(1921-2003)
Nguyễn Thiên Thụ
Trần Hồng Châu tên thật là Nguyễn Khắc Hoạch, sinh ngày 15-5-1921 tại Hưng Yên, đậu Tiến sĩ quốc gia văn chương Pháp tại Đại Học Sorbonne Pháp. Năm 1957, giáo sư về làm giáo sư dạy văn chương Pháp và văn chương Việt Nam tại trường Đại Học Văn Khoa Sài gòn và Sư Phạm Sàigòn, và giáo sư thỉnh giảng tại Đại Học Huế.
Khoảng 1967-1969, giáo sư làm khoa trưởng Đại Học Văn Khoa Sài gòn. Năm 1970-1974, giáo sư sang Mỹ dạy Đại học Illinois rồi trở lại Việt Nam và kinh qua cuộc đổi đời tại đây. Khoảng 1990, giáo sư sang Mỹ theo diện gia đình bảo lãnh, cư trú tại quận Cam, California. Giáo sư là một nhà văn, đã viết văn, làm thơ và biên khảo với các bút hiệu Hữu Minh, Lân Hồ, Hoàng Tuấn, Trần Hồng Châu. Trước 1945, giáo sư đã viềt các tạp chí Gió Mới, Tiền Phong (Hà Nội). Về Việt Nam, ngoài dạy học, giáo sư đã tích cực hoạt động văn hóa. Năm 1960, giáo sư sáng lập tạp chí Thế Kỷ XX Trong lúc này, giáo sư cũng đã cộng tác với tạp chí Văn Hóa Nguyệt San của Bộ Giáo Dục do giáo sư Nguyễn Đình Hòa làm chủ bút, và Văn Hóa Á Châu của giáo sư Nguyễn Đăng Thục. Ra ngoại quốc, giáo sư tiếp tục làm thơ, viết văn dưới bút hiệu là Trần Hồng Châu, cộng tác với Văn, Văn Học, và Thế Kỷ XXI. Giáo sư đã tạ thế ngày 7-12-2003 tại California, Mỹ quốc, thọ 83 tuổi.
Các tác phẩm :
-Ba Lan vận động độc lập, Hà Nội 1945.
- Le Roman Vietnamien aux 18e et 19e siècles. Đại Học Sorbonne, 1955.
- Contribution à l' Étude Critique et Biographique des principaux Romans en vers Vietnamiens. Đại học Sorbonne, 1955.
- Le Japon et le Traité de Paix de San Francisco, Đại học Paris, 1955.
- Les Relations Russo-Japonaises depuis 1951. Đại học Nancy, 1957.
- Xây Dựng và Phát Triển Văn Hóa Giáo Dục, Lửa Thiêng, Sàigòn, 1970.
- Thành Phố Trong Hồi Tưởng ( Tùy Bút). An Tiêm, Los Angeles, 1991.
- Nửa Khuya Giấy Trắng( Thơ), Thanh Vân,USA, 1992.
- Nhớ Đất Thương Trời ( Thơ), Thế Kỷ,USA, 1995.
- Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây( thơ). Văn Học, USA, 1999.
- Dăm Ba Điều Nghĩ Về Văn Học Nghệ Thuật. ( Tiểu Luận). Văn Nghệ, USA, 2002.
- Suối Tím. Văn Nghệ, USA, 2003.
- Tuyển Tập Trần Hồng Châu. Viện Việt Học, USA. 2004.
Đa số thi nhân đều làm thơ khi còn trẻ, dường như tuổi trẻ là tuổi mơ mộng, là mùa thơ. Chính yêu đương lúc trẻ trung là động cơ sáng tạo của thi ca . Có lẽ Trần Hồng Châu cũng vậy. Thi sĩ đã làm thơ, viết văn rất sớm nhưng vốn là người thận trọng, thi sĩ không muốn in vội tác phẩm của mình. Rồi cơn địa chấn và hỏa sơn bùng nổ tại Việt Nam năm 1975 đã phá hủy một quốc gia và những sự nghiệp văn học, nghệ thuật của cá nhân và của một thời đại. Các tác phẩm thi ca, tùy bút của thi sĩ chỉ mới xuất bản tại Mỹ sau khi thi sĩ rời bỏ Việt Nam, ở vào lứa tuổi thất thập. Trần Hồng Châu đã trở lại với thi văn đàn và đóng góp cho văn học hải ngoại một số tác phẩm quý giá.
Những tác phẩm của thi nhân đã chuyên chở tâm tình của thi nhân. Thi sĩ đã sống trong bao đêm dài bên cạnh những trang tâm tư đang rộng mở ( Nửa Khuya Giấy Trắng), Thi sĩ đã nhớ đến những thành phố Việt Nam thân yêu, và những thành phố của nhân loại mà thi sĩ đã đi qua và đã sống ( Thành Phố Trong Hồi Tưởng). Và bao giờ tâm hồn nhà thơ cũng rộng mở, ấp yêu vũ trụ ( Nhớ Đất Thương Trời). Thi ca và bút ký của Trần Hồng Châu biểu lộ một tình yêu tha thiết. Thi sĩ yêu quê hương, yêu gia đình , yêu giai nhân, yêu nghệ thuật, yêu vạn vật, và lòng lúc nào cũng thảnh thơi, an lạc ( Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây).
I. TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG
Trọng điểm của thơ Trần Hồng Châu là tình yêu quê hương. Ra khỏi quê hương Việt Nam yêu quý, thi sĩ luôn sống trong hồi tưởng:
chúng ta đứng giữa dòng sông ký vãng
dòng thời gian không gian bắt đầu và không tận cùng
chúng ta được kết tụ bằng muôn vàn phân tử của hồi tưởng xa xưa
chúng ta tắm trong quê hương tâm tưởng
trong tuổi ngọc miên trường
(Nửa Khuya Giấy Trắng.Về đây kỷ niệm)
Cũng như những nhà thơ, nhà văn hải ngoại, Trần Hồng Châu đã nhận thức được thân phận của kẻ lưu đày. Thi nhân đã đồng hóa mình với người áo xanh đất trích ngày xưa:
Ai đi mấy độ trăng tròn
Một ta đất trích mỏi mòn áo xanh
( Nửa Khuya Giấy Trắng .Cỏ vong Ưu)
Bên trời lận đận
Lau lách đìu hiu
Ta muốn hôn
Cánh vạc lẻ
Ngoài đầm vắng
Đất bùn xa lạ
Sình lầy quê hương
. . . . . . .
Cây si tùng bách
Linh hồn xứ lạ
Có những tổ chim
Nhìn về phương Đông
. . . . . . .
Người lữ khách cô độc
Bốn bề trùng vây
Thương cây hay thương mình? . . .
( Nhớ Đất Thương Trời. Florida)
sầu đông trong gió lộng
tuyết lạc hoàng hoa tư cố hương
( Hạnh Đến Từng Phút Giây, Hạnh Đến Từng Phút Giây)
Thi nhân đã đau khổ khi nhớ quê hương khổ đau bên kia đại dương:
Mây cho ta nhắn gửi
Lời về thăm cố lý
nơi có từng giọt nước mắt rơi
Trên từng hòn đất xót xa
Nơi có những nụ cười héo hắt
(Nửa Khuya Giấy Trắng . Xuân và biển thiếu quê hương)
Tại Việt Nam, thi sĩ vẫn còn người thân ở lại và thi nhân ước mong ngày trở lại:
Quê hương đau buốt mùa ly biệt
Mộng cũ đoàn viên sớm thỏa lòng
(Nửa Khuya Giấy Trắng. Từ thuở vương xe mối chỉ hồng)
Thi nhân bao giờ cũng nhớ quê hương. Khi đến Florida, một miền nắng ấm đã khiến thi nhân liên tưởng đến Việt Nam:
Ôi cái nóng quê hương
Nóng vỡ tung mặt đất
Nóng nung mủ
Trái bơ xù xì
Nóng vọt máu
Trắi tim lựu đỏ
Nóng căng đứt thần kinh
Chùa Đàn sợi giây huyền thoại
Ta muốn hôn
Muốn hút từng giọt
Cái nóng quê hương
Trên bờ Đại Tây Dương
(Nhớ Đất ThươngTrời . Florida)
Thi sĩ đã sống tại Sài gòn cho nên nhớ Sài gòn nhiều nhất. Trong hồi tưởng của thi sĩ, ta thấy có hai quê hương. Một quê hương tươi đẹp của quá khứ xa xưa trước 1975, và một quê hương tàn tạ sau 1975. Thi sĩ đã tưởng nhớ một Sài gòn thơ mộng:
Ai lên Phú Nhuận Cầu Bông
Hỏi thăm cô Tú có chồng hay chưa?
Xe đi ngang dọc mấy mùa
Xe ơi có nhớ ngọt chua cuộc đời?
. . . . . . . . .
Xe đưa tôi về Nhà Bè nước chảy chia đôi
Lòng phân vân chẳng biết ở hay đi
Xe qua Tân cảng tới cầu ái ân
Cong cong mình liễu như màu mắt em
(Nửa Khuya Giấy Trắng. Xe đi ngang dọc mấy mùa)
Trong tập bút ký Thành Phố Trong Hồi Tưởng, nhà văn Trần Hồng Châu đã viết về Cầu Ông Lãnh, đường Trần Hưng Đạo, và con đò Thủ Thiêm:
Năm tháng qua, như nước chảy dưới cầu Khánh Hội, như mây bay trên mười tám thôn Vườn Trầu, tôi vẫn không hết ngạc nhiên., xúc động đến thảng thốt, mỗi khi mưa Sài gòn bủa vây, tới tấp, hay khi nắng Sài gòn nung nấu đến rùng mình cả một bầu khí quyển đến siêu thực, vàng ánh như tranh Van Gogh với cái chói chang bỏng lửa của trưa hè đúng ngọ. Mỗi khi hoa mai bừng nở ở Minh Phụng hay khi con đò Thủ Thiêm đủng đỉnh bắc cầu cho những Sâm Thương thời đại. Mỗi khi sông Nhà Bè bồn chồn nước chảy chia đôi hy khi tấm lòng son của những trái dưa Hà Tiên bằng ngọc thạch được giải bày trên lề đường đi về Cầu Ông Lãnh trong những ngày đầu xuân. (Thành Phố Trong Hồi Tưởng, Buổi chiều hằng cửu).
Thi nhân đã nghĩ về trường đại học Văn Khoa Sài gòn, nơi ông đã giảng dạy, đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Ông viết với tất cả tấm lòng tha thiết bằng những lời rất đẹp:
Tôi yêu những tấm lòng trinh bạch và màu trắng đơn sơ, hồn hậu, màu thanh bần lạc đạo trên vách tường Văn Khoa, Văn Khoa linh hồn thầm kín của Đại học và quê hương trong những mùa lịch sử, nóng bỏng, sôi động. . . Tôi yêu màu trắng chiều đông, hơi ngả sang màu xám hay xanh nhạt, của trường cũ cũng như trường mới, thoáng gợi cái mong manh, u buồm của lớp phấn light blue shadow nằm dài trên mí mắt, khi những cửa sổ linh hồn bâng khuâng, ngỡ ngàng, dường như mở rộng, cuốn chúng ta vào muôn vạn nẻo đường mịt mùng, xa vời vợi, hun hút sâu như vực thẳm giữa lòng đại dương. . . .Nhớ thương luôn nên mắt có quầng viền!
Tôi yêu màu trắng ngà của tơ lụa nõn, của áo vân Hà Đông trên mình người nữ sinh viên, trên mình đàn bướm trắng biết tha thiết yêuVăn, Triết, Sử ( nhưng cũng biết rùng mình sợ chính những đối tượng quyến rũ đó. . . . những khi mùa hè xích lại gần hay hoa phượng nở nhiều thêm). Đàn bướm trắng ngày ngày chập chờn, tản mác trong giảng đường, ngoài dãy hành lang xa tít tắp và trên ngọn cỏ lá cây của khuôn viên Cường Đễ, lúc nắng chia nửa bãi chiều rồi. . . .
(Thành Phố Trong Hồi Tưởng. Tình khúc đại học)
Thi nhân hồi tưởng sông Hồng và các hệ thống của nó ở tam giác châu đất Băc trong đó có con sông nhỏ chảy qua Hưng Yên là quê hương của thi nhân:
Khởi đầu là dòng sông quê mẹ. Dòng sông bé nhỏ trong hệ thống giăng tơ và kết lưới của sông Hồng ngàn vạn cánh tay vừa dịu dàng, vừa cuồng nhiệt. Sông kia bên lỡ bên bồi. Nước phù sa mầu mỡ, đầy tình mẫu tử. Sông đỏ như son, sông đỏ rực những cánh hoa gạo rơi rắc trên bờ sông vắng lặng. Ai cũng có một dòng sông ấu thơ, một dòng sông quê mẹ. Nằm nôi trong dòng nước đó, nghe nhịp đời và nhịp nước âu yếm, vỗ về.
(Thành Phố Trong Hồi Tưởng, Dòng sông trầm tư)
Thi nhân nhớ đến Hà Nội của ba mưoi sáu phố phường ngày xưa:
Một mùa hương cốm vòng
Ta thở đến trăm năm
Một bàn tay Hàng Đào
Ta mê đến triệu ngày
Bàn tay Tố Tâm
Vàng phai khuê các
Trầm thủy Hồ Gươm
Bàn tay cô Phượng ngoài mồ
Tay Liên gánh hàng đỏ tóc xanh. . .
. ... . . . . . . . .
Rưng rưng sông Hồng
Nghiêng mãi mái thu
Nơi đó ta từng yêu
Những người con gái bàn tay búp măng. . .
( Hạnh Phúc đến Từng Phút Giây .Bàn tay hàng đào)
Ông cũng nhớ Huế:
Tôi nhớ sông Hương. Nhớ đến đau nhói, dòng nước như ngưng đọng trong thời gian ngưng đọng của một đô thành cổ kính, dường như cũng đứng ngoài cái trôi chảy không ngừng của lịch sử. Sông xanh như mắt. Sen nở quanh thành. Hương cỏ bồ và hồn huệ trắng của những người thanh nữ rất đỗi yêu thơ và yêu những người làm ra thơ.
(Thành Phố Trong Hồi Tưởng, Dòng sông trầm tư)
Trí tưởng đã đưa thi nhân trở về quá khứ xa xưa, Việt Nam là một quê hương đã nhiều năm nằm trong đạn bom, khói lửa:
Lạc bước phiếm du mùa đỏ lửa
Cố đô ly loạn khói mờ say
Ai đi chập chờn trong nắng biếc
Mái nhạt đền xưa ẩn bóng mây
(Nửa Khuya Giấy Trắng . Áo biếc mùa xưa)
Nhiều nhà thơ hải ngoại đã viết về lịch sử Việt Nam nhưng không ai viết rõ và thực với phong cách văn hoa bóng bảy như Trần Hồng Châu. Thơ của Trần Hồng Châu một phần mang tính hiện thực. Ông và dân tộc này cũng như Thuý Kiều đã qua khổ ải đoạn trường:
Mười lăm năm tang tóc,
Mười lăm năm hoang tàn.
Mười lăm năm trong sổ đoạn trường.
Có tên!
Thay đời đổi kiếp,
Hờ ơi! Bình minh nào
Đất trời mờ mịt bốn phương.
Lưỡi lê giáo mác chật đường âm binh.
Đô thành không người vuốt mắt,
Bức tử
Niềm oan khiên rừng rực
Thái hằng sơn!
( Suối Tím. Mười lăm năm)
Thi sĩ đã chứng kiến bao cuộc sống của Sài gòn đã bị vô sản hóa, bần cùng hóa sau 1975. Dưới ngọn bút của ông, chúng ta thấy từng cảnh một. Khởi đầu là hình ảnh những chuyến xe lam, xe bus:
Tôi đi xe bus Sài gòn
Xa cảng miền Tây
Xe Cây Mai Phú Thọ Hòa
Xe tã như giẻ rách
Trong lòng quê hương
Rách tơi bời!
Kính chiếu hậu vỡ từng mảng vụn
Như con ngươi mắt trợn trừng nhìn vào thực
tế phủ phàng
Mui xe gồ ghề mu rùa cong cong
Đập mạnh vào sọ não người tài xế già
theo nhịp bánh xe quay
. . . . . . . . . .
Xe nêm cối có đứa trẻ mồ côi
Mặt rầu rầu bán trái cóc với kẹo đồng đôi
Có anh thương phế binh gãy đàn tay trái
Chiều nay ta trở về bại tướng què chân. . .
Có thằng móc túi bị lôi phăng xuống bến
Vào trụ sở quân cướp ngày oai phong
Có hơi người nồng nặc giữa chiều đông
Có mùi rác rưởi trên xe gầy ốm tong teo
Đồng bào tôi áo chằng áo đụp
Mình võ vàng ngàn nỗi thiếu ăn
Đồng bào tôi đi về đâu chiều vô định
Giòng lịch sử lênh đênh chiếc bách
Đồng bào tôi có tội tình gì?
(Nhớ Đất ThươngTrời . Sài gòn xe bus nội ngoại thành)
Tiếp theo là cảnh dân đi kinh tế mới, vì quá khốn khổ phải lui về Sài gòn nằm ngổn ngang như những người tiền sử từ xa xăm hiện về:
Ngã Sáu Sài gòn có những bộ lạc về từ rừng sâu tiền sử
Từ kinh tế mới âu sầu mất hướng
Trại lưu đày dựng bên bờ đại lộ quê hương
Bên kim tự tháp rác rưởi trầm ngâm
Lửa hờn căm đốt sôi lòng nồi nhỏ
Sưởi ấm ruột gan rét cóng giữa trưa hè
Bằng những hạt cơm trừu tượng
Bằng vài lời hứa. . . thiên đường trần gian. . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng. Tháng 4.. . Mưa Ngâu dầm dề)
Thi sĩ đã nói đến thân phận người ca sĩ trong chế độ mới:
chiều nhỏ lệ,
u mê trùm lên đầu thành phố âm u.
sân khấu Sàigon
ngàn năm lời nguyền rủa!
lời ca đoàn ngũ hóa
âm thanh đi vào hợp tác
sóng nhạc từng đợt quốc doanh
như tư tưởng và thơ
hơn một lần rách nát
trong máu sắt bàn tay quản lý.
Tám giờ đêm,
Nhà hát cửa đóng kín
như tâm hồn bức tử
vì cường quyền run sợ
trước mặt tuổi hai mươi
gươm quật khởi
em hát
thờ ơ buông xuôi
hồn đi chơi vắng
sông Volga lạnh buốt
chuông đồng hồ Cẩm Linh
đội vào lồng ngực đau nhói
( Suối Tím. Đoạn trường của ngườI nữ ca sĩ).
Không riêng Sài gòn mà toàn thể đất nuớc Việt Nam đều đau khổ:
Nội ngoại khoa với hằng hà sa số bệnh hoạn
Đau buồn, lở lói
Trong, ngoài trần gian
Trước, sau, hiện tại
Những bệnh căn đè nặng thập tự giá trên
vai con người trôi dạt trong thung lũng
nước mắt không hề vơi
Khoa da liễu vẫn còn ghi nhiều vết sẹo rằn ri
Trên da thịt người dân và đất nước thảm thương
(Nửa Khuya Giấy Trắng .Nhà thương )
Trong thơ, thi sĩ đã nói đến các thuyền nhân vì tự do, vì trốn tránh cộng sản mà bị chết oan ức:
nhưng dưới sâu
sâu nữa
vạn hồn thuyền nhân
sớm đi tối về
vẫn oan khiên
ngập tràn biển đông
. . . . . . .
đoàn hải khấu
ác điểu đen
bỗng đổ sập xuống một trời bóng tối
nữ tu, thôi hết nữ đồng trinh
nghĩa phu thê, thôi lời vĩnh biệt
em gái nhỏ, thôi nhé
dẫm nát một búp hồng non
. . . . . . . . . .
người thiếu nữ trên đảo san hô
ta sẽ dựng tượng em
giữa muôn trùng sóng
hãy nói lên niềm đau dân tộc
hãy vẽ lên dáng đứng quê hương!
(Nhớ Đất ThươngTrời.. Biển oan khiên)
Trần Hồng Châu kết án các cường quốc đã coi Việt Nam như một con tốt trên bàn cờ quốc tế. Và thi sĩ đã gọi chủ nghĩa Marx là ‘’ý thức hệ đen’’ đã gây ra bao thảm cảnh cho dân Việt Nam:
nước biển có giải oan
trắng tinh hồn nhược tiểu?
nước biển có mặn chát
vạn niềm đau?
nước biển có rửa sạch
ý thức hệ đen
đồ thán
chất ngất trời xanh?
(Nhớ Đất ThươngTrời.. Biển oan khiên)
Gần đây nhất là việc buôn bán người tại Việt Nam, do đảng ‘’xuất cảng lao động’’:
Tin AFP rao truyền khắp năm châu bốn biển
‘’Trong năm năm gần đây 5000 (hay 50,000?) con gái Việt Nam đã được bán buôn dưới nhiều hình thức’’
Những người con gái từng thấy trong ca dao
Trong thơ Nguyễn Bính chân quê
Trong thơ Hàn Mặc Tử chị ấy năm nay còn gánh
thóc dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
50 năm trước đây, thời thực dân mấy đời
bánh đúc có xương
Họ còn được là cô dâu trinh trắng nón quai thao về
nhà những chàng trai quan họ quần chùng
áo dài nguyên nếp tình quê
5000 ngưồi con gái Việt Nam ấy, hôm nay sau cơn mê sảng ý thức hệ,
mà họ không hề tạo nên,
đã là món hàng tươi sống xuất khẩu
1. Về những phường dạ lạc Hồng Kông
2. Về những xóm yên hoa Ma Cao
3. Về đảo quốc Đài Loan xả xui bằng chữ ngàn vàng
4. Về vùng Lưỡng Quảng chiều mưa biên giới em đi về đâu?
5. Về niềm tủi nhục ngửa nghiêng Vọng Các thủ đô
ổ nhện suốt sáng thâu đêm. . . .
( Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây. Mẹ Âu Cơ hôm nay khóc hay cười?)
Một đôi khi thi sĩ cũng châm biếm chủ nghĩa cộng sản:
Lằn đường, lane đường
Mù mịt tít mù
Chạy mút mùa như đời cải tạo không án lệnh
Chạy phân minh nhị nguyên
Như đường ranh tư bản dẫy chết. . . vẫn sống nhăn răng
Như đường ranh vô sản tiến nhanh tiến mạnh về thiên đường mù
(Hạnh Phúc đến Từng Phút Giây . Buổi chiều góc cạnh)
Thi sĩ tin tưởng một ngày kia dân Việt Nam sẽ vùng lên đập tan xích xiềng để giành lấy tự do:
nhất định
sấm sét cuồng phong sẽ vùng dậy
từ những đốm lửa nhỏ
từ những di động vi ba
Tần Thủy hoàng chết khô
Trong lửa đỏ Hàm Dương
phần thư! phần thư!
nhưng bài thơ vẫn tồn tại
trọn vẹn
ung dung
trên nẻo đường khai phá
nẻo đường tự do
(Hạnh Phúc đến Từng Phút Giây. Làm thơ sau cơn hồng thủy)
Trần Hồng Châu là người yêu nước, thương dân, là người quốc gia chân chính, người trí thức chân chính , và có ý thức chính trị rất cao.
II.TÌNH YÊU GIA ĐÌNH
Rất ít nhà thơ nói đến gia đình trong tác phẩm của mình. Trần Hồng Châu thì khác. Ông là một người thâu thái Tây học trọn vẹn nhưng vẫn giữ tâm hồn Á Đông với đầy đủ trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Thi sĩ đã thờ song thân rất mực hiếu thảo.
Thân phụ của thi sĩ đã cùng thi sĩ kinh qua những ngày đen tối sau 1975 và mất trước khi thi sĩ rời Việt Nam. Bài thơ khóc cha sau đây là một trong những bài thơ hay nhất trong văn học Việt Nam . Chúng ta đã có những bài thơ khóc vợ, khóc chồng, khóc bạn nhưng chưa có bài thơ nào khóc bố mẹ đạt nghệ thuật như bài này. Bài thơ này rất có giá trị vì tâm tình chân thành với nghệ thuật giản dị, câu thơ tự nhiên, mộc mạc không trau chuốt nhưng đã đi sâu vào trái tim người đọc. Bài thơ này cũng cho chúng ta biết tình cảm sâu xa của thi sĩ đối với cha già :
Bố nằm xuống
Bố nằm xuống đất rồi, càng thương bố
đời loạn lạc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố thèm chén rượu nhạt
( một đôi khi thôi, đâu có nghiện ngập gì!)
con cũng chẳng có tiền mua
túi sạch sành sanh
sau mấy chuyến đi chui chẳng thành công
Bố muốn bộ đồ xá xị tầm thường
để bận cho thoải mái
Con cũng chỉ mua được vải tám lai rai
Trông bố ăn
Rất ngon lành
Củ khoai lang buổi sáng
Con muốn khóc quá trời!
Đời loạn lạc
chó nhảy bàn độc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố đi bộ suốt Chợ lớn mới
về Đại thế giới
để dành tiền vé xe buýt
bố mua hai đồng ô mai
một gói đậu phụng
Bên cửa bếp
Hai bố con ngồi nhắm nháp
vị xá muội mặn chát
chua ơi là chua
ôi men đắng cuộc đời!
ngọn gió nào bỗng thổi tứ tung
vỏ lạc lá vàng bay
Hai bố con lặng lẽ
cắn từng miếng me khô
muối ớt cay cay
từng quả cóc ngâm đường
dôn dốt ngọt chua
bố bảo: bố con mình thế mà gân ra phết!
Bố nằm xuống đất rồi, lại càng thương bố
đời loạn lạc. . .
(Nhớ Đất Thương Trời)
Bài thơ này có giá trị ngang bài Thạch hào lại của Đỗ Phủ. Cả hai thi sĩ đều sống vào thời tao loạn và nói về cảnh thời loạn. Cả hai bài thơ đều có lời giản dị, trong sáng mang nghệ thuật tả thực và tính xã hội, nhưng thơ của Trần Hồng Châu còn mang tính chất riêng tư và mạnh mẽ của tình cảm gia đình, của tình phụ tử trong hoàn cảnh khó khăn của gia đình và của đất nước.
Thi sĩ Trần Hồng Châu còn làm thơ khóc mẹ khi thi nhân đã ngoại thất tuần.
Sau cơn sốt nhẹ mẹ đã ra đi trên đường thênh thang
Thanh thản
Nhẹ tênh một vẫy gọi hồn thu thảo
Bên kia bờ vĩnh hằng
Có còn giòng lệ đắng
Có còn đớn đau và biển lớn quên mình?
. . . . . . . . . . . .
Hôm nay Mẹ bước vào
Im lặng Yên Tĩnh Tịch Mịch
Để lại đằng sau các con mẹ cổ lai hy nhưng vẫn là
bé bỏng thuở nào
Hôm nay
Tàn hương và lời kinh bát minh hồng phấn
Rụng xuống cùng những quân bài số mệnh
Cùng nằm im bên chuỗi tràng
Trong sáu bức tường vàng - tâm ngát thơm lòng mẹ
Con máu thịt mẹ
Mẹ bồng một phần con ra đi
Con giữ lại một phần Mẹ
Ở đây bụi đỏ kinh thành
Ở đây bốn biển cùng đành sầu riêng. . . .
(Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây . Mẹ )
Thi sĩ Trần Hồng Châu cũng viết về người vợ hiền của thi sĩ. Hai ông bà đã sống bên nhau cho đến tóc bạc răng long, tình cảm rất thắm thiết. Có lẽ tình yêu ở những vợ chồng già cũng nồng đượm vì người già thì cảm thấy cô đơn. Các con đã lớn, đã đi xa, và bố mẹ cũng đã không còn ở trần thế, mà bạn bè cũng thưa thớt, kẻ mất người còn. Và giờ đây chỉ còn hai vợ chồng già với bao khó khăn của cuộc sống. Nhưng với một nụ cười, và một cử chỉ săn sóc ân cần cũng làm cho nhau hạnh phúc. Bài thơ ‘’Chỉ còn nụ cười em’’ có lẽ được viết trong hoàn cảnh này, lời thơ nhẹ nhàng, thắm thiết:
một bóng ta một mình
đèn khuya mờ giấy trắng
tấc lòng người xưa
trăn trở hôm nay
quá khứ ngàn cân
trùng điệp vẫn vòng vây
tương lai mịt mờ
đường hầm không lối sáng
đời khép kín
trắng đôi tay
hồn ngắt lạnh
chỉ còn nụ cười em
bình minh rực rỡ
ngoài chân trời cuộc sống
không sắc, không vị
không một thanh âm
chỉ còn nụ cười em
mỗi buổi sớm em mời anh
chén trà xanh đầu ngày!
(Hạnh Phúc đến Từng Phút Giây
III. TÌNH YÊU VÀ NGHỆ THUẬT
Nghệ sĩ nào cũng có hình ảnh một vài giai nhân trong tác phẩm. Trong thơ Trần Hồng Châu, chúng ta cũng thấy có nhiều bản tình ca rất đẹp. Bài Bướm trắng là một bài thơ hay:
Sóng xanh xanh, sông chở đầy ân ái
Trường hồng hồng, trường mang mãi tình non
Quá gần nhau sao vẫn còn quan ải
Mấy mưoi lớp phù kiều dáng mắt em!
Chủ nhật dây nắn nót chữ thơ hồng
Lòng phơi phới hội mở gió như nhung
Ghé Thiên Thai anh trao tình thứ nhất
Tay ghi dòng nhật ký buổi tương phùng
Áo trắng xưa bướm cũ còn vương vấn
Đêm thao thức hồn trĩu nặng buồn thơ
Mộng mơ anh say say mầu hồng phấn
Tóc huyền châu trong khung cửa trường bên
Bờ sông thơ gió vương tình áo trắng
Em đi nhanh nón nhỏ gót hồng son
Bỗng hoa lá chập chờn trong vắng lặng
Hồn bâng khuâng rực rỡ ánh lưu ly
Bước ngập ngừng vân vi mi chớp lẹ
Tình mang mang hò hẹn mái đò xưa
Mộng thanh xuân tuổi ngọc về đây nhé
Về đây nhé bướm trắng mộng thanh xuân
(Nửa Khuya Giấy Trắng)
Thi sĩ là người đa tình đa cảm. Thi sĩ đã ghi lại những xúc động khi gặp nhiều giai nhân trong những trường hợp khác nhau, và những góc độ cuộc đời khác nhau. Phải chăng những giai nhân ở đây tượng trưng cho cái đẹp muôn nơi muôn thuở của đất nước Việt Nam tự do, của nhân loại hòa bình? Bài thơ Em là ai? Từ phương trời nào? là một bài thơ xuất sắc:
Người đẹp bao nhiêu từng thoáng gặp
Như gió hội ngộ mây hồng trôi
Bốn phương trời rộng vẫn bồi hồi
Ngàn năm đâu có lại hẹn hò
Em là ai, từ phương trời nào tới?
Chỉ còn lại hương rơi tiếng đoạn trường
Em chợt đến chợt đi tinh cầu lạc
Một cánh bướm, trăng soi vạn nẻo đường. . .
Anh gặp em bé bỏng chiều dạ hội
Mình xoay xoay luân vũ nửa về khuya
Anh thấy em bâng khuâng chân bước vội
Mắt ngỡ ngàng đại lộ cửa thành đô
Anh gặp em vương mắc sầu thương cảng
Cánh buồm trắng ra khơi màu ly biệt
Anh thấy em trầm ngâm buông cây viết
Trong giảng đường tuổi trẻ mắt đầy sao
Anh gặp em reo vui chuyến tàu sớm
Sương gió lạnh anh mê tình sưởi ấm
Anh thấy tóc em mộng hái mơ vàng
Suối Giải Oan về em có giải oan?
Anh gặp em chân đỏ ruộng phù sa
Môi cắn chỉ hồng duyên nếp mới
Anh thấy em bến cũ trời hoa lá
Mái đò đưa sóng mắt gợi tình đầu
Em là mây gió nước sông đày
Em từ đâu tới em về đâu
Gặp em chớp mắt nhớ vạn ngày
Sớm chiều mưa nắng mắt em buồn
Anh đi ngang dọc kinh vỹ tuyến
Nửa đêm chợt tỉnh lại tình em
Lên non xuống biển mộng hư huyền
Tiên về bích động tình rơi cõi trần!
(Nhớ Đất Thương Trời)
Trên đây, Trần Hồng Châu viết bằng lời thơ giản dị, mộc mạc, nhưng qua phần này, thi nhân viết bằng nghệ thuật tượng trưng. Như một khúc đàn đang dạo những âm thanh nhịp nhàng, đều đặn, đến đây, âm thanh, tiết táu đổi khác, đưa người qua một khung trời khác.
Thi nhân lại đưa chúng ta qua một khung trời khác nữa. Thi nhân đưa chúng ta trở về khung trời ca dao với trầu quế, hoa bưởi của thời Nguyẽn Du, Hồ Xuân Hương. Một bài thơ của Trần Hồng Châu rất gần hồn thơ Nguyễn Bính:
Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương
Thời gian tỏa bóng đoạn trường
Thời gian che khuất nẻo đường thiên thai
Tôi từ kinh khuyết một hai
Núi cao cao mãi sông dài dài ghê
Nhớ nhung mấy thuở đi về
Cùng nhau sớm tối lời thề nước mây
. . . . . . . . .
Người thơ thơ cả bàn tay
Em xinh xinh cả nét mày gần xa
Nhà em ở xóm Chợ Ngà
Có giây trầu quế đậm đà ngọt chua
Nhà tôi bên ngõ giếng Chùa
Cuối thôn hoa bưởi nửa mùa ngát hương
Ước gì cho núi bình thường
Cho sông bé nhỏ tôi thường sang chơi. . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng. Ước gì sông rộng một gang)
Bài thơ Em vẫn ngồi đây vầng trăng khuyết là một bài thơ rất đặc biệt vì thi sĩ đã dùng trí tưởng tượng trở về thời xưa khi còn những tráng sĩ, những vương tôn, công tử và những nàng ca kỹ tài sắc lừng danh.
Từ biên cương ruổi ngựa về bắc khuyết
Ta tìm em đâu phải mộng vương hầu
Ta tìm em lạc phách Tây hồ xưa
Những vương tôn ngõ liễu màu hồng phấn
Cung đàn say dàn trải mộng thanh xuân
Gió bụi kinh thành đường vạn dặm
Vàng son cửa võng ngói lưu ly
Em vẫn ngồi đây vầng trăng cũ
Nửa mùa ly loạn nét đan thanh?
Hoa cỏ ngàn năm cỏ hoa xuân
Mây trắng rưng rưng bước lữ hành
Mây trắng về đâu hồn bỏ ngỏ
Nhớ nhung đất Hứa có về chăng
Sông vẫn đò đưa chèo mái cũ
Núi vẫn giăng màn bóng mi xưa?
Em vẫn ngồi đây vừng trăng khuyết
Nửa mùa ly loạn nét điêu tàn
Phấn son lợt lạt buồn năm tháng
Thành quách đau lòng lớp phế hưng
Đá cũng pha phôi màu sương gió
Nhung lụa còn đâu dáng Ngọc Kiều
Đàn kêu như khóc lệ Tầm dương
Nhỏ máu năm dây khúc đoạn trường!
Bốn vách vơi đầy như xa cách
Người đi người ở mấy phương trời. . . .
Ngày mai đây xuất phát lại hoàng hoa
Bóng thời gian bạc ố những phím đàn
Đường Yên kinh vó ngựa chập chờn say
Ai khóc ta như ta đã khóc người
Thôi bút nghiên đàn phách cũng đều sai!
( Nhớ Đất Thương Trời)
Bài thơ này và Bài ca man rợ của Đinh Hùng giống nhau vì cả hai đều đặt bài thơ vào một không gian và thời gian xa xưa, tuy rằng một bên là truyện tình của một tráng sĩ, còn một bên là tâm sự của một dã nhân. Bài thơ này và bài Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ có điểm giống nhau vì cả hai đều dùng chữ và hình ảnh rất cổ kính và theo nghệ thuật tượng trưng.
Những bài Em là hồi tưởng em là âm vang, Chiều đô thành ( Nhớ Đất Thương Trời),Tro tàn kỷ niệm (Nửa Khuya Giấy Trắng) là những bản tình ca rất giá trị.
Một vài bài thơ của Trần Hồng Châu mang một ý nghĩa khác. Giai nhân ở đây là nàng Thơ, nàng Ly Tao:
Em Giáng Thơ kiều mị
Hôm nay ngày của Em
Ngày tôn vinh Thơ
Thơ xóa nhòa biên giới thời, không gian
Thơ không trường phái, không khẩu hiệu
Thơ hoàn toàn giải thoát. . . .
Em Giáng Thơ kiều mi
Gió đã lên!
Anh đang chắp cánh cho Em, cho Thơ
Trên hoa tiên những trang giấy rực màu ánh sáng!
( Nửa Khuya Giấy Trắng, Chắp cánh cho thơ)
Vắng em hồn mộng đỗ quyên
Nước non hiu hắt tiếng huyền bâng khuâng
Ly tao giòng cạn khơi vần
Mưa đan đan mãi giọt sầu ý thơ
( Nửa khuya giấy trắng )
Chính thi nhân đã gọi đó là ‘’em thơ trừu tượng’’:
Em thơ trừu tượng
Hoa vàng phương thảo
Anh sẽ cô đọng thời gian thành một tụ
điểm nóng bỏng đam mê
Để đốt cháy những sa mạc sầu tủi
những băng dương bàng bạc nhớ nhung. . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng.’Em thơ trừu tượng’.)
Thi nhân cho mình là đấng Sáng Tạo , và giai nhân là những sáng tạo phẩm của thi nhân trên đỉnh Thi Sơn:
giờ hợp hôn tình giấy trắng
Anh bỗng thấy mình là người khổng lồ
Thổi sáo ngọc
Trên đỉnh Thi sơn sương mịt mờ
Là Hoàng thiên muôn trượng
Thượng đế cao siêu
Anh tạo nên Em
lấy thịt da Anh đắp tượng hình Em. . . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng. Anh , Em, bài thơ)
Giai nhân nhiều khi là ý niệm trừu tượng, và đó là nghệ thuật trừu tượng của Trần Hồng Châu::
Em và Thơ chỉ là ý niệm
Mông lung cõi trống vẫn muôn vàn
Chiều huyền không hoa trôi cửa động
Cánh bướm hồng vô thủy vô chung. . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng .Ý niệm )
IV. TÌNH YÊU NHÂN LOẠI
Thuở thiếu thời, thi sĩ Trần Hồng Châu đã du học ngoại quốc, sau đó sang dạy học tại Mỹ, rồi trở lại Mỹ quốc sau 15 năm sống trong hỏa ngục. Cũng như đa số người Việt hải ngoại, đã ra ngoại quốc tất tâm hồn sẽ có chút rộng rãi, cởi mở. Là một người có tâm hồn nghệ sĩ và nhân ái, thi sĩ Trần Hồng Châu yêu quê hương , yêu cả loài người, và yêu vũ trụ. Tình yêu của thi sĩ vượt qua giới hạn quốc gia. Trong thơ cũng như trong tùy bút, thi sĩ đã ca tụng những con người và xứ sở đã nở hoa, và đã cho thi nhân những kỷ niệm êm đềm. Tấm lòng của thi nhân ở đây mới đích thực là tấm lòng nhân ái, và tình thương nhân loại:
Tôi yêu Tô Châu, Venise và Thuận Hóa
Sông xanh như mắt
Sen nở quanh thành
(Nửa Khuya Giấy Trắng Chắp cánh cho thơ)
Nhớ một bông hồng Fontenay
Một hành lang biển rộng Sorbonne
Một thảm cỏ đồi Montsouris
Nhớ đôi chân son và hồn song song giữa lòng
ga Saint Lazare một chiều ly bôi mà ánh vàng
cô đọng trên tóc xõa
và trong rượu mạch hoàng hoa. . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng , Paris chiều chia ly)
Tôi là con tàu lênh đênh sóng vỗ
Lắc lư say theo nhịp hải hành
Về những thương cảng buồm thuyền như bướm lượn
Về những chân trời lộng gió biển mù khơi
. . . . . . . . . . .
Lòng Phi châu nóng bỏng
Bến Hồng Hải biển xanh
Aden, đen trong nắng xế
Suez mấy thuở ê chề!
. . . . . . .
Tôi nương theo hướng mặt trời mọc
Về thăm Hương Cảng một chiều xưa
. . . . . . . . . .
Tôi nương theo hướng mặt trời lặn
Về thăm Nữu Ước mỏi chờ mong. . . .
(Nhớ Đất ThươngTrời.. Ở biển về ngòi)
Trần Hồng Châu không những là du khách mà là một người sống trong hồi tưởng, là ngườI lãng tử trở lại quê nhà. Với Trần Hồng Châu, đi du lịch nghĩa là đi tìm lại quá khứ đã mất hay quá khứ mà mình chưa được sống. Trở lại Paris, lòng thi sĩ vô cùng xúc động. Thi sĩ tỏ ra yêu quý những mái trường đại học. Thi sĩ đã ca tụng đại học Sorbonne:
Tôi yêu màu xám Paris của nửa chừng thế kỷ trong những năm 50, màu xám quen thuộc, màu xám huyền diệu mà H. Miller vẫn bùi ngùi cảm động nhắc tới như một nguồn thơ trìu mến, dịu ngọt tuổi thanh xuân... Tôi yêu Sorbonne trước thời chỉnh trang đô thành cuả A. Malraux, Sorbonne chìm đắm trong màu xám ảo diễm đó, vừa mờ mờ ẩn hiện như sương đêm Bắc hải, vừa trong sáng như những lâu đài, đình tạ trầm ngâm soi bóng trên bờ biển Địa Trung.. (Thành Phố Trong Hồi Tưởng. Tình khúc đại học)
Thi sĩ xúc động khi đến đại học Cambridge:
Tôi yêu điệu blue ‘’ Dòng sông xanh’’ của Cambridge, điệu moderato tịch mịch, chầm chậm, nhẹ nhàng, buông lơi, điệu nhạc tươi sáng vừa dựng cho chính mình.. .Tôi yêu những lời nhỏ to của Cambridge thầm thì như rót vào tai.(Tình khúc đại học)
Ông ca tụng đại học Harvard:
Tôi yêu màu nâu pha đỏ, màu đỏ nâu, ấm áp, bền vững - màu bordeau, hay huyết dụ?- của tường nhà Harvard. Ấm áp ngay cả khi tuyết rơi trắng muốt, xóa mờ những bãi cỏ xanh. . .( Tình khúc đại học)
Thi sĩ Trần Hồng Châu yêu vũ trụ, yêu tất cả. Lúc tuổi ngoại thất tuần, thấy ngày ra đi đã gần kề, thi sĩ đã luyến thương những đồ vật đã sống bên thi sĩ nhiều năm.
Đã Ở Cùng Ta
Cánh trà lênh đênh chát
Ngọt chữ thảo Đường thi
Trên hổ phách buồn vui
Ấm chén ở cùng ta
Hồn xưa nhiều hò hẹn
Chữ nhỏ lắm vân vi
Mắt thơ nghiêng nhạc tóc
Sách vở ở cùng ta
Cái ghế ta nghiêng ngửa
Cái bàn ta gác chân
Cây bút mòn giấy trắng
Tay áo mực vết đau
Tất cả ở cùng nhau
Mai này có theo ta
Trong chuyến đi cùng tận
Lạnh đời đếm bơ vơ
Đã cùng ta ăn nằm
Nhớ cùng ta đi nhé!
(Hạnh Đến Từng Phút Giây)
Thế giới thơ của Trần Hồng Châu mang nhiều màu sắc. Thơ của ông có cái cao quý của trừu tượng, đôi khi giản dị và sát thực tế của nghệ thuật hiện thực. Thơ Trần Hồng Châu cũng như con người ông là sự kết hợp tài tình giữa kiến thức hiện đại với nghệ thuật truyền thống dân tộc. Những bài thơ tình của thi sĩ là những bản tình ca êm ái. Trái tim của ông luôn tràn ngập tình yêu quê hương, yêu gia đình, yêu nhân loại, yêu cái đẹp và yêu những sự vật xung quanh. Trong loại này, thơ của ông mang màu sắc tượng trưng nhẹ nhàng kiểu Vũ Hoàng Chương và Đinh Hùng, không khó hiểu như Đoàn Phú Tứ, Xuân Sanh.
Trần Ngọc Ninh đã nhận định khá chính xác về thơ Trần Hồng Châu:
Thơ Trần Hồng Châu là thơ trí thức đẹp một cách trang nhã với nhiều hương hoa kì diệu của bốn bể năm châu và một tâm hồn cao quý luôn luôn rung động theo âm hưởng với tất cả những cái đẹp vi tế của cuộc đời và những hoài ảnh văn chương cổ điển ( Tuyển Tập Trần Hồng Châu xvii).
Thật vậy, văn thơ của Trần Hồng Châu nội dung luôn luôn súc tích, nhưng lời thơ có khi bay bướm , có lúc bình dị, như cung đàn khi trầm khi bổng làm rung động tâm hồn người đọc. Ông là tổng hơp hồn thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ và nghệ của Rimbaud, Verlaine và Ezra Pound.
Nguyễn Thiên Thụ
Canada 2003
No comments:
Post a Comment