm của những người tù chính trị Côn Đảo. Tờ báo này bà Năm có gửi ra cho tôi, tôi đã chuyển đến đồng chí Hoàng Mậu- Bí thư Thành uỷ và các đồng chí uỷ viên Thường vụ Thành uỷ Hải Phòng lúc đó xem. Sau khi tôi báo cáo xong với Đặc khu uỷ Sài Gòn-Chợ Lớn (thay mặt cho Trung ương cục Miền Nam), được đặc khu uỷ Sài Gòn bố trí cho về Bắc bằng máy bay dân dụng.

2. Khoảng 20-11-1953 tôi ra đến Khu căn cứ của Thành uỷ Hải Phòng ở huyện Quỳnh Côi, Thái Bình, được Văn phòng Thành uỷ thu xếp cho ở tại nhà chú Siêu thôn Đồn Xá, Quỳnh Côi. Còn Văn phòng Thành uỷ ở thôn An Phú cách chỗ tôi ở khoảng 1 km. Đón tôi tại trạm giao thông của Thành uỷ tại Quỳnh Côi có đồng chí Vũ Kính, Chánh Văn phòng Thành uỷ, nguyên là uỷ viên Thường vụ quận Ngô Quyền; đồng chí Bảo tức Nhạn, cán bộ Ti giao thông Hải Phòng. Gặp lại các đồng chí cũ rất vui. Hai đồng chí Kính và Bảo hiện nay còn sống ở Hải Phòng.

Hôm sau các đồng chí Hoàng Mậu và Tô Duy, Vũ Kính đến thăm tôi tại nhà chú Siêu, hỏi thăm qua loa tình hình sức khoẻ, chuyến đi từ Côn Đảo về Sài Gòn và từ Sài Gòn ra Bắc. Đồng chí Hoàng Mậu nói: “Tớ đã biết cậu được tha ra Sài Gòn lâu rồi, Trung ương cục Miền Nam đã báo cho biết...”. Chính vì thế tôi cũng bớt được nhiều hình thức phiền toái khi cuộc cải cách ruộng đất đang thời kì quyết liệt Một vài anh em được tha, hoặc vượt ngục ra trước tôi đều phải ở rất xa Thành uỷ. Chỉ có mình tôi được ở gần cơ quan Thành uỷ.

Sau khoảng một tuần nghỉ ngơi cho lại sức, tôi bước vào giai đoạn thẩm tra việc bị bắt, bị tù... Thành uỷ lập riêng một tổ thẩm tra do đồng chí Hoàng Mậu, Khu uỷ viên Khu uỷ Tả Ngạn, Bí thư Thành uỷ Hải Phòng làm tổ trưởng (cựu tù chính trị Côn Đảo thời kì 1930-1936); đồng chí Lê Thành Dương, Phó ban Tổ chức Thành uỷ và đồng chí Đào Luyện, Trưởng phòng chính trị Ti Công an làm uỷ viên.


Trong hơn hai tháng thẩm tra, tôi chỉ ở nhà chú Siêu thôn Đồn Xá, trừ 3 ngày phải di chuyển sang Hải Dương vì có tin địch tấn công vào Thái Bình phải tạm lánh sang huyện Ninh Giang, Hải Dương. Khi về qua sông Luộc, đò quá đông. Trong đoàn chúng tôi có 2 đồng chí là Nguyễn Văn Quyết và Vân (Vân Phễu) không biết bơi.


3. Thuyền sắp đắm, kêu gọi người biết bơi nhảy xuống. Tôi yên trí là mình bơi giỏi, quên là mình đang ốm, nên đã nhảy xuống bơi trước. Bơi gần vào bờ bị dòng xoáy cuốn, không thể bơi vào được. Nhờ đồng chí Đoàn (Đoàn đen) bơi vào trước, may lại thấy cây chuối ở ngay bên bờ sông, đồng chí Đoàn vất cây chuối xuống cho, tôi mới bơi vào được.

Khi sắp chìm, tôi nghĩ không chết ở Côn Đảo nay về Hải Dương- Thái Bình lại chết đuối ư? Những kỉ niệm như thế này chúng tôi nhớ rất lâu. Sau này đồng chí Đoàn, đồng chí Quyết, đồng chí Vân... thường đến tôi chơi, nhắc lại chuyện này. “Nếu không có chúng tôi nhảy xuống bơi cứu thuyền khỏi đắm thì một số đồng chí và nhân dân đi chuyến đò đó sẽ chết”. Kết quả không ai việc gì, trừ tôi xuýt chết đuối. Khi lên bờ, mọi người cởi áo ra cho tôi mặc chống rét, vì lúc đó là mùa đông giá buốt.

Chiều tối hôm đó về đến Quỳnh Côi, các đồng Hoàng Mậu, Tô Duy, Lê Thành Dương, Văn Bút, Trần Đông (mới từ Bí thư Huyện uỷ Thủy Nguyên về làm Trưởng ti Công an Hải Phòng) v.v... đến thăm và chúc mừng tôi thoát chết đuối.

Trong thời gian ấy nhiều người ngoài cuộc tưởng như tôi bị giam lỏng ở nhà chú Siêu đợi thẩm tra, nên ít bè bạn đến chơi. Có một số đồng chí, bạn thân, đến nói nhỏ cho biết về tình hình cải cách ruộng đất chỉnh đốn tổ chức, đấu đá cường hào, địa chủ khắp nơi, nhất là tin Thái Nguyên đã bắn Nguyễn Thị Năm, liền khuyên tôi không nên đi đâu, không liên hệ với nhiều người. Các đồng chí còn kể cho nghe về vụ án H122 ở Hải Phòng và Hồng Quảng, bắt oan hơn 100 người, Trưởng phòng chính trị Ti Công an Hồng Quảng là An (hay đi ngựa) bị truy ép quá đã tự tử...


Rất nhiều chuyện đấu tố trong giảm tô, Cải cách ruộng đất, có nơi như ở thôn Lan, Kim - Can, Thanh Hà mới đấu tố về giảm tô đã đánh chết ngay trong đêm đó 3 người là địa chủ, cường hào (?). Không khí ngay ở Đồn Xá nơi tôi ở, thấy cũng căng thẳng. Nhà hàng xóm chú Siêu, người bà con có con bò cày, thỉnh thoảng rỗi rãi ngồi viết báo cáo mãi cũng muốn đi lao động đôi chút, tôi bảo gia chủ để tôi cày giúp. Được 2 buổi thì có cán bộ xã bảo: “Gia đình địa chủ đấy, đồng chí đừng làm như vậy, mất lập trường...”.

4. Còn tôi thì từ khi ra tù như chim “xổ lồng” vô cùng phấn khởi, vô cùng hào hứng, chỉ mong sao xong sớm việc thẩm tra để đi công tác. Việc phải trả lời gần 100 câu hỏi của Tổ thẩm tra tôi chẳng thấy có gì khó chịu cả, viết hết hàng mấy tập giấy cũng không biết mệt, chỉ mong sao được tiếp tục công tác. Ra khỏi tù tội, hưởng không khí tự do là sung sướng lắm rồi!

Tình cảm bè bạn, đồng chí, những đồng chí cũ như Hoàng Mậu, Tô Duy, Lê Thành Dương, Đào Luyện, Vũ Kính v.v... tôi cảm thấy họ vẫn niềm nở như lúc tôi chưa bị bắt. Trừ một vài người khi cùng cấp với mình thì vồn vã “bù khú”, nay thấy mình họ bắt tay hơi hờ hững, cũng không đến thăm mình. Có những anh trước là cấp dưới mình, nay tỏ ra lạnh nhạt, đúng là “Nhất tự cách trùng” tôi học lúc thiếu thời, nay mới được chứng minh bằng nghĩa thật của nó!

Tôi phải viết rất nhiều báo cáo, riêng báo cáo về nhà tù Côn Đảo. Tôi viết xong ngày 9-12-1953 đã hàng mấy chục trang, nay còn lưu trữ ở Cục Lưu trữ Trung ương Đảng. Đến gần Tết âm lịch 1953-1954, việc thẩm tra việc tôi bị bắt và bị tù đã xong.

Một hôm đồng chí Vận, bảo vệ của đồng chí Hoàng Mậu, bảo tôi đến gặp Thành uỷ. Trời mùa đông giá rét, sao lúc đó rét thế! Tôi theo đồng chí Vận sang An Phú nơi Thành uỷ ở, vừa đi vừa suy nghĩ không rõ Thành uỷ gặp có việc gì. Vì trong hơn hai tháng tôi ở nhà chú Siêu thôn Đồn Xá, thỉnh thoảng sau bữa cơm chiều hai đồng chí Hoàng Mậu và Tô Duy dắt nhau đi dạo chơi lại rẽ vào nhà tôi chơi, hỏi thăm vài câu... rồi hai đồng chí về, vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ, không thấy nhắc gì đến việc thẩm tra tôi cả. Nay có người đến tìm sang gặp Thành uỷ chắc có việc quan trọng.

Sang đến thôn An Phú thấy đồng chí Hoàng Mậu và đồng chí Tô Duy ngồi trên ổ rơm trò chuyện, tôi bước vào chào hai đồng chí. Đồng chí Hoàng Mậu cười và nói: “Trông cậu thấy khá rồi đấy, bỏ chống gậy rồi à?”. Còn đồng chí Tô Duy bắt tay tôi, mời ngồi xuống ổ rơm. Lúc đó trời rét quá, đi vội, nên cũng xúc động, tôi thở hơi mạnh. Đồng chí Tô Duy hỏi: “Cảm động à?”

5. Tôi trả lời: “Tôi cũng hơi cảm động!”. Hai đồng chí mời tôi ăn kẹo, uống nước chè tươi. Từ hôm ra tù đến hôm nay mới được Thành uỷ mời ăn kẹo “nu-ga”, đó là bữa tiệc ngọt đầu tiên. Tôi nghĩ cũng là hạnh phúc! Đồng chí Hoàng Mậu hỏi thêm một vài việc lặt vặt. Đồng chí Tô Duy nói ngay: “Anh ấy báo cáo như thế là đủ rồi”, sau đó chuyển sang nói chuyện gia đình, chuyện trong tù. Đồng chí Tô Duy hỏi tôi có gặp anh Tô Kim là anh ruột anh Tô Duy bị tù ở Căng Hanh Thông Tây không, v.v...



Các anh còn khen tôi mưu trí, dũng cảm. Việc chuyển 10 chỉ vàng, chắc đồng chí Hoàng Mậu thấy thú vị. Đồng chí lấy tay phát vào lưng tôi, nói: “Nếu nó căng lên thì đau chết!.” rồi cười ha hả rất sảng khoái. Sau đó anh Tô Duy nói: “Việc thẩm tra việc bị bắt, bị tù của anh đã xong. Sắp Tết rồi, anh về Thanh Hà để ăn Tết với gia đình, vì xa nhà đã lâu”.


Tôi thực sự vui mừng, vì nghĩ tới hình ảnh chiến trường địch ta “cài răng lược” ở đất Hải Dương, khu tự do Thanh Hà, là nơi huyện Kim Thành đóng quân, sơ tán ở đó, nay tôi lại được về Thanh Hà ăn Tết, có nghĩa sẽ được gặp vợ, anh em bạn hữu. Lâu nay nghĩ là khó có ngày gặp lại, mới xa nhau mấy năm mà kẻ mất người còn, người hi sinh đã lên con số chục! Lòng tôi bồi hồi khó tả.


6.Tôi cảm ơn Thành uỷ, cảm ơn hai đồng chí đã thông cảm đến tình cảm riêng của tôi, nhưng tôi lại lo hành trình từ Thái Bình về đến Thanh Hà, qua bao nhiêu bốt địch, qua huyện Ninh Giang, Tứ Kì, qua sông Luộc, sông Hương, sông Gia, đò Mép... qua bốt Yên, bết Thượng-cốc... phải mất 3 ngày mới về được khu tự do nhỏ bé là thôn Mạc Thủ, Thanh Hà, cũng không dễ dàng gì. Trước khi về tôi gửi 2 tấm ảnh của đồng chí Vũ Hạnh, nguyên Thành đội trưởng Hải Phòng cùng bị tù với tôi ở Côn đảo nhờ tôi chuyển giúp cho gia đình. Để tránh việc kiểm soát của địch, ảnh hưởng đến tôi, anh Hạnh viết thư bằng tiếng Pháp sau tấm ảnh, gửi về cho cụ thân sinh ra anh và vợ.

Anh Hạnh ghi: “Mon pa pa et ma Belle journée...”. Tôi nghĩ mãi không hiểu tại sao Hạnh lại ghi thế. Về đến Hải Phòng mới biết vợ anh tên là Nhật. Hoá ra tay Hạnh chơi chữ với “Tây”? “Belle journée” có nghĩa: “Ngày đẹp”, tức là Hạnh - Nhật.

Trong thời gian ở Quỳnh Côi, Thái Bình, tôi báo cáo với Thành uỷ về đề nghị của Đảo uỷ xin Thành uỷ và TƯ gửi tiếp tế cho anh em Côn Đảo. Cuộc sống ở Côn Đảo rất khó khăn, thuốc không có, địch chỉ cho tiếp tế sữa đường và các thức ăn khô. Đồng chí Hoàng Mậu, nguyên là tù chính trị Côn Đảo nên rất thông cảm với anh em. Nhưng ngân sách thành phố không có, phải báo cáo lên khu uỷ và TƯ mới có tiền để tiếp tế cho anh em tù ngoài Côn Đảo được.

7. Tôi về đến thôn Mạc Thủ, xã Liên Mặc, huyện Thanh Hà, gặp đồng chí Trần Phương (Phương xích) Thành uỷ viên, phụ trách giới công thương Hải Phòng. Lúc này đã giải tán cấp quận, nên đồng chí Phương không còn là Bí thư quận uỷ Ngô Quyền nữa. Đồng chí Phương trả lại tôi tài liệu tư trang mà khi vào nội thành hoạt động tôi đã gửi lại đồng chí Vũ Kính, uỷ viên thường vụ quận uỷ Ngô Quyền, đồng chí Kính chuyển cho đồng chí Phương trả lại tôi.

Tôi nghỉ tại Mạc Thủ và nhắn tin cho vợ tôi ra ăn tết với tôi, tại nhà một người cháu gọi tôi là chú họ, lấy chồng tại thôn Mạc Thủ. Chao ôi, bao nhiêu nhớ thương, lo âu, xa cách đã trút vào những giọt nước mắt mừng tủi của vợ tôi. Mới thấm thía rằng sự hi sinh thầm lặng của những lứa đôi cùng hoạt động cách mạng thật không sao kể xiết. Và dù sao chúng tôi cũng có được giấy phút hạnh phúc này. Còn biết bao đồng chí tôi ngoài Côn Đảo, trong các nhà tù, khát khao phấp phỏng chưa biết sống chết ra sao, bao giờ mới gặp lại vợ? Nghĩ thế mà cầm tay vợ cứ rưng rưng nước mắt...

Cơ quan đồng chí Trần Phương cũng ở gần đó, trong mấy ngày Tết những anh em quen biết lại có dịp gặp nhau hàn huyên chuyện cũ khi còn công tác ở quận, ở khu căn cứ Đèo Voi...

Ăn tết xong, trước khi trở lại Thái Bình để chuẩn bị đi chỉnh huấn, tôi bàn với nhà tôi cố gắng gom góp ít tiền gửi tiếp tế cho anh em Côn Đảo. Vợ tôi đã bán lứa lợn nái, ít thóc, mua 3 bộ đồ cắt tóc gửi cho 3 banh. Lúc đó Côn Đảo chỉ có 3 banh; banh 1 và banh 2 nhốt tù án chính trị, banh 3 nhốt tù binh (chủ yếu là ở miền Bắc chuyển vào).

Vì lúc này ở Côn Đảo không có phương tiện cắt tóc, anh em phải xin hoặc mua lưỡi dao cũ của những người Việt trông nom tù, có những người tốt họ gom các lưỡi dao cạo cho chúng tôi. Chúng tôi bẻ đôi lưỡi dao, rồi dùng đũa tre chẻ làm đôi, kẹp nửa lưỡi dao cạo (Gillete) vào giữa, vừa làm dao vừa làm kéo, phát lóc từ trên xuống, rồi cạo. Có những anh em thợ cạo giỏi như anh Thân, anh Nhường dùng dao phát tóc cũng đều như cắt bằng tông-đơ hay bằng kéo. Vợ tôi đã làm việc này rất chu đáo. Số dao kéo ấy khi được trao trả, anh Thân đã mang về được một bộ.

8. Khi nhà tôi gửi đồ tiếp tế ra Côn Đảo, được phép của Thành uỷ tôi đã viết một lá thư bằng mực hoá học cho Đảo uỷ Côn Đảo, nói tóm tắt tình hình chiến sự cả nước và chỉ thị của TƯ và Thành uỷ cho Côn Đảo. Lá thư vợ tôi viết gửi anh Vũ Hạnh với danh nghĩa là vợ tôi báo tin tôi đã đi Pháp chữa bệnh, theo ám hiệu tôi đã bàn với Đảo uỷ, trước khi ra tù, nhằm đánh lạc hướng địch.


Khi nhận được thư, các đồng chí trong đó dùng “Tanh-tuya di-ốt” bôi lên phía sau lá thư là hiện chữ. Đọc nhanh và ghi chép. Khi giấy khô chữ trong thư cũng biến hết. Lá thư này đã đến tay các đồng chí Đảo uỷ. Sau này khi còn sinh thời, vợ tôi hàng năm đến họp mặt, các đồng chí Côn Đảo đều nhắc lại sự kiện trên. Nhiều đồng chí đề nghị kết nạp vợ tôi là thành viên tù chính trị Côn đảo vì đã hết lòng với anh em.

Đi chỉnh huấn

9. Sau những ngày nghỉ phép ăn Tết với vợ tôi ở Mạc Thủ, Thanh Hà, tôi trở lại Quỳnh Côi, Thái Bình để chuẩn bị đi chỉnh huấn.

Khoảng trung tuần tháng 2-1954 chúng tôi tập trung đến lớp chỉnh huấn do khu uỷ Tả ngạn tổ chức. Lớp chỉnh huấn do đồng chí Đỗ Mười, Bí thư khu uỷ, trưởng ban tuyên huấn khu uỷ Tả ngạn, trực tiếp chỉ đạo. Còn những người chỉ đạo thường xuyên là đồng chí Trần Phương, Phó ban Tuyên huấn; đồng chí Thế Phấn; đồng chí Dũng, uỷ viên Ban Tuyên huấn và một số cán bộ của Ban phụ trách lớp.

Hồi trước tôi biết đồng chí Trần Phương khi còn ở Hưng Yên, khi đồng chí sang Hải Phòng làm Phó Bí thư Thành uỷ thì tôi đã bị bắt. Gặp nhau ở lớp chỉnh huấn, tôi cảm thấy đồng chí như đã thân quen lâu rồi, trao đổi chuyện ở tù, hoạt động ở nội thành v.v...

Lớp trưởng kiêm Bí thư chi bộ là chị Nguyễn Thị Định, uỷ viên Thường vụ, Phó Chủ tịch tỉnh Thái Bình. Tôi được cử làm tổ trưởng một tổ. Tuy chưa được giới thiệu sinh hoạt đảng, nhưng các cuộc họp chi bộ tôi được mời họp như một đảng viên chính thức.

Đến tháng 4-1954 Thành uỷ Hải Phòng giới thiệu tôi với chi bộ, tôi được tiếp tục sinh hoạt Đảng. Có lẽ tôi là một đảng viên duy nhất ra tù được tiếp tục sinh hoạt sớm như vậy. Một phần vì nhà tù Côn Đảo được Trung ương trực tiếp chỉ đạo, còn các nhà tù khác do Thành uỷ, Tỉnh uỷ, Khu uỷ trực tiếp chỉ đạo thì phải sau chỉnh huấn thẩm tra, xác minh, mới được phục hồi, được tính tuổi đảng liên tục, hoặc cắt tuổi đảng một số năm, hoặc bị khai trừ... tùy theo lỗi nặng nhẹ khi bị bắt, bị tù, khai báo...

Trong buổi khai mạc lớp, lần đầu tiên tôi biết đồng chí Đỗ Mười. Trước tôi chỉ nghe nói tới anh Mười, Khu uỷ viên phụ trách phụ vận Liên khu III, khi chưa thành lập khu Tả Ngạn. Tôi nghĩ anh Mười chắc là người hiền dịu, nho nhã. Khi thấy anh đến nói chuyện, tôi cảm thấy anh là võ tướng, ăn nói bộc trực, dễ gần... Đôi lúc thông tục anh vỗ vào ngực nói: “ở Tả Ngạn, tôi làm Bí thư Khu uỷ, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Khu, Tư lệnh kiêm Chính uỷ, Trưởng ban Tổ chức, Trưởng ban Tuyên huấn...”.


10. Tôi nghĩ chắc anh giỏi lắm. Hay Tả Ngạn không có người tài buộc anh phải kiêm tới 6 chức? Anh đến lớp giải đáp những vấn đề thảo luận và hôm bế mạc anh đến dặn dò anh em. Tôi thấy anh hăng say, xông xáo, ăn nói khúc chiết, đôi khi người ta cảm thấy được cả sự tự hào, tự phụ bên trong người anh nữa. Trong quá trình học tập, kiểm điểm, nghe báo cáo phụ khoá về giảm tô và Cải cách ruộng đất, xem phim Bạch Mao nữChiến sĩ gang thép của Trung Quốc, đọc Thép đã tôi của Liên Xô, xong từng bài liên hệ kiểm điểm.


Chỉ gợi ý nói khuyết điểm thôi, không nói ưu điểm. Từng bài liên hệ kiểm điểm xong phải báo cáo Trung tâm thông qua. Trước và sau đó phải đưa ra Tổ thông qua. Trong tổ tôi có 3 đồng chí là người Hải Phòng: tôi, đồng chí Nghĩa (tức Linh), đồng chí Phạm Văn Diệt là Trưởng phòng giao thông quận, cũng mới ở tù ra. Còn các đồng chí ở các tỉnh khác trong Khu, trong số đó có đồng chí Mai, nguyên là Thông phán Toà sứ Hưng Yên thời Pháp thuộc, đã chỉnh huấn lớp trước, nhưng kiểm điểm tiếp thu không tốt, phải đi chỉnh huấn lại. Tổ giao cho tôi đi sát giúp đỡ anh Mai.


Tôi đã giúp anh Mai đi vào thực chất của vấn đề kiểm điểm, phân tích rõ ràng ranh giới giữa kẻ thù và ta. Anh nói với tôi: “Nghe anh phân tích tôi thấy thông. Nhưng mấy con mẹ (chỉ mấy chị trong tổ) chỉ đáng làm “vú em” cho nhà tôi chẳng hiểu cái gì cả, mà lại lên “nước mặt, nói không ai nghe được”. Tôi phải phân tích cho anh biết vì sao lại như thế? Vì chị em nghèo, không được học hành như anh, họ thấy đâu nói đấy, lời lẽ giản đơn, thô kệch, nhưng thiết thực. Ta chấp nhận cái đúng, cái cốt của câu nói, không nên chấp nê về kiểu cách lời nói rồi sinh ra phản ứng, bỏ mất cái hay... Cuối lớp anh viết thu hoạch tốt và được thông qua.

Tôi ở Côn Đảo cũng đã tổ chức chỉnh huấn cho anh em, kiểm điểm rất sâu sắc những sai lầm khuyết điểm khi bị bắt, khai báo, đầu hàng về tư tưởng, thoái chí, cầu an hưởng lạc nhưng cũng nêu gương những mặt ưu điểm, thành tích. Còn ở lớp chỉnh huấn này chỉ nêu khuyết điểm, tôi thấy làm cho mình “hèn” đi, tự mình bôi nhọ mình những điều không có.

Nếu không thế, báo cáo không được thông qua. Riêng tôi, tôi kiên trì có thế nào, nói thế, không nói thành tích, nhưng cũng không bịa ra khuyết điểm để báo cáo, để sớm được thông qua. Kết quả báo cáo của tôi vẫn được thông qua sớm, từ tổ, chi bộ lên đến Ban chỉ đạo lớp cũng được thông qua nhanh.

11. Một hôm tôi gặp đồng chí Trần Phương, tôi tâm sự với đồng chí ấy về phương pháp học tập, kiểm điểm, cần khơi dậy ý chí chiến đấu, tinh thần dũng cảm của mọi người. Nếu chỉ nói khuyết điểm sẽ làm giảm khí thế mọi người, chỉ thấy hèn nhát mà không thấy kiên cường...


Rồi tôi nhắc đến vụ bắn Nguyễn Thị Năm, địa chủ Thái Nguyên. Sự việc này khi ra đến Sài Gòn, tình cờ tôi gặp một cơ sở của Khu 6, thuộc quận Ngô Quyền, anh Nam người huyện An Dương, bị địch lùng bắt phải chạy vào Sài Gòn, ở xóm Chiếu, bên nhà bà Năm, biết tôi mới ở Côn Đảo về, là người Hải Phòng nên anh Nam kể mọi chuyện miền Bắc, từ vụ bắn Nguyễn Thị Năm, giảm tô, Cải cách ruộng đất nghe rất lạ tai và khủng khiếp, cả vụ “H cent vingt deux” (H122) anh Nam cũng kể rất rành rọt cho tôi nghe.


Tôi chỉ nghe, không bình luận gì, vì mới ở tù ra, dù sao cũng phải giữ bí mật với anh Nam về mọi hoạt động của tôi ở Sài Gòn, để làm tròn nhiệm vụ của Đảo uỷ giao cho. Nhưng được một ít thông tin cũng tốt. Tôi chỉ nhắc anh Nam cẩn thận, kẻo địch xuyên tạc về giảm tô và Cải cách ruộng đất của ta. Khi học về chính sách Cải cách ruộng đất, tôi liên hệ giữa chính sách và việc thực hiện vụ bắn Nguyễn Thị Năm có 3 điều sai chính sách và một điều không hợp đạo lí truyền thống của người Việt Nam. Ba điều sai chính sách là:

- Địa chủ kháng chiến được chiếu cố,
- Địa chủ kiêm công thương được chiếu cố.
- Địa chủ hiến ruộng được chiếu cố.

Nguyễn Thị Năm có được 3 điều mà luật Cải cách ruộng đất khoá thứ I Quốc hội thông qua, có chiếu cố. Điều không hợp đạo lí, Nguyễn Thị Năm là phụ nữ, bắn một địa chủ là nữ, không phải cường hào gian ác sẽ trái đạo lí thông thường của người Việt Nam. Tôi trao đổi với đồng chí Trần Phương việc này, đồng chí bảo tôi: “Cậu tập trung vào học tập chỉnh huấn, kiểm điểm cho tốt để báo cáo được thông qua. Còn việc đó nói gì cũng không được đâu, có khi còn nguy hiểm nữa... chúng ta sẽ bàn sau...”. Với thái độ thân mật, nghiêm túc, thông cảm của đồng chí Trần Phương, tôi nghĩ chắc vấn đề này nghiêm trọng lắm!

Sau này khi sửa sai Cải cách ruộng đất xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: “Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp và nói đại ý: “chẳng lẽ Cải cách ruộng đất không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?”. Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là: “Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!”. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm!

12. Qua hơn 3 tháng học tập chỉnh huấn, sắp đến ngày bế mạc. Hội nghị Genève khai mạc cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ - chấn động địa cầu. Lớp chỉnh huấn chúng tôi được tập trung đi tuyên truyền cho hội nghị Genève. Tôi được cử làm đội trưởng một đội đi xa và sâu vào lòng địch là Thành phố Hải Phòng.

Đội gồm có tôi và anh Phạm Văn Điện người Hải Phòng, 2 cán bộ là người Tiên Lãng, Kiến An (lúc đó Hải Phòng - Kiến An chưa hợp nhất), 2 cán bộ nữa là người Thái Bình. Sức khoẻ của tôi lúc này có khá hơn, nhưng vết thương ở ngực bên trái nước vàng vẫn chảy ra, hàng ngày vẫn phải thay băng. Có đồng chí gợi ý tôi xin ở lại lớp, hoặc vào nơi tạm chiếm Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, đi lại thuận tiện hơn, có gì phải cấp cứu cũng nhanh hơn.

Nhưng tôi vẫn đi Hải Phòng, vào sâu sát ngoại thành Hải Phòng- Kiến An, ở thôn Xích-thổ. Sau bị địch càn quét, tôi chuyển cả đội sang thôn Bạch Mai huyện An Dương, có đêm phải bơi qua sông Cái Tắt sang xã Hùng Vương, đoạn đường số 5 sát Hải Phòng. Sang đến nơi bị động, cơ sở trốn hết, cả đoàn lại bơi về, sang thôn Văn Tra - Văn Cú, An Dương. Mỗi lần bơi qua sông lên bờ, đầu tiên là tôi phải băng ngay lại vết thương.


13. Lúc nào trong ba lô của tôi cũng có gói bông băng và lọ thuốc đỏ. Hôm bị địch vây ở thôn Xích Thổ phải chui xuống hầm nước, đỉa bu cắn cả vào chung quanh vết thương. Khi địch rút lui, còn mấy con đỉa bám gần vết thương. Nay nghĩ lại vẫn sởn gai ốc. May không bị vi trùng uốn ván, thật là phúc. Kết thúc đợt đi tuyên truyền, về dự tổng kết lớp chỉnh huấn, tôi được khen thưởng cao nhất, được khen học tập tốt, báo cáo kiểm điểm nghiêm túc, đi vào sâu đất địch. Tôi nhận giấy khen của Ban Tuyên huấn Khu do đồng chí Phó ban Trần Phương kí, được 2 ảnh nhỏ (4x6) của Bác Hồ. Nay tôi vẫn còn giữ làm kỉ niệm.

Về công tác tại Văn phòng Thành uỷ

14. Tôi được phân công tiếp tục về Hải Phòng công tác, nằm trong Ban Thư kí vụ, phụ trách công tác tổng hợp. Văn phòng lúc này đóng ở huyện Vĩnh Bảo. tình hình chính trị, hội nghị Genève diễn ra thuận lợi, công việc văn phòng càng phải khẩn trương, phải nắm tình hình địch ở nội thành, sự di chuyển của chúng. Ngoài việc phụ trách tổng hợp, tôi còn phải theo dõi phụ trách một số đường giây mới, do các đồng chí ở tù ra mà tôi nắm được, gây dựng được nhiều cơ sở trong các cơ quan đầu não của địch ở Hải Phòng. Tài liệu ở nội thành chuyển ra rất nhiều.

Tôi phải làm việc suốt ngày đêm, tranh thủ ngủ vài tiếng đồng hồ, ngay trong bữa ăn cũng làm việc, cũng đọc báo cáo. Đồng chí Hoàng Mậu, Bí thư Thành uỷ là đồng chí hoạt động từ năm 1930, công nhân kĩ thuật cơ khí bậc cao, người Việt gốc Hoa. Đồng chí Hoàng Mậu là đồng chí gương mẫu toàn diện, học lực có hạn, nhưng khi tôi viết báo cáo với đồng chí, đồng chí duyệt rất cẩn thận. Đặc biệt có những từ ngữ đã tâm đắc thì báo cáo thiếu là không được. Đồng chí có thư kí riêng là đồng chí Hải, sau sang làm phó giám đốc đài phát thanh Hải Phòng, nhưng mọi việc viết báo cáo tôi đều phải viết và báo cáo trực tiếp với đồng chí Hoàng Mậu.

Các thư kí khác có viết một báo cáo nào đó, đồng chí Hoàng Mậu cũng bảo đưa qua tôi sửa chữa và trực tiếp báo cáo với đồng chí ấy, mặc dù đã có chánh văn phòng lúc đó là đồng chí Minh Sơn. Nếu đã qua đồng chí Minh Sơn, đồng chí Hoàng Mậu cũng bảo đưa qua tôi, nên công việc đã bận lại càng bận thêm. Tôi sợ mình bao biện công việc của đồng chí khác, anh em đồng nghiệp sẽ không vui, nhưng đồng chí Hoàng Mậu không nghe, anh em cũng rất thông cảm với tôi và giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ.

15. Mọi việc ở Văn phòng Thành uỷ đang ổn định, tháng 10-1954 tiếp quản Hà Nội. Mấy ngày sau văn phòng Thành uỷ chuyển về thôn Vũ Xá - xã Ái Quốc, huyện Nam Sách nằm trên đường số 5, tiện cho việc chỉ đạo của Thành uỷ, các cơ quan Hải Phòng đóng dọc theo đường số 5 đến ga Phạm Xá, ga trung chuyển giữa khu tự do mới được giải phóng và khu “chu vi 300 ngày” nơi quân Pháp tập kết chuyển vào miền Nam dưới vĩ tuyến 17.

Đồng chí Đỗ Mười, Bí thư khu uỷ, vừa được đề bạt làm uỷ viên TƯ dự khuyết khoá II, cùng với 4 đồng chí khác là Xuân Thủy, Trần Hữu Dực, Bùi Quang Tạo, Nguyễn Thị Thập. Đồng chí Đỗ Mười được cử làm trưởng ban chỉ đạo tiếp quản khu “chu vi 300 ngày”, trực tiếp làm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng

Trong một buổi về thôn Vũ Xá làm việc với thành uỷ Hải Phòng, làm việc xong, mọi người còn có mặt cả, đồng chí Đỗ Mười bảo đồng chí Hoàng Mậu: “Cho đồng chí Thành về giúp việc tôi tiếp quản Hải Phòng...” Tôi vừa ngỡ ngàng vừa sững sờ, không hiểu ai đã giới thiệu tôi với đồng chí Đỗ Mười, mà đồng chí biết tôi một cách đột ngột như vậy. Đồng chí Hoàng Mậu hơi lúng túng nói: “Có một cậu nó đang làm quen với công việc, anh lấy đi chưa có người thay!” Anh Mười đứng phắt dậy tuyên bố: “Cứ cho cậu Thành lên giúp việc tôi, nếu Hải Phòng có gì xảy ra tôi chịu trách nhiệm...”.Anh Mậu lặng im.


16. Tôi đứng dậy thưa với anh Mười: “Tôi mới ở tù ra, mới đi chỉnh huấn về, mới được xác minh, còn nhiều anh em biết tôi nhưng chưa về, sợ rằng sau này có vấn đề chính trị sẽ phiền cho anh.” Anh Mười nói to: “Cậu muốn lấy lí do để không đi giúp việc mình. Cậu phải biết tôi là Bí thư khu uỷ chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính khu, Tư lệnh kiêm chính uỷ khu, trưởng ban tổ chức, trưởng ban tuyên huấn, ai thế nào mình biết hết, địch ta ai lừa dối được mình”. Anh Mậu nhìn tôi có vẻ e dè, sợ anh Mười, khẽ gật đầu. Tôi nói: “Nếu anh đã nói như vậy tôi xin đi giúp việc anh”. Anh Mười và đoàn tùy tùng ra về. Anh Mười dặn lại tôi: “Mai lên Hải Dương gặp tôi...” Lúc đó khu đóng ở thành phố Hải Dương mới giải phóng.

Về Thủ đô mới giải phóng công tác

17. Hôm sau tôi nhận quyết định của đồng chí Hoàng Mậu lúc đó kiêm cả chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Hải Phòng kí. Tôi về công tác ở Ban chỉ đạo tiếp quản khu “300 ngày”, kiêm đại diện Uỷ ban kháng chiến hành chính Hải Phòng tiếp dân ở Hải Phòng ra Hà Nội gặp chính quyền mới. Thành uỷ cử cho tôi một cán bộ giúp việc là đồng chí Trần Việt (Việt mặt đỏ).

Hôm sau tôi lên Hải Dương gặp đồng chí Đỗ Mười nhận việc. Đồng chí giao cho tôi thu xếp trụ sở cho Ban chỉ đạo về Hà Nội, anh Mười cũng bàn giao công việc của khu tả ngạn cho đồng chí khác thay thế.

Tôi cùng đồng chí Việt thuê nhà làm trụ sở của Đại diện Uỷ ban kháng chiến hành chính Hải Phòng ở số 32 Bà Trưng Hà Nội làm trụ sở tạm thời. Mấy hôm sau anh Mười lên Hà Nội gặp tôi và đưa tôi đến gặp đồng chí Trần Danh Tuyên, Bí thư Thành uỷ Hà Nội để xin nhà làm trụ sở Ban chỉ đạo khu “300 ngày”. Đồng chí Tuyên cho nhà “Khai trí Tiến Đức” gần Bờ Hồ.


18. Tôi kí các thủ tục nhận nhà, thu xếp dọn dẹp vệ sinh để đón anh Mười và Văn phòng về ở. Công việc rất bận rộn. Lúc đầu chỉ có tôi, đồng chí Việt và cô cấp dưỡng đến dọn dẹp nhà cửa, nấu nướng. Nhà to cửa rộng, không có người ở, lá rụng đầy sân, chỉ riêng việc dọn lá bàng ở sân đã mất mấy ngày. Anh Mười cử cả tiểu đội bảo vệ đến giúp làm vệ sinh, chúng tôi mới đỡ vất vả. Ngân sách chưa có, không có tiền thuê lao động đã phải huy động anh em làm ngoài giờ.

Bộ máy lúc đầu giúp việc anh Mười chỉ có đồng chí Phạm Gia Tuân, đồng chí Vũ Trọng Nam làm Thư kí và một tiểu đội bảo vệ, một lái xe Jeep cho anh Mười. Tôi làm cả hai việc vừa giúp anh lo chuẩn bị tiếp quản Hải Phòng, vừa làm đại diện cho Uỷ ban kháng chiến hành chính Hải Phòng, phụ trách hành chính cơ quan, thu xếp dọn dẹp, bất cứ việc gì cũng đến tay. Chỉ trong 15 ngày là ổn định mọi việc.

Các tỉnh thuộc khu 300 ngày đều cung cấp cán bộ như Kiến An có đồng chí Hồng Cẩn cán bộ trung đoàn và một đồng chí nữa, Hồng Quảng có đồng chí Chuyền, khu Tả Ngạn cử đồng chí Vũ Viết Nhuận... Tổng số đã lên hơn 10 người. Mọi công việc chuẩn bị cho tiếp quản rất khẩn trương.

19. Nào báo cáo của quân sự do đồng chí Nguyễn Như Thiết, Phó Tư lệnh Quân khu Tả Ngạn chuẩn bị các hướng hành quân vào Khu “300 ngày”; báo cáo chính trị về kế hoạch tiếp quản lên Bác Hồ và Bộ Chính trị duyệt; mở 2 lớp đào tạo cán bộ vào tiếp quản, mỗi lớp khoảng 500 người ở hội trường Tổng Công đoàn do Trung ương tổ chức và chỉ đạo (nhưng Ban chỉ đạo phải đến báo cáo tình hình và kế hoạch tiếp quản). Chuẩn bị cho 500 cán bộ hành chính vào trước. Công việc bề bộn, cộng với tác phong khẩn trương của anh Mười, làm cho chúng tôi, nếu không chuẩn bị có khi suốt ngày không kịp ăn. Nhiều lúc vừa ăn vừa bàn công việc. Tôi đang ngồi làm việc, anh Mười vào vẫy tay đi, thế là chạy ra xe đi ngay. Có khi vừa đi vừa thắt quần.

Hôm sang ngân hàng gặp anh Lê Viết Lượng, Tổng giám đốc ngân hàng Việt Nam xin 20.000 đồng Đông Dương để chi cho cán bộ vào nội thành chuẩn bị trước (lúc đó kinh tế khó khăn, mới tiếp quản Thủ đô tiền Đông Dương khan hiếm), tôi ngồi nghe đồng chí Lê Viết Lượng phân tích khó khăn, sốt cả ruột. Anh Mười nói đi nói lại sự cần thiết phải có số tiền đó.

Mãi anh Lê Viết Lượng mới đồng ý, nhưng thái độ tỏ ra không vui. Anh Mười giao cho tôi nhận tiền. Anh Lượng nhắc tôi: “Bảo anh Mười tiêu tiết kiệm nhé!”. Tôi hơi khó chịu trả lời: “Chúng tôi sẽ tiết kiệm từng xu, anh biết tính anh Mười rồi đấy, anh đừng lo...”. Anh Lượng vẫn còn nói thêm: “Vẫn cần phải nhắc như vậy cũng không thừa”. Sau này tôi mới biết anh Lê Viết Lượng được ghép vào 4 vị “Tứ kiệt” của Việt Nam.

Tôi cầm về một bó tiền Đông Dương, không tủ, không két, cứ phải bỏ vào cái túi vải, đi đâu cũng mang theo mình. Chỉ mong sao chi hết sớm cho đỡ vất vả. Vừa phải làm thủ quỹ, vừa làm kế toán, công việc này tôi chưa quen, nhưng vẫn phải mở sổ sách. Chứng từ thì viết tay, chỉ sợ mất tiền, anh em vào nội thành không có tiền ăn, còn mình lấy tiền đâu đền? Công việc đã bận, lại kè kè gói tiền bên mình, sinh mất ăn, mất ngủ. Bên cạnh đó vết thương cũng chưa lành vẫn phải băng bó.


20.Thế mà anh em khen tôi trẻ ra. Mới biết thức ăn tinh thần quan trọng đến mức nào! Hàng ngày đã làm việc liên miên, đến tối lại phải nghe phản ảnh của anh Nguyễn Tài, Trưởng Phái đoàn Việt Nam thực hiện Hiệp định chuyển giao khu “300 ngày”. Anh Tài sáng đến Quỳnh Khê, Kim Thành để họp với Phái đoàn Pháp, tối về phản ảnh với anh Mười kết quả đàm phán. Đủ mọi sự việc diễn ra hàng ngày, nào địch tháo dỡ máy móc chuyển vào Nam, dân di cư dồn về Hải Phòng, yêu cầu nọ, yêu cầu kia của địch, đêm nào cũng bàn thâu đêm, suốt sáng để có phương án cho hôm sau anh Tài đi “đấu” tiếp với phái đoàn Pháp. Tôi thấy anh Vũ Trọng Nam thức khuya nhiều quá, chân tay mọc lông lá...rất ái ngại! Lắm lúc ban ngày ngồi làm việc, mấy bàn thư kí đều ngồi ngủ gật, trông rất buồn cười...

Phương án tiến quân do anh Nguyễn Như Thiết trình bày đến lần thứ 11 mới được thông qua. Anh Thiết mỗi hôm ra về đều than phiền với tôi:

- Tôi biết tính anh Mười cẩn thận, nên kế hoạch làm rất tỉ mỉ, các tình huống đều nêu ra hết, nhưng vẫn không được thông qua! Trong chiến đấu tôi cũng không thấy khổ bằng bây giờ!
Tôi động viên anh Thiết:
- Bọn tôi ở đây phải phân công nhau ngồi nghe với anh Mười, tuy vậy nhiều lúc anh Mười gọi tất cả cùng phải nghe. Nghe đi nghe lại, đầu gật mà mắt vẫn phải mở, sợ thủ trưởng phê bình.

Không những thế 3, 4 giờ sáng anh Mười còn đến phòng ngủ của tôi đánh thức dậy và bảo:
- Thành, Thành, nếu nó ỳ ra không chịu rút thì làm thế nào?
Tôi phân tích:
- Địch đã đến nước này, phải rút về Khu 300 ngày. Chúng không dám ỳ ra đâu, anh yên tâm!

21. Anh Mười lại đặt các câu hỏi khác, phân tích tình hình, đồng bào di cư, địch dỡ máy móc phải làm sao giữ lại, vận động quần chúng đấu tranh ra sao, và bảo tôi viết chỉ thị cho Hải Phòng về rất nhiều vấn đề mà Mười đã nêu ra. Có lần tôi mệt quá, vừa đặt lưng xuống giường là ngủ thiếp đi, anh Mười đến phát vào lưng tôi: “Dậy, dậy, sao mà ngủ nhanh thế!” Anh lại nêu vấn đề: “Địch ỳ ra không rút thì giải quyết thế nào?”. Tôi vừa mệt, mắt cay xè, thấy thủ trưởng lo lắng, tâm huyết quá mà các lí lẽ đã phân tích với anh Mười những buổi trước hết rồi, tôi bình tĩnh, nhưng nói giọng hơi gay gắt:

- Nó ỳ ra thì đánh bỏ mẹ nó đi...
Anh Mười ngồi yên, suy nghĩ không nói gì rồi từ từ đứng dậy đi vào phòng ngủ, mặc dù chị Thanh, phu nhân của anh đã đến từ tối.
Bản thân là con người say sưa công việc cách mạng, không từ nan việc gì bao giờ, nhưng từ hôm về Hà Nội làm việc thực sự với anh Mười tôi tự thấy mình “lây” ngọn lửa nhiệt tình của anh. Sau này tôi vẫn thường nhắc lại điều đó với anh Mười.

Ba trăm ngày chẳng mấy chốc đã sắp hết, ngày tiếp quản Hải Phòng đến gần. Cơ quan chúng tôi lại chuyển về thị xã Hải Dương với bao nhiêu công việc. Cán bộ các nơi ùn ùn tập trung đến. Mặc dù Ban tổ chức Thành uỷ đã có sự chỉ đạo của đồng chí Hoàng Mậu, nay là Phó Bí thư, nhưng anh Mười vẫn nhắc tôi phải xem lại. Tôi cảm thấy quá sức và lo rằng có khi làm cho các đồng chí tổ chức không thông cảm đánh giá mình bao biện, nhất là các đồng chí mới ở tỉnh, thành phố và các đồng chí cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc. Nhưng mọi sự việc đều xếp sắp ổn thoả.

Nhớ lại những ngày ở Khai Trí Tiến Đức bên bờ Hồ Hoàn Kiếm, mọi người làm việc mệt mỏi, những khi nghỉ ngơi chốc lát, đứng trông ra cửa sổ về phía Hàng Khay thấy học trò nữ Trường Trưng Vương quần áo dài thướt tha qua bờ Hồ, nhiều đồng chí ngắm nhìn không chớp mắt. Anh Mười biết, bảo: “Các cậu hủ hoá mắt hết rồi... Hỏng hết, viên đạn bọc đường nó làm hỏng hết cán bộ...”. Chỉ có tôi, anh Nam, anh Tuân, là anh Mười không bắt được chúng tôi nhìn, ngắm bao giờ nên anh không nói gì. Thỉnh thoảng đi họp Trung ương về, anh bỏ kẹo vào túi rồi vứt cho chúng tôi mỗi người vài cái.

Có nhiều lần họp chi bộ, anh cứ dùng chữ “viên đạn bọc đường” để nhắc nhở anh em. Tôi thấy anh nhắc nhiều lần quá, nên đứng dậy đề nghị anh Mười không nên nhắc nhở điều ấy nữa, vì chúng ta cũng có thể là viên đạn bọc đường, bọc lại chúng, chứ không chỉ bị chúng bọc. Anh Mười không nói gì, nhưng từ đó anh thôi dùng câu: “đạn bọc đường”.

Khi phục vụ cho đồng chí Nguyễn Tài và các đồng chí Ban liên hiệp đình chiến TƯ ở Trung Giã, tôi có làm một việc, chủ ý gây cho địch lúng túng, mất thì giờ, ta có cớ để đấu với chúng. Đó là việc lập danh sách tù binh Việt Nam. Tôi cứ để tên tôi là Duy vào danh sách tù chưa được thả, phái đoàn ta phụ trách về tù cứ đòi, địch phải mất công tìm hết nơi này nơi khác về tên Duy tù binh. Phái đoàn ta nói: “Không thấy tù nhân tên Duy được trao trả về”.


22. Cuối cùng tìm không thấy, địch đem những văn bản, quyết định tha tôi cho phái đoàn ta để xác minh giúp, còn chúng sẽ xác minh xem tên Duy có ở lại khu chúng kiểm soát không? Ý định tôi lúc đó ra sao tôi có nói với cán bộ phụ trách tù binh: chỉ là “đánh lừa” để chúng mất thời giờ truy tìm...v.v.

Tôi không bao giờ nghĩ tới chuyện ấy sau này gây phiền phức. Đó là trong đơn vu khống lí lịch tôi, kẻ xấu đã viết: “Chính Duy là tay sai địch nên địch đã truy tìm bằng nhiều văn bản, gửi các địa phương của chúng, tìm Duy để sử dụng...”. Những hồ sơ của địch sau khi đã có kết luận, tôi đã xin các đồng chí sao lục cho một bản. Câu cách ngôn: “gậy ông lại lập lưng ông” cũng là bài học cho những ai chỉ đơn giản nghĩ điều thuận mà không thấy điều nghịch như tôi.

Về tiếp quản Hải Phòng

23. Ngày 13-5-1955, Văn phòng Ban chỉ đạo và văn phòng Thành uỷ nhập làm một, về trước một ngày, đóng tại Sở dầu - Hạ lí. Ngủ một đêm tại đây, sáng hôm sau tất cả theo đại quân vào tiếp quản Hải Phòng.

Anh Mười hỏi tôi vào thành sẽ ở đâu, tôi nói đã chuẩn bị với bộ phận vào trước, chuẩn bị cho anh và văn phòng ở số 9 phố De La République, nay là số 1 Hoàng Diệu, là trụ sở của Đốc Lí Hải Phòng. Còn Thành uỷ về ở số 11 Négrier, phòng Nhì của bộ tư lệnh Pháp miền Duyên Hải, nay là phố Lí Tử Trọng, sau chuyển cho Bộ tư lệnh Quân khu, rồi chuyển tiếp cho Bộ Tư lệnh Hải Quân. Còn Thành uỷ chuyển về số 5 Đinh Tiên Hoàng ngày nay, là một cơ sở hậu cần của quân đội Pháp đóng tại Hải Phòng.

Tôi về làm thư kí văn phòng Thành uỷ và được bầu là Bí thư chi bộ, do đồng chí Nguyễn Mạnh Giao làm Chánh văn phòng, đồng chí Trần Phương (Phương xích) Thành uỷ viên phụ trách văn phòng. Tôi được phân công theo rõi khối nội chính.

Lúc đó tiếp quản công việc bề bộn, giải quyết chưa xuể thì ngày 26-9-1955 Hải Phòng bị một cơn bão lớn, gió đông vào lúc thủy triều dâng, tràn hết các con đê oèo oặt do thực dân Pháp để lại. Nước ngập tràn thành phố. Do nước cường tràn vào nhanh, những xã ven đê như Tràng Cát có tới 327 người chết, hầu hết là người già và trẻ em.

24. Anh hùng Phạm Minh Đức đã xả thân cứu giúp đồng bào, bị nước cuốn trôi. Khi nước rút phải vận động cán bộ toàn thành phố đi cạo mặn giúp dân. Những xã ven sân bay Cát Bi, chúng tôi đi giải quyết hậu quả, phải vào sát hàng rào dây thép gai kéo các em bé ra, cháu nào cũng chúc đầu vào dây thép gai, chết rất thê thảm. Lúc nước cường, anh Mười, anh Hoàng Mậu và tôi đi xe Jeep của anh Mười xuống nhà thờ Nam Pháp. Đến đó thì nước đang dội vào thành phố, có nguy cơ xe chết máy không về được. Tôi bảo chú lái xe chở anh Mười về trước, còn anh Hoàng Mậu và tôi cùng đồng chí Vân bảo vệ anh Mậu sẽ về sau.


Nước tràn vào mỗi lúc một lớn, chúng tôi không thể nào xuống được xã Sâm Bồ, Hạ Đoạn. Ba anh em phải khoác tay nhau đi hàng ba về nội thành. Về đến đầu cầu Rào nước đã lên ngang thắt lưng. Ba anh em đi về đến nội thành, thì nội thành biến thành bể nước, không còn chỗ nào hở cả. Về đến văn phòng đã trưa, mọi người chờ đợi. Chúng tôi phải một mẻ ướt sũng. Nhưng khi nước thủy triều rút, bão cũng gần tan nên nước rút nhanh. Lúa bị chết hết vì nước mặn. Đê không đủ cống để thoát nước. Thật là trời thử thách lòng kiên định của nhân dân Hải Phòng.

Theo các cụ cao niên kể lại: “Đây là trận hồng thủy lớn nhất sau 150 năm mới lại xảy ra” (Khi quai đê lấn biển đường 14 Đồ Sơn, tôi đã lấy mực nước lớn nhất năm 1955 làm Tiêu chuẩn cho đê biển Hải Phòng. Đê cao 71 hơn mốc nước năm 1955 là 2 mét, chân đê rộng 60 mét, có kè đá hoặc xi măng cốt thép bên ngoài bảo đảm 150 năm sau nếu lịch sử thủy triều lập lại thì nhân dân ven biển sẽ tránh được tại hoạ).

25. Mọi công việc tiếp quản ngày một ổn định. Nhưng Cải cách ruộng đất đợt 5 lại đến. Thành phố có đỡ hơn. Ngoại thành làm mạnh. Tôi phụ trách nội chính nên phải theo rõi tình hình Cải cách ruộng đất. Hồ sơ cán bộ do các đoàn Cải cách ruộng đất gửi về Thành uỷ, xin bắt đồng chí này, đồng chí khác... ngày càng nhiều.

Còn riêng tôi, nghĩ gia đình chỉ là trung nông nên tôi cũng chẳng để ý đến gia đình là thành phần gì. Một hôm tôi cùng một vài đồng chí trồng một cây bàng ở sân văn phòng Thành uỷ (cây bàng nay vẫn còn), đồng chí Hoàng Mậu nhìn tôi cười cười và nói: “Cậu trồng cây đó làm gì?”. Linh tính báo cho tôi biết có điều gì chẳng lành, tôi đoán chắc mình cũng có hồ sơ của đoàn Cải cách ruộng đất gửi về nhưng văn thư giữ kín không chuyển cho tôi. Tôi vẫn bình tĩnh.


Mấy đồng chí thư kí khác như anh Hưng, anh Quảng, anh Minh Sơn cũng có danh sách là gia đình địa chủ. Trông đi trông lại văn phòng đều là con cái địa chủ cả. Nhưng ban thường vụ chẳng thấy nói gì. Tôi vẫn làm việc bình thường. Khoảng tháng sau, người chị dâu nhà tôi “giả vờ” đi chợ xuống Hải Phòng vào thăm tôi, nhà tôi nhắn tin xuống: “Nhà bị qui là địa chủ thường. Em tuy con nhà cố nông, nhưng vì liên quan, không được sinh hoạt đảng. Anh bị họ tố là Bí thư chi bộ Quốc dân đảng, nhưng họ tố bí mật với nhau, không nói công khai, đội Cải cách ruộng đất không thấy nói gì, anh yên tâm công tác. Em phản đối kịch liệt họ tố sai. Đội họ bảo em cứng đầu cứng cổ, chẳng sợ gì cả. Em nghĩ họ làm bậy, tố bậy, nên em coi họ rất thường!”.

26. Khi sửa sai gia đình tôi được hạ xuống trung nông, còn nhà tôi đến khi sửa sai mới được khôi phục đảng tịch. Nhà tôi được cả xã, cả khu vực khen ngợi là dám chống lại những việc làm sai trái của Cải cách ruộng đất, nói thẳng nói thật, không như một số đảng viên khác cùng về làm dâu ở làng tôi như chị C. (còn sống), đấu bố chồng và gọi tên bố chồng chửi... nhà tôi rất khinh. Sau này tuy là chị em trong họ, nhưng khi chị C. đến chơi, nhà tôi vẫn lảng tránh, tỏ ra khinh bỉ. Tôi cũng nhắc nhà tôi nhiều lần “Đảng đã sửa sai, biết bao nhiêu kẻ cơ hội, đâu có riêng gì chị C...”.

Trong lúc phong trào Cải cách ruộng đất đang lên, du kích và cốt cán Cải cách ruộng đất vác súng vào thành phố lùng bắt địa chủ và con cái địa chủ là cán bộ công nhân viên chức Nhà nước. Họ đã bắt được một vài người. Tôi báo cáo anh Mười cứ để thế này thì không nên. Thành phố mới tiếp quản, lòng dân còn nhiều điều suy nghĩ về chế độ mới, đề nghị anh nhắc các Đoàn uỷ Cải cách ruộng đất không để cốt cán vác súng vào nội thành tìm địa chủ...

Anh Mười nổi nóng tuyên bố: “Bắt trói tất cả đứa nào vác súng vào bắt cán bộ nghi là địa chủ. Muốn làm loạn à? “. Công an ra tay, tóm được mấy nhóm giải về Đoàn uỷ xử lí. Từ đó không có cốt cán nào dám vào nội thành nữa. Nhưng họ tung tin: “Tay Bí thư Thành uỷ Hải Phòng phản động, chống lại Cải cách ruộng đất, nhưng nó to lắm, Đoàn uỷ cũng không làm gì được...”. Đến khi phát hiện sửa sai, đi họp Trung ương về, anh Mười phấn khởi gọi tôi bảo: “Mình đúng, mình đúng? Làm sai hết rồi! Sửa sai mới mệt cơ!”.

27. Trong Cải cách ruộng đất ở Hải Phòng còn một chuyện: Đón đồng chí Mi-cai-ăng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Đồng chí Mi-cai-ăng lúc đó là nhân vật thứ 3 của những nhà lãnh đạo Liên Xô. Ta mới được giải phóng một nửa nước, được đón tiếp một cán bộ cao cấp của Liên Xô lúc đó là một điều rất vinh dự.

Trong chuyến thăm này, chương trình của Đoàn có đến thăm Thành phố Hải Phòng, vào ngày 12-3-1956. Hải Phòng thành lập ban đón tiếp do anh Mười trực tiếp chỉ đạo. Tôi được giao trách nhiệm đi báo cáo, liên lạc với Ban đón tiếp Trung ương. Từ ngày bắt đầu chuẩn bị hơn một tháng trời, tôi được giao chiếc Moscovic Liên Xô kiểu cũ với đồng chí lái xe là anh ruột đồng chí Nguyễn Mạnh Giao, Chánh Văn phòng Thành uỷ, sáng đi chiều về, lên Hà Nội nghe chỉ thị, lúc thì gặp anh Ung Văn Khiêm, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, khi thì gặp anh Vũ Tuân, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, có hôm phải gặp cả hai người để báo cáo tình hình chuẩn bị đón tiếp đồng chí Mi-cai-ăng ở Hải Phòng. Rồi nghe truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Trung ương.

Vì là lần đầu tiên đón khách quan trọng, nên anh Mười bảo tôi phải hỏi kĩ cách thức đọc diễn văn chào mừng ra sao, bắt tay, đi đứng ra sao? Anh Ung Văn Khiêm đều hướng dẫn cho tôi, để tôi về báo cáo anh Mười. Anh Ung Văn Khiêm còn cho dịch quyển Tự điển Ngoại giao từ tiếng Nga sang tiếng Việt của đồng chí Vi-sanh-ky, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô, để tôi đọc và báo cáo tóm tắt với anh Mười.

28. Mọi việc chuẩn bị rất khẩn trương. Hàng ngày tôi đi Hà Nội, qua quê tôi, nhìn cây gạo đầu làng cao nhất vùng, đang mùa nở hoa đỏ ối, thấy nhớ vợ, nhớ nhà da diết. Vì từ khi bắt đầu Cải cách ruộng đất, cán bộ không được phép về thăm nhà. Tôi cho xe đi chậm chậm, mỗi khi qua quê. Tôi nhìn mọi người sao thấy họ đều lo âu, trầm tư. Cũng có người nhìn thấy tôi, khẽ nghiêng đầu chào thầm lặng. Tôi biết là tình hình đấu tranh rất căng thẳng. Chiều từ Hà Nội về, khoảng 16 giờ mà đã vắng tanh, không ai qua lại đường 5, chỉ còn những chiếc xe tô lác đác chạy ngược xuôi Hà Nội - Hải Phòng.

Ít ngày sau đó tôi được tin xã tôi đã bắn ông Đào Quang Xương mối lái trâu thuần, có hơn một mẫu ruộng. Cả nhà cụ Tổng Toạ, gia đình toàn đi kháng chiến, con gái lớn là cô Đàm làm chủ tịch, con gái thứ hai là cô Địch làm xã đội trường, chiến đấu rất dũng cảm, vì nhà có 3 mẫu ruộng cũng bị đấu tố sỉ vả... Không chịu đựng được sự oan ức, sáng sớm ngày mồng một Tết năm đó, cả nhà đã giả vờ đi tát nước sớm, đến bờ sông Tường, 4 người đều nhảy xuống sông tự tử. Riêng cô Bùi Thị Địch, khi chết hai chân còn để trên bờ.


29. Mọi người đoán là cô Địch bố trí cho bố, mẹ và chị nhảy xuống sông tự tử trước, còn cô Địch nhảy xuống sau. Nhưng do quá uất ức nên chân còn trên bờ, đầu đâm xuống nước chết ngay! Đối với tôi, tôi còn phải gọi cô Đàm, cô Địch bằng dì, hai cô với mẹ tôi là con cô con cậu ruột. Trước khi Cải cách ruộng đất có lần tôi về nhà, hai dì đến nhà tôi chơi có hỏi: “Tình hình Cải cách ruộng đất sắp đến, chắc gay go lắm? Cậu Quảng (tức Phạm Chí Dũng nay là Đại tá về hưu, là em cùng bố khác mẹ với các dì), cậu Quảng đã viết thư về đoạn tuyệt với gia đình”. Hai dì bảo tôi cho vài lời khuyên. Tôi nói: “Gia đình ta chỉ có 3 mẫu ruộng, cụ chỉ có chức Phó tổng mua, gia đình hiền lành tử tế, đều tham gia kháng chiến rất tích cực, hai dì chiến đấu ở xã ai mà chẳng biết.

Theo ý cháu, đối chiếu với chính sách gia đình chỉ là phú nông là cùng thôi. Hai dì cứ yên tâm, tin tường vào chính sách Cải cách ruộng đất và Bác Hồ...” Hai dì vẫn tỏ ra rất buồn, nhất là chuyện cậu em ruột viết thư đoạn tuyệt gia đình. Hai dì ngồi suy nghĩ hồi lâu rồi đứng dậy ra về: “Anh nói tôi cũng thấy tin, nhưng ông bà (ý nói cụ ông, cụ bà Tổng Đàm) thì vẫn lo lắm anh ạ”. Tôi động viên hai dì mấy câu và gửi lời thăm hai cụ. Rất thương là hai dì đều chưa có gia đình. Khi Cải cách ruộng đất, không phải ai xa lạ mà chính là bà vợ hai với cô con dâu vợ cậu Quảng là cốt cán Cải cách ruộng đất, đấu tố hai cụ quyết liệt nhất...

30. Sáng ngày 12-3-1956 toàn dân Hải Phòng, quần áo chỉnh tề tay cầm cờ hoa đứng dọc đường từ Sở dầu về đến Hải Phòng, đón đồng chí Mi-cai-ăng và Đoàn từ Hà Nội xuống.

Tôi cũng rất phấn khởi vì sắp làm tròn nhiệm vụ được giao. Nếu hôm nay không có chuyện gì xảy ra là toàn thắng. Mọi người hào hứng, phấn khởi chờ đợi. Anh Mười, anh Mậu và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt Hải Phòng quần áo chỉnh tề chuẩn bị đón đoàn. Tôi đi kiểm tra lại một lần nữa ở chung quanh trụ sở Uỷ ban Quân quản thành phố. Không khí Cải cách ruộng đất ở ngoại thành căng thẳng, nhưng trong thành phố rất vui.

Khoảng 10 giờ bỗng có điện từ Hà Nội về báo tin Đoàn không xuống nữa làm mọi người rất thất vọng. Anh Mười chuẩn bị micro phát biểu một vài ý kiến cảm ơn đồng bào. Giữa lúc anh Mười sắp nói, thì anh Trần Quốc Hoàn; Bộ trưởng Bộ Công an và anh Lê Quốc từ Hà Nội xuống. Anh Hoàn nhanh nhảu nói: “Đoàn sắp đến nơi rồi”. Anh Mười vỗ vai anh Hoàn nói: “Đoàn không xuống rồi”. Anh Hoàn cãi lại: “Tôi vừa ở chỗ Đoàn, đang chuẩn bị đi. Xe tôi đi trước để kiểm tra”. Anh Mười nắm hai vai anh Hoàn bảo: “Thôi, thôi xong rồi... Để tôi nói với đồng bào vài lời cảm ơn...”.

31. Thế mới biết đón một đoàn Quốc tế đầu tiên sang thăm Việt Nam, nó quan trọng đến chừng nào. Tổ chức bảo vệ thật là kì công. Thế mà bạn không chiếu cố. Sau tôi được biết là cán bộ tùy tùng bảo vệ đề nghị đồng chí Mi-cai-ăng không đi, vì Hải Phòng mới giải phóng, tình hình Cải cách ruộng đất đang căng thẳng, không an toàn, do đó Đoàn quyết định không đi thăm Hải Phòng nữa.

Anh Mười bảo tôi xuống nhà máy Tơ giải tán buổi nói chuyện của Ban tuyên huấn. Tuy với danh nghĩa bề ngoài như vậy, nhưng thực chất tập trung gần 1000 cán bộ quân đội, dân chính có vấn đề nghi vấn tới nghe nói chuyện. Khi đón đoàn xong sẽ giải tán. Lúc đó tôi mới biết cuộc họp “đặc biệt kì lạ” này vì an ninh cho phái đoàn. Khi đến nhà máy tôi lại gặp đồng chí Hồng Vũ, Vũ Hạnh là bạn tù Côn Đảo, một số cán bộ của Quân khu Tả ngạn.v.v. Tôi nghĩ may mà mình về trước được mấy tháng, nếu ra tù sau với hồ sơ ghi “T.T” (trao trả), chắc mình cũng nằm trong diện các đồng chí này đây. Nghĩ thế vừa buồn vừa mừng.

Đến cuối năm 1956, đầu năm 1957, thời kì sửa sai Cải cách ruộng đất, Trung ương điều anh Mười lên làm Thứ trưởng Bộ Thương nghiệp, anh Hoàng Hữu Nhân, bí thư Khu uỷ Hồng Quảng về thay làm Bí thư thành uỷ Hải Phòng. Trước khi về Trung ương công tác, anh Mười nói với tôi: “Tôi lên Trung ương công tác, cậu ở lại, nếu được bố trí làm phó chủ tịch Uỷ ban thành phố thì tốt, chí ít cũng làm Giám đốc một sở”.

Sang công tác thương nghiệp

32. Anh Mười đi khoảng hai tháng, tôi nhận được quyết định sang làm phó chủ nhiệm công ti Bách hoá, do đồng chí Nguyên Danh Huyền làm chủ nhiệm. Tôi cầm quyết định đi ngay, không nói một lời.

Sang Sở thương nghiệp gặp đồng chí Dương Văn Mùi, Phó Giám đốc, đồng chí Dương Văn Mùi cầm quyết định xem, có vẻ không vui (đồng chí Mùi hiện đang ở Hải Phòng), đồng chí nói: “Thành uỷ cứ quyết định, không bàn gì với Sở. Trước đã điều anh Nguyễn Hoài, Thư kí văn phòng Uỷ ban về làm chủ nhiệm công ti Bông vải sợi, anh em trong ngành thắc mắc...”


Tôi cũng không nói gì. Đồng chí Mùi giới thiệu tôi về công ti Bách hoá gặp đồng chí Huyền. Đồng chí Huyền cũng tỏ vẻ không vui, phân công tôi phụ trách nghiệp vụ kinh doanh, ra ngồi riêng ở 31 Hoàng Văn Thụ. Còn đồng chí Huyền chủ nhiệm, đồng chí Nguyễn Hữu Huân phó chủ nhiệm ngồi ở số 5 Trần Quang Khải. Đồng chí Huân tiếp tôi vui vẻ. Nếu nói về trình độ nghiệp vụ thì tôi chưa quen công tác thương nghiệp, nhưng nói về chính trị thì tôi đã kinh qua Bí thư Quận uỷ, vào Đảng từ 1946, được thưởng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng nhì; còn đồng chí Huyền mới vào Đảng năm 1950 được thưởng Huy chương Kháng chiến chống Pháp, lương kém tôi 2 bậc.

Nhưng đồng chí Huyền là con người cũng dễ gần. Sau vài cuộc họp, nhất là sau đại hội chi bộ, tôi được giới thiệu tham gia chi uỷ. Tôi không bầu cho mình, điều đó nhiều đồng chí trông thấy, nhưng tôi vẫn được phiếu cao nhất.

Tôi làm việc được khoảng nửa năm, công việc đã quen dần. Tôi sống hoà mình, ngày ngày cùng đi lao động, tối đi học bổ túc văn hoá với anh em. Tôi vào học lớp 5 cùng với anh Huyền, anh Huân, anh Hoài, anh Tốn, anh Hân (Sở Thương nghiệp) và nhiều đồng chí trong ngành. Mọi người chưa biết trình độ nhau ra sao.


33. Qua hai tuần học tập, thầy giáo bổ túc dạy toán giảng về “thừa số nguyên tố”. Sau bài giảng, giáo viên hỏi có đồng chí nào xung phong lên phân tích “thừa số nguyên tố?”. Giáo viên nhắc mãi, chẳng ai lên, tôi buộc phải giơ tay lên phân tích 3 con số thầy cho trước. Tôi phân tích cả ba số cũng khá nhanh. Thầy bảo tôi chắc đã học trước rồi. Tôi cười. Từ hôm đó mọi người “kháo” nhau tôi học giỏi lắm. Khi đến giờ toán, giáo viên gọi lên bảng là mọi người chỉ tôi. Lúc đó tôi nhớ lại việc cụ Phan Bội Châu kiên quyết đi thi, sau khi hết tang mẹ, lấy văn bằng Thủ khoa Thi hương, cốt để thuyết phục được các nho sĩ làm cách mạng theo mình.

Đi Hà Nội học nghề buôn bán

34. Tôi được Sở Thương nghiệp Hải Phòng cử đi học lớp “cao trung thương nghiệp” ở Hà Nội. Có 6 đồng chí đi học lớp này. Chúng tôi tập trung về số 66 Hoàng Hoa Thám. Trưòng làm bằng tre nứa lá, tường nhà và các phòng ngăn cách nhau cũng bằng nứa, khung tre; trống tuyền, trống toàng. Đêm đông, đắp cái chăn chiên rét thấu xương, nhưng mọi người rất chăm học. Chúng tôi vừa củng cố nhà trường mới xây, chủ nhật đi kéo xe bò xây dựng “đường Thanh niên” (đường Cổ Ngư cũ).


Tôi được cử làm Bí thư Chi bộ kiêm Chi trưởng Chi G (trường có 6 chi gồm hơn 300 học sinh). Trong 7 tháng chúng tôi học tập nghiệp vụ, đồng thời học xong chương trình lớp 6 bổ túc văn hoá. Trường có mời một số giáo viên Liên Xô và trường Nguyễn Ái Quốc sang giảng. Mỗi môn học đều kiểm tra rất kĩ. Các đồng chí giáo vụ cũng rất chăm lo hướng dẫn cho học viên. Tôi vừa học cho mình, vừa lãnh đạo anh em trong chi, trong tổ học tập nghiêm túc, nên mỗi đợt kiểm tra mọi học viên trong chi, trong tổ đều đạt điểm cao.


Thi hết khoá tôi được là học sinh xuất sắc toàn diện, đỗ thủ khoa, được đồng chí Hoàng Quốc Thịnh thứ trưởng, trao giấy khen của Bộ Thương mại cho tôi và 2 đồng chí thứ nhì, thứ ba. Tôi trở lại Hải Phòng với số vốn kiến thức sơ đẳng thương mại, nhưng dù sao cũng là người có học. Vì tất cả các đồng chí làm công tác thương nghiệp khác chưa ai đi học nghề buôn bán cả. Đây là lớp đầu của Bộ Thương nghiệp, và trường 66 Hoàng Hoa Thám cũng là tiền thân của hai trường Đại học Thương nghiệp và Ngoại thương sau này. Cho nên tôi không còn là “lính mới” nữa.

Trong khi tôi đi học vắng, công ti bách hoá đã tách làm hai: công ti bách hoá bán buôn, công ti bách hoá bán lẻ. Tôi vẫn là Phó chủ nhiệm công ti bách hoá bán buôn, anh Nguyễn Hoài làm chủ nhiệm công ti. Sau hai tháng anh Hoài sang làm chủ nhiệm công ti ăn uống, phục vụ. Còn công ti bách hoá bán buôn chuyển thành công ti Bông vải sợi may mặc, do tôi làm chủ nhiệm, đồng chí Nguyễn Văn Tích và đồng chí Trương Giám làm phó chủ nhiệm.

35. Những mặt hàng kinh doanh bách hoá chuyển sang công ti bách hoá đảm nhiệm, những mặt hàng bông, vải, sợi của công ti bách hoá chuyển lại cho công ti tôi kinh doanh. Việc sáp nhập các công ti lúc đó còn do Bộ Thương nghiệp quyết định, UBND thành phố tham gia, nhưng thường là nghe ý kiến của Bộ cả, cho nên lúc đó có câu ca dao (vận Kiều):

Trong tay sẵn có đồng tiền
Tách ra rồi lại nhập liền như chơi...


Tôi xây dựng công ti Bông vải sợi may mặc trở thành đơn vị tiên tiến với khẩu hiệu đề ra: “Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”. Bộ đã lấy làm khẩu hiệu chung cho toàn quốc.

Phong trào xây dựng Tổ lao động xã hội chủ nghĩa, cửa hàng may mặc Hồng Bàng kéo dài được 20 năm. Toàn là chị em nữ mậu dịch viên, với những tên tuổi nổi tiếng lúc đó như: Mai Thị Đảm, Trần Thị Phương... đã một thời được nhân dân và mậu dịch viên cả nước biết đến.
Tôi cũng là chiến sĩ thi đua nhiều năm liền. Khi còn ở Văn phòng Thành uỷ cũng là chiến sĩ thi đua, sang thương nghiệp cũng là chiến sĩ thi đua, nên năm 1960 được Chính phủ tặng Huân chương Lao động hạng II cho công ti và cá nhân tôi được tặng Huân chương Lao động hạng III. Năm 1959 tôi được vinh dự Bác Hổ tặng bằng khen, là một trong những cán bộ được thưởng huân chương lao động sớm nhất của Thành phố Hải Phòng.

36. Năm 1959-1960 Công ti Bông vải sợi may mặc được Bộ Thương nghiệp và UBND Thành phố lấy làm đơn vị thí điểm cải tiến quản lí. Chúng tôi đã xây dựng một nếp làm việc mới cho toàn công ti. Kiểm kê, kiểm soát hàng hoá bán hàng, cập nhật hàng ngày, kho tàng ngăn nắp, các phiếu kho công khai để theo ô hàng, ai muốn kiểm tra có thể biết ngay. Do cung cách làm ăn khoa học như thế, chúng tôi đã đào tạo nên những chiến sĩ thi đua thủ kho toàn quốc Nguyễn Văn Nổi (khi về tiếp quản miền Nam, làm Giám đốc Công ti thương mại tỉnh An Giang), chiến sĩ bảo vệ Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Phát (người Việt gốc Hoa) v.v... đều rất tận tâm với công việc.

Năm 1959 do cải tiến quản lí hàng hoá nhập kho, đo đếm cẩn thận, nên cuối năm số dư tồn kho 800.000 tiền mới (800 triệu tiền cũ), Bộ cho là kinh doanh phục vụ tốt, nhưng tài sản thừa lớn như vậy là quản lí để hỗn loạn tài sản. Tôi trình bày thế nào Bộ và Thành phố cũng không nghe.


37. Tôi đã nói: “Nếu chúng tôi tham ô hết số hàng hoá này, chắc sẽ được khen thưởng. Nhưng vì chúng tôi quá thật thà mới có số dư này. Lí do vì vải popeline sanford nhập từ Nhật Bản, mỗi tấm nhập chỉ tính 30m/tấm, nhưng khi đo thực tế là 33m đến 35m/tấm. Khi bán hàng, mậu dịch viên đo đúng, còn thừa lại nhập kho. Các hàng hoá khác nhập ngoại cũng tương tự như vậy, nên nó thừa ra. Tôi mời cán bộ kế toán tài vụ, kho vận của Bộ về xác minh, các đồng chí không nghe, bảo đợi năm sau kiểm kê sẽ kết luận. Năm 1959 đáng lẽ công ti và tôi đều được Huân chương nhưng bị dừng lại, riêng tôi được bằng khen của Bác Hồ.

Sang năm 1960 trước khi kiểm kê tôi mời Bộ, UBND và Sở Thương nghiệp đến chứng kiến, tôi trực tiếp chỉ đạo, kiểm kê hết 40 ngày. Kết thúc kiểm kê, hội đồng đánh giá là chính xác, và sự thừa ra đúng là do quản lí tốt, không để thất thoát, không để mậu dịch viên tham nhũng. Cho nên trong công ti tôi lúc đó, mặc dù chính sách lương bổng, khen thưởng giải quyết thích đáng, nhưng vẫn có tiếng kêu làm thương nghiệp chỉ có “tiền đền, không có tiền đồ”. Nhưng chỉ hơn 10 năm sau, tôi trở lại làm Giám đốc Sở Thương nghiệp, thì chẳng còn tiếng kêu đó nữa, mọi người đua chen xin vào thương nghiệp với bất cứ giá nào! Tôi nghĩ: quả là có nhiều vấn đề trong quản lí thương nghiệp rồi!

38. Khi làm Chủ nhiệm công ti tôi rất quan tâm đến xây dựng cơ sở vật chất cho công ti, mở rộng màng lưới bán lẻ, may đo, như cửa hàng 44 Hoàng Văn Thụ, Gi-long, Phúc Vĩnh Xương v.v. làm cho màng lưới ngày càng rộng, chiếm lĩnh thị trường bán buôn, thị trường bán lẻ, sắp xếp tư thương có nề nếp.


Tôi còn trực tiếp đi khai thác các nguồn hàng, trao đổi với các nơi, nhất là thị xã Móng Cái- Hải Ninh lúc đó. Kế hoạch phân phối hàng hoá của các tổng công ti rất có hạn nên phải tìm nguồn hàng. Tôi cùng với cán bộ nghiệp vụ, nhất là với đồng chí San (hơn tuổi tôi, nhưng là cán bộ nghiệp vụ biết việc, chịu khó), lần nào đi Móng Cái mua hàng, đồng chí San cũng đi với tôi. Lúc đó giao thông khó khăn, chỉ có đường thủy. Tàu Hải Đông đóng bằng gỗ, do Trung Quốc đóng giúp, trọng tải khoảng 15 tấn, chạy từ Hải Phòng - Móng Cái phải mất khoảng hơn 12 giờ.


39. Chúng tôi cứ tối đi, sáng đến Núi Ngọc, nếu nước to thì tàu chạy đến sông Can Long, không phải đi bộ hơn 10 km từ Núi Ngọc đến Móng Cái. Môi chuyến đi mua hàng là rất vất vả hàng tuần. Ra đến Móng Cái phải nhờ các đồng chí tỉnh Hải Ninh trao đổi với bên Trung Quốc giúp, hoặc các đồng chí mua vải của Trung Quốc về Việt Nam rồi bán cho Hải Phòng bằng chuyển khoản hoặc đổi hàng. Mỗi lần cũng mua được hàng trăm nghìn mét, chủ yếu là vải hoa và ka ki Trung Quốc. Mặc dù lúc đó ở Trung Quốc rất nghèo, sang thị trấn Đông Hưng (nay là Thành phố Đông Hưng) chỉ có lèo tèo vài rổ ốc, cá tôm tép lặt vặt. Có một cửa hàng ăn duy nhất, không có khách.

Các đồng chí Trung Quốc cho biết: nhân dân chỉ được phân phối 0,4 mét vải/người để vá quần áo. Thế mà bạn vẫn tiết kiệm vải bán cho ta! Có lần hai anh em đi tàu Hải Đông, đến cửa Vạn Hoa, sóng to gió lớn, tàu không thể nào vượt được sóng để sang vịnh Hạ Long, lái tàu quay ngược, quay xuôi mãi xuýt đắm mới qua được cửa Vạn Hoa, thật là hú vía.

Khi có hàng về, tôi phân phối cho các cửa hàng may đo, may thêu quần áo trẻ em. Bán miễn tem phiếu, hoặc miễn một nửa, cũng làm cho người mua lúc đó phấn khởi lắm rồi.

40. Nhưng bán được ít ngày, Sở thương nghiệp có lệnh phải thu đủ tem phiếu, nếu không thu các tỉnh kéo về mua làm gì có quần áo trẻ em mà bán? Tôi nghĩ cũng đúng, vì nhiều nơi có tem phiếu cũng không mua được vải, được quần áo... Chế độ tem phiếu của mô hình kế hoạch hoá tập trung bao cấp, đã để lại trong tôi bao ấn tượng, ví như ngày mời Thứ trưởng Thường trực Bộ Nội thương Trần Văn Hiển về chứng kiến kho tem phiếu, được coi giá trị bằng tiền, đã mốc meo, hôi thối... mà chẳng ai quản lí, kiểm kê, kiểm soát. Ngoài thị trường thì “con phe” đầy rẫy, xếp hàng mua bán đủ mọi thứ tem phiếu... Nhờ vậy vụ đốt tem phiếu được coi như một cuộc cách mạng ghê gớm trong ngành thương nghiệp.

Sang công tác thương nghiệp được hơn 4 năm, tôi phụ trách cả 3 công ti: Bông vải sợi may mặc, bách hoá, bách hoá bán buôn. Công việc đã để lại trong tôi rất nhiều suy nghĩ về tổ chức này, tính chất phục vụ nhân dân của nó, với đầy đủ ý nghĩa của một Nhà nước CNXH. Tôi hết sức làm việc, xây dựng cơ sở vật chất tính toán, đồng thời đi học tiếp văn hoá, nghiệp vụ... để nâng cao kiến thức với mong muốn phục vụ tốt hơn và tìm được cách thay đổi phương thức làm ăn. Tạm biệt nghề buôn bán, sang nghề sản xuất công nghiệp.

41. Tôi đang say sưa công tác thương nghiệp thì 1962 tôi nhận được quyết định sang làm Phó Giám đốc Sở Công nghiệp, chuyên lo phụ trách khối Tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp. Giám đốc lúc đó là đốc Hồng Cẩn.

Mối quan hệ giữa Liên hiệp xã thủ công nghiệp với Sở công nghiệp vốn không được tốt đẹp lắm.

Anh em bên Liên hiệp xã thủ công nghiệp cho là Sở chèn ép, phụ thuộc Sở quá nhiều. Tôi là Phó Giám đốc Sở kiêm Phó Chủ nhiệm Liên hiệp xã thủ công nghiệp, còn chủ nhiệm là đốc Nguyễn Thị Minh Nhã, Bí thư Hội phụ nữ Hải Phòng, Uỷ viên Thường vụ Thành uỷ. Tôi phải làm việc với 2 thủ trưởng, Văn phòng sở riêng, Văn phòng Liên hiệp xã riêng, tôi vẫn ngồi làm việc tại số 3 Cù Chính Lan, trụ sở của Sở Công nghiệp.


42. Còn Hồng Bàng trụ sở Liên hiệp xã thủ công nghiệp có Đồng chí Thịnh làm 78 Phó Chủ nhiệm Liên hiệp xã làm ở bên đó. Tôi phải có kế hoạch tốt để làm việc vì Đồng chí Hồng Cẩn muốn nhập hẳn Liên hiệp xã vào Sở công nghiệp, còn Liên hiệp xã thì chị Nhã và anh chị em không muốn. Tôi cố gắng thu xếp làm việc cho có hiệu quả. Sau hơn một năm công việc dần dần ổn định. Công nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp Hải Phòng đều phát triển mạnh mẽ. Có lá cờ đầu Hợp tác xã Hồng Quang nổi tiếng lúc đó. Do vậy Thường vụ Thành uỷ thấy cần thành lập Sở Tiểu công nghiệp + Thủ công nghiệp riêng để chỉ đạo cho sát, xứng với tầm của một thành phố công nghiệp lớn ở miền Bắc.

Thành lập hai sở: Sở Công nghiệp, Sở Tiểu công nghiệp - và thủ công nghiệp. Năm 1964 Thành phố tách Sở Công nghiệp ra làm 2 sở: Sở Công nghiệp và Sở Tiểu công nghiệp - thủ công nghiệp. Thực chất là Sở xí nghiệp công nghiệp quốc doanh và sở Hợp tác xã sản xuất công nghiệp và thủ công. Lúc đó có những hợp tác xã như Hồng Quang, Sông Lô, Kim Sơn v.v... còn lớn hơn một số xí nghiệp quốc doanh.

43. Đồng chí Nguyễn Hữu Cẩn (Hồng Cẩn) làm Giám đốc Sở công nghiệp, tôi làm Giám đốc sở tiểu, thủ công nghiệp, kiêm Chủ nhiệm Liên hiệp hợp tác xã thủ công nghiệp.

Lúc đó Xí nghiệp công nghiệp quốc doanh của thành phố có khoảng trên dưới 30 đơn vị (không kể quốc doanh Trung ương đóng tại Hải Phòng). Còn hợp tác xã Thủ công nghiệp thì có hàng trăm đơn vị, chưa kể tổ sản xuất và cá thể. Hai sở liên kết với nhau chặt chẽ. Tôi thường nói vui với đồng chí Hồng Cẩn là: “Hai sở thi đua nhau xem sở nào hơn...”


Tuy nói vui, nhưng tôi thực sự cố làm cho ngành phát triển nhanh chóng. Tôi cùng các đồng chí trong sở và Liên hiệp xã tổ chức sắp xếp qui hoạch lại các hợp tác xã. Tất cả các hợp tác xã cơ khí nội thành tổ chức thành hơn 30 hợp tác xã có qui mô lớn từ 100 xã viên trở lên, tập trung vào một khu vực ở An Dương (Khu đường Thiên lôi, kéo đến Lán bè ngày nay). Các hợp tác xã sản xuất hàng bách hoá tiêu dùng, tập trung về khu miếu Hai xã...v.v. Trong khi đó, xí nghiệp quốc doanh địa phương vẫn còn ở rải rác trong các đường phố. Các hợp tác xã của tôi thì ở tập trung, những ngôi nhà mới lợp tôn, khung sắt vững chãi, mọc lên ở 2 khu trên, làm cho ngành thủ công nghiệp lúc đó mọi người đều nhìn thấy là đang vươn lên so với xí nghiệp quốc doanh địa phương.

34. Ngành thủ công nghiệp Hải Phòng được lấy làm thí điểm cải tiến quản lí. Liên hiệp xã thủ công nghiệp Trung ương coi thủ công nghiệp Hải Phòng như “con cưng” của mình. Các vấn đề nghiên cứu chính sách đối với công nghiệp, Ban công nghiệp Trung ương lúc đó đều xuống Hải Phòng nghiên cứu, hoặc có các hội nghị về chính sách đối với sản xuất công nghiệp, Hải Phòng thường được Trung ương giao chuẩn bị báo cáo thực tế và đề xuất chính sách.

Sự nghiệp phát triển tiểu công nghiệp - thủ công nghiệp Hải Phòng rất nhanh, đa ngành nghề. Nhiều mặt hàng mới được tổ chức sản xuất như: cúc bấm của hợp tác xã Quần Lực, khoá Thăng Long, giầy vải Hợp Lực, nồi nhôm Toàn Thắng và Quần Lực, đúc đồng chân vịt máy tàu của 19-5, vành xe đạp Hồng Quang và các phụ tùng xe đạp của Quyết Tiến, Quyết Thắng... được người tiêu dùng ưa thích, kể cả việc chế biến hạt nhân ngọc trai bán cho đảo Cô Tô để nuôi ngọc trai xuất khẩu v.v...

35. Tôi đã chỉ đạo xây dựng một mô hình “xí nghiệp hợp tác xã”, lấy một số thợ kĩ thuật đúc đồng của ngành quân giới, như bố con cụ Chiếu ở 40 ngõ Cấm, bố con ông Mỹ Long... về xây dựng một xí nghiệp hợp tác xã đúc đồng. Lúc đó cả phía bắc chưa đúc được chân vịt (Hê-lít) cho canô và tàu biển, phải nhập ngoại. Đồng chí Nguyên, cán bộ miền Nam tập kết, phụ trách việc nghiên cứu đúc thử chân vịt.


Đêm đúc thử 5 chân vịt, đường kính dài 25 cm, tôi cùng anh chị em thợ đúc đồng thức suốt đêm để xem kết quả. Đúc xong, khi dỡ khuôn mẫu ra hỏng 4 cái, còn một cái tuy đủ hình thù nhưng rỗ nhiều, phải dùng que hàn đồng để hàn cho hết rỗ... Mọi người tỏ ra bi quan. Vì đúc không có máy đo độ lỏng của đồng, phải thử bằng “que cời”, độ xoắn của cổ chân vịt dùng dây rơm để đo... Tôi động viên anh em yên tâm, sau hai ngày nghỉ ngơi, rút kinh nghiệm, lại đúc tiếp. Lần này đúc 5 cái, chỉ hỏng 2, còn 3 cái rỗ cũng ít hơn. Như vậy coi là thắng lợi. Tôi cho đúc tiếp hàng loạt, vì lúc đó phương tiện giao thông đường thủy đang phát triển, nhất là loại chạy trên sông ven biển.


36. Nhà nước thiếu ngoại tệ nhập chân vịt của Liên Xô, Ba Lan... nên mặt hàng chân vịt bán khá chạy. xí nghiệp hợp tác xã đúc đồng ngày càng nổi tiếng, không những đúc chân vịt loại nhỏ, mà nâng lên đúc loại 50 cm, rồi đến một mét. Đến nay đã đúc được chân vịt 2,2 mét cho tàu một vạn tấn... Trong quá trình trưởng thành của xí nghiệp đúc đồng 19-5, năm nay là hơn 40 tuổi, nhưng năm nào công nhân và lãnh đạo xí nghiệp cũng nhớ đến người sáng lập ra nó. Nay xí nghiệp đã trưởng thành, đúc tượng đồng đứng nữ tướng Lê Chân tại vườn hoa công viên thành phố cao lom, tượng ngồi Nguyễn Bỉnh Khiêm, là những tác phẩm đáng kể của xí nghiệp đúc đồng Hải Phòng. Một vài năm, tôi lại đến thăm xí nghiệp.

Có câu chuyện mang tính “duy tâm”, anh chị em công nhân kể cho tôi nghe: Có hai đồng chí Giám đốc đều chết trẻ, vì bệnh ung thư cả. Anh em cho rằng những năm trước ta không nhập nguyên liệu đồng để sản xuất, anh chị em mua đủ mọi loại đồng, như tượng phật, chuông chùa, đồ cúng tế bằng đồng... đem về đúc thành chân vịt... nên trời Phật phạt các Giám đốc. Từ ngày nhập đồng lanh-gô về đúc thì giám đốc mạnh khoẻ. Tôi bảo “Có khi các đồng chí làm vệ sinh không kĩ khi đúc”. Các đồng chí nói: “Công nhân trực tiếp đúc lại không việc gì!” Tôi nói: “Vấn đề tâm linh còn phải bàn tiếp, dài lắm, khoa học chưa chứng minh được, ta không nên phủ nhận mà cũng không nên công nhận. Đợi khoa học kết luận cho thận trọng...”.

37. Trong quá trình xây dựng ngành tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp Hải Phòng, mỗi khi nghĩ đến, tôi lại càng căm thù đế quốc Mỹ, không khác gì căm thù thực dân Pháp, kẻ bắt mình tra tấn gần chết... Đó là, Giôn-xơn thả bom, đánh phá kinh tế miền Bắc. Chúng thả bom B52 và các loại bom vào khu vực An Dương, san bằng thành bình địa khu vực các hợp tác xã cơ khí thủ công nghiệp.

Đồng chí Hiệu chủ nhiệm hợp tác xã cơ khí Kim Sơn hi sinh. Mặc dù các máy móc của hợp tác xã đã chuyển đi sơ tán ra vùng ngoại thành và huyện Kim Thành thuộc tỉnh Hải Dương, chỉ còn vỏ nhà máy mà thôi, nhưng đối với kinh tế hợp tác xã, thì đó cũng là tổn thất rất lớn. Tôi cứ nghĩ nếu không xảy ra chiến tranh phá hoại miền Bắc của giặc Mỹ, chắc chắn ngành tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp Hải Phòng phải tiến nhanh vượt bậc 80 so với xí nghiệp công nghiệp quốc doanh địa phương. Các xã viên trong ngành cũng nói như vậy. Sau khi chiến tranh kết thúc, ngành hợp tác xã thủ công nghiệp Hải Phòng vẫn phát huy được truyền thống của mình, vẫn giữ vững được sự phát triển với tốc độ cao.

Tham gia Thành uỷ Hải Phòng

38. Tháng 2-1968, giữa lúc chiến tranh phá hoại bằng máy bay địch ác liệt, một kì đại hội rất đặc biệt họp trong hang núi Voi. Trời mưa suốt. Nhưng đại hội rất sôi nổi, nhất là những phiên họp bầu cử, làm việc đến 2 giờ sáng mới xong.


Vì việc kiểm phiếu thủ công, lại tranh thủ họp để kết thúc hội nghị sớm, các đại biểu dự đại hội rất vất vả. Trong một bữa cơm chiều, đồng chí Quốc Hiệu, Giám đốc Sở thương nghiệp mời tôi đi ăn thịt bò thui do thị đội thị xã Kiến An mời, đúng là hơn 20 năm tôi mới lại được ăn bữa thịt bò thui rất ngon. Trời mưa tầm tã. Có lẽ anh em cũng không giữ được vệ sinh, hay là do tôi ăn nhiều, mới bị “Tào tháo” đuổi. Lo quá, phải uống nhanh mấy viên thuốc. May mà ổn định, nên vẫn tiếp tục về họp đại hội suôn sẻ. Thật bất ngờ, tôi được đại hội bầu vào ban chấp hành Thành phố.

Tạm biệt sở thủ công nghiệp và liên hiệp hợp tác xã, sang làm Trưởng ban Tài mậu Thành uỷ.

Sau đại hội, tôi được phân công làm trưởng ban Tài mậu, đồng chí Nguyễn Đỉnh Khôi cùng là thành uỷ viên, thay tôi làm Giám đốc Sở thủ công nghiệp. Lần này tôi trở lại công tác thương nghiệp, ngân hàng, giá cả, tài chính, nhưng chủ yếu là tổng kết, nghiên cứu, đề xuất chính sách với thành uỷ và Trung ương.

Sau khi tổng kết 10 năm công tác tài mậu ở Hải Phòng, có nhiều vấn đề thành công và tồn tại.

39. Tôi đặc biệt thấy nổi bật vấn đề lãng phí trí tuệ chất xám là lãng phí lớn nhất. Ban Tài mậu Trung ương lúc đó đồng chí Nguyễn Thanh Bình là trưởng ban, đồng chí Tô Duy là phó ban. Tháng 7-1968 đồng chí Tô Duy xuống làm việc với ban Tài mậu Hải Phòng, đồng chí nói: “Ban tài mậu sắp mở lớp bồi dưỡng cho các đồng chí phụ trách tài mậu tỉnh, thành phố, huyện thị. Mới sang làm tài mậu, nên anh Thành cần đi học vì chưa làm tài mậu bao giờ.” Tôi đồng ý đi học gần 2 tháng ở Hưng Yên. Lúc đó sơ tán, không học ở Hà Nội. Đến lớp học chỉ có mình tôi là cấp tỉnh thành, còn đều là cán bộ huyện cả. Hình như thành phố Hà Nội không có ai đi học.

Khi xem chương trình tôi thấy thấp hơn khoá học cao trung thương mại của Bộ thương nghiệp. Nhưng tôi vẫn học nghiêm túc. Chương trình đã học rồi nên có thì giờ đọc sách, nghiên cứu, khảo sát, tối đốt đèn dầu đánh “tổ tôm” với Ban giáo vụ. Đồng chí Tô Duy cũng giảng mấy bài, đem giáo án ra đọc rồi phân tích. Trong các bài giảng khác, tôi chỉ tiếp thu được một ý của đồng chí Đoàn Trọng Truyến về “Phân công lao động mới trong CNXH”. Khi kết thúc lớp học, viết thu hoạch, tôi viết kĩ và sâu về các vấn đề ban giáo vụ nêu ra, tôi viết và phân tích cả những vấn đề nhà trường không đề cập tới. Viết xong chuyển lên ban giáo vụ. Mấy hôm sau đồng chí Tô Duy gặp tôi cười và nói: “Chắc anh đã học những vấn đề này rồi phải không?”

40. Tôi cười, không nói gì. Sang đầu năm 1969 tôi đi học lớp chính trị cao cấp khoá V, trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương. Các khoá trước học có 18 tháng, khoá V học hai năm. Khoá học lại vào thời gian Mỹ tập kích vào Sơn tây nhằm giải phóng “giặc lái Mỹ”, nhưng thất bại do ta mới di chuyển tù binh đi nơi khác. Trường lại bắt đầu đào giao thông hào chiến đấu, đêm phải cử học sinh trực đêm canh gác trên mái trường. Tôi trong Ban chi uỷ và Tổ trưởng học tập, tôi tự lập kế hoạch học lập lí luận, học văn hoá ngoại ngữ, tranh thủ đọc sách, 3 tháng mới về thăm nhà một lần.

Khi còn ở địa phương công việc rất bận rộn, không có nhiều thì giờ nghiên cứu học tập. Nhất là thư viện trường Nguyễn Ái Quốc lúc đó sách nước ngoài rất nhiều, kể cả sách kinh tế của chủ nghĩa tư bản như của: Recardo, Adam Smith, Keynes v.v... tôi ham đọc sách quên cả mọi việc, chủ nhật nào cũng ở lại trường mượn sách đọc, đọc đến vàng mắt, khi ra ngoài trời chỉ thấy màu vàng hàng mấy giờ liền. Ngoài học tập, nhà trường còn cho mỗi tổ 10 m2 đất để tăng gia cải thiện. Tổ tôi có hai đồng chí Đặng Việt và Nguyễn Văn Hân rất chăm chỉ lao động. Tuy có 10 m2 đất mà chúng tôi trồng hơn mười thứ rau, mùa nào thứ ấy, đủ rau ăn cho tổ, còn bán cho bếp nhà trường. Khi bế mạc, chúng tôi có đủ tiền để liên hoan mời cán bộ nhà trường đến dự, tiêu chuẩn mỗi người một con vịt. Còn thừa 75 đồng, chúng tôi gửi biếu tạp chí Học tập nay là tạp chí Cộng sản.

41. Nói về tăng gia, tôi phải nhắc đến đồng chí Đặng Việt, con ông Đặng Hướng, Tổng đốc Nghệ An. Cải cách ruộng đất qui gia đình đồng chí Việt là đại địa chủ, cường hào gian ác. Đồng chí Đặng Việt lúc ấy là Trung đoàn trưởng trung đoàn Cao Bắc Lạng, nổi tiếng một thời đánh Pháp trên đường số 4, đoạn Cao Bằng - Lạng Sơn được gọi “Vua đường 4”. Vì thành phần, đồng chí Đặng Việt phải chuyển ngành sang Tổng cục Thủy sản. Trong học tập đồng chí rất chăm chỉ, cùng học tiếng Anh với tôi, nhưng đồng chí rất giỏi tiếng Pháp nên cũng giúp tôi được nhiều.

Ưu điểm nổi bật nhất là thành tích tăng gia trồng rau. Cứ tối đến, anh tranh thủ xách cái thùng lấy phân, sang khu chung cư của Ban Lịch sử Đảng phía bên kia đường, đối diện với trường Nguyễn Ái Quốc, lấy phân bắc về bón rau. Đồng chí chịu khó cả lao động lẫn học tập. Tôi với đồng chí Đặng Việt ngày nào cũng nấu canh rau đủ loại. Chúng tôi lấy cơm tập thể của trường, đem về phòng nấu thêm thức ăn. Nhất là năm thứ hai, các lớp khác bế mạc, nên học viên được ở nới rộng 2 người/phòng, thay vì 4 người/phòng. Có phòng chỉ có một người, nên cuộc sống tinh thần, vật chất của trường được cải thiện rõ rệt. (Nay đồng chí Đặng Việt đã hơn 80 tuổi, người rất khoẻ và đánh tenis rất giỏi, thỉnh thoáng vẫn lại chơi với tôi và cho sách mới viết của đồng chí).

42. Hai năm học tập nghiên cứu ở Học viện, thực sự tôi có thì giờ nghiên cứu lí luận có hệ thống, về lí luận Marx-Lénine. Tư tưởng Hồ Chí Minh, triết học trước Marx và các học thuyết kinh tế của các nhà kinh tế tư bản chủ nghĩa, tạo cái vốn lí luận để sau khi ra trường xử lí các vấn đề yên tâm hơn, không sợ sai như trước. Khi học, tôi rất chú ý so sánh cái cũ, cái mới, những cái Marx kế thừa, những cái Marx sáng tạo, để thấy rõ thiên tài của Marx là ở chỗ nào. Cả Lénine cũng vậy. Tôi phân tích và ghi chép những cái mới của các vị và suy ngẫm vận dụng vào thực tế Việt Nam, nên ít giáo điều hơn. Khi viết thu hoạch hoặc kiểm tra, các giáo viên thường thích những lập luận mới của tôi.

Khoá V coi như khoá có nhiều cải tiến trong học tập, thảo luận, đọc nhiều hơn giảng, thoải mái hơn, viết thu hoạch kiểm tra cũng thoáng hơn trước, không cho điểm, viết đạt yêu cầu trung bình là xong. Sau hai năm học tập, thực sự tôi thấy mình trưởng thành, hiểu biết lí luận có hệ thống, so sánh được cái hay cái dở của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Vì tôi công tác hành động cụ thể nhiều ở địa phương, làm thiết thực, nên đối chiếu với lí luận nhìn vấn đề đúng sai rất rõ. Không còn “tù mờ” như trước.

Ngoài học tập lí luận tôi học xong chương trình văn hoá lớp 7 và lớp 8. Anh, Pháp văn cũng được nâng lên. Hán tự tôi cũng đọc xong cuốn Gia (nhà) của nhà văn Mao Thuẫn (ta dịch sang tiếng Việt sau này là Gia đình), do đồng chí Lâm Bá Cương cùng tổ cho mượn. Khi còn nhỏ tôi học chữ nho, văn viết theo văn phạm cổ điển Trung Quốc, gọi là “Văn ngôn”, còn văn nói gọi là “Văn bạch thoại” hoặc gọi văn phạm “phổ thông”, nên nhiều đoạn hành văn tôi không hiểu, phải hỏi đồng chí Cương.

43. Lúc nhỏ tôi đã đọc hết các chuyện Tam quốc, Đông chu Liệt quốc, Tây Hán chí, Phong Thần, Thủy hử (108 anh hùng Lương Sơn Bạc), văn họ viết theo ngữ pháp văn ngôn, tuy thế lúc đầu cũng phải có người hướng dẫn... nhưng dễ đọc. Tôi không nói tiếng Trung Quốc được nhiều, nhưng đọc thì tốt, nên sau này tôi vẫn mua Nhân dân Nhật báo Bắc Kinh để đọc.

Kết thúc lớp học dài hạn chính trị cao cấp, tôi về Hải Phòng, lúc này đang chuẩn bị Đại hội Đảng bộ lần thứ III (Đại hội Đảng tỉnh, thành phố 2 năm hoặc 2 năm rưỡi họp một lần, không phải 5 năm một lần như bây giờ)

Đại hội lần này diễn ra không suôn sẻ lắm!

Đại hội dự kiến bầu 35 uỷ viên Ban Chấp hành, Đại hội chỉ bầu được 22 đồng chí. Nhiều đồng chí Thành uỷ viên cũ không trúng cử (trong số hơn 10 đồng chí trong Thành uỷ cũ không trúng cử, có 4 đồng chí uỷ viên thường vụ, một Phó Bí thư Thường trực). Tôi vẫn được bầu vào Thành uỷ và được phân làm Trưởng ban công nghiệp kiêm Trưởng ban Khoa học kĩ thuật. Số Thành uỷ viên bầu được ít nên các đồng chí thành uỷ phải kiêm nhiệm nhiều công việc, rất bận rộn.

44. Khi chiến tranh phá hoại miền Bắc mở rộng, tôi được phân công sơ tán triệt để các xí nghiệp và nhân dân thành phố ra ngoại thành, trừ xí nghiệp xi măng không thể chuyển ra ngoại thành được, ta phải bám trụ để sản xuất tiếp.

Đồng thời xây dựng một xí nghiệp xi măng sản xuất theo kiểu nửa thủ công, nửa cơ giới ở Minh Đức (sau này thường gọi là xi măng Minh Đức). Công việc chuẩn bị sơ tán lần này rất khẩn trương và triệt để. Tôi phải huy động hầu hết cán bộ Ban công nghiệp và Ban Khoa học kĩ thuật làm công tác sơ tán, phối hợp với các đồng chí Phó Chủ tịch khối bên Uỷ ban nhân dân Thành phố như đồng chí Hồng Cẩn, đồng chí Kim Tái. Công việc sơ tán nhân dân và xí nghiệp cơ bản xong.

Đêm 16-4-1972 Mỹ đem máy bay vào đánh phá Hải Phòng. Ta biết trước địch sẽ dùng B52 ném bom khoảng 10 tiếng. Ta huy động mọi lực lượng để vận động nhân dân sơ tán. Nhưng nhiều người còn do dự, vì những năm trước địch chỉ đánh bom bằng máy bay thường, đánh rồi lại nghỉ, nên nhân dân coi thường... không chịu đi sơ tán triệt để, nhất là lần này đi sơ tán gặp rất nhiều khó khăn về đời sống. Khu công nhân xi măng thì phải bám trụ để sản xuất.

Tối hôm đó khu phố đã huy động tổng lực cán bộ đi vận động nhân dân sơ tán trước 10 giờ đêm, nhưng vẫn còn người ở lại.

Đúng 12 giờ đêm 16-4-1972 Mỹ cho hàng loạt máy bay B52 thả bom rải thảm khu thượng Hạ Lí, An Dương. Chúng tập trung vào khu Thượng Lí, có nhà máy xi măng và kho Thượng Lí, Sở Dầu... Nhà máy xi măng coi như thiệt hại lớn nhất, chỉ còn 3 ống khói (nhưng chỉ sau 3 ngày, khói trắng xi măng lại nhả khói lên bầu trời cao). Nhà cửa của nhân dân bị san bằng, bom Mỹ đã giết hại dân thường, hầu hết bà già trẻ em chui trong hầm kèo tre, không kiên cố. Riêng khu Thượng Hạ Lí có 960 người bị chết, còn khu An Dương sơ tán triệt để hơn, mật độ bom rải mỏng hơn, nên thiệt hại về người không lớn.

Trận ném bom ác liệt này làm cho đoạn đường số 5 từ cầu xi măng đến ga Thượng Lí hỏng nặng. Đường bị phá, đất lật lên ngập đường, có những đống đất cao hàng mét. Khi đến để giải quyết hậu quả, xe tôi phải bỏ lại sau, đi bộ. Lúc đó còn chưa sáng rõ, tôi thấy một đồng chí bộ đội lò mò đi về hướng tôi. Đến gần mới biết là tướng Đặng Kinh, Tư lệnh quân khu III vừa ở trong nhà máy xi măng đổ nát ra. Chúng tôi gặp nhau, trao đổi một vài việc cần làm ngay, rồi chia tay nhau, để đi vào công việc của mỗi người.

Thời gian từ tháng 4-1972 đến ngày kí Hiệp định Paris tháng 1-1973 là những tháng ngày chống chiến tranh phá hoại ác liệt nhất của Hải Phòng. Sau trận ném bom B52 rải thảm đầu tiên, địch thả thủy lôi phong toả Cảng. Đêm ngày chúng cho các loại máy bay vào ném bom, bắn phá. Chúng đánh không theo một qui luật nào, nên việc sơ tán nhân dân nội thành lúc này hết sức khẩn trương và triệt để. Có những đêm tôi kiểm kê nhân dân ở nội thành, chỉ còn 7.000 người, đều là những người có trách nhiệm phải ở lại.

Cơ quan tôi không ở số 7 Đinh Tiên Hoàng mà phải sơ tán xuống số 44 Lạch Tray, là trụ sở của Ban Khoa học kĩ thuật, xa Cảng và nhà máy xi măng hơn. Lúc này các con tôi đều đi sơ tán, nhà tôi là Bí thư Đảng uỷ kiêm Phó Giám đốc Công ti Kho vận nội thương, hàng ngày vẫn phải nhận hàng, bảo quản kho hàng hoá ở rải rác khắp nội thành.

Chúng tôi cùng ở 44 Lạch Tray, phải đào hai hố tránh bom cách nhau khoảng 50m ở ngay trong cơ quan, đề phòng rủi ro, còn có người trông nom 4 con nhỏ. Có lần chúng tôi chuẩn bị bữa cơm chiều, mua được con vịt chưa cắt tiết, để ở giữa sân, thì máy bay đến thả bom ngay nhà bên, mảnh bom văng cắt đứt đầu con vịt. Cũng may chúng tôi đã xuống hầm, mọi người không việc gì!

Khi “máy bay địch đã bay xa, mọi việc trở lại bình thường” tiếng loa của Đài phát thanh thành phố vừa phát, chúng tôi chui ra khỏi hố cá nhân, thì thấy con vịt mất đầu, lăn ra chết ở giữa sân Ban Khoa học kĩ thuật. Sự sống chết lúc này, cảm thấy nó nhẹ nhàng quá! Chẳng ai quan tâm đến con vịt, mà mọi nhà xoay quanh vào bữa cơm chiều cho nhanh, đề phòng máy bay địch trở lại đánh ban đêm...

Giặc Mỹ muốn biến Việt Nam trở lại thời kì đồ đá. Hải Phòng là cửa ngõ của miền Bắc ra biển, Hạm đội 7 của Mỹ luôn luôn túc trực ở đây. Các loại máy bay đi đánh phá miền Bắc, khi về qua Hải Phòng, còn quả bom, viên đạn nào chúng đều trút xuống, “góp phần đưa Việt Nam về thời kì đồ đá” vừa nhẹ máy bay, đỡ nguy hiểm khi hạ cảnh xuống “Hàng không mẫu hạm” đỗ ngay trên vịnh

Những ngày này cho đến kết thúc cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, kí hiệp định Paris, không đêm nào tôi vắng mặt ở Hải Phòng. Có những đêm tôi đi kiểm tra việc sơ tán của nhân dân ở các khu phố, ra đến Bến Bính thì còi báo động vang lên, đèn thành phố tắt hết. Có đồng chí cùng ngồi trên xe với tôi, bảo tôi chạy vào số 3 Cù Chính Lan, trụ sở của Sở Công nghiệp, xưa là nhà Bank của Pháp, xây dựng kiên cố, chui xuống tầng hầm là yên tâm. Tôi bảo đồng chí lái xe, tắt đèn chạy về số 44 Lạch Tray. Tôi nói đùa với các đồng chí: “cứ về đất Thánh...”.

Đến 44 Lạch Tray chúng tôi vừa chui xuống hầm thì bom nổ khắp nơi trong thành phố. Sau khi máy bay địch đã bay xa, tôi được thông tin địch ném bom đúng vào số 3 Cù Chính Lan, sụp hẳn một gian nhà 2 tầng, mọi người “hú vía”. Từ đó anh em bảo tôi là tạng người “sống dai”, đã chết hụt khi bị tra tấn, vứt nhà xác Côn Đảo cũng không chết... Trong chiến tranh, trước cái sống cái chết quá dễ dàng, “tâm linh” mờ ảo, chẳng có cơ sở khoa học gì, đôi khi chỉ dựa vào những suy đoán vớ vẩn cũng làm cho người ta yên tâm hơn... Đồng chí Tấn thường nói với mọi người: “Cứ đi với ông Thành là yên tâm, không chết đâu mà lo...”. Lòng tin không có căn cứ khoa học ấy đã giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ một cách nhanh, gọn.

45. Như khi đồng chí Bí thư Thành uỷ Trần Kiên giao nhiệm vụ cho tôi làm Trưởng đoàn ra Cát Bà kiểm tra đôn đốc phân tán kho tàng ở thị trấn Cát Bà, di dân vào trong núi, đề phòng địch tập kích bất ngờ bằng không quân... Những người ra đi cùng tôi không hề ngại ngần. Lúc này cảng Hải Phòng bị giặc Mỹ phong toả bằng các loại thủy lôi, loại hẹn giờ, loại do chấn động sẽ nổ. Chúng làm cho tàu của thế giới không dám vào Cảng. Hôm trước ta khai thông được luồng nào, hôm sau chúng lại rải thủy lôi tiếp. Ta dùng mọi kĩ thuật để phá thủy lôi, nên cũng hạn chế được ít nhiều tác hại của chúng.

Các cửa sông ra vào cảng như cửa Nam Triệu, Lạch Huyện, chúng rải thủy lôi rất dày. Ta phải đặt nhiều chòi canh ven các cửa sông, nhất là từ Phao số 0 trở vào. Các chòi canh phải đếm từng quả thủy lôi địch rải xuống, đánh dấu toạ độ vị trí có thủy lôi để thông báo cho các tàu qua lại. Do đó không một tàu nào bị nạn thủy lôi cả.

Một vài tàu đánh cá nhỏ chủ quan, cho là chấn động của máy nhẹ, thủy lôi không nổ, nên có một vài trường hợp đụng phải thủy lôi nổ, nhưng thiệt hại không lớn. Đoàn tôi gồm 14 cán bộ, do tôi làm Trưởng đoàn, đồng chí Vũ Minh Chính, Phó Ban Tuyên huấn, đồng chí Nguyễn Đình Nhiên, Phó Ban Tổ chức làm Phó trưởng đoàn. Đoàn ra Cát Bà phải đi làm 2 chặng đường: đoạn 1 bằng thuyền buồm, và chèo rất nhẹ nhàng, vượt qua sông Bạch Đằng sang đảo Cát Hải, rồi đi bộ qua đảo Cát Hải.

46. Đến xã Lương Năng, tàu hải quân hoá trang đưa chúng tôi qua bến Gót, đi ra thị trấn Cát Bà, hết 2 tiếng đồng hồ, theo ven núi ít có thủy lôi. Nguy hiểm nhất là qua bến Gót. Thủy lôi giặc thả rất dày, tàu vượt qua bãi thủy lôi, mọi người im phăng phắc. Đồng chí nào cũng được hải quân cho mượn một phao buộc ngang ngực. Các đồng chí hướng dẫn ngồi lên mui tàu, nếu thủy lôi nổ nó tung người lên, các đồng chí sẽ vớt. Trong lúc mọi người lo lắng, đồng chí Tấn là cán bộ Ban Công nghiệp thường đi công tác với tôi, người Bình Định, lại nói vui: “Đi với ông Thành thủy lôi nó không nổ đâu!.” Mọi người phá lên cười, quên cả sự nguy hiểm.

Ai ở lâu Hải Phòng thời trước, mới thấy hết khó khăn của đường ra đảo Cát Bà, Cát Hải như thế nào. Mỗi tuần chỉ có 3 chuyến ca nô chở khách, còn lại là đi nhờ thuyền đánh cá, đi “đâm độ” từ bến Bính, hoặc cửa Cấm ra Cát Hải, rồi lại thuê thuyền đánh cá ra Cát Bà, không có lối đi bộ... Mới thấm thía vì sao con đường xuyên đảo ngày nay được nhân dân đón nó như sự “đổi đời” của mình.

47. Đoàn tôi ra đảo công tác hơn ba tuần, mọi người rất hăng hái làm việc. Ở thị trấn rồi về các xã Trần Châu, Gia Luận, Xuân Đám, Việt Hải... toàn đi bộ leo núi. Giữa Đảo cá, mà ngày nào cũng chỉ có rau cải, rau muống luộc chấm nước mắm và ít cá khô. Mãi đến hôm Đoàn ra về, đồng chí Lê Nam, Bí thư Huyện uỷ mới bắt con gà mái của nhà nuôi, làm thịt chiêu đãi đoàn. Trong hơn 3 tuần làm việc ở thị trấn Cát Bà, việc đầu tiên là chuyển nhanh 300 tấn gạo dự trữ và chuyển hết dân vào hang sâu, giáp với vườn Quốc gia.


Chúng tôi cùng huyện uỷ, UBND huyện Cát Hải, tổ chức các cuộc nói chuyện về âm mưu địch, việc chúng đánh bom thị trấn Cát Bà chỉ còn là ngày một, ngày hai. Nhân dân cần đi sơ tán triệt để. Sau một tuần toàn cơ quan Huyện uỷ, Uỷ ban, lui vào sâu trong xã, làm việc trong các hang núi an toàn. Sau đó chúng tôi đi xuống các xã thuộc đảo Cát Bà để tuyên truyền chiến thắng ở miền Nam và chiến thắng ở miền Bắc, chống chiến tranh phá hoại của Mỹ.

48. Cát Bà xa thành phố theo đường “chim bay” khoảng 45 km, cách Đồ Sơn 30 km, đi phải hết 4 giờ bằng đường thủy, trong thời bình, còn trong chiến tranh đi lại rất vất vả không biết đâu mà tính. Việc đi bộ leo trên vách núi từ thị trấn Cát Bà, qua đèo Khế vào các xã Trân Châu, Xuân Đám nếu người yếu tim cũng có thể rơi xuống biển. Đoàn chúng tôi lặn lội về hết các xã, xã xa nhất là Việt Hải, vừa đi vừa có dân quân đi trước chặt cây, dọn lối cho đoàn đi, phải hết 4 giờ mới đến được xã. Nếu sang xóm Trà Báu phải mất thêm 1 giờ leo núi nữa. Mọi công việc được giao, chúng tôi đã hoàn thành trong hơn 3 tuần. Hôm ra về, chúng tôi đi bộ đến xã Hiền Hào rồi sẽ có thuyền của thành phố ra đón ở bến Hiền Hào.

Đoàn chúng tôi chào tạm biết đồng chí Lê Nam và các đồng chí Huyện uỷ, Uỷ ban huyện Cát Hải.

49. Đồng chí Lê Nam nói đã điện về Thành uỷ, khoảng 4-5 giờ sáng sẽ có thuyền đón Đoàn ở bến Hiền Hào. Tôi hỏi đồng chí Nam điện bằng điện thoại hay mật mã? Đồng chí Nam nói đánh điện thường (claire). Tôi nói ngay “Thế thì nguy hiểm quá, địch sẽ phục kích chúng ta”. Chúng tôi quyết định cách đi, không đến Hiền Hào nữa, mà ở xóm trong gần lâm trường Cát Bà, leo qua núi sang xí nghiệp muối Phù Long, nhờ thuyền buồm của xí nghiệp chở đoàn về bến Máy Chai, ô tô của Thành uỷ sẽ ra đón. Ngay đêm đó, chúng tôi báo cho xã Hiền Hào biết và đề 86 phòng địch oanh kích sáng sớm, chuẩn bị dân sơ tán, không đốt lửa sớm, không đi làm ra phía bến Hiền Hào. Các thuyền đánh cá phải sơ tán hết, không cho bất cứ thuyền nào tập trung ở bến Hiền Hào...

50. Đúng như dự đoán, sáng sớm hôm sau chúng tôi chuẩn bị ra hầm thì máy bay Mỹ đã đến bến Hiền Hào. Chúng bay đi bay lại, rà sát mặt biển, nhưng mọi vật đều yên lặng, chúng tìm kiếm nhiều lần rồi “cút”. Sau khoảng 1 giờ, chúng tiếc rẻ, bay trở lại. Lúc đó chúng tôi đã ra đến chân núi, vượt núi sang Phù Long, xí nghiệp muối. Mọi người cũng “hú vỉa” vì một sơ suất nhỏ! Lúc đó trời đã sáng, chúng tôi nhìn rõ 2 máy bay Mỹ lượn vài vòng rồi sau mới bay đi.

Đường vượt qua núi rừng sang xí nghiệp muối lần này hoàn toàn mới, không giống như sang Việt Hải. Đi Việt Hải tuy phải phá cây cối, nhưng đã có lối mòn, thỉnh thoảng có người qua lại. Còn đường này phải sử dụng một tiểu đội dân quân của xã Hiền Hào và tự vệ lâm trường đi mở đường, mang theo cả dây leo, thậm chí còn phải làm cả thang tạm để bắc đi qua khe.

Chúng tôi đem cơm nắm đi theo, ăn dọc đường, mãi đến 2 giờ chiều mới sang đến xí nghiệp muối, gặp đồng chí Kích, Giám đốc xí nghiệp, tổ chức cho bữa cơm toàn “cá và muối”. Không có cá to, chỉ có cá lụn vụn khô, nấu “canh chua” và rán. Chúng tôi bày cơm nắm còn lại, và cơm nóng xí nghiệp chiêu đãi đoàn, ăn rất ngon lành. Mọi người nghỉ ngay tại các hang núi Phù Long để chờ tôi đến. Giám đốc Kích trực tiếp lái thuyền buồm của xí nghiệp đưa đoàn về cảng Máy Chai Hải Phòng.

51. Đi thuyền cũng phải lướt qua bến Gót, bên bãi thủy lôi, nhưng bớt nguy hiểm hơn tàu chiến của thủy quân, vì không có động cơ, chạy bằng buồm và lái bằng gỗ. Lúc đó chưa có kênh Cái Tráp, phải qua sông “Ruột lợn”, sông Chanh của Quảng Ninh, qua cửa sông Bạch Đằng, qua kênh Vũ Yên mới về sông Cấm. Đường đi rất dài, chưa đi tắt kênh Cái Tráp mới đào 1982-1983 như ngày nay được.

Thuyền vừa lướt qua bãi thủy lôi, cửa sông Lạch Huyện (bến Gót) thì gặp sự cố rất nguy hiểm. Nước triều đang xuống mạnh, trời tối, chỉ có ánh trăng lờ mờ, nhìn không rõ, thuyền đâm thẳng vào hàng cọc cắm đăng cá trên sông, với hướng gió buồm đang căng. Đồng chí Kích hỏi đồng chí quan sát: “Có cái gì đen...đen phía trước...”. Đồng chí quan sát vội nói to: “Đâm vào đăng rồi”. Tôi ngồi bên đồng chí Kích, thấy đồng chí không nói gì, dùng hết sức vừa lái, vừa buông dây buồm cho thuyền quay ngoắt 180 độ.

Con thuyền nghiêng ngả 2, 3 lần như sắp lật úp xuống nước. Nhưng với tay lái vững của đồng chí Kích, thuyền trở lại bình thường, hướng về thành phố. Đến Máy Chai cho Đoàn lên bờ đồng chí Kích lái tàu về ngay, vì nếu chậm đến sáng, máy bay địch đánh Hải Phòng sẽ không có chỗ ẩn nấp.


52. Khi bắt tay tôi, đồng chí nói: “Lúc đó em không nói gì, nhưng rất lo. Nếu nước đang chảy xiết, thuyền chạy đâm vào cọc và đăng chỉ còn nước thuyền lật úp xuống nước. Lúc đó ai biết bơi bám vào cọc xăm, có người vớt ngay thì sống. Nhưng ban đêm, chưa biết có thoát được ai! Em rất bình tĩnh, cắn răng bẻ lái, chùng dây buồm cho thuyền quay 180 độ mà không để lật thuyền. Thế mới khó. Em là dân Thủy Nguyên, quen sông nước, bình tĩnh mới xử lí được tình huống hôm nay”. Tôi cảm ơn đồng chí Kích.

Về đến trụ sở Đảng, tôi mới nói lại với các đồng chí trong Đoàn, mọi người lại “hú vía” lần nữa.


53. Tôi gọi điện đến nơi sơ tán của đồng chí Bí thư Thành uỷ Trần Kiên xin đến báo cáo. Đồng chí Kiên bảo tôi: “Khuya rồi, về nhà nghỉ, sáng mai đến báo cáo sớm”.

Đoàn chúng tôi về Hải Phòng, sau 3 ngày thì máy bay Mỹ đánh phá thị trấn Cát Bà, cuộc đánh phá mang tính chất hủy diệt. Liền trong một tuần, suốt từ sáng đến chiều, chúng cho từng đoàn máy bay đánh phá liên tục, từ biển vào đánh Cát Bà, qua Long Châu, rồi Bạch Long Vĩ. Chúng tàn sát tất cả cái gì nổi trên mặt đất của thị trấn Cát Bà.


Chỉ sau một tuần Cát Bà biến thành bình địa. Sau hoà bình trở lại, ta mới xây dựng cơ quan huyện vào phía trong, là cơ quan đầu não của huyện Cát Hải. Còn thị trấn, mặt bằng do bom Mỹ tạo nên trở thành mặt bằng xây dựng khu du lịch và Cảng hiện nay, chạy chung quanh vịnh Cát Bà, nơi còn có cái tên quen thuộc của nhân dân địa phương là “Tùng Dinh, Tùng Vụng”.

54. Thương tiếc thay, đồng chí Kích, một con người đẹp trai, tháo vát, có tài như thế lại gặp một thảm nạn hết sức vô lí, ở hiền mà không gặp lành. Hôm đó có cơn lốc và một đám mây tích điện lớn đã gây ra tiếng sét kinh hoàng. Sét đánh trúng xí nghiệp muối, là nguyên nhân cái chết rất thương tâm của Kích. Chao ôi, trong tích tắc Xí nghiệp muối Phù Long mất đi người Giám đốc trẻ đang sung sức mà anh chị em công nhân hết sức mến yêu.

Đã bao năm qua anh lãnh đạo hơn 300 nhân viên, hầu hết phụ nữ chưa chồng, ở một nơi xa thành phố, xa thị trấn Cát Bà anh dành hết thời gian nhiệt huyết vào việc quản lí kinh doanh, quản lí tổ chức nhân sự để mọi người yên tâm sản xuất, chiến đấu giỏi, góp phần bắn rơi máy bay và bắt sống giặc lái trên biển. Riêng tôi càng tiếc một cán bộ dưới quyền năng động, có nhiều triển vọng như anh.

55. Từ chuyến đi dài ngày ra công tác ở Cát Bà - Cát Hải, qua thực tế cuộc sống của nhân dân, tôi biết ước mơ của mọi người trên đảo là có một con đường bộ nối với thành phố. Tôi hình thành một ý tưởng là khi có điều kiện sẽ xây dựng một con đường “xuyên đảo”. Ước mơ, ý tưởng ấy cứ dằn vặt trong tôi từ lần đi công tác dài ngày đầy gian nan và khó khăn này. Các đồng chí trong Đoàn hiện nay hầu hết còn đủ mặt, trừ đồng chí Nguyễn Đình Nhiên mới qua đời năm 2003.

Hôm sau tôi đến báo cáo với đồng chí Trần Kiên, Bí thư Thành uỷ, đồng chí khen Đoàn chúng tôi đã làm tốt nhiệm vụ, sáng tạo, nên đã trở về thành phố an toàn. Sau được mấy ngày, giặc Mỹ đánh phá hủy diệt Cát Bà, toàn bộ cán bộ công nhân viên của huyện Đảo và nhân dân thị trấn không có ai thương vong. Ngay tối hôm đó, sau khi được báo cáo của Huyện uỷ Cát Hải, đồng chí Trần Kiên gọi điện cho tôi, tỏ vẻ rất mừng và nói: “Đồng chí thấy không? Nếu tôi không cử Đoàn ra Cát Bà chuẩn bị sơ tán thì thiệt hại biết bao nhiêu”. Tôi động viên đồng chí Bí thư: “Anh rất sáng suốt...”.

56. Tôi về tiếp tục công việc cũ là phụ trách việc sơ tán và chuẩn bị kế hoạch xây dựng lại thành phố khi hoà bình trở lại. Nhưng việc chính trước mắt vẫn là chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

Trong những tháng cuối năm, Hội nghị Paris đang đi vào thời kì cao trào. Địch càng đánh phá quyết liệt miền Bắc. Hàng ngày từng đàn máy bay vào đánh phá các khu kinh tế, quân sự Hải Phòng, đánh cả vào khu dân cư Cầu Đất, Thượng, Hạ Lí, An Dương, Máy Chai... dù sơ tán đã rất triệt để, số người trong thành phố vẫn còn trên dưới một vạn người có trách nhiệm và lực lượng võ trang, nên ngày nào ít nhiều cũng có người thương vong!


57. Do đó, công việc phòng không nhân dân suốt 24/24 giờ rất căng thẳng. Có khi vừa cất tiếng còi báo yên, tiếng loa phát thanh vừa thông báo: “Máy bay địch đã đi xa, mọi hoạt động trở lại bình thường” thì tiếng còi báo động đã cất lên. Tiếng loa phát thanh lại gấp gáp: “Đồng báo chú ý! đồng bào chú ý! Máy bay địch đang ở phía đông, cách thành phố 30 km... mọi người về nơi trú ẩn an toàn!.” Ngày nào cũng lặp đi lặp lại như vậy. Những người còn ở lại thành phố vì trách nhiệm cũng quen dần, coi rất bình thường cái chuyện báo an, báo động.


Nhưng cũng có việc rất mệt, nhức đầu, không phải chiến tranh phá hoại của Mỹ, mà do mất đoàn kết nội bộ. Tôi phụ trách khối công nghiệp, được phân công chỉ đạo hội nghị kiểm điểm nội bộ của Công ti Gỗ Hải Phòng do đồng chí Hiệp làm giám đốc. Nơi đây nội bộ mất đoàn kết kéo dài giữa các đồng chí trong Đảng uỷ và Ban Giám đốc. Cuộc họp kiểm điểm một tuần tại Xí nghiệp gỗ Hiệp Hưng, khu Hạ Lí. Hầm tránh máy bay ở đây khá tốt. Đang kiểm điểm phê bình, tự phê bình, lại có báo động. Cuộc họp đút quãng, tất cả xuống hầm... hết báo động lại họp tiếp.


58.Tôi không phải người trong cuộc mà là người chủ trì cho các đồng chí kiểm điểm, thế mà người tôi lúc nào cũng như bị sốt, nhức đầu, trán hâm hâm nóng, mồ hôi âm ỉ chảy ra!. Sau khi kết thúc kiểm điểm, tôi tâm sự với một vài đồng chí: “chiến tranh phá hoại của Mỹ cũng không nguy hiểm phức tạp bằng “chiến tranh nội bộ”, thiệt hại đủ mọi thứ, nhất là mặt tinh thần, sức khoẻ”. Tôi bị mệt mất mấy tuần, nhưng mệt hơn cả là nghĩ lại những lời nói của các đồng chí đối với nhau, thật khó có lời văn “tả chân” nào nói hết được!

Cuộc phong toả Cảng Hải Phòng bằng thủy lôi của Mỹ cũng không đem lại kết quả theo mong muốn của chúng. Hàng ngày vẫn có tàu Liên Xô và các nước XHCN ra vào cảng. Việc phá thủy lôi, khai thông luồng lạch cho tàu vào cảng vẫn làm thường xuyên. Địch thả, ta lại phá bằng mọi phương tiện...


59.Đến khi kết thúc chiến tranh, theo Hiệp định Paris, phía Mỹ phải có trách nhiệm phá hết thủy lôi mà họ thả xuống biển nhằm phong toả cảng Hải Phòng, và họ phải luyên bố trước thế giới là đã phá hết thủy lôi. Thực tế thì ta đã phá hết thủy lôi thả theo lòng lạch tàu ra vào. Khi chúng đem phương tiện của Mỹ đến phá, chỉ còn lại những quả thủy lôi thả chệch ra khu vực không có lòng lạch tàu ra vào mà thôi!

Trước diễn biến ở chiến trường miền Nam, trước khi Hiệp định Paris kí kết, canh bạc “khát nước” của Ních-sơn và Kit-sing-giơ đến hồi căng thẳng. Chúng phản bội những điều thoả ước, cho ngừng đàm phán, và dùng B52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972.

Trong những ngày này tôi và 5 cán bộ dưới quyền với một cái xe Ru-ma-ni “đít vuông” (mà lúc đó có cái tên “xe Rumani vừa đi vừa đẩy”) chạy lồng khắp nơi. Đi đâu người ta cũng biết là xe “Ban sơ tán”. Nói vậy thôi, chứ xe chạy tốt, với tài xế Hồng (Ngảnh) thường gọi là “tài Ngảnh” chăm sóc, bảo vệ xe nên mọi chuyến đi do trung uý chuyển 89 ngành “tài Ngảnh” lái đều suôn sẻ. Nhất là những buổi lên Hà Nội báo cáo, phải đi tắt mấy cầu phao, qua phà rất vất vả. Nhiều lúc cầu, phà chỉ cho xe ưu tiên đi. Tài Ngảnh thay áo thường lấy áo bộ đội 4 túi ra mặc, chễm chệ ngồi cầm tay lái. Tôi ngồi bên cạnh cũng bật cười.


60.Nhưng quả thật rất có tác dụng. Anh em bảo vệ cầu phà vẫy tay cho đi ngay. Với bộ quần áo sĩ quan, không đeo lon mà lúc đó cũng rất “hiệu quả”, được qua cầu, phà nhanh; đến họp đúng giờ, lại tránh được nguy hiểm khi xếp hàng qua cầu phà, tâm lí thủ trưởng nào cũng khoái. Đồng chí Ngảnh còn bảo tôi: “Khi chuyển ngành em vẫn giữ lại phù hiệu trung uý, nhưng sợ thủ trưởng mắng không dám đeo”. Tôi bảo đồng chí Ngảnh: “Nộp lại cho đơn vị, kẻo phạm quân pháp, ảnh hướng đến cả tôi nữa đấy!”. Tài Ngảnh đồng ý ngay.

Trận “Điện Biên Phủ trên không” của quân dân ta đánh B52, khiến con chủ bài cuối cùng ấy của Mỹ đem ra thi thố, đã thất bại. Hiệp định Paris được kí kết, hoà bình được lập lại. Phương án sắp xếp dân về hồi cư, qui hoạch lại đường xá, khu phố, những nơi bị bom Mỹ san bằng như khu Thượng, Hạ Lí, khu Sở Dầu, khu An Dương, tôi trình ra Ban Thường vụ, nhưng không được thông qua, vì khó khăn về tài chính. Nhân dân tự do về tranh cướp lại chỗ ở cũ, không ai ngăn cản nổi, nên kế hoạch qui hoạch, cắm mốc cho dân xây dựng không thành công, cứ mạnh ai người ấy làm.

Sau này qui hoạch tốn kém quá! Nghĩ lại rất tiếc. Nếu lúc đó Ban Thường vụ Thành uỷ kiên quyết và UBND thực hiện tốt, thì thành phố sẽ đi vào qui hoạch từ những năm giữa thập kỉ 70 rồi!

61. Sang đầu năm 1973 với thắng lợi Hiệp định Paris lập lại hoà bình ở Việt Nam, quân Mỹ phải rút hết về nước. Một nửa nước đã có hoà bình, chỉ miền Nam còn tiếp tục chiến đấu, chúng ta có nhiều thuận lợi hơn trước. Tình hình giải phóng miền Nam rất sáng sủa và đã có thể dự đoán được ngày thống nhất đất nước.

Sau 9 năm chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Hải Phòng là điểm số 1 đánh phá của máy bay Mỹ, từ ngày 5-8- 1964 cho đến 31-1-1973. Tuy còn phải cảnh giác với âm mưu tráo trở của đế quốc Mỹ, nhưng trong tâm trí mọi người đã có thể nghĩ đến ý tưởng của Bác Hồ: “... sẽ xây dựng đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn...”.

62. Đồng chí Trần Kiên, Bí thư Thành uỷ, đồng chí Đỗ Chính, Phó Bí thư đã tổ chức một đoàn cán bộ chủ chốt thành phố đi thăm Thủy điện Thác Bà, thành phố Việt Trì, Đền Hùng và tỉnh Vĩnh Phú. Tôi là một thành viên trong đoàn với chức danh Trưởng ban Công nghiệp kiêm Trưởng ban Khoa học.


Một cuộc đi khá lí thú; vừa đông vừa gặp nhiều sự kiện. Đồng chí Đỗ Chính, người gốc Hưng Yên nhưng đã nhiều năm công tác tại Phú Thọ, đã làm Bí thư huyện uỷ Vũ Ẻn, nơi có rất nhiều truyền thuyết về phụ nữ Vũ Ẻn. Cùng với Phong Châu, Vũ Ẻn là nơi của những con cháu “chính hiệu” Hồng Lạc. Tôi đi cùng xe với đồng chí Đỗ Chính, được nghe đồng chí kể hết chuyện phụ nữ huyện bắt nạt Bí thư Huyện uỷ, đến chuyện các vị “thầy chùa” đã có hàm sắc Hoà thượng, Thượng toạ, đến cách đi xe đạp, lái xe đạp, nhảy xe đạp của phụ nữ... làm cho chúng tôi cười tưởng “vỡ bụng”.

Trưa hôm đó được Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phú Kim Ngọc, Phó Bí thư Thường trực Hoàng Quy, đồng chí Đô, Chủ tịch UNDN, tiếp đoàn ở cơ quan nơi sơ tán, cách thị xã Phú thọ khoảng 20km, ở trong rừng.

Lần đầu tôi gặp đồng chí Kim Ngọc, con người nổi tiếng “khoán hộ” trong nông nghiệp từ năm 1965, đã bị phê phán và cấm. Tôi thấy đồng chí có vẻ một thầy đồ “nho”, người gầy, mặc bộ quần áo nâu, nói chuyện ít khi cười, kể cả “mỉm cười” cũng không. Tôi tự hỏi đồng chí còn nặng tâm tư hay tính người nghiêm nghị? Đến khi ăn cơm xong, đồng chí Kim Ngọc về phòng làm việc (cũng là nơi ăn nghỉ), tôi đi theo đồng chí và dừng ở cái bàn bằng mấy cây tre làm chân, một tấm phản gỗ để trên. Đồng chí gọi người phục vụ pha trà cho tôi uống.


63. Hồi đó tôi chưa uống trà, chỉ uống nước sôi để nguội, nên xin đồng chí không phải pha trà. Tôi đi vào câu chuyện mà trước khi ăn cơm đã đề nghị với đồng chí, được đồng chí nhận lời tiếp sau khi cơm nước xong. Chung quy vẫn cáu chuyện khoán chui trong nông nghiệp...


Tôi đề nghị đồng chí cho tôi xem Nghị quyết khoán của Tỉnh. Đồng chí chậm rãi, mặt tươi lên, nhưng vẫn không cười, bảo tôi: “Đồ quốc cấm, ông xem làm gì?”. Tuy nói vậy song đồng chí vẫn đứng dậy đi vào nơi để tài liệu lấy đưa cho tôi xem. Đồng chí ngồi kiên nhẫn đợi tôi đọc xong, dù có những đoạn tôi phải đọc đi đọc lại để suy ngẫm. Đồng chí Kim Ngọc ngồi xỉa răng, vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ. Khi tôi đọc xong, trả lại, đồng chí Kim Ngọc hỏi tôi: “Ông thấy thế nào?” Tôi trả lời: “Hay đấy!”. Đồng chí bảo tôi: “Cũng dám khen cơ à ?”. Rồi chúng tôi chuyển sang câu chuyện làm ăn sau hoà bình lập lại, chuyện Hải Phòng bị đánh phá, thủy lôi phong toả v.v... khoảng 30 phút, tôi cảm ơn đồng chí về nghỉ cùng với đoàn ở một lán trong rừng.

64. Sau cuộc gặp đồng chí Kim Ngọc, tôi suy nghĩ rất nhiều về nông nghiệp. Mặc dù tôi phụ trách công nghiệp. Một con người cố nông, tá điền, học hành không nhiều mà suy nghĩ sâu sắc. Xem qua văn bản Nghị quyết, nội dung đơn giản, nhưng điều cốt yếu đã đặt lợi ích của nhân dân, của đất nước lên trên hết, thậm chí trên cả tính mạng người ra Nghị quyết.

Tôi nghĩ lại, cuối năm 1950, khi tôi là Bí thư Quận uỷ Ngô Quyền, cơ quan Quận uỷ đóng ở nhà ông Hạp, Châu Xá, Kinh Môn. Xã tổ chức tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản để chuẩn bị Đảng ra công khai 1951. Cán bộ huyện Kinh Môn có mời tôi đến nói chuyện. Tôi nhớ rất kĩ một câu nói của tôi: “Khi đất nước được giải phóng khỏi thực dân Pháp, chúng ta sẽ không còn có nhà tranh vách đất lụp xụp như nhà ông Hạp...”. Mọi người hồ hởi tin tưởng Cách mạng. Cách làm của đồng chí Kim Ngọc khi còn là Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đã giúp nông dân có nhà ngói, xoá bỏ được nhà tranh vách đất... tại sao lại bị cấm?

Trở lại làm công tác thương nghiệp lần thứ ba

65. Cuối năm 1973-1974 tôi lai được phân công sang làm Giám đốc Sở Thương nghiệp. Những năm trước tôi làm thương nghiệp (Lúc đó trong xã hội còn coi khinh nghề “thương”). Sự quản lí rất chặt chẽ, hàng hoá còn dồi dào, việc bán hàng, kiểm kê hàng ngày đã vào nề nếp. Tôi nhớ lại khi tôi làm Phó Chủ nhiệm Công ti bách hoá, ngày mồng một Tết tôi bán hàng cho anh chị em nghỉ Tết. Chỉ bán 3 mặt hàng: pháo rời, kèn te-te cao xu và kẹo, mà đến tối kiểm kê mất 2 đồng 30 xu, tôi phải móc túi ra đền... Sau này hàng tuần mới kiểm kê, nếu thiếu ghi sổ chịu, còn thừa không bao giờ có cả (?).

Tôi sang nhận chức Giám đốc, xuống các công ti thuộc sở, thấy tình hình khác lắm! Anh chị em bán hàng thì cửa quyền, đời sống khá hơn trước nhiều, không có ai xin ra khỏi ngành... Tôi về tổ vải sợi Hồng Bàng thăm chị em, được chị Mai Thị Đảm và cô Phương cho biết: “Bây giờ khác xa thời thủ trưởng ở đây, bây giờ chỉ có “tiền đồ”, không có “tiền đền” như trước đâu...”.

66. Thế ra quá trình làm “cải tiến”, rồi “3 xây 3 chống”, những kết quả đi đâu hết, mà càng ngày tệ tham nhũng càng phát triển. Tôi nghĩ chữ “Nhân dục vô nhai” của thánh hiền để lại quả là sâu sắc. Chế độ gì đi nữa, không có cơ chế quản lí nghiêm, con người biết quản lí, tạo ra giá trị gia tăng cho toàn xã hội, và phân phối đúng đối tượng tham gia làm ra giá trị gia tăng, thì không có khả năng phát triển sản xuất và không hạn chế tối đa được tham ô lãng phí! Tôi suy nghĩ tìm cách làm cho mậu dịch viên bớt cửa quyền, bán hàng theo tem phiếu, phục vụ bữa ăn sáng cho cán bộ công nhân viên tốt hơn, khai thác nguồn hàng ở các nơi về bán...


Cũng phải thay đổi cả cách tiếp dân, cả sổ mua hàng và tem phiếu. Sở Thương nghiệp có trụ sở to nhất thành phố, nhà băng “Năm sao”, trên đường Trần Phú. Tôi được đồng chí Giám đốc Nguyễn Quốc Hiệu bàn giao. Đồng chí Quốc Hiệu sang làm Giám đốc Sở Thủy sản. Đồng chí Quốc Hiệu cho biết làm thương nghiệp phức tạp lắm! Hàng ngày nhân đến đến đợi mua hàng hoá, tất nhiên phải có tem phiếu nhưng đến cửa hàng, mậu dịch viên bảo: “Hàng hết, hoặc chưa có, về nhà đợi khi có hàng đến mua”. Nhân dân kéo đến Sở khiếu nại. Nhất là anh em thương binh đến Sở tỏ thái độ rất gay gắt, đôi khi làm mất trật tự nữa. Khi đồng chí bàn giao phòng làm việc cho tôi, Giám đốc Quốc Hiệu chỉ cho tôi hai lối đi, để khi cần phải đi lối hậu, thoát ra ngoài.

Có 4 Phó giám đốc (một là nữ) còn 3 là bạn cũ cả. Hai đồng chí Bùi Ngọc Tiễn và Hoàng Văn Được là Phó Giám đốc khi tôi còn làm Chủ nhiệm công ti, các đồng chí đều hợp tác với tôi để thực hiện nhiệm vụ chung rất tốt. Ngày nay chúng tôi vẫn còn lại những tình cảm nồng nàn với nhau, nhất là đồng chí Vũ Hồng Quảng thường xuyên lên Hà Nội thăm tôi với tình đồng nghiệp.

67. Sang Thương nghiệp sau cuộc chiến tranh phá hoại mang tính hủy diệt của đế quốc Mỹ, các công ti, cửa hàng hầu hết bị đánh phá. Tôi tập trung giải quyết ý thức phục vụ khách hàng của mậu dịch viên, trở lại khẩu hiệu: “Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi” của thời kì “cải tiến” thương nghiệp ở Công ti Bông vải sợi may mặc.

Tôi tập trung xây dựng cửa hàng bách hoá tổng hợp Minh Khai, xây dựng lại chợ Sắt, xây dựng lò mổ lợn An Dương v.v..., đồng thời xây dựng hơn 30 ki-ốt, hoặc gian hàng nhỏ bán ăn sáng cho cán bộ công nhân viên. Mỗi buổi sáng phải bảo đảm 150.000 suất ăn sáng trở lên với 4 món ăn mà lúc đó coi là phong phú lắm rồi: phở, cháo, xôi, bánh mì; góp phần cải thiện cho cán bộ công nhân viên, không phải chạy vạy nơi này, nơi khác mới có ăn sáng để kịp giờ đi làm. Từ 4 giờ sáng các cửa hàng đã mở cửa, cũng làm cho không khí sôi động sau bao năm chiến tranh phá hoại ác liệt, giúp cho mọi người thấy thoải mái chút ít.

68. Còn đối với tem phiếu, đặc biệt là phiếu thịt lợn, vải, tôi tuyên bố công khai trong Đại hội Đảng toàn thành phố là: “Ai không mua được thịt và vải cứ mang tem phiếu đến bắt đền Giám đốc Sở thương nghiệp...”. Khi tôi phát biểu xong, có một vài đồng chí bảo tôi chủ quan, sau đại hội họ mang tem phiếu đến đòi, giám đốc không có hàng bán sẽ mất tín nhiệm. Có một đồng chí Thường vụ (nay còn sống, tôi không tiện nêu tên) bảo tôi: “Ông mất hơn chục phiếu vì câu tuyên bố đó đấy...”. Tôi chỉ cười không nói gì.


Vì trước khi phát biểu ở Đại hội, tôi đã cân đối thịt, vải... với số lượng phiếu phát ra thấy trước vẫn đủ và thừa. Tại sao nhân dân kêu ca? Con phe bán tem phiếu xếp hàng mua tem phiếu của nhân dân, cán bộ công nhân viên chức rất đông. Thiếu hàng là giả tạo, do mậu dịch viên thông đồng với con phe không bán hàng cho người có tem phiếu mà dành hàng hoá bán cho con phe kiếm lời đấy thôi.

Thật là bất ngờ! Sau lời hứa của tôi ở Đại hội Đảng bộ Thành phố, không có một ai đem tem phiếu đến bắt đền Giám đốc Sở Thương nghiệp vì không có hàng cả. Tôi xuống kiểm tra các cửa hàng bán 2 mặt hàng chủ yếu thịt và vải, lúc nào cũng đủ hàng bán, nhân dân không phải xếp hàng dài như trước. Sau một năm, số các đồng chí có ý nghi ngờ cho là tôi “đại ngôn” đã bớt hẳn, tôi gây được lòng tin, “lời nói đi đôi với việc làm”, dần dần khôi phục lại uy tín của ngành thương nghiệp. Tôi làm Giám đốc Thương nghiệp 23 tháng thì được cử làm Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân thành phố.

69. Trong những năm tháng chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Hải Phòng, mặc dù công việc bận rộn, gia đình có 4 con nhỏ, nhà tôi cũng phải lo công việc kho hàng rất lớn của Bộ Nội thương, trăm công nghìn việc, nhưng tôi vẫn học văn hoá, học ngoại ngữ. Chiến tranh phá hoại không có lớp học lớn, tôi tổ chức một số anh em cùng học, mời thầy giảng ban đêm, tôi đã học xong lớp 10, để chuẩn bị vào học đại học. Tôi tổ chức học hết chương trình “toán học đại cương” để vào học đại học cho vững, hơn nữa toán sẽ giúp cho công tác chỉ đạo, làm việc khoa học hơn, thiết thực với công việc hàng ngày. Sự học hành của tôi liên tục, không nghỉ lúc nào đến một tháng cả. Do đó, cũng lạo ra được thói quen không bỏ dở, tư duy kiến thức không ngừng nâng cao.

Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

70.Từ đầu năm 1975 việc chuẩn bị cho giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước rất sôi nổi. Chiến công nối tiếp chiến công. Từ chiến trường miền Nam đưa về, hàng ngày tin chiến thắng giòn giã. Nhất là sau khi giải phóng Buôn-mê-thuật, mọi sự chuẩn bị cho việc giải phóng miền Nam, tiếp quản các tỉnh, thành phố, được chuẩn bị ráo riết. Ngành thương nghiệp Hải Phòng phải chuẩn bị hàng nghìn cán bộ cho việc tiếp quản thành phố từ Huế, đến Đà Nẵng...

Khi chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, Hải Phòng một lúc cử hơn 800 cán bộ vào tiếp quản thành phố Sài Gòn. Các cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc đi hết. Cán bộ gốc miền Bắc bổ sung. Bộ máy của Sở cạn kiệt nhân lực. Lúc đó thực sự mỗi người làm việc bằng hai, bằng ba nhưng cũng không thấy mỏi mệt. Sự phấn khởi sung sướng trong toàn dân, trong cán bộ công nhân viên chức, không lời nào tả hết. Bao nhiều năm chờ đợi, một trăm mười ba năm mới có ngày độc lập hôm nay. 93 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và 20 năm dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ, biết bao sự chết chóc, hi sinh, bao nhiều lần nhà cửa bị đốt phá, làm đi làm lại biết bao nhiêu lần! Cơm rau, cháo chia nhau đi sơ tán... nay về sum họp trọn đời, ai mà không cười rơi nước mắt!

71. Riêng tôi càng nhớ miền Nam, nhớ Côn Đảo dữ dội. Tôi chỉ ở tù Côn Đảo và các nhà tù miền Nam tròn một năm, nhưng sao nó để lại cho tôi biết bao kỉ niệm, buồn vui lẫn lộn. Tôi nhớ thế, chỉ muốn bay ra Côn Đảo, xem lại nơi bị địch giam cầm. Không có sự đùm bọc của đồng chí, đồng đội chắc tôi cũng để “nắm xương tàn” trên bãi Hàng Dương - Hàng Keo. Không hiểu có ai giống tôi không? Ở những chiến trường gian khổ, ở nơi bị đày ải, nếu tôi chưa đến được đó thăm lại, thì chẳng mấy đêm ngủ ngon. Trong những giấc mơ, các nơi ấy hiện về như thật. Có giấc mơ vượt đảo, tôi bơi thế nào về đến ao nhà tôi. Khi ở Côn Đảo cũng có nhiều lần tôi mơ vượt đảo, bơi về đến tận sông Tường Vu. Những nơi đó nếu tôi được đến thăm lại thì sau này mới không mơ tới nữa...

Tôi nóng lòng được vào thăm miền Nam được thăm “Má Năm” (bà Nguyễn Thị Phương Lan) một cơ sở cách mạng kiên cường, đã nuôi cán bộ cách mạng từ những năm 1930, như đồng chí Phan Bôi, (năm 1946 là Thứ trưởng Bộ Nội vụ với tên là Hoàng Hữu Nam) rồi đến anh Lê Đình Thụ, Trần Mạnh tức Vũ Quang Đạo và tôi, cùng nhiều đồng chí khác sau này.

Tháng 6-1975 tôi nhận được lá thư, ngoài bì đề: “Gửi chú Duy (tù Côn Đảo), nhờ Thành uỷ Hải Phòng chuyển giúp”.

72. Bóc thư ra xem, là thư của “Má Năm”. Tôi phấn khởi quá. Tôi biên thư cho Má và mời Má ra Bắc chơi. Trong thư gửi cho tôi Má cũng dự kiến ra miền Bắc thăm em gái là bà Nguyễn Thị Phương Hoa, Vụ trưởng cơ quan Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khoá I, đơn vị tỉnh Kiến An cũ.

Tháng 8-1975, má Năm được bác sĩ Trần Huy Bích đưa ra thăm tôi. Vợ chồng tôi và các cháu, bố mẹ tôi, rất mừng được đón bà Năm ra thăm. Má ở chơi miền Bắc khoảng hơn 2 tháng, được đồng chí Lê Đức Thịnh, Chủ tịch UBND Hải Phòng tiếp và mời cơm thân mật. Má chỉ lên Hà Nội chơi 2 lần gồm hơn một tuần với bà Phương Hoa.

Còn Má ở Hải Phòng với vợ chồng tôi và các cháu. Nhà tôi và Má rất “ý hợp tâm đầu”, không lúc nào rời nhau, như mẹ con vậy! Vợ chồng tôi đưa Bà đi chơi khắp Hải Phòng, về quê tôi ở Hải Dương, đi thăm danh lam thắng cảnh ở Hà Nội và vùng chung quanh. Khi ở nhà, bà thêu thùa, may vá cho các cháu đủ loại quần áo. Bốn cháu trai của bà còn nhỏ, nghịch nhiều, quần áo rách đến đâu bà vá đến đó. Lúc ấy vải cung cấp hạn chế, nên bà đùm hai áo rách thành một áo lành. Các cháu mặc khen bà vá đẹp, bà - cháu cùng phấn khởi...

Thăm Côn Đảo sau thống nhất đất nước

73. Tháng 9-1975, tôi biên thư xin phép đồng chí Trần Kiên, Bí thư Thành uỷ vào thăm miền Nam và thăm Côn Đảo, đồng thời đồng chí Lê Đức Thịnh, Chủ tịch UBND 94 Thành phố giao cho tôi vào miền Nam để mua một số hàng hoá với chức danh là Giám đốc Sở Thương nghiệp. Lúc này má Năm còn đang ở chơi với gia đình tôi tại Hải Phòng.

Tôi đến Sài Gòn bằng máy bay quân sự. Lúc đó máy bay chở khách cũng do quân đội quản lí.

Sài Gòn mới giải phóng. Sau 22 năm tôi trở lại Sài Gòn, thấy thành phố đổi thay khá nhiều. Những con đường trước đây tôi qua lại nhiều là Căng Phú Lâm, nhà thương Chợ Quán nay đã mở rộng. Riêng chỗ chữa bệnh cho tù nay làm kho thuốc, vẫn còn nguyên hiện trạng. Căng Phú Lâm, khu hầm giam tù còn nguyên, nhưng bên trên đã thay đổi bằng nhà xây mới.

Tôi đến Thành uỷ Sài Gòn gặp đồng chí Lê Đình Thụ, là bạn tù, cùng trong Đảo uỷ vượt đảo khi xửa. Nay đồng chí Thụ đổi tên là Vũ Hồng, Thành uỷ viên Thường trực Thành uỷ, kiêm Chánh Văn phòng Thành uỷ. Công việc của anh rất bận, nhất là ta vừa tiếp quản thành phố được hơn ba tháng, nhưng anh sốt sắng chuẩn bị cho tôi cùng vợ chồng đồng chí Cao Hồng Lãnh ra thăm ngay Côn Đảo bằng máy bay trực thăng MI 6.

74. Đi từ sân bay Tân Sơn Nhất ra Côn Đảo chỉ hết 45 phút. Hơn nửa tiếng lúc này bỗng dài dặc biết mấy. Bởi tôi nao nức mong sao thật chóng đến giấy phút gặp lại Côn Đảo, nơi địa ngục trần gian mang tên “Pénitencier de Poulo-condore”.

Khi máy bay hạ cánh, một xe Jeep ra đón, đưa thẳng tôi và anh chị Hồng Lãnh đến thăm các trại giam, thăm nhà lao số III và nhà xác Côn Đảo. Lao III lúc đó đang nhốt sĩ quan nguỵ, nên chúng tôi chỉ đứng ngoài ngó xem thôi. Côn Đảo từ lâu đã không chỉ có bốn nhà tù như thời tôi ở đó, giờ cả thảy 9 nhà tù lớn với nhiều nhà tù phụ. Thời tôi, lúc tù đông nhất là 2.300 người, sau này thời Mỹ nguỵ các đồng chí hướng dẫn cho biết có lúc lên đến 2 vạn người. Thật kinh khủng. Đi thăm 4 tiếng liền rồi chúng tôi phải rời Côn Đảo về lúc 15 giờ vì sợ máy bay gặp mưa to gió lớn sắp ập đến không bay được. Đành bịn rịn chia tay Côn Đảo!

Khi chưa được thăm Côn Đảo, chỉ mới tới sân bay Tân Sơn Nhất, tôi hào hứng, phấn khởi bao nhiều, giờ trên đường về lại buồn bấy nhiêu. Đàn ông ít khi khóc, vậy mà suốt 45 phút ngồi trên máy bay nhìn xuống biển cả, tôi miên man suy nghĩ tới từng đồng chí trong số 81 anh em hi sinh trong cuộc vượt ngục ngày 12-12-1952...càng nghĩ càng không cầm được nước mắt chứa chan. Anh chị Hồng Lãnh thắc mắc hỏi han khi thấy tôi cứ khóc. Nhưng có lời nào có thể giãi bày cho anh chị Lãnh hiểu được lòng thương cảm của tôi đối với anh em hi sinh trong chuyến vượt đảo kinh hoàng ngày ấy?

75. Tối hôm đó Thành uỷ Sài Gòn chiêu đãi chúng tôi bữa cơm thân mật. Anh chị Lãnh bảo tôi tường thuật câu chuyện vượt đảo, Nghe xong anh chị Cao Hồng Lãnh cũng ngậm ngùi tiếc cho cuộc vượt đảo không thành. Anh nói: “Các đồng chí dũng cảm mưu trí hơn chúng tôi thời kì 1930-1945”. Tôi nói: “Thưa anh, chúng tôi là tù binh, có điều kiện hơn các anh thời trước. Các anh đều là cán bộ chính trị. Còn mưu trí, dũng cảm thì cũng thế cả...”

Anh cười vui và nói: “Hậu sinh khả uý”... Thế mà sau này một số người xấu vu khống tôi, họ đặt điều: “Sau ngày giải phóng miền Nam, tôi vội vàng vào miền Nam và ra Côn Đảo để sắp xếp che giấu...?”. Từ ngày ra thăm Côn Đảo về, tôi hết nằm mơ vượt Côn Đảo, nằm mơ về tù ở Côn Đảo. Những giấc mơ như thế rất mệt đối với tim và bàng hoàng khi tỉnh dậy hàng giờ! Trong dịp đi thăm miền Nam sau giải phóng, tôi đã kiến nghị với Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Chính phủ 3 việc mà tôi rút ra từ thực tế tiếp quản miền Nam và kinh nghiệm tiếp quản Hải Phòng.

1. Tập trung thu thập chiến lợi phẩm, các kho tàng quân sự, dân dụng, các phương tiện trang bị mà các công sở không dùng hết, đặc biệt các loại hàng tiêu dùng, kể cả ô tô dân dụng, thiết bị xây dựng... đem bán theo giá thị trường, chuyển ra thành vàng hoặc đô la Mỹ gửi vào ngân hàng. Tôi thấy hàng nghìn xe con bỏ khắp sân bay Tân Sơn Nhất, kho quân sự Long Thành.v.v. Ngay khách sạn Oscar, nơi tôi và đồng chí Tích trưởng phòng nghiệp vụ Sở thương nghiệp được Bộ Nội thương bố trí cho ở, chỉ trong 2 tuần, người quản lí khách sạn đến tháo vật dụng mang đi 2 lần. Lần đầu tháo điều hoà nhiệt độ, lần thứ hai tháo đi một quạt trần. Hai chúng tôi ở chung một phòng chỉ còn một quạt trần. Không rõ người quản lí tháo điều hoà và quạt đem đi đâu?

2. Tiền và hàng hoá một số nước viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam, (như Thái Lan lúc đó viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam 2 vạn tấn gạo.v.v.) đều nên bán theo giá thị trường, rồi chuyển thành vàng, đô la Mỹ gửi vào ngân hàng. Tất cả các khoản tiền trên, đợi sau khi qui hoạch, đem ra xây dựng lại đất nước. Không nên vội vàng đem chia, hoặc “gạt” cho mỗi tỉnh một ít, mỗi ngành sử dụng một ít, để sửa chữa xây dựng như lúc đó đang làm.

3. Tập trung cán bộ kĩ thuật thiết kế, xây dựng con đường xuyên Việt, tập trung vốn vào xây dựng để thể hiện ý chí thống nhất đất nước. Mặt khác, về kinh tế, văn hoá xã hội, con đường sẽ tạo ra nhiều thuận lợi cho cả nước, nhất là những tỉnh liên quan đến đường xuyên Việt. Con đường này sẽ có các con đường “răng lược” hoặc “xương cá” chạy rẽ sang 2 bên đến các tỉnh biên giới Campuchia, Lào, Trung Quốc. Tỉnh nào cũng có đường bộ đi đến biển và đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long.

Tháng 6-1976 tôi tham gia Ban Thường vụ Thành uỷ và được phân công làm Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố phụ trách thương nghiệp - tài chính ngân hàng - giá cả - khoa học kĩ thuật. Đến khi vấn đề “nạn kiều” xảy ra, tôi được phân công phụ trách huyện Cát Hải, xây dựng lại hệ thống phòng thủ đảo Cát Bà. Bởi khi chống chiến tranh phá hoại của Mỹ các công sự, hầm ngầm trong núi, cảng Gia Luận... đều do Trung Quốc giúp xây dựng.

76. Từ lần đưa Đoàn ra Cát Bà, chỉ đạo sơ tán nhân dân, cơ quan, kho tàng ở thị trấn, chống chiến tranh hủy diệt và phong toả Cảng của đế quốc Mỹ, trong suy nghĩ của tôi đã hình thành ý tưởng đề xuất xây dựng một con đường bộ từ Hải Phòng ra Cát Bà. Nay có điều kiện, tôi đề xuất phương án “xây dựng đường xuyên đảo”. Ban Thường vụ Thành uỷ bàn. Bàn đi bàn lại mãi, mấy kì họp không thành, vì lí do không có tiền và có ý kiến cho rằng Hải Phòng đi thẳng ra Cát Bà sao được? Biển to, sông rộng, đi thế nào? Có đồng chí bảo tôi: viển vông, duy ý chí, đại ngôn (nói khoác).

Đến tháng 8-1978, các đồng chí Thường vụ nể tôi quá đồng ý một phần kế hoạch, còn tôi cũng thoả hiệp với các đồng chí chỉ cần có quyết định về chủ trương, để có kinh phí xây dựng phần trên đảo, còn các đoạn khác tính sau. Đa số ý kiến Thường vụ Thành uỷ về con đường bộ phải qua bến Bính, qua Phà Rừng, sang Quảng Yên, qua phà sông Chanh, sang nông trường Hoà Bình thuộc khu Hà Nam phong Cốc thuộc tỉnh Quảng Yên cũ, qua phà Cái Tráp đến Cát Hải, qua phà bên Gót sang Cát Bà. Tất cả phải qua 5 phà và qua đất của Quảng Ninh hơn 20km. Khi thông qua đề án tôi rất buồn nhưng phải chấp nhận vì thiểu số. Dù sao thế cũng đạt được 50%, tức là phần trên đảo Cát Bà, Cát Hải sẽ làm trước, còn lại tính sau...

77.Chiến tranh biên giới nổ ra. Nhân dân thị trấn Cát Bà chủ yếu là bà con Hoa kiều, đã bỏ về Trung Quốc hơn 7.000 người, còn lại hơn 10 người là đảng viên, cán bộ người Việt gốc Hoa. Dân số Cát bà lúc đó chỉ còn khoảng hơn 6.000 người, chủ yếu ở các xã làm nông, lâm nghiệp. Nghề đánh cá “vó đèn” hầu hết của bà con người Việt gốc Hoa, nay bỏ về Trung Quốc hết. Bởi vậy nghề đánh cá “vó đèn” từ đây cũng kết thúc vai trò lịch sử của nó. Lúc đó thành phố phải huy động nhân dân các xã huyện An Thuỵ, Tiên Lãng ra Cát Bà canh tác, đánh cá.

Một số bà con tuy cũng có nghề cá, nhưng ra Gia Minh, Bến Gót, không quen với nghề cá biển nên bỏ về, trừ nông dân xã Trường Sơn huyện An Thuỵ còn ở lại Khe Sâu để cày cấy, trồng trọt, cung cấp rau quả cho thị trấn. Tôi ở lại đảo 6 tháng liền, chỉ về Hải Phòng một vài lần trong những ngày nghỉ, kể cả Tết âm lịch 1978-1979, tôi cũng ăn Tết với nhân dân ở đảo. Nhà tôi ở nhà một mình, vì 2 cháu đi bộ đội, 2 cháu đi học xa.


78. Đêm ba mươi rạng mồng một Tết, chị Huyền, Giám đốc Công ti vật tư, phu nhân của tướng Đặng Kinh đến đón giao thừa với nhà tôi cho đỡ buồn? Tết năm đó đón Xuân ở Cát Bà, người không đông như mọi năm, nhưng tôi cùng với cấp uỷ, cơ quan địa phương vận động tổ chức Tết cho nhân dân rất chu đáo. Pháo nổ suốt đêm, làm tan đi cái không khí vắng vẻ của một thị trấn vốn có gần một vạn người, nay chỉ còn hơn nghìn người. Nông dân các xã cũng ra thị trấn vui Tết, cùng với lực lượng vũ trang Trung đoàn 174 góp phần làm cho không khí thị trấn “Tưng bừng khói lửa”.

Tôi cùng đồng chí Quốc Hiệu, Bí thư huyện uỷ, đồng chí Thơm, Chủ tịch Cát Hải, đồng Trần Khoát, Chính uỷ, đồng chí Thông, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 174 và cán bộ chủ chốt trên Đảo, đi khảo sát kiểm tra toàn bộ các hệ thống phòng thủ để tổ chức bố phòng lại, bảo đảm nếu có chiến sự xảy ra sẽ không bị động.

Tôi có 3 cán bộ cùng đi ra công tác ở Đảo là đồng chí Ngấn, Phó Giám đốc Tài chính, đồng chí Tô Xuân Hồ, sau này là Chánh Thanh tra Thành phố, cùng đồng chí Chính bảo vệ. Đoàn chúng tôi được trang bị 2 tiểu liên K54, 2 súng lục.

Đi lại khắp trên đảo, mòn hết hai đôi giày bộ đội Liên Xô viện trợ, mà lúc đó thường gọi là “giầy Kôt-xư-ghin” (tên Thủ tướng Liên Xô lúc đó). Chân tôi bị hỏng mất móng chân trái, do đi liên tục, không để ý, khi tháo giày ra thì móng chân đã đen và rụng luôn. Đến nay nghĩ đến vết thương móng chân bị hỏng tôi lại nghĩ đến đường xuyên đảo... Để chuẩn bị cho việc thi công tuyến đường trên đảo, Sở Giao thông vận lải cử đồng chí Luận, Trưởng phòng, ra làm Phó Chủ tịch UBND huyện phụ trách giao thông, cùng với đồng chí Phòng phụ trách kinh tế, tham gia ban chỉ huy công trường xây dựng tuyến đường trên đảo.

79. Tôi đề nghị UBND thành phố chuyển ngay cho một máy xúc, 2 xe tải, dùng phà chuyển ra bến Bèo để cùng lực lượng thủ công thi công xẻ núi, san đường chạy quanh thị trấn. Khi xe xúc, xe tô tải ra đến thị trấn, nhân dân trong các xã kéo ra xem mấy ngày liền. Đầu tiên có xe chạy trên đảo, nó như dấu hiệu một ước mơ dần dần được thực hiện. Trong khi thi công xẻ núi, làm đường ở thị trấn, tôi cùng các đồng chí lãnh đạo Huyện đi khảo sát con đường từ Đèo Khế vào xã Trân Châu, Xuân Đám...


Đây là con đường mòn, đi lại mang hàng hoá, đồ dùng, phải “thồ” trên vai. Đi bộ cũng rất khó khăn. Đồng chí Ngấn đã có lần trượt chân rơi “tõm” xuống biển, may vớt kịp, không việc gì, chỉ quần áo ướt sũng. Đồng chí giơ tay bắt tay tôi: “May quá! Không bị va đầu vào đá”. Các cụ trong 2 xã Trân Châu, Xuân Đám, kháo nhau: lần này ông Thành làm được con đường vào xã dân sẽ làm “đền thờ”. Có người lại nói: “Ông Thành làm được con đường này thì chó nó cũng đi được guốc!.”. Khi làm xong đoạn đường này, tôi đi xe com-măng-ca vào thông đường và thăm nhân dân 2 xã. Nhân dân reo mừng sung sướng. Tôi nói đùa: “Có ai đem chó đi guốc ra đón tôi không?” Mọi người cùng cười hả hê thoải mái.

80. Đến nay thì con đường này đã trở thành đường “cao tốc” của Đảo, đi suốt từ bến phà Cái Viềng qua đoạn đường này để vào thị trấn Cát Bà, điểm du lịch của Hải Phòng và cả nước. Đến tháng 8-1979 tôi được bầu làm Chủ tịch UBDN Thành phố. Tôi vẫn tiếp tục xây dựng huyện đảo. Tôi đề nghị Ban Thường vụ ra quyết định bổ sung xây đường xuyên đảo đi trên đất Hải Phòng, không qua đất Quảng Ninh, đào kênh Cái Tráp, không phải qua sông Ruột lợn và sông Chanh, rút ngắn hơn 20 km. Như vậy đường bộ, đường thủy ra Cát Bà đều đi trên đất Hải Phòng, rút ngắn tuyến vận chuyển than từ Hòn Gai về cảng Hải Phòng, các tỉnh thành phố khác cũng rút được phí vận chuyển, không phải qua sông Chanh và sông Ruột Lợn.

Để thực hiện được chủ trương xây dựng Đảo, tôi xin với Quân khu III cho đồng chí Trần Khoát về làm Bí thư huyện uỷ, kết hợp với kinh tế quốc phòng. Đồng chí Trần Khoát rất tích cực thực hiện chủ trương của Thành uỷ và UBND thành phố và sau này là đồng chí Nhật.

Dưới sự lãnh đạo của Thành uỷ và UBND thành phố qua các thời kì, dần dần Cát Bà trở thành như hôm nay, xứng đáng là khu du lịch của cả nước, Trung tâm đánh cá của vịnh Bắc Bộ. Đó cũng là ước mơ bao đời nay của nhân dân trên 2 đảo Cát Hải - Cát Bà (tên cũ là Các Bà), niềm tự hào của nhân dân thành phố Cảng “Trung Dũng quyết thắng”.


No comments: