Cuộc đấu tranh hệ tư tưởng ngay trong lòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và ý nghĩa của vụ chống Đảng 1967-1968
Duy Tân Trẻ dịch
1 2
Tiểu luận này khảo sát mối liên kết giữa các cuộc đấu tranh hệ tư tưởng trong thế giới cộng sản và những sự kiện xung quanh quyết định phát động cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968. Nó dựa trên những hồi kí, tài liệu từ Văn phòng Thư khố ở London, và một số tài liệu từ các tuyển tập đã bị biên tập ở Việt Nam, cũng như các tạp chí Việt Nam trong giai đoạn này. Đối với những chuyên gia phân tích chính trị của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) trong những năm 60, vẫn có khá ít các chứng từ có thể làm sáng tỏ bản chất sự lãnh đạo và quá trình ra quyết định của Đảng. Năm trước cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân cũng thế: như David Elliott đã chỉ ra trong nghiên cứu gần đây của ông về cuộc chiến ở tỉnh Mĩ Tho (2003), các bằng chứng trong nước trong giai đoạn này không rõ ràng và mâu thuẫn nhau.
Trong cùng thời điểm, những sự kiện chính trị ở Hà Nội vào nửa cuối của năm 1967, khi “vụ chống Đảng” bị phát hiện, mới chỉ được soi sáng qua các hồi kí không chính thức và thư ngỏ của các cán bộ lão thành gửi cho giới lãnh đạo. Chúng ta biết rằng đây là một trong những thời điểm căng thẳng của thế giới cộng sản, khi cuộc Cách mạng Văn hoá ở Trung Quốc đang tiến đến cao trào và mối quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc đã xấu đi nhanh chóng. Tuy vậy chúng ta vẫn biết rất ít về việc liệu sự căng thẳng này có thể ảnh hưởng đến những quyết định về chính sách của Bắc Việt Nam như thế nào. Tác giả bài này kết luận rằng xung đột hệ tư tưởng trong nội bộ lãnh đạo Bắc Việt có một mối quan hệ chặt chẽ với các sự kiện trong những năm 67-68, và các xung đột này đã ảnh hưởng không chỉ đến các quyết định quân sự mà còn cả sự phát triển của Việt Nam thời hậu chiến.
Trong cùng thời điểm, những sự kiện chính trị ở Hà Nội vào nửa cuối của năm 1967, khi “vụ chống Đảng” bị phát hiện, mới chỉ được soi sáng qua các hồi kí không chính thức và thư ngỏ của các cán bộ lão thành gửi cho giới lãnh đạo. Chúng ta biết rằng đây là một trong những thời điểm căng thẳng của thế giới cộng sản, khi cuộc Cách mạng Văn hoá ở Trung Quốc đang tiến đến cao trào và mối quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc đã xấu đi nhanh chóng. Tuy vậy chúng ta vẫn biết rất ít về việc liệu sự căng thẳng này có thể ảnh hưởng đến những quyết định về chính sách của Bắc Việt Nam như thế nào. Tác giả bài này kết luận rằng xung đột hệ tư tưởng trong nội bộ lãnh đạo Bắc Việt có một mối quan hệ chặt chẽ với các sự kiện trong những năm 67-68, và các xung đột này đã ảnh hưởng không chỉ đến các quyết định quân sự mà còn cả sự phát triển của Việt Nam thời hậu chiến.
Giới thiệu
Vụ chống Đảng
Bối cảnh quốc tế và quyết định Tết Mậu Thân
Đối với các nhà phân tích chính trị Việt Nam những năm 60, có rất ít các bằng chứng có thể làm sáng tỏ bản chất quyền lãnh đạo cộng sản và quá trình ra quyết định của nó. Với sự bạch hoá một số tài liệu của Trung Quốc, Liên Xô và một số nước Đông Âu sau chiến tranh lạnh, chúng ta được biết thêm về quan điểm của Việt Nam trong các cuộc đàm phán và thái độ với các đồng minh. [1] Nhưng cho đến nay, chính quyền Việt Nam vẫn công bố rất ít các tài liệu về việc ra quyết định ở cấp cao hơn từ thư khố của chính họ. [2] Một số ít tài liệu thu giữ được trong giai đoạn trước cuộc tấn công Mậu Thân được lưu giữ tại Mĩ. [3] Những tài liệu này cho chúng ta biết một số thông tin về các nghị quyết của Đảng được thông qua năm 1967 và 1968, nhưng không cung cấp được một chỉ dẫn đầy đủ về việc ra quyết định và để lại nhiều câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ. Chỉ từ những hồi kí không chính thức và thư ngỏ của các cán bộ lão thành gửi cho giới lãnh đạo, xuất bản trong những năm 80 và 90, chúng ta mới có thể biết thêm một số chi tiết của sự rối loạn chính trị đã gây khó khăn cho Hà Nội vào cuối hè và thu 1967. [4] Bài viết này sẽ khảo sát bối cảnh và tầm quan trọng của các sự kiện này trong tiến trình của cuộc chiến.
Việc bóc tách cuộc đấu đá chính trị này có vẻ như là vô ích hoặc quá phức tạp vì hiện nay sức mạnh của hệ tư tưởng Mác-xít đã phai nhạt trong lòng Hà Nội. Ở Việt Nam, vụ này thường bị các nhà sử học của Đảng gạt đi như một sự kiện nhỏ, một vụ bắt bớ một số đảng viên thân Liên Xô, những người trước đó đã bị truất khỏi các vị trí cao cấp. Đây rõ ràng là lời giải thích không thoả đáng về việc đối xử với những người bị bắt, bao gồm Hoàng Minh Chính và một số người khác được đề cập dưới đây. Việc những cáo buộc đối với họ vẫn đang được thảo luận trong tài liệu nội bộ Đảng những năm 94-95 chứng tỏ rằng vụ chống Đảng có ảnh hưởng lâu dài. [5] Nếu các sử gia về chiến tranh Việt Nam muốn hiểu rõ hơn những hành động của Hoa Kì và bối cảnh quốc tế nói chung đã ảnh hưởng đến việc ra quyết định của giới lãnh đạo Đảng năm 1967 như thế nào, thì cần phải có một bức tranh rõ hơn về chính trị nội bộ và cuộc đấu tranh hệ tư tưởng trong lòng VNDCCH. Nếu không, chúng ta chỉ có thể xem xét cuộc chiến từ quan điểm lấy Mĩ làm trung tâm. Một cái nhìn tỉ mỉ hơn nữa về vụ chống Đảng là không thể tránh khỏi nếu muốn làm rõ bức tranh về cuộc chiến từ góc nhìn của phía Việt Nam. Ngoài ra, việc soi sáng những vấn đề này còn giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thực thể chính trị đã kí Hiệp định Hoà bình Paris và lên nắm quyền ở miền Nam Việt Nam cuối tháng 4 năm 1975.
Việc bóc tách cuộc đấu đá chính trị này có vẻ như là vô ích hoặc quá phức tạp vì hiện nay sức mạnh của hệ tư tưởng Mác-xít đã phai nhạt trong lòng Hà Nội. Ở Việt Nam, vụ này thường bị các nhà sử học của Đảng gạt đi như một sự kiện nhỏ, một vụ bắt bớ một số đảng viên thân Liên Xô, những người trước đó đã bị truất khỏi các vị trí cao cấp. Đây rõ ràng là lời giải thích không thoả đáng về việc đối xử với những người bị bắt, bao gồm Hoàng Minh Chính và một số người khác được đề cập dưới đây. Việc những cáo buộc đối với họ vẫn đang được thảo luận trong tài liệu nội bộ Đảng những năm 94-95 chứng tỏ rằng vụ chống Đảng có ảnh hưởng lâu dài. [5] Nếu các sử gia về chiến tranh Việt Nam muốn hiểu rõ hơn những hành động của Hoa Kì và bối cảnh quốc tế nói chung đã ảnh hưởng đến việc ra quyết định của giới lãnh đạo Đảng năm 1967 như thế nào, thì cần phải có một bức tranh rõ hơn về chính trị nội bộ và cuộc đấu tranh hệ tư tưởng trong lòng VNDCCH. Nếu không, chúng ta chỉ có thể xem xét cuộc chiến từ quan điểm lấy Mĩ làm trung tâm. Một cái nhìn tỉ mỉ hơn nữa về vụ chống Đảng là không thể tránh khỏi nếu muốn làm rõ bức tranh về cuộc chiến từ góc nhìn của phía Việt Nam. Ngoài ra, việc soi sáng những vấn đề này còn giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thực thể chính trị đã kí Hiệp định Hoà bình Paris và lên nắm quyền ở miền Nam Việt Nam cuối tháng 4 năm 1975.
Vụ chống Đảng
Vụ chống Đảng về cơ bản có thể được tóm tắt như sau. Cuối tháng 8 năm 1967, khi công tác chuẩn bị cho giai đoạn mới của cuộc chiến (cuộc tổng tấn công) đang được tiến hành, một số thành viên Đảng Lao động được cho là thân Liên Xô bị bắt. Trong số những người này có cả Vũ Đình Huỳnh, cựu thư kí riêng của Hồ Chí Minh. Một nạn nhân khác trong làn sóng bắt bớ đầu tiên là ông Hoàng Minh Chính. Ông Hoàng Minh Chính là một cựu chiến binh danh tiếng trong cuộc kháng chiến chống Pháp và cho đến năm 1963, vẫn còn là Viện trưởng Viện Triết học Mác-Lênin tại Hà Nội. Ông được đào tạo về triết học và hệ tư tưởng Mác-xít vào cuối những năm 1950 tại Moscow và được xem là một trong những người Việt đề xướng ý tưởng “chung sống hoà bình”. (Việc cách chức Viện trưởng Viện Triết học Hoàng Minh Chính được phân tích trong bài tiểu luận của Martin Grosheim.)
Một nhóm người khác, không phải ai cũng là đảng viên, bị bắt vào tháng 10 và tháng 12. Các cuộc bắt bớ và những lời buộc tội sau đó rằng những người này có dính líu đến âm mưu thân Liên Xô chống lại Đảng Lao động được biết đến như “vụ Hoàng Minh Chính” hay “vụ chống Đảng” [6] . Khoảng 30 nhân vật cao cấp bị bắt, và có lẽ có tới 300 người tất thảy, gồm các tướng lĩnh, nhà lí luận, giáo sư, văn nghệ sĩ và phóng viên truyền hình được đào tạo ở Moscow. Hồi kí của Vũ Thư Hiên, con trai Vũ Đình Huỳnh, người bị bắt ngay trước Giáng sinh năm 1967, đã trở thành nguồn dữ liệu chính về vụ này.
Được xuất bản ở Đức vào năm 1997 dưới tiêu đề Đêm giữa ban ngày, hồi ức của ông về vụ bắt giữ và thẩm vấn ông chưa được xuất bản ở Việt Nam và không được các nhà nghiên cứu về chính trị Việt Nam coi là một nguồn đáng tin cậy. Tuy nhiên, về đại thể, nó được chứng thực bởi các lá thư và thỉnh nguyện xin phục hồi các quyền dân sự từ các nạn nhân khác của vụ này, cụ thể là bởi chính Hoàng Minh Chính, người hiện vẫn sống tại Hà Nội, sau nhiều năm bị tù đầy, biệt giam và quản chế. Lần ngồi tù đầu tiên của ông kéo dài tới năm 1972; sau đó ông bị quản chế đến năm 1978. Khi ông xin phục hồi các quyền dân sự của mình vào 1981, ông lại bị bắt giữ sáu năm nữa, lần này kéo theo ba năm quản chế. [7]
Trước khi những hồi kí và thỉnh nguyện thư này xuất hiện vào những năm 90, một trong vài nguồn hiếm hoi về các sự kiện 1967-1968 là cuốn sách Tet! của Don Oberdorfer. [8] Thậm chí tác giả Nga, Ilya Gaiduk cũng phải dựa vào miêu tả của Oberdorfer về nền chính trị của Hà Nội vào năm 1967, ví dụ về nghị quyết tháng Bảy 1967 của Bộ Chính trị phát động cuộc tổng tấn công, trong nghiên cứu của Gaiduk về vai trò của Liên Xô trong chiến tranh Việt Nam từ 1964 đến 1973. [9] (Và mãi đến năm 1988 thì Đảng [Cộng sản] Việt Nam mới xác nhận rằng cho đến tháng 10 năm 1967 mới có quyết định phát động cuộc tổng tấn công vào đầu dịp Tết năm 1968.) [10]
Bên cạnh thông tin của Oberdorfer, hiện nay chúng ta đã truy cập được vào các báo cáo của nhân viên tại Lãnh sự Anh tại Hà Nội mà các phiên bản chính thức đã được bạch hoá vào 1997-1998. Những báo cáo này cho thấy những chỉ dấu rằng một cuộc cải tổ nào đó đang diễn ra trong Đảng Lao động vào cuối tháng tám 1967, bao gồm các vụ bắt bớ những đảng viên bị nghi là thân Liên Xô. Ông Tổng lãnh sự John Colvin, báo cáo vào ngày 22 tháng Tám rằng người Nga đã “dự báo về một cuộc cải tổ trong Đảng Lao động không có lợi cho họ [người Nga]”. Ông ta giải thích tiếp rằng vào ngày 21 tháng tám, một đại uý Liên Xô đã nói với đại sứ lâm thời Indonesia rằng các vụ bắt giữ “hàng loạt đảng viên đã diễn ra vào sáng nay”. [11]
Toà Lãnh sự Anh ghi nhận một tín hiệu khác về cuộc đấu tranh trong giới lãnh đạo cộng sản vào 30 tháng Ba 1968. Trong ghi chú này, Geoffrey Hirst, một nhà phân tích của lãnh sự quán, bàn về bài xã luận trên báo Nhân dân về việc phục hồi Sắc lệnh số 63, cái mà ông mô tả là một “phương tiện để loại bỏ một cách hợp pháp bất kì thành viên hay phe cánh bất đồng chính kiến nào trong Đảng”. Phân tích của ông đến từ một “nhà ngoại giao cấp cao trong khối Đông”, người nói với Hirst rằng, “có thể đã có phân ly trong Đảng vào lúc này, có thể giữa cánh bồ câu và cánh diều hâu, nhưng [ông ta] nghĩ rằng sắc lệnh này sẽ đủ để cảnh báo tất cả những đảng viên phải phục tùng”. [12] Oberdorfer lưu ý rằng sắc lệnh được Ủy ban Thường trực của Quốc hội ban hành vào tháng 11, mặc dù nó không được công bố cho đến tháng 3 năm 1968. Nó quy định “án tử hình, tù chung thân và các hình phạt nhẹ hơn cho một danh sách dài các “tội phản cách mạng”, bao gồm gián điệp, phá hoại, xâm phạm an ninh và tội chống hay ngăn cản các kế hoạch an ninh quốc gia.” [13]
Nhưng thiếu bình luận từ bất kì quan chức nào từ chính quyền Hà Nội trong nhiều năm, rất khó đánh giá được ý nghĩa của các sự kiện này đối với [giai đoạn] cuối 1967 và 1968. Một hệ luận rõ ràng, như Oberdorfer đã rút ra, là những đảng viên bị cho là chống việc leo thang chiến tranh và cuộc Tổng tấn công Tết đã bị tống giam để dập tắt mọi bất đồng trong lòng chế độ. Tuy nhiên, việc họ bị giữ trong tù cho tới tận 1972 và bị bắt lại nếu cố gắng đòi phục hồi khiến người ta tin rằng họ bị một phe cánh nào đó trong giới lãnh đạo coi là một mối đe doạ lâu dài. Vũ Thư Hiên, một người được đào tạo ở Moscow khác, không phải là đảng viên, nổi tiếng ở Hà Nội là một dịch giả văn học Nga tài năng, đã đưa ra hai cách giải thích cho làn sóng bắt bớ.
Thứ nhất là việc trong quá trình thẩm vấn trong tù, ông bị tra khảo rất kĩ lưỡng về quan hệ của cha ông với tướng Võ Nguyên Giáp. [14] Ông kết luận rằng Lê Đức Thọ và Lê Duẩn coi Giáp như là đối thủ quyền lực, và do đó dựng ra âm mưu lật đổ để hạ uy tín ông, cùng với các cán bộ trung cấp có ảnh hưởng khác, những người được coi là thân Liên Xô. Tuy nhiên, ở một chỗ khác trong hồi kí, Hiên viết rằng Lê Đức Thọ đã lái Lê Duẩn đi chệch hướng với câu chuyện về âm mưu của Liên Xô. [15] Như Hiên chỉ ra, lời buộc tội chính thức duy nhất cho “bọn xét lại hiện đại” được đưa ra 4 năm sau đó, tại một phiên họp của Ủy ban Trung ương Đảng vào tháng 1 năm 1972, khi Lê Đức Thọ tuyên bố rằng có một âm mưu lật đổ sự lãnh đạo của đảng. [16] Đại sứ Liên Xô, Ilia Shecherbakov và Bí thư thứ hai, Rashid Khamidulin bị cáo buộc là có liên hệ với những người lập mưu. [17]
Một nhóm người khác, không phải ai cũng là đảng viên, bị bắt vào tháng 10 và tháng 12. Các cuộc bắt bớ và những lời buộc tội sau đó rằng những người này có dính líu đến âm mưu thân Liên Xô chống lại Đảng Lao động được biết đến như “vụ Hoàng Minh Chính” hay “vụ chống Đảng” [6] . Khoảng 30 nhân vật cao cấp bị bắt, và có lẽ có tới 300 người tất thảy, gồm các tướng lĩnh, nhà lí luận, giáo sư, văn nghệ sĩ và phóng viên truyền hình được đào tạo ở Moscow. Hồi kí của Vũ Thư Hiên, con trai Vũ Đình Huỳnh, người bị bắt ngay trước Giáng sinh năm 1967, đã trở thành nguồn dữ liệu chính về vụ này.
Được xuất bản ở Đức vào năm 1997 dưới tiêu đề Đêm giữa ban ngày, hồi ức của ông về vụ bắt giữ và thẩm vấn ông chưa được xuất bản ở Việt Nam và không được các nhà nghiên cứu về chính trị Việt Nam coi là một nguồn đáng tin cậy. Tuy nhiên, về đại thể, nó được chứng thực bởi các lá thư và thỉnh nguyện xin phục hồi các quyền dân sự từ các nạn nhân khác của vụ này, cụ thể là bởi chính Hoàng Minh Chính, người hiện vẫn sống tại Hà Nội, sau nhiều năm bị tù đầy, biệt giam và quản chế. Lần ngồi tù đầu tiên của ông kéo dài tới năm 1972; sau đó ông bị quản chế đến năm 1978. Khi ông xin phục hồi các quyền dân sự của mình vào 1981, ông lại bị bắt giữ sáu năm nữa, lần này kéo theo ba năm quản chế. [7]
Trước khi những hồi kí và thỉnh nguyện thư này xuất hiện vào những năm 90, một trong vài nguồn hiếm hoi về các sự kiện 1967-1968 là cuốn sách Tet! của Don Oberdorfer. [8] Thậm chí tác giả Nga, Ilya Gaiduk cũng phải dựa vào miêu tả của Oberdorfer về nền chính trị của Hà Nội vào năm 1967, ví dụ về nghị quyết tháng Bảy 1967 của Bộ Chính trị phát động cuộc tổng tấn công, trong nghiên cứu của Gaiduk về vai trò của Liên Xô trong chiến tranh Việt Nam từ 1964 đến 1973. [9] (Và mãi đến năm 1988 thì Đảng [Cộng sản] Việt Nam mới xác nhận rằng cho đến tháng 10 năm 1967 mới có quyết định phát động cuộc tổng tấn công vào đầu dịp Tết năm 1968.) [10]
Bên cạnh thông tin của Oberdorfer, hiện nay chúng ta đã truy cập được vào các báo cáo của nhân viên tại Lãnh sự Anh tại Hà Nội mà các phiên bản chính thức đã được bạch hoá vào 1997-1998. Những báo cáo này cho thấy những chỉ dấu rằng một cuộc cải tổ nào đó đang diễn ra trong Đảng Lao động vào cuối tháng tám 1967, bao gồm các vụ bắt bớ những đảng viên bị nghi là thân Liên Xô. Ông Tổng lãnh sự John Colvin, báo cáo vào ngày 22 tháng Tám rằng người Nga đã “dự báo về một cuộc cải tổ trong Đảng Lao động không có lợi cho họ [người Nga]”. Ông ta giải thích tiếp rằng vào ngày 21 tháng tám, một đại uý Liên Xô đã nói với đại sứ lâm thời Indonesia rằng các vụ bắt giữ “hàng loạt đảng viên đã diễn ra vào sáng nay”. [11]
Toà Lãnh sự Anh ghi nhận một tín hiệu khác về cuộc đấu tranh trong giới lãnh đạo cộng sản vào 30 tháng Ba 1968. Trong ghi chú này, Geoffrey Hirst, một nhà phân tích của lãnh sự quán, bàn về bài xã luận trên báo Nhân dân về việc phục hồi Sắc lệnh số 63, cái mà ông mô tả là một “phương tiện để loại bỏ một cách hợp pháp bất kì thành viên hay phe cánh bất đồng chính kiến nào trong Đảng”. Phân tích của ông đến từ một “nhà ngoại giao cấp cao trong khối Đông”, người nói với Hirst rằng, “có thể đã có phân ly trong Đảng vào lúc này, có thể giữa cánh bồ câu và cánh diều hâu, nhưng [ông ta] nghĩ rằng sắc lệnh này sẽ đủ để cảnh báo tất cả những đảng viên phải phục tùng”. [12] Oberdorfer lưu ý rằng sắc lệnh được Ủy ban Thường trực của Quốc hội ban hành vào tháng 11, mặc dù nó không được công bố cho đến tháng 3 năm 1968. Nó quy định “án tử hình, tù chung thân và các hình phạt nhẹ hơn cho một danh sách dài các “tội phản cách mạng”, bao gồm gián điệp, phá hoại, xâm phạm an ninh và tội chống hay ngăn cản các kế hoạch an ninh quốc gia.” [13]
Nhưng thiếu bình luận từ bất kì quan chức nào từ chính quyền Hà Nội trong nhiều năm, rất khó đánh giá được ý nghĩa của các sự kiện này đối với [giai đoạn] cuối 1967 và 1968. Một hệ luận rõ ràng, như Oberdorfer đã rút ra, là những đảng viên bị cho là chống việc leo thang chiến tranh và cuộc Tổng tấn công Tết đã bị tống giam để dập tắt mọi bất đồng trong lòng chế độ. Tuy nhiên, việc họ bị giữ trong tù cho tới tận 1972 và bị bắt lại nếu cố gắng đòi phục hồi khiến người ta tin rằng họ bị một phe cánh nào đó trong giới lãnh đạo coi là một mối đe doạ lâu dài. Vũ Thư Hiên, một người được đào tạo ở Moscow khác, không phải là đảng viên, nổi tiếng ở Hà Nội là một dịch giả văn học Nga tài năng, đã đưa ra hai cách giải thích cho làn sóng bắt bớ.
Thứ nhất là việc trong quá trình thẩm vấn trong tù, ông bị tra khảo rất kĩ lưỡng về quan hệ của cha ông với tướng Võ Nguyên Giáp. [14] Ông kết luận rằng Lê Đức Thọ và Lê Duẩn coi Giáp như là đối thủ quyền lực, và do đó dựng ra âm mưu lật đổ để hạ uy tín ông, cùng với các cán bộ trung cấp có ảnh hưởng khác, những người được coi là thân Liên Xô. Tuy nhiên, ở một chỗ khác trong hồi kí, Hiên viết rằng Lê Đức Thọ đã lái Lê Duẩn đi chệch hướng với câu chuyện về âm mưu của Liên Xô. [15] Như Hiên chỉ ra, lời buộc tội chính thức duy nhất cho “bọn xét lại hiện đại” được đưa ra 4 năm sau đó, tại một phiên họp của Ủy ban Trung ương Đảng vào tháng 1 năm 1972, khi Lê Đức Thọ tuyên bố rằng có một âm mưu lật đổ sự lãnh đạo của đảng. [16] Đại sứ Liên Xô, Ilia Shecherbakov và Bí thư thứ hai, Rashid Khamidulin bị cáo buộc là có liên hệ với những người lập mưu. [17]
Có một diễn giải khác về những lời buộc tội này trong một tài liệu có tiêu đề “Những hoạt động của một số thế lực phản động và thù địch”, được Trung ương Đảng phát tán trong đảng viên vào tháng tư năm 1994. Tài liệu này giải thích rằng vào tháng Bảy 1967, Hoàng Minh Chính và những người khác dính líu đến vụ chống Đảng bị phát hiện là nắm một biên bản mật về một cuộc hội đàm Việt-Trung. Họ tìm ra cách gửi các bị chú này ra nước ngoài, và vì lí do này, bộ phận an ninh bắt Hoàng Minh Chính và ba người khác. Cùng lúc đó, những người bị buộc tội cũng bị cho là thu thập tài liệu để tiến tới một chương trình hoặc phác thảo đối lập để chống đối Đảng. [18]
Bản thân Giáp thì chưa từng bị bắt, và vào tháng Mười 1967 ông bay sang Hungary, bề ngoài là để tìm kiếm thêm sự hỗ trợ cho nỗ lực chiến tranh của Hà Nội. Tuy nhiên, các tài liệu trong thư khố của Hungary chứng tỏ rằng Giáp ở Hung sớm nhất là từ 14 tháng Mười, nơi ông và con trai của cựu Bộ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm (được biết đến như là người có khuynh hướng “xét lại”) được điều trị y tế. Vào 19 tháng Mười, đại sứ Việt Nam tại Budapest báo cáo với người Hung là sức khỏe tướng Giáp đã được cải thiện. Đại sứ Hoàng Lương nói Giáp đã kiệt sức do viết một tiểu luận dài về chiến thuật và chiến lược cho cuộc chiến Việt Nam. [19]
Bản thân Giáp thì chưa từng bị bắt, và vào tháng Mười 1967 ông bay sang Hungary, bề ngoài là để tìm kiếm thêm sự hỗ trợ cho nỗ lực chiến tranh của Hà Nội. Tuy nhiên, các tài liệu trong thư khố của Hungary chứng tỏ rằng Giáp ở Hung sớm nhất là từ 14 tháng Mười, nơi ông và con trai của cựu Bộ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm (được biết đến như là người có khuynh hướng “xét lại”) được điều trị y tế. Vào 19 tháng Mười, đại sứ Việt Nam tại Budapest báo cáo với người Hung là sức khỏe tướng Giáp đã được cải thiện. Đại sứ Hoàng Lương nói Giáp đã kiệt sức do viết một tiểu luận dài về chiến thuật và chiến lược cho cuộc chiến Việt Nam. [19]
Giải thích khác của Vũ Thư Hiên về việc chọn những người phải bắt giữ là ở mức độ cá nhân, rất điển hình kiểu giai thoại lịch sử vẫn được dùng thay cho phân tích ở Hà Nội. Ông nói rằng Lê Đức Thọ muốn loại trừ những chiến sĩ là đồng chí từng ngồi tù với ông ta trong Thế chiến thứ 2 ở Sơn La, những người biết vị trí được biệt đãi - làm hầu cận cho chúa ngục người Pháp - của ông. [20] Cách đối xử này được coi là một đặc ân cho gia đình giàu có của Thọ. Nếu câu chuyện kiểu như thế là đúng và được biết đến rộng rãi, nó có thể gây ra những vấn đề chính trị nghiêm trọng cho Thọ, người trong vai đứng đầu Ủy ban tổ chức Đảng phải chịu trách nhiệm giữ vững tính chất giai cấp lao động của Đảng Lao động.
Bối cảnh quốc tế và quyết định Tết Mậu Thân
Bối cảnh nổ ra các sự kiện trong năm 1967 là sự bất hoà giữa Liên Xô và Trung Quốc nổi lên sau khi Khrushchev lên án các tội ác của Stalin và tệ sùng bái cá nhân tại Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô vào năm 1956. Sau sự kiện này, Liên Xô bắt đầu thúc đẩy chính sách “chung sống hoà bình” và cạnh trạnh hoà bình giữa thế giới cộng sản và tư bản. Một đổi mới khác về mặt tư tưởng do Khrushchev đưa ra là quan điểm cho rằng các mâu thuẫn giai cấp không còn đóng vai trò chủ đạo trong xã hội Liên Xô. Theo Yang Kuisong, một nhà sử học Trung Quốc thì “Khrushchev đã thực sự phủ nhận đấu tranh giai cấp qua việc ủng hộ ý tưởng đất nước của mọi người và đảng của mọi người” [21] . Trong khi Việt Nam công khai tán đồng những cải cách của Khrushchev và kí một thông cáo ủng hộ các chính sách của Liên Xô cùng với 80 đảng cộng sản khác năm 1960, việc Liên Xô không sẵn lòng viện trợ quân sự cần thiết cho cuộc đấu tranh thống nhất Việt Nam đã khiến Hà Nội rất không hài lòng.
Sau khi tham khảo các nhà lí luận Trung Quốc và Mao Chủ tịch ở Vũ Hán mùa hè năm 1963, tại Hội nghị Trung ương 9 họp hồi cuối năm 1963, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua một nghị quyết lên án “chủ nghĩa xét lại” và đồng thời định hướng các chính sách đối nội và đối ngoại theo Trung Quốc. Cũng tại thời điểm đó, Trung Quốc đang chuẩn bị thiết lập một quốc tế cộng sản mới gồm các đảng cộng sản ủng hộ Bắc Kinh [22] . Việt Nam không xuất bản toàn văn nghị quyết của Hội nghị Trung ương 9, nhưng đã công khai nó qua những lớp học tập [nghị quyết trung ương] trong nội bộ Đảng [23] . Dẫu sao đi nữa, Việt Nam cũng đã không thể hoàn toàn xa lánh Liên Xô.
Sau khi tham khảo các nhà lí luận Trung Quốc và Mao Chủ tịch ở Vũ Hán mùa hè năm 1963, tại Hội nghị Trung ương 9 họp hồi cuối năm 1963, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua một nghị quyết lên án “chủ nghĩa xét lại” và đồng thời định hướng các chính sách đối nội và đối ngoại theo Trung Quốc. Cũng tại thời điểm đó, Trung Quốc đang chuẩn bị thiết lập một quốc tế cộng sản mới gồm các đảng cộng sản ủng hộ Bắc Kinh [22] . Việt Nam không xuất bản toàn văn nghị quyết của Hội nghị Trung ương 9, nhưng đã công khai nó qua những lớp học tập [nghị quyết trung ương] trong nội bộ Đảng [23] . Dẫu sao đi nữa, Việt Nam cũng đã không thể hoàn toàn xa lánh Liên Xô.
Sự lạnh nhạt trong quan hệ với Liên Xô này không vĩnh viễn, khi Hoa Kì bắt đầu leo thang trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, quan hệ Việt-Xô trở nên thăng giáng bất thường phụ thuộc vào mức độ sẵn lòng giúp đỡ của Liên Xô và cách cư xử của Trung Quốc. Sau khi Khrushchev bị hất cẳng vào tháng Mười năm 1964, thủ tướng mới là Alexei Kosygin đã tới thăm Việt Nam tháng Hai năm 1965. Chuyến viếng thăm này đã mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước. Khi việc ném bom Bắc Việt của Hoa Kì trở nên khốc liệt hơn, Liên Xô đã bắt đầu cung cấp đều đặn nguồn vũ khí hạng nặng và cố vấn quân sự. Trong khi đó, Trung Quốc, từng là một nguồn cung ứng đều đặn các loại thực phẩm, hàng tiêu dùng, thiết bị quân sự và thậm chí cả ngoại tệ từ đầu những năm 60, bắt đầu chìm đắm vào cuộc đấu đá nội bộ của họ mang tên Cách mạng Văn hoá. Trung Quốc vẫn còn cung cấp hậu cần và lính cao xạ cho Bắc Việt cho đến năm 1968, tuy nhiên sự viện trợ của họ ngày càng giảm [24] .
Trong các cuộc nói chuyện với các nhà ngoại giao Đông Âu, các nhà ngoại giao Việt Nam thường thể hiện sự mất tinh thần khi cuộc Cách mạng Văn hoá đang làm biến đổi một hậu phương vững chắc thành một cảnh hỗn độn. Sức ảnh hưởng của Nghị quyết Trung ương 9 khẳng định đoàn kết tư tưởng của Việt Nam với Trung Quốc có vẻ suy yếu dần trong năm 1965 và 1966, khi kỹ thuật cao xạ của Liên Xô trở nên tối cần thiết đối với Bắc Việt. Thế nhưng phía Việt Nam vẫn công khai duy trì một đường lối “trung lập” đối với hai “đàn anh” xã hội chủ nghĩa của mình, và như Trần Quỳnh đã nói, đại đa số các thành viên trong Bộ Chính trị vẫn tiếp tục ngả theo Trung Quốc [25] . Tuy nhiên, người đại diện của Liên Xô tại Washington tin rằng đã có “những thế lực ôn hoà” trong Đảng Cộng sản Việt Nam muốn khởi động đàm phán với Hoa Kì, nhưng “họ không thể hành động trong khi bom vẫn đang trút xuống Hà Nội.” [26]
Các sự kiện có nguy cơ tuột khỏi vòng kiểm soát trong năm 1967 khi Trung Quốc rơi vào sự thống trị của quân đội và một cuộc nội chiến toàn diện bùng nổ. Khi Indonesia trục xuất Đại sứ Trung Quốc là Yao Tengshan vào tháng Tư, ông ta đã trở về Bắc Kinh với sự chào đón dành cho một anh hùng và đã giành quyền kiểm soát Bộ Ngoại giao từ tay Bộ trưởng Chen Yi. Sự lan tràn của xu hướng cấp tiến này đã gây ra những cuộc khủng hoảng ở Hồng Kông, Campuchia và Miến Điện trong tháng Tư và tháng Năm. Các nhà ngoại giao Trung Quốc đã được triệu về nước trong mùa xuân và trở lại vị trí công tác vào tháng Sáu, khi việc xuất khẩu Cách mạng Văn hoá bắt đầu lên đến đỉnh cao [27] .
Hành động tuyên truyền chủ nghĩa Mao của các nhà ngoại giao Trung Quốc tại Miến Điện và Campuchia đã được ghi lại trong các tài liệu. Chúng tôi không nắm rõ mức độ hoạt động của Trung Quốc ở Việt Nam trong việc quảng bá một giai đoạn mới của “cuộc cách mạng không ngừng”, nhưng chính trường Hà Nội chắc chắn đã nóng lên vào giữa năm. Điều này có lẽ liên quan tới việc Hà Nội triệu hồi ngoại giao đoàn vào tháng Bảy. Cuối tháng Sáu, Bộ ngoại giao Hoa Kì bắt đầu yêu cầu những báo cáo mật về các động thái của các nhà ngoại giao Hà Nội. Hoa Kì đã biết rằng các đại diện ngoại giao Việt Nam ở Paris, Bắc Kinh, Nông Pêng và Viên Chăn đều trở về nước, và có những lí do để họ tin rằng đại sứ Việt Nam tại Jakarta cũng đã bay về Hà Nội [28] . Lãnh sự Anh tại Hà Nội đã không thể cung cấp được bất cứ thông tin đáng tin cậy nào về nguyên nhân của lệnh triệu hồi.
Một sự kiện gây khuấy động ở Hà Nội vào đầu tháng Bảy là cái chết do suy tim của tổng tư lệnh quân đội chiến trường Nam Việt Nam Nguyễn Chí Thanh xảy ra ở Hà Nội. Ông ta được xem là người ủng hộ nhiệt thành chiến tranh chủ lực ở miền Nam và được coi là đối thủ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Liệu cái chết của ông ta có mối liên quan nào đó tới các sự kiện sau đó trong tháng Tám và tháng Chín hay không vẫn là một điều bí ẩn. Một khía cạnh bất bình thường nữa trong tình hình tại Hà Nội lúc đó là đã không có một nhân chứng phương Tây nào trông thấy Hồ Chí Minh tại thủ đô kể từ khi ông được hai bác sĩ người Thuỵ Điển tới thăm ngày 13 tháng Tư. Ông cũng không xuất hiện trước công chúng trong ngày Quốc tế Lao động mùng 1 tháng Năm và sinh nhật 19 tháng Năm. (Bức hình của ông trên báo chí chụp tại một trận địa cao xạ trong trang phục mùa đông, khi nhiệt độ ở Hà Nội là 100 độ F, tức là khoảng 38 độ C) [29] . Ông Hồ quay lại Hà Nội để gặp hai phái viên hoà bình người Pháp tên là Raymond Aubrac và Herbert Marcovitch ngày 24 tháng Bảy nhưng sau đó đã trở lại Bắc Kinh trong tháng Chín để chữa bệnh cho tới tháng Mười Hai [30] .
Quyết định quan trọng nhất của Hà Nội ở thời điểm giữa năm 1967 liên quan tới tương lai của cuộc chiến. Trong bài viết này, tôi không chủ định phân tích chi tiết quá trình dẫn tới quyết định thực hiện cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Trong một nghiên cứu gần đây về cuộc chiến ở tỉnh Mĩ Tho, David Elliott đã chỉ ra nhiều kẽ hở và những bất thường trong biên bản chính thức [31] [của Việt Nam]. Sự mô tả của Elliott về quyết định Tết Mậu Thân như là một quyết định “không chủ định, gây tranh cãi và ngẫu hứng” đã truyền tải được trạng huống [chính trị] của giai đoạn đó và phản bác lại ý kiến cho rằng Đảng Lao động là một cỗ máy chính trị vững chắc và sắt đá. Rõ ràng là các quyết định chính liên quan đến Tết Mậu Thân đã được đưa ra trong tháng Sáu, tháng Bảy và tháng Mười. Ralph Smith cũng đã có một nghiên cứu sâu về những sự kiện rất lộn xộn trong tháng Bảy năm 1967 mà ông miêu tả bằng cụm từ “có lẽ là cốt yếu”. Ông ta cho rằng, “do tình hình Nguyễn Chí Thanh vừa qua đời và quan hệ Liên Xô - Hoa Kì sáng sủa lên vào cuối tháng Sáu, một số quan chức lãnh đạo của Hà Nội đã có một cố gắng nghiêm túc để thăm dò khả năng đạt được một giải pháp bằng thương lượng.” [32] Sự cải thiện trong quan hệ Liên Xô - Hoa Kì có liên quan tới một cuộc gặp ở Glassboro, New Jersey vào ngày 23 đến 25 tháng Sáu giữa Tổng thống Johnson và Thủ tướng Liên Xô Kosygin. Trong cuộc gặp này, Kosygin đã nhận được lời cam đoan trực tiếp từ Phạm Văn Đồng ở Hà Nội rằng, nếu Hoa Kì chấm dứt ném bom miền Bắc vô điều kiện thì Bắc Việt sẽ đi tới bàn đàm phán ngay lập tức [33] . Nhiệm vụ của Aubrac và Marcovitch khi tới Hà Nội là chuyển một đề nghị do Tổng thống Johnson phê chuẩn và sau đó chuyển tới hai ông này ở Paris qua Giáo sư Henry Kissinger.
Nhưng trong tháng Tám và tháng Chín, các đầu mối giao dịch của Việt Nam trong sáng kiến hoà bình, với tên mật mã “Pennsylvania” này đã tắt lịm. Các phái viên Pháp không còn nhận được bất cứ phản hồi nào về đề nghị thứ hai gửi vào ngày 25 tháng Tám thông qua đại diện của Việt Nam ở Paris. Và họ cũng không được mời quay lại Hà Nội. Một trong những nhà ngoại giao Việt Nam biết rõ những thương thuyết này nhất là ông Lưu Đoàn Huynh báo cáo lại rằng ông ta có trách nhiệm phác thảo các tài liệu thương thuyết dùng cho các cuộc nói chuyện với Hoa Kì trong năm 1966 và 1967. Phần lớn các tài liệu này đã xong xuôi vào tháng Tám năm 1967, “vừa kịp thời” theo lời ông Huynh nói. Thế nhưng tại thời điểm đó, “vì ốm đau và kiệt sức tôi đã xin chuyển sang làm việc ở Ban Trung Quốc”, ông Huynh cho biết [34] . Đây là một cách nói ngoại giao ám chỉ rằng tiến trình đàm phám đã bị phía Việt Nam chấm dứt tại thời điểm này.
Sự kiện phi cơ Hoa Kì ném bom vào các mục tiêu xung quanh Hà Nội ngày 20 tháng Tám có thể có mối liên hệ với sự đổ vỡ của các cuộc đàm phán. Cùng thời gian đó, kế hoạch tấn công Tết Mâu Thân đã tiến triển khá xa và có vẻ như bất cứ các ủng hộ cho những thương thuyết hoà bình đã từng tồn tại trong tháng Bảy giờ đây hoàn toàn sụp đổ. Từ ngày 20 đến ngày 24 tháng Mười, Bộ Chính trị họp và quyết định rằng họ đã có thể thực hiện cuộc tấn công sớm hơn kế hoạch ban đầu, theo biên sử chính thức của Quân đội Nhân dân Việt Nam viết năm 1988 [35] . Cuộc họp được chủ trì bởi Trường Chinh và có sự tham gia của Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng, Trần Quốc Hoàn và Lê Đức Thọ. Một số uỷ viên Bộ Chính trị không có mặt tại Hà Nội lúc này, trong số đó có Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Lê Duẩn cũng không có mặt tại cuộc họp vì đã lên đường tới dự lễ kỷ niệm 50 năm Cách mạng tháng Mười tại Moscow [36] .
Tính nghiêm ngặt của cuộc hội đàm này và sắc lệnh phục hồi Sắc lệnh số 63 trong tháng Mười Một đã đặt ra câu hỏi liệu rằng các quyết định đạt được trong tháng Mười và Mười Một năm 1967 có thể được xem như một cuộc thâu tóm quyền lực trong Đảng hoặc cuộc đảo chính. Những lời bình luận của đại sứ Liên Xô tại Hà Nội Shcherbakov nói với quyền đại sứ Hungary, và sau đó được ông này báo cáo về Budapest tháng Giêng năm 1968, giải thích những cuộc bắt bớ trong năm 1967 là kết quả của “sự suy yếu dần tính dân chủ trong Đảng; quá trình suy yếu này diễn ra rất nhanh sau khi chiến tranh bùng nổ mặc dù thực tế đã bắt đầu trước đó.” Theo quan sát của bản thân nhà ngoại giao Hungary này, Ủy ban Trung ương Đảng lẽ ra đã tổ chức các phiên họp toàn thể ít nhất hai lần trong một năm theo nguyên tắc của Đảng Lao động. Tuy nhiên vào khoảng năm 1968 các phiên họp chỉ được tổ chức mỗi năm một lần và “chỉ mang tính chất thông tin” mà không hề có tranh luận về các vấn đề hiện tại [37] . Lời bình luận này có thể đã phản ánh một thực tế là nghị quyết số 14 tháng Giêng năm 1968 cho phép thực hiện cuộc tấn công Tết Mậu Thân đã được phác thảo trong cuộc họp kín của Bộ Chính trị vào tháng Mười.
Một sự kiện gây khuấy động ở Hà Nội vào đầu tháng Bảy là cái chết do suy tim của tổng tư lệnh quân đội chiến trường Nam Việt Nam Nguyễn Chí Thanh xảy ra ở Hà Nội. Ông ta được xem là người ủng hộ nhiệt thành chiến tranh chủ lực ở miền Nam và được coi là đối thủ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Liệu cái chết của ông ta có mối liên quan nào đó tới các sự kiện sau đó trong tháng Tám và tháng Chín hay không vẫn là một điều bí ẩn. Một khía cạnh bất bình thường nữa trong tình hình tại Hà Nội lúc đó là đã không có một nhân chứng phương Tây nào trông thấy Hồ Chí Minh tại thủ đô kể từ khi ông được hai bác sĩ người Thuỵ Điển tới thăm ngày 13 tháng Tư. Ông cũng không xuất hiện trước công chúng trong ngày Quốc tế Lao động mùng 1 tháng Năm và sinh nhật 19 tháng Năm. (Bức hình của ông trên báo chí chụp tại một trận địa cao xạ trong trang phục mùa đông, khi nhiệt độ ở Hà Nội là 100 độ F, tức là khoảng 38 độ C) [29] . Ông Hồ quay lại Hà Nội để gặp hai phái viên hoà bình người Pháp tên là Raymond Aubrac và Herbert Marcovitch ngày 24 tháng Bảy nhưng sau đó đã trở lại Bắc Kinh trong tháng Chín để chữa bệnh cho tới tháng Mười Hai [30] .
Quyết định quan trọng nhất của Hà Nội ở thời điểm giữa năm 1967 liên quan tới tương lai của cuộc chiến. Trong bài viết này, tôi không chủ định phân tích chi tiết quá trình dẫn tới quyết định thực hiện cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Trong một nghiên cứu gần đây về cuộc chiến ở tỉnh Mĩ Tho, David Elliott đã chỉ ra nhiều kẽ hở và những bất thường trong biên bản chính thức [31] [của Việt Nam]. Sự mô tả của Elliott về quyết định Tết Mậu Thân như là một quyết định “không chủ định, gây tranh cãi và ngẫu hứng” đã truyền tải được trạng huống [chính trị] của giai đoạn đó và phản bác lại ý kiến cho rằng Đảng Lao động là một cỗ máy chính trị vững chắc và sắt đá. Rõ ràng là các quyết định chính liên quan đến Tết Mậu Thân đã được đưa ra trong tháng Sáu, tháng Bảy và tháng Mười. Ralph Smith cũng đã có một nghiên cứu sâu về những sự kiện rất lộn xộn trong tháng Bảy năm 1967 mà ông miêu tả bằng cụm từ “có lẽ là cốt yếu”. Ông ta cho rằng, “do tình hình Nguyễn Chí Thanh vừa qua đời và quan hệ Liên Xô - Hoa Kì sáng sủa lên vào cuối tháng Sáu, một số quan chức lãnh đạo của Hà Nội đã có một cố gắng nghiêm túc để thăm dò khả năng đạt được một giải pháp bằng thương lượng.” [32] Sự cải thiện trong quan hệ Liên Xô - Hoa Kì có liên quan tới một cuộc gặp ở Glassboro, New Jersey vào ngày 23 đến 25 tháng Sáu giữa Tổng thống Johnson và Thủ tướng Liên Xô Kosygin. Trong cuộc gặp này, Kosygin đã nhận được lời cam đoan trực tiếp từ Phạm Văn Đồng ở Hà Nội rằng, nếu Hoa Kì chấm dứt ném bom miền Bắc vô điều kiện thì Bắc Việt sẽ đi tới bàn đàm phán ngay lập tức [33] . Nhiệm vụ của Aubrac và Marcovitch khi tới Hà Nội là chuyển một đề nghị do Tổng thống Johnson phê chuẩn và sau đó chuyển tới hai ông này ở Paris qua Giáo sư Henry Kissinger.
Nhưng trong tháng Tám và tháng Chín, các đầu mối giao dịch của Việt Nam trong sáng kiến hoà bình, với tên mật mã “Pennsylvania” này đã tắt lịm. Các phái viên Pháp không còn nhận được bất cứ phản hồi nào về đề nghị thứ hai gửi vào ngày 25 tháng Tám thông qua đại diện của Việt Nam ở Paris. Và họ cũng không được mời quay lại Hà Nội. Một trong những nhà ngoại giao Việt Nam biết rõ những thương thuyết này nhất là ông Lưu Đoàn Huynh báo cáo lại rằng ông ta có trách nhiệm phác thảo các tài liệu thương thuyết dùng cho các cuộc nói chuyện với Hoa Kì trong năm 1966 và 1967. Phần lớn các tài liệu này đã xong xuôi vào tháng Tám năm 1967, “vừa kịp thời” theo lời ông Huynh nói. Thế nhưng tại thời điểm đó, “vì ốm đau và kiệt sức tôi đã xin chuyển sang làm việc ở Ban Trung Quốc”, ông Huynh cho biết [34] . Đây là một cách nói ngoại giao ám chỉ rằng tiến trình đàm phám đã bị phía Việt Nam chấm dứt tại thời điểm này.
Sự kiện phi cơ Hoa Kì ném bom vào các mục tiêu xung quanh Hà Nội ngày 20 tháng Tám có thể có mối liên hệ với sự đổ vỡ của các cuộc đàm phán. Cùng thời gian đó, kế hoạch tấn công Tết Mâu Thân đã tiến triển khá xa và có vẻ như bất cứ các ủng hộ cho những thương thuyết hoà bình đã từng tồn tại trong tháng Bảy giờ đây hoàn toàn sụp đổ. Từ ngày 20 đến ngày 24 tháng Mười, Bộ Chính trị họp và quyết định rằng họ đã có thể thực hiện cuộc tấn công sớm hơn kế hoạch ban đầu, theo biên sử chính thức của Quân đội Nhân dân Việt Nam viết năm 1988 [35] . Cuộc họp được chủ trì bởi Trường Chinh và có sự tham gia của Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng, Trần Quốc Hoàn và Lê Đức Thọ. Một số uỷ viên Bộ Chính trị không có mặt tại Hà Nội lúc này, trong số đó có Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Lê Duẩn cũng không có mặt tại cuộc họp vì đã lên đường tới dự lễ kỷ niệm 50 năm Cách mạng tháng Mười tại Moscow [36] .
Tính nghiêm ngặt của cuộc hội đàm này và sắc lệnh phục hồi Sắc lệnh số 63 trong tháng Mười Một đã đặt ra câu hỏi liệu rằng các quyết định đạt được trong tháng Mười và Mười Một năm 1967 có thể được xem như một cuộc thâu tóm quyền lực trong Đảng hoặc cuộc đảo chính. Những lời bình luận của đại sứ Liên Xô tại Hà Nội Shcherbakov nói với quyền đại sứ Hungary, và sau đó được ông này báo cáo về Budapest tháng Giêng năm 1968, giải thích những cuộc bắt bớ trong năm 1967 là kết quả của “sự suy yếu dần tính dân chủ trong Đảng; quá trình suy yếu này diễn ra rất nhanh sau khi chiến tranh bùng nổ mặc dù thực tế đã bắt đầu trước đó.” Theo quan sát của bản thân nhà ngoại giao Hungary này, Ủy ban Trung ương Đảng lẽ ra đã tổ chức các phiên họp toàn thể ít nhất hai lần trong một năm theo nguyên tắc của Đảng Lao động. Tuy nhiên vào khoảng năm 1968 các phiên họp chỉ được tổ chức mỗi năm một lần và “chỉ mang tính chất thông tin” mà không hề có tranh luận về các vấn đề hiện tại [37] . Lời bình luận này có thể đã phản ánh một thực tế là nghị quyết số 14 tháng Giêng năm 1968 cho phép thực hiện cuộc tấn công Tết Mậu Thân đã được phác thảo trong cuộc họp kín của Bộ Chính trị vào tháng Mười.
[1]Ilya Gaiduk và Mari Olsen đã tận dụng triệt để các tài liệu của Liên Xô trong nghiên cứu của họ; về phía Trung Quốc thì các công trình của Chen Jian và Qiang Zhai đã cho ta một hướng dẫn về các tài liệu Trung Quốc mới có được.
[2]Việc công bố các tài liệu liên quan đến việc ra quyết định trong trận Điện Biên Phủ vào mùa xuân 2004 có thể là một dấu hiệu của sự thay đổi. Một số lượng lớn các tài liệu của Đảng Lao động đã được in trong các tập Văn kiện Đảng gần đây nhất, gồm một số các nghị quyết (ở dạng đã bị sửa chữa) của Ủy ban Trung ương, nhưng vẫn còn thiếu nhiều tài liệu liên quan đến các quyết định vào năm 1967 về cuộc tấn công Tết Mậu Thân.
[3]Một loạt các tài liệu đã được Trung tâm Khai thác Tài liệu Hỗn hợp (CDEC) ở Sài Gòn tập hợp. Các tài liệu này hiện nay đã có ở dạng microfilm [vi phim] trong Thư khố Quốc gia Hoa Kì.
[4]Diễn Đàn, nguyệt san tiếng Việt có trụ sở tại Paris đã đăng một số tài liệu này, trong đó có một vài tài liệu được các quan chức Hà Nội tiết lộ.
[5]“Tài liệu phổ biến đến đảng viên và cán bộ các đoàn thể”, theo Kế hoạch số 38/KH-TƯ ngày 7-4-1994 của thường vụ Thành uỷ Hà Nội, gồm một phần điểm lại những lời buộc tội, dưới tiêu đề “Hoạt động của một số thế lực thù địch và chống đối”.
[6]Xem Stowe, “‘Xét lại’ ở Việt Nam” về tổng kết vụ chống Đảng. Dù tôi không đồng ý với tất cả các kết luận của bà, bà đã tổng hợp được một bản tổng kết đầy đủ duy nhất bằng tiếng Anh về những sự kiện này. Georges Boudarel viết một bản tổng kết khác trước đó về vụ này trong Cent Fleurs écloses dans la nuit du Vietnam, 256-264.
[7]Xem, thí dụ, “Thư ngỏ của công dân Hoàng Minh Chính”.
[8]Oberdorfer, Tet!, 65-66.
[9]Gaiduk, The Soviet Union and the Vietnam War, 139, chú thích 9 và 11.
[10]Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Victory in Vietnam, 214.
[11]PRO, FCO 15/481 Hà Nội đến Văn Phòng Ngoại giao, không đánh số, ngày 22 tháng Tám 1967, ngài Colvin kí.
[12]PRO, FCO 15/481, 1/1/68 Cof. Brit Congen, Hà Nội, 30 tháng Ba 1968 gửi SEAD, FO, G.S. Hirst kí.
[13]Oberdorfer, Tet!, 66. Oberdorfer nói rằng Hồ Chí Minh kí sắc lệnh vào ngày 10 tháng Mười một, nhưng bây giờ ta biết rằng vào lúc đó Hồ đang ở Bắc Kinh.
[14]Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, nhất là đoạn từ 271-279.
[15]Như trên, 297.
[16]Như trên, 297.
[17]Như trên, 297.
[18]“Tài liệu phổ biến đến đảng viên và cán bộ các đoàn thể”, theo Kế hoạch số 38/KH-TƯ ngày -4 của Thường vụ Thành uỷ Hà Nội [Tôi có giữ một bản sao].
[19]Xin cảm ơn Balazs Szalontai vì đã cung cấp cho tôi bản dịch của tài liệu này: Ghi nhớ: Chuyến thăm của Ngoại trưởng Việt Nam Hoàng Lương tới Thứ trưởng Ngoại giao Erdelyi (Thư khố Bộ Ngoại giao Hungary, VST 1967.93.doboz,146,001025/19/1967).
[20]Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, 176.
[21]Yang Kuisong, “Mao Trạch Đông và các cuộc chiến tranh Đông Dương”, 24.
[22]Trần Quỳnh, Hồi kí về Lê Duẩn, 18, mô tả các cuộc gặp ở Vũ Hán và nỗ lực của Trung Quốc nhằm hình thành một Quốc tế [cộng sản] mới. Trần Quỳnh đóng vai trò là cố vấn chính trị của Lê Duẩn từ 1950 đến 1965.
[23]Hoàng Văn Hoan và Hoàng Minh Chính cùng nhất trí với nhau ở điểm này trong các cuốn hồi kí viết riêng biệt của các ông. Trang 380 trong cuốn Giọt nước trong biển cả và trang 29 trong cuốn của Hoàng Minh Chính. Trong năm 2003, phía Việt Nam xuất bản toàn văn Nghị quyết 9 năm 1963 trong tập số 24 của Văn kiện Đảng.
[24]Để khảo cứu thêm hoạt động hỗ trợ của Trung Quốc cho VNDCCH, xem Chen Jian, Mao's China and the Cold War, 215 — 229.
[25]Trần Quỳnh, Hồi kí về Lê Duẩn, 30.
[26]Gaiduk, The Soviet Union and the Vietnam War, 94.
[27]MacFarquar and Fairbank, The Cambridge History of China, 232-247.
[28]PRO, FCO 15/535, Priority Washington to Foreign Office, Telegram no. 2233, 30 June 1967.
[29]PRO, FCO 15/535, Secret, Immediate Hanoi to Foreign Office, tel. No. 421, 3 July 1967.
[30]Herring, The Secret Diplomacy of the Vietnam War, 717-725 về cuộc gặp gỡ giữa hai phái viên Pháp, Phạm Văn Ðồng và Hồ Chí Minh. Về Hồ Chí Minh, xem Duiker, Ho Chi Minh: A Life, 556.
[31]Elliott, The Vietnamese War, Chapter 19, 1054-1071.
[32]Smith, “The Vietnam War ‘From Both Sides’”, 25.
[33]Gaiduk, The Soviet Union and the Vietnam War, 128.
[34]McNamara et al., Argument Without End, 227.
[35]Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Victory in Vietnam, 214.
[36]Một nguồn tin năm 2001 ở Hà nội cho biết rằng cả Giáp và Lê Duẩn đều vắng mặt trong buổi họp Bộ Chính trị ngày 20-24 tháng Mười năm 1967: nguồn tin này cho rằng “các đồng chí vắng mặt vì lí do sức khỏe, khi đó họ cùng ra nước ngoài chữa bệnh”. Xem Lịch sử kháng chiến chống Mĩ cứu nước, 1954-1975. 32. Cảm ơn Merle Pribbenow đã chỉ cho tôi nguồn tham cứu này.
[37]Kho Lưu trữ Quốc gia Hungary (Magyar Orszagos Leveltar), XIX-J-1-j, Vietnam SZT 1968.87.doboz, 001051/1968. Báo cáo từ ĐSQ Hungary tại VNDCCH, ngày 17 tháng Một năm 1968.
[2]Việc công bố các tài liệu liên quan đến việc ra quyết định trong trận Điện Biên Phủ vào mùa xuân 2004 có thể là một dấu hiệu của sự thay đổi. Một số lượng lớn các tài liệu của Đảng Lao động đã được in trong các tập Văn kiện Đảng gần đây nhất, gồm một số các nghị quyết (ở dạng đã bị sửa chữa) của Ủy ban Trung ương, nhưng vẫn còn thiếu nhiều tài liệu liên quan đến các quyết định vào năm 1967 về cuộc tấn công Tết Mậu Thân.
[3]Một loạt các tài liệu đã được Trung tâm Khai thác Tài liệu Hỗn hợp (CDEC) ở Sài Gòn tập hợp. Các tài liệu này hiện nay đã có ở dạng microfilm [vi phim] trong Thư khố Quốc gia Hoa Kì.
[4]Diễn Đàn, nguyệt san tiếng Việt có trụ sở tại Paris đã đăng một số tài liệu này, trong đó có một vài tài liệu được các quan chức Hà Nội tiết lộ.
[5]“Tài liệu phổ biến đến đảng viên và cán bộ các đoàn thể”, theo Kế hoạch số 38/KH-TƯ ngày 7-4-1994 của thường vụ Thành uỷ Hà Nội, gồm một phần điểm lại những lời buộc tội, dưới tiêu đề “Hoạt động của một số thế lực thù địch và chống đối”.
[6]Xem Stowe, “‘Xét lại’ ở Việt Nam” về tổng kết vụ chống Đảng. Dù tôi không đồng ý với tất cả các kết luận của bà, bà đã tổng hợp được một bản tổng kết đầy đủ duy nhất bằng tiếng Anh về những sự kiện này. Georges Boudarel viết một bản tổng kết khác trước đó về vụ này trong Cent Fleurs écloses dans la nuit du Vietnam, 256-264.
[7]Xem, thí dụ, “Thư ngỏ của công dân Hoàng Minh Chính”.
[8]Oberdorfer, Tet!, 65-66.
[9]Gaiduk, The Soviet Union and the Vietnam War, 139, chú thích 9 và 11.
[10]Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Victory in Vietnam, 214.
[11]PRO, FCO 15/481 Hà Nội đến Văn Phòng Ngoại giao, không đánh số, ngày 22 tháng Tám 1967, ngài Colvin kí.
[12]PRO, FCO 15/481, 1/1/68 Cof. Brit Congen, Hà Nội, 30 tháng Ba 1968 gửi SEAD, FO, G.S. Hirst kí.
[13]Oberdorfer, Tet!, 66. Oberdorfer nói rằng Hồ Chí Minh kí sắc lệnh vào ngày 10 tháng Mười một, nhưng bây giờ ta biết rằng vào lúc đó Hồ đang ở Bắc Kinh.
[14]Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, nhất là đoạn từ 271-279.
[15]Như trên, 297.
[16]Như trên, 297.
[17]Như trên, 297.
[18]“Tài liệu phổ biến đến đảng viên và cán bộ các đoàn thể”, theo Kế hoạch số 38/KH-TƯ ngày -4 của Thường vụ Thành uỷ Hà Nội [Tôi có giữ một bản sao].
[19]Xin cảm ơn Balazs Szalontai vì đã cung cấp cho tôi bản dịch của tài liệu này: Ghi nhớ: Chuyến thăm của Ngoại trưởng Việt Nam Hoàng Lương tới Thứ trưởng Ngoại giao Erdelyi (Thư khố Bộ Ngoại giao Hungary, VST 1967.93.doboz,146,001025/19/1967).
[20]Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, 176.
[21]Yang Kuisong, “Mao Trạch Đông và các cuộc chiến tranh Đông Dương”, 24.
[22]Trần Quỳnh, Hồi kí về Lê Duẩn, 18, mô tả các cuộc gặp ở Vũ Hán và nỗ lực của Trung Quốc nhằm hình thành một Quốc tế [cộng sản] mới. Trần Quỳnh đóng vai trò là cố vấn chính trị của Lê Duẩn từ 1950 đến 1965.
[23]Hoàng Văn Hoan và Hoàng Minh Chính cùng nhất trí với nhau ở điểm này trong các cuốn hồi kí viết riêng biệt của các ông. Trang 380 trong cuốn Giọt nước trong biển cả và trang 29 trong cuốn của Hoàng Minh Chính. Trong năm 2003, phía Việt Nam xuất bản toàn văn Nghị quyết 9 năm 1963 trong tập số 24 của Văn kiện Đảng.
[24]Để khảo cứu thêm hoạt động hỗ trợ của Trung Quốc cho VNDCCH, xem Chen Jian, Mao's China and the Cold War, 215 — 229.
[25]Trần Quỳnh, Hồi kí về Lê Duẩn, 30.
[26]Gaiduk, The Soviet Union and the Vietnam War, 94.
[27]MacFarquar and Fairbank, The Cambridge History of China, 232-247.
[28]PRO, FCO 15/535, Priority Washington to Foreign Office, Telegram no. 2233, 30 June 1967.
[29]PRO, FCO 15/535, Secret, Immediate Hanoi to Foreign Office, tel. No. 421, 3 July 1967.
[30]Herring, The Secret Diplomacy of the Vietnam War, 717-725 về cuộc gặp gỡ giữa hai phái viên Pháp, Phạm Văn Ðồng và Hồ Chí Minh. Về Hồ Chí Minh, xem Duiker, Ho Chi Minh: A Life, 556.
[31]Elliott, The Vietnamese War, Chapter 19, 1054-1071.
[32]Smith, “The Vietnam War ‘From Both Sides’”, 25.
[33]Gaiduk, The Soviet Union and the Vietnam War, 128.
[34]McNamara et al., Argument Without End, 227.
[35]Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Victory in Vietnam, 214.
[36]Một nguồn tin năm 2001 ở Hà nội cho biết rằng cả Giáp và Lê Duẩn đều vắng mặt trong buổi họp Bộ Chính trị ngày 20-24 tháng Mười năm 1967: nguồn tin này cho rằng “các đồng chí vắng mặt vì lí do sức khỏe, khi đó họ cùng ra nước ngoài chữa bệnh”. Xem Lịch sử kháng chiến chống Mĩ cứu nước, 1954-1975. 32. Cảm ơn Merle Pribbenow đã chỉ cho tôi nguồn tham cứu này.
[37]Kho Lưu trữ Quốc gia Hungary (Magyar Orszagos Leveltar), XIX-J-1-j, Vietnam SZT 1968.87.doboz, 001051/1968. Báo cáo từ ĐSQ Hungary tại VNDCCH, ngày 17 tháng Một năm 1968.
No comments:
Post a Comment