Thursday, January 6, 2011

ĐOÀN DUY THÀNH * HỒI KÝ IV

Chương VI


1.Sau 29 năm, từ tháng 6-1950, tôi sang làm Bí thư quận uỷ Ngô Quyền.

Hai mươi chín năm, hơn một phần tư thế kỉ đối với một đời người là dài. Trải biết bao thăng trầm, tôi luôn rèn luyện đạo đức, đặc biệt là học tập, làm thế nào để khi mình làm cán bộ lãnh đạo, cấp dưới không phải phàn nàn: “làm đầy tớ thằng khôn, hơn làm thầy thằng dại”. Làm đầy tớ thằng dại, thì còn khổ biết bao nhiêu!

Tháng 8-1979 tôi được bầu làm Chủ tịch UBND Thành phố. Lúc này tôi đã học xong đại học quản lí kinh tế, học xong bằng C tiếng Anh, và học thêm 2 năm chương trình đại học Anh văn. Về lí luận chính trị, kinh tế tôi đã học tập nghiên cứu và đọc kĩ các tác phẩm kinh điển của các bậc hiền triết thời phong kiến, thời tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là các học thuyết về Chủ nghĩa cộng sản, Chủ nghĩa xã hội và cả học thuyết của các nhà triết học trước Marx... cộng thêm những vốn liếng có được qua 35 năm tham gia cách mạng. Tôi đinh ninh trong dạ khi có điều kiện sẽ thực hiện những kiến thức đã học và kinh nghiệm đã trải qua.

Hoàn cảnh kinh tế, chính trị nước ta nói chung và Hải Phòng nói riêng lúc đó gặp nhiều khó khăn. Về chính trị, cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung và Tây Nam Nam Bộ đang lên đỉnh điểm. Kinh tế bước vào thời kì khủng hoảng, viện trợ từ bên ngoài cắt giảm nhiều, trật tự xã hội trong thành phố hết sức rối ren. Trong thời bình mà riêng phường Vạn Mỹ (Cầu Tre) có 53 lối đi trong phường, phải rào bớt 36 lối còn lại 17 lối để dễ kiểm tra người qua lại. Ban đêm ở thành phố cũng như ngoại thành phải dùng 3 công cụ, lúc đó gọi là: cái gậy an ninh, cái đèn an ninh, cái kẻng an ninh. Người đi đêm là người ngay thẳng phải mang 1 trong 3 công cụ trên để phòng thân, gặp công an, bảo vệ đi tuần tra sẽ cho đi ngay, chẳng khác gì thời loạn lạc.

Cảng Hải Phòng phải quân sự hoá, tất cả bộ đội vào làm bốc vác. Đại tá Võ An Đông, Tư lệnh F350, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Hải Phòng được cử làm Giám đốc cảng. Còn thành phố, một số cán bộ cao cấp ở Trung ương cũng đề nghị xem xét có nên quân sự hoá thành phố không (gọi là quân quản như thời kì mới vào tiếp quản), hoặc phải giới nghiêm từ 10 giờ tối đến 5 giờ sáng.

Trong lúc đó mọi việc tôi bàn với đồng chí Bí thư Bùi Quang Tạo, nguyên Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Phó ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương, mới được cử về làm Bí thư Thành uỷ. Đồng chí mới về, nên cần nắm tình hình thành phố, mọi việc điều khiển đồng chí Tạo phân cho tôi cứ làm bình thường.

2. Cảng Hải Phòng khi chưa có vấn đề “Nạn kiều” (Trung Quốc kêu gọi người Việt gốc Hoa về nước), công nhân bốc xếp ở cảng chủ yếu là người Việt gốc Hoa, rất quen với bốc vác hàng có trọng lượng 100 kg/kiện. Thế mà lúc đó cứ 3 tháng, có khi 1, 2 tháng, đồng chí Đỗ Mười, Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Phó Thủ tướng) lại phải xuống cảng để giải toả cảng. Hàng bốc ra để rải rác khắp đường phố, nhất là khu bãi cổng cảng và vườn hoa Bon-nan. Lãng phí và ăn cắp rất ghê gớm. Chuyển hàng ra khỏi cảng còn để ở ngoài trời, trong cảng hàng hoá đã đến tiếp. Không bốc dỡ kịp, tàu nước ngoài có khi đậu tại cảng chờ giải phóng hàng tháng. Họ kêu ca, ta phải nộp phạt cho một ngày tàu chậm bốc xếp khoảng 13 kg vàng/ngày tùy theo tàu to nhỏ, hết sức lãng phí.

Trong những lần giải toả cảng, Chính phủ cử các bộ trưởng, thứ trưởng, cán bộ thuộc các bộ liên quan xuống theo. Một số tỉnh thành có liên quan đến vận tải hàng hoá như Hà Nội, Quảng Ninh cũng đến Hải Phòng họp hàng tuần... Thành phố bận rộn, lại phục vụ các cuộc họp giải toả. Họp giải toả nhiều quá cũng nhàm, ít tác dụng. Anh Mười rất vất vả về công tác giải toả hàng mấy năm liền...

Lúc đó ở Hải Phòng, mỗi đợt giải toả xong, đoàn xe Anh Mười rời Hải Phòng về Hà Nội, công nhân Cảng và nhân dân thành phố đùa tếu nói: “Ông Mười đã đi xa, mọi việc ở Cảng trở lại bình thường...”. Hàng hoá lại ùn tắc, bốc hàng lên không có chỗ để, tàu cứ điều vào, đỗ hết cầu tàu. Tàu vào sau phải đậu ở dọc sông Bạch Đằng, Cửa Nam Triệu ra đến phao số 0. Đêm đến đèn các tàu bật lên sáng như một thành phố trên biển.

3. Đến khi công nhân bốc xếp là người Việt gốc Hoa rút về Trung Quốc hết, còn lại toàn công nhân Việt Nam sức yếu, chưa quen việc, xảy ra đổ vỡ mất mát rất nhiều... Bởi vậy trên mới có sáng kiến quân sự hoá Cảng cho bộ đội vào bốc thay công nhân.

Nhưng tình hình không được cải thiện. Sau gần 2 tháng quân sự hoá, thì xảy ra vụ cháy kho 5, thiệt hại rất lớn, vì đây là kho vải. Ai cũng biết vải lúc bao cấp nó quan trọng đối với mọi người như thế nào. Chính quyền thành phố phải chịu trách nhiệm hoàn toàn chuyện giải quyết hậu quả. Đã khó khăn lại thêm khó khăn. Vậy mà Trung ương cho Hải Phòng các loại vải bị cháy dở, hoặc đã bị vòi cứu hoả phun nước hoặc hoá chất vào, thì cả nước có câu ca dao:

Cả nước đau lòng
Hải Phòng phấn khởi (?)

Đấy là bề nổi. Mọi nơi nghĩ như vậy, còn chúng tôi thì cực khổ suốt hàng mấy tháng trời, xử lí bao nhiêu công việc do cháy kho 5 sinh ra. Đồng chí Cao Văn, Phó Chủ tịch Uỷ ban phải bận vào công việc này 6 tháng liền mới giải quyết xong hậu quả.


Nhưng cả nước không bị thiệt, vì kho của ta có mua bảo hiểm. Khi cơ quan bảo hiểm nước ngoài đến xác định thiệt hại để đền bù, số tiền đền bù vượt hơn thiệt hại chút ít.

Sau khi đã giải quyết xong hậu quả cháy kho 5, Ban Thường vụ Thành uỷ họp, kiến nghị với Trung ương thôi quân sự hoá Cảng và giao việc tổ chức bốc xếp cho địa phương phụ trách. Chính phủ đồng ý ngay.

Khi có quyết định, anh Bùi Quang Tạo bàn với tôi tổ chức lại việc bốc xếp Cảng. Hàng ngày sáng nào cũng giao ban tại Văn phòng Thành uỷ, đồng chí Tạo và tôi cùng dự, anh Tạo rất say sưa với công việc này. Chúng tôi bàn nhau, đặt chỉ tiêu bảo đảm bốc một vạn tấn hàng/ngày. Chỉ sau hơn một tháng chúng tôi đạt mục tiêu đề ra, và những tháng sau từng bước tăng lên. Công nhân có thu nhập, trộm cắp giảm hẳn, tàu không phải chờ đợi, ta không bị nộp phạt. Mọi người hào hứng phấn khởi, và cũng kết thúc ách tắc trong khâu bốc dỡ.

4. Xong việc giải toả Cảng anh Tạo và Thành uỷ, UBND thành phố, Cảng đều vui mừng, sự quản lí Cảng đã sang trang, kết thúc giai đoạn lịch sử “giải toả”.

Trong quá trình thực hiện các chính sách quản lí kinh tế, kế hoạch tập trung, tôi có rất nhiều suy nghĩ về cách quản lí của ta. Làm thế nào để xây dựng được cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, cho dân giàu lên, không thiếu thốn như hiện nay? Làm thế nào cho “dân giàu, nước mạnh”, nghe khẩu hiệu này khi tôi mới nói ra, đã có người phản đối. Thực lòng ai cũng muốn khá giả, nhưng nói chữ “giàu” hình như ai cũng coi là mất lập trường, rất kiêng kị. Có đồng chí cán bộ cao cấp còn uốn nắn lại thành: “Nước giàu, dân mạnh”. Tôi buồn cười, nhưng không dám cười, chỉ lắng nghe.

Có lần xuống xã, một đồng chí bí thư xã mời tôi về nhà chơi. Vừa vào đến sân đồng chí ấy nói: “Tôi rất tự hào báo cáo với đồng chí Bí thư Thành uỷ: Trên 30 năm tham gia cách mạng, đến nay tôi cũng chỉ có một gian nhà tranh, vách đất, và cái giường 3 xà...”. Tôi hiểu ý đồng chí muốn nói mình liêm khiết. Tôi buột miệng: “Tôi tưởng đồng chí khoe với tôi là cả xã đồng chí đều có nhà xây, có tiện nghi... và đồng chí cũng như vậy thì mới đáng lự hào. Chứ hoà bình bao nhiêu năm rồi mà vẫn nghèo như thế này là chúng ta dốt, ai còn theo chúng ta, nói gì đến xây dựng Chủ nghĩa xã hội...”.

Tôi chậm được ra nước ngoài. Tháng 9-1974 lần đầu tôi thăm Quảng Châu và Hải Nam Trung Quốc. Tháng 8-1978 sang Nhật bản, tháng 10-1980 sang Liên Xô. Ba cuộc đi ra nước ngoài giúp tôi có sự so sánh và cách nhìn vấn đề khá lí thú.

Tôi sang Trung Quốc thời kì đang cách mạng văn hoá rất mạnh ở Trung ương. Nhưng ở Quảng Đông, đồng chí Triệu Tử Dương, Bí thư Tỉnh uỷ thì làm khác, chỉ tập trung làm kinh tế, còn cách mạng văn hoá làm qua loa... Tôi xem nông dân Trung Quốc đào giếng trên các đồi ở Hải Nam để dự trữ nước tưới cho lúa. Lúa Hải Nam rất tốt do không làm theo các Công xã Trung ương. Đoàn chúng tôi được tiếp đón rất trọng thị...

Rồi tôi thăm Thành phố Yokohama của Nhật do Thị trưởng Thành phố Asô-ka-ta mời. Sau một tuần tham quan nghiên cứu tôi thấy phong cách làm ăn của Nhật thiết thực, lời nói đi đôi với việc làm. Những nơi tôi được tiếp mục sở thị đều đẹp hoặc bằng trên ti-vi giới thiệu. Tinh thần khắc phục sau động đất của Thành phố Yokohama thật xúc động, đáng cảm phục. Tất cả đều hằn sâu trong kí ức tôi.

5. Năm 1980 tôi đi hội thảo khai thác vùng Si-bi-ri Liên Xô, ở Kha-ba-rốp, thủ phủ Si-bi-ri, do đồng chí Trần Phương, Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch làm trưởng đoàn. Đoàn viên có đồng chí Phan Văn Khải, lúc đó là Phó Chủ tịch UBND thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Văn Hiệp, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội và tôi là Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng, cùng một số Thứ trưởng và chuyên viên cấp vụ của một số ngành Trung ương. Máy bay đưa thẳng đoàn từ Hà Nội đến Kha-ba-rốp, hết gần 7 giờ. Qua eo biển Nhật Bản, được 2 máy bay khu trục của Nhật Bản lên “nghênh tiếp”, hai bên cánh đeo 2 quả tên lửa sơn vàng chói.

Lần đầu tiên được sang Liên Xô, tôi nghiên cứu khá tỉ mỉ. Đặc biệt ở Kha-ba-rốp, tôi xuống các hộ nông dân tập thể, có gia đình chỉ còn các cụ già ở nhà, con cái đi lao động ở nông trường. Tôi hỏi thăm cuộc sống của các cụ hàng ngày, được biết các cụ chỉ ăn bánh mì với bơ, khoai tây. Riêng nho rất nhiều. Nhà ở xếp gỗ thành tường, mái lợp da thú như những cái lều, cái hầm...

Chúng tôi trao đổi riêng với nhau: Nhân dân Liên Xô thế này mà giúp đỡ Việt Nam mỗi năm hàng tỉ rúp vàng, tương đương một tỉ đô la Mỹ, điều đó thật đáng suy nghĩ. Còn hội thảo chẳng đi đến kết quả rõ rệt. Các đồng chí Bộ Ngoại thương Liên Xô phát biểu rất bảo thủ, không những thế còn tỏ thái độ uốn nắn Việt Nam... Sau cuộc hội thảo, tôi có rất nhiều băn khoăn về kinh tế Liên Xô lúc đó...

Với tất cả những gì hiểu biết về chủ nghĩa xã hội, về kinh tế, tôi suy nghĩ xây dựng một chiến lược phát triển kinh tế và xã hội cho thành phố Hải Phòng mà tôi đã ấp ủ từ lâu. Nhưng tôi tự nhủ phải thận trọng, nhất là đối với Bí thư Bùi Quang Tạo, một uỷ viên Trung ương từ khoá II, hơn tôi 16 tuổi. Anh cũng bị tù trước 1945. Trong một thời gian rất ngắn làm việc, anh em tỏ ra “ý hợp tâm đồng” rất dễ làm việc. Công việc tôi đề xuất anh Tạo ủng hộ rất nhanh. Còn ý kiến anh nêu ra tôi chấp hành nghiêm chỉnh, nếu có cái gì cần bàn thêm anh cũng nghe theo ý tôi.

Vấn đề đầu tiên là an ninh trật tự, ổn định đời sống nhân dân. Còn các vấn đề kinh tế xã hội, văn hoá, giáo dục. tôi đã hình thành trong các bản dự thảo, tùy theo tình hình, thời cơ sẽ đưa ra Ban Thường vụ hoặc Thành uỷ bàn. Những vấn đề này trong các buổi giao ban hàng tuần giữa Bí thư và Chủ tịch Thành phố vào chiều thứ 7, sau khi kết thúc những việc chính, tôi đưa vào câu chuyện ngoài, nói với Bí thư để từng bước tạo sự nhất trí giữa 2 cán bộ chủ chốt của Thành phố, về con đường đi lên CNXH.

Trong 30 tháng làm bí thư Thành uỷ Hải Phòng, cứ đến chiều thứ 7 giao ban xong, anh Tạo về Hà Nội, vì gia đình anh ở Hà Nội cả, chỉ có một người phục vụ ăn uống là ở Hà Nội xuống, còn lái xe cũng do Hải Phòng cử. Dù giao ban xong sớm 5, 10 phút; tôi ra về để anh về Hà Nội, nhưng anh bảo tôi: “Chưa hết giờ..., ở lại bàn thêm”. Chúng tôi ở lại nói chuyện quốc sự mà hai anh em cùng quan tâm...

Việc đầu tiên tôi làm là xoá bỏ các rào dậu của một số phường, để các ngõ ngách thông thoáng cho dân đi lại bình thường, tăng cường lực lượng kiểm tra của bộ đội, công an, tự vệ về ban đêm, tổ chức phục kích một số bọn trộm cắp có tổ chức với lực lượng chiến sĩ ở các đồn công an Máy Chai, dọc sông Cấm. Ba công cụ “an ninh” thời chiến được xoá bỏ. Tôi trực tiếp vào trại giam xem xét 12 tên tù tử hình còn giam giữ nhiều năm ở trại giam mà không thực hiện án.

Có tên đã trốn tù, mất bao công sức truy tìm mới bắt lại được. Qua đọc hồ sơ tội ác của bọn chúng, và trực tiếp gặp một số tên để cân nhắc, tôi bàn với anh Tạo đề nghị Chủ tịch nước (lúc đó là anh Trường Chinh) và Ban Bí thư giảm tội cho 6 tên xuống chung thân, còn 6 tên gian ác nhất cho thi hành án. Chủ tịch nước và Ban Bí thư đồng ý, giảm án cho 6 tên, còn 6 tên tàn ác nhất đã giết 2 người trở lên để cướp của... cho xử ngay trong một tháng.

Thành phố tổ chức thi hành án tên đầu tiên để rút kinh nghiệm. Anh em Sở Công an và cơ quan thi hành án đem phạm nhân đến Tràng Cát, xa thành phố khoảng 6 km, bắn vào lúc 5 giờ sáng, chỉ có vài chục người đến xem, tác dụng giáo dục rất ít... Tôi nhắc các đồng chí, những tên xử tiếp, phải đem đến Nhà hát nhân dân xử cho toàn thành phố xem. Gọi 600 tên tiền án, tiền sự ngồi chung quanh nơi hành án, còn nhân dân đứng vòng ngoài. Xử vào lúc 7 giờ sáng, thông báo cho nhân dân biết trước đến xem.

Nhân dân kéo đến xem tới hàng vạn người, đứng cả đường ngoài sông, ngăn cách với Nhà hát nhân dân. Sau vụ xử có những tên “tiền án, tiền sự” đái cả ra quần, có tên sợ quá chết ngất đi. Quần chúng đi xem, hả hê, thấy pháp luật Nhà nước nghiêm minh. Khi công bố tội trạng tên tử tội, có người nói: “Tên này phải bắn đến 3 lần mới đúng” hoặc “phải xử bằng hình thức cho dân tùng xẻo chúng hoặc phải lăng trì theo kiểu cổ điển của phong kiến mới hả dạ”. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng không nên xử ở Nhà hát nhân dân, nên chọn một chỗ khác. Có người còn làm ca dao đả kích cho thêm sức mạnh thuyết phục:

“Biến nơi văn hoá thành nơi pháp trường...”

6. Nhưng tôi nói với Thành uỷ và cán bộ chủ chốt là trong tình hình đặc biệt, phải có biện pháp tốt để giáo dục rộng rãi nhân dân. Chế độ ta nhân đạo, bắn một người để cứu hàng vạn người. Người xưa có câu “Sát nhất nhân, thiên vạn nhân cụ”. Việc ngăn ngừa tội phạm phải được giáo dục, răn đe, ngắn ngừa từ gốc... Theo tôi lúc này, nếu Nhà hát lớn thành phố dựng được bức tường tránh đạn lạc, còn 3 tên tội phạm sẽ xử tiếp ở Nhà hát lớn mới có tác động tốt hơn cho cả thành phố và các tỉnh lân cận.

Nhưng thế cũng là đủ, còn 3 tên nữa cho xử tiếp ở Nhà hát nhân dân, giải thích cho người làm ca dao, thấy hết ý nghĩa việc làm của thành phố “quang minh, chính, đại” để họ đồng tình. Thành uỷ và UBND Thành phố hi vọng rằng từ nay về sau không còn phải xử đại hình ở nơi văn hoá này nữa. Quả là từ đó đến khi tôi rời khỏi Hải Phòng không còn án tử hình.

Tình hình trật tự trị an dần dần tốt lên, trộm cắp giảm hẳn. Nhưng vệ sinh đô thị chưa tốt, cuộc sống của dân, nhất là nông thôn, “tháng ba ngày tám” thành phố phải phân chia cán bộ xuống xã để chống đói cho nông dân... Lúa chín nông dân không chịu thu hoạch, thành phố phải huy động cán bộ công nhân viên chức đi gặt giúp. Lương thực cung cấp cho cán bộ công nhân viên chức Nhà nước và khu phi nông nghiệp rất khó khăn. Do đó, một mặt phải đi mua lương thực ở miền Nam, mặt khác tìm cách khuyến khích nông dân tăng vụ, trồng màu, rau khoai chống giáp vụ... biết bao công việc đặt ra cấp bách.

Tôi quyết định trước hết phải xuống với nông dân, đi vào thực chất xem tại sao trên đồng ruộng vựa thóc, một năm hai vụ chiêm mùa, xen một vụ mầu mà cứ đói triền miên. Những năm trước, tôi xuống theo dõi nông nghiệp cũng rất sâu, chứ không phải “cưỡi ngựa xem hoa”. Tôi nghĩ do quản lí, nếu có cày bừa máy vào làm, có giống mới... chắc năng suất có thể lên cao. Nhưng cày bừa máy, khoa học kĩ thuật, giống mới, phân bón, thuốc trừ sâu...tất cả hợp lực hỗ trợ mà năng suất vẫn tụt. Có nơi ngày công 300gam/ngày. Quê tôi đồng đất Hải Dương “ruộng tốt, cau sai”, không chua mặn, cũng vậy.

Tháng 9-1977, cụ thân sinh ra tôi mất. Tôi đưa cụ ra cánh đồng loại nhất đẳng điền, lúa sắp chín mà trông như cỏ may. Khi tôi còn nhỏ, loại ruộng này, nhà tôi cày cấy bình thường cũng được 100 kg/sào. Nay chưa chắc được 40kg/sào. Tôi hỏi các bậc lão nông tri điền họ cũng nói như vậy. Tôi nghĩ tất cả do khâu quản lí, khi nào có điều kiện tôi sẽ đề xuất thay đổi cách quản lí mới xem sao.

7. Tôi đi kiểm tra tất cả các huyện ngoại thành, từ những hợp tác xã làm ăn giỏi như Phục Lễ huyện Thủy Nguyên, Cổ Am huyện Vĩnh Bảo. Có cán bộ được nhân dân tín nhiệm như đồng chí Công, Bí thư Đảng uỷ xã Phục Lễ, có năng lực, có uy tín. Đánh một hồi trống họp Đảng bộ là 100% đảng viên đến họp. Họp hợp tác xã cũng vậy, xã viên đến đủ 100% trừ người ốm đau nặng. Thế mà năng suất cũng thất thường, ngày công cũng không khá, chỉ được trên 1 kg/ngày. Xem ra xã viên làm nhanh cho xong công việc hợp tác xã, còn công sức tập trung vào ruộng 5% và đi bắt tôm cá ngoài sông, biển, hoặc đi buôn bán lặt vặt. Kinh tế hợp tác xã chỉ cung cấp khoảng 20% cho cuộc sống của gia đình họ, bởi vậy họ phải bươn chải bên ngoài là chính.

Một hôm tôi xuống xã Hoà Nghĩa thuộc huyện An Thuỵ, xã lớn gần 600 ha, giáp với con đường 14 ra Đồ Sơn (nay là đường 353). Tôi vào thăm một số gia đình, thấy nhà nào cũng đói. Tôi đến một gia đình có 3 cháu đang đói, nằm ở trên giường. Tôi hỏi: “Bố mẹ cháu đi đâu?”. Các cháu trả lời: “Bố mẹ chúng cháu ra bãi biển bắt tôm, cá về bán đong gạo”... Đồng chí Bí thư, Chủ tịch, Chủ nhiệm hợp tác xã, cùng đi với tôi cho biết: “Xã có đất canh tác 500 ha, nhưng năm nào cũng không cày cấy hết, bỏ hoang cho cỏ năn mọc trên dưới 100 ha. Nông dân không cấy vì thu nhập thấp, lúa chín cũng không chịu đi thu hoạch, bỏ ruộng ra bãi biển kiếm sống. Tôi hỏi: “Các cháu bị đói là tại ai?”.

Đồng chí thì trả lời do nhà thiếu lao động, bố mẹ không chịu lao động cày cấy. Đồng chí Bí thư tự nhận là tại xã quản lí kém v.v.. Tôi nói: “Là tại tôi, tại Chủ tịch thành phố...”. Các đồng chí nhìn tôi tỏ vẻ sợ! “Tôi nói thật đấy. Tôi sẽ cho lái xe về ngay nhà lấy mấy cân gạo cho các cháu, nấu cho các cháu ăn kẻo bị đói lả”.

Các đồng chí vội ngăn lại, bảo xã có gạo. Rồi đồng chí chủ nhiệm hợp tác xã vội về xuất kho lấy gạo nấu cơm cho các cháu. Mấy hôm tiện đường, tôi rẽ vào xã Hoà Nghĩa thì được biết thóc quỹ hợp tác xã còn, các đồng chí xuất cho những gia đình khó khăn vay. Thành phố hỗ trợ một ít, qua vụ đói. Các xã khác ngoại thành cũng làm tương tự, nhất là huyện Tiên Lãng và huyện An Lão, huyện thuần nông rất nghèo, gặp rất nhiều khó khăn trong đời sống.

Từ những vấn đề thực tế của nông dân, với cương vị Chủ tịch UBND thành phố, tôi đề xuất thay đổi cách quản lí nông nghiệp. Tôi đem vấn đề bức xúc này bàn với anh Bùi Quang Tạo, anh tỏ ý đồng tình. Hai anh em trao đổi ngày này qua ngày khác, những buổi chiều thứ bảy hàng tuần, ngoài những việc phải giải quyết ngay, chúng tôi tập trung suy nghĩ và trao đổi vấn đề “khoán hộ”. Anh Tạo nói: “Khó nhất là anh Trường Chinh. Vụ khoán chui của anh Kim Ngọc tỉnh Vĩnh Phúc, lúc đó tôi ở Ban Tổ chức Trung ương thấy găng lắm!” Tôi đề nghị anh ở Hà Nội thăm dò xem liệu Vĩnh Phúc làm cách đây 15 năm rồi, nay có thể khác không. Tôi nói vui: “Vạn vật biến chuyển, con người tư duy cũng phải biến chuyển.


8. Nhất là lúc này lương thực không đủ ăn, ruộng nông dân bỏ hoang, ta phải vay đô-la nhập lương thực, nhập phân bón bao nhiêu dân vẫn đói, cán bộ công nhân viên phi nông nghiệp chỉ ăn mì. Rõ ràng có ruộng cấy ra thóc, mà không có gạo ăn”. Anh Tạo suy nghĩ, tỏ ra rất buồn. Tôi tin tưởng anh Tạo đã đồng tình với tôi. Anh nói chúng ta sẽ liệu và anh bảo tôi: “Anh thân với anh Ba, anh thăm dò ý anh Ba xem. Còn tôi sẽ thăm dò những anh em thân quen anh Trường Chinh”. Chúng tôi đi đến thống nhất tạm thời cho khoán màu ở ngoại thành, lấy xã Hưng Đạo làm thí điểm... rồi từng bước ta mở rộng sau.


Còn những nơi khoán chui ruộng như Tiên Lãng, ta lờ đi, nhắc báo Hải Phòng không phê bình Tiên Lãng quá đà trệch hướng, Huyện cho khoán màu, xã lợi dụng khoán cả lúa. Đồng chí Lựu Bí thư Huyện uỷ thấy báo Hải Phòng phê bình, lo quá, đồng chí thanh minh với tôi. Tôi bảo cứ yên lâm, đừng cấm nông dân. Chúng ta sẽ xin với trên cho làm thử khoán lúa tới người lao động và nhóm lao động...

Trong lúc lương thực thiếu, trên cung cấp không đủ, tôi và đồng chí Trịnh Thái Hưng, Phó Chủ tịch cùng một số cán bộ của Văn phòng UBND thành phố vào miền Nam chạy gạo, bằng cách đổi hàng công nghiệp. Chúng tôi đến tỉnh Cửu Long kết nghĩa, được tiếp đón trọng thị, nhưng khi bàn đến mua thóc đổi hàng công nghiệp thì rất khó khăn. Trong lúc đồng chí Sáu Ức, Chủ tịch UBND tỉnh đang bàn giao để đi làm chuyên gia bên Campuchia, giao cho đồng chí Tuấn, Phó Chủ tịch bàn với chúng tôi.


Tôi và đồng chí Hưng bàn đi bàn lại với tỉnh kết nghĩa, có cả đồng chí Văn Hiến tỉnh uỷ viên nguyên là Thành uỷ Hải Phòng làm Giám đốc sở nông nghiệp Cửu Long, nhưng đồng chí Phó Chủ tịch chặt chẽ quá. Tôi nghĩ chắc tỉnh cũng có khó khăn về lương thực, nên tôi đề nghị thôi không mua lương thực của tỉnh Cửu Long nữa. Về sau các đồng chí nghĩ sao không rõ, đồng chí Tuấn lại bán cho Hải Phòng 1.000 tấn thóc. Tôi nói với đồng chí Văn Hiến rằng, chúng tôi thông cảm, anh không nên áy náy về vấn đề này.

Hôm sau Đoàn chúng tôi sang Hậu Giang, gặp đồng chí Chủ tịch Bảy Mạnh, đồng chí Đặng Toàn, Phó Chủ tịch, nguyên Chủ tịch thành phố Hải Phòng vào tăng cường cho Hậu giang. Chúng tôi chỉ bàn 2 tiếng đồng hồ, đồng chí Chủ tịch bán cho 2.000 tấn gạo bằng cách đổi hàng rất thuận lợi cho Hải Phòng.

Kết quả mua được 2.000 tấn gạo và 1.000 tấn thóc. Chúng tôi ra về bằng đường bộ. Trong dịp đi công tác này, tôi gặp một số tỉnh để vừa học tập, vừa thăm dò việc “khoán” nông nghiệp. Có đồng chí rất bỡ ngỡ vì việc quá mới, có đồng chí trả lời: “Chúng tôi phải tổ chức hợp tác xã xem sao đã. Chưa biết hợp tác xã ra sao, nói gì đến khoán”. Tỏ thái độ không đồng tình là Bến Tre và Thuận Hải, còn đa số trả lời chung chung: “Các anh cứ làm trước, nếu tốt chúng tôi sẽ làm”. Tôi chỉ dám trao đổi khéo léo, sơ sơ thôi, chứ không dám nói thẳng ra, vì vấn đề này vẫn là vấn đề “quốc cấm”.

9. Trên đường về, chúng tôi làm việc với Khánh Hoà, đêm ngủ tại Cam Ranh. Bộ Tư lệnh Hải quân mời đến xem tàu ngầm Liên Xô. Sáng hôm sau trên đường về qua thành phố Nha Trang một sự cố đau lòng xảy ra: đồng chí Nguyên Văn Sinh, chuyên viên Văn phòng Uỷ ban bị nhồi máu cơ tim chết ngay trên xe trong lúc đang đi cùng với đồng chí Trịnh Thái Hưng. Chúng tôi đưa ngay đồng chí Sinh đến Bệnh viện Nha Trang, nhờ bệnh viện khám lại tử thi để xác định nguyên nhân. Đồng chí Sinh bị đau tim đã lâu. Khi đi vào miền Nam đồng chí Sinh đi bằng máy bay, đồng chí có cháu là bộ đội Hải quân nên kết hợp đi thăm cháu. Trước khi ra Bắc bằng đường bộ, tôi đã bảo đồng chí Sinh xem lại sức khoẻ rồi hãy đi. Đồng chí Sinh nói với tôi: “Anh yên tâm, sức khoẻ tôi khá rồi”.

Tôi đến gặp đồng chí Hồ Ngọc Nhường, Chủ tịch UBND tỉnh Phú Khánh đề nghị giúp đỡ. Đồng chí Nhường giúp hết sức tận tình, chỉ thị cho bệnh viện làm mọi thủ tục, đóng cho một quan tài trong bằng kẽm, ngoài bằng gỗ, giải phẫu và làm vệ sinh tử thi đồng chí Sinh rất chu đáo. Chúng tôi nghỉ lại một đêm ở thành phố Nha Trang, một đêm biết bao buồn bã, không ai ngủ, chỉ mong sao chóng sáng để đưa đồng chí Sinh về Hải Phòng. Sáng sớm hôm sau, đồng chí Hồ Ngọc Nhường và Văn phòng UBND tỉnh Phú Khánh tiễn chúng tôi với sự cảm thông sâu sắc về chuyến công tác gặp nhiều trắc trở.

Đoàn chúng tôi ra về với một xe tang bí mật (xe khách do Khánh Hoà chở giúp) trên chở quan tài đồng chí Sinh và một vài cán bộ ngồi phía trước. Còn xe tôi lúc đi trước, lúc lùi lại sau để bảo đảm thời gian và tốc độ đi vừa phải. Nó là cái xe Volga mầu mận tím trước của Giáo sư Tôn Thất Tùng (Giáo sư mua xe mới, chiếc xe cũ cho Hải Phòng). Đoàn xe đến Lăng Cô thì xe của tôi bị chết máy, đồng chí Chức lái xe chữa mãi không được.

Tôi bàn với anh Hưng gọi điện cho anh Trần Hoàn, Uỷ viên Thường vụ Bình Trị Thiên, đề nghị cho xe đến đón, và kéo xe của tôi về Huế. Đồng chí Trần Hoàn lập tức mượn xe của đồng chí Vũ Thắng, Chủ tịch UBND tỉnh đến đón tôi, và cho xe kéo chiếc xe hỏng về Huế. Thật là:

“Phúc bật trùng lai,
Hoạ vô đơn chí!

Về đến Huế, đồng chí Vũ Thắng đã đón tôi tới khách sạn và mời cơm toàn đoàn. Chúng tôi giữ bí mật về chiếc xe khách chở hàng “đặc biệt” đi theo. Vì cả đêm chiếc xe đó phải đỗ ở sân khách sạn Sông Hương, ngại nói ra anh em khách sạn lại sợ, sinh “rách việc”, cứ lặng yên không ai nói gì cả.

10. Hôm sau chúng tôi cảm ơn, chào tạm biệt đồng chí Vũ Thắng, đồng chí Trần Hoàn, về Hải Phòng. Nhưng các đồng chí ở Huế cũng biết là chiếc xe khách trong chở quan tài, thấy chúng tôi không nói gì, các đồng chí “tế nhị” cũng không hỏi. (Sau này đồng chí Vũ Thắng và đồng chí Trần Hoàn có nói lại với tôi). Viết đến đây, tôi muốn một lần nữa cảm ơn ba anh: Hồ Ngọc Nhường, Vũ Thắng, Trần Hoàn. Nhưng ba anh đã qua đời! Rất buồn và nhớ các anh, những “chiến hữu” không bao giờ quên nhau. Nhất là anh Trần Hoàn, một con người năng động, sôi nổi, tình cảm... luôn coi Hải Phòng là quê hương thứ hai của mình.

Đến 15 giờ cùng ngày, đoàn xe chúng tôi về đến Hải Phòng. Gia đình đồng chí Sinh và Văn phòng Uỷ ban, Văn phòng Thành uỷ, các cơ quan, bạn bè thân thuộc đã đón đồng chí Sinh ở bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp. Vừa buồn vừa tủi, vừa mừng lẫn lộn. Những ngày qua chị Sinh và các cháu lo lắng không biết bác Thành, bác Hưng... có mang được bố các cháu về không? Hay phải mai táng tại Nha Trang? Hôm sau, đám tang đồng chí Sinh được cử hành long trọng. Thi thể đồng chí do Khánh Hoà làm vệ sinh và ướp lạnh tốt, nên hình dáng vẫn như người nằm ngủ. Cả gia đình đều gặp tôi cảm ơn. Tôi bảo đây là trách nhiệm, là tình cảm của đồng chí với nhau, chỉ khi không còn điều kiện mới phải bó tay.

Một thời gian đi công tác dài ngày ở các tỉnh phía Nam, tôi có thêm những suy nghĩ mới về đất nước. Trước đây so với 3 nước như: Nhật Bản, Trung Quốc, Liên Xô thì Việt Nam vẫn có ưu thế hơn. Thế mà sau hơn 5 năm thống nhất đất nước, dân vẫn cứ nghèo, thành phố Hồ Chí Minh mấy năm đầu thấy khá hơn các tỉnh phía Bắc nay xuống cấp quá nhanh, xe máy hết dần, chỉ còn xe cũ với loại Honda 50 là phổ biến, xe đạp xuất hiện nhiều. Từ ăn mặc, đến nhậu nhẹt giảm hẳn. Quần áo nâu sồng, dép lốp xuất hiện.

Các tỉnh miền Trung còn khó khăn hơn. Đến Phan Rang, nóng ơi là nóng! Đồng chí Thư kí thấy tôi mồ hôi nhễ nhại, mệt mỏi, tìm mãi trong cặp ra đưa cho tôi một gói sâm chè cao ly và một cốc nước, nói khẽ: “Anh vào góc kia uống”. Đồng chí hướng dẫn tôi xé bao chè sâm, dốc vào miệng, uống cho đỡ mệt. Đúng là lần đầu tiên tôi uống chè sâm, uống xong thấy dễ chịu thật. Tôi suy nghĩ làm sao để dân giàu lên, mình được uống chè sâm với dân thì sướng biết bao! Phải làm và làm cho được.

11.Về đến Hà Nội, buổi trưa nắng hè oi ả, lại thấy rặt xe đạp là xe đạp, với dép cao su. Nhiều người còn mặc quần áo vá. Tôi nghĩ bao giờ thì lên đến chủ nghĩa xã hội? “Phải quyết tâm làm cho nó đến...”

Là người Hải Phòng không ai không hiểu Hải Phòng là thành phố Cảng, thành phố công nghiệp, và đường lối chung phải ưu tiên phát triển công nghiệp. Nhưng giữa lúc ngành công nghiệp đang đứng trước những thách thức lớn, công nghệ lạc hậu, vốn không có, nguyên liệu nhập về không đủ, phải chia nhau từng tấn sắt thép, mà Uỷ ban kế hoạch Nhà nước cũng quên Hải Phòng là thành phố công nghiệp, nên những năm cuối thập kỉ 70, phân chia nguyên liệu sắt thép chỉ ngang Quảng Ninh và Thái Bình. Vậy Hải Phòng phải tìm hướng đi nào cho phù hợp và có hiệu quả nhất, không giáo điều, máy móc?


Chúng tôi tạm thời vẫn duy trì những ngành công nghiệp khó khăn và phát triển những ngành công nghiệp có điều kiện, chờ thời. Khởi đầu bằng nông nghiệp lúc đó là thuận nhất, vì ngân sách trống rỗng, lương thực Nhà nước cấp có hạn. Đầu tư vào nông nghiệp là nhanh nhất. Sau 1 vụ khoảng 3, 4 tháng là có ăn. Thực tế phương hướng này rất đúng và đã giải quyết được nhiều khó khăn cho thành phố. Ấy thế mà lại có người cho Hải Phòng đi chệch hướng. Đến khi Hải Phòng được Trung ương đồng tình, ủng hộ và khuyến khích, thì họ lại tức tối, chống phá. Thế mới biết vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng đã là khó, nhưng vượt qua rào cản của những người thiển cận, bảo thủ còn phức tạp hơn nhiều.

12. Hiện lương thực cung cấp cho cán bộ công nhân viên thiếu quá, hết 10 ngày đầu tháng đã không có gạo bán. Trong khi tầu gạo đã đến Cảng. May gặp anh Đinh Đức Thiện, Bộ trưởng Giao thông vận tải kiêm Bộ trưởng Dầu khí (lúc đó là Bộ, sau này là Tổng cục Dầu khí), Thành uỷ và UBND đề nghị anh Thiện tạm xuất cho ít gạo để bán cho cán bộ, công nhân. Anh Thiện đồng ý xuất ngay cho Hải Phòng 2.000 tấn. Một tháng sau anh Thiện xuống Văn phòng Uỷ ban, vừa bước vào phòng làm việc của tôi, anh vừa nói: “Có thằng Bộ trưởng nào như tao không? Kiêm hai Bộ trưởng mà không cho lấy hai vợ. Có thằng Bộ trưởng nào như tao phải đến Chủ tịch thành phố hàng ngày?

Chủ tịch bảo xuất gạo, phải xuất gạo ngay. Lập trường giai cấp ở chỗ đó đấy! Thế mà họp Chính phủ họ bảo tao xuất vô nguyên tắc, chưa nhập kho lương thực chưa có phiếu xuất kho đã xuất cứ xồn xồn như các bà hàng cá. Phê bình tao, tao bảo nếu để công nhân đói, họ lên kéo sụp “cổng nhà đỏ” này thì các anh không yên đâu. Để tôi làm Thủ tướng 15 phút, tôi sẽ giải quyết xong các vấn đề rắc rối, trì trệ của các anh. Tao nói xong, không họp nữa ra về, xuống thẳng Hải Phòng vào nói cho cậu biết...” Tôi chỉ còn biết cảm ơn anh đã gánh chịu những lời phê bình cho nhân dân Hải Phòng, chứ không dám bình luận gì thêm...

Anh Đinh Đức Thiện, con người thông minh, tính tình thẳng thắn, bộc trực. Khi làm Bộ trưởng Giao thông vận tải, mỗi khi xuống Hải Phòng, anh đến thăm tôi, kể rất nhiều chuyện trong nhà tù, trong kháng chiến chống Pháp, nhất là trong chiến tranh chống Mỹ. Khi anh phụ trách hậu cần, chuẩn bị chiến dịch Hồ Chí Minh, những sáng kiến táo bạo của anh trong việc tích trữ đạn pháo các loại, nhất là đạn pháo 130 ly. Anh nói: “Mình chuẩn bị đánh chúng sao cho ba đời chúng còn khiếp pháo của tao”. Anh hay đọc thơ cho tôi nghe. Thơ anh viết hay, có nhiều góc cạnh châm biếm rất vui, kể cả thơ châm biếm ông anh Lê Đức Thọ làm tổ chức...

13. Tôi rất quý anh và anh cũng mến tôi. Khi sinh thời, đã nghỉ hưu, anh cũng hay đến tôi chơi và bảo tôi lại nhà chơi. Nay thỉnh thoảng tôi cũng đến thắp hương cho anh, tưởng nhớ một con người hết lòng cho đất nước.

Tôi bàn tiếp với anh Tạo để ra nghị quyết về “khoán sản” trong nông nghiệp. Anh Tạo đưa ra Thành uỷ bàn nhiều kì họp. Vẫn còn 4 Thành uỷ viên không đồng ý. Anh Tạo trao đổi với tôi tiếp tục tranh thủ sự đồng tình của anh Trường Chinh. Tôi đã hỏi ý kiến anh Lê Duẩn, Tổng Bí thư, sau 3 giờ báo cáo. Anh Ba nghe rất kĩ và đồng tình ngay (tôi sẽ nói kĩ trong chương “Anh Ba với Hải Phòng”). Anh Phạm Văn Đồng coi như đã đồng ý rồi. Anh rất vui, chỉ hỏi anh Ba, anh Trường Chinh ý kiến thế nào? (Tôi sẽ nói kĩ trong chương “các đồng chí Bộ Chính trị lúc đó với Hải Phòng”).

Để từng bước xoay chuyển tình hình, tôi bàn với anh Tạo cho chia huyện An Thuỵ ra, huyện Kiến Thuỵ nhập với thị xã Đồ Sơn vừa có thị xã vừa có huyện, gọi là huyện Đồ Sơn. Huyện An Lão cũ nhập với thị xã Kiến An, gọi là huyện Kiến An. Trước mắt giải quyết mâu thuẫn triền miên của huyện An Thuỵ. Bước sau sẽ tách hai thị xã Kiến An và Đồ Sơn đưa lên thành Quận. Còn hai huyện Kiến Thuỵ, An Lão trở lại huyện cũ theo truyền thống. Thành uỷ và Uỷ ban thành phố mời đồng chí Vũ Trọng Kiên, Trưởng ban Tổ chức Chính phủ xuống Hải Phòng làm việc một ngày, đồng chí Vũ Trọng Kiên đồng ý trình Chính phủ phê duyệt.

14. Tháng 3-1980 hai huyện mới được thành lập. Đồng chí Vũ Ngọc Làn, Bí thư Huyện uỷ Kiến An, sẽ nhận chỉ đạo điểm nghị quyết khoán. Đồng chí Nguyễn Đình Nhiên, Bí thư Thị xã Đồ Sơn về làm Bí thư Huyện uỷ Đồ Sơn.

Tôi đã báo cáo anh Trường Chinh 2, 3 lần, anh tỏ vẻ không phản đối. Một lần anh Trường Chinh đi xem bắn tập tên lửa thật ở Hải Phòng, tôi đưa anh đi xem tại Đồ Sơn. Trưa ăn cơm chỉ có hai người, tôi lại đem vấn đề khoán ra xin ý kiến anh. Tôi cảm giác anh không vui, nhưng anh không nói vào khoán. Anh kể chuyện huyện Xuân Trường, quê anh với thái độ gay gắt, phê bình huyện này buông lỏng quản lí, để hợp tác xã khoán lung tung, không có kỉ cương gì... Tôi biết là anh phê bình tôi. Tôi chuyển sang báo cáo công việc khác, về làm kinh tế, về Cảng...

Anh Tạo kể lại hôm họp Quốc hội, (anh Tạo và tôi đều là đại biểu Quốc hội khoá VII) giờ nghỉ giải lao, anh Trường Chinh gọi anh Tạo ra ngoài phê phán rất gay gắt: “Anh định phá hết hợp tác xã nông nghiệp ở Hải Phòng và cả nước à?”. Anh Tạo bảo tôi: “gay lắm!” Nhưng tôi một mặt mời anh Trường Chinh về thăm Hải Phòng, lấy thực tế thuyết phục, mặt khác bảo đồng chí Nguyễn Đình Nhiên ra nghị quyết của Huyện uỷ về khoán, dựa vào nghị quyết dự thảo của Thành uỷ mà viết.

15. Anh Nhiên do dự, nhưng sau hai, ba ngày anh lên Hải Phòng gặp tôi, mời tôi về Huyện bàn việc ra nghị quyết. Tôi báo cáo anh Tạo việc này, anh Tạo tỏ ý không đồng tình và bảo: “Cậu Nhiên không ổn đâu. Hồi tôi làm Tổ chức Trung ương, tôi biết cậu này”. Tôi trình bày lại với anh Tạo. Việc khoán đã chín muồi lắm rồi, cứ cho một huyện ra nghị quyết trước, để lấy ý kiến từ cơ sở, thêm áp lực với trên. Anh Tạo nể tôi, bảo “Thôi tùy anh”. Tôi nói với anh Tạo nếu trên có hỏi, anh cứ bảo chủ tịch thành phố cho làm. Anh tỏ vẻ không vui, nói “Nếu có trách nhiệm là trách nhiệm chung”. Hôm sau anh Nhiên lên thành phố hỏi tôi: “Anh Tạo có đồng ý không?”. Tôi nói anh Tạo đồng ý rồi, nhưng có vấn đề đấy, cần làm thận trọng, đừng để xảy ra phức tạp.

Huyện Đồ sơn ra nghị quyết được 32 ngày thì Ban Thường vụ ra nghị quyết 24 nổi tiếng về “khoán” trong nông nghiệp, làm cơ sở cho chỉ thị 100 của ban Bí thư tháng 11981 về khoán sản phẩm trong nông nghiệp cho nhóm lao động và lao động xã viên và làm cơ sở cho nghị quyết khoán 10 tháng 4-1988 của Bộ Chính trị khoá VI về “khoán 10”.

Cuộc đấu tranh cho một cái mới ra đời thật quá vất vả, khó khăn. Trong thời kì chuẩn bị ra nghị quyết, các huyện ngoại thành, nhất là huyện Tiên lãng, xã Đoàn Xá Đồ sơn, xã Hưng Đạo, huyện An Lão nghe thành phố bàn khoán, tình hình sản xuất bức xúc, hợp tác xã cứ tạm cho khoán từng phần, mỗi xã để dành một số ruộng khoán để rút kinh nghiệm.

Các đoàn kiểm tra của Trung ương về Hải Phòng ngày càng đông, đoàn đồng tình, đoàn lưỡng lự, đoàn phản đối, đủ các loại. Quần chúng thì phán khởi. Tỉnh Hải Hưng, một tỉnh nông nghiệp lớn bên cạnh Hải Phòng. Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ tuyên bố “Nếu có dây thép gai tôi sẽ rào luồng gió độc của Hải Phòng thổi sang”. Nhưng các huyện của Hải hưng. các đồng chí Bí thư, chủ tịch lén lút xuống Hải Phòng học kinh nghiệm khoán.

Các anh trong Bộ Chính trị như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, anh Nguyễn Duy Trinh, anh Trần Quốc Hoàn... đều xuống nghiên cứu khoán. Anh Giáp, anh Trinh tỏ ý đồng tình ngay. Anh Trần Quốc Hoàn hỏi rất sâu và tỏ vẻ lưỡng lự, nói: “Thiếu lương thực thì phải làm thôi”. Các anh uỷ viên Ban Bí thư và uỷ viên Trung ương như anh Hoàng Tùng. anh Vũ Oanh, anh Trương Kiện thì ủng hộ rất nhiệt tình. Anh Vũ Oanh còn tuyên bố: “Đây là chìa khoá vàng” làm một số người chống khoán phản đối quyết liệt.

16. Đến mức đồng chí Vũ Duy Hiệu, đảng viên năm 1930, nguyên chủ tịch Uỷ ban cách mạng lâm thời tỉnh Hải dương 1945, nguyên phó tổng giám đốc ngân hàng Việt Nam, anh ruột anh Vũ Oanh phải đến hỏi tôi “Khoán ra sao, mà chú Vũ Oanh lại mạnh mồm nói như vậy?”. Tôi báo cáo với anh Vũ Duy Hiệu “Anh Oanh nói đúng đấy! Anh yên tâm”. Sau này ta đã xuất được trên 3 triệu tấn gạo, tôi lại chơi, nói vui với anh Vũ Duy Hiệu: “Nay đã là kho vàng rồi, không chỉ có chìa khoá vàng...” Anh Hiệu rất vui. nay anh đã 95 tuổi.

Ba mươi tết năm 1980, anh Đỗ Mười xuống thăm và chúc tết nhân dân Hải Phòng. Tôi mời anh đi xem sản xuất nông nghiệp. Ngồi trên chiếc xe Commăngca anh thấy ngày 30 tết, nông dân cấy rợp đồng, anh cười vui vẻ nói: “Chỉ có khoán mới có chuyện làm ăn chăm chỉ của nông dân như thế này...”

Trở lại khoảng tháng 9-1980, nghị quyết 24 về khoán trong nông nghiệp đã được hơn 3 tháng. Thành uỷ tổ chức sơ kết. Một số tỉnh và ngành Trung ương cùng đến dự. Một số tỉnh không được mời cũng đến. Các báo càng đến đông. Những nhà báo như Lê Điền, Thái Duy, Hữu Thọ ủng hộ khoán ngay từ đầu, rất sốt sắng viết bài, tuyên truyền cho khoán. Những nhà báo còn do dự hoặc chưa đồng tình cũng đến đông để nghe ngóng tình hình.

Lúc đó anh Trường Chinh đã đồng ý cho khoán trong lần thứ năm tôi xin ý kiến anh. Ý kiến anh góp tôi đã ghi kĩ và đọc lại cho anh nghe (tôi sẽ nói trong chương “anh Trường Chinh với Hải Phòng”). Khi họp hội nghị, tôi hỏi ý kiến anh Tạo, đề nghị cho tôi phổ biến ý kiến anh Trường Chinh, anh Tạo tỏ ra ngại ngần, nói: “ấy chê -ết! ấy chê -ết! Để xem đã”. Mặc dù tôi đã đọc ý kiến anh Trường Chinh đồng ý cho khoán để anh Tạo nghe, nhưng có lẽ anh chưa tin, và sợ không đúng ý anh Trường Chinh. Tôi đành không phổ biến, nhưng cũng tiếc!

Đến khoảng tháng 11-1980. Ban nông nghiệp Trung ương họp các trưởng ban nông nghiệp toàn quốc, có mời anh Tạo và tôi lên dự. Anh Tạo bảo tôi đại diện, anh không đi. Tôi cùng đồng chí Trưởng ban Nông nghiệp đi họp. Đồng chí trưởng ban nông nghiệp Hải Phòng lúc đó chưa đồng ý khoán. Khi đến cuộc họp, đồng chí Võ Thúc Đồng là trưởng ban bảo tôi: “Hôm nay Hải Phòng cử “gà nòi” đi họp đây”. Mấy đồng chí phó ban chống khoán, cũng đùa vài câu và cười hơi “mỉa mai”. Tôi vui vẻ bắt tay các anh và các đồng chí trong hội nghị.

17. Vào cuộc họp, sau lời tuyên bố lí do cuộc họp, là nghe việc khoán nông nghiệp của Hải Phòng, anh Võ Thúc Đồng mời tôi phát biểu trước. Tôi lên phân tích lí do làm khoán, cơ sở lí luận, kết quả và tồn tại, khoảng 45 phút. Sau đó các tỉnh phát biểu. Tất cả đều phản đối khoán, phê phán các mặt tiêu cực của nó, lên án gay gắt. Có những lời nói thiếu văn hoá nữa. Duy chỉ có đồng chí Huy, Viện phó Viện nông nghiệp thì ủng hộ một vài ý nhưng rụt rè. Hôm đó tôi thấy cần phải đem ý kiến anh Trường Chinh ra phổ biến, tôi đọc nguyên văn lời anh Trường Chinh mà tôi đã ghi vào sổ... Tôi vừa đọc thong thả, vừa theo dõi thái độ hội nghị. Thấy nhiều bộ mặt ngơ ngác, có bộ mặt nghi ngờ, có người thì thầm với nhau, nhằm nói to cho tôi nghe thấy, như: “Kì này tay Thành sẽ chết với ông Trường Chinh... dám bịa, ghê thật!”. Tôi vẫn tỏ ra như không nghe thấy, và cứ nói một cách phấn khởi về ý anh Trường Chinh...

Khi kết thúc hội nghị, anh Võ Thúc Đông tiễn tôi, vỗ vai tôi nói: “Tôi ủng hộ ý kiến anh, nhưng trong lúc này điều kiện tôi không nói công khai được...”. Còn các đồng chí Vụ trưởng ủng hộ khoán như: Lê Công Thiện, đồng chí Phước thì tỏ ra phấn khởi và bảo tôi: “Cứ yên tâm, chúng tôi sẽ ủng hộ triệt để Bài phát biểu của anh hôm nay thuyết phục lắm!”.

Đến nay, đồng chí Võ Thúc Đồng đã 90 tuổi với 75 tuổi Đảng, thỉnh thoảng gặp đồng chí, tôi nói vui: “Chiến sĩ Côn Đảo mà nhát, không dám công khai ủng hộ khoán ngay từ đầu”. Anh cười và đấm tôi: “Cậu hay nhớ dai...”.

Làm thế nào để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội
và dần dần nâng cao đời sống nhân dân?


18. Đây là câu hỏi cực khó trong đầu thập kỉ 80 đối với toàn quốc. Đặc biệt là Hải Phòng, nơi còn khó hơn nhiều vì thành phố vừa công nghiệp vừa có Cảng. Nông nghiệp tuy đã bước đầu làm khoán, nhưng vẫn rất nghèo, do đồng ruộng chua mặn!

Bài toán trong đầu tôi tuy một phần đã có phác thảo, nhưng bước đi cụ thể ra sao? Cái nào làm trước, cái nào làm sau? Biết bao con toán. Trong lúc ngân sách thành phố không còn gì, gạo chạy từng ngày, nguyên liệu dùng trong công nghiệp Trung ương cho rất ít, thất nghiệp, ăn mày ăn xin các nơi kéo về, lũ lượt đi ngoài phố. Giờ trưa ăn cơm, người ăn xin gõ cửa vào cả nhà ông Chủ tịch!

Tôi đề nghị anh Tạo, Thường vụ Thành uỷ và Thường trực Uỷ ban chọn lựa một số công trình thủy lợi loại vừa, hỗ trợ cho nông dân làm khoán, vừa giải quyết việc làm, vừa tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật, cung cấp nước cho nông nghiệp, tổ chức lấn biển với qui mô lớn để tăng diện tích cho nông nghiệp và lấy đất xây dựng công nghiệp.

Tôi luôn quan niệm rằng: xây dựng CNXH tất nhiên phải có những công trình lớn như nhà máy Thủy điện Hoà Bình, cầu Thăng Long., nhưng đối với người dân không phải ai cũng biết. Cái mà họ cần là nơi đang sống phải ngày một tốt hơn. Từ cái ngõ vào nhà sao cho không lầy lội mỗi khi trời mưa, cái nhà đang ở không dột nát, cái hố xí mỗi khi đi vệ sinh không phải một nón che đầu, một nón che phía trước... Vì vậy, phải xây dựng, chỉnh trang và làm sạch đẹp thành phố, phá bỏ những hố xí không có mái che ở các khu lao động như Thượng Hạ Lí, An Dương, Máy Chai, Trại Chuối...


Tôi cũng cho phá dỡ những tàn tích chiến tranh còn lại như bộ khung nhà máy lọc nước của xí nghiệp xi măng, bên cầu Thượng Lí, trông rất khó coi, các lô cốt thời Pháp còn ngăn cản đường giao thông ở đường số 5 như tháp canh Dụ Nghĩa lấn 1/4 lòng đường; tháp canh Đồn Riêng, đường 14 ra Đồ Sơn v.v... Những khu nhà tranh tre nứa lá, lợp tôn lụp xụp ở các phố lao động, tôi bảo cán bộ vận động nhân dân sửa chữa cho ngăn nắp, từng bước bỏ hố xí thùng, xây hố xí tự hoại, nhà nước cấp kinh phí một nửa.

Ngoài ra, những công trình văn hoá sẽ cùng lúc được khởi công như xây dựng nhà văn hoá Việt Tiệp, cung văn hoá thiếu nhi, sửa chữa phục chế Nhà hát lớn thành phố, trang bị nhạc cụ và dàn âm thanh hiện đại cho Đoàn ca múa, tạo mọi điều kiện cho Đoàn kịch nói dựng vở Nhân chứng và lịch sử nói về Bác Hồ, tổ chức hội thảo về danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm, thay nhạc hiệu của Đài phát thanh và truyền hình Hải Phòng bằng bài “Thành phố Hoa Phượng đỏ” thơ của Hải Như, nhạc của Lương Vĩnh...

19. Ở ngoại thành phát động phong trào “ngói hoá” nông thôn, xây dựng cụm văn hoá xã, thị trấn huyện khang trang, phấn đấu xây dựng Hải Phòng từ các công trình ở xã lên đến huyện và nối vào thành phố.

Tất cả những dự định trên, tôi đều viết thành đề án đưa ra thành uỷ và Hội đồng nhân dân bàn, ra nghị quyết. Triển khai ý tương đó, cùng với việc luôn luôn báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Trung ương tôi đã tham khảo các đồng chí lãnh đạo ở một số tỉnh, thành phố, như các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, thành phố Hồ Chí Minh; mời các học giả, nhân sĩ trí thức, các văn nghệ sĩ đóng góp ý kiến như: học giả Nguyễn Khắc Viện, Vũ Khiêu, Trần Bạch Đằng, kiến trúc sự Khôi Nguyên La Mã Ngô Viết Thụ, người thiết kế dinh Thống Nhất Sài Gòn, các giáo sư Vũ Tuyên Hoàng, Võ Tòng Xuân, các văn nghệ sĩ như nhà văn Nguyên Hồng, Học Phi, nhạc sĩ Văn Cao...

Để thử nghiệm khả năng chỉ đạo của mình, tôi cho làm một công trình nhỏ đầu tiên, đó là con đường phường Vạn Mỹ, đoạn từ cầu Tre đến Đoạn Xá. Đường cũ rải nhựa mỏng đã bong hết, chỉ còn cát đá, sỏi, đất lại là lối xuống cảng, xe cộ đi lại nhiều, dân cư đông đúc, rất bụi. Quần chúng kêu ca, oán trách chính quyền thành phố đã lâu, không ai giải quyết đoạn đường dài 800m này. Tôi hỏi sở nhà đất và đô thị, sở giao thông và sở tài chính họ đều nói không có tiền. Trong khi đó công nhân làm đường thất nghiệp, máy móc bỏ không.

Tôi nghĩ chỉ còn cách đi vay. Tôi biết xí nghiệp vận tải đường sông III trực thuộc bộ Giao thông vận tải, đơn vị làm ăn khá, đồng chí Nghiệp giám đốc xí nghiệp có quan hệ tốt với thành phố. Tôi đến gặp đồng chí Nghiệp xin vay một triệu đồng, 6 tháng sẽ trả. Đồng chí Nghiệp đồng ý ngay và nói: “Nếu chậm một năm Chủ tịch trả cũng được”.


20. Tôi cảm ơn. Hôm sau, tôi cho triển khai ngay, với nguyên tắc phải làm tốt, rải nhựa bảo đảm đường thành phố cấp cao, khẩn trương thi công trong 40 ngày, kết thúc con đường đầy bụi bặm cho nhân dân. Báo chí, đài, không cần nói, chỉ khi hoàn thành xong đúng kì sẽ nói. Các đơn vị ra quân phối hợp làm chặt chẽ. Thiết kế, sơ đồ tiến độ thi công làm rành mạch rõ ràng. Hàng ngày hết giờ làm việc tôi đến kiểm tra xem anh em làm có đúng như lời nói không? Và mệnh lệnh của chủ tịch, anh em có chấp hành nghiêm chỉnh chỉnh không?

Không kể những ngày chuẩn bị, tính từ ngày thi công, đúng 39,5 ngày con đường nhựa phẳng lì, đen bóng hoàn thành. Tôi cũng thấy phấn khởi. Anh em đề nghị tổ chức khánh thành, tôi bảo thôi vì chỉ có khúc đường ngắn, làm rút kinh nghiệm. Nếu cần thì cho đài, báo thông tin cho nhân dân biết. Đợi khi nào có công trình lớn sẽ tổ chức khánh thành. Mọi người vui vẻ đồng tình. Tôi lại nghĩ: “Tiền đâu? Ở đầu mà ra cả”. Từ đó ai hỏi tôi xin vốn, xin tiền, tôi bảo các đồng chí hỏi cái đầu của các đồng chí. Đến nay trở thành thành ngữ: “Tiền đâu? Ở đầu mà ra”. Hải Phòng có cảng là thế mạnh, Hải Phòng phải tận dụng thế mạnh này chứ.

21. Nhân dịp Tổng Bí thư Lê Duẩn về thăm Hải Phòng, tôi dựa vào ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư thường nói: “Mỗi tỉnh thành phải tự lo, phải coi mình như một nước nhỏ, phải tìm cách làm sáng tạo...” Tôi đề nghị anh Lê Duẩn cho Hải Phòng mua một con tàu biển, chở hàng đi bán ở những thị trường gần. Anh Lê Duẩn đồng ý ngay và còn khuyến khích nữa. Tôi lại đề nghị anh nói với anh Lê Khắc, Bộ trưởng Ngoại thương giúp.

Sau một tuần được ý kiến của anh Ba (tên gọi thân mật của Tổng Bí thư Lê Duẩn), chúng tôi mời anh Lê Khắc xuống làm việc ở Hải Phòng. Anh Khắc đồng ý cho Hải Phòng mua tàu theo ý anh Ba. Thế là ngành vận tải biển do Trung ương độc quyền, nay Hải Phòng, đơn vị đầu tiên có tàu biển xuất dương.

Ngay sau đó, tôi nhờ chị Trương Thị Nhân -giám đốc Công ti Vận tải và thuê tàu (Vietfract) của Bộ Ngoại thương mua giúp một tàu biển cũ của Nhật Bản. Đồng thời tôi khẩn trương xây dựng cảng Cửa Cấm, Cảng riêng của Hải Phòng, để khi mua được tàu về là có Cảng đậu ngay, không phải thuê cầu Cảng của Trung ương, khỏi bị động và tránh cước phí rất đắt. Không những thế khi đã có Cảng, nếu tàu nhà không đậu hết, cho thuê cũng tăng được ít nhiều ngân sách địa phương.

Vì Cảng Trung ương lúc nào cũng chật ních tàu, tàu phải chờ đợi lần lượt vào Cảng rất nhiều. Khi mua được tàu về, chị Nhân bảo tôi: “Anh nghĩ xa thật. Có cảng cho tàu đậu ngay, còn có cảng để kinh doanh nữa”. Tuy cầu cảng Cửa Cấm mới có một cầu tàu dài 105m, nhưng tàu mới, đỗ cảng mới cũng thấy vui! Tàu cũ mua về cho sơn lại, với cái tên “Sông Cấm”, ngành Hàng hải Việt Nam có thêm một “bạn mới”, “người địa phương Hải Phòng”.

22. Chúng tôi chuẩn bị chuyến hàng đem bán cho Hồng kông. Hàng hoá đủ loại: tương, cà, mắm, muối... Vì là lính mới, dân “local”, bỡ ngỡ mọi thứ. Từ thuyền trưởng đến thủy thủ đều nhờ Công ti Vietfracht giúp đỡ. Chuyến hàng đầu tiên chạy từ Hải Phòng đến Hồng kông, mua bán xong, trở về hết một tuần. Cả một tuần không đêm nào tôi ngủ được. Tôi lo đủ mọi thứ. Hồng kông lúc đó là thị trường tư bản duy nhất ta có đại diện thương mại. Tôi rất sợ bị sự cố xảy ra: sợ đắm tàu, sợ bị bắt, bị lừa.

Vì toàn cán bộ mới ra buôn bán với nước tư bản, hàng ngày các đồng chí trên tàu “Sông Cấm” đều báo cáo công việc của mình cho Chủ tịch. Chủ tịch Uỷ ban thành phố như một anh Giám đốc công ti, lo từng ly từng tý. Từ giấy thông hành (Passport), đến cuộc sống thủy thủ, đến hàng hoá đem bán v.v... Tôi nhớ không kĩ lắm, tổng số hàng bán giá khoảng trên một triệu US đô la, do công ti dịch vụ du lịch là đồng chí Vân Nam chuẩn bị. Hàng mua về, bán lãi được gấp đôi. Thật là thành công rất đáng phấn khởi.

Tôi chỉ đạo anh em rất chặt chẽ. Ai buôn lậu, lợi dụng tham nhũng, kỉ luật nghiêm minh. Việc kinh doanh rất có hiệu quả, nhất là những chuyến đi Nhật sau này, chở hàng của ta đi bán, mua hàng cũ về bán lại cho dân, thành ra xe máy rất rẻ (lúc đó chỉ việc ra bãi rác chọn, trả cho công an Nhật mỗi chiếc 5 -10 $US là được giấy phép xuất). Xe máy của Nhật đem về định giá phải chăng ở thị trường Việt Nam đắt như “tôm tươi”. Đi vài chuyến đã có tiền thực hiện chương trình lấn biển, làm thủy lợi, mua hàng hoá cung cấp cho cán bộ công nhân viên, nhất là mặt hàng vải vóc.

Nhà nước phát phiếu nhưng không có vải bán, thành phố có vải nhập về bán thu tem phiếu, bị lỗ một ít, nhưng nhân dân phấn khởi. Năm 1981-1982 làm ăn khá lên, nhân dịp 2-9 và Tết âm lịch, thành phố biếu cán bộ công nhân viên, các lực lượng võ trang, học sinh trung học, đại học mỗi người 5m. Vì lúc này Nhà nước không còn vải để bán theo tem phiếu nữa, coi như xoá bỏ tem phiếu.


23. Năm 1981 tôi cho mua thêm con tàu thứ 2 mang tên “Hoa Phượng”, trọng tải 2.900 tấn, có một khoang chở hàng đông lạnh, với giá gần 200.000 đô la. Khi đoàn đi mua tàu ở Nhật Bản điện về xin ý kiến quyết định, tôi phải điện đi, điện lại và gọi điện trực tiếp. Vì giá một con tàu có một khoang chở hàng đông lạnh 1.000 m3, mới có 6 tuổi giá chỉ như vậy là quá rẻ. Tôi sợ bị lừa, bảo các đồng chí fax cả lí lịch tàu về xem. Tôi vẫn lo bị lừa, nhờ các đồng chí Tổng cục Hàng hải xác minh giá cả và kĩ thuật giúp.

Các đồng chí đều nói đúng, tôi mới đồng ý mua. Đúng là rẻ thật. Giá cước 1 m3 hàng lạnh là 600 $US, ta đang thiếu loại tàu này. Khi tàu về có hàng chở từ Nhật, nên chỉ sau chưa đầy một năm đã thu xong vốn. Xem ra ngành hàng hải địa phương có vẻ làm ăn tốt. Từ đó Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng cũng mua tàu kinh doanh. Còn Bình Trị Thiên thì liên doanh với Hải Phòng mua con tàu thứ 3, tên là tàu “Huế-Hải Phòng”, 2.600 tấn còn rất mới và đẹp. Hôm tàu về cảng Cửa Cấm, anh Vũ Thăng Bí thư Tỉnh uỷ từ Huế ra đón tàu. Chúng tôi rất hài lòng về con tàu đẹp, giá cả phải chăng.

Đến lúc này, bộ máy của công ti vận tải biển Hải Phòng nhỏ bé (Haiphong ship), đã đi vào nề nếp với 3 con tàu kinh doanh có hiệu quả. Tôi cho là bước dầu đạt được yêu cầu.

Tôi chuyển sang khôi phục sản xuất công nghiệp địa phương, từ lâu do thiếu nguyên liệu bị trì trệ. Trước hết là hợp tác với nhà máy xi măng, mua than cốc cho nhà máy, chỉ yêu cầu trả lại thành phố xi măng bao, để thành phố xây dựng công trình. Sau nữa tôi tìm cách thúc đẩy cho phát triển mạnh nghề giày dép xuất khẩu, ngành may mặc, ngành giấy, hoá chất Sông Cấm, nhập thiết bị xây dựng nhà máy chế biến ô xy, phát triển ngành tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp truyền thống, tạo công việc làm cho nhân dân.

Tiếp theo tôi mở công trình lấn biển lớn, kết hợp với xây dựng đường xuyên đảo đi trên đất Hải Phòng, không phải qua đất tỉnh Quảng Ninh, một công trình mà tôi ấp ủ từ lâu. Theo dự kiến, tuyến đường đi thẳng từ ngã 5 qua đường Đà Nẵng, xuyên qua doanh trại quân đội (nhà tù Đoạn Xá) qua Hạ Đoạn, Sâm Bồ, đắp đập ngăn sông Cấm, nối với đảo Đình Vũ, qua phà Đình Vũ, sang xã Hoàng Châu huyện Cát Hải cũ để xuyên qua huyện này ra bến phà Gót sang Cát Bà, ra đến Bến Bèo thị trấn Cát bà, tất cả dài 53 km.

Đoạn đường từ cảng Đoạn Xá ra Đình Vũ được thi công trước, với hai lực lượng: lực lượng hàng vạn lao động làm đường đất và lực lượng các loại tàu thuyền chở 25 vạn khối đá từ Thủy Nguyên, Cát Bà về làm đập Đình Vũ.

24. Công trường mở ra thu hút được rất nhiều lao động nông thôn, kể cả nông dân Thái Bình, Hà Nam Ninh cũng ra làm với công mỗi ngày là 1 đồng và 1 kg gạo. Lao động các nơi xếp hàng xin việc, làm cho thành phố sôi động hẳn lên.

Trong dịp đi kiểm tra cắm tuyến con đường “xuyên đảo”, tôi ghé thăm xí nghiệp muối Phù Long. Các anh chị em cán bộ công nhân viên kể lại bao nhiêu chuyện về cuộc sống trên hòn đảo xa đất liền, chuyện đồng chí Kích giám đốc xí nghiệp bị sét đánh, anh chị em vô cùng thương tiếc. Trước khi ra về, tôi hỏi anh chị em có đề xuất gì với thành phố không. Các chị em nữ nhao nhao đề nghị: “Cho chúng cháu về công tác ở thành phố để lấy chồng. Chúng cháu ở đây ế chồng hết”. Tôi trả lời chị em: “Cứ yên tâm. Hôm nay có một mình tôi không thể giải quyết được”. Chị em cười ồ lên! Tôi cũng hơi ngượng, vì câu nói sơ hở! Tôi vội nói tiếp: “Tôi sẽ tìm mọi cách để giải quyết nguyện vọng chính đáng của chị em...”.

Trên đường về, tôi ghé vào trung đoàn 174 bàn với đồng chí Thông trung đoàn trưởng, đồng chí Khoát chính uỷ, đưa trung đoàn đóng từ Mốc trắng Hiền Hào, chuyển dần về đóng gần xí nghiệp muối Phù Long để tạo điều kiện cho chiến sĩ làm quen với tự vệ nữ xí nghiệp.

Năm 2003 nhân dịp ra kỉ niệm ngày thành lập trung đoàn 174 ở thị trấn Cát Bà, tôi gặp lại đồng chí Thông, đồng chí Khoát và hàng trăm chiến sĩ của trung đoàn đã lập gia đình với nữ công nhân muối xí nghiệp Phù Long. Khi nói chuyện với hội nghị, tôi nhắc lại chuyện này, mọi người đều vui lắm. Nay xí nghiệp muối Phù Long đã giải tán, nhưng công nhân xí nghiệp ở lại Cát Bà làm ăn rất đông, góp phần tăng lao động cho Cát Bà để xây dựng khu trung tâm du lịch của thành phố và quốc gia.

25. Đối với nông nghiệp, sau khi cải tiến một bước quản lí “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và lao động xã viên” (cách nói và viết lúc đó phải như vậy. Cấm không được dùng cụm từ “khoán hộ”, nhưng thực chất là khoán cho gia đình), việc đầu tiên về kĩ thuật là phải giải quyết nước ngọt, vì các huyện nông nghiệp Hải Phòng, đất đều bị nhiễm mặn. Để ngọt hoá đất canh tác, tôi quyết định cho xây các cụm thủy nông, bơm nước ngọt từ các sông đầu nguồn, như trạm bơm Trung Trang (có 24 máy bơm, mỗi máy 4.000 m3/giờ. Thường gọi là “Cống Trung Lương”). Cống Thượng đồng, cống Rỗ, cống Dương Áo, cống An Sơn đều có trạm bơm. Một số cống lớn có từ 4 đến 12 cửa như: cống Cổ Tiểu 2, cống Cái Tắt. Ba cống ở đê lấn biển trên đường 14 là những cống chuyên dùng tiêu mặn và ngăn nước mặn. không có Trạm bơm.

Các cống từng bước xây dựng, đã thực sự “ngọt hoá” đồng ruộng Hải Phòng. Sau này cụm từ “ngọt hoá đồng ruộng” đã được nhiều người dùng, thành quen thuộc.

Sau khi cơ bản hoàn thành con đường xuyên đảo đi từ ngã 5 ra đến Đình Vũ, và quai đê lấn biển khu Tràng Cát, đắp chặn cửa sông Cấm nối sang sông Lạch Trạy, giáp với Thủy Giang, diện tích đất được mở rộng là 2800 ha.

Để tiếp tục công cuộc lấn biển, tôi đề nghị Thành uỷ và UBND thành phố quyết định lấn biến nữa. Đồ Sơn, từ Cầu Rào đến xí nghiệp muối Đồ Sơn, nối với đê “Cầm Cập” mở rộng thêm 2050 ha. Tuyến đê này rất quan trọng, vì nó mở cho khu du lịch Đồ sơn một diện tích rộng lớn, nối liền với nội hành, tạo ra khu kinh tế tổng hợp: du lịch, chăn nuôi, trồng trọt,... phục vụ cho nội thành và xuất khẩu.

26. Nhưng trên thực tế về mặt địa lí, việc này rất khó khăn. Kinh nghiệm lấn biển qua các năm, tháng khi đất bồi lên độ +2 trở lên so với “cost 0” Hòn Dấu là an toàn. Nhưng dự án lấn biển lần này phải đắp một con đê mới dài 15 km, có đoạn sâu 0,8 vào quãng giữa đê, đúng gió hướng Đông.

Tuy được thông qua, nhưng nhiều đồng chí còn lo lắng và do dự. Đến ngày khởi công, có những đồng chí lãnh đạo vắng mặt, vì sợ vỡ đê, không thành công sẽ liên đới chịu trách nhiệm! Quả nhiên, gặp rất nhiều khó khăn, phải thay 3 lần chỉ huy công trường. Đầu tiên là đồng chí Công Đông, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp, sau đến đồng chí Trần Đảm, Giám đốc Sở Thủy lợi, một đồng chí xông xáo, nhiệt tình, lăn lộn với công trường, biết kĩ thuật, nhưng sau trận bão năm 1981, đê đã hàn khẩu xong bị vỡ 14 chỗ. Có chỗ vỡ rộng hàng trăm mét, sâu 1415m. Đồng chí Trần Đảm đến gặp tôi, xin rút lui Trưởng ban chỉ đạo công trình. Tôi hỏi han rất kĩ, thì đồng chí Trần Đảm nói vẫn quyết tâm làm tiếp, nhưng phải tìm đơn vị khác thi công.

Tôi tiếp tục cùng các đồng chí Phó Chủ tịch Nguyễn Dần, Cao Văn, Trịnh Thái Hưng, Nguyên Mạnh, Trần Hạnh v.v... đi khảo sát thực địa mấy ngày liền. Từ khi khởi công tôi thường xuyên có mặt tại hiện trường. Cứ sau giờ làm việc buổi chiều tôi đến ngay công trình, trừ những ngày đi họp ở Hà Nội. Tôi mời các đồng chí chỉ huy quân sự gồm đồng chí Võ An Đông, Tư lệnh trưởng F350, đồng chí Nguyễn Chất, Phó Tư lệnh, đồng chí Trường Xuân, Chính uỷ... đi khảo sát tiếp.

Tôi quyết định giao cho đồng chí Võ An Đông làm chỉ huy trưởng công trường. Những kinh nghiệm trong quá trình đắp con đê dài 15km và những khuyết điểm tồn tại cũng được tổng kết. Địa hình, thủy triều, cũng được xác định cho rõ. Tất cả phương án kĩ thuật chi tiết được thông qua, lịch thi công từng tuần, từng tháng cũng được thông qua. Đặc biệt tháng “hạ long”, chỗ vỡ sâu nhất phải được thực hiện trong tháng 3-1982.(Tháng 3 có con nước, và thủy triều lên, có biên độ thấp nhất trong năm).

27. -Mọi lực lượng công nghiệp của thành phố, lao động, được huy động tối đa cùng với lực lượng vũ trang quyết tâm hoàn thành con đê trong năm 1982. Lực lượng vũ trang điều tất cả khả năng cơ giới của mình để phục vụ tốt nhất. Hàng ngày có 2 trung đoàn thay phiên nhau đắp những đoạn đê xung yếu.

-Thành phố huy động 10 tàu hút bùn thường xuyên phun cát, tạo chân đế bằng cát cho những đoạn đê xung yếu.

-Chuẩn bị 10 sà lan giải bản, chở đến khu “Hạ Long”, mỗi sà lan chất đầy đá, kéo thành một đoạn đê sắt, đánh đắm, làm thành một thân đê vững chắc.

-Ban chỉ huy cho đan rọ tre, rọ sắt, rồi dùng phà và thuyền chở đất củ, đất sét, xa công trường hàng chục km, đem về cho vào rọ thả chìm để phục vụ “Hạ Long”.

Để chuẩn bị cho “Hạ Long” đúng tháng 3-1982, mọi việc phải làm trong khoảng 6 tháng, từ tháng 10-1981, hết sức khẩn trương vất vả. Các lực lượng ra quân, phối hợp rất đúng tiến độ. Hai đồng chí Phó Chủ tịch Nguyễn Dần, Cao Văn, lúc nào cũng có mặt ở hiện trường cùng với các đồng chí khác và Ban chỉ huy công trình, bảo đảm chính xác các công đoạn thi công. Để giảm áp lực nước cho khu “Hạ Long”, ta đã phải khoanh các vùng chứa nước trong 2050 ha đất mới lấn biển mở rộng ra nhiều ô nhỏ, có đê nhỏ và thấp để giữ nước khi xuống, không đổ dồn vào điểm “Hạ Long”, tạo cho cửa “hạ long” có dòng chảy vừa phải, không chảy xiết, khoét sâu, gây khó khăn cho công việc.

Điểm chính giữa nơi “Hạ Long” là chỗ bị vỡ đê dịp bão tháng 9-1981, sâu tới 14-15m, phải dùng các loại bạch đàn dài trên 10 mét làm cọc. Việc đóng cọc này cũng nhờ ta biết được quá khứ, khi ngài Trần Hưng Đạo phá quân Nguyên bằng cách đóng cọc gỗ lim trên tuyến sông Bạch Đằng, sông Giá (mà ngày nay đã tìm thấy hàng bãi cọc). Ngài đã nhờ quy luật thủy triều tạo nên chiến thắng quyết định cho dân tộc.

Từ thực tế cuộc sống ấy, anh em bộ đội dùng phà chở gỗ bạch đàn, đợi khi nước thủy triều cân bằng thả cọc xuống. Mỗi cọc có một đòn gánh buộc ngang thân cây, tùy theo mức nước nông hay sâu mà để đòn gánh cao hay thấp. Hai chiến sĩ đặt cây cọc từ phà xuống nước, đúng điểm đã định, rồi mỗi người đu vào một đầu đòn gánh, nén cọc xuống cho vững chắc. Còn cọc xuống được sâu nhờ nước chảy vào khi triều dâng, chảy ra biển khi thủy triều xuống, lắc đi, lắc lại làm cho cây cọc xuống đến thềm đất cứng. Cứ như thế hàng ngàn cây cọc đóng xuống điểm “Hạ Long”.

Đúng đến 3 ngày thủy triều thấp nhất, Ban chỉ huy bố trí lực lượng đánh đắm sà lan sắt.

28. Sau đó mỗi kíp một tiểu đoàn làm 4 tiếng liền, chuyển các rọ đất, đá lấp vào điểm “Hạ Long”. Trong 3 ngày liền tiến công liên tục, nâng cao điểm “Hạ Long” lên +4, đạt yêu cầu đề ra. Hết thời hạn thủy triền thấp nhất, toàn tuyến đê 15 km đều đạt cao trình +4m trở lên, kết thúc thời kì khó khăn nhất của tuyến đê lịch sử này.

Khi mới khởi công, các cụ già xã Hoà Nghĩa, Anh Dũng gần đó nói: “Nếu ông Thành đắp được con đề này, chúng tôi sẽ đi bằng đầu. Chúng tôi ở đây hàng trăm năm, nếu lấn được chúng tôi đã lấn rồi, không phải đợi đến các ông. Nơi này nguy hiểm lắm, đang đêm gió đông thổi vào thân đê, thủy triều lên là đê vỡ. Đời này qua đời khác, không làm được...”.

Khi đê hàn khẩu xong, các cụ kéo nhau lũ lượt đi xem. Các cụ gặp tôi đều cười vui vẻ, nói: “Chỉ có các ông cộng sản mới làm được...”. Tôi nói với các cụ: “Nhờ hồng phúc của Bác Hồ, chúng tôi mới làm được...”.

Hàng tháng trời, các cụ, bà con nông dân ở các huyện ngoại thành rủ nhau đến xem như xem cuộc triển lãm. Lúc đó còn hàng nghìn lao động đang bồi trúc cho đê lên cao hơn. Quả là con đê đã làm chấn động nhân dân Hải Phòng với chiều cao 6,5m so với “cost” Hòn Dáu, chân đê rộng 60m, mặt đê rộng 5m, độ xoải bên ngoài 1/3 độ, trong đê 1/2, ngoài lát đá hoặc bê tông lưới thép. Đoạn đê biển này hàng năm vẫn được gia cố, đã trở thành đường giao thông đi tham quan biển Đồ Sơn, nó tồn tại như một minh chứng cho sự quyết lâm, lòng dũng cảm của lãnh đạo và nhân dân Hải Phòng.

Đã hơn 20 năm kể từ ngày khánh thành “không kèn, không trống”, nhưng tôi không thể quên những năm đầu, đêm mưa bão, tôi thắc thỏm đến mất ngủ. Khi bão lớn nhất, tôi ra đê để kiểm tra độ bền vững của đê ra sao.

Nhớ lại lúc đó, khi quyết toán kinh phí chưa đến 1 đồng/m2, (nay 1 m2 lên hàng triệu đồng). Những đồng chí ngại không dám ra dự lễ khởi công, sợ liên quan trách nhiệm, nay cũng rất hoan nghênh. Có đồng chí nói với tôi: “Phải hiểu biết khoa học, kĩ thuật, có quyết tâm và lòng tin mới làm được...”. Tôi không dám nhắc lại chuyện cũ, và coi như tôi không nhớ. Có nhớ tôi cũng không bao giờ nhắc lại sự “thận trọng” đó, làm mếch lòng đồng chí mình. Khi tôi và đồng chí Nguyễn Dần, Chủ tịch UBND thành phố đưa đồng chí Đỗ Mười đi thăm đoạn đê “xung yếu” này, đồng chí Đỗ Mười bảo tôi và đồng chí Dần: “Đê này mà vỡ thì Bí thư với Chủ tịch đi tong!”. Tôi và đồng chí Dần cùng cười.

Sau khi hoàn thành xong hai dự án lấn biển lớn, và rất nhiều khó khăn, mở rộng hơn 5.000 ha, bằng diện tích một huyện, chúng tôi mở thêm công trường lấn biển khu Gia Minh, Thủy Nguyên gồm 1300 ha. Thành phố chỉ đạo cho các huyện Vĩnh Bảo, Kiến Thuỵ, Tiên Lãng... tổ chức lấn biển từng vùng nhỏ 300-500 ha, có sự viện trợ của thành phố. Các huyện ra quân làm rất tốt, mở rộng thêm diện tích canh tác, đẩy nước mặn ra xa những thửa ruộng phía trong đã thuần hoá, đưa năng suất lúa lên rất nhanh.

Để từng bước nâng dần đời sống của nhân dân, theo qui luật cơ bản của chủ nghĩa xã hội: “Đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, làm cho chủ nghĩa xã hội từng bước được thực hiện”, tôi chỉ đạo các đơn vị sản xuất kinh doanh phải hết sức tiết kiệm, nhất là công ti xuất nhập khẩu, Haiphong Ship, Cảng... là nơi tạo ra giá trị gia tăng.


Có chỉ thị của Thành uỷ cấm các cấp không được biếu xén cấp trên, hoặc khao thưởng “ăn nhậu” phung phí... để có tiền góp với thành phố lo cho cán bộ công nhân viên chức, lực lượng võ trang, các học sinh trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học đóng trên địa bàn thành phố gồm hơn 25 vạn suất (250.000 người), trong dịp quốc khánh 2-9, Tết âm lịch có túi quà, và mỗi năm 5 mét vải thông dụng như ka ki, pô-pơ-lin, vải đen may quần cho phụ nữ v.v... Đồng thời phải tìm kiếm công việc làm cho người thất nghiệp. Kiên quyết, nhưng làm từng bước, xoá 6 tệ nạn xã hội như: mãi dâm, cờ bạc, ăn mày, trẻ em lang thang, văn hoá truỵ lạc, mê tín dị đoan, ma chay giỗ Tết ăn uống linh đình tốn phí.

Về giao thông vận tải, cầu Rào đã qua 3 đời Chủ tịch là: Đồng chí Lê Đức Thịnh, đồng chí Đỗ Chính, đồng chí Đặng Toàn, đến tôi là Chủ tịch thứ 4 mà cầu Rào vẫn chưa hoàn thành. Nhân dân kêu ca: “làm quá chậm, như kéo rào”. Tôi cùng các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Uỷ ban và đồng chí Lê Bảo, nguyên Phó Chủ tịch, cố vấn xây dựng cho UBND, ngày đêm tìm mọi cách xử lí các sự cố kéo dài đó. Cầu đã khởi công cuối năm 1973 sau khi kí hiệp định Paris về Việt Nam, mà đến 1979 mới xong các mô và trụ. Lắp được mỗi bên một nửa dầm đúc hẫng dự ứng lực, thép dự ứng lực mua từ chiến lợi phẩm ở sân bay Tân Sơn Nhất đã bị han rỉ. Kĩ thuật làm cầu kiểu mới này của Pháp, ta chưa quen nên cầu khánh thành 1980 thì đến cuối năm 1987 bị đổ.

Do dự đoán được tình hình nên khi cầu sụp đổ không bị thiệt hại gì thêm, ngoài cầu đổ. Cây cầu đầu tiên làm theo kĩ thuật “dự ứng lực” ở Việt Nam sau 7 năm bị đổ, làm cho nhiều người không tin tưởng. Nhưng sau các cầu: Niệm Nghĩa, An Dương, Phù Long đến vẫn vững. Đến nay, cả nước có hàng chục cầu đúc dầm hẫng, dự ứng lực, có cầu dài hơn 2km vẫn tồn tại vững vàng.

Thực là vạn sự khởi đầu nan. Cầu Rào do đội cầu địa phương thực hiện, Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo kĩ thuật. Thời gian làm cầu quá kéo dài, vệ sinh công nghiệp không đảm bảo. Cầu Rào đổ, cũng gây ra sự đàm tiếu trong một thời gian. Tôi chỉ là người hoàn thành cầu trong giai đoạn cuối với thời gian 6 tháng. Khi cầu đổ tôi đã về công tác ở Trung ương, nhưng sự đàm tiếu đổ dồn vào tôi.

Âu cũng là qui luật xã hội “túm người có tóc, chứ ai túm người trọc đầu”. Tôi chỉ cười không giải thích, chỉ nói ngắn gọn: “Nếu ai muốn nghiên cứu kĩ, hãy xem nhật kí công trình”. Mãi đến khi Bộ Giao thông vận tải kết luận sự cố này, thì dư luận mới không đổ dồn vào tôi. Nhưng nay vẫn còn 3 cầu: Niệm, An Dương, Phù Long, nên thơ Tố Hữu vẫn giữ được tính chính xác của nó, kể cả cầu Rào đã được làm lại thành 4 cầu (4 cống 3 cầu, 5 cửa ô...).

Từ những việc làm thực tế ấy, tôi hình thành một mô hình xây dựng CNXH, dựa trên đường lối của Trung ương vận dụng vào Hải Phòng, đề ra bước đi thích hợp cho thành phố. Từng bước bổ sung, hoàn chỉnh về lí luận, kết hợp điều kiện cụ thể cho một thành phố đi lên CNXH. Ý tưởng thì rất lớn, nhưng thực hiện lại vô cùng khó khăn. Nhất là về lí luận, Nghị quyết của các kì đại hội, của các khoá Trung ương cũng chưa đặt rõ tiêu chuẩn cho từng giai đoạn tiến lên CNXH phải làm những việc gì, bước đi theo kế hoạch từng năm, dài hạn 5 năm ra sao.


Cái có định lượng thì thiếu định tính, cái có định tính lại không có định lượng. Đọc tài liệu các nước bạn cũng thế. Vậy ta lấy cơ sở gì xây dựng cho Hải Phòng một nền tảng, một lí luận thuyết phục để mọi người ra sức tập trung trí tuệ, sinh lực, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH? Tôi suy nghĩ trăn trở, vừa lắng nghe những tư duy, ý tưởng của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Trung ương, dần dần từng bước hình thành mô hình xây dựng CNXH ở Hải Phòng. Mô hình đó, tư tưởng bao trùm là phải vì con người. Sau nữa thuyết phục mọi người tin là làm được. Cái được trước hết là đem lại lợi ích cho chính mình.

Khi tham gia công sức để tạo ra của cải vật chất, văn hoá tinh thần, kết quả trở lại với họ, họ có thể nhìn thấy, sờ thấy, đếm được. Cách đây 5.000 năm Kinh Thi đã nói: “Văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử” (Văn hoá, vật chất dồi dào, sau đó mới có người tử tế).

Nhưng sau 5.000 năm các vua chúa Trung Quốc vẫn để người dân nghèo đói, nói nhưng không làm, muốn làm lại do cơ chế không có, không làm được. Đến đời Xuân Thu, Khổng Tử đã viết Kinh Xuân Thu để quản lí Nhà nước, với nội dung lấy nhân nghĩa làm đầu, “Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi tiên” (Nhà nước lấy dân làm gốc, người dân lấy ăn làm trước). Nói hay như vậy nhưng cũng không làm được là bao.

Khổng Tử còn nói: “Nhân dục vô nhai” (lòng tham không có đáy). Vua chúa lúc ấy chỉ biết lợi dụng triết lí đó để phục vụ lợi ích của họ, không tận dụng động lực này để phục vụ cho từng người, tức là phục vụ cho cả cộng đồng. Thời kì cận đại, các khẩu hiệu của giới cầm quyền đưa ra trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản dân quyền như: “Tự do, bình đẳng, bác ái”; “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc” rất hay, rất nổi tiếng. Nhưng rốt cục vẫn là một thiểu số dân được hưởng những tư tưởng triết học tiến bộ đó.

Trở lại các triết lí xa xưa của các vị Thánh “Tâm linh” như Đức chúa Jésus, đức Phật Thích Ca, đức Thánh Mohamat v.v..., tư tưởng học thuyết đẹp đẽ của các ngài nhằm dạy cho loài người thương yêu nhau, đùm bọc giúp đỡ nhau khi hoạn nạn. Rồi do lòng sùng kính, nhân loại cúng bái, tế lễ, cầu nguyện các đấng “Chí tôn” phù hộ... dần dần trở thành những tôn giáo, đạo giáo khác nhau đi vào cuộc sống của dân lành. Kết quả là tùy theo phong tục tập quán của từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ, những tín đồ kế thừa giáo lí mở rộng tư tưởng chính thống ra nhiều chi phái khác nhau.

Nhưng một điều đáng tiếc là tất cả những lí tưởng ban đầu của các đấng “Chí tôn” vẫn không được thực hiện dù ở bất cứ nước nào.

Từ khi chủ nghĩa Marx ra đời, giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đặc biệt là dân tộc bị mất quyền độc lập, làm nô lệ cho ngoại bang như Việt Nam, trông chờ tin tường vào chủ nghĩa Marx rất lớn. Bác Hồ của chúng ta, người đặt niềm tin vào chủ nghĩa Marx hơn ai hết, đã đem tư tưởng, triết học của Marx vào Việt Nam, với những lời nói ngắn gọn, xúc tích, rất dễ hiểu, rất chân thành, đi vào lòng người như: “Nước có độc lập mà người dân vẫn còn nghèo đói, thì độc lập đó cũng không có ý nghĩa gì!”. Lời nói đó đã chỉ ra cho chúng ta phải hành động, không nói suông, lừa dối quần chúng để nắm chính quyền, dùng quyền hành cho mình sống “Vinh thân, phì gia”.

Tôi rất tâm đắc với tư tưởng chỉ đạo của Tổng Bí thư Lê Duẩn: “Mỗi tỉnh phải coi mình như một nước, phải chủ động sáng tạo, không ỷ lại trông chờ cấp trên...” “Tỉnh uỷ, Thành uỷ là gì? Là lo cho dân ăn gì, mặc gì, mỗi năm được ăn bao nhiêu quả trứng, bao nhiêu kg thịt? Chứ Tỉnh uỷ, Thành uỷ cũng chung chung như Trung ương thì dân tin vào Đảng sao được...?”

Vận dụng số vốn lí luận về học thuyết Marx-lénine, duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, có tham khảo kinh dịch của Trung Quốc, các triết gia trước Marx như Hê-ghen, Phơ-ec-bách, Di-đơ-rô, Ê- pi-quya v.v... Tôi nhận ra rằng Hải Phòng cần phấn đấu xây dựng từng bước lên CNXH với sự lãnh đạo, giúp đỡ của Trung ương, chắc chắn sẽ thành công. Để có thực tế phục vụ đúc kết lí luận, tôi tiếp tục suy nghĩ, nhiều đêm, ngày hình thành ra mô hình CNXH ở Hải Phòng, quê hương thứ hai biết bao yêu dấu của tôi.

Làm Bí thư Thành uỷ

Đúc kết trong thời gian hơn 30 tháng làm Chủ tịch UBND Hải Phòng, tôi đã cùng đồng chí Bùi Quang Tạo và tập thể Thành uỷ, UBND Thành phố, cùng cán bộ công nhân viên, lực lượng vũ trang, nhân dân Hải Phòng làm được một số công việc mang tính mở đầu cho Hải Phòng từng bước đi lên CNXH. Việc lớn nhất là xây dựng được một đội ngũ cán bộ tin cậy lẫn nhau và xây dựng được lòng tin của nhân dân đối với lãnh đạo Thành phố.

29. Trước hết, đội ngũ cán bộ lãnh đạo đã hình thành một tổ chức thực hiện hiệu quả mọi chính sách, chủ trương đề ra gồm UBND và các cán bộ chủ chốt của sở, ngành. Các Phó Chủ tịch lúc ấy là đồng chí Nguyễn Dần (sau làm Chủ tịch thay tôi), đồng chí Võ Thị Hoàng Mai, đồng chí Cao Văn, đồng chí Trịnh Thái Hưng, đồng chí Nguyễn Mạnh, sau đó là các đồng chí Nguyễn Đình Nhiên, Trương Quang Được, Trần Hạnh, Đào An, Nguyễn Thị Bảy. Bên Thường trực Đảng có đồng chí Lê Thành Dương, Lê Danh Xương.

Cấp sở có những cán bộ bị kíp lãnh đạo trước đánh giá là trung bình, thì qua những công việc làm cụ thể, nay đã hoàn thành nhiệm vụ, được nhân dân khen ngợi như các đồng chí Dương Khắc Thụ, uỷ viên Thường vụ, Giám đốc Sở Công an, đồng chí Nguyễn Anh Đề, Giám đốc Nhà đất và công trình đô thị, đồng chí Trần Đảm, Giám đốc Sở Thủy lợi, đồng chí Lê Vân, Giám đốc Sở xây dựng, đồng chí Phạm Văn Diệt, Giám đốc Sở Giao thông vận tải, đồng chí Hồ Chu, Giám đốc Sở văn hoá v.v... các Giám đốc những công ti chuyên trách như đồng chí Vân Nam, Giám đốc Công ti Du lịch dịch vụ, đồng chí Cần, Giám đốc Công ti vệ sinh đô thị v.v... đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thành công việc của thành phố lúc ấy.

30. Đối với ngoại thành, khu vực nông nghiệp phải kể đến các đồng chí Vũ Ngọc Lan, Bí thư Huyện uỷ Kiến An (thị xã Kiến An + huyện An Lão), đồng chí Đào Hướng, Bí thư Huyện uỷ Thủy nguyên, đồng chí Lựu, Bí thư huyện Tiên Lãng, đồng chí Nguyễn Kì, Nguyễn Việt, Bí thư Huyện uỷ An Hải, đồng chí Rường, Bí thư Huyện uỷ Vĩnh Bảo, đồng chí Trần Khoát, Bí thư Huyện uỷ Cát Hải, cùng các đồng chí Chủ tịch UBND huyện đã góp phần to lớn vào phong trào khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo chỉ thị 100 của Ban Bí thư và Nghị quyết 24 của Ban Thường vụ Thành uỷ Hải Phòng.


các quận nội thành có các đồng chí Bí thư Quận uỷ, Chủ tịch UBND như quận Lê Chân có đồng chí Nguyễn Thị Xuân Mỹ, và quận Hồng Bàng có đồng chí Nguyễn Văn Cảnh, đồng chí Hiến, quận Ngô Quyền, đồng chí Vịnh, Bí thư quận uỷ đều là nòng cốt của các mũi tiến công. Riêng lực lượng vũ trang địa phương, lực lượng chủ đạo lấn biển khai hoang có Đại tá Võ An Đông, Đại tá Nguyễn Chất, Thiếu tướng Trường Xuân, Đại tá Nguyễn Đình Thản, Đại tá Vũ Văn...

Ngoài ra còn phải kể đến một đội ngũ cán bộ “thầm lặng”, nhưng sự đóng góp của anh chị em rất quan trọng cho sự phát triển của thành phố. Đó là các tổ chức quần chúng, các Ban của Đảng và Văn phòng Thành uỷ. Họ làm tham mưu cho cấp uỷ, viết bao nhiêu công văn, chỉ thị, nghị quyết để chuyền đạt những tư tưởng chỉ đạo của Thành uỷ xuống cơ sở Đảng và quần chúng.

31. Các đồng chí đã làm việc ngày đêm, nhưng ít ai biết đến như các đồng chí Trần Mạnh, Chánh Văn phòng Thành uỷ, đồng chí Quản Đức Khiêm, Thư kí của Chủ tịch và Bí thư Thành uỷ, đồng chí Nguyễn Lộ, đồng chí Nguyễn Văn Đồng, Phó Văn phòng Thành uỷ. Đồng chí Phạm Văn Phách, Chánh Văn phòng và Bùi Mạnh Tưởng, Phó Văn phòng Uỷ Các đoàn thể quần chúng như chị Trần Thị Thanh Thọ, Uỷ viên Thường vụ, Bí thư Hội phụ nữ, đồng chí Trần Sáng, Bí thư Thành đoàn, chị Thịnh, Uỷ viên Thường vụ, Trưởng ban Kiểm tra, và nhiều các đồng chí lãnh đạo khác thuộc khối dân vận và công tác Đảng, cũng đã góp phần rất lớn vào công việc xây dựng phát triển cơ sở Đảng và phong trào quần chúng, hướng vào mục tiêu xây dựng thành phố.

Ngoài ra sự kết hợp chặt chẽ với Quân khu 3 cũng góp phần thắng lợi không nhỏ. Mặt trận này có Đại tướng Nguyễn Quyết, Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên và các đồng chí tướng, tá khác. Bộ Tư lệnh Hải quân có Thiếu tướng Đoàn Bá Khánh, Tư lệnh Hải quân, các đồng chí Tướng Trà, Tướng Phát... Sư đoàn phòng không 363 và các quân binh chủng của Bộ Quốc phòng đóng tại địa phương, tất cả đều hăng hái, triệt để hợp tác ủng hộ Hải Phòng vô điều kiện, hưởng ứng phong trào thi đua “làm giàu, đánh thắng” của Quân khu 3 một cách nồng nhiệt.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 5 (2-1982)

32.Tôi được Đại hội bầu làm Uỷ viên Trung ương dự khuyết khoá V (lúc ấy còn có uỷ viên dự khuyết, uỷ viên chính thức - nay chỉ bầu uỷ viên). Tôi được phân công làm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng. Anh Bùi Quang Tạo về Trung ương làm Chủ nhiệm Thanh tra Chính phủ.

Sang năm 1983, tôi và đồng chí Nguyễn Tấn Trịnh được chọn trong số uỷ viên dự khuyết vào uỷ viên chính thức (do các đồng chí uỷ viên chính thức bầu)

Với thực tế của hai năm, bốn tháng làm Chủ tịch, từ những ý tưởng đã tổ chức thực hiện thành những công trình, những sản phẩm to nhỏ ở khắp thành phố, điều đó đã giúp tôi hình thành cơ chế xây dựng một mô hình XHCN ở địa phương, Thành phố Hải Phòng. Gần 32 năm được điều động đến Hải Phòng, khởi đầu là Bí thư Quận uỷ Ngô Quyền, nay làm Bí thư Thành uỷ, tôi lo lắng đêm ngày, đem hết sức lực, trí tuệ, suy nghĩ làm cho được ý tưởng mình đã theo đuổi từ khi được kết nạp vào Đảng, với bao hi vọng sẽ thành công.

Mặc dù sức khoẻ tôi không phải là tốt lắm, năm 1982-1983 bệnh tôi kéo dài, chữa mãi không khỏi, công việc lại quá nhiều, nhất là sau khi tổ chức thành công Đại hội Đảng thành phố lần thứ 8 nhằm quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 5 để thống nhất tư tưởng và hành động toàn Đảng bộ và nhân dân thành phố. Sau đó, tôi bị sưng màng phổi, viêm họng hạt, chuyển sang “hen xuyễn”. Nhờ các bác sĩ Đông, Tây y, và tự rèn luyện nâng thể lực lên, nên tôi đã qua khỏi. Cũng từ đó sức khoẻ được nâng lên, đủ sức chống chọi với bao gian nguy thử thách về mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực chính trị, để tồn tại đến ngày hôm nay...

Để triển khai Nghị quyết Đại hội 8 của thành phố, tôi chỉ đạo Uỷ ban Nhân dân thành phố và các ngành thực hiện thật tốt các công trình làm dở dang. Tôi cũng xây dựng quy chế làm việc giữa Đảng và Chính quyền, không chồng chéo giẫm chân lên nhau. Khi đã có nghị quyết của Đảng, chính quyền cụ thể hoá và triển khai thực hiện. Đảng không “lấn sân” của chính quyền. Khi có khó khăn chính quyền không thể khắc phục được, Đảng sẽ giúp đỡ. Công việc của Đảng là trực tiếp nghiên cứu xây dựng các Nghị quyết trên bình diện mô hình XHCN, đi từng bước có chọn lọc, Nghị quyết nào ra trước,

33. Nghị quyết nào ra sau cho phù hợp. Trước khi ra Nghị quyết, tập thể Thành uỷ đi thực tế khảo sát tình hình, tổ chức thí điểm làm được khoảng 30% có kết quả rồi mới họp Thành uỷ ra Nghị quyết. cách làm đó coi như qui trình ra các Nghị quyết của Đảng, nó tránh tình trạng duy ý chí và giáo điều của đồng chí lãnh đạo chủ chốt. Chưa khảo nghiệm, mới nghe báo cáo, mới nảy sinh ý nghĩ hay hay trong đầu đã vội vàng ra Nghị quyết, như vậy Nghị quyết sẽ không sát với thực tế, quần chúng không chấp nhận, làm mất uy tín của Đảng, mất công sức của cán bộ cấp dưới.

Trong 4 năm 3 tháng làm Bí thư Thành phố, tôi đã chủ trì đề ra 46 Nghị quyết về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, văn hoá, đời sống, dịch vụ du lịch... Tính bình quân hơn một tháng ra một Nghị quyết, nhưng không Nghị quyết nào trùng với Nghị quyết nào, được nhân dân, Đảng viên hoan nghênh thực hiện rất nhiệt tình, chưa có ai kêu là Thành uỷ ra quá nhiều Nghị quyết! Tất cả Nghị quyết đó, cái nọ bổ sung cho cái kia hình thành một mô hình XHCN về lí luận và thực tế. Có những Nghị quyết như:

Ngói hoá nông thôn; Xoá bỏ hố xí thùng, xây dựng hố xí tự hoại, giải phóng cho chị em làm vệ sinh thường phải vất vả suốt đêm, kể cả ngày 30 Tết; Nghị quyết bê tông hoá ngõ xóm trong nội thành, không để tình trạng đi lại lầy lội trong các xóm ngõ; Nghị quyết xoá bỏ “6 tệ nạn xã hội” trong một năm, không còn ăn mày, ăn xin và trẻ em lang thang trong thành phố; Nghị quyết tiếp tục cải tiến quản lí nông nghiệp;

Nghị quyết về giao thông; Nghị quyết về Công nghiệp và giải quyết công ăn việc làm cho người lao động; Nghị quyết về Văn hoá quần chúng; Nghị quyết về Thương nghiệp và thu mua lương thực; Nghị quyết về Xây dựng cơ bản, về lấn biển khai hoang mở rộng thành phố hướng ra biển; Nghị quyết về Xây dựng Đảng, các Tổ chức quần chúng v.v...

Tất cả các Nghị quyết được thực hiện đến nơi, đến chốn từ 70% trở lên. Tất cả những kết quả thực hiện các Nghị quyết được người dân nhìn thấy, sờ thấy, đếm được...

Có những việc làm của Thành uỷ, UBND Thành phố, đến nay tôi đã rời khỏi Thành phố về Hà Nội công tác gần 20 năm nhưng mỗi khi về Hải Phòng gặp nhân dân, cán bộ, là anh em nhắc đến như gói quà Tết hàng năm của Thành phố vào những dịp 2-9 Quốc khánh, Tết âm lịch... Những kỉ niệm không bao giờ quên! Rồi công trình lấn biển, hố xí tự hoại, đường lát bê tông hoặc tấm đan... đi đến đâu nhân dân cũng nhắc tới...


Hôm 30-5-2004 vừa rồi tôi ra Đình Vũ xem đường xuyên Đảo. Đến phà Đình Vũ, anh em phụ trách bến phà, cũng như nhân dân xúm lại quanh tôi hỏi thăm sức khoẻ. Đồng chí Vang phụ trách ở đó nói: “Bác để lại “lộc” cho chúng con được hưởng, ai cũng nhớ công ơn của bác...”. Tôi rất cảm động, nói: “Đảo Đình Vũ với đường xuyên Đảo đã góp phần làm cho hàng vạn người giàu có đấy! Các đồng chí quản lí tốt sẽ giàu to. Đồng chí rất trẻ, tôi gặp đồng chí lần đầu, trông chiếc thẻ đeo trên ngực mới biết tên tuổi. Vậy mà, đúng như sách cổ đã dạy: “Vi ân bất cầu báo, thụ ân bất năng vong...” (làm ơn không cần mong được báo đáp lại, chịu ơn không nên quên).

34. Cảm ơn đồng chí đã thể hiện tinh thần đó”. Tối hôm ấy tôi về làm việc ở Thành phố, đồng chí Then, nguyên Bí thư Huyện uỷ An Lão, nay là Uỷ viên Thường vụ Trưởng ban Tuyên giáo Thành uỷ Hải Phòng (Đồng chí Then người thôn Đại, xã An Thọ, huyện An Lão) anh em tâm sự, đồng chí nhắc lại bao kỉ niệm hồi làm khoán trong nông nghiệp, lúc chưa khoán dân đói như thế nào, một số người phải đi tha phương cầu thực, sau làm khoán phấn khởi như thế nào, và nay cả huyện An Lão đều khá giả. Thật là bao nỗi buồn vui sâu sắc thời kì quá khứ...

Những năm 1983-1984 nông nghiệp Hải Phòng phát triển rất nhanh. Lương thực coi như đã tự túc được cho cả phi nông nghiệp. Hàng năm không phải lên Trung ương xin gạo, xin mỳ. Ngoài mua thóc nghĩa vụ (giá 0,2 đ//kg thóc) Hải Phòng được đồng chí Tố Hữu, đồng chí Trần Phương đồng ý cho mua thóc của nông dân sau khi làm xong nghĩa vụ với Nhà nước với giá 1,70đ/kg. Tuy giá ngoài cao so với giá nghĩa vụ nhiều, nhưng với giá nhập bằng đô la Mỹ chỉ bằng gần 1/2, Nhà nước lại không phải lỗ vốn bán lương thực cho Hải Phòng, còn Hải Phòng có thêm lương thực trả cho lao động ở các nơi về thành phố tham gia lao động lấn biển với giá 1kg và l đồng/ ngày công lao động. Mọi người phấn khởi lắm.

Thời gian đó Hải Phòng được coi như mô hình phát triển kinh tế năng động của cả nước. Khách đến tham quan ngày một đông. Báo chí ca ngợi, có ngày báo Nhân Dân đăng 4 bài về Hải Phòng. Bí thư Thành uỷ Hải Phòng cũng được cấp trên các ngành quan tâm. Nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo chủ chốt như Tổng Bí thư Lê Duẩn, Chủ tịch nước Trường Chinh... cũng rất quan tâm, đã có những dự kiến này dự kiến khác về tương lai của Bí thư Thành uỷ (những dư luận đó cũng làm cho một số người lo lắng và dần dần trở nên đố kị, ghen tị. Sự ác ý ấy hình thành dần dần từ nhỏ đến lớn, đến ngày 2-8-2003 mới bộc lộ hết để khách quan nhìn nhận có cơ sở khoa học kết luận chính xác, có căn cứ, không suy diễn... Việc này khá dài, 20 năm sau, mới hiểu thấu được sự tình...).

35. Trong khi phong trào đang lên, biết bao nhiêu đoàn các địa phương, các ngành đến Hải Phòng học tập, rút kinh nghiệm, tổng kết, thì giữa năm 1983, đồng chí Đỗ Mười nhân danh Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cử 3 Đoàn sắp xếp công nghiệp về 3 thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh.

Đoàn về Hải Phòng do đồng chí Tô Duy làm trưởng đoàn. Về Hải Phòng trong lúc tình hình chính trị, tư tưởng và các mặt hoạt động rất tốt đẹp... Đồng chí Tô Duy xuống không làm việc với Thành uỷ mà chỉ làm việc với UBND thành phố. Đồng chí còn nói với đồng chí Bắc, cán bộ Văn phòng Uỷ ban và một số đ/c trong Đoàn là: “Tôi không gặp anh Thành, anh Thành có đến gặp tôi thì gặp...”. Đồng chí Tô Duy cử đồng chí Phí Đức Phong, cán bộ của Đoàn đến gặp tôi nói: “Kì này Đoàn xuống sắp xếp công nghiệp để giúp cho Hải Phòng phát triển cả công, nông nghiệp...”.

Mới mấy tháng trước đây, đồng chí Tô Duy xuống Hải Phòng gặp tôi rất thân mật. Nhất là đầu năm 1982, khi tôi làm Bí thư Thành uỷ, đồng chí Tô Duy cùng với vợ là chị Lê Thu, các cháu đến thăm Hải Phòng, chúc mừng tôi. Trong bữa cơm thân mật, chị Lê Thu còn nói: “Mình với Duy có nhiều kỉ niệm với cậu Thành lắm! Sau đám cưới chúng mình, chúng mình còn đến thăm cậu ở Hồ Lao (nơi căn cứ địa của Thành uỷ Hải Phòng thời kháng chiến ở huyện Sơn Động, Bắc Giang)”.

Vợ chồng đồng chí Tô Duy tổ chức cưới ngày 8-7-1951, đám cưới tập thể, ngoài đồng chí Tô Duy và chị Lê Thu, còn có đồng chí Lê Xuân Thịnh với chị Kiệm; đồng chí Nghĩa (tức Linh) với chị Phụng Dương. Hiện nay 5 người còn sống, chỉ có anh Thịnh hi sinh tại Thái Bình năm 1952. Không những thế, từ ngày tôi về công tác ở Hải Phòng (tháng 6-1950), quan hệ giữa tôi và đồng chí Tô Duy vẫn tốt đẹp. Trước khi đi công tác Hà Nội (khoảng năm 1960-1961) đồng chí Tô Duy còn đến thăm tôi ở cơ quan chào “tạm biệt”.

Trong các năm sau, mỗi năm một vài lần lên Hà Nội công tác, tôi thường vào thăm đồng chí Tô Duy. Năm 1980 khi tôi học lớp quản lí kinh tế do giáo sư Liên Xô giảng, khoá I tại trường Hành chính Trung ương, lúc đó tôi là Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng, đồng chí Tô Duy còn mời tôi về Xuân Cầu chơi, còn trực tiếp trẩy bưởi mời tôi ăn. Khi đi trên chiếc cầu tre vào Xuân Cầu, tôi còn dắt đồng chí, vì đồng chí nói với tôi đang bị 6 bệnh nên chân đi bị run.


Khi tôi ra về đồng chí đề nghị tôi giúp cho 60 tấn xi măng để làm cây cầu này, và sửa chữa nhà lưu niệm của đồng chí Tô Hiệu, là chú ruột đồng chí Tô Duy. Tôi giải quyết ngay cho xã về Hải Phòng lấy xi măng sau một tuần. Lúc đó xi măng mua khó khăn lắm! Hải Phòng dùng ngoại tệ mua than “cốc”, gia công cho nhà máy xi măng để đổi thành phẩm mới có. Đồng chí Tô Duy rất phấn khởi.

Cả một quá trình thân thiện với nhau, đột nhiên có cuộc sắp xếp công nghiệp, đồng chí Tô Duy làm Tổ trưởng với thái độ “bất thường” đối với tôi... Tất nhiên tôi phải đánh dấu hỏi (?).

Nhưng thái độ của tôi vẫn bình thường. Muốn nói gì thì nói, đồng chí Tô Duy đã có thời kì là cấp trên của tôi, tôi gặp đồng chí Chủ tịch Nguyễn Dần dặn làm việc, hợp tác chặt chẽ với đồng chí Tô Duy.

36. Qua giao ban hàng tuần với đồng chí Nguyễn Dần, tôi biết được là các đồng chí đi sắp xếp công nghiệp thì ít, nhưng xuống nông thôn, tìm hiểu điều tra tình hình thì nhiều, với thái độ cố tình moi móc khuyết điểm... Qua báo cáo của các đồng chí Bí thư, Chủ tịch các huyện mà đoàn đồng chí Tô Duy đến làm việc, thì thấy ý định của đoàn không phải trọng tâm sắp xếp công nghiệp, họ tìm hiểu tình hình nông nghiệp là chính.

Cuối năm 1983 đầu năm 1984 thì đoàn rút về Hà Nội, sau cuộc làm việc với Ban Thường vụ Thành uỷ. Trong cuộc họp vui vẻ, thân mật, đồng chí Tô Duy nhắc lại ý đồng chí Phí Đức Phong là: “giúp Hải Phòng phát triển công nghiệp như nông nghiệp...” rất thiện chí!

Sau ít ngày, đồng chí Đỗ Mười mời tôi và đồng chí Nguyễn Dần lên số 8 Chu Văn An làm việc.

Trưa hôm đó đồng chí Đỗ Mười mời cơm chúng tôi rất chu đáo. Buổi sáng làm việc, khi đọc báo cáo của Tổ sắp xếp công nghiệp, tôi thấy rõ ý đồ của Tổ, trong đó có câu: “Hải Phòng chú trọng phát triển nông nghiệp là trệch hướng, sai đường lối của Đảng”. Khi phát biểu với đồng chí Đỗ Mười, tôi phân tích Hải Phòng là thành phố công nghiệp, Thành uỷ rất coi trọng phát triển công nghiệp, đồng thời rất coi trọng phát triển nông nghiệp để giải quyết lương thực cho công nhân là rất đúng với thực tế.

Khoán sản phẩm, một mô hình đã được chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng cho thực hiện trong toàn quốc, sao lại bảo Hải Phòng đi trệch hướng? Thái độ của tôi nói rất găng, nhưng đồng chí Tô Duy hơi mỉm cười, khiến tôi phải đánh dấu hỏi (?) lần thứ hai. Sau đó tôi xin phép anh Mười ra về, vì chiều có cuộc họp. Anh Mười bảo tôi ăn cơm rồi sẽ về và nói: “Bí thư về thì làm việc với ai?”. Tôi báo cáo anh Mười có Phó Bí thư - Chủ tịch và Văn phòng ở lại ghi chép, ý anh thế nào tôi sẽ thực hiện nghiêm chỉnh... Nhưng rút cục tôi chỉ biết về báo cáo của Tổ sắp xếp công nghiệp còn ý anh Mười thế nào tôi không được biết.

Ngày 14-4-1984 Bộ Chính trị và Ban Bí thư triệu tập tôi lên Hà Nội làm việc hai ngày. Tổng Bí thư Lê Duẩn chủ trì, các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ... cùng dự, tổng số khoảng hơn 60 người đủ các ngành của Trung ương. Anh Mười không đến dự, nhưng cử người của Văn phòng đến theo dõi tình hình hội nghị. Về phía Hải Phòng còn có đồng chí Trịnh Thái Hưng, Phó Chủ tịch cùng tham dự với tôi.

Qua nghe báo cáo tình hình, tôi trình bày khoảng 2 giờ, các đồng chí phát biểu đánh giá rất cao việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 5, nhất là Hải Phòng đã vận dụng sáng tạo, phát triển công, nông nghiệp có bước tiến mới, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế cả nước, mặc dù trước đó đã có báo cáo của Tổ sắp xếp công nghiệp do đồng chí Tô Duy gửi đến, vẫn giữ nguyên như cũ, vẫn ghi: “Hải Phòng thành phố công nghiệp mà chú trọng phát triển nông nghiệp là trệch hướng...” Hội nghị không ai nói đến vấn đề này cả.

37. Khi các đồng chí nhắc nhiều và đánh giá cao việc phát triển nông nghiệp Hải Phòng, nhân có ý kiến hỏi, tôi báo cáo bổ sung, có nói một ý như sau: “Thế mà đồng chí phụ trách Tổ sắp xếp công nghiệp Hải Phòng lại phê bình Thành uỷ phát triển nông nghiệp là trệch hướng...”. Anh Lê Duẩn nói chen vào: “Nói tầm bậy...”.

Sau khi tan hội nghị, tôi nghĩ mọi chuyện vậy là bình thường, và như vậy Trung ương đã bác bỏ báo cáo của Tổ sắp xếp công nghiệp ở Hải Phòng.

Tối hôm đó, tôi và đồng chí Trịnh Thái Hưng đến thăm anh Mười, thâm tâm tôi nghĩ chỉ có thân tình thôi. Ai ngờ hai chúng tôi đến nhà, anh Mười tỏ vẻ không bằng lòng, không bắt tay chúng tôi. Anh đứng dậy đi đi, lại lại nói gay gắt: “Cậu Thành phê bình mình, nói đồng chí phụ trách công nghiệp phê bình Hải Phòng trệch hướng, cứ nói đi nói lại mãi”.

Tôi và đồng chí Hưng nhìn nhau. Anh Hưng hỏi tôi: “Chúng mình có nói gì anh Mười đâu nhỉ?”. Tôi rất phân vân suy nghĩ, không rõ anh Mười nghe ai phản ảnh mà phẫn nộ đến như thế. Tôi để anh Mười nói cho hết cơn nóng rồi mới nói: “Tôi báo cáo anh Mười, có anh Hưng làm chứng, tôi chỉ một lần nói: “Đồng chí phụ trách Tổ sắp xếp công nghiệp Hải Phòng của Trung ương phê bình Hải Phòng làm nông nghiệp là trệch hướng, không nêu tên ai...”. Hai chúng tôi kể lại cuộc họp ngày hôm nay cho anh Mười nghe, mãi anh mới vui vẻ nói chuyện với chúng tôi... Khoảng 40 phút, chúng tôi xin phép ra về (Lúc này tôi vẫn nghĩ anh Mười nghe nhầm).

Hôm sau đến họp, mọi người lại chia buồn với chúng tôi về cơn lốc tối vừa qua, lật úp một thuyền ở bến Bính, phía bên Thủy Nguyên làm chết hơn 20 người... Tôi rất buồn.

38. Tại sao anh Mười lại nổi nóng với mình? Tôi tìm hiểu thêm ở Văn phòng Trung ương mới biết chính anh Mười là người phản đối Hải Phòng, lấy nông nghiệp làm trọng là trệch hướng, coi nhẹ công nghiệp... Tôi bắt đầu có “ấn tượng” về cách làm của Tổ sắp xếp công nghiệp do anh Tô Duy làm Tổ trưởng.


Phải chăng cách làm ấy có mục đích của nó? Trên đường trở về Hải Phòng, tôi nhắc anh Trịnh Thái Hưng: “Anh Mười đối với Hải Phòng không như trước nữa đâu! Anh em mình làm ăn cần thận trọng” (đồng chí Trịnh Thái Hưng đã mất năm 1996). Đồng chí Hưng cũng bổ sung cho tôi thêm một số tình hình của Tổ sắp xếp công nghiệp khi làm việc ở Hải Phòng, có nhiều hành vi xoi mói, tìm khuyết điểm, giống như đồng chí Nguyễn Dần, Chủ tịch thành phố đã phản ảnh với tôi.

Sau sự việc đưa Hải Phòng ra đấu về khoán sản phẩm nông nghiệp là sai đường lối phát triển của một thành phố công nghiệp không thành công, nhóm người của anh Tô Duy còn tung ra dự kiến sẽ “hạ bệ” tôi hoặc điều về Trung ương để đe doạ tôi. Tôi vẫn làm việc và làm việc tích cực hơn. Đối với anh Mười tôi vẫn một mực quý trọng là Thủ trưởng cũ, không nghi ngờ, dù dư luận nói đến tai tôi những điều nhận xét về tôi của anh Mười không có thiện chí. Anh Mười thỉnh thoảng còn gọi đồng chí Nguyễn Dần, Chủ tịch UBND lên báo cáo tình hình Hải Phòng.

39. Anh răn đe anh Dần không được nghe Đoàn Duy Thành và nói: “Bỏ tem phiếu là có tội”. Anh Dần về kể lại với tôi, tôi bảo: “Phát tem phiếu mà không có hàng bán cho dân mới là có tội, lừa dối dân, tạo cho mậu dịch viên và cán bộ tham nhũng”. Đến nay anh Dần thường kể lại chuyện này. Ngày 19-6-2004 anh Dần còn kể chuyện này cho đông người nghe ở nhà khách số 2 Bến Bính Hải Phòng.

Qua việc này và nhiều việc khác về thái độ của anh Mười đối với tôi, nhất là sau khi có những nhận xét đánh giá cao về tôi của Tổng Bí thư Lê Duẩn và Chủ tịch nước Trường Chinh và các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị khác, tôi cảm thấy có điều gì đó chẳng lành.
Tôi bàn với nhà tôi sẽ tập trung làm việc thật tốt cho Thành phố, đến 13-5-1985 kỉ niệm 30 năm giải phóng, tôi xin nghỉ. Tôi đã có đơn đề nghị từ lâu, rằng sẽ làm cho đủ 40 năm tham gia cách mạng là xin về hưu. Nhà tôi hỏi tại sao? Tôi nói:

- Nhân dục vô nhai” (lòng tham vô đáy), mình cũng như người khác, phải biết dừng ở điểm nào nên dừng. Mình lại là nhà nho, thấm nhuần đạo lí của Khổng Tử, của Tư tưởng Bác Hồ, mình làm chỉ vì mục đích vì dân vì nước, không vụ lợi. Làm Chủ tịch rồi Bí thư Thành uỷ một thành phố đi đầu trong xuất nhập khẩu đến hôm nay nhà mình có một đồng đô-la nào đâu? Anh chỉ cầm 200 USD năm 1978 làm Trưởng đoàn đi thăm Nhật Bản. Được cấp 200 đô la để chi cho cả đoàn, khi về không tiêu một xu lại trả lại tài chính đủ 200 USD.

Không những thế, Nhật Bản còn cho mỗi người 300 USD do không phải lấy vé máy bay lượt về, do phía Nhật đài thọ, cũng đem về nộp cho Uỷ ban đủ 2.100 USD. Mình sống đến hôm nay và làm được một số việc cho dân, cho nước. Đó là hạnh phúc lắm rồi! Mình càng làm tốt bao nhiêu thì sẽ càng phát sinh đố kị kèn cựa bấy nhiêu! Đó cũng là lẽ thường tình dễ hiểu. Người “quân tử” biết tiến biết thoái, không nên dấn sâu vào con đường “danh vọng”. Nguyễn Trải đã về nghỉ, lại nể vua ra giúp đời, nên bị chết oan. Ở đời khó lắm! Nếu theo cách mạng như vậy là “tiêu cực”.

40. Trong lúc dân cần ta phục vụ, đem lại lợi ích cho dân, ta lại nghỉ, phải chăng ta thoái thác công việc cá nhân chủ nghĩa... Nói thế nào cũng được. Ta phải làm chủ mình để quyết định. Anh nghĩ ý “lên Hà Nội” chưa xuất hiện trong giai đoạn này thì hơn, không phải ai xa lạ khác “đánh” mình đâu, sẽ là những người thân đánh mình trước, em theo dõi mà xem. Cho nên ta không nên xin bất kì một thứ gì mang tính “lợi và danh” với anh Mười, sau này sẽ khó xử. Có xin thì xin công việc làm cho dân, cho nước... Với người khác cũng vậy thôi, không phải chỉ với anh Mười!

Sau cuộc họp của Bộ Chính trị, ý định đưa vấn đề “Hải Phòng đi trệch hướng” không thành công, chắc chắn sẽ có những việc làm mới khác, kể cả vu khống chính trị, tôi lại nói với nhà tôi như vậy Nhưng thực sự chúng tôi không quan tâm, chỉ mong làm sao cho dân ta giàu lên, không phải làm nô lệ ngoại bang.

Ngẫm lại lịch sử trong hơn 1.000 năm giữ nước, kể từ Đinh, Lê, Lí, Trần, Lê... đến nhà Nguyễn, nước ta đã trải qua 8 lần bị xâm chiếm của phương Bắc. Họ bị thất bại 7 lần, chỉ có một lần họ chiếm được nước ta 20 năm, do nội bộ mất đoàn kết (thời kì cuối nhà Trần). Vì nước xâm chiếm nước ta phương thức sản xuất không hơn ta là bao nhiêu.

41. Nhưng từ năm 1862 Pháp bắt đầu đô hộ nước ta, một nước tư bản phát triển, phương thức sản xuất nổi trội hơn nước ta nhiều lần, nên dân ta phải chịu khuất phục chúng, làm nô lệ suốt 83 năm ròng rã. Chỉ có Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biết tận dụng thời cơ, với sự lãnh đạo thông minh tài tình, với ý chí kiên định, mới đưa dân tộc ta thoát ách nô lệ:

Nhưng khi đó ta vẫn là một nước rất nghèo, phương thức sản xuất rất lạc hậu. Đã vậy Pháp lại đến, tái xâm lược Việt Nam thêm 9 năm, sau đó Pháp nhường cho Mỹ xâm chiếm một nửa nước ta 20 năm, tổng cộng lại là 113 năm dân lộc bị nô lệ. Miền Bắc tuy được giải phóng sớm 20 năm, nhưng đóng góp cùng miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ, tổn thất về người và của biết bao nhiêu mà kể. Một nước nghèo, lạc hậu, không có vũ khí tối tân để bảo vệ đất nước, đó là nỗi đau của cả dân tộc, của từng người Việt Nam, không một người yêu nước nào không “cám cảnh” điều ấy.

Thành phố Hải Phòng đang trong khí thế thi đua đẩy mạnh sản xuất công, nông nghiệp, dịch vụ, “Ngói hoá nông thôn, ngọt hoá đồng ruộng”, xây dựng thành phố “khang trang sạch đẹp, lịch sự văn minh”, xây dựng đường xá, cổng, ngõ, xoá bỏ hố xí thùng, xây hố xí tự hoại, thực hiện chủ trương nhà nước và nhân dân cùng làm (Nhà nước cấp 1/2 số tiền xây hố xí tự hoại cho dân), xây dựng nhà cửa khang trang nối nội thành đến các thị trấn, huyện, đường nội thành sang Kiến An qua Cầu Niệm mới khánh thành, hai bên phố xá được qui hoạch xây dựng trước, những ngôi nhà 2 tầng trở lên, hoặc mái bằng nếu làm 1 tầng v.v...

Trong khi đó bất ngờ ở Hà Nội có chỉ thị “Z30” rất mật, tịch thu nhà từ 2 tầng trở lên, bất kể to nhỏ, trị giá bao nhiêu. Chỉ thị “Z30” không được phổ biến cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chỉ có chỉ thị bằng “miệng”. Hải Phòng cũng được 1, 2 đồng chí Bộ Chính trị nhắc nhở rằng Hà Nội làm trước, Hải Phòng theo Hà Nội mà làm. Bên Sở công an cũng được mấy đồng chí Thứ trưởng nhắc Giám đốc Sở Công an Hải Phòng triển khai, đề nghị Thành uỷ thông qua chủ trương cho làm...

Tôi triệu tập Ban Thường vụ Thành uỷ để bàn việc này. Tôi đề nghị mọi người suy tính thật kĩ mọi mặt, vì vấn đề này liên quan đến pháp luật, không thể tùy tiện tịch thu nhà của dân được, nếu họ không phạm pháp. Hải Phòng cần đợi chỉ thị chính thức bằng văn bản của Trung ương hoặc Chính phủ sẽ làm cũng không muộn. Mà tiến hành cũng phải có phương pháp. Trung ương chỉ thị rõ nguyên nhân tịch thu... mới tiến hành được.

Tôi trực tiếp lên Hà Nội xem việc tịch thu một số nhà. Tôi thấy chẳng khác gì Cải cách ruộng đất. Cải cách ruộng đất còn đấu tố rồi mới tịch thu, nhưng Z30 chỉ đọc lệnh là tịch thu, bốc cả gia đình gia chủ lên xe đi ở chỗ khác. Tôi đi 3 lần xem được 3 nhà. Tôi đến Văn phòng Trung ương Đảng và Văn phòng Chính phủ xin xem chỉ thị Z30. Hoá ra chẳng ai biết cả và tỏ vẻ giữ bí mật, thái độ người được tôi hỏi cũng sợ sệt, e dè nói “nước đôi”, không bảo làm, cũng không bảo không! Tôi thấy rất lạ lùng. Đang thời buổi hoà bình xây dựng, mọi người đang phấn khởi làm ăn, cớ sao lại có việc làm “kì lạ” này? Nhất là tôi thấy tận mắt một gia đình bị tịch thu, cả nhà đội khăn tang bị đẩy lên xe, khóc sướt mướt...

Về đến Hải Phòng tôi lại thấy dân chúng xao xuyến lo sợ. Nhiều người chạy đến Bí thư Thành uỷ hỏi han... Còn những gia đình đang xây dựng thì dừng lại không xây, hoặc thu nhỏ lại, định xây 2 tầng thì rút còn 1 tầng thôi v.v... Ngày nay, khi tôi đi từ Hải Phòng sang Kiến An, tôi vẫn thấy buồn phiền về “Z30” đã làm cho con đường này mất đẹp. Nhà cửa hai bên, xây dựng thời kì “Z30”, không xứng với con đường mở rộng!

Tại các cuộc Hội nghị lớn của Thành phố, tôi nói: “Đây là vấn đề quyền công dân, thành phố sẽ không làm việc này với bất kì gợi ý của ai. Chỉ khi có chỉ thị chính thức, đóng “dấu son” búa liềm, hoặc dấu Quốc huy, thì Hải Phòng sẽ thực hiện nghiêm chỉnh”...

Dư luận sức ép 4 phía với Hải Phòng. Thành phố Hồ Chí Minh điện ra hỏi: “Hải Phòng có làm không?”. Tôi trả lời: “Đợi chỉ thị chính thức”. Trong khi đó Hà Nội đã lịch thu tới 105 nhà. Có những đồng chí phê bình Giám đốc Sở Công an Hải Phòng mất lập trường, mất quan điểm, vì đồng chí Giám đốc Sở Công an Hải Phòng trả lời: “Hải Phòng chưa làm, vì Hải Phòng có cách làm khác...”.

Một buổi chiều sắp hết giờ làm việc, đồng chí Nguyễn Văn An, Bí thư Tỉnh uỷ Hà Nam Ninh (nay là Chủ tịch Quốc hội) gọi điện thoại cho tôi nói: “Có việc cần, tôi và đồng chí Thuật, Chủ tịch UBND tỉnh muốn ra Hải Phòng trao đổi với anh. Anh chuẩn bị cho chúng tôi ăn cơm tối, xong việc là về ngay...”.

Tôi chuẩn bị cơm tối và đón đồng chí An, đồng chí Thuật ở nhà khách số 13 Trần Hưng Đạo. Đến 20 giờ, hai đồng chí đến Hải Phòng. Chúng tôi bàn công việc ngay.

Đồng chí An, đồng chí Thuật trao đổi với tôi về việc tịch thu nhà ở thành phố Nam Đinh, thị xã Ninh Bình, thị xã Hà Nam... Qua trao đổi phân tích việc Hải Phòng không làm, nếu không có chỉ thị của Ban Bí thư, hoặc chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, hai đồng chí tỉnh bạn rất tâm đắc. Tôi lấy tình lấy lí phân tích mọi mặt cho hai đồng chí nghe. Thứ nhất là phi đạo lí, sai pháp luật. Cuộc sống của nhân dân còn khổ sở, tích cóp được ít tiền làm nhà cho cha mẹ, con cái ở không dễ dàng gì. Nay ta tịch thu, thế thì CNXH, người dân ở vào đâu? ở bằng cái gì v.v. và v v.

Hai đồng chí rất đồng tình với quan điểm của tôi. Tôi nói: “Tháng 6-1983 họp Hội nghị Trung ương tôi sẽ phát biểu về vấn đề này...”.

Hai đồng chí vui vẻ, yên tâm ra về, sau khi ăn cơm xong. Đồng chí An bảo đồng chí Thuật đưa cho tôi xem 100 quyết định kí tên, đóng dấu sẵn để ngay hôm sau tổ chức các đoàn đi tịch thu nhà ở 3 địa điểm trên. Anh An nói: “Tôi thấy không yên tâm nên điện ra trao đổi với anh. Chúng tôi sẽ đốt ngay các quyết định này tối nay”. Các đồng chí ra về.

Tôi tiễn các đồng chí, khi quay lại, nghĩ ngợi băn khoăn vô cùng. Thành phố Nam Định, hai thị xã Ninh Bình và Hà Nam mà có tới 100 quyết định tịch thu nhà, hỏi lấy đâu ra nhà mà tịch thu? Tôi phân vân quá! Các đồng chí mình đơn giản thật! Coi sinh mệnh chính trị của người dân như thế nào mà lại có “Z30”. Hai cuộc kháng chiến trường kì, bao sự hi sinh, nay “kí cóp” xây dựng được căn nhà, bị tịch thu với quan điểm cho rằng “làm ăn bất chính”, tài sản không rõ ràng... Nghĩ mà rơi nước mắt!

Về đến nhà đã 24 giờ. Nhà tôi hỏi tiếp khách gì quan trọng mà khuya thế? Tôi kể hết chuyện cho nhà tôi nghe. Tôi nói: “Tôi sẽ trình bày cặn kẽ vấn đề này ở Hội nghị Trung ương sắp tới...” Nhà tôi hỏi lại: “Anh định đương đầu đến bao giờ?” Tôi trả lời: “Tôi sẽ đương đầu đến khi còn cái đầu này”.

Hai vợ chồng tâm sự, đến lúc mệt quá, ngủ lúc nào không biết.

Lúc đó Hải Phòng đã có một vài nhà tư nhân xây dựng 2, 3 tầng, như nhà anh Thêm, thủy thủ tàu Viễn dương, xây dựng ở xã Đằng Lâm, gần sân bay Cát Bi; nhà anh Bút lái xe, xây dựng ở Quán Toan, bên đường 5. Anh Thêm rất sợ. Hôm đến dự tổng kết ở công ti VOSCO, khi nói chuyện, anh em xôn xao hỏi tôi Hải Phòng có tịch thu nhà như ở Hà Nội không? Có hai thủy thủ Viễn dương làm nhà ở Hà Nội đã bị tịch thu. Tôi trả lời: “Khi có lệnh chính thức sẽ làm”. Tôi cũng nói ý kiến riêng tôi thì không nên làm vậy. Tôi khuyên các thủy thủ tiết kiệm được tiền cần xây nhà cao và đẹp hơn nhà anh Thêm. Tới Hội nghị Trung ương tháng 6-1983 này, tôi sẽ tình bày quan điểm của tôi về vấn đề trên.
Nghe thế mọi người phấn khởi lắm.

Một hôm anh Mười về làm việc với Hải Phòng. Làm việc xong, tôi và đồng chí Nguyễn Dần, Chủ tịch, đưa anh Mười đi xem nhà máy đóng tàu bến Kiền. Qua Quán Toan, anh Mười trông thấy nhà anh Bút lái xe, anh Mười hỏi nhà ai mà to thế! Tôi báo cáo đó là của một lái xe Đoàn 12. Anh Mười nói: “Nếu tôi là Bí thư, Chủ tịch Thành phố, tôi sẽ tịch thu cái nhà này làm nhà mẫu giáo...”. Tôi và anh Dần nhìn nhau lặng im. Khi anh Mười về rồi, anh Dần bảo tôi: “Thế là cụ Mười cũng đồng ý tịch thu nhà...” Tôi không nói gì. Anh Dần nói thêm: “Đợi chỉ thị chính thức sẽ bàn việc này anh Thành ạ”!

Tôi gật đầu và suy nghĩ...

Nay, nếu ai qua Quán Toan nhìn lại cái nhà anh Bút (mà tôi thường gọi là “Hàn Bút” vì cách đấy khoảng hơn một km có nhà “Hàn Điềm”, địa chủ, cũng có cái nhà 2 tầng); nhà “Hàn Bút” và cả nhà “Hàn Điềm” nữa, so với nhà nông dân ở khu vực đó hiện nay, không ý nghĩa gì, chỉ như những “chuồng chim to” mà thôi.

Nhân chuyện liên quan đến nhận thức, thực thi luật pháp và quyền công dân, tôi nhớ lại một việc, đối với nhà cầm quyền có thể là chuyện nhỏ, nhưng đối với một người dân là cả cuộc đời và sự nghiệp của họ.

42. Hôm ấy, với cương vị là Chủ tịch thành phố tôi nhận được một lá đơn kêu cứu của một sinh viên trường Đại học Hàng hải. Nội dung trình bày sự việc và tha thiết đề nghị Chủ tịch can thiệp để nhà trường nhận cháu vào học. Số là bố cháu một cán bộ của “Haiphong Ship” đã nhận vận chuyển một loại hàng hiếm vào thành phố Hồ Chí Minh, bị công an tình nghi là buôn lậu đến khám nhà. Khi ở trường về thấy vậy, như một phản ứng tự nhiên, cháu đã vứt một túi sách sang nhà bên cạnh. Thế là cháu cũng bị bắt.

Xét trong túi xách chỉ có quần áo cũ, không có gì liên quan đến vụ việc trên, vài ngày sau cháu được tha. Khi cháu trở lại trường thì trường không cho cháu tiếp tục học nữa, với lí do là đã bị bắt, bị tù. Tôi cho kiểm tra lại, và ghi ý kiến gửi tới giáo sư Lê Đức Toàn, hiệu trưởng: “Luật pháp chưa kết luận, các đồng chí cứ để cho cháu tiếp tục học, nếu sau này có bị tù, thì một người tù có học vẫn còn hơn một người tù vô học”. Tôi được biết sau đó cháu đã tốt nghiệp đại học và hiện nay đang là một thạc sĩ, một nhà kinh doanh giỏi.

Cuộc kiểm tra tài chính toàn diện của Đoàn Chính phủ

43. Tiếp theo Tổ sắp xếp công nghiệp của đoàn anh Tô Duy vừa kết thúc, thì đoàn kiểm tra tài chính toàn diện của Chính phủ về Hải Phòng do đồng chí Ngô Thiết Thạch, Thứ trưởng Bộ Tài chính làm trưởng đoàn. Lúc đó Hải Phòng đang nổi lên như một điển hình làm kinh tế giỏi, một “Con chim én báo hiệu mùa xuân”. Nhiều lời khen, chê lẫn lộn. Có dư luận tung ra: Hải Phòng lấy đâu nhiều tiền thế để xây dựng cầu, cống, đường xá? Họ đưa ra 3 yếu tố để có tiền:

-Buôn lậu.
-Ăn cắp của kho Cảng.
-Gián điệp cho ông Thành tiền để xây dựng, nhằm nâng cao uy tín ông Thành, nhờ vậy sau này được lựa chọn vào vai trò chủ chốt quốc gia để “khuynh đảo” đất nước.

Đoàn đồng chí Ngô Thiết Thạch đến gặp Bí thư Thành uỷ ngay và với thái độ đúng đắn. Tôi tiếp họ cũng rất thẳng thắn.

Trong buổi gặp đầu tiên, tôi đã nói ngay rằng: “Đồng chí Trưởng đoàn và các đồng chí trong đoàn cứ làm việc đến xong thì thôi. Từ thành phố đến quận, huyện và cả xã nữa, các đồng chí đi đâu cũng được, xem gì cũng được. Ai cản trở việc kiểm tra cứ cho tôi biết, tôi sẽ kỉ luật người đó ngay. Còn chế độ ăn nghỉ, tùy các đồng chí:

1) Ăn chế độ chung là 5đ/ngày. Nếu cần ăn thêm đoàn sẽ chi thêm, thành phố phục vụ.
2) Thành phố sẽ chi hoàn toàn 35đ/ngày như mức ăn bình thường của các đoàn đến Hải Phòng từ trước.

Tôi nói thêm đó là sự minh bạch của địa phương. Chúng tôi có những nghị quyết về tiếp khách, chi tiêu, bán hàng cho khách rất rõ ràng. Thí dụ bán xe gắn máy cho khách cũng giảm 5% theo thời giá lúc bán. Thành uỷ viên và con cái uỷ viên Thường vụ thành uỷ cấm không được mua...

Tôi lại nói:
-Tùy các đồng chí lựa chọn, kẻo sau này bảo thành phố đối phó, cho ăn 5đ/ngày để cuộc sống khó khăn phải rút sớm. Hoặc bảo cho ăn 35đ/ngày là mua chuộc đoàn, để bao che lỗi lầm cho địa phương...

44. Đoàn làm việc một thời gian, với những kết luận đúng đắn: Hải Phòng làm ăn minh bạch rõ ràng, sổ sách ghi chép từ cái nhỏ nhất như biếu xén cấp trên chỉ bằng hiện vật cũng đều ghi lại cho ai, tặng ai, biếu ai, đều ghi sổ sách, tiếp tân, bán hàng... đều có nghị quyết và ghi chép ngày, tháng, rõ ràng. Đoàn đã xác minh một số đối tượng, đều công nhận là đúng...

Khi đoàn rút, thành phố biếu mỗi đoàn viên 5m vải, còn tiền ăn, ở thành phố thanh toán cho đoàn chu đáo với mức 35đ/ngày. Sau cuộc kiểm tra dài ngày đó không có dư luận gì xấu về Đoàn, cũng như của địa phương.

“Chưa hết kiểm tra đâu” - tôi nghĩ. Đoàn kiểm tra của đồng chí Ngô Thiết Thạch chưa kiểm tra ngân sách Đảng. Quả nhiên tiếp sau đó đoàn kiểm tra ngân sách Thành uỷ lại về Hải Phòng do đồng chí Hoàng (Hoàng Lửa), Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương làm Trưởng đoàn và 5 cán bộ. Trước khi xuống Hải Phòng, anh Hoàng gọi điện thoại cho tôi, nói: “Tôi được ý kiến của Ban Bí thư xuống kiểm tra ngân sách Thành uỷ. Tôi dự định làm trong 45 ngày, đề nghị anh giúp đỡ...” Tôi trả lời: “Mời anh cứ xuống làm việc, tôi sẽ tạo mọi điều kiện tốt nhất cho anh kiểm tra...”.

Hôm sau anh Hoàng xuống thẳng Văn phòng Thành uỷ làm việc với Chánh, Phó Văn phòng và gặp đồng chí Lê Danh Xương, Phó Bí thư Thường trực Thành uỷ. Anh Hoàng nói khi kết thúc sẽ gặp anh Thành. Tôi chỉ thị cho Văn phòng Thành uỷ cung cấp mọi tài liệu về tài chính cho Đoàn, không có việc gì phải hỏi ý kiến tôi cả. Có việc gì cần, hỏi anh Xương giải quyết.

46. Điều thuận lợi cho Đoàn làm việc là Thành uỷ Hải Phòng vốn cấm không cho Văn phòng Thành uỷ, các Ban của Đảng, tổ chức quần chúng, cơ quan công an, viện kiểm soát, quân sự, tham gia làm kinh tế. Những ngành không có chức năng làm kinh tế không được làm kinh tế. Mặc dù Ban Bí thư có chỉ thị số 12 về việc Đảng làm kinh tế, nhưng Thành uỷ Hải Phòng có công văn gửi Ban Bí thư xin phép cho Thành uỷ Hải Phòng không làm kinh tế.

Với lí do là Đảng cầm quyền, ngân sách của Đảng do chính quyền cung cấp. Quan điểm này tôi vẫn giữ đến hôm nay, mặc dù sau 1986 tôi rời Hải Phòng, Thành uỷ Hải Phòng bắt đầu làm kinh tế và thành lập Ban Tài chính quản trị, (cũng đẻ ra phức tạp và dư luận không hay), dù nay trong cả nước Đảng đã làm kinh tế, tôi vẫn giữ ý kiến là quyết định đó không phù hợp với một Đảng cầm quyền...

Trở lại với đoàn kiểm tra Đảng của đồng chí Hoàng dạo đó, Đoàn mới làm được 20 ngày đã hết việc, không còn việc gì phải xem xét nữa. Sổ sách chứng từ đầy đủ, Văn phòng Thành uỷ và đồng chí Lê Danh Xương đã báo cáo kĩ càng với Đoàn. Anh Hoàng vui vẻ kết thúc kiểm tra và gọi điện thoại cho biết: “Không có vấn đề phải gặp tôi, tất cả đã trao đổi với anh Xương và anh Trần Xuân Mạnh, Chánh văn phòng rồi”.

Và Đoàn xin phép rút về Hà Nội. Tôi mời anh ở lại để gặp nói chuyện cho vui thôi, nếu kiểm tra không còn vấn đề gì. Anh Hoàng nói hôm sau phải họp Uỷ ban Kiểm tra không thể ở lại. Tôi cảm ơn anh Hoàng trước khi Đoàn lên đường. Hôm sau đồng chí Lê Danh Xương, đồng chí Trần Xuân Mạnh báo cáo lại: Đoàn rất phấn khởi. Khi ở Hà Nội nghe nhiều dư luận không hay, nay Đoàn qua thực tế thấy Văn phòng Thành uỷ giúp cho Thành uỷ chi tiêu rõ ràng, rành mạch, không có vấn đề gì. Riêng quà biếu thì hơi rộng, thí dụ cho 5 chai nước mắm, thì nên rút xuống 2, 3 chai/người thôi...

Tôi về nói chuyện với nhà tôi: kinh tế họ nói sai, tung dư luận xấu về Hải Phòng nhưng sự thật đã được kết luận. Vấn đề tiếp chắc là vấn đề chính trị. Với ý định của họ, qua hành động, thái độ, tôi cũng dần dần hình dung ra họ sẽ làm gì những bước tiếp. Nhưng nội dung cụ thể thì tôi không thể tưởng tượng được.

Cuộc họp Hội nghị Trung ương tháng 6-

47. Cuộc họp nội dung kiểm điểm công tác 6 tháng đầu năm và đề ra nhiệm vụ hoàn thành kế hoạch 1983 do Tổng Bí thư Lê Duẩn chủ trì. Đồng chí Tổng Bí thư đọc lời khai mạc xong, phiên họp đầu tiên do đồng chí Phạm Hùng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ Trưởng Bộ Công An điều khiển. Báo cáo tình hình 6 tháng đầu năm và kế hoạch thực hiện 6 tháng cuối năm, Văn phòng Trung ương đã gửi cho các Uỷ viên Trung ương đọc, nghiên cứu trước, đến Hội nghị là phát biểu ngay.

Đồng chí Phạm Hùng chỉ định tôi phát biểu trước.

Tôi phát biểu một số ý kiến ngắn gọn về Dự thảo báo cáo, còn dành thì giờ cho vấn đề “Z30”, về tịch thu nhà ở Hà Nội. Tôi nói “Z30” đã ảnh hưởng rất lớn tới các mặt chính trị, tư tưởng của Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng, nhất là nội thành.

Tôi nói một mạch 2 giờ liền.

-Rõ ràng không có cơ sở gì đặt ra việc tịch thu nhà của người dân, khi họ không phạm pháp luật, không bị pháp luật xử. Chỉ một Quyết định của Chính quyền địa phương là xông vào đuổi người chủ ra khỏi nhà, rồi tịch thu. Trong lúc này nhà cửa cho dân ở thiếu thốn, ngay cán bộ CNVC cũng không thuê được nhà ở, hoặc có thuê được nhưng nhà hỏng không có tiền sửa chữa. Đối với những khu nhà Nhà nước quản lí thì dân xin sửa không cho, dân xin mua không bán, càng để càng dột nát, xuống cấp...

Nay người dân (chủ yếu là cán bộ công nhân viên chức ở một số ngành đi công tác nước ngoài, như thủy thủ tàu viễn dương, cán bộ đi công tác nước ngoài) tích cóp được ít tiền để dựng gian nhà cho vợ con ở, thực sự phải nhìn nhận là việc tốt. Đất chật, người ta làm nhiều tầng, nhưng cũng không to tát gì. Tôi đã trực tiếp xem tịch thu 3 nhà ở Hà Nội thì thấy thảm thiết lắm. Họ kêu khóc, đội “khăn tang”, khi đội công tác đẩy họ lên xe chở đi.

48. Tôi xin đặt ra một câu hỏi với Trung ương: “Chúng ta làm cách mạng để làm gì? Người cộng sản hi sinh suốt đời cho nhân dân, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, thử hỏi ta đã đem lại cho nhân dân cái gì, sau khi đất nước đã được thống nhất 8 năm? Những việc của chúng ta làm là trái đạo lí. Bác Hồ trong di chúc đã nói: “Sau khi nước ta được thông nhất, chúng ta sẽ xây dựng đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn... “ Ta chưa xây dựng thì để cho dân xây trước, còn ta sẽ xây dựng lớn hơn, cả nước thành công trường, xây dựng Chủ nghĩa xã hội.

Thành uỷ Hải Phòng chủ trương “ngói hoá nông thôn”, mai đây sẽ xây nhà 2, 3 tầng, lại bị tịch thu hay sao? Năm 1950 khi tôi làm Bí thư Quận uỷ Ngô Quyền, cơ quan đóng ở huyện Kinh Môn, địa phương mời tôi nói chuyện về Chủ nghĩa cộng sản để chuẩn bị Đảng ra công khai hoạt động vào đầu năm 1951, tôi đã nói với nông dân xã Châu Xá: “Khi kháng chiến thắng lợi, bà con sẽ hết cảnh nghèo khổ, không còn ở nhà tranh vách đất, mà ở nhà xây”. Họ vỗ tay hoan hô không ngớt. Nay độc lập thống nhất rồi, mình không có tiền xây nhà cho dân ở, họ xây ta tịch thu, hỏi còn đạo lí gì nữa?

Hội trường im phăng phắc. Tôi nhìn anh Ba, anh Hai Hùng... Cả hai anh tỏ thái độ suy nghĩ, theo dõi ý kiến của tôi. Cuối cùng tôi đề nghị: “Hải Phòng chờ ý kiến chính thức của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ sẽ thi hành nghiêm túc. Còn điện thoại nhắc nhở của một số đồng chí bảo nên bắt chước Hà Nội mà làm để có phong trào, thì chúng tôi không làm. Chúng tôi chịu trách nhiệm trước Đảng và trước dân.

Có một đồng chí phê bình Hải Phòng không làm theo là vấn đề quan điểm, lập trường, chứ không phải cách làm. Tôi cho những lời phê bình đó “hồ đồ”. Tôi đề nghị Hội nghị Trung ương cần bàn rõ, để thực hiện thống nhất cả nước. Hiện nay nhân dân đang do dự, suy nghĩ về chính sách của chúng ta...

Sau khi phát biểu xong, đồng chí Phạm Hùng đứng dậy thong thả, hượm, hượm vài cái, cười và nói: “Rất sáng tạo, rất sáng tạo!

49. Tôi ủng hộ ý kiến anh Thành... Có đồng chí nào phát biểu gì, cứ nói...”

Mấy phút im lặng, rồi anh Ba đứng dậy phân tích đạo lí của Đảng ta, của dân tộc, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Sau đó anh hỏi: “Có đồng chí nào phân tích đạo lí hơn thì phát biểu tiếp...”.

Tôi hồi hộp.

Không ngờ hai anh lại ủng hộ mạnh mẽ ý kiến của tôi đến thế. Tôi sợ quá! Nếu cứ nghe theo mấy đồng chí làm “Z30” thì thật chết, sai cả ý Đảng và lòng dân. Không hiểu cái chỉ thị “Z30” ấy ở đâu mà ra? Bây giờ Tổng Bí thư, Uỷ viên Bộ Chinh trị phụ trách nội chính lại đồng tình một cách triệt để với tôi. Biết bao suy nghĩ về vấn đề này...

Sau đó một số đồng chí Thành phố Hồ Chí Minh và phía Nam, đồng chí Quất, Bí thư Hà Bắc... phát biểu, hoan nghênh, ủng hộ ý kiến tôi. Thế là hết cái “Z30” mà sau này Hà Nội phải giải quyết hậu quả đến năm 19921993 mới xong.

Hội nghị Trung ương năm 1991 đồng chí Phạm Hưng, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã đặt cho sự kiện “Z30” cái tên mới là “Chết rét”... Khi phát biểu xong ngồi xuống, trông thấy đồng chí Hồng Hà, Tổng biên tập báo Nhân Dân ngồi ghế sau, tôi quay lại nói với đồng chí Hồng Hà: báo Nhân Dân ngày... 6-1983 có đăng 6 bài phê bình các địa phương không tịch thu nhà. Trong 6 bài đó có 5 bài phê bình Hải Phòng, một bài phê bình Hà Bắc... Tôi xin nhắc anh Hồng Hà, anh có đăng một triệu bài, nhưng không có chỉ thị đóng dấu búa liềm và quốc huy tôi cũng không làm đâu...” Anh Hồng Hà đính chính: “Đó là Tổ ý kiến bạn đọc cho in, tôi không biết...”.

Giữa thời kì hoà bình xây dựng đất nước mà có những việc làm kì lạ như vậy, thật đáng làm một bài học cho các thế hệ cấp uỷ mai sau suy nghĩ và thận trọng. Khi sai sẽ gây ra bao oán thù, nó sẽ tích tụ chồng chất dần lên, thành những hận thù sâu xa đến tận đời con, đời cháu... Khi có biến cố chính trị, những người bị xử sai này dễ ngả về phe chống đối cách mạng mà ta không thể coi thường.

50. Khi chúng ta ở thế “thượng phong”, phải nghĩ đến lúc “hạ mạt”. Trách nhiệm của người đi trước, phải biết để lại “hồng phúc” cho người đi sau. Chớ để xảy ra chuyện: “Cha ăn mặn, con khát nước” như dân gian thường nói. Những người cầm cân nảy mực một quốc gia càng phải nắm lấy những điều răn dạy của tổ tiên, và của các bậc hiền triết đã để lại cho nhân loại biết bao châm ngôn, tục ngữ... Chúng ta cần đọc kĩ, suy ngẫm kĩ. Bất kì hoàn cảnh nào cũng có thể ứng dụng, cho chuẩn mực, cho đúng đạo lí.

Kinh nghiệm sai lầm trong Cải cách ruộng đất, rồi chỉnh đốn tổ chức, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, tưởng rằng những bài học lớn lao đó chưa xa lắm. Tôi vẫn thường nghiêm khắc xem xét chính mình việc vận dụng học thuyết của Marxlénine, tư tưởng Hồ Chí Minh, với quan điểm chính trị, lập trường giai cấp cho nhuần nhuyễn, phù hợp với đạo lí muôn thuở mà tổ tiên ta để lại.

Có như vậy mới hi vọng tạo nên sự hoà hợp đoàn kết với tầm cao hơn, sâu rộng hơn, không chỉ có lí trí mà còn tình cảm của người đối với người... xây dựng một nước giàu, đủ sức bảo vệ lổ quốc, không bao giờ để ngoại bang xâm chiếm, nô dịch bằng bất kì hình thức nào.

Tổ chức kỉ niệm 30 năm giải phóng Hải Phòng

51. Từ 13-5-1955 đến 13-5-1985, tôi đã chứng kiến biết bao đổi thay của thành phố Cảng Hải Phòng. Tiếp quản, xây dựng rồi chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ kéo dài từ 81964 đến tháng 2-1973, ròng rã 9 năm liền. Chín năm ấy giặc Mỹ đã tàn phá gần 3/4 thành phố công nghiệp lớn thứ hai miền Bắc. Hàng nghìn chiến sĩ và nhân dân hi sinh do bom Mỹ giết hại, không kể hàng vạn con em Hải Phòng vào miền Nam chiến đấu, góp phần giải phóng miền Nam để rồi hàng nghìn chiến sĩ nằm lại trên chiến trường miền Nam máu lửa.


Trung đoàn Hải Phòng chi viện cho Đà Nẵng, khi giải phóng Đà Nẵng, đã không còn một chiến sĩ nào của Trung đoàn trong số quân đi vào đợt đầu... Vậy mà sau 10 năm, quân dân Hải Phòng dưới sự lãnh đạo của Thành uỷ, sự chỉ đạo của Trung ương và Chính phủ, đã khôi phục, xây dựng lại Thành phố khang trang hơn, lịch thiệp hơn, từng bước thực hiện Di chúc của Bác Hồ.

Để đón nhận Huân chương Sao vàng của Nhà nước trao tặng, Thành uỷ, Uỷ ban Nhân dân Thành phố tổ chức ngày kỉ niệm với đầy đủ ý nghĩa lớn lao của nó. Trước hết phát động phong trào thi đua xây dựng thành phố, tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội, khơi dậy một tinh thần tự lực tự cường, không ỷ lại trông chờ, mà phát huy từ tiềm năng của thành phố, cùng với sự giúp đỡ của Trung ương, sự hợp tác với các tỉnh, thành trong cả nước, đồng thời tận dụng sự hợp tác quốc tế để xây dựng một mô hình XHCN của một địa phương, góp phần kinh nghiệm cho Trung ương.

Thành uỷ, UBND thành phố, tổ chức kỉ niệm 30 năm giải phóng rất long trọng. Các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Chính phủ, phân công nhau về các địa phương dự, vì dịp này cả nước cũng kỉ niệm 10 năm giải phóng, thống nhất đất nước. Thủ tướng Phạm Văn Đồng về dự với Hải Phòng, còn đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn xuống chúc mừng Hải Phòng trước một ngày.

Đồng chí Chủ tịch Trường Chinh gọi điện cho tôi chúc mừng Hải Phòng và nói thêm: “Tôi cũng muốn đi Hải Phòng nhưng không được phân công, nên gọi điện chúc mừng Hải Phòng. Đồng chí chuyển lời tôi đến Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang Hải Phòng giúp tôi”. Giọng nói và lời văn của Chủ tịch Trường Chinh đến hôm nay nhớ lại tôi còn rất xúc động về tình cảm của đồng chí.

Anh Đỗ Mười cũng rất nhiệt tình. Anh gọi điện cho tôi, nói rằng anh sẽ xuống dự và sẽ giục anh Đồng Sĩ Nguyên với các đồng chí khác cùng xuống dự...

Ngày lễ lớn trên lễ đài Thành phố, Đoàn chủ tịch chỉ thiếu vắng Tổng Bí thư Lê Duẩn và Chủ tịch Trường Chinh, còn hầu hết các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư đều đến dự và tham gia Chủ tịch đoàn. Ngày kỉ niệm có diễu hành của lực lượng quần chúng, diễu binh của thủy, lục, không quân rất hoành tráng. Các đoàn đại biểu tỉnh bạn kết nghĩa của Campuchia và Lào khi thấy máy bay phản lực bay qua lễ đài đã nói: “Chúng tôi kỉ niệm ngày Quốc khánh cũng không bằng Hải Phòng...”.

Các đồng chí lãnh đạo Hải Phòng và Kiến An qua các thời kì đều được trân trọng mời về dự. Các đồng chí về khá đông đủ.

52. Ngày tổ chức kỉ niệm 30 năm giải phóng Hải Phòng, Kiến An thành công rất tốt đẹp, gây được không khí vui tươi, hào hứng cho mọi tầng lớp nhân dân Thành phố.

Đến cuối năm tôi cùng Ban Thường vụ Thành uỷ chủ trì hoàn tất 46 Nghị quyết của Thành uỷ và Ban Thường vụ Thành uỷ. Tôi lên báo cáo với anh Lê Đức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị phụ trách tổ chức, rằng hết năm 1985 tôi xin nghỉ. (Dự định này tôi đã chuẩn bị từ lâu, chuẩn bị cả cho vợ tôi cùng các cháu. Tôi phục vụ cách mạng đã tròn 40 năm, sức khoẻ do tù đày bệnh tật hiện suy giảm, vả lại cũng chưa bao giờ tha thiết quyền chức, danh lợi. Các cụ xưa đã răn dạy phải biết rút lui đúng lúc mới là người hiểu đời).

Tôi bị đồng chí Lê Đức Thọ phê phán là thiếu ý chí vươn lên. Tôi thưa lại rằng hàng năm tôi đã báo cáo Tổ chức là đến năm 56 tuổi tôi xin nghỉ, để Tổ chức biết trước, khỏi bị động... Anh Thọ lại tỏ ra nóng giận:

-Cậu nói thế khác nào cậu nói chúng mình. Cậu mới hơn 50 tuổi, chúng mình đã 70 tuổi... Cậu đã được xếp vào đội ngũ kế cận... Tại sao lại nghĩ như vậy.
-Tôi lại thưa với anh, tôi cũng được anh Nguyễn Đức Tâm cho biết như vậy. Nhưng tôi báo cáo với anh kẻo có người lại nghĩ tôi được trên chú ý, quên lời hứa của mình, anh em địa phương sẽ coi thường...
Anh Thọ đứng dậy nói:
-Thôi, bỏ cái ý định ấy đi. Cậu ở Hải Phòng làm tốt, tôi đã hỏi cung Hoàng Trừ, Trường Xuân, cậu gìn giữ lắm, gìn giữ lắm.

Rồi anh hỏi sang việc khác. Anh Thọ không chỉ nói riêng với tôi, mà còn nói với cán bộ giúp việc. Anh Đạt, thư kí của anh, đã đôi lần nói với tôi: “Tôi ít thấy anh Lê Đức Thọ khen cán bộ cao cấp trước mặt đông người, nhưng anh Thọ đã khen anh trước nhiều người: Cậu Thành cậu ấy gìn giữ lắm!.”.

Giờ đây tôi đã có thể nói rất thành thực rằng: “Anh Thọ cũng làm tôi khổ nhiều lần”. Tôi vẫn rất kính trọng cái “tài” và tính “quyết đoán” của anh, nhưng tôi thấy anh còn khá độc đoán chuyên quyền về công tác Tổ chức cán bộ.

53.Việc tôi xin nghỉ sau tổ chức lễ kỉ niệm 30 năm giải phóng Hải Phòng bị lọt ra ngoài. Những kẻ xấu tung tin tôi sợ lên Trung ương bị “vạch mặt” nên “ăn non”. Kì này vào Đại hội Đảng toàn quốc sẽ “lột lon”, hoặc điều đi để “điệu hổ ly sơn”. Có như vậy mới trị được những tay chân như Trưởng Xuân.

Nào là kì này nếu không đánh bật Đoàn Duy Thành ra khỏi Trung ương thì cũng làm cho mất nhiều phiếu bầu, để không đủ vào Bộ Chính trị, không có điều kiện ngoi lên cao. Trong số những kẻ xấu bụng ấy, tôi biết rõ nhất là anh Tô Duy, anh Nguyễn Thắng, còn có tên là Thắng Rỗ, Thắng Lầm. Họ đi gặp các cơ sở quận Ngô Quyền và những anh chị em bị bắt, kêu gọi, kích động, để họ vu khống tôi. Nhiều anh chị em được anh Tô Duy đến tận nhà phát động như anh Sửu, cô Định v.v... Nhưng không ai theo họ cả, lại vào báo tin cho tôi biết.


Trừ anh Hoàng Chữ đã viết một lá thư gửi cho đồng chí Đỗ Mười. Đồng chí Đỗ Mười xem xong chuyển cho anh Nguyễn Đức Tâm, uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương. Các anh ấy làm có lớp lang, bài bản, khá chu đáo... Mặt khác các anh ấy kéo thêm một số bạn bè, cán bộ dưới quyền (nhưng chẳng ai bị tù, trừ anh Hoàng Chữ, một nhân chứng sống của các anh ấy. Sau nay anh Hoàng Chữ khi đối chất đã phải xin lỗi tôi, nói rằng mình bị tác động. Tôi sẽ nói kĩ vấn đề đối chất ở chương khác).

54. Về phía gia đình tôi, vợ tôi và các cháu đều nói do tôi quyết định mọi việc. Các cháu là đảng viên, cán bộ trung cấp, chúng nói: chưa đủ độ “chín” để tham gia vào việc của bố! Riêng cụ thân sinh ra nhà tôi đã gần 90 tuổi, cụ khuyên tôi: “Trèo cây đã đến buồng rồi, không nên nghỉ...”.

Bè bạn, đồng chí thân thiết cũng khuyên tôi không nên nghỉ sớm, nếu Đảng và Nhà nước còn sử dụng.

Tôi cũng thấy khó xử. Mối quan hệ xã hội cũng ràng buộc tôi, để đáp ứng cả người có động cơ xấu và người có động cơ tốt với mình. Xem ra không cách nào khác là về Hà Nội, nhận một công việc thích hợp với khả năng, nhất là không chen vào ai, đặc biệt là anh Mười.

Tôi nghĩ không bao giờ tôi chen lấn vào anh, vì anh là Thủ trưởng cũ của tôi, hơn nữa trong tư duy của hầu hết các “vị bô lão” ít ai dám mạnh bạo cho lớp trẻ vượt lên trên. Đặc biệt là anh Mười. Qua nhiều năm làm việc với anh, tôi hiểu ý anh rất sâu sắc. Đôi khi anh mới nói nửa lời tôi đã biết anh định nói gì rồi, chỗ nào nói thật, chỗ nào nói chỉ để động viên người khác. Tôi đã có ý định nếu được xếp vượt lên trên anh Mười là tôi kiên quyết rút, nhường anh Mười ngay.

Cũng như đối với anh Bùi Quang Tạo, khi trên có ý định điều anh Tạo về Trung ương, tôi tha thiết đề nghị anh Tạo ở lại làm Bí thư, tôi chỉ làm Chủ tịch là đủ. Tiếc rằng anh Tạo đã qua đời, chỉ còn anh Nguyễn Đức Tâm biết rõ chuyện đó.

Tôi thường suy nghĩ nhiều và đôi khi rất buồn về những kì chuẩn bị Đại hội Đảng ở địa phương cũng như toàn quốc. Đã có lần tôi trực tiếp nói với anh Ba, anh Trường Chinh, anh Lê Đức Thọ, anh Nguyễn Đức Tâm là việc phê bình, tự phê bình, nên làm thường xuyên hàng năm đối với cán bộ lãnh đạo các cấp.

55. Khi tổ chức Đại hội chỉ tập trung bàn công việc phải làm trong nhiệm kì và hàng năm của nhiệm kì đó, không nên cứ đến nhiệm kì 5 năm mới làm kĩ về phê bình. Làm như vậy mất thì giờ, những người cơ hội muốn lật nhau, thường tìm mọi cách nói xấu, vu khống để tranh giành địa vị trong các kì bầu cử của Đại hội.

Các đồng chí lãnh đạo các cấp nhiều khi cũng lợi dụng các cuộc phê bình, tự phê bình, để loại trừ những người không ăn cánh với mình. Điều đó khiến cho việc chuẩn bị đại hội thường căng thẳng, không hồ hởi phấn khởi như ý nghĩa ngày hội lớn của Đảng. Những người muốn vào địa vị này, địa vị khác, chạy chọt, tranh thủ, buồn vui... không xứng với tầm cao của một đảng tiên phong, vì nhân dân mà làm cách mạng, không đúng với tư tưởng và đạo đức của Bác Hồ, tạo nên một thói hư trong Đảng.

Nghe tôi trình bày những suy nghĩ trên rất mừng là các đồng chí không có phản ứng gì, nhưng việc làm vẫn không thay đổi, vẫn làm theo cách làm cũ, nặng nề và mệt mỏi. Nhất là những Đại hội thay đổi cán bộ chủ chốt, thật là mệt và buồn. Như Đại hội 6, anh Linh thay anh Trường Chinh, Đại hội 7 đưa anh Văn ra kiểm điểm những việc mà anh Trường Chinh nói với tôi nhiều lần, đã giải quyết từ năm 1941-1942. Đại hội 9 thay anh Lê Khả Phiêu v.v...

56. Ta không có chính sách đào tạo nhân tài, cứ “nước đến chân mới nhảy”. Anh Nguyễn Văn Linh đã nói nhiều lần ở Hội nghị Trung ương: “Tôi có được chuẩn bị làm Tổng Bí thư đâu”, và lúc cần quá, phải đi tìm người, anh Linh ví: “Chẳng khác gì cầm bó đóm đi tìm ếch, tìm không được ếch, lại bắt được nhái”. Anh Nông Đức Mạnh cũng than phiền là không được đào tạo làm Tổng Bí thư, Đại hội cử thì phải làm thôi...

Chúng ta đều biết “nhân tài” là nguyên khí của quốc gia. Một nước có 80 triệu dân thì nhân tài không phải hiếm. Có chính sách và có cơ chế đúng, cộng thêm người đứng đầu đất nước quan tâm là ra nhân tài. Nhưng đào tạo nhân tài quốc gia mới là chuyện quan trọng nhất. Phải có cơ chế rõ ràng, dân chủ tuyển dụng, đồng thời không những nâng cao dân trí, truyền thống văn hoá dân tộc và văn hoá thế giới cho mọi người hiểu được tiêu chuẩn thế nào là nhân tài.


Phải qua khảo nghiệm thực tế, hành động thiết thực, ứng phó lúc khó khăn, liêm khiết, bình dân, gần quần chúng, đã được kiểm nghiệm như kiểu Bin Clinton đã qua mấy nhiệm kì Thống đốc bang làm rất giỏi, Hồ Cẩm Đào qua các vùng tự trị cam go nhất, qua nơi kinh tế lập trung, giải quyết các công việc phức tạp, được kiểm nghiệm là có tài. Như vậy người ta ở một nước lớn, đông dân, mà có Tổng thống 47 tuổi, Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước 59 tuổi.

Đương nhiên còn bao vị tiền bối, trưởng lão muốn giữ quyền, nhưng với tài năng, đức độ của nhân tài được quần chúng suy tôn mến phục, thì các vị trưởng lão cũng tránh cho nhân tài đi lên. Lịch sử Việt Nam những Triều đại có “Vua sáng, tôi hiền” vẫn chọn được nhân tài đó thôi. Bước vào chuẩn bị Đại hội VI, công việc rất khẩn trương như bao kì Đại hội khác. Nhưng lần này đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã qua đời, đồng chí Trường Chinh được tái cử làm Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu lại, tham gia Bộ Chính trị... Những việc đó có liên quan đến vấn đề nhân sự chủ chốt của Đại hội.

57. Về phần tôi, càng gần đến Đại hội những người có ý định không tốt càng tìm mọi cách làm giảm uy tín tôi, bịa đặt nhiều chuyện ly kì ngoài hậu trường. Còn chính trường thì những động tác của một hai đồng chí chủ chốt, có trách nhiệm về nhân sự, như anh Lê Đức Thọ, với cương vị phụ trách Tổ chức Đại hội, nói góp thêm trong các cuộc họp lớn của cả nước.

Tôi nhớ có hai lần:

-Lần thứ nhất ở Hội nghị cán bộ chủ chốt các địa phương, Anh Thọ nói về chuyện mấy đồng chí Bí thư Tỉnh, Thành uỷ, xuất bản Tuyển tập để tuyên truyền đề cao cá nhân. Tôi được biết có 3 Tuyển tập của 3 Bí thư là: Anh Nguyễn Văn Linh - Bí thư Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh, anh Hoàng Minh Thắng - Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam Đà Nẵng, và tôi là Bí thư Thành uỷ Hải Phòng. Ba tác phẩm này đều xuất bản đầu năm 1985 để kỉ niệm 10 năm giải phóng miền Nam và 30 năm giải phóng Hải Phòng.

Về lí do xuất bản tuyển tập của hai đồng chí trên thì tôi không rõ, còn quyển sách của Hải Phòng do Ban Tuyên huấn Trung ương chỉ đạo. Đồng chí Hoàng, Phó ban xuống Hải Phòng, chọn lựa bài nói của tôi, cộng với Nhà xuất bản Hải Phòng cho in cuốn: Hải Phòng trong chặng đường đầu của thời kì quá độ (Đoàn Duy Thành), Nhà xuất bản Hải Phòng. Đồng chí Hoàng giải thích là 30 năm kỉ niệm Hải Phòng giải phóng, cần có cuốn sách của lãnh đạo Thành phố để tuyên truyền giáo dục cho Đảng viên và nhân dân.

Mọi việc đều do đồng chí Hoàng và Ban Tuyên huấn làm cả. Đồng chí Nguyễn Hữu Huân, Giám đốc Nhà xuất bản (nay đang ở Hải Phòng) chỉ đưa tôi duyệt qua những đầu bài tôi viết. Tôi không hề quan tâm một chút nào đến quyển sách này, nhất là ý đồ đề cao uy tín cá nhân...

58. Sau khi anh Lê Đức Thọ nói xong, một số cán bộ “dịch” ra là: anh Thọ ám chỉ Đoàn Duy Thành đấy! Như anh C.V.T, cấp thứ trưởng cùng nhiều anh em nói cho tôi biết, tôi chỉ cười vui vẻ và cảm ơn.

-Lần thứ hai là: Hội nghị Ban Tuyên huấn toàn quốc, gồm các đồng chí Trưởng, Phó Ban Tuyên huấn các tỉnh, thành phố và các Bộ ngành Trung ương dự họp. Trong buổi đến nói chuyện, anh Lê Đức Thọ nói: “Đồng chí Trưởng ban Tuyên huấn Hải Phòng về nói với anh Thành, Bí thư Thành uỷ biết là anh Tố Hữu tặng Hải Phòng bài thơ có 8 câu, 4 câu khen, 4 câu phê bình, anh Thành chỉ phổ biến 4 câu khen, cắt 4 câu phê bình...”.

Nghe anh Lê Đức Thọ nói, cả Hội nghị xôn xao bàn tán...

Đồng chí Tô Ngạc, quyền Trưởng ban Tuyên huấn đi họp về phản ảnh cho tôi biết. Sau một tuần, tôi đến nhà anh Lê Đức Thọ, mang theo bài thơ: “Mừng Hải Phòng” của anh Tố Hữu gồm 8 câu, in giấy trắng bóng, rất đẹp có kí tên Tố Hữu:

Bốn cống, ba cầu năm cửa ô
Đào kênh lấn biển mở cơ đồ,
Làm ăn hai chữ à ra thế
Chèo chống nghìn tay một tiếng hô.
Nhộn nhịp Sáu kho vui đất Cảng
Khang trang Tam Bạc rạng Thành Tô
Giá còn nữ tướng Lê Chân nhỉ?
Ắt cũng khen con cháu Bác Hồ!

Kí Tố Hữu


Ngoài ra anh Tố Hữu còn làm thêm 4 câu, dặn đồng chí Lê Danh Xương - phó Bí thư Thường trực, đồng chí Tô Ngạc, quyền Trưởng ban Tuyên huấn, đồng chí Vũ Long, Tổng Biên tập báo Hải Phòng, nhà thơ Nguyễn Viết Lãm, về báo cáo với tôi là: “Bốn câu thơ này làm ngoài, chỉ đọc cho Ban Thường vụ Thành uỷ nghe không đăng báo, không phổ biến rộng rãi”. Nhưng tôi đã phổ biến cả 4 câu, gồm 12 câu cho cán bộ Hội nghị và toàn thể hội viên Hội nhà văn Hải Phòng cùng nghe:

Triều dâng sóng dậy đời ca lát,
Gió tự Đồ Sơn mát Thủ đô,
Tám nghề, bảy chữ đừng ham nhé!
Chín chắn mười mươi cũng chớ phô. Tôi báo cáo với anh Thọ và đưa cho anh xem toàn bài thơ. Anh xem xong tỏ vẻ nghĩ ngợi, không nói gì, bắt tay tôi. Tôi chào anh ra về, cũng không nói gì thêm. (Tôi sẽ nói kĩ việc này ở chương “anh Tố Hữu với Hải Phòng”).


Thế đấy! Đến Đại hội, có nhiều chuyện tương tự như câu chuyện của tôi. Nhiều đồng chí phàn nàn, còn tôi đã có quan điểm riêng, nên tôi coi những vấn đề này như mình đã dự đoán trước, không có gì phải suy nghĩ cả.

Trong lúc ấy, tôi thấy anh Mười gặp tôi rất vui vẻ. Tôi biết anh đã nắm chắc vấn đề gì về tôi rồi. Anh Tô Duy đã tìm ra ngón đòn “hiểm” đánh vào sinh mệnh chính trị của tôi, nhất là thư của anh Hoàng Chữ (cùng tù với tôi ở Cát Bi) gửi anh Mười, tố cáo tôi không bị tra tấn gì, mặc quần áo trắng, đọc nhật trình, xem địch tra tấn anh em. Anh Hoàng Chữ được coi là một nhân chứng sống duy nhất.

59. Anh Tô Duy dùng vấn đề kinh tế không lật được tôi, chuyển sang chính trị cũng rất có bài bản. Nhưng vì bịa chuyện nên dễ sơ hở. Tôi ở trong tù không ai biết tên tôi là Đoàn Duy Thành, mà chỉ tên là Duy, không ai biết tôi làm chức vụ gì ở ngoài cả. Thế mà anh Hoàng Chữ dám nói: “Tôi trông thấy một anh đẹp trai, trắng trẻo, mặc quần áo trắng, đọc nhật trình. Tôi hỏi ai đấy? Anh em tù bảo đó là anh Đoàn Duy Thành, Bí thư quận uỷ Ngô Quyền...”.

Sau này đối chất, kết luận xong, các đồng chí sao cho tôi một bản thư anh Hoàng Chữ, thấy chữ anh Mười kí ở dưới (chữ kí tắt ít người biết là chữ kí anh Mười), cùng với ý kiến chuyển thư của anh Hoàng Chữ cho anh Nguyễn Đức Tâm, Trưởng ban Tổ chức Trung ương xem xét.

Lúc đó tôi bị tiến công tứ phía. Anh Tô Duy lúc này đã tập hợp thêm được một số người. Ngoài người cũ là anh Tô Duy, Nguyễn Thắng (Thắng Lầm), Hoàng Chữ, có thêm anh Nguyễn Mạnh Ái, nguyên Cục phó cục bảo vệ quân đội, nguyên Bí thư Quận uỷ Ngô Quyền, anh Trịnh Đình Hoành, nguyên Quận đội trưởng quận Ngô Quyền, anh Lê Quang Tuấn, nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng, anh Trần Đông, nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng...

Tôi buộc phải suy nghĩ.

Những người này trước đây cũng là những đồng chí tốt, thân thiết với mình, sao nay bỗng nhiên cùng nhau tố giác mình trước ngày sắp diễn ra Đại hội lần thứ 6? chắc có thế lực nào đứng sau, đủ sức mạnh thuyết phục mới kéo được đông cán bộ chủ chốt Hải Phòng vào tố cáo mình, dùng đa số để quật ngã mình đây. Nhưng ai là người đứng sau họ? Tôi vẫn còn phân vân chưa xác định...

Những tháng đầu năm 1986, tôi phải đương đầu với bao nhiêu “cuộc chiến”.

60. Tôi nhớ nhất vào tháng 3-1986, cuộc họp tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng đấu Bí thư Thành uỷ Hải Phòng theo cơ chế thị trường, do cố vấn Liên Xô Pascard báo cáo. Trước khi có cuộc họp này, một buổi chiều vừa làm việc xong, tôi được điện thoại của anh Hồ Nghinh, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Ban Kinh tế Trung ương cho biết:

-Tối hôm nay tôi và các anh Vũ Quang, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chánh văn phòng Trung ương xuống bàn với anh một việc rất cần. Anh chuẩn bị cho chúng tôi ăn cơm tối, bàn công việc xong là chúng tôi về Hà Nội ngay.

Tôi chuẩn bị cơm tối, chờ hai anh xuống cùng ăn và làm việc. Chín giờ tối các anh mới đến nhà khách số 13 Trần Hưng Đạo. Lúc đó đường số 5 còn xấu lắm, phải qua 2 cầu, nếu có xe lửa qua phải đợi, thường phải đi 3-4 giờ từ Hà Nội mới tới Hải Phòng. Nhưng vì hai anh hết lòng ủng hộ cuộc đổi mới của Hải Phòng nên đã cấp tốc xuống Hải Phòng thông tin cho tôi biết có cuộc họp quan trọng, để tôi chuẩn bị chu đáo. Một số người dự định sẽ đánh bại Hải Phòng trong kì họp này. Hai anh bảo tôi phải chuẩn bị kĩ báo cáo, có lập luận vững chắc để phản bác lại luận điệu bảo Hải Phòng đi theo kinh tế “thị trường”...

Tôi thấy anh Hồ Nghinh, anh Vũ Quang tâm huyết với Hải Phòng quá cũng rất xúc động. Làm cho dân giàu nước mạnh mà vất vả thật! Chúng tôi vừa ăn cơm, vừa bàn những phương sách đối phó, đến hơn 12 giờ khuya mới ăn cơm xong. Tôi tiễn hai anh về Hà Nội và nói: “Hai anh cứ yên tâm, tôi sẽ chuẩn bị kĩ và nói đầy đủ sự thật của Hải Phòng từ sau đổi tiền đến nay”. Đúng như hai anh thông báo, hôm sau tôi nhận được điện hoả tốc lên Hà Nội họp ở nhà số 10 khu biệt thự Hồ Tây. Lúc này anh Ba yếu, thường nghỉ ở đây. Họp ở Hồ Tây anh Ba dự cho thuận tiện. Hôm sau tôi đi sớm từ Hải Phòng lên, đúng 8 giờ sáng ngày 23 hay 26-3-1986, tôi không nhớ chính xác, đã tới nơi họp.

Tôi đi đến trạm gác khu biệt thự, trông thấy một đồng chí đi lén ở sau nhà và vẫy tay ra hiệu gọi tôi. Tôi cho dừng xe lại, bước xuống. Đó là đồng chí Nguyễn Lam, Ban Bí thư, Trường Ban Kinh tế Trung ương. Bắt tay tôi và ghé vào tai tôi, anh nói rất nhanh: “Hôm nay Bộ Chính trị đấu Hải Phòng đi theo kinh tế thị trường, do đồng chí Pascard, cố vấn Liên Xô báo cáo với Bộ Chính trị. Anh liệu mà báo cáo”.

60. Cảm ơn anh Nguyễn Lam, Hồ Nghinh, Vũ Quang phải lo lắng cho Hải Phòng. Còn với tôi, tôi đã chuẩn bị kĩ những việc làm, tôi cảm thấy rất tốt, và rất đạt kết quả, đặc biệt sau đổi tiền. Tôi đã báo cáo kĩ với đồng chí Pascard khi đồng chí xuống Hải Phòng cuối năm 1985, xem xét kết quả đổi tiền. Đồng chí còn khen Hải Phòng giải quyết sáng tạo, không bị động như một số nơi đồng chí đến nghiên cứu. Không biết vì sao mà phải có cuộc họp quan trọng này?

Tôi bước vào Hội nghị vẫn bình thường như bao cuộc họp khác mà Bộ Chính trị, Ban Bí thư gọi lên báo cáo.

Tôi thấy Hội nghị ngồi im phăng phắc, như đang đợi một cái gì đó. Tôi đến chào và bắt tay đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn và tất cả các đồng chí dự Hội nghị, khoảng hơn 40 người.

Anh Ba nói vài lời tuyên bố lí do và bảo tôi báo cáo tình hình Hải Phòng và các giải pháp giải quyết sau đổi tiền. Tôi báo cáo với Hội nghị gần 3 giờ, kể cả trả lời một vài câu hỏi chen ngang của vài đồng chí, Đến gần 11 giờ thì xong.

Anh Ba đứng dậy không nói gì thêm, chỉ hỏi có đồng chí nào bổ sung hoặc hỏi thêm tôi gì không. Hội nghị ngồi im không ai nói gì. Anh Ba tuyên bố: Hội nghị nghỉ trưa, chiều họp tiếp.

Chiều họp tiếp, anh Ba nhắc hỏi đồng chí nào có biện pháp hay hơn thì phát biểu. Anh Nguyễn Thanh Bình đứng lên, nói đại ý biện pháp giải quyết sau đổi tiền của Hải Phòng như vậy là tốt, cần rút kinh nghiệm chung, anh cũng bổ sung thêm một số kinh nghiệm của Hà Nội...


61. Một vài đồng chí khác phát biểu đều ủng hộ cách giải quyết sau đổi tiền của Hải Phòng cho là sáng tạo, linh hoạt nên không ách tắc do thiếu tiền lẻ gây ra. Nhất là chỉ đạo đổi tiền tháng 9-1985, Thành uỷ đã phân công tất cả Uỷ viên Thường vụ trực tiếp chỉ đạo từng huyện, quận, nên không có sai sót gì đáng kể, sản xuất vẫn phát triển, dân không kêu ca thiếu tiền lẻ như các nơi, lưu thông phân phối không trì trệ...

Hội nghị với mục đích “đấu” Hải Phòng đi theo kinh tế thị trường, trở thành Hội nghị bàn biện pháp khắc phục sau đổi tiền.

Khi ra về tôi bắt tay chào anh Nguyễn Lam, anh Hồ Nghinh, anh Vũ Quang, anh Tiệp, cán bộ theo dõi Hải Phòng. Các anh ấy đều phấn khởi. Anh Hồ Nghinh nói: “Thế là ta đã thắng...”. Anh Nguyễn Lam bắt tay tôi thật chặt và nói: “Đúng là Đoàn Duy Thành”. Còn đồng chí Tiệp thì xuýt xoa “Tôi lo quá! Lo cho anh, lo cho Hải Phòng. Mấy ông găng lắm đấy! Không hiểu sao, sau khi nghe báo cáo của anh lại không thấy nói gì...”.

Nhưng chưa hết gian khổ. Càng đến gần Đại hội, càng nhiều việc. Anh Lê Đức Thọ gọi tôi lên chất vấn về tàu “Hoa Phượng Đỏ” của Hải Phòng đi buôn lậu hàng cũ ở Nhật Bản. Chỉ do một số thủy thủ mua mấy cái xe máy cũ của Nhật Bản về cảng, trốn thuế bị bắt, trong đó có con rể đồng chí Nguyễn Dần mua 2 cái. Chính vì việc này mà đồng chí Lê Đức Thọ kiên quyết không để anh Dần làm Bí thư Thành uỷ và không được đi dự Đại hội 6.

Tôi trình bày có tính tranh luận với anh Thọ về tàu “Hoa Phượng Đỏ” buôn lậu. Anh Thọ nói:

-Các anh không ra quyết định hủy tổ chức đội tàu, tôi sẽ bảo Ban Bí thư ra quyết định bác bỏ quyết định của các anh. Tôi đã hỏi anh Đồng Sĩ Nguyên rồi...

Tôi cãi lại, tôi làm đúng chỉ thị của đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư và đã được Chính phủ cùng Bộ Ngoại thương ra văn bản đồng ý. Chúng tôi không làm sai. Nếu bây giờ lại bảo sai và có văn bản của Ban Bí thư bác bỏ quyết định của địa phương, tôi cũng chấp hành nghiêm chỉnh. Tôi nói đến đấy, anh Thọ bảo: “Thôi được, tôi sẽ xem sau”. Thế là kết thúc. Sau đó anh Thọ cũng không nhắc lại việc này nữa.

62. Tôi còn một lần nữa tranh luận với anh Thọ là việc xử vụ Trường Xuân. Không rõ anh Thọ nghe phản ánh ở đâu, bảo Trường Xuân buôn bán xe tăng, buôn xác lính Mỹ (!?), đủ tội để xử tử hình. Tôi gặp anh Linh, Tổng Bí thư, thái độ anh không rõ rệt, bảo anh Thọ phụ trách việc này.

Anh Lê Đức Anh thì ủng hộ, bảo tôi:
-Anh với tôi cứu nó khỏi mất cái đầu đã, rồi sẽ tính sau.
Tôi gặp anh Mười thì anh phân vân, cũng muốn cứu, nhưng nói:
-Hình như cậu này là thành phần tiểu thương, chẳng có huân chương, huy chương gì cả...
Tôi nói:
-Thành phần thì tôi không biết, nhưng huân, huy chương tôi thấy cậu ta đeo đầy ngực...

Anh Mười suy nghĩ. Tôi hiểu ý anh cũng không muốn xử mức án cao nhất. Tôi gặp anh Trần Xuân Bách, người được anh Thọ giao cho hỏi cung Trường Xuân, anh Bách bảo tôi: “Mình hỏi 3 lần, nhưng chẳng có gì, mình thôi rồi...”.

Mọi người bảo tôi, việc bây giờ là ở anh Thọ.

Các anh bên Bộ Quốc phòng cũng bảo tôi như vậy. Anh Văn Tiến Dũng muốn cứu nhưng nói hơi khó. Mọi người bảo tôi muốn cứu Trường Xuân thì phải gặp anh Thọ. Anh Thọ đã hỏi cung Trường Xuân và khen tôi “giữ gìn lắm”. Tôi biết, làm kinh tế liên quan đến tiền, hàng. Muốn làm giàu cho đất nước, người lãnh đạo phải ý tứ gương mẫu từ những cái nhỏ nhất. Khi tổng kết các chương trình của quân đội, anh em đều gửi tặng phẩm cho tôi, tôi nhận hết và gửi lại tặng chiến sĩ có thành tích nhất. Quân đội làm biết bao công trình quai đê, lấn biển cho thành phố, thành phố trả công chu đáo, nhưng không bao giờ tôi nhận một gói chè của anh em.


63. Tôi đến gặp anh Thọ trình bày chủ trương của Thành uỷ đã chỉ thị cho lực lượng vũ trang làm công trình quai đê lấn biển cho thành phố, cấm buôn bán, có nghị quyết của Thành uỷ rành mạch. Còn Bộ chỉ huy Hải Phòng làm kinh tế, là do Bộ Quốc phòng cho phép. Còn họ lợi dụng tham ô như thế nào đã được cơ quan điều tra xác minh. Theo tôi được biết thì 16 người liên quan tham ô 3,6 triệu đồng, trị giá bằng một bộ video cassette.


Tất nhiên họ có tội, nhưng tôi biết một Uỷ viên Bộ Chính trị sang Nhật được tặng 5 bộ video cassette, đem về chia cho một số Uỷ viên Bộ Chính trị chưa có tivi loại tốt. Tôi không dám coi đó là tham ô, nhưng tôi nghĩ về việc bọn họ tham ô không lớn lắm, nên hạ án cho họ. Còn tôi, chắc anh Lê Đức Thọ đã rõ, tôi không liên quan dính dáng đến chủ trương và vật chất với anh em này. Anh Thọ chỉ nghe, không nói gì. Tôi lo nhất là đã nhắc đến 5 bộ video cassettee, sợ phật ý anh Thọ. Nhưng rất may, anh đứng dậy bảo tôi: “Tôi giao việc này cho anh Đỗ Mười, cậu gặp Đỗ Mười để bàn...” Tôi mừng quá, thế là ý tôi và anh Lê Đức Thọ sẽ thực hiện được bước quan trọng nhất.

Ra về, gặp lại anh Đạt, thư kí của anh Thọ, các anh cũng lo cho tôi. Anh Đạt nói: “Tôi chưa thấy cán bộ cao cấp nào dám cãi tay đôi với anh Thọ. Có anh chỉ cãi lại một câu thôi mà cũng đã khốn khổ...”. Tôi nói: “Mình tranh luận với anh Thọ có tình có lí, ngay việc tàu “Hoa phượng đỏ” anh Thọ cũng thôi. Vì mình trình bày với mục đích phục vụ nhân dân, không có cá nhân...”. Anh Đạt hiện nay sinh sống ở Hà Nội.

Trong thời gian tôi làm Bí thư Thành uỷ, ngoài việc lo cuộc sống của nhân dân, cán bộ cùng công nhân viên chức nói chung, tôi chú ý nhà ở cho cán bộ lãnh đạo từ chuyên viên I (lương lúc đó 105 đồng/một tháng) trở lên, vì những cán bộ này tập trung công việc hàng ngày ít có điều kiện lo việc nhà. Tôi đã cùng Ban Thường vụ Thành uỷ bàn và đưa ra Thành uỷ, Hội đồng nhân dân cùng bàn, ra Nghị quyết xây dựng khu nhà chung cư “Đồng tâm quốc tế” cho cán bộ. Môi hộ được từ 40 m2 đến 64 m2/hộ, có ít vườn, có khu nhà giữ trẻ, vườn hoa công cộng. (Đến nay vẫn là khu chung cư cho cán bộ Trung sơ cấp duy nhất ở Hải Phòng. Nhiều nhà đã xây lấn ra vườn, nhưng nói chung vẫn còn giữ được quy hoạch ban đầu).

64. Những năm tháng công tác ở Hải Phòng, tôi rất chú trọng học hỏi các tỉnh, thành phố trong cả nước, nhất là thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Các anh lãnh đạo ở hai thành phố lớn là những đồng chí có nhiều kinh nghiệm trong đấu tranh như anh Lê Văn Lương, anh Nguyễn Văn Linh, anh Võ Văn Kiệt, anh Mai Chí Thọ...


Các anh lại là những người khiêm tốn và tôi cũng quen biết các anh từ lâu, như anh Lương, anh Linh, những người cùng tù ở Côn Đảo. Tuy là các bậc đàn anh lớp trước, nhưng các anh rất mến tôi. Khi tôi làm Bí thư Hải Phòng, anh Lương làm Bí thư Hà Nội, cứ 3, 4 tháng một lần, anh Lương lại đưa cán bộ chủ chốt của Thành phố xuống Hải Phòng trao đổi kinh nghiệm xây dựng, quản lí thành phố. Nhiều lần anh Lương còn tâm sự với tôi: “Tôi sẽ xin anh về Hà Nội làm Bí thư thay tôi”. Rồi chuyện đó đã xảy ra thật. Nhưng tôi xin với anh Ba Duẩn cho tôi ở lại Hải Phòng. Nếu anh Ba không đồng ý, thì 1984 tôi đã phải về làm Bí thư Hà Nội. Sau trên cử anh Nguyễn Thanh Bình về làm Bí thư Hà Nội.

Anh Bình gặp tôi nói: “Đáng lẽ việc này là của anh, không phải của tôi...”. Còn anh Nguyễn Văn Linh, khi anh làm Bí thư Trung ương Cục, mỗi lần ra Hà Nội báo cáo anh thường xuống Hải Phòng nghỉ, vì anh ở Hải Phòng từ lúc 6 tuổi, học tập, hoạt động cũng ở Hải Phòng rất sớm, 16 tuổi đã bị bắt. Anh coi Hải Phòng là quê hương thứ hai. Mỗi lần anh đến Hải Phòng, tôi thường được phân công đưa anh đi thăm thành phố.

Tuy giữ bí mật, nhưng anh em trò chuyện rất nhiều về công việc, quá khứ, hiện tại... Khi anh làm Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi lần ra họp Trung ương anh thường xuống thăm Hải Phòng và cũng thường mời tôi vào thăm thành phố Hồ Chí Minh. Tôi nhớ có một lần anh mời tôi nói chuyện về kinh nghiệm đổi mới ở Hải Phòng với Thành uỷ. Lần đó ăn cơm chiều xong, anh hẹn tôi 7 giờ tối đến trao đổi thêm. Anh em trao đổi rất nhiều việc của hai Thành phố và một số việc chung trong cả nước.

Đến 10 giờ anh em phục vụ đem lên hai bát cháo lươn, rất ngon. Anh Linh bảo tôi: “Đây là do tài chính của Đảng lo đấy!” Tôi buồn cười, nhưng không dám cười. Ăn xong tôi mới nói: “Hải Phòng, Đảng không làm kinh tế, với lí do là Đảng cầm quyền, ngân sách Nhà nước phải cấp đủ cho cấp uỷ chi tiêu như bên UBND Thành phố. Vì Đảng làm kinh tế là không có lợi”. Anh tranh luận với tôi.

Cho đến khi làm Tổng Bí thư, anh cũng còn tranh luận với tôi chuyện ấy. Nhất là khi Liên Xô sụp đổ, anh bảo tôi: “Nếu chính quyền sụp đổ, thì Đảng còn tiền đâu mà tiêu, nếu không làm kinh tế?”. Tôi bảo anh: “Nếu chính quyền Việt Nam sụp đổ thì đầu anh và đầu tôi cũng mất, còn đâu mà làm kinh tế? Ta phải dồn sức giữ lấy chính quyền”.

Tuy tôi phản đối Đảng làm kinh tế, nhưng tôi vẫn giúp kinh tế Đảng rất nhiều. Khi tôi làm Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, cả nước chỉ có quota nhập 2.000 xe con, tôi đã cấp cho Ban Quản trị Tài chính Trung ương do đồng chí Lê Đức Thịnh làm trưởng ban, với lời quyết của đồng chí Thanh Bình, Thường trực Ban Bí thư. Lúc đó chưa có thuế xuất nhập khẩu, lãi rất lớn. Anh Thịnh đã đem bán quota thu mấy triệu đô la Mỹ, để xây dựng khách sạn Tây Hồ. Nếu trực tiếp nhập sẽ lãi lớn hơn nhiều. Việc bán quota này cũng có dư luận không hay.

Tối hôm ăn cháo lươn với anh Linh xong, tôi nói vui với anh Linh: “Hôm nào đi họp Hà Nội, anh xuống Hải Phòng chơi, tôi chiêu đãi anh 2 bát cháo lươn, mặc dù ở Hải Phòng Đảng không làm kinh tế”. Hai anh em cùng cười. Anh Linh bảo sẽ bàn tiếp chuyện ấy.

Đối với anh Võ Văn Kiệt tôi được nghe tiếng anh nhiều, song ít được gặp. Đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn bảo tôi vào thành phố Hồ Chí Minh rủ anh Sáu Dân cùng đổi mới. Tôi vào thành phố, anh Sáu Dân đi vắng. Tôi gặp anh Mai Chí Thọ cũng bàn được một số công việc ở nhà riêng. Khi về tôi báo cáo anh Ba, anh Ba bảo tôi cần gặp trực tiếp anh Sáu Dân. Lần thứ hai tôi gặp anh Sáu Dân ở Hà Nội. Gặp anh lần đầu, tôi có cảm tình ngay. Anh vui vẻ thân mật, bàn công việc rất sôi nổi. Tôi trình bày các việc làm của Hải Phòng và đề nghị anh giúp đỡ. Anh nói: “Chúng ta hợp tác với nhau. Tôi đồng ý những ý kiến của anh. Chủ nghĩa thực dụng nó xấu, chúng mình cứ bước chân vào bước chân của nó, nhưng bước nhanh đi là được”. Đó là câu nói khiến tôi đánh giá anh Sáu Dân có tư tưởng đổi mới mạnh mẽ.

65. Tôi rất say sưa với công tác ở Hải Phòng, chỉ mong sao làm hết khoá, đến cuối năm 1986 sẽ về nghỉ. Nhưng anh Lê Đức Thọ, anh Nguyên Đức Tâm đã trực tiếp gặp tôi để trao đổi, điều tôi về Trung ương công tác, cũng không được các anh cho biết về làm công việc gì. Khi gặp anh Tâm lần cuối, tôi đề nghị anh: “Về Trung ương làm gì cũng được, nhưng đừng xếp tôi làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương”.

Thế là theo yêu cầu mới tôi phải rời Hải Phòng - nơi tôi đã gắn bó suốt 36 năm và luôn coi là quê hương thứ hai của mình; nơi tôi đã quen thuộc từng phố phường, xóm ngõ trong nội thành, đến các làng mạc thôn xã ở ngoại thành và hải đảo; nơi tôi có biết bao nhiêu đồng chí cùng chiến đấu, lao động, và đồng bào thân quen với biết bao nhiêu kỉ niệm vui buồn. Tôi nhớ lại những ngày hoạt động đầy căng thẳng trong nội thành, ngày đêm giáp mặt với quân thù, những năm tháng bị bắt, bị tù đầy, tra tấn chết đi, sống lại, rồi tiếp quản thành phố, xây dựng trong hoà bình, trong chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ... Tôi càng không bao giờ quên thời gian là lãnh đạo chủ chốt thành phố, cùng các đồng chí trong Ban Thường vụ, trong Thành uỷ, các đồng chí Bí thư, Chủ tịch các huyện, trưởng phó các ngành, giám đốc các doanh nghiệp...


Họ đã cùng tôi đoàn kết, say sưa làm việc không kể ngày đêm, mà đến nay mỗi khi trở lại Hải Phòng, nhiều bà con vẫn còn nhớ, còn nhắc lại, nhiều cánh tay vẫy chào ở khắp nơi. Tôi tự nhận thấy đã làm được một số việc cho thành phố, cho dân, nhưng vẫn còn bao nhiêu ý định dang dở, chỉ với hoài bão xây dựng Hải Phòng sớm trở thành một thành phố văn minh, hiện đại, nhân dân giàu có, văn hoá phát triển...

66. Ngày 23-6-1986 trên đường từ Hải Phòng lên Hà Nội họp, đến cầu Lai Vu lúc 6 giờ chiều, nghe đài Tiếng nói Việt Nam công bố quyết định của Hội đồng Nhà nước bổ nhiệm một số thành viên Hội đồng Bộ trưởng, trong đó có tôi là Bộ trưởng Bộ Ngoại thương...

Tôi lên đến số 8 Chu Văn An, có đồng chí gặp tôi đã chào Bộ trưởng và chúc mừng. Trong lúc đó tôi chỉ buồn vì sau 36 năm tôi lăn lộn sống chết với đất, với người, nay phải rời xa Hải Phòng, chẳng khác gì phải rời tổ ấm.

Đúng 36 năm chẵn! Tháng 6-1950 tôi đến Hải Phòng - Tháng 6-1986 tôi ra đi.

Sao mà bâng khuâng, buồn thế! Nhớ Hải Phòng, nhớ nhiều công trình còn làm dở dang, bao nhiêu nỗi nhớ! Phải chăng đó cũng là cái “tật” của tôi. Khi ở Hải Phòng, mỗi lần thay đổi công tác là tôi rất buồn, có lúc rơi nước mắt, mặc dù được lên chức lên quyền. Tôi làm việc gì, ở đâu tôi cũng yêu mến say sưa với công việc, ra đi còn những công trình làm dở dang nên rất nhớ người, nhớ việc...

Hôm sau đến họp Trung ương, đầu tiên là tôi gặp anh Nguyễn Đức Tâm, phàn nàn việc tôi đã đề nghị không làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương nhưng không được xem xét. Anh Tâm bảo tôi: “Bộ Chính trị bàn kĩ rồi. Không có người. Còn anh làm Bộ nào mà chẳng được...”

Tôi phải chấp hành. Sau một tháng bàn giao, tôi về làm Bộ trưởng Ngoại thương, một lĩnh vực mới, một địa bàn mới...


Chương 7


1. Tháng 7-1986 tôi về Hà Nội nhận nhiệm vụ Bộ Trưởng Bộ Ngoại thương.

Đến Hà Nội được 2 ngày, đồng chí Lê Đức Thọ gọi tôi đến nhà riêng để bảo ban công việc mới. Sau một vài câu hỏi han về sự bàn giao công việc ở Hải Phòng, anh Thọ đi ngay vào công việc. Anh nói:

-Cậu lên Hà Nội, bây giờ chưa nên đi vào công việc của Bộ ngay, mà cần đi xuống cơ sở các tỉnh, thành phố để nắm tình hình. Khi nắm được tình hình các địa phương rồi, sẽ về Bộ nắm tình hình bộ máy tổ chức của Bộ. Vì ở trên Trung ương bảo thủ trì trệ lắm! Nếu không, sẽ bị bộ máy trên này bao vây, mình lại làm theo lối cũ, sa vào tình trạng quan liêu bàn giấy, xa rời quần chúng như một số cán bộ ở địa phương được điều lên Trung ương, không phát huy được tác dụng!

Anh kể tên một số cán bộ làm ví dụ. Tôi cảm ơn anh và làm theo chỉ thị của anh. Nhưng ý tôi hơi khác. Mình ở địa phương mới lên, muốn ở lại Bộ nắm tình hình chung, không riêng gì Bộ mà cả Trung ương, Chính phủ, các ngành, xem cung cách làm ăn ở trên này ra sao, rồi sẽ đi địa phương thì tốt hơn. Tuy vậy tôi vẫn chấp hành ý kiến anh Thọ. Sau một tuần ở Văn phòng Bộ, họp sơ kết 6 tháng hết 3 ngày, Bàn giao công việc với anh Lê Khắc, nguyên Bộ trưởng và nắm sơ qua tình hình Văn phòng Bộ hết 3 ngày.

2.Tôi với anh Lê Khắc biết nhau từ lâu, nên việc bàn giao, trao đổi công việc thuận lợi, vui vẻ. Anh tâm sự với tôi: “Mình được anh Nguyễn Lam, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế cho biết là mình vẫn ở lại làm Bộ trưởng. Hôm nghe thông báo trên đài, mình mới biết ông lên thay mình...”. Rồi anh nói sang chuyện bàn giao công việc.

Anh Lê Khắc nguyên là Phó ban Tổ chức Trung ương, sang làm Ngoại thương, nên anh chú ý nhiều về công tác cán bộ, rồi mới đến công tác nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu. Anh kể đã sang làm Bộ trưởng được 6 năm 6 tháng. Nhưng không làm được nhiều việc rõ rệt, vì quân của “Lí Ban” nó phá quá! Mình với cậu Tu, Thứ trưởng tổ chức hướng dẫn nhân dân trồng được 2 vạn ha cây điều ở Tây Nguyên và Nam Bộ (đào lộn hột) là đáng kể hơn cả. Anh phân tích cho tôi nghe về năng lực trình độ từng Thứ trưởng.

Khi tôi về còn 4 thứ trưởng là các anh: Nguyễn Tu, Hoàng Trọng Đại, Nguyễn Mạnh Cầm, Tạ Cả. Còn các anh Nguyễn Văn Đào, Nguyễn Chanh đã về hưu hoặc chuyển công tác. Rồi anh nói về đội ngũ cán bộ chủ chốt: Vụ Trưởng, Vụ Phó, Chánh Phó Giám đốc các Tổng công ti... Nghe anh em kể lại, anh rất nghiêm khắc với cán bộ, nhất là những cán. bộ quan hệ nhiều với anh Lí Ban, Thứ trưởng Thường trực cũ. Trong bộ có một bài văn vần, do anh em sáng tác:

Thời tiết năm lay Khắc nghiệt ghê
Chanh rụng, Đào rơi, hoa Đại héo!
Cầm về, Tu sửa, chốn vườn hoang...

Anh bảo tôi: - Các tay thứ trưởng này đá lẫn nhau ghê quá! Tôi đã bảo các cậu ấy không khác gì đàn ngựa nhốt chung một chuồng...

Qua anh nói, tôi vừa buồn cười, vừa nhớ mấy anh em bạn làm ngoại thương khuyên tôi đừng nhận làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương, rắc rối lắm, nhất là mình ở nhà quê lên, không “đọ” nổi họ đâu.

Nhưng biết làm thế nào? Tổ chức đã quyết rồi cứ làm đã...

Sau một tuần ở văn phòng Bộ, tôi vào nắm tình hình các tỉnh miền Nam, nơi có nhiều hàng hoá xuất nhập khẩu, các công ti lớn của Bộ cũng đóng ở Thành phố Hồ Chí Minh. Theo đúng chỉ thị của anh Lê Đức Thọ, tôi công tác ở miền Nam khoảng hai tháng. Khi anh Ba sắp mất tôi mới ra Bắc.

Dự lễ tang anh Ba xong (10-9-1986 anh Ba qua đời) tôi tiếp tục đi các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ.

3. Trong dịp đi công tác các tỉnh phía Nam tôi nhận thấy có rất nhiều việc thuộc Bộ Ngoại thương phải giải quyết, trong đó nổi bật việc xuất cà phê sang các nước Liên Xô và Đông Ấu. Tổng số lượng xuất có 15.000 tấn/năm mà năm nào ta cũng không hoàn thành, năm sau phải trả nợ năm trước.

Trong chuyến đi này có đồng chí Tu, Thứ trưởng, đồng chí Nguyễn Xuân Quang, Tổng Giám đốc Tổng công ti Tổng hợp II của Bộ, đồng chí Nhật Hồng, Giám đốc Vietcombank Sai gon, đồng chí Vinh, Chánh văn phòng Bộ, và một số cán bộ của Bộ. Vấn đề bức xúc lúc đó là cà phê sắp đến mùa thu hoạch, nhưng giá thu mua quá rẻ, mua chịu của dân Dak-Lak, Gia Lai, Kontum, nhất là Dak-Lak, thì không thu mua được.


Có gia đình tôi đến thăm còn 4, 5 tấn cà phê vụ trước, đóng vào bao, vào cót, để chờ giá cao mới bán. Trong khi đó giá bán cà phê cho các nước tư bản đang lên, từ 2.000 USD/tấn đến 2.700 USD/tấn. Còn giá cà phê ta mua, dùng hàng hoá đối lưu, tính ra khoảng 600 USD/tấn, mà ta lại mua chịu. Tôi quyết định mỗi gia đình có cà phê bán cho Nhà nước 50%, còn 50% cho bán sang thị trường các nước tư bản. Mọi người lúc đó mới đổ cà phê ra bán chịu cho Nhà nước 50%, còn 50% bán cho thị trường tư bản.

4. Nhân dân phấn khởi, các đồng chí Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Dak-Lak phấn khởi. Tôi nhớ lúc đó đồng chí Tư Trương, Phó chủ tịch UBND tỉnh Dak-Lak phụ trách kinh tế và đồng chí Chính, Giám đốc công ti xuất nhập khẩu tỉnh, vô cùng phấn khởi về chủ trương này. Hàng ngày mua được cà phê là cho chuyển xuống thành phố Hồ Chí Minh để xuống tàu Liên Xô đang đợi ở cảng...

Trong lúc đang say sưa vận dụng linh hoạt việc mua cà phê rất có hiệu quả, tôi được điện của Văn phòng Chính phủ cho biết là phiên họp Thường vụ Hội đồng bộ trưởng anh Đỗ Mười bảo: “Ông Thành đang làm hỗn loạn tình hình mua cà phê ở Tây Nguyên, làm loạn thị trường v.v...”. Tôi lờ đi, không trả lời, vì đó chỉ là thông tin. Văn phòng Bộ cũng điện vào tương tự như vậy.

Hôm sau tôi nhận được điện thoại trực tiếp của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng, hỏi về việc này. Tôi báo cáo tóm tắt tình hình với anh Tô, cách giải quyết cụ thể và có kết quả rõ rệt. Còn ai đó bảo tôi làm loạn thị trường là không có căn cứ, nếu làm sai, tôi xin cách chức Bộ trưởng Bộ Ngoại thương. Anh Tô nói: “Tôi cũng nghe có người nói như vậy, nhưng tôi không nghĩ như vậy. Đồng chí cứ giải quyết xong công việc, về báo cáo...”

5. Không ngờ kết quả vượt quá yêu cầu, đến giữa tháng 12-1986 ta đã giao xong cà phê cho Liên Xô và các nước Đông Âu, không những thế mà còn trả hết nợ cà phê những năm trước tồn đọng lại... Thế mà mãi hết vụ cà phê 1987, cũng theo phương thức năm 1986, còn làm tốt hơn nhiều, do đó mới hết dư luận “ông Thành làm loạn thị trường miền Nam”. Ngày nay thỉnh thoảng gặp lại anh Tư Trương, anh Chính, anh Ba Quang chúng tôi còn nhắc lại câu chuyện xuất cà phê sang thị trường Liên Xô và Đông Âu năm 1986 và 1987.

Ra đến Hà Nội được 2, 3 ngày thì anh Ba mất. Tôi chạy lại gia đình anh. Chị và các cháu xúm lại hỏi tôi đi đâu mấy tháng: “Lúc anh Ba yếu nặng chú không lại?”. Tôi nói chuyện đi công tác miền Nam nên thất lễ với anh Ba trong những ngày cuối cùng. Cả nhà anh Ba lo lắng, nhất là mấy cháu gái: Cừ, Muội, Hồng, các con rể Lê Bá Tôn, Hồ Ngọc Đại. Nói là cháu, nhưng các cháu chỉ kém tôi 5,7 tuổi. Tất cả xúm lại hỏi tôi và lo lắng:

- Ba cháu mất rồi, liệu họ... có giết gia đình nhà cháu không?
Tôi nói:
- Tại sao các cháu lại có ý nghĩ lạ như vậy? Ai dám hại nhà mình? Ba cháu là con người vĩ đại, một nhà hiền triết mới kế nghiệp được Cụ Hồ, giải phóng miền Nam. Không có Ba làm sao giải phóng được miền Nam, thống nhất được đất nước, không để xảy ra lắm máu? Ai dám hại gia đình nhà mình? Đừng nghĩ linh tinh. Đảng mình là Đảng vĩ đại, nhân dân yêu quý Ba các cháu, sao lại nghĩ vớ vẩn như vậy? Các cháu yên tâm, chú nghĩ không bao giờ có chuyện đó. Còn bao nhiêu người có mặt... ai dám làm bậy?

6. Bấy giờ các cháu mới yên tâm. Hồ Ngọc Đại nói chen vào:
- Còn bao nhiêu các chú... Họ chẳng dám làm bậy đâu!
Sau đó, tôi mới tìm hiểu, tại sao có chuyện hoảng loạn tại gia đình anh Ba như vậy, khi anh qua đời... Đó là những người có dụng ý chia rẽ, nói phe cánh anh Lê Đức Thọ và Trần Xuân Bách định ám hại gia đình anh Ba. Tôi nghĩ không bao giờ có thể như thế được. Đảng ta được Bác Hồ xây dựng và lãnh đạo đội ngũ cốt cán cách mạng, đã làm nên bao kì tích, không thể có những hành động “đồi bại” như thế được. Mấy ngày đó tôi thường xuyên lại nhà anh Ba, để ổn định tư tưởng cho các cháu, nhất là cháu Cừ, vợ đồng chí Lê Bá Tôn, lo lắng nhất...

Tôi cũng chỉ mới biết có sự bất hoà giữa anh Ba và anh Lê Đức Thọ, cách đấy khoảng 4, 5 tháng. Vì tôi ít quan lâm, tôi tin các anh đã có quá trình rèn luyện, lại là người gần gũi Bác Hồ, chắc chắn các anh luôn luôn đoàn kết bên nhau để thực hiện và xây dựng sự nghiệp Bác để lại.

Khoảng tháng 5-1986 tôi đến thăm anh Ba ở Hồ Tây, gần đến khu biệt thự tôi gặp xe anh Thọ đi ra. Tôi vào thăm anh Ba, có anh Bùi San ở đó. Thấy tôi đến, anh Bùi San chào anh Ba ra về. Tôi bắt tay anh Bùi San và vào thăm anh Ba. Anh Ba tỏ vẻ hơi bực tức nói:
-Đấy nó đấy, tôi vừa đuổi nó ra rồi...
Tôi suy nghĩ mãi mới biết là xe anh Thọ vừa ra... Tôi không nói gì, chỉ thăm sức khoẻ anh, nói tóm tắt một vài việc lớn của Hải Phòng để báo cáo với anh, vì lúc này tôi thấy anh Ba mệt nhiều. Tôi muốn để anh nghỉ ngơi, nên xin phép ra về. Nhưng anh Ba bảo tôi ngồi lại nói chuyện, rồi anh nói:

7- Mấy anh lại đây bảo tôi viết di chúc, tôi nói không cần. Việc viết di chúc chỉ dành riêng cho Bác. Còn tôi, tôi nghĩ Trung ương các đồng chí đã trưởng thành cả rồi, viết di chúc chỉ gây khó khăn cho các đồng chí. Mình nói thế này, nhưng khi Trung ương bàn lại khác, sinh ra phức tạp, mất đoàn kết. Các đồng chí viết sẵn di chúc bảo tôi kí, tôi không kí.

Rồi anh bảo tôi:

-Tôi đã bàn với một số đ/c Bộ Chính trị, kì Đại hội này đưa anh Linh hoặc anh Võ Chí Công thay tôi làm cả khoá hoặc nửa khoá rồi để đồng chí Thành làm. Còn anh Tố Hữu sau đổi tiền không còn khả năng làm Tổng Bí thư...

Tôi đợi anh Ba nói hết, và suy nghĩ. Những lần trước, khi về thăm Hải Phòng hoặc anh gọi tôi lên nhà chơi, anh Ba có nhắc vấn đề này, tôi đều nói:

- Nước ta còn ảnh hưởng lễ giáo phương Đông, lớp trẻ không thể qua mặt các đồng chí lão thành đi trước mình hàng thập kỉ...

Anh Ba ngắt lời tôi, mỉm cười và nói:
-Tôi đã bàn với một số đồng chí Bộ Chính trị, đồng chí Thành thì các đồng chí đồng ý...
Lúc đó anh mệt, tôi không dám nói dài với anh, chỉ nói gọn:
-Rất cảm ơn anh, nhưng theo tôi nghĩ thì rất khó...

Anh lại vui vẻ đứng dậy, vỗ vai tôi và nói: “Cứ làm việc cho tốt...”. Tôi chào anh ra về, chỉ nghĩ nhiều về bệnh tật của anh, và cũng hơi buồn vì trong các anh đã có sự rạn nứt... sẽ gây ảnh hưởng xấu đến đoàn kết nội bộ của Đảng.

Sau lễ tang Tổng Bí thư Lê Duẩn, tôi làm việc ở Bộ ít ngày, lại tiếp tục đi nắm tình hình các tỉnh thành phố phía Bắc. Trong lúc đó tình hình chuẩn bị Đại hội 6 khẩn trương. Đồng chí Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bổ sung vào Bộ chính trị và Thường trực Ban Bí thư, cùng chuẩn bị Đại hội Đảng, chủ yếu là về văn kiện Đại hội, còn chuẩn bị tổ chức cán bộ do anh Lê Đức Thọ phụ trách.

Đi các tỉnh miền Bắc, nắm tình hình một vài ngày, tôi lại về Bộ làm việc. Các tin tức về việc chuẩn bị Đại hội 6 rất sôi nổi, nhất là vấn đề nhân sự Đại hội. Những đồng chí thân thiết với tôi đến chơi, thông tin cho tôi biết về thế lực chống tôi, đang hoạt động rất ráo riết với mục tiêu:

- Số một: đánh bật tôi ra khỏi Trung ương
- Thứ hai: phải làm mất rất nhiều phiếu để tôi không được giới thiệu vào Bộ Chính trị. Đồng thời các đồng chí bảo: Giá là các anh khác, họ sẽ ở lại Hà Nội theo dõi tình hình để đối phó. Tôi cứ bỏ nhiệm sở đi về các tỉnh nắm tình hình, đó là mắc mưu anh Lê Đức Thọ.

8,Tôi cười và nói: “Mình đã có quan điểm của mình rồi...”. Có đồng chí còn nóng với tôi, nói: “Ông định bỏ chúng tôi hay sao?” Thế mới khó. Tôi phân tích lại cho các đồng chí nghe: “Chúng ta phải làm cho thành công chủ nghĩa xã hội, dân giàu nước mạnh, không bị mất nước. Chứ tranh giành chức vụ, mất đoàn kết thì rất lôi thôi...”.

Trong lúc gần đến Đại hội, đồng chí Tạ Cả, thứ trưởng phụ trách tổ chức đến nói với tôi: “Một đồng chí lãnh đạo lâu năm ở Ban Tổ chức Trung ương, nói qua đồng chí cán bộ Ban Tổ chức Trung ương theo dõi Bộ Ngoại thương, bảo tôi nói lại với anh: Anh phải rất cảnh giác với những lời khen của anh Mười. Tất cả đều là “đãi bôi”. Anh Tạ Cả là đồng chí quen biết tôi từ lâu, nay đã qua đời, còn hai đồng chí kia vẫn khoẻ mạnh và đang sinh sống ở Hà Nội. Tôi nói với anh Tạ Cả, cảm ơn hai đồng chí đã thông tin cho tôi biết để cảnh giác... Còn tôi quan hệ với anh Mười vẫn bình thường, không tỏ ra một sự khác biệt nào, vẫn như khi tôi còn là cán bộ dưới quyền trực tiếp của anh ấy.

Anh Trường Chinh tuy làm Tổng Bí thư, nhưng tôi cảm thấy chung quanh anh có nhiều người không thực lòng ủng hộ anh. Anh chỉ chủ trì chủ yếu về văn kiện, Báo cáo chính trị trước Đại hội... Tôi cảm thấy anh bị lấn át. Anh thường gọi tôi sang nhà trao đổi những nội dung “đổi mới”, nhất là cách quản lí, lí luận về kinh tế thị trường, kinh tế kế hoạch hoá, hỏi kinh nghiệm xây dựng kinh tế của Nhật Bản và một số nước khác.

Khi trao đổi về nhân sự, anh bảo tôi rằng việc ấy anh Thọ chuẩn bị, chưa đưa ra bàn ở Bộ Chính trị, còn phân tán ý kiến ở những vị trí chủ chốt. Suy nghĩ một lát, anh nói với tôi:

-Nếu tôi tiếp tục làm Tổng Bí thư, tôi đề nghị anh Văn làm Chủ tịch nước, đồng chí phụ trách bên Chính phủ.

Tôi nghĩ có thể anh Ba đã bàn với anh Trường Chinh, hoặc tự anh Trường Chinh chọn tôi, tôi không rõ. Tôi thưa với anh Trường Chinh là:

-Theo tôi nắm được tình hình thì thế lực không muốn để anh làm tiếp Tổng Bí thư rất đông. Tôi thấy rất khó đấy! Tôi xin chân thành cảm ơn anh và đề nghị nên cử anh Mười làm Thủ Tướng vì anh Mười đã làm Phó Thủ tướng lâu năm!

Anh Trường Chính nghiêm nét mặt, tỏ vẻ không đồng ý và nói:
-Anh Mười anh ấy võ biền lắm, đồng chí thấy đấy? Các cuộc họp, tôi nói, anh ta thường chẹn họng tôi.
Và anh nói thêm một vài nhận xét khác về anh Mười...

9.Tháng 11-1986 Trung ương họp để thông qua các văn kiện chính thức đưa ra Đại hội 6. Tôi đang họp, chiều về thì được đồng chí Trung Thành, chuyên viên cao cấp của Ban Tổ chức Trung ương, làm công tác Tổ chức cán bộ từ 1951, theo dõi vụ việc của tôi cho biết là có thư tố giác tôi khai man lí lịch gồm 9 điểm, trong đó anh Thọ giao cho phải xác minh ngay hai vấn đề mới là: ngày bị bắt và ngày được tha từ Côn Đảo về. Tôi hỏi anh Trung Thành có phải là anh Tô Duy tố giác tôi? Anh Trung Thành hỏi lại tôi:
- Sao anh biết?
-Tôi biết lâu rồi, anh em Hải Phòng nói cho tôi biết, anh Tô Duy, anh Thắng, anh Ái đi sưu tầm hàng năm nay về việc tôi bị bắt, bị tù ở Hải Phòng. Quá nhiều người biết, họ đều nói đến tai tôi. Tôi vẫn còn nghi ngờ, vì tôi đánh giá anh Tô Duy không đến nỗi hành động trái lương tâm như vậy! Nhưng từ hôm anh Đức Lạc, Trưởng ban Tổ chức Thành uỷ Hà Nội, Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội (bạn tù với tôi ở trại giam Cát Bi) lại tôi chơi, nói chuyện tỉ mỉ về việc này, tôi mới tin là anh Tô Duy đã làm việc ấy.

Anh Trung Thành bảo tôi đúng là anh Tô Duy. Tôi cung cấp thêm cho anh Trung Thành những vấn đề mới của anh Tô Duy nêu ra và thư của anh Hoàng Chữ gửi cho anh Đỗ Mười. Tôi chỉ được anh Trung Thành ghi sổ tay nói lại, tôi không được xem bản chính.

Mãi sau ngày đối chất 26-2-1993 tôi mới có bản photocopy thư vu khống tôi của anh Tô Duy và anh Hoàng Chữ. Anh Trung Thành và một số cán bộ phải làm khẩn trương hơn một tháng mới có báo cáo chính thức với anh Lê Đức Thọ là mọi việc đã rõ ràng như kết luận 897 ngày 24-10-1984 do anh Võ Chí Công kí.

Thế là ngón đòn vu khống chính trị do anh Tô Duy làm tham mưu bị bước đầu bẻ gãy. Nhưng chưa phải kết thúc. Họ còn đeo đuổi vấn đề này cho đến hôm nay, từng thời kì hành động của họ, tôi sẽ trình bày tiếp ở những phần sau...

10. Trong khi đó những anh chị em cùng cánh với anh Tô Duy dùng cơ sở quen biết của mình ở các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương ở toàn quốc, thông tin cho các đoàn Đại biểu đi dự Đại hội về những tin thất thiệt liên quan đến lí lịch của tôi. Có những đồng chí Đại biểu đã phẫn nộ về những hành động tuyên truyền xuyên tạc bỉ ổi của họ, như chị Ba Thi đoàn Đại biểu thành phố Hồ Chí Minh, anh Quý - uỷ viên Thường vụ Phó chủ tịch tỉnh Hải Hưng, anh Đức Lạc - Hà Nội v.v... Họ đã trực tiếp gặp tôi thông tin cho biết, và các đồng chí đã phản bác lại những luận điệu vu khống trong các đoàn Đại biểu đi họp Đại hội.

Riêng ở Hải Phòng, Đại hội Đảng Thành phố bầu đại biểu đi họp Đại hội 6 (lúc đó các Uỷ viên Trung ương cũng phải do Đại hội cấp dưới bầu, không như hiện nay Uỷ viên Trung ương là đại biểu đương nhiên) do những người thuộc phe cánh anh Tô Duy, họ tuyên truyền lôi kéo được một số đại biểu, nên tôi bị mất hơn 40 phiếu bầu cử Đại biểu đi họp Trung ương ở Đại hội Hải Phòng.

Đến Đại hội Đảng toàn quốc, họ tiếp tục tìm cách tuyên truyền xuyên tạc. Anh Tô Duy công khai phát biểu ở đoàn, vu khống lí lịch tôi nhưng đã bị Đoàn ngăn lại, không cho phát biểu vô nguyên tắc.

Họ rỉ tai, nhỏ to thông tin xuyên tạc, vận động các đại biểu Đại hội không bầu cho tôi. Nhiều đồng chí Đại biểu thông tin cho tôi biết. Không những thế, họ còn dung túng cho bà Dung đeo băng trước ngực “đả đảo Đoàn Duy Thành” được đi chung quanh nhà họp Đại hội Ba Đình. Bà Dung là người thế nào? Bà Dung là đảng viên và là mậu dịch viên công ti bách hoá Hải Phòng, bị bệnh thần kinh phân liệt, có mâu thuẫn với chị Đỗ Thị Mận, Phó Chủ nhiệm công ti, là vợ đồng chí Đặng Toàn, Chủ tịch UBND thành phố. Đã nhiều năm bà Dung đến công ti đánh chửi chị Mận, đeo băng đả đảo anh Đặng Toàn. Tôi được phân công giải quyết vụ này. Xét về đời sống bà Dung, không có chồng con, nhà ở không có, phải đi ở nhờ, tôi đã dàn xếp với công ti xếp cho bà Dung một gian nhà ở, nâng cho một bậc lương v.v...

11.Bà Dung không đến cơ quan gây sự đánh chửi chị Mận được khoảng nửa năm, sau đó lại đến tiếp diễn, rồi đi khắp phố chung quanh công ti bách hoá chửi vợ chồng anh Toàn chị Mận. Anh Đặng Toàn lại chạy đến tôi cầu cứu. Tôi mời các đồng chí Bí thư Đảng uỷ công ti và Giám đốc công ti, giao nhiệm vụ phải kiểm điểm và có hình thức kỉ luật với bà Dung. Thế là bà Dung bỏ việc đi kiện khắp nơi, và đeo băng đả đảo tôi.

Ban Tổ chức Đại hội nhiều người biết rõ căn nguyên việc này, đáng lẽ phải dẹp đi mới phải, trái lại cho đó là “dân chủ”, “quyền công dân”, cho đến nơi tiếp dân của Đại hội, đeo băng đả đảo tôi, được đi ngoài đường quanh Hội trường Ba Đình nhằm làm cho các Đoàn đại biểu nhìn thấy. Đó cũng là một việc làm của nhóm anh Tô Duy. Mặc dù khi tỉnh táo, bà Dung vẫn nói tôi là ân nhân của bà ta. Nghĩa là các anh ấy không thực hiện được việc gạt tôi ra khỏi danh sách giới thiệu của Trung ương, thì dùng đủ mọi thứ có thể, tác động vào lá phiếu, không bầu tôi vào Trung ương khoá 6, để đạt được mục tiêu thứ 2 của các anh ấy đề ra.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 khai mạc. Cũng như các lần Đại hội trước, chủ yếu là bàn nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, còn bàn về báo cáo chính trị, nhiệm vụ kế hoạch 5 năm đã bàn kĩ ở Đại hội các cấp, đến Đại hội chính thức chỉ bàn những vấn đề lớn còn tồn tại đưa ra thảo luận. Thời gian còn lại là bàn về tổ chức nhân sự.

Trong Đại hội, anh Vũ Oanh nói với tôi:
-Anh Lê Đức Thọ “mót” làm Tổng Bí thư lắm đấy!

12.Lúc đó tôi mới biết. Vì nhiều lần anh Thọ gặp tôi đều nói là: “Anh bị nhiều bệnh không thể đảm đương được nhiều công việc”. Anh Thọ cũng nhiều lần hỏi tôi Tổng Bí thư nên là ai, tôi đều trả lời là tùy Bộ Chính trị quyết định, giới thiệu ra Trung ương chúng tôi sẽ bầu thôi. Ngay trong Đại hội, khi anh Vũ Oanh cho tôi biết ý anh Thọ, tôi cũng vẫn trả lời anh Thọ như vậy.


Hôm Ban Chấp hành bàn về nhân sự, anh Thọ gọi tôi sang nhà riêng hỏi tôi về chuyện các đồng chí Trung ương bàn nhân sự Tổng Bí thư thế nào, đã giới thiệu ai chưa? Tôi báo cáo anh Thọ, tổ Trung ương của tôi các đồng chí đều nói không nắm được cụ thể, nên không giới thiệu ai, đợi Bộ Chính trị giới thiệu. Anh Thọ lại hỏi tôi: “Ý cậu thế nào?”.

Tôi cũng báo cáo anh Thọ như lần trước và nói thêm vấn đề vị trí Tổng Bí thư rất quan trọng, đặc biệt trong lúc này là phải có uy tín mới qui tụ được toàn Đảng, nhất là anh Ba mới qua đời. Còn chọn ai tùy tiểu ban nhân sự chọn và báo cáo Bộ Chính trị. Tôi không nắm được cụ thể nên không dám giới thiệu cụ thể ai cả. Anh Thọ không nói gì thêm và hỏi sang việc khác...

Khi Đại hội đang họp ở các Đoàn và Tổ, (Đoàn Hải Phòng với Hà Nội là một Tổ, họp ở Văn phòng Ban Tổ chức Trung ương), tôi được đồng chí Đỗ Mười gọi ra ngoài và cùng sang số 4 Nguyễn Cảnh Chân, Văn phòng Trung ương Đảng. Đồng chí dẫn tôi vào một phòng. Khi đi trên đường tôi suy nghĩ không rõ anh Mười có việc gì. Tôi đoán có lẽ anh Mười làm công tác tư tưởng cho tôi để rút lui khỏi danh sách Trung ương giới thiệu.

Một số đồng chí thôi Uỷ viên Trung ương khoá này, đều được từng đồng chí uỷ viên Bộ Chính trị gọi đến làm tư tưởng để rút lui. Tôi nghĩ có lẽ tôi cũng vậy. Nhưng khi vào một phòng, ngồi nói chuyện, anh Mười nêu vấn đề anh Võ Nguyên Giáp (anh Văn) ra nói về lí lịch anh Văn, năm 16 tuổi đã được thực dân Pháp cho sang Pháp học 6 tháng. Anh Mười bảo tôi về nói cho Đoàn Đại biểu Hải Phòng biết và những ai quen biết ở Đoàn khác cũng nói cho các đồng chí ấy biết... Rồi anh Mười đi ngay.

13. Tôi lại trở lại tổ họp tiếp. Tôi suy nghĩ, không hiểu tại sao lúc này anh Mười lại nêu vấn đề lí lịch anh Văn ra. Việc này anh Trường Chinh đã nói với tôi mấy lần, và anh Trường Chinh đã kết luận về tiểu sử anh Văn từ năm 1941 - 1942, kể cả việc làm con nuôi Marti, Chánh mật thám Đông Dương, cũng được kết luận là không có, chỉ do những phần tử xấu tung ra.

Nay lại có vấn đề đi Pháp học 6 tháng. Tối hôm đó tôi đến nhà anh Trường Chinh hỏi việc này anh Trường Chinh bảo tôi: “Làm gì có việc đó...”. Tôi về nhà, kể lại chuyện cho nhà tôi nghe. Lúc này chúng tôi ở nhờ một phòng của Bộ Ngoại thương. Tôi mới lên, nhà tôi đi theo để nấu nướng cho và nhà tôi cũng là đảng viên lâu năm, rất quan tâm đến việc một số người vu khống tôi. Nghe tôi kể xong, nhà tôi nói ngay:

- Em đã nói với anh nhiều lần, anh thương người và tin người quá đáng, lại thêm tính “phổi bò”, có gì nói hết. Sống ở Hà Nội họ khôn lắm, anh phải đề phòng. Còn việc anh Mười nói với anh, anh cứ lờ đi. Có khi anh Mười chỉ tung ra tin như thế, để anh biến thành cái loa cho anh ấy. Anh Văn và những người thân anh Văn chỉ biết anh đi tuyên truyền xuyên tạc lí lịch anh Văn, họ sẽ quay sang đánh anh. Như vậy anh Mười bắn một phát tên, được cả hai đích.

Tôi cười và khen nhà tôi:
- Em cảnh giác hơn anh.
Nhà tôi bảo:
-Từ hôm cái ông tổ chức báo cho anh biết ông Mười khen anh chỉ là “đãi bôi” thôi, nên em thấy anh Mười nói gì với anh mà em biết, em đều phải suy nghĩ xem ý tứ anh Mười thế nào, không tin ngay như anh đâu.

14. Khi bầu cử Ban Chấp hành Trung ương, tôi vẫn trúng Trung ương chính thức, nhưng phiếu thấp, chỉ hơn đồng chí thấp nhất cuối cùng (đồng chí Lữ Minh Châu có 42 phiếu). Như vậy nhóm người chống đối vu khống tôi đạt được yêu cầu. Với hơn 50% số phiếu bầu thì ít ai giới thiệu vào Bộ Chính trị, thường phải là 70% trở lên. Nhưng theo tôi được biết cũng có nhiều đồng chí uỷ viên Trung ương giới thiệu tôi vào Bộ Chính trị, nhưng ban nhân sự không giới thiệu.

Đến tháng 1-1987, Trung ương bầu bổ sung Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Phó Thủ tướng), Bộ Chính trị lại giới thiệu tôi để đưa ra Trung ương lấy ý kiến. Lúc này tôi thấy anh Lê Đức Thọ chú ý tôi khác thường.

Ngay hôm họp Bộ Chính trị tôi được mời dự, anh Thọ nói:
-Anh Thành nay đã là Phó Thủ tướng, cần nắm tình hình và đi vào công việc...
Tôi rất bỡ ngỡ, hỏi các đồng chí Tổ chức Trung ương, vì tôi không biết gì về tin này cả. Các đồng chí Tổ chức cho biết là Bộ Chính trị đã nhất trí tất cả rồi, trừ anh Mười, nói để suy nghĩ thêm, chưa có thư trả lời chính thức.

Đến ngày 17-2-1987 tôi được Hội đồng Nhà nước phê duyệt là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tôi vẫn kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương vì chưa có người thay.

Khi tôi nhận thêm nhiệm vụ mới, phụ trách lưu thông phân phối, thì cũng là lúc giá-lương-tiền đang bê bối, kinh tế khủng hoảng nghiêm trọng, lạm phát phi mã 780% năm 1986.

15. Tôi cùng với văn phòng Trung ương Đảng và Văn phòng Chính phủ chuẩn bị dự thảo Nghị quyết Trung ương lần thứ hai khoá 6, họp vào tháng 4-1987. Tôi suy nghĩ rất nhiều. Mình mới lên nhận nhiệm vụ, ngân sách cạn kiệt, dự trữ ngoại tệ tại Ngân hàng Nhà nước chỉ còn hơn 1 triệu $US. Lương thực rất khó khăn. Liên Xô và các nước Đông Âu viện trợ rất hạn chế... Tôi chủ trì biên tập dự thảo Nghị quyết với nội dung 4 giảm:

-Giảm bội chi ngân sách.
-Giảm tốc độ lạm phát.
-Giảm tốc độ tăng giá.
-Giảm khó khăn về đời sống của người ăn lương, của lực lượng võ trang và nhân dân lao động nói chung.

Các biện pháp đẩy mạnh sản xuất, nới lỏng đầu bán ra, giá nguyên liệu bán cho xí nghiệp vẫn giữ giá như cũ, nhưng bán ra theo giá thị trường, nhập một số hàng tiêu dùng và cho phép cán bộ công nhân viên đi công tác nước ngoài được mua hàng hoá theo tiêu chuẩn quy định không phải nộp thuế, để tăng thêm hàng hoá đang khan hiếm.

Về nông nghiệp:

- Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo chỉ thị 100, cải tiến quản lí nông nghiệp theo hướng mở rộng khoán ra toàn quốc.

Sau khi Nghị quyết được chính thức thông qua tháng 4-1987, tổ chức Hội nghị phổ biến cho cán bộ chủ chốt toàn quốc ở Hội trường Ba Đình, tôi phổ biến xong, có một số nhà kinh tế, và anh em hỏi tôi: trong điều kiện khó khăn này lấy gì mà làm được? Có nhà kinh tế bảo tôi là nên sửa 4 tăng -như đồng chí Trần Nhật Quang v.v.


Mọi người hoan nghênh nghị quyết, nhưng không biết dùng cách gì mà giảm được. Khi tôi đến Câu lạc bộ Thăng Long nói chuyện, các đồng chí lão thành cách mạng cũng lo lắng cho tôi. Phụ trách lưu thông phân phối, ngân hàng, tài chính lúc này là vô cùng khó khăn. Tôi nói vui và cũng là lời hứa hẹn: “Nếu thành công, sang năm 1988 tôi sẽ đến báo cáo với các cụ”. Không những lo lắng, mà có người làm ca dao châm biếm Nghị quyết Trung ương 2:

Trăm năm trong cõi người ta,
Đầu vào thì cứng, đầu ra thì mềm
“Hộp đen” thì cứ phồng lên,
Cấp dưới cứ dẫy, cấp trên cứ đè

Anh Phạm Hùng gặp tôi nói: “Nghe người ta nói, anh làm bài ca dao này phải không? Vì bài này từ Hải Phòng mà ra”. Tôi thưa, với anh là tôi không làm bài này, nhưng khi anh em đọc cho nghe, tôi có sửa vài từ cho bớt “tục”.

Ngay kì họp Quốc hội tháng 7-1987 anh Nguyễn Văn Linh, anh Phạm Hùng đều có bài vịnh lại bài ca dao trên, đọc trước Quốc hội cho Đại biểu cùng nghe.

Tôi làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được 6 tháng thì Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng nghỉ, anh Phạm Hùng lên thay vào tháng 7-1987.

16. Trong thời gian làm việc với anh Tô (tên thân mật của anh Phạm Văn Đồng), anh hay bàn chuyện trọng đại quốc gia với tôi. Anh biết tôi đã là cán bộ đón anh ở hội nghị Fông-ten-nơ-bơ-lô từ Pháp về qua ga Lai Khê, quê tôi; và sau đó cũng tham gia việc chuẩn bị đưa, đón anh qua đường 5 thuộc đất Kim Thành để đi Việt Bắc. Sau đó tôi lại cũng tù ở Côn Đảo, dù tôi là lớp tù sau anh nhiều thập kỉ và như người xưa thường nói: “Đồng bệnh tương lân”, anh cũng bị bệnh phổi lúc 17, 18 tuổi rất nặng, tưởng không qua được.

Tôi thì bị địch đánh gẫy xương sườn số 9, sưng phổi, nước vàng chảy ròng rã 5 năm mới hết. Bởi vậy trong các cuộc đến làm việc với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, tuy anh hơn tôi 26 tuổi nhưng anh em bàn chuyện rất vui. Anh đáng tuổi đẻ ra tôi, nhưng tôi vẫn gọi anh bằng anh hoặc Chủ tịch, hoặc Thủ tướng. Có lúc vui chuyện, tôi nói: “Trong cái nhà Chủ tịch phủ, bao nhiêu năm không trang bị lại gì cả, vẫn những quạt trần Marelly của Ý sản xuất, kêu “cọc..., cọc... cọc”, hố xí, vệ sinh cũng vậy, tất cả đều thể hiện tính “bảo thủ không đổi mới”.

Anh Tô cười khà khà vui vẻ nói: “Các đồng chí còn trẻ, phải đổi mới cả chỗ làm việc này nữa mới được” rồi anh lại cười. Tôi vẫn nghĩ anh là nhà “hiền triết”, nhà ngoại giao, hơn là nhà quản lí. Có hôm ngồi chờ đón khách ngoại ở phòng khách lớn của Chủ tịch phủ, tôi hỏi anh kì họp Quốc hội tháng 7-1987 anh sẽ nghỉ, anh đã chọn xong người thay chưa? Anh bảo: “Còn đang bàn...”.

Tôi hỏi: “Anh Đỗ Mười thế nào?” Anh suy nghĩ đến 2,3 phút, rồi trả lời gọn có 3 từ: “Chỉ có phá!” Tôi ngồi yên không hỏi gì thêm, anh cũng không nói gì thêm... rồi chúng tôi chuyển sang câu chuyện khác, khi khách chưa đến.

17. Cách đánh giá của các anh lãnh đạo chủ chốt với anh Mười ra sao tôi đều biết cả, từ anh Lê Duẩn, anh Trường Chinh, anh Lê Đức Thọ, anh Nguyễn Văn Linh... Nhưng anh Đỗ Mười vẫn làm cả Thủ tướng và Tổng Bí thư hơn 10 năm. Nhất là anh Phạm Văn Đồng biết rất rõ anh Mười, anh lại là người qua đời sau các anh trên. Sau này tôi mới hiểu một chi tiết nhỏ, là anh Mười làm thêm khoá thứ hai Tổng Bí thư, anh Tô phản ứng rất gay gắt.

Tuy thế phản ứng của nhà lãnh đạo có tầm cỡ, nhà hiền triết, nhà ngoại giao cũng khác những người khác. Anh đã nói với 5 đồng chí là cấp tướng, nếu anh Mười không chịu thôi giữa nhiệm kì các đồng chí phải tham gia “hạ” anh Mười xuống... Việc này qua cơ quan nắm tin tức, anh Đỗ Mười đã được báo cáo lại. Như vậy sự phản ứng của anh Tô cũng quyết liệt. Nhưng lời nói việc làm của anh nhẹ nhàng, không thô bạo như những người thiếu học vấn...

Tháng 7-1987 Quốc hội chuẩn y để anh Tô nghỉ, vì tuổi cao. Anh Phạm Hùng thay làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Anh Đỗ Mười thôi giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về thường trực Ban Bí thư.

Tôi cũng có số “hên” và không “hên”. Làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng có 15 tháng, một nửa thời gian làm với Chủ tịch Phạm Văn đồng, một nửa thời gian làm với Chủ tịch Phạm Hùng. Tôi làm việc với hai Chủ tịch họ Phạm để lại trong tôi nhiều kỉ niệm, nhiều “dấu ấn” sâu sắc, không bao giờ quên. Tôi cũng học được ở hai anh những kinh nghiệm trường đời, nhân tình thế thái, mà cả hai đã trải qua. Các anh đã kể lại mọi chuyện cho tôi nghe, như tài sản quý bàn giao cho thế hệ trẻ. Ba anh em cùng tù Côn Đảo. Anh Phạm Hùng còn được đọc báo cáo của tôi năm 1953 khi anh làm Bí thư Đặc khu uỷ miền Đông Nam Bộ.

18. Cuối năm 1987, có cuộc họp liên tịch giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng để kiểm điểm thực hiện nghị quyết 2 của Trung ương và phương hướng thực hiện tiếp...

Tôi trình bày báo cáo kiểm điểm thực. hiện nghị quyết 2 và biện pháp thực hiện tiếp. Về biện pháp có nhiều vấn đề, tôi nêu một vài vấn đề chủ yếu:

-Xuất Nam, nhập Bắc về lương thực, đỡ tốn phí về vận tải.
-Xoá bỏ các trạm ngăn sông, cấm chợ, cho lưu thông hàng hoá trong cả nước, cả nước là một thị trường thống nhất.
-Nhập vàng, kinh doanh vàng bạc, tạo ra thị trường vàng, để vàng làm “kim bản vị”.
-Chấp nhận đồng đô-la Mỹ được chuyển đổi theo giá thị trường, có hướng dẫn của Ngân hàng...v.v.

Thảo luận trong 2 ngày, các vấn đề khác được chấp nhận, riêng nhập vàng bị anh Đỗ Mười phản đối. Khi tôi trình bày xong báo cáo, anh Phạm Hùng đứng dậy cười vui vẻ:
-Ông Thành chơi sang nhỉ, nhập vàng cơ à?

19. Khi kết luận Hội nghị, anh Nguyễn Văn Linh - Tổng Bí thư chỉ kết luận những vấn đề không có ai phản đối, còn vấn đề “vàng” anh không nhắc đến.

Kết thúc hội nghị tôi lo quá. Vì vấn đề nhập vàng tuy là một mặt hàng nhập, nhưng nó có nhiều ý nghĩa quan trọng:

-Giá vàng trong nước và thế giới chênh lệch nhau lớn. Ta cấm tư nhân kinh doanh vàng bạc, nhà nước được phép kinh doanh, nhưng không được phép nhập vàng thỏi, chỉ khai thác tại nội địa được mỗi năm khoảng 2 tấn vàng cốm (sa khoáng), đem ra kinh doanh, nên giá vàng trong nước và thế giới chênh lệch nhau ba lần. Nhập vàng sẽ lãi lớn, bổ sung ngân sách, chống được lạm phát.

-Kinh doanh vàng bạc, tạo ra mặt hàng mới phong phú, bổ sung cho quỹ hàng hoá. Mặt hàng đặc biệt này được nhân dân ta ưa thích, dùng vàng làm đồ trang sức, tích trữ vàng...

-Phá bỏ được thị trường coi vàng như thứ cấm kị, chỉ có giai cấp giàu có mới dùng, còn người lao động không được dùng, tự mình đẻ ra kì thị dân lộc mình, coi vàng là thứ ghê gớm quá.

Trong thời tạm chiếm ở phía Nam, người dân bán trầu cau cũng có hàng đấu vàng. Như mẹ vợ chú Đào Hữu Thăng, di cư vào miền Nam, chồng chết, chỉ bán trầu cau, khi giải phóng gả chồng cho con gái lấy chú Đào Hữu Thăng là bạn tù của tôi, bà mẹ vợ cho con gái một đấu vàng toàn nhẫn là nhẫn, đào ở gốc cây đu đủ lên. Chú Thăng được một đấu, cân được hơn 1 kg, khoảng 30 cây.

Khi tôi vào chơi nhà ở thành phố Hồ Chí Minh, chú Thăng mở tủ cho tôi xem. Thế thì việc kinh doanh vàng bạc để mở rộng kinh doanh, trước hết quốc doanh thu lãi cho ngân sách nhà nước, sau cho tư nhân kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, ta có thêm dự trữ vàng trong dân, vị thế kinh tế, vị thế chính trị của nước ta có kim loại quý bảo lãnh cho nền kinh tế, điều đó rất cần thiết cho kinh tế thị trường.

20. Đêm về nằm ngủ tôi buồn quá. Sáng hôm sau, tôi lại trình bày tiếp với anh Phạm Hùng. Anh Hùng bảo tôi: “Sang báo cáo anh Linh, còn tôi đã đồng ý với anh từ hôm anh trình phương án”. Tôi đề nghị anh Phạm Hùng bảo anh Sáu Dân cùng đi với tôi sang báo cáo với anh Linh cho mạnh. Anh Phạm Hùng xua tay: “Đừng, đừng, mình anh sang là đủ. Anh Sáu cùng đi có khi lại không hay”... Hôm đó tôi mới hiểu giữa anh Linh và anh Sáu có vấn đề với nhau. Sau này tìm hiểu, tôi mới biết được ý của anh Phạm Hùng.

Tôi sang trình bày với anh Linh ngay. Vì vấn đề này tôi đã suy nghĩ từ lâu, nhất là những lí luận về tài chính tiền lệ của Keynes, nhà kinh tế tư bản nói nhiều về kinh tế thị trường và sự can thiệp của nhà nước vào thị trường như thế nào.

Tôi đến nhà anh Linh. Sau 15 phút tôi trình bày, anh Linh đồng ý ngay. Tôi vội nói:

- Hôm qua sao anh không kết luận cho tôi dễ làm việc. Vì có quyết định tập thể của Bộ Chính trị rất quan trọng.

Anh Linh ngắt lời tôi:

-Ấy chết, nếu hôm qua tôi kết luận, có người phản đối thì hôm nay tôi sao dám đồng ý với anh. Anh thấy đấy, những “tay to mồm” phản đối là khó xử lắm!

Tôi thầm phục anh. Tổng Bí thư thông minh, thế mà chị Huệ cứ hay nói với tôi, có lần có mặt cả anh Linh: “Anh Linh nhà tôi “đần” lắm, anh làm việc với anh Linh, anh giúp đỡ anh ấy...”. Anh Linh vỗ vai tôi, vừa cười vừa nói: “Bà Huệ ấy mà...?”

Anh đứng dậy bắt tay tôi và bảo:

-Anh với tôi cùng anh Hai Hùng chịu trách nhiệm trước Trung ương. Cứ làm, không cần phổ biến rộng. Đây chỉ là một mặt hàng, anh Hùng quyết là đủ. Nhưng nó là mặt hàng “vàng” nên Tổng Bí thư phải có ý kiến.

Anh rất vui tiễn tôi ra cửa...

Tôi ra về rất phấn khởi, báo cáo lại với anh Phạm Hùng và anh Võ Văn Kiệt. Hai anh phân công tôi phụ trách. Tôi đề nghị: Bộ Ngoại thương làm cũng được, nhưng mặt hàng vàng để Ngân Hàng nhà nước làm thì phù hợp với chuyên ngành hơn. Anh Phạm Hùng bảo tôi sang bàn với anh Lữ Minh Châu, Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước, lúc đó chưa gọi là “Thống đốc”. Tôi sang bàn với anh Lữ Minh Châu, anh Châu nói: “Đây là vấn đề mới, nên để bên Bộ Ngoại thương làm.

Anh là Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, phụ trách trực tiếp tốt hơn...”. Tôi về báo cáo lại anh Hai Hùng. Anh Hùng, anh Sáu Dân cùng nói: “Ông Thành và Bộ Ngoại thương làm là hợp lí...” Tôi phải nhận và tổ chức bộ phận chuyên trách nhập vàng do đồng chí Đinh Phú Định, thứ trưởng, đồng chí Uyển, Vụ trưởng xuất nhập khẩu giúp tôi thực hiện cụ thể. Để lấy thực tế chứng minh, tôi giao đồng chí Lạc, Tổng Giám đốc Tổng công ti xuất nhập khẩu Kĩ thuật dầu khí (Petechim) nhập nhanh một chuyến để rút kinh nghiệm.

21. Công ti đã nhập lần đầu từ Hồng Kông, chở bằng máy bay 15 tấn vàng 999 JSC của Thuỵ Sĩ về Thành phố Hồ Chí Minh. Các doanh nghiệp Nhà nước, tư nhân đến xếp hàng mua từng thỏi vàng từ 5 kg đến 50 kg về chế biến ra từng cây vàng bán lẻ. Chuyến đầu lãi tới 3 lần, có tiền trả nợ chuyến trước và nhập chuyến sau, một phần nộp vào ngân sách.

Mọi người yên tâm là nhập vàng có lãi lớn cho Ngân sách Trung ương và địa phương. Sau đó mở rộng ra cả nước nhưng chủ yếu vẫn là Thành phố Hồ Chí Minh và các công ti xuất nhập khẩu các tỉnh phía Nam. Còn các tỉnh phía Bắc chỉ có Hà Nội xin nhập 10 tấn. Nhưng thủ tục vay tiền, mở L/C cũng như giao dịch chậm trễ, phải hết 6 tháng mới nhập được 900 kg từ Hồng Kông, bằng tàu thuỷ về Hải Phòng.

Đồng chí Vũ Ngọc Phương thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Trần Tấn, Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội. Khi chở vàng về Hà Nội, các đồng chí sợ đi đường số 5 bị cướp, các đồng chí phải cử công an áp tải đi qua Nam Định, qua đường số 1 về Hà Nội để đánh lạc hướng bọn trộm cướp dọc đường số 5. Về Hà Nội ban đêm, nên để tạm ở văn phòng UBND Thành phố một đêm, làm cho một số người tò mò, thắc mắc tại sao không đem gửi Ngân hàng ngay mà lại để ở văn phòng UBND Thành phố...

Khi tôi biết việc này, tôi bảo đồng chí Vũ Ngọc Phương: “Có gần một tấn vàng, cho vào cái xe U-oát chạy một mạch ban ngày về Hà Nội, rồi đem đến Ngân hàng gửi, làm gì phải đi đêm, qua Nam Định về Hà Nội, vòng vo tốn thì giờ, lại sinh thắc mắc cho một số người... Chú là người cảnh giác cao độ, thời bình mà cứ làm như thời chiến...”.

Các công ti xuất nhập khẩu miền Bắc cũng được thông báo, nhưng vì không kinh doanh quen, còn sợ mọi thứ, nên không dám nhập. Ngay Hải Phòng, tôi gọi báo mấy lần, nhưng cũng không dám nhập vàng. Riêng các tỉnh phía Nam chạy xô ra Bộ Ngoại thương xin quota nhập vàng. Để thuận tiện cho Thành phố Hồ Chí Minh, anh Sáu Dân kí uỷ nhiệm cho đồng chí Nhật Hồng, Giám đốc Vietcombank Sài Gòn, kí giấy phép nhập cho thành phố là 50 tấn.

Còn tỉnh khác vẫn phải ra Bộ Ngoại thương xin quota. Tính đến tháng 4-1990, trước khi tôi thôi giữ chức Bộ Trưởng Bộ kinh tế đối ngoại, cả nước nhập được khoảng 160 tấn, tính ra USD Ngân sách Trung ương và các tỉnh, thành phố có nhập vàng lãi khoảng hơn 1 tỉ USD góp phần rất quan trọng vào chống lạm phát, từ 780% năm 1986, năm 1990 còn 67% giảm hơn 10 lần.

Xin từ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng

22. Sau 8 tháng thực hiện Nghị quyết 2 của Trung ương, tôi thấy xu hướng và thực hiện bước đầu có kết quả, tôi đề nghị Trung ương cần ra một Nghị quyết toàn diện chuyển kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế Thị trường định hướng XHCN.

Hội nghị liên tịch Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng định vào ngày 1 và 2-2-1988. Đồng chí Phạm Hùng giao cho tôi cùng 6 Bộ trưởng trong ngành và một số chuyên viên kinh tế chuẩn bị. Tôi đã chủ trì xây dựng một phương án, có mô hình để dễ chỉ đạo.

Mô hình này thể hiện chuyển dần từng bước, toàn diện của cả nền kinh tế sang kinh tế thị trường. Việc chuẩn bị rất công phu. Khi được quyết, bất cứ đồng chí uỷ viên Bộ Chính trị nào cũng có thể chỉ đạo theo mô hình đó được. Nó vừa đồng bộ, dễ nhìn thấy diễn biến tình hình qua ngày tháng cập nhật, các ngành các cấp không lúng túng. Thực sự tôi rất phấn khởi khi đưa ra Hội đồng Bộ trưởng tham gia. Các thành viên Chính phủ đều hoan nghênh, anh Phạm Hùng phân công tôi báo cáo dự thảo Nghị quyết 4 này trước hội nghị liên tịch (gọi là liên tịch nhưng thực chất là Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng).

Ngày 1-2-1988 tôi trình bày xong, Hội nghị có 14 uỷ viên Bộ Chính trị họp, 12 đồng chí phát biểu đồng tình, đồng chí Nguyễn Văn Linh sơ kết ý kiến của 12 đồng chí đã phát và phát biểu bổ sung, anh Linh cũng đồng tình với dự thảo Nghị quyết 4.

Đến cuối giờ chiều ngày 1-2-1988 anh Đỗ Mười phát biểu. Anh không đi vào đề án, anh phát biểu phê phán trực tiếp tôi, với những ý chính sau đây:

- Một Phó Thủ tướng và 5, 6 Bộ trưởng không chịu đi cơ sở, cứ ngồi ở bàn giấy nghiên cứu mô hình nọ, mô hình kia để làm gì? Vấn đề mới quá, tôi đề nghị gác lại đến tháng 9-1988 sẽ bàn.
Vân vân và vân vân, xoay quanh phê phán tôi.

23.Hội nghị nghỉ, hôm sau bàn tiếp. Tôi nghĩ vấn đề tôi và các Bộ trưởng trong khối đã tính toán bàn kĩ, được cả Hội đồng chính phủ thông qua. Dự thảo nghị quyết 4 mang tính lí luận cao và mô hình chuyển dịch nền kinh tế có cơ sở khoa học. Nghị quyết này tiếp nối Nghị quyết II rất có hệ thống.

Nay đồng chí Thường trực Ban Bí thư đề nghị để tháng 9-1988 mới bàn, các đồng chí Bộ Chính trị cũng đồng ý, tôi thấy không còn cơ sở để làm việc có hiệu quả cho việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 6 đổi mới, có tầm sâu rộng, khắc phục nhanh khủng hoảng kinh tế, đưa kinh tế nhanh ổn định và phát triển. Tôi quyết định sẽ xin từ chức vào ngày hôm sau.

Tối hôm đó tôi trao đổi kĩ với nhà tôi và đồng chí Ngô Hải thư kí của tôi về thái độ của anh Đỗ Mười. Anh Đỗ Mười không thực hiện được ý định loại tôi khỏi Ban Chấp hành Trung ương khoá 6, tôi lại còn làm Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, như vậy sẽ cản bước tiến của anh Mười. Nếu tôi từ chức vừa thoả lòng anh Mười và giữ được đoàn kết nội bộ, vừa cũng là tấm gương chung: Khi không còn điều kiện để thực thi nhiệm vụ thì nên rút lui cho người khác thay thế, mình làm việc khác, nếu hết việc thì về nghỉ, vì lúc này tôi đã 59 tuổi. Nhà tôi và chú Ngô Hải hiểu ý tôi và lòng anh Mười nên cũng đồng tình với tôi.

Tôi viết đơn xin từ chức để đọc vào chiều mai 2.2.1988. Tôi dự kiến phát biểu bổ sung, sau đó sẽ đọc đơn xin từ chức.
Sáng 2-2-1988 thế nào tôi cũng phải báo cáo đồng chí Tổng Bí thư và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng trước, để bảo đảm ý thức tổ chức, kỉ luật...

24. Sáng hôm sau vào giờ giải lao, tôi báo cáo với anh Linh việc tôi xin từ chức để giữ gìn đoàn kết nội bộ. Anh Linh bảo tôi cần suy nghĩ thêm. Tôi nói đã suy nghĩ kĩ rồi. Anh Linh không nói gì thêm. Khi tôi báo cáo anh Hai Hùng, anh Hùng nói: “Không nên, để bàn thêm”. Tôi báo cáo rằng đã suy nghĩ kĩ rồi. Tôi không thể làm việc tốt được nếu anh Mười còn cản trở. Tôi đề nghị anh cho phép tôi từ chức, anh Hùng hơi cười vui: “Để xem xem...”.

Khi tôi đọc đơn từ chức, hai anh mới cho là thật. Các anh cứ tưởng tôi bực tức với anh Mười nên nói vậy thôi. Anh Hùng còn bảo: “Tôi tưởng anh nói đùa”. Vì khi đề nghị xin từ chức, thái độ tôi vẫn vui vẻ bình thường, không có thái độ tức giận gì cả, nên anh vẫn nghĩ tôi chỉ nói cho đỡ bực mình với anh Mười thôi.

Khi tôi đọc đơn xin từ chức Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, hội nghị có khoảng hơn 60 người, họp ở Hội trường T78, tại thành phố Hồ Chí Minh, mọi người đều lắng nghe với vẻ bất ngờ. Sau đó, anh Linh đứng lên luôn, phê bình anh Đỗ Mười một cách nghiêm khắc, với mấy ý chính sau đây:

-Ông Mười tưởng rằng Uỷ viên Bộ Chính trị là to lắm, muốn nói gì cũng được, muốn phê bình ai cũng được. Hồi tôi làm Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi lần vào Thành phố là ông Mười đòi gặp tôi. Nhiều lần tôi từ chối không gặp. Ông tưởng là Uỷ viên Bộ Chính trị muốn làm gì thì làm...

25. Khi anh Linh dứt lời, anh Mười nói:
-Tôi nói đó là tinh thần Bôn-xê-vích...
Tôi xuýt nữa bật cười to...

Tối hôm đó tôi sang chào anh Trường Chinh (Anh Trường Chinh đang nghỉ ở T78), đồng thời xin ý kiến anh về đôi câu đối, tôi định viết ở lăng cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc ở Cao Lãnh. Vì ngày hôm sau, 3-2 ngày thành lập Đảng, tôi xuống thắp hương tại nhà lưu niệm cụ Phó bảng và viết ngay tại đó cho có ý nghĩa. Nội dung:

“Thiên hồng địa tử đô Sinh Sắc
Giải phóng sơn hà hiển Chí Minh”

Đọc xong hai câu thơ và tôi nói thêm ý của nó, anh Trường Chinh nghe xong khen: “Hay lắm! hay lắm! Khí phách lắm! Khí phách lắm!” Tôi yên tâm. Anh Trường Chinh mà Đảng ta và nhân dân ta thường gọi anh là: “Anh Thận” vì anh rất cẩn thận trong từng lời nói và bài viết, đối nhân xử thế, việc gì cũng thận trọng, nên mới được nhân dân và cán bộ đặt cho anh chữ “Thận” làm tên gọi thân mật, nay anh đã khen thì tôi có thể yên tâm.

Câu đối này tôi cũng đưa cụ Minh, một nhà “uyên thâm túc Nho” xem trước. Cụ Minh góp ý với tôi thay chữ “giai” bằng chữ “đô”, chữ “rực” bằng chữ “hiển”. Cụ giải thích chữ “đô” đắt nghĩa hơn chữ “giai”, dù chúng đều có nghĩa là “đều”. Chữ “hiển” thay chữ “rực” để khỏi hiểu lầm đối với người ít biết chữ Hán. Vì trong câu đối viết chữ “rực” là bay lên; nhưng đọc mà không trông chữ viết thì nghĩ chữ “rực” là “rực rỡ”, hiểu sai ý, nên thay bằng chữ “hiển”. Tôi đồng ý với cụ Minh.

Năm 1987 mất mùa nên ảnh hưởng đến năm 1988. Lương thực lúc đó chỉ dựa vào sản xuất trong nước, tiền nhập lương thực không có, viện trợ của Liên Xô và các nước Đông Âu về lương thực không đáng kể.

26. Ảnh hưởng vụ mùa thất thu đã kéo dài đến năm 1988, nhất là những nơi mất mùa nặng như Thanh Hoá, Nghệ An. Tết âm lịch, đầu năm 1988, Thanh Hoá đã có hơn 100 người chết đói. Anh Phạm Hùng dự định về miền Năm ăn Tết, nhưng tình hình lương thực căng thẳng, anh ở lại Hà Nội ăn Tết, đến mùng 6 Tết mới vào Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày mùng 2 Tết anh đến thăm tôi. Vì không được báo trước, nên tôi về Hải Phòng. Sáng 4 Tết tôi đến chúc tết anh ở nhà riêng, anh bảo tôi: “Mấy hôm nay ở lại Hà Nội lo gạo, lương thực cho Thanh Hoá và những tỉnh thiếu đói nặng. Nay đã hòm hòm, mốt tôi vào Thành phố.”. Tôi thấy anh vất vả quá.

Mới làm Thủ tướng được hơn 6 tháng mà anh già hẳn đi. Hai anh em ngồi nói chuyện gần hết buổi sáng, hết chuyện nước, đến chuyện nhà, rồi lại đến chuyện tù Côn Đảo... Tôi thấy anh dáng vẻ mệt mỏi và buồn, đôi khi nói đến tình hình đói ở Thanh Hoá anh lại rơi nước mắt. Rồi anh nhắc lại chuyện tôi xin từ chức tuần trước. Tôi động viên anh rằng tôi vẫn ra sức làm việc, không vì xin từ chức mà nản việc. Anh bảo tôi: “Tôi mừng vì anh vẫn giữ được thái độ bình thường. Việc anh từ chức là độc nhất vô song”.

Tôi nói: “Tôi xin từ chức là thực sự có lỗi với anh, vì anh mới làm Chủ tịch được hơn 6 tháng. Tôi từ chức có thể có người hiểu sai, mong anh thông cảm”. Anh nhắc lại một vài ý hôm họp và vài ý trách anh Mười. Rồi anh nói: “Tôi hoàn toàn thông cảm với anh. Trong điều kiện này rất khó làm việc với anh Mười...”.

27. Không ngờ ngày 6 Tết anh vào Thành phố Hồ Chí Minh ăn Tết với gia đình và thăm bà con bạn bè thân thiết, ngày mồng 8 Tết, một cơn đau tim đột ngột đã cướp đi người chiến sĩ cách mạng lão thành. Ngày xưa giặc Pháp kết án anh với án tử hình, sau giảm án đày ra Côn Đảo nhưng chúng không cướp được sinh mạng anh.

Với sức khỏe tốt, được rèn võ, luyện “gồng trà kha”, nay anh đang say mê với công việc mới, đầy trọng trách, trong hoàn cảnh kinh tế đất nước đang gặp nhiều khó khăn, anh mất đi để lại bao thương tiếc cho nhân dân, cho Đảng. Tôi thực sự quý mến anh và anh cũng yêu mến tôi như những người ruột thịt thân thiết. (Tôi sẽ nói kĩ về anh ở chương “các đồng chí Bộ Chính trị với Hải Phòng”).

Anh Phạm Hùng qua đời, anh Võ Văn Kiệt làm quyền Thủ tướng, đến tháng 6-1988 Quốc hội họp bầu anh Đỗ Mười làm Thủ tướng.

Tháng 3-1988 Bộ Ngoại thương sáp nhập với Uỷ ban hợp tác Lào - Kampuchia, do anh Đặng Thí làm Chủ nhiệm, Uỷ ban Hợp tác đầu tư với nước ngoài do anh Võ Đông Giang làm Chủ nhiệm. Bộ mới ra đời có tên là Bộ kinh tế đối ngoại do tôi làm Bộ trưởng.

Còn tôi đến 2-5-1988 được chuẩn y miễn nhiệm cùng với hai đồng chí Nguyễn Ngọc Trìu, Nguyễn Văn Chính (Chín Cần), cũng không tuyên bố rõ lí do tôi xin từ chức, mà chỉ nói chung: cả ba người thôi giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng để nhận nhiệm vụ khác. Tôi thấy viết thế nào cũng được, miễn là mình được thôi chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng.

Hôm đưa ba đồng chí Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ra Quốc hội phê chuẩn, tôi thấy anh Nguyễn Ngọc Trìu, hai tay vắt sau, vừa đi vừa suy nghĩ trong giờ giải lao. Tôi mời anh Trìu vào uống cà phê và bảo: Suy nghĩ làm gì cho tổn thọ, “nhất đại vi quan, vạn đại vi dân”. Khi hai anh em ngồi uống cà phê, thấy có cảnh có tình, tôi làm 4 câu thơ tặng anh Trìu:

“Hai thằng miễn nhiệm uống cà phê,
Thế sự xem ra vẫn ê chề.
Dân đói, dân no còn lắm chuyện
Việc nhà, việc nước vẫn còn mê”.

Anh Trần Hoàn ngồi bàn bên cạnh, thấy tôi đọc thơ ngó sang bảo đọc to cho nghe. Tôi nói đùa: “Muốn kiểm duyệt phải không?”. Anh Trần Hoàn cười. Tôi đọc to cho anh Trần Hoàn nghe, anh Hoàn nói: “Hay đấy. Vẫn còn có hậu”. Tôi nói lại: “Bọn tớ làm cách mạng đến cùng, không bao giờ nản chí”.

Tôi làm Bộ trưởng Bộ Kinh tế, anh Mười làm Thủ tướng, tôi vẫn giữ thái độ bình thường. Anh Mười đối với tôi bề ngoài cũng thấy dễ chịu hơn, nhưng tôi nghĩ sẽ có ngày cũng phải chia tay. Chắc anh Mười cũng không muốn tôi làm lâu.

28. Đúng như vậy, khi tôi nhập vàng anh còn là Thường trực bên Đảng, nay sang làm Thủ tướng, hàng năm đi đâu anh cũng rêu rao: “Đoàn Duy Thành Bộ trưởng Kinh tế đối ngoại đấy, không nhập phân bón, nguyên liệu, đi nhập vàng...” Anh em các ngành, các địa phương thông tin cho tôi biết, tôi thấy chẳng có gì phải suy nghĩ, vì đó là tất yếu.

Anh Mười không hiểu rằng lúc đó lấy tiền đâu mà nhập phân bón, nguyên liệu? Phải nhập vàng chịu, trả nhanh; vòng sau có lãi để nhập phân bón, nguyên liệu. Khi họp Hội đồng Bộ trưởng, anh tuyên bố: “Anh Thành nghỉ Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, nhưng tôi vẫn thực hiện bài của anh Thành”. Họp Thường vụ Hội đồng bộ trưởng anh cũng tuyên bố như vậy.

Nhưng sang năm 1989 tình hình khá hơn. Anh gặp tôi hai lần khi họp Hội đồng bộ trưởng, anh Mười nói: “Bài của cậu tính cũng sai”. Tôi nghiêm nét mặt nhưng không nói gì. Lần sau có mặt anh Đoàn Trọng Truyến, anh Mười lại nói: “Bài của cậu cũng tính sai...” Tôi hơi khó chịu, trả lời anh Mười: “Anh đã nói nhiều lần, anh thực hiện bài của tôi. Bài của tôi, tôi tính rất kĩ. Chỉ có thể do người thực hiện sai, còn tôi tính không sai”. Anh không nói gì và đi chỗ khác.


***


29. Tính tỉ suất lãi ngân hàng với đồng Việt Nam và tỉ giá giữa đồng Việt Nam với đồng đô-la Mỹ và ngoại tệ khác, là vấn đề khó trong quản lí kinh tế. Điều này lúc nào tôi cũng quan tâm suy nghĩ. Khi có lạm phát phi mã lại càng khó. Lúc đó Hội đồng bộ trưởng họp nhiều lần, có những đề xuất rất táo bạo, phi kinh tế, như đưa lãi suất đồng Việt Nam lên 20%/tháng của anh Nguyễn Cơ Thạch.

Anh còn nói mạnh mẽ rằng phải đem bom đánh tan nhà máy in bạc đi, in quá nhiều để gây lạm phát. Tôi rất thích tính anh Thạch. Tuy là nhà ngoại giao có tài, nhưng anh rất quan tâm đến kinh tế, đặc biệt là công nghệ thông tin. Tôi nói với anh Thạch đưa lãi suất lên 20% tháng thì bán cả nước Việt Nam đi mà trả lãi. Anh tranh luận với tôi rất thoải mái.

Anh luôn luôn giữ chữ “lên” với tôi. Cái gì hứa, làm đúng lời hứa. Anh Nguyễn Cơ Thạch và anh Mai Chí Thọ hay bảo tôi là có hai ông Thành. Ông Thành ở Hải Phòng thì thoáng, còn ông Thành lên Trung ương lại quá chặt chẽ. Tôi nghĩ các anh rất có tình cảm với tôi nhưng các anh ít nghiên cứu sâu về kinh tế.

Trong lúc khủng hoảng kinh tế, sản xuất đình đốn, vay tiền của dân, cho ai vay lãi được 5%/tháng? Doanh nghiệp không ai dám vay vì làm sao ra lãi 5%/tháng để trả nợ ngân hàng? còn Nhà nước lấy tiền đâu bù chênh lệch khoảng 15%/tháng? Tôi nói vui với anh Thạch: “Nghe anh chỉ có đổ thóc giống ra mà ăn...” Anh cười vui vẻ, nhưng vẫn tranh luận tiếp.

30. Sau đó anh Mười quyết định lãi suất 12%/tháng. Hỏi ý kiến tôi, tôi bảo: “Chống lạm phát mà nâng lãi suất như thế này thì chỉ kéo dài được chu kì lạm phát”. Nhưng chu kì sau sẽ lạm phát cao hơn chu kì trước. Nếu nâng lãi suất đồng nội tệ lên quá cao để chống được lạm phát và kinh tế khủng hoảng thì thế giới họ đã làm từ lâu rồi, và không bao giờ có khủng hoảng kinh tế cả. Theo ý tôi trong trường họp đặc biệt này chỉ nên 4% một tháng là đã quá bạo tay rồi.


Thử hỏi có xí nghiệp nào làm ra lãi 2% tháng không? Khi tôi làm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng, năm 1985, Thành phố đã vay của nhân dân Hải Phòng 150 triệu với lãi suất 4%/tháng, được Ngân hàng Trung ương đồng ý. Chúng tôi dự kiến trong một tháng rưỡi vay đủ số tiền trên. Nhưng thật bất ngờ chỉ trong một tháng nhân dân đem đến cho vay tới 200 triệu.

Chúng tôi phải kết thúc ngay. Sau tháng 9-1985 Thành phố phải trả hết cho nhân dân, vì sợ đồng tiền Việt Nam đang bị mất giá sau đổi tiền nhân dân sẽ thiệt thòi. Từ kinh nghiệm và thực tế lúc đó, tôi đề xuất lãi suất không nên quá 4%/tháng. Nhưng Hội đồng bộ trưởng vẫn quyết định 12%/tháng.

Có một số anh chị em quen thân đến hỏi tôi lãi suất gửi tiền tiết kiệm cao, có nên gửi không? Tôi trả lời anh chị em nên gửi, lãi lớn đấy.

Có anh chị em gửi chỉ hơn một năm đã lãi 2, 3 lần. Vì vàng bán lúc đó rất đắt, lấy tiền mặt gửi ngân hàng, khi rút ra mua vàng giá rẻ. Ngay đồng chí Quản Đức Khiêm, thư kí của tôi ở Hải Phòng, gửi tiết kiệm hơn một năm, khi rút ra cũng lãi gần 3 lần, được 10 lạng vàng.

Tôi làm Bộ trưởng Kinh tế công việc đang suôn sẻ, đưa doanh số xuất khẩu từ 600 triệu Rúp và đô la/năm, nay lên hơn 2 tỉ đô la và Rúp. Kinh tế đất nước đang đi vào thế ổn định, thì lại có kế hoạch sáp nhập các bộ, Bộ kinh tế đối ngoại sáp nhập với Bộ Nội thương và Bộ Vật tư thành Bộ Thương mại. Việc này đúng như tôi dự đoán, có sáp nhập mới có lí do để loại tôi ra khỏi thành viên Chính phủ.

31. Trong khi đang chuẩn bị, anh Hoàng Minh Thắng sang bàn với tôi, đề nghị tôi nhường cho anh làm Bộ trưởng Bộ Thương mại. Anh Thắng nói: “Anh làm việc gì cũng được, nhường tôi làm Bộ trưởng Bộ Thương mại. Tôi chỉ thích làm Bộ trưởng Bộ Thương mại...”. Tôi với anh Thắng là bạn với nhau, khi tôi làm Bí thư Hải Phòng, anh Thắng làm Bí thư Quảng Nam -Đà Nẵng, có quan hệ hợp tác với nhau rất chặt chẽ.

Nhất là trong kháng chiến chống Mỹ, Hải Phòng kết nghĩa với Đà Nẵng quan hệ chúng tôi càng khăng khít hơn. Anh Thắng khi làm Bộ trưởng Bộ nội thương, tôi làm Phó chủ tịch phụ trách khối Lưu thông phân phối, Tài chính, Ngân hàng. Nay anh Thắng đã đề nghị, tôi đồng ý ngay. Vì anh đã là cấp dưới của tôi, nay có việc này tại sao tôi lại không nhường anh? Anh Thắng rất phấn khởi.

Nhưng công việc không phải bình thường như thế. Hôm họp Hội nghị Ban chấp hành Trung ương ở nhà “Con rùa” bên bờ Hồ Tây, anh Đỗ Mười gặp tôi trao đổi việc nhân sự. Qua trao đổi, anh Mười bảo tôi về chuẩn bị tổ chức, để tiếp tục làm Bộ trưởng Bộ Thương mại. Tôi rất phân vân, nhưng điều trước hết là tôi phải thông tin cho anh Hoàng Minh Thắng biết. Tôi gặp anh Thắng báo chuyện anh Đỗ Mười bảo tôi tiếp tục làm Bộ trưởng.

-Anh liệu mà chạy, kẻo lại thất vọng, rồi lại bảo tôi tranh nhau với anh cái chức Bộ trưởng Bộ Thương mại.

Chúng tôi vẫn nhắc lại chuyện này với nhau một cách đùa vui. Nhưng việc anh Mười bảo tôi làm tiếp Bộ trưởng Bộ Thương mại cũng chỉ là câu chuyện “làm quà” cho vui vẻ thôi. Vì trước và sau khi quyết định anh Thắng làm Bộ trưởng Bộ Thương mại, anh Mười không hề nói lại với tôi một lời. Đó cũng là điều dễ hiểu.

Trong 3 năm 8 tháng làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương rồi làm Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại, biết bao công việc phải làm.

32. Trước hết là ổn định tổ chức, xây dựng cơ sở vật chất của Bộ Ngoại thương quá cũ, xây dựng Nghị định 164 của Chính phủ về xuất nhập khẩu -đầu tư. Tôi đã cùng các đồng chí lãnh đạo Bộ lo toan công việc, rồi lo từ bữa ăn sáng, ăn trưa cho cán bộ công nhân, viên chức thuộc Văn phòng

Khi còn ở Hải Phòng, tôi nghĩ lên Bộ Ngoại thương chắc chắn sẽ có tiện nghi tốt hơn. Không ngờ lên đến Bộ cái gì cũng thiếu, tôi không thể tưởng tượng được. Ở Hải Phòng phòng làm việc của Bí thư, Chủ tịch Thành phố... đều có điều hoà. Lên Bộ chỉ mỗi phòng khách ngoại trên lầu 2 nhà 31 Tràng Tiền là có điều hoà nhiệt độ do Liên Xô sản xuất. Các phòng làm việc thì che chắn. Riêng phòng tròn ở nhà chính của Bộ, ngăn làm 2, một phòng dành cho Vụ xuất nhập khẩu, còn một nửa để nguyên liệu xây dựng xi măng, sắt thép...

Lối lên phòng khách ngoại trên lầu 2 có hai lối. Lối cho khách đi lên bằng cầu thang chính, vì là nhà “băng” cũ nên tầng rất cao. Có lần ông Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Phi-líp-pin đến gặp tôi, khi đến phòng khách ông thở rất to và nói: “Tôi không cảm động đâu, nhưng cầu thang cao quá, tôi mệt”.

Còn một lối riêng cho Bộ trưởng đi lên tiếp khách, với một cầu thang phụ chật hẹp, phải đi qua cửa “hố xí” quá hẹp, phải đi nghiêng để quần áo chỉnh tề tiếp khách, không bị nhàu. Hôm anh Lê Khắc dẫn tôi đi xem lần đầu để bàn giao, tôi bật cười nghĩ lại chuyện bàn giao với đồng chí Nguyễn Quốc Hiếu, Giám đốc Sở Thương nghiệp Hải Phòng, cơ quan cũng phải có lối phụ lên phòng Giám đốc. Lần này có khác là lối phụ để lên tiếp khách nước ngoài...

Trong 44 tháng công tác tại Bộ, tôi đã vạch kế hoạch cho từng năm và ba năm làm những việc gì cho Bộ, cho đất nước.

33. Việc giải quyết bữa ăn trưa cho cán bộ công nhân, viên chức, là vấn đề bức xúc vì lúc đó đã bắt đầu làm thông giờ. Sáng nào anh chị em đến làm việc đều mang cạp lồng đựng bữa cơm trưa.

Tất cả đều đi xe đạp, duy có một đồng chí đi cái xe máy “Babetta”, đó là đồng chí mạnh bạo nhất. Một số anh chị em đi nước ngoài cũng mua được xe máy Nhật, nhưng không dám đi, sợ cho là giàu có, cứ phải cho xe đắp chiếu để trong buồng. Có đồng chí mua được 2, 3 xe máy phải tháo rời ra để ở gầm giường, tôi đến chơi, thấy lủng củng đồ đạc dưới gầm giường, hoặc cất giấu vào góc nhà, lỉnh cà lỉnh kỉnh.

Tôi bảo các đồng chí đem ra mà đi, hoặc bán đi gởi vào tiết kiệm, việc gì phải giấu như “thuốc phiện lậu” vậy. Tôi nói mãi, dần dần các đồng chí thấy quen, đem hết xe ra đi. Năm 1988 hầu hết không còn ai đi xe đạp đến Bộ làm việc, quần áo ăn mặc chỉnh tề hơn.

Đồng chí Phối, Vụ trưởng Vụ II, đã làm Tham tán Thương mại ở Nhật Bản 2 khoá, một cán bộ gương mẫu giữ gìn, nhưng tiền lương tiết kiệm mua được xe máy cũ của Nhật rất rẻ cũng không dám mang ra đi công tác, quần áo chỉ có một bộ com-lê để ở trong tủ làm việc, khi tiếp khách mới mặc, còn đi làm chỉ mặc bộ quần áo “đại cán” sĩ quan ka ki, mùa hè mặc sơ-mi xanh, hoặc trắng, với quần ka-ki Trung Quốc. Các đồng chí khác cũng vậy. Tôi bảo anh Phối cứ mặc quần áo đàng hoàng, thắt “cravate” cẩn thận. Mình là cơ quan đối ngoại, việc gì phải kiêng kị? Sau đó ít lâu mới hình thành phong trào ăn mặc chỉnh tề hơn.

Còn ăn trưa, tôi bàn với xí nghiệp làm kinh tế, cải thiện đời sống của Công đoàn. Tôi bảo đồng chí Dương, giám đốc thôi nghề ép than và cán mì đi, tổ chức sản xuất thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Xí nghiệp khá lên, cung cấp bữa ăn trưa cho anh chị em 50đ/người, bỏ được cảnh mang theo cạp lồng cơm, đến trưa đem ra hâm nóng ăn trong phòng, vừa nhếch nhác vừa mất vệ sinh. Số tiền trên ra hiệu ăn bữa trưa còn dư, đem về bổ sung cho bữa ăn sáng và tối.

34.Còn trụ sở Bộ, tôi cho đập 3 nhà rất cổ, xây lâu năm, có nhà tường đã nứt, chỉ đợi chấn động nhẹ thì trần và nhà sụp đổ. Tôi quyết định cho xây nhà 3 tầng làm việc hiện nay, cải tạo nhà chính, nhà phụ làm việc, phá hầm phòng không, xây một tầng làm Hội trường hiện nay, có thể họp được 350 người.


Nay các đồng chí trong Bộ ngăn làm nhiều phòng làm việc, bắc quạt và điều hoà cho các phòng, cải tạo phòng tròn làm nơi hội thảo ít người, xây thêm phòng khách ngoại ở tầng dưới, lấy hai ngà voi dài nhất nước từ Công ti Thủ công mỹ nghệ Sài Gòn về trưng bày ở phòng nhà tròn... tạo cảnh quan và bộ mặt, thật đàng hoàng đối với khách trong nước và nước ngoài.


Trước khi đập 3 nhà cũ, tôi phải cho quay phim chụp ảnh. Kể cả khi nhờ xe xích của Bộ Nội vụ đến kéo đổ 3 nhà cũng quay phim hiện trạng, kẻo nếu có người không đồng tình với mình, khiếu nại, sẽ có bằng chứng giải trình. Trước khi xe xích kéo sụp 3 nhà, tôi cũng đứng xem. Xe mới hơi chuyển bánh, nhà đã đổ sụp, gạch vữa lả tả, nhiều thanh sắt làm cốt đã mục nát, trông rất sợ. Vì tôi làm cẩn thận nên sau xây dựng không có đơn kiện cáo về việc này.

35. Để giảm đầu mối và bớt độc quyền về ngoại thương, tôi bàn giao những Tổng công ti xuất nhập khẩu chuyên ngành cho các Bộ chuyên ngành, chỉ giữ lại những Tổng Ti tổng hợp xuất nhập khẩu, những công ti mà không có Bộ chuyên ngành nhận. Sau khi củng cố lại các công ti và thành lập những công ti cần thiết, như công ti Tổng hợp II miền Trung (Centrimex), tôi bàn với Bộ Ngoại giao nâng cấp các tùy viên Thương mại là cán bộ của Bộ Ngoại thương, sau này là Bộ kinh tế đối ngoại cử, lên chức Tham tán.

Được anh Nguyễn Cơ Thạch cử anh Nguyễn Di Niên Thứ trưởng phụ trách tổ chức sang làm việc, đi tới thống nhất đề cử các đồng chí Tùy viên Thương mại làm Tham tán Thương mại. (Trước đó Bộ Ngoại thương chỉ có đồng chí Đinh Xuân Trâm Thứ trưởng làm Tham tán Thương mại tại Liên Xô). Thế là tôi giải quyết xong việc phân biệt đối xử giữa cán bộ ngoại giao và cán bộ ngoại thương trong nhiều năm.

Về tổ chức cán bộ, Bộ Ngoại thương đề bạt thêm 2 thứ trưởng là các đồng chí Đinh Phú Định và Lê Kim Lăng, đề bạt 113 cán bộ từ Trưởng phòng đến Vụ trưởng, Vụ phó, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc các Tổng công ti và công ti, hầu hết là cán bộ trẻ có học vấn...

36. Tiếp đó tôi xây dựng khu nhà cho cán bộ công nhân, viên chức ở Láng Hạ với phương thức Bộ xin đất, bỏ tiền một nửa ra xây dựng, cán bộ bỏ một nửa tiền đóng góp với Bộ. Chủ trương này cũng có người không tán thành và còn thách đố “ông Thành làm sao được...”. Nhưng khi có kết quả, thì những ý phản đối thành ý kiến ủng hộ. Hai khu nhà chung cư của Bộ kinh tế đối ngoại cũ hiện nay, trông vẫn khang trang (sau nhà Seaprodex Hà Nội).

Rồi khu nhà tập thể của Bộ ở Văn Chương cũng được nhanh chóng hoàn thiện đưa vào sử dụng. Riêng trụ sở của Bộ được thiết kế xây dựng 11 tầng, đã được Chính phủ duyệt, trích số tiền cấp phép cho nước ngoài lập cơ quan đại diện tại Việt Nam (mỗi giấy phép phải nộp 5.000 USD) do tôi đề xuất với Chính phủ và Bộ Tài chính. Số tiền này nộp ngân sách 20%. Còn lại dành cho Bộ xây dựng trụ sở, được khoảng 8 triệu USS.

Thiết kế đã được duyệt, khoan đất khảo sát để xây dựng đã làm. Đến khi chuẩn bị khởi công, tôi thôi làm Bộ trưởng, và đến nay đã 15 năm, trụ sở mới vẫn chưa được xây dựng!

Gần đây, nhiều báo chí nhắc đến chuyện nhập 160 tấn vàng. Có đồng chí phóng viên hỏi tôi: “Nhiều công ti nhập vàng lãi nhiều, có công ti nào biếu “quà” bác không?”. Tôi kể lại cho các đồng chí phóng viên nghe rằng lúc đó chỉ có công ti nhà nước được nhập vàng, lãi nộp ngân sách Trung ương hoặc địa phương, cuối năm trích phần thưởng theo chế độ. Nếu công ti nào có tấm lòng “phong bì” cho Bộ trưởng, tôi cũng không nhận. Ngay quota thời đó người ta cũng tung tin Bộ Ngoại thương nhận tiền cho xuất sắt thép phế phẩm, một vạn $US/một quota/một vạn tấn v.v... Tôi đề nghị Quốc hội cho kiểm tra.

37. Còn tôi và thứ trưởng của tôi không bao giờ làm như vậy. Nếu có đồng chí nào nhận tiền cấp quota, tôi là Bộ trưởng, tôi chịu trách nhiệm. Tôi đề nghị các vị không nên tự “tầm thường” mình rồi “tầm thường” luôn cả chúng tôi. Quốc hội lúc đó đã phân công đồng chí Trần Quyết, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, lập đoàn đi kiểm tra. Đoàn dự kiến kiểm tra 10 tỉnh, thành phố trọng điểm, sau kiểm tra toàn bộ 40 tỉnh, thành phố trong cả nước và đã có báo cáo trước Quốc hội về vấn đề này. Không tìm ra hiện tượng tiêu cực trong việc cấp quota xuất sắt thép phế phẩm, cũng như mặt hàng khác...

Đầu năm 1990 trong chuyến vào công tác ở các tỉnh phía Nam (lúc này tôi cũng sắp thôi làm Bộ trưởng), đồng chí Lạc, Tổng giám đốc CTI Pétechim đến thăm tôi ở nhà khách, khi về đồng chí có đưa cho tôi một phong bì, ngoài đề kính gửi Bộ trưởng Đoàn Duy Thành. Tôi nghĩ chắc là thư, vì từ khi về làm Bộ trưởng đến hôm đó, không có công ti nào biếu tôi tiền cả.

Đến khi đồng chí Lạc về, tôi bóc thư ra xem trong thư có 300.000 đồng, và lá thư nhỏ: “Kính biếu đồng chí để mua quà cho các cháu”. Tôi nghĩ Cti Petechim là công ti kinh doanh khá, lại được giao nhập vàng sớm với khối lượng lớn, lãi cho ngân sách nhà nước nhiều, chắc đồng chí Lạc nghĩ Bộ trưởng sắp nghỉ, gửi quà cho Bộ trưởng. Tôi viết thư cảm ơn và trả lại số tiền trên cho đồng chí Lạc.

Ngay lúc đó, có một đứa cháu gọi nhà tôi bằng bà cô ruột đến chơi, xin tôi một trăm nghìn để mua xe đạp, cháu chỉ thiếu có một trăm nghìn thôi. Nhân có tiền của đồng chí Lạc cho, tôi rút ra một trăm nghìn cho cháu. Còn hai trăm nghìn đồng, tôi bỏ vào phong bì dán kín cùng lá thư, nói rõ tôi lấy 100.000 đồng cho cháu mua xe đạp. “Tôi gửi lại đồng chí 200.000 đồng. Tôi đã có tiền mang theo để mua quà cho cháu khi về Hà Nội, xin cảm ơn đồng chí”. Đồng chí Lạc hiện nay mới về hưu và sinh sống ở Thành phố Hồ Chí Minh.

38. Để thúc đẩy sản xuất phái triển, mở rộng cho các doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã được trực tiếp xuất khẩu, xoá bỏ dần dần độc quyền ngoại thương, tôi đã kí thí điểm cho hợp tác xã sản xuất giày Bình Tiên (Biti's) xuất giày sang Liên Xô (cũ) và một số hợp tác xã, doanh nghiệp khác xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài, trước hết là xuất sang Liên Xô và các nước Đông Âu. Việc đó giúp cho các cơ sở sản xuất phát triển nhanh hơn. Đến nay, mọi tổ chức, thành phần cứ hội tụ đủ điều kiện qui định, đều được xuất nhập khẩu.

Đến 30-4-1990 tôi thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại. Tôi xin nghỉ, nhưng anh Nguyễn Văn Linh, anh Nguyễn Thanh Bình, Thường trực Ban Bí thư, anh Nguyễn Đức Tâm, Trưởng ban Tổ chức Trung ương bảo tôi ở lại làm việc. Anh Đỗ Mười bảo tôi lại nhà chơi, anh bảo tôi làm một số việc nào là làm Bộ trưởng Bộ Tài chính thay anh Hoàng Quy, làm bí thư Thành uỷ Hà Nội...

Tôi báo cáo anh Mười: “Chả lẽ tôi lại tranh việc của anh Hoàng Quy hay sao?”. Còn Bí thư Thành uỷ, tôi nghĩ lúc này anh Mười cũng nói cho vui thôi, không có tính khả thi, nên tôi xin phép anh Mười ra về. Anh Mười giữ ở lại bàn thêm, nhưng tôi cho là anh Mười chỉ động viên tôi thôi. Nếu anh có thiện chí thì tôi chẳng phải xin từ chức và “thất cơ lỡ vận” như hiện nay. Bởi vậy tôi đứng dậy ra về. Khi anh Qui chất chất anh Mười tại sao không xếp việc cho tôi, anh Mười bảo: “Mình giữ cậu ấy ở lại bàn nhưng cậu ấy giật tay mình bỏ về”.

Còn tôi đối với anh em trong khối lúc nào cũng có quan hệ tốt, cùng làm cùng chịu trách nhiệm, không ai đổ trách nhiệm cho ai. Có một lần họp Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng, đồng chí Hoàng Quy, Bộ trưởng, trình ra Thường vụ một việc bị đồng chí Chủ tịch Phạm Hùng phê phán gay gắt. Đồng chí Phạm Hùng quay sang hỏi tôi: “Bộ Tài chính đã xin ý kiến anh Thành chưa?”.

39. Thực ra Bộ chưa hỏi ý kiến tôi, nhưng tôi đứng ngay dậy: “Báo cáo anh Phạm Hùng, Bộ Tài chính đã xin ý kiến tôi rồi, và hôm nay xin ý kiến Thường vụ. Chúng tôi sẽ viết lại theo ý kiến Chủ tịch kết luận”. Anh Phạm Hùng vui vẻ ngay, bảo về làm lại trình Thường vụ và Hội đồng Bộ trưởng vào thảo luận sau... Câu chuyện này anh em Bộ Tài chính và đồng chí Ngô Hải khi gặp tôi thường hay nhắc lại câu chuyện “đỡ đòn” hôm ấy.

Tôi thường nghĩ, mình là cấp trên thì không bao giờ tranh công cấp dưới. Phải thương anh em và che chắn cho anh em. Nếu anh em sai, có khi còn phải nhận khuyết điểm về mình, vì anh em “thấp cổ bé họng” hơn mình, dễ bị thiệt thòi. Làm điều này tất nhiên phải nhận phần thiệt về mình, có khi còn mang tiếng “anh hùng rơm”, có khi mang vạ vào thân.

Từ tháng 5-1990 tôi xin nghỉ, các đồng chí không giải quyết, nhưng xếp việc rõ rệt cũng không, chỉ giao những việc vặt, kiểm tra nơi này nơi khác về báo cáo. Tôi chắc các đồng chí khó xếp việc cho tôi, tôi bèn đến chào tạm biệt đồng chí Nguyễn Văn Linh ở nhà khách Hồ Tây. Đồng chí Nguyễn Văn Linh ôm tôi khóc, và nói: “Tôi không bảo vệ được anh...”. Tôi cảm ơn anh, đề nghị anh ủng hộ tôi về nghỉ. Tôi có làm gì sai đâu mà anh phải bảo vệ? Anh lại khóc thực sự. Tôi vừa buồn, vừa thương anh và tự hỏi: “Sao thế này nhỉ? Làm cách mạng là sự tự nguyện, nay cách mạng thành công rồi thì phân công nhau mà làm. Nay hết công việc nguy hiểm rồi, hoà bình rồi, ai làm cũng được...”.

40. Tôi nhớ lại khi tôi làm Bộ trưởng Kinh tế đối ngoại, luật đầu tư nước ngoài đã được thông qua Quốc hội cuối năm 1987. Chẳng ai triển khai. Đến khi thành lập Bộ kinh tế đối ngoại, lại giao tôi phụ trách. Khi có luật đầu tư nước ngoài, các nhà doanh nghiệp nước ngoài nộp hồ sơ hàng đống chờ đợi, chẳng ai giải quyết, đùn đẩy nhau.

Tôi phải đứng ra làm. Tập hợp một số cán bộ, trời nóng bức, không có điều hoà, cởi trần ra làm hơn 2 tháng trời mới chọn được 25 doanh nghiệp. Tôi kí giấy phép cho 25 doanh nghiệp đầu tiên vào đầu tư ở Việt Nam. Giấy phép số 1 là Công ti Wicarent Hồng kông đầu tư ở Vũng Tàu...


Khi đã đi vào nề nếp, Vụ Đầu tư của Bộ kinh tế đối ngoại lo công việc này rất chu đáo. Nhưng chưa được bao lâu thì có quyết định lập Bộ Đầu tư đối ngoại tách ra khỏi Bộ kinh tế đối ngoại (nhập vào Bộ kinh tế đối ngoại chưa đầy một năm lại tách ra?). Tôi nghĩ đây là một ý định không tốt đẹp gì với tôi.


Nhưng không sao cả, mình không vụ lợi, vì đất nước, vì nhân dân mà làm chả việc gì phải bực. Nhưng ngầm nghĩ cũng thấy người đời lắm “mưu mẹo” mà quá đơn giản, không có chiều sâu. Đến cán bộ bình thường ở Bộ tôi lúc đó cũng nhìn thấy bước đi của các đồng chí cấp trên muốn gì ở Bộ trưởng của mình. Các đồng chí hỏi tôi, tôi bảo: “Các đồng chí nhìn thấy vấn đề rồi còn hỏi tôi làm gì nữa...”.

Đến tháng 9-1990, đồng chí Nguyễn Đức Tâm gặp tôi, bảo tôi về làm Viện trưởng Nghiên cứu Kinh tế Trung ương thay anh Nguyễn Văn Trân về hưu. Tôi bảo để tôi suy nghĩ đã, anh cứ đi tìm đồng chí khác, tôi còn xem anh em ở Viện có muốn tôi về hay không? Nếu cất nhắc anh em tại chỗ lên được thì tốt.


Anh Tâm bảo tôi: “Đã tìm tại chỗ và nơi khác không có. Anh suy nghĩ kĩ và phản ứng tích cực nhé!”. Sau khi đi chuyến tàu hoả vào miền Nam họp, tôi lại gặp anh Nguyễn Đức Tâm. Anh Tâm gặp tôi lần trước đã hơn 2 tháng rồi. Anh lại hỏi: “Anh đồng ý về Viện cho nhé”. Tôi bảo: “Nếu tổ chức không tìm được ai và anh em ở Viện đồng ý tôi về, tôi sẽ nhận”. Sau một tuần, tôi nhận được quyết định của Thủ tướng Đỗ Mười kí cử tôi về làm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lí Trung ương.

41. Tôi đến họp Hội đồng bộ trưởng trở lại. Anh Mười tuyên bố: “Anh Thành sẽ làm Bộ trưởng - Viện trưởng để làm việc trong Hội đồng Bộ trưởng cho thuận lợi”. Rồi Văn phòng chuẩn bị đề nghị với Hội đồng Nhà nước bổ nhiệm tôi làm Bộ trưởng - Viện trưởng. Khi đưa ra Hội đồng Nhà nước phê chuẩn, có ý kiến của đồng chí Nguyễn Việt Dũng đưa vấn đề đồng chí Tô Duy ra yêu cầu cần phải xác minh, nên Hội đồng Nhà nước do dự, đề nghị làm rõ.

Anh Mười về phổ biến lại với tôi và nói: “Chính phủ đã đề nghị nhưng Hội đồng Nhà nước không duyệt...” Tôi đứng dậy nói với anh Mười một câu: “Là âm mưu của chúng nó cả”, rồi tôi đi chỗ khác (chuyện này xảy ra trong giờ giải lao của cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng).

Đi sứ Trung Quốc

42. Tháng 1-1991 tôi và anh Vũ Oanh được cử sang Trung Quốc nghiên cứu tình hình kinh tế Trung quốc do Trung ương Đảng và Chính phủ Trung Quốc mời. Đồng chí Vũ Oanh làm trưởng đoàn, tôi làm phó đoàn. Đoàn còn có đồng chí Vũ Quang, đồng chí Lê Quý An và một phiên dịch cấp vụ trưởng của Ban Đối ngoại trung ương Đảng.

Đoàn chúng tôi sang Trung Quốc trong tình hình hai nước chưa bình thường quan hệ ngoại giao, mới có cuộc gặp gỡ Trùng Khánh giữa các đồng chí Nguyễn Văn Linh, cố vấn Phạm Văn Đồng, Thủ tướng Đỗ Mười với các đồng chí Giang Trạch Dân, Lí Bằng của Trung Quốc. Trong chuyến đi này còn có đồng chí Đinh Nho Liêm, Thứ trưởng bộ Ngoại giao cùng đi. Khi về, đồng chí Đinh Nho Liêm có chép lại 2 câu thơ trong bữa tiệc tiếp Đoàn Việt Nam, do đồng chí Giang Trạch Dân đọc, đó là:

Độ tận khiếp ba huynh đệ tại,
Tương phùng nhất tiểu dẫn ân cừu

Nghĩa là: Đò qua hết sóng dữ anh em vẫn là anh em. Gặp nhau cười một tiếng là trôi hết hận.

Tôi nghĩ hai câu thơ đó hay. Nếu đồng chí Tổng bí thư Giang Trạch Dân, trong bữa tiệc thân tình đã ứng tác làm 2 câu thơ đó thì thật là tuyệt. Nhưng tôi tra cứu thì 2 câu thơ đó của một nhà thơ đời Thanh, không rõ tên. (Thanh mạt thi nhân, khuyết danh) gồm 4 câu:

Nhân tình vong liệm vô kiêm ái,
Thế đạo không hoài mạc cộng ưu
Độ tận khiếp ba huynh đệ tại
Tương phùng nhất tiễu dẫn ân cừu.

43. Đồng chí Giang Trạch Dân đem thơ của cổ nhân đọc để nói hộ tấm lòng mình đối với các đồng chí Việt Nam, thể hiện tình cảm thân thiết nghĩa tình, vừa là đồng chí, vừa là anh em.

Nhưng hãy kể đường đi sang Trung Quốc trước đã. Chúng tôi đi ô tô đến Hữu nghị quan, các đồng chí Trung Quốc phải rỡ rào dây thép gai, cho xe đón chúng tôi về Nam Ninh, thủ phủ Quảng Tây. Từ đây chúng tôi đi máy bay đến Bắc Kinh.

Đoàn chúng tôi được đón tiếp thân tình, trọng thị, ở tại nhà khách Điếu ngư đài một tuần, nghiên cứu và nghe các chuyên gia đầu ngành và cán bộ cao cấp giới thiệu kinh nghiệm cải cách, mở cửa của Trung Quốc.

Đồng chí Trần Cẩm Hoa, nguyên Chủ tịch thành phố Thượng Hải, làm Chủ nhiệm Uỷ ban cải cách toàn Trung Quốc, đón tiếp và trao đổi với chúng tôi rất tận tình. Chúng tôi đi thăm và làm việc với một số ngành như ngân hàng, Uỷ ban Kế hoạch, Bộ Ngoại giao. v.v. Chúng tôi đi thăm Vạn Lí trường thành, Cố cung và một số nơi danh lam thắng cảnh ở Bắc Kinh.

Có một câu chuyện đáng nhớ, lúc chúng tôi đến thăm Cố cung (Thiên An Môn), khi đến cung Tiền, nơi vua chuẩn bị ra ngự triều, các Hoàng hậu, Hoàng phi, con cháu ra chúc tụng vua buổi sáng, chúng tôi thấy sau ghế vua ngồi, có một đại tự viết hai chữ “Vô vi” nghĩa là “không làm gì”. Cùng đi có Đại sứ Đặng Nghiêm Hoành và một số cán bộ đại sứ quán. Phía Trung Quốc lúc đó có các đồng chí Lí Gia Trung, Tề Kiến Quốc (sau này đều là Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam) và một số đồng chí Trung Quốc khác.

44. Vì biết tôi có học chữ “hán”, một số đồng chí hỏi tại sao sau ghế vua ngồi lại viết chữ “Vô vi”. Tôi bảo các đồng chí Việt Nam hỏi các đồng chí Trung Quốc. Hai đồng chí Lí và Tề bảo hỏi đồng chí Thành. Tôi nói các đồng chí cứ thử đoán xem các vua Trung Quốc tại sao lại viết chữ “Vô vi”. Các đồng chí Việt Nam nhanh nhảu nói: “Vô vi” chắc là của Lão Tử. Rồi các đồng chí bảo tôi “giảng” cho nghe. Tôi bảo các đồng chí cứ suy nghĩ kĩ đi, ta đi thăm xong Cố cung khi quay lại “Cung tiến”, tôi sẽ nói cho các đồng chí nghe.

Tôi cũng định lờ đi, không giải thích, nhưng khi quay lại “Cung tiền” các đồng chí Việt Nam cũng như Trung Quốc vẫn nhắc tôi giải thích cho nghe hai chữ “Vô vi”. Tôi mới nói chữ “Vô vi” là của Khổng Tử, ca ngợi đạo đức của vua Nghiêu, vua Thuấn đời nhà Hạ, thường gọi là Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Điểm nổi bật là hai ông đã dùng nhân nghĩa quản lí đất nước, được nhân dân Trung Quốc thời đó ca ngợi là bậc “Thánh quân”. Các ông chọn người “hiền tài” trong thiên hạ để kế nghiệp, không truyền ngôi cho con...

Cho nên Khổng Tử đã dùng một câu nói để khen cả Vua Nghiêu và vua Thuấn, câu đó trong sách Luận ngữ: “Vô vi nhi trị giả kì Thuấn giả dư!” nghĩa là: “Không làm việc gì lớn trong thiên hạ mà trị vì được thiên hạ, chỉ có vua Thuấn mà thôi”. Khi vua Nghiêu chọn vua Thuấn thay mình, vua Thuấn chỉ là người quản lí một trang trại, có cha là Cổ Tẩu mắc tội giết người, có em là Tượng, một tên lưu manh.


45. Thế mà vua Nghiêu thấy được tài đức của vua Thuấn; gả hai con gái cho rồi truyền ngôi cho làm Hoàng đế. Vua Thuấn đã cai trị đất nước rất giỏi, nổi tiếng Trung Quốc. Mãi mãi sau này nhân dân Trung Quốc ca ngợi công đức của hai vua. Cho nên Khổng Tử chỉ nói vua Thuấn, nhưng hàm ý vua Nghiêu có tài mới chọn được vua Thuấn, con nhà thường dân, và mặc dù Cổ Tẩu bố vua Thuấn: “Phụ tiện nhi hành ác” nghĩa là loại ti tiện và làm điều ác.

Còn nói “Vô vi” là của đạo Lão, sẽ không phù hợp với thực tế Trung Quốc. Xây dựng cố cung từ thời nhà Tống, nhà Minh tiếp tục hoàn thiện. Nhà Tống và nhà Minh lấy đạo Khổng làm quốc đạo, coi Lão Tử là kẻ chống lại đạo Khổng. Do đó không thể có việc vua các nhà Tống - Minh rồi đến nhà Thanh lại viết “vô vi” của đạo Lão để trên đầu mình. Các đồng chí Trung Quốc và Việt Nam đều đồng ý.

Người ta hay nói “thâm nho” chẳng qua học chữ Nho (hoặc có người gọi là học chữ Hán), khi học một câu nói của Khổng Tử, Mạnh Tử, Tăng Tử, Tử Tư.v.v... dưới câu nói đó có lời bàn của các triết gia, các nhà lí luận đời sau giải thích ý nghĩa, để cho người học hiểu được câu nói ngắn gọn của “Thánh hiền”. Nghĩa là muốn hiểu được các câu nói của Thánh hiền, người ta phải học kĩ các bài bàn, mới hiểu được toàn diện và sâu sắc. Nói: “Thâm nho” khi có ý chê ghét. nên người ta phải dùng chữ “uyên thâm túc Nho” nghiêm túc hơn.

Trong dịp đi thăm này, đồng chí Lí Bằng, Thủ tướng Chính phủ Trung Quốc có buổi tiếp và làm việc với đồng chí Vũ Oanh, Uỷ viên Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

46. Trong câu chuyện rất thân tình giữa hai đồng chí, đồng chí Vũ Oanh trình bày rất nhiều vấn đề, nhất là vấn đề bình thường quan hệ mọi mặt giữa hai nước cần làm sớm, để nhân dân hai nước có điều kiện làm ăn buôn bán thông thương. Đồng chí Vũ Oanh kể lại những câu chuyện rất buồn ở biên giới giữa hai nước. Nhân dân đi buôn bán, phải gánh gồng, đội vác qua núi non hiểm trở, đã có người ngã lăn xuống suối chết. Đồng chí Lí Bằng rất cảm động nhưng nói:

- Bây giờ hết giờ, mai sẽ làm tiếp... Đồng chí Thư kí của đồng chí Lí Bằng bảo:
- Mai Thủ tướng đã có lịch làm việc rồi. Đồng chí Lí Bằng suy nghĩ một lát và nói:
- Việc bình thường hoá quan hệ mọi mặt giữa hai nước cần có một thời gian chuẩn bị. Trong thời gian chuẩn bị làm việc lớn, chúng ta hãy làm những việc nhỏ. Việc buôn bán làm ăn ở biên giới, mai tôi sẽ cử đồng chí Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao đến làm việc với đồng chí ở Điếu Ngư Đài.

Tôi liền nảy ra ý nghĩ làm bài thơ tứ tuyệt tặng hai đồng chí, Lí Bằng và Vũ Oanh và để hưởng ứng bài thơ của đồng chí Giang Trạch Dân đọc hồi tháng 9-1990 ở Trùng Khánh mừng Đoàn cấp cao của ta sang Trung Quốc. Nội dung bài thơ của tôi:

Song điểu Tề phi

Hoàng Oanh phi đáo Bắc Kinh đô,
Hội ngộ kim Bằng diệc lạc hồ!
Đại sự vị thành hành tiểu sự,
Song điểu tề phi chí thiện đỗ.

Tạm dịch:

Hai con chim cùng bay

Hoàng Oanth bay đến Bắc kinh đô,
Gặp gỡ chim Bằng thoả ước tình,
Việc lớn chưa thành, làm việc nhỏ
Vỗ cánh cùng bay đến điểm lành.


Hai đồng chí đều có tên theo âm Hán là 2 loài chim đẹp, nên tôi dùng đầu đề bài thơ là: “Song điểu Tề phi”4.

47. Sau khi rời Bắc Kinh, các đồng chí đưa đoàn chúng tôi thăm Thẩm Quyến, Khu kinh tế tự do thuộc tỉnh Quảng Đông, đối diện với Hồng Kông. Chúng tôi ở đây nghiên cứu 3 ngày rồi đi ô tô về thăm Quảng Châu, thăm khu công nghệ mới và nhiều nhà máy lớn ở Quảng Châu cũng như Khu kinh tế Chu Hải...

Sau đó chúng tôi đi ô tô về Nam Ninh, thăm Nam Ninh một ngày, rồi đi xe trở về Lạng Sơn, Hữu Nghị Quan. Các đồng chí Trung Quốc đưa tiễn chúng tôi về đến tận địa phận Việt Nam. Các đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ Lạng Sơn cùng các đồng chí lãnh đạo khác của tỉnh, các phóng viên đến đón chúng tôi tại cửa khẩu. Thế là chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ chuyến đi “sứ” nghiên cứu kinh tế một nước XHCN, qua một thời gian gián đoạn quan hệ, nay bắt đầu khôi phục.

Trong những ngày “trăng mật” chúng tôi được đón tiếp chân tình, trọng thị, nước bạn tạo mọi điều kiện cho chúng tôi làm việc có kết quả. Về đến nhà đã là 27 tết âm lịch. Anh Vũ Oanh bảo tôi viết nhanh báo cáo để vào thành phố Hồ Chí Minh báo cáo với anh Linh, Tổng Bí thư. Anh Vũ Oanh bảo tôi cùng đi. Tôi xin ở lại. Ngày 29 tết anh Oanh vào báo cáo với anh Linh và ngày 30 Tết về Hà Nội. Một cuộc đi vất vả nhưng có nhiều kết quả, nhiều suy nghĩ.

Mồng hai tết anh Oanh đến chúc tết tôi, phàn nàn rằng: “Hôm tôi đến báo cáo anh Đỗ Mười, trước khi vào báo cáo anh Linh, anh Mười tỏ ý không vui và bảo tôi vào báo cáo anh Linh, nói anh ấy ở lại làm khoá nữa. Tôi suy nghĩ tại sao anh Mười lại có thái độ như vậy? Khi đến gặp anh Linh mới biết các ông ở nhà đã bàn, anh Linh nghỉ, anh Mười thay làm Tổng bí thư. Tôi nghĩ anh Mười sợ tôi vào khuyên anh Linh ở lại làm khoá nữa, có nghĩa anh Mười sợ mất chân Tổng bí thư. Thế đấy anh Thành ạ!”. Tôi chỉ cười không bình luận gì.

48. Tôi về làm việc ở Viện Quản lí Trung ương được 19 tháng 20 ngày. Tôi cố gắng thu xếp cách nghiên cứu và lề lối làm việc. Trong điều kiện Viện có 115 cán bộ công nhân viên, hầu hết là đại học, phó tiến sĩ và tiến sĩ nhưng đời sống rất khó khăn, lương bình quân có 42.000 đ/tháng. Viện có một công ti xuất nhập khẩu, hàng năm chỉ kiếm thêm được triệu đồng để cải thiện cho anh em, bằng cách xin chặt củi ở Phú Thọ lấy củi xuất khẩu, mặt khác cho anh em đi mua dừa, chuối. về gửi các nhà hàng ăn uống giải khát để lấy lãi Có khi không bán được, nhà hàng trả lại, đem về phân phối nội bộ ăn cho hết.

Tôi thấy việc làm rẻ rúng quá, lại không đúng ngành nghề. Tôi đề nghị giải tán công ti xuất nhập khẩu chuyên làm kinh tế của Viện. Các đồng chí đều đồng ý. Tôi tổ chức cho anh em nghiên cứu các đề án, như xây dựng khu kinh tế mở cho Móng Cái, Quảng Ninh, tỉnh Quảng Ninh trả cho 3,5 triệu/tháng, xây dựng đề án cải tiến quản lí cho công ti OSC Vũng Tàu được trả cho 4 triệu tháng, xây dựng cải tiến cho Công ti Tradico, cho Tổng cục Bưu điện tách ra khỏi Bộ Giao thông vận tải, trực thuộc Chính phủ... mỗi đề án cũng được trả hàng triệu đồng.

Tết âm lịch sắp đến, tôi hỏi anh em có tiền ăn tết không? Anh em bảo quĩ không có. Quĩ Công đoàn có 20 triệu đồng, vừa qua đã phân phối cho anh em hết rồi. Tôi hỏi anh em có cần tiến ăn tết không? Đồng chí nào cũng nói rất cần nhưng không tìm đâu ra tiền. Tôi đã tính toán trước, tôi bảo anh em hiện nay chưa có tiền trong quĩ, tôi tạm vay ở Công ti Tổng hợp I Bộ Thương mại 15 triệu đồng phân phối cho anh em tiêu Tết. Sau Tết thu được tiền các dự án sẽ trả. Thế là anh chị em có tiền ăn tết.

49. Tháng 3-1991 thu tiền các nơi gửi về trả xong nợ, mọi người phấn khởi. Từ tháng 51991 liền ăn trưa cho anh chị em cơ quan đài thọ mỗi tháng 150.000 đồng/tháng (Hiện nay tôi đã rời khỏi viện hơn 10 năm, mức ăn trưa vẫn giữ nguyên không thay đổi). Tôi hỏi đồng chí Doanh, Viện trưởng sao không nâng thêm cho anh chị em. Đồng chí bảo tôi: “Quĩ phúc lợi anh xây dựng, tổ chức kỉ niệm 20 năm thành lập Viện, chi gần hết rồi”.

Còn từ hồi đồng chí An về làm viện trưởng tôi chưa có dịp hỏi lại. Tôi đã xếp sắp bộ máy và đề bạt 27 cán bộ vào các chức vụ như vụ trưởng, vụ phó, chánh phó văn phòng. Đồng chí Vũ Tiến Lộc từ cán bộ của Viện Quản lí kinh tế Trung ương, tôi sử dụng làm thư kí và đào lạo nay trở thành Chủ tịch VCCI.

Trong những tháng đầu năm 1991, chuẩn bị Đại hội 7 những người có ý định xấu với tôi lại tung ra những dư luận xuyên tạc để loại tôi khỏi Trung ương khoá 7. Tôi đã tiên liệu trước tình hình này nhưng không ngờ các đồng chí đó dùng đủ mọi hành động không tốt đẹp đến thế đối với tôi. Đến Đại hội Hải Phòng, anh Mười và tôi cùng một số đồng chí khác về ứng cử đại biểu đi dự Đại hội toàn quốc.

Ngày khai mạc, anh Đạt, đại tá, đứng lên tố tôi khai man lí lịch và một vài việc lặt vặt khác. Đại hội phải cho thẩm tra, lấy bản kết luận của đồng chí Võ Chí Công ra đọc và đồng chí Trưởng ban kiểm tra tư cách đại biểu khẳng định việc tố cáo của anh Đạt là không đúng. Nhưng khi bầu cử tôi cũng bị mất hơn một trăm phiếu. Còn ở Trung ương, Bộ Chính trị không giới thiệu tôi vào danh sách Trung ương khoá 7. Đồng chí Nguyễn Thanh Bình và đồng chí Nguyễn Đức Tâm gặp tôi để đả thông tư tưởng. Anh Bình nói:

- Lá thư anh gửi cho các giám đốc công ti trực thuộc về việc thôi làm Bộ trưởng là có ảnh hưởng không tốt.
Tôi nói lại:
- Thư của tôi chẳng có gì làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng cả, chỉ có một câu: Trong 44 tháng tòng chính ở Thủ đô Hà Nội, tôi mới hiểu thế nào là nhân tình thế thái. Chỉ có thế thôi. Lúc này một số dư luận không tốt về tôi, xuyên tạc Hội nghị tổng kết của Bộ tại Hội trường Thống nhất Thành phố Hồ Chí Minh, các anh chẳng ai bảo vệ tôi, tôi phải viết thư nói rõ việc đó.

50. Hai anh Bình và Tâm không nói gì. Hôm đó có cả anh Văn Phác, cũng là người được làm tư tưởng để thôi Trung ương khoá 7. Tôi hiểu đây chỉ là cuộc gặp mang tính thủ tục, tôi không nói gì thêm, vì việc đã “an bài” ở chỗ khác rồi. Thế là kết thúc cuộc gặp giữa anh Nguyễn Thanh Bình, anh Nguyễn Đức Tâm với tôi và anh Văn Phác.

Ngay trong cuộc họp Trung ương để chuẩn bị Đại hội, anh Linh gọi tôi bảo:

- Tôi vẫn giới thiệu anh vào Trung ương khoá 7, nhưng anh Đỗ Mười bảo để Ban Cán sự Chính phủ bàn thêm. Hai lần tôi nhắc, bên Chính phủ đều đề nghị anh thôi không ứng cử khoá 7.
Tôi cảm ơn anh Linh, và nói:
- Tôi biết rõ ý định của các đồng chí đó lâu rồi. Anh đừng bận tâm đến việc của tôi, ảnh hưởng đến công việc của anh.

Anh Linh lại khóc.

Một sức ép khác, là căn nhà của tôi ở Hải Phòng, tôi đã trả thành phố. Còn căn nhà số 4 Nguyễn Khắc Cần tôi mượn ở tạm, khi Nhà nước chưa xếp nhà cho tôi theo tiêu chuẩn. Mà cái nhà số 4 Nguyễn Khắc Cần do tôi xây dựng bằng số tiền đền của công ti Du lịch vì xây nhà làm ảnh hưởng đến nhà tôi đang ở, cộng thêm 10 triệu kinh phí của Bộ, xây dựng làm chỗ làm việc cho Bộ trưởng.


Nhưng lúc đó không hiểu sao Uỷ ban Kiểm tra Trung ương cử cán bộ đến thúc giục tôi phải di chuyển ngay vì Đại hội đến nơi rồi... Tôi biên thư trả lời, đại ý nói: “Khi việc tày đình đối với tôi là chuyện vu khống bỉ ổi việc tôi bị bắt, bị tù... sao các đồng chí không giải quyết? Còn cái nhà nó sù sù ra đấy, không cho tôi ở, tôi sẽ đi nơi khác. Nay chưa có nhà, tôi ra đường đứng hay sao? Các đồng chí không nên giục tôi. Tôi là người “Tri sỉ”, không táng tận lương tâm cướp nhà của Nhà nước đâu. Mà cướp cũng không được với các đồng chí”.

51. Thế mới yên. Cho đến khi có công văn chính thức của Bộ Thương mại giải quyết cho tôi xây nhà, tôi đi ngay, không chần chừ một ngày. Nghĩ lại cái khẩu hiệu “Mình vì mọi người, mọi người vì mình” tôi thấy nó “rỗng”, ngay cả giữa đồng chí với nhau.

Nhưng nhà tôi, cô Phí Thị Tâm không giữ được bình tĩnh, đã đem đốt hết Huân chương, bằng khen của cả hai vợ chồng, một bó to bằng bắp đùi. Khi tôi biết chuyện liền trách nhà tôi: “Sao em vội vàng thế? Làm thế có ích gì. Có khi người ta lại hiểu lầm...” Nhà tôi to tiếng: “Sắp ra đứng đường còn nhà đâu mà treo huân chương, huy chương, bằng khen. Em đốt đi để dọn nhà cho nhanh gọn”.


Rồi nhà tôi khóc. Tôi bảo: “Khóc là không có bản lĩnh. Họ đối với mình như vậy, mình bình tĩnh xử lí, chân lí sẽ thuộc về mình. Nếu mình làm khác thì mình cũng như họ thôi. Em nên bình bĩnh. Còn anh Mười đối với anh, anh đã bảo em là “Nhân dục vô nhai”, anh ở địa vị anh Mười có khi anh cũng làm như anh Mười”. Nhà tôi lại to tiếng với tôi: “Anh đừng lấy anh ra để an ủi em. Em ở với anh gần 50 năm, đã có 4 mặt con, em hiểu anh không bao giờ làm những điều thất đức như các anh khác đâu. Anh đúng lấy việc đó ra nói với em, để em bớt giận.


Anh hi sinh cho đất nước thế nào, dám chết, dám bỏ chức vụ nhường quyền cho người khác, không hề tranh chấp với bất cứ ai về quyền lợi, em biết rõ chứ. Sao anh tự hạ thấp anh xuống, ví anh cũng như họ là thế nào? Mai em sẽ đến chất vấn ông Nguyễn Văn Linh về việc này”. Tôi nói: “Anh Linh quý anh lắm em đừng làm phiền anh Linh và làm ồn ào sự việc. Chẳng hay ho gì cho Đảng, cho các anh ấy khi đang lãnh đạo đất nước...”.

52. Từ đó nhà tôi phát bệnh. Hết bệnh này đến bệnh khác. Đến 3-5-1999 (tức 18-3 Quý Mão) nhà tôi qua đời, chưa được đến ở ngôi nhà mới 216 Đội Cấn mà cách mạng đem lại hạnh phúc cho chúng tôi.

Trong những tháng nhà tôi ốm đau, không rõ đồng chí Lê Đăng Doanh báo cáo với anh Mười thế nào, một hôm đồng chí Lê Đăng Doanh bảo tôi: “Chiều hôm nay khoảng 5 giờ, anh Mười đến thăm chị Tâm. Anh ở nhà đón ông ấy một tí” Tôi trả lời: “Tất nhiên tôi ở nhà đón anh Mười”. Tới đợi gần 6 giờ, anh Mười không thấy đến. Tôi nghĩ chắc lại có việc đột xuất. Lúc đó tôi có điện thoại của ông lang Chấn, ở Hoàng Hoa Thám gọi đến lấy thuốc.


Tôi đi đến nhà ông lang Chấn lấy thuốc xong về ngay. Về đến nhà thì anh Mười đến thăm nhà tôi vừa về. Tôi hỏi qua nhà tôi, nhà tôi bảo: “Em không dậy được, chỉ ngồi nói chuyện với anh Mười một vài câu, rồi anh Mười về”. Tôi vội đi xe lại nhà anh Mười để cảm ơn và nói rõ sự vắng mặt, kẻo anh hiểu lầm. Anh bảo tôi sang ngay anh Trần Vỹ, nguyên Chủ tịch UBND Hà Nội hỏi về chữa bệnh “tiểu đường”. Anh Mười lại gọi điện cho anh Trần Vỹ để tôi đến đỡ bất ngờ. Tôi cảm ơn anh Mười đã đến thăm nhà tôi, rồi tôi vội đi ngay đến nhà anh Trần Vỹ.

Anh Vỹ hướng dẫn tôi chữa bệnh “tiểu đường” bằng cách uống nước chè tươi. Giã chè tươi, pha với nước sôi để nguội rồi uống ngày 3 lần. Tôi ngồi nói chuyện với anh Trần Vỹ khoảng 15 phút, rồi về làm theo sự chỉ dẫn của anh Trần Vỹ ngay tối hôm đó.

53. Khi nhà tôi qua đời, anh Đỗ Mười công tác tại thành phố Hồ Chí Minh, cũng gửi điện chia buồn với gia đình tôi.

Khi Đại hội 7 họp, một số đoàn vẫn giới thiệu tôi ứng cử vào ban chấp hành. Tôi nghĩ Trung ương khoá 6 không giới thiệu tôi, nên tôi gặp báo cáo với anh Nguyễn Văn Linh xin rút khỏi danh sách ứng cử cho đúng ý thức kỉ luật. Anh Linh bảo tôi: “Cứ để vậy, đừng rút”. Khi bầu tôi được hơn 260 phiếu đạt hơn 25% số đại biểu đi dự Đại hội. Các đồng chí ứng cử tự do không ai trúng cử. Hai đồng chí được Trung ương giới thiệu cũng không trúng.

Trước khi họp Đại hội 7 vấn đề tiểu sử của anh Văn cũng lại được đem ra thảo luận, có thêm một vài việc mới, thiếu cứ liệu. Có một hôm anh Văn họp Trung ương khoá 6, anh Văn phải đứng lên thanh minh cho mình và nói: “Một vị tướng cầm quân đánh thắng ở Điện Biên Phủ mà còn bị nghi ngờ thân Pháp...” Giọng nói của anh vừa rung động vừa chân thành. Tôi thực sự không cầm được nước mắt. Tôi nghĩ nội bộ với nhau, cứ thắng thắn bảo nhau, ai làm thì làm, ai nghỉ thì nghỉ, giữ sao cho được tình cảm chân thành là chính, chả thế một nhà thơ đã viết:

Tất cả trên đời đều trôi nổi,
Còn lại non sông một chữ tình..

Với tinh thần đó, trong khoá 6 đã hai lần tôi phát biểu tại phiên họp toàn thể của Trung ương là: “Khi cần, đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cứ gọi điện cho tôi, là tôi nghỉ ngay, không cần phải giải thích vì sao.”


2007-04-12 09:51:27


Chương VIII


1. Suốt hai năm ròng rã, từ khi tôi thôi uỷ viên khoá 6. Hàng tháng hoặc hai tháng tôi biên thư cho Bộ Chính trị và Ban Bí thư xin đối chất với những người có đơn vu khống chính trị tôi. Tôi nghĩ những người này không những loại được tôi ra khỏi chính trường, họ còn muốn làm “nhục” tôi nữa. Nên họ rêu rao do tôi khai man lí lịch phải ra khỏi các chức vụ.

Nếu làm rõ ràng thì tôi còn phải khai trừ và đưa ra toà về tội làm “gián điệp” cho Pháp. Bởi vậy tôi phải kiên quyết đề nghị đối chất với họ. Đối với người làm hại mình, bên ngoài lại tỏ vẻ hàm ơn cho mình, bao dung cho mình, tôi cũng cần phải làm rõ trắng đen. Tôi nói rõ trong đơn, nếu lí lịch của tôi có chỗ khai man, tôi xin được “xử bắn”. Còn người vu khống tôi, chỉ cần thề trước khi đối chất là: “Nếu vu khống tôi, xin làm con chó là đủ”.

Nhưng nguyện vọng ấy mãi không được chấp nhận. Anh Đỗ Mười và một số đồng chí bảo tôi: “Lí lịch anh đã có văn bản của anh Võ Chí Công kết luận rồi, Đảng có đánh giá gì anh đâu mà phải đòi đối chất”. Tuy nói vậy, nhưng một số người vẫn vu khống, họ cũng không chịu cùng tôi đối chất.

Họ nói: “Vì bảo vệ Đảng mà họ nói thôi. Đối chất mất hết tình nghĩa giữa chúng tôi và anh Thành”.

2. Họ nói đạo lí “xanh rờn” như vậy nghe có “thấu tình đạt lí không” ? Tôi viết thư cho anh Lê Đức Anh nói: “Đề nghị anh chủ trì giúp, vì anh Mười đối với tôi và anh Tô Duy cũng khó nói...”

Anh Lê Đức Anh gặp tôi ở Quốc hội nói: “Việc này đã rõ quá rồi, không làm không được, tôi sẽ nói với Mười chủ trì giải quyết sớm”. Nhưng mãi cũng không thấy tổ chức đối chất. Anh Đỗ Mười gặp tôi bảo phía bên kia họ không đối chất.

Một hôm nhà tôi và tôi đến thăm anh Mười. Lúc đó nhà tôi thấy bức xúc quá, nên cứ vừa khóc, vừa đập bàn nói: “Anh phải chủ trì giải quyết cho nhà em. Nhà em phải hi sinh vào đất địch gian khổ, bị bắt, bị tra tấn, giam cầm khổ như thế nào. Nay họ vu khống cho nhà em là gián điệp quốc tế, các cháu đều là đảng viên cả, chúng sẽ nghĩ về Đảng ra sao? v.v..”.

Anh Mười quay sang bảo tôi:

- Tại sao anh Thành lại nói việc này với chị ấy? Việc này để tôi giải quyết. Cô ốm nên yên lâm chữa bệnh. Tại sao anh Thành lại nói với chị ấy trong lúc ốm đau.
Tôi hơi khó chịu, nói:
- Thưa anh Mười, việc này cả nước cùng biết, tôi sao giấu được nhà tôi? Anh bảo với Tô Duy có đào mả bố hắn lên cũng không tìm được tài liệu tôi bị bắt tháng 2-1951.

Anh Mười đứng phắt dậy đi ra tủ sách xem, không nói chuyện với chúng tôi nữa. Tôi rỉ tai nhà tôi: “Chạm nọc rồi”. Khoảng 5,7 phút đi vòng xem các tủ sách như tìm cái gì, anh Mười tỏ ra bực tức, nhưng không nói. Sau trở lại ngồi xuống nói với chúng tôi: “Cô cứ yên tâm để việc này tôi giải quyết”.

Chúng tôi đứng dậy xin phép anh Mười ra về.

3. Tôi nghĩ phải kéo những người này ra trận tiền, không để họ cứ ở chỗ tranh tối, tranh sáng trong xó tối, nhân danh bảo vệ Đảng để tiếp tục vu khống, làm “nhục” mình. Tôi bèn viết một lá thư gửi anh Mười và gửi rộng rãi các đồng chí Ban bí thư, Bộ Chính trị, các ban của Đảng. Tôi thôi không xin đối chất nữa, chỉ cần xác minh cho tôi bị bắt tháng 91951 không phải tháng 2-1951 là đủ. Lá thư đó lọt đến tay những người vu khống tôi, họ yên trí là tôi sợ đối chất, vì họ có nhân chứng sống như Hoàng Chữ, đã có thư gửi anh Đỗ Mười (phần trên đã nói nội dung bức thư). Họ hí hửng chỉ một nhân chứng sống Hoàng Chữ cũng đủ để đánh gục tôi.

Còn ngày bị bắt tháng 2 hoặc tháng 9-1951 không còn ý nghĩa nữa. Lập tức những người vu khống kí tên xin đối chất với tôi, gồm 12 người. Sau anh Nguyễn Văn Bút, Phó Bí thư Thành uỷ xin rút. Vì hôm họp anh em kháng chiến “Đèo Voi”, anh Bút gặp tôi giơ tay bắt tay, tôi không bắt tay.


4. Anh Bút vẫn nài tôi bắt tay. Tôi nói: “Anh phải hứa với tôi từ nay không tham gia với nhóm vu khống tôi”. Anh Bút đồng ý, tôi bắt tay anh Bút. Từ đó anh cự tuyệt và không tham gia với nhóm này nữa. Quan hệ giữa tôi và anh Nguyễn Văn Bút trở lại bình thường.

Hôm 19-6-2004 vừa qua, trong bữa cơm Thành uỷ và UBND thành phố Hải Phòng chiêu đãi chúng tôi, anh Bút lại kể lại tình bè bạn thân thiết giữa tôi và anh Bút cho mọi người nghe, (trong đó có đồng chí Trịnh Văn Sử, Phó Bí thư Thường trực, Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng cùng nghe). Anh Bút kể lại câu chuyện khi chúng tôi về chuẩn bị nhận chức Bí thư Quận uỷ Bạch Đằng và Ngô Quyền: “Trong lúc chờ đợi ở Đèo Voi, sống khổ sở mỗi bữa có một con cá phèn nướng, sáng tôi ăn đầu anh Thành ăn đuôi, chiều ngược lại. Có mấy cọng rau muống cũng chia đôi...”. Mọi người nghe rất xúc động...

5. Mãi đến ngày 26-2-1993 Ban Bí thư mới quyết cho tổ chức cuộc họp đối chất do anh Đỗ Mười, Tổng Bí thư chủ trì, có anh Nguyễn Đình Hương uỷ viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ và 8 cán bộ Vụ trưởng, Vụ phó ban Tổ chức Trung ương, Ban Bảo vệ chính trị nội bộ đã tham gia cuộc đối chất xác minh vấn đề bị bắt, bị tù của tôi, và những đơn tố giác. Hải Phòng có đồng chí Lê Danh Xương, Bí thư Thành uỷ, đồng chí Trần Huy Năng, Uỷ viên thường vụ, trưởng ban Tổ chức thành uỷ cùng dự.

Về phía những người tố giác có 11 đồng chí.

1/ Tô Duy, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Kiến An, uỷ viên thường vụ Phó Chủ tịch UBND Hải Phòng, Chủ nhiệm Uỷ ban vật giá Trung ương.
2/ Lê Quang Tuấn, nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng 1948, Giám đốc công an khu 3, Bí thư tỉnh uỷ Hà Bắc, Viện trưởng viện thi đua khen thưởng.
3/ Trần Đông, nguyên uỷ viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ (nay là bộ Công an).
4/ Nguyễn Mạnh Ái, nguyên Bí thư quận uỷ Ngô Quyền, cục Phó Cục bảo vệ Tổng cục chính trị QĐND Việt Nam.

Và 7 đồng chí khác là Nguyễn Thắng, Vũ Kính, Phạm Diệt, Vũ Tiến Long, Hoàng Hải, Hoàng Chữ, Phùng Văn Về.

Về phía nhân chứng cho tôi có 10 đồng chí: Lê Nghiêm, Quận uỷ viên quận Ngô Quyền, hoạt động trong nội thành, người trực tiếp đón tôi vào nội thành công tác, đồng chí Nguyễn Văn Nhuận, Bí thư chi bộ khu 7 thuộc quận Ngô Quyền là người đưa đón tôi đi hoạt động ở nội thành; cô Trần Thị Định cùng với chồng là đồng chí Bảo, là cán bộ của khu 7, nơi tôi qua lại ăn ở.


6. Cô Định và chú Bảo còn ứng cho tôi mượn một cây vàng lấy tiền lo thẻ căn cước của tôi và đồng chí Đào Ái cho chúng tôi có giấy tờ của địch, đi lại trong nội thành hoạt động. Đồng chí Lê Công Thiên, Phó Bí thư huyện uỷ Kim Thành, huyện đội trưởng, đã giúp đỡ tôi về chữa bệnh ở Kim Thành.


Các đồng chí Nguyễn Xuân Sâm, Nguyễn Văn Nghĩ, Nguyễn Tân, Vũ Quang Đạo, là những đồng chí cùng bị bắt và cùng bị tù với tôi ở nhà tù Đoạn Xá, Côn Đảo... Đồng chí Nguyễn Văn Linh, nguyên quyền Trưởng ti y tế Hải Phòng, cưới chị Phụng Dương ngày 8-7-1951, cưới tập thể với đám cưới anh Tô Duy cưới chị Lê Thu; anh Nguyễn Đình Hân, chuyên viên văn phòng thành uỷ, tháng 71951 còn ăn cơm với tôi ở văn phòng thành uỷ tại Hồ Lao Sơn Động Bắc Giang, trước khi tôi vào nội thành công tác.

Đến hội nghị đối chất vẫn còn vu khống trắng trợn

7. Đúng 8 giờ ngày 26-2-1993 hội nghị họp.
Đồng chí Đỗ Mười chủ trì hội nghị tuyên bố:
- Hôm nay tôi là Bao Công. Ai có ý kiến gì nói cho hết.
Sau đó anh Mười nói: Bị bắt tháng 2 hay tháng 9 có gì quan trọng nhỉ? Vấn đề bị bắt khai báo ra sao, trong tù hoạt động thế nào, mới là quan trọng chứ?

Tôi đứng lên báo cáo với anh Mười:
- Các anh đây không tìm thấy khuyết điểm của tôi khi bị bắt, khi bị tù, các anh ấy xoay sang việc tôi bị bắt tháng 2-1951. Trong lí lịch tôi khai bị bắt tháng 9-1951 như vậy chênh lệch nhau 7 tháng. Bảy tháng ấy tôi đi đâu? Chắc đi huấn luyện làm tình báo cho địch. Không đơn giản như anh nói đâu, anh Mười ạ!

Ban Tổ chức báo cáo là còn thiếu anh Hoàng Chữ. Tức thời anh Nguyễn Thắng, anh Vũ Tiến Long đứng dậy nói:
-Anh Hoàng Chữ không dám lên Hà Nội họp vì sợ anh Thành giết.
Anh Nguyễn Mạnh Ái cũng nói là anh Hoàng Chữ nói với anh Ái như vậy. Có mỗi một nhân chứng sống lại vắng mặt. Nhân chứng này viết thư trực tiếp cho anh Mười, nếu không có mặt thì còn chứng lí gì để đối chất? Trong lúc đó một cán bộ Ban tổ chức đứng dậy báo cáo với anh Mười: “Anh ta trốn đấy! Chứ ai giết mà anh ta sợ”. Anh Mười bảo anh Lê Danh Xương cho người tìm và dẫn bằng được anh Hoàng Chữ lên Hà Nội. Đồng chí Lê Danh Xương điện về Hải Phòng yêu cầu tìm mọi cách đưa anh Hoàng Chữ lên Hà Nội họp ngay.

8. Cuộc họp bắt đầu. Các anh Tô Duy, Trần Đông phát biểu trước, rồi đến các anh Nguyễn Thắng, Vũ Tiến Long, Phạm Điệp, Nguyễn Mạnh Ái. Họ phát biểu dài dòng đại để như: tôi đã 20 năm làm công an nên có kinh nghiệm chống gián điệp, âm mưu nọ, âm mưu kia. Họ không nêu được ý gì cụ thể cả, chỉ nghe dư luận v.v... Tôi có lúc khó chịu, có lúc xuýt bật cười. Tôi ghi chép kĩ, để khi phát biểu sẽ nói cho mỗi vị một trang. Tất cả đều chung chung. Có anh không nói, vì không biết gì cả, như anh Hoàng Hải, anh Lê Quang Tuấn họ đã định không phát biểu. Tôi nhắc anh Mười bảo anh Tuấn phát biểu, anh Tuấn mới phát biểu: “Đây là hội nghị của Đảng, nên cứ phát biểu chung, không nên hết phe này phát biểu rồi đến phe kia phát biểu” (chấm hết).

Lúc đó đã là 3 giờ chiều. Một cán bộ Ban Tổ chức Thành uỷ đưa anh Hoàng Chữ vào hội trường. Ngồi 5 phút, anh Mười bảo anh Hoàng Chữ phát biểu. Anh Chữ nói:

-Tôi xin lỗi đồng chí Đỗ Mười, đồng chí Đoàn Duy Thành, tôi chỉ nghe quân tôi nói, tôi không trông thấy đồng chí Thành mặc quần áo trắng, đọc nhật trình, không bị tra tấn gì, ngồi xem anh em bị tra tấn. Tôi nói như vậy là có sự tác động. Một lần nữa tôi xin lỗi đồng chí Tổng Bí thư và đồng chí Thành.

Rồi anh Hoàng Chữ ngồi xuống. Tôi liền hỏi: “Ai tác động?”. Anh Hoàng Chữ không trả lời. Còn anh Phùng Văn Về, cháu ông bà Ngời, ở ngõ Sỏi phố ga Hải Phòng là nhân chứng đã tuyên bố biết tôi bị bắt tháng 2-1951, đã cùng ăn, cùng ngủ với tôi ở nhà ông bà Ngời. Anh Về phát biểu:

-Tôi chưa gặp anh Thành lần nào, chỉ thấy cô, chú tôi nói là anh Duy bị bắt ở đây. Tôi nhớ là mùa nóng bức, tôi không nhớ rõ là ngày tháng nào cả.

Anh Hoàng Hải phát biểu:
-Tôi không biết gì cả. Các anh ấy nhờ tôi đưa anh Về lên đây giúp.

9. Đặc biệt là anh Vũ Kính, nguyên uỷ viên Thường vụ quận uỷ Ngô Quyền, phụ trách văn phòng từ khi mới lập quận, anh người Hưng Yên, thường vụ huyện uỷ Mỹ Hào, được điều sang Hải Phòng từ 1949. Anh cũng học Hán tự, cũng biết đạo lí của Thánh hiền. Anh biết tôi làm Bí thư quận uỷ, rồi xuống làm Phó Bí thư vì không phải là Thành uỷ viên.

Tháng 7-1951 tôi vào nội thành hoạt động, tôi gửi tài liệu và tư trang cho anh. Sau anh gửi tài liệu và tư trang của tôi cho anh Trần Phương (Phương xích) là Bí thư quận uỷ Ngô Quyền trả lại tôi. Anh Vũ Kính đã làm Chánh văn phòng Thành uỷ và đón tôi ở Côn Đảo về. Sau anh làm Phó Giám đốc sở Công an, rồi làm Hiệu trưởng trường trung cấp Công an của Bộ Nội vụ, trường đóng ở Hà Bắc.


Tôi đã có ý định mời anh Vũ Kính làm chứng cho tôi, sau biết được anh đứng trong danh sách 12 đồng chí dự đối chất với tôi nên tôi không mời nữa, đợi xem ngày họp đối chất anh sẽ nói gì về tôi. Đến khi phát biểu, anh Vũ Kính chỉ nói một câu: “Tôi đến đây chỉ để chứng minh cuộc họp Ban chấp hành quận uỷ Ngô Quyền tháng 6-1951 là không có. Lúc đó tôi đi học ở trường Trần Phú”.


10. Rồi anh Kính ngồi xuống không nói gì thêm. Tôi cũng hơi buồn cười, vì chẳng có ai nhắc đến cuộc họp (tháng 6-1951). Khi giải lao, tôi gặp anh Kính, nhắc lại chuyện cũ. Anh Kính bảo tôi: “Tôi còn nhớ tất cả, kể cả tháng 7-1951 tôi còn đưa anh ra Đồng Vành chụp ảnh, rồi đưa cậu Văn Te làm giấy chứng minh do Bang Trình Thuỷ nguyên kí” Tôi nói lại: “Tôi định mời anh làm nhân chứng cho tôi, nhưng thấy danh sách đối chất với tôi có tên anh rồi, nên tôi không mời nữa”. Anh lặng yên không nói gì.

Từ 3g30 chiều, 10 đồng chí bảo vệ sự thật cho tôi mới phát biểu. Trong lúc những người tố giác nói sai sự thật, các đồng chí phía tôi rất tức giận, như cô Định, đồng chí Thiện, đồng chí Vũ Quang Đạo. Họ giơ tay liên tục đòi phát biểu. Tôi ra hiệu cho họ cứ bình tĩnh, để các anh phía bên kia phát cho hết ý đi, mình phát biểu cũng không muộn. Cô Định tức giận đứng dạy phát biểu rất xúc động. Khi cô phát biểu xong, đồng chí Đỗ Mười ôm hôn cô và nói: “Tôi thương vợ chồng cô quá!”. Đồng chí Nguyên Tân (Văn Tân) tức giận nói: “ ...

Chúng tôi đã bị địch giày xéo lên xác chúng tôi, các anh còn định giày xéo lên xác chúng tôi lần nữa hay sao?” Anh Vũ Quang Đạo, móc một mắt giả do anh làm “cooc-vê” đập đá ở Côn Đảo bị đá bắn vào mù mắt, nói “Tôi lấy một con mắt còn lại, bảo đảm rằng đồng chí Thành là một đảng viên kiên cường, đã cùng với anh Văn (Hiến), anh Lê Đình Thụ cùng các đồng chí trong Đảo uỷ Côn đảo vạch ra kế hoạch vượt đảo có một không hai trong lịch sử các nhà tù của đế quốc...”

Khi kết thúc hội nghị, đồng chí Vũ Quang Đạo nói với anh Đỗ Mười: “Hôm nay tôi đem cả thẻ đảng viên đến đây. Nếu anh kết luận khác là tôi trả thẻ đảng, để xin ra Đảng”. Anh Mười nói: “Đến thế à!”.

Đến 7 giờ tối, hai phía đã phát biểu xong, anh Mười nhìn tôi bảo:
-Đủ rồi, để tôi kết luận kẻo muộn. Anh Thành không cần phát biểu nữa.

11. Tôi xin phát biểu 5 phút, tôi nói:
-Tôi định phát biểu dài, tôi đã chuẩn phát biểu trả lời cho mỗi anh một trang, nhưng anh Mười bảo thôi, vậy tôi chỉ nói về anh Vũ Kính, anh Kính biết tất cả mọi việc của tôi, nếu anh nói hết sự thật cho các anh này biết, có thể không phải có cuộc họp này. Tôi kể lại đầu đuôi từ ngày thành lập quận, anh Vũ Kính ở đủ các thời kì tôi vào nội thành hoạt động. Tôi bị bắt, bị tù, ra tù, anh Vũ Kính lại đón tôi, nghe hết mọi chuyện thẩm tra, điều tra xác minh về tôi.v.v.

Tất cả lời phát biểu của tôi, anh Kính đều công nhận là đúng. Tôi định nói thêm về anh Nguyễn Mạnh Ái một chút, nhưng anh Mười bảo tôi quá muộn rồi, để anh kết luận. Tôi ngồi xuống vừa suy nghĩ. Anh Vũ Kính có học Hán tự nên còn giữ được chữ “tín”. Còn anh Tô Duy, việc rành rành như “canh nấu hẹ”, như việc vợ chồng anh và chị Lê Thu cưới tập thể với vợ chồng anh chị Linh và Phụng Dương, anh Lê Xuân Thịnh và chị Kiệm, 5 người còn sống (trừ anh Thịnh đã hi sinh từ 1952) cớ sao anh có thể nói khác đi.

Năm 1982 vợ chồng anh Tô Duy và chị Lê Thu còn xác minh lại với tôi là, họ cưới nhau 8-7-1951 ở Hồ Lao, có mặt tôi ở đó, rồi mấy hôm sau họ còn đến thăm tôi Anh Linh (Nghĩa), chị Phụng Dương, chị Kiệm đều chứng nhận tôi có mặt trong sự kiện trọng đại của ba đôi vợ chồng.

Thế mà anh Tô Duy phủi tay để vu khống tôi bị bắt tháng 2-1951 chứ không phải tháng 9-1951, để ghép cho tôi 7 tháng vắng mặt là được địch cho đi đào tạo làm gián điệp. Anh Tô Duy còn bảo các anh em đi thẩm tra, bắt tôi phải tả lại đám cưới, nơi tổ chức đám cưới, trang trí như thế nào? Để bảo đảm tính trung thực của mình, tôi tả lại đầy đủ đám cưới cho cán bộ đi thẩm tra.

Anh Tô Duy lại xoay ra việc khác, nói với cán bộ đi kiểm tra: “Cậu Thành đã đi điều tra tỉ mỉ nơi tổ chức đám cưới...”. Anh Tô Duy có biết đâu từ đó đến nay tôi chưa lần nào trở lại Hồ Lao, và cũng chẳng hỏi lại ai về việc này làm gì.

Thế mới hay có học cũng có hơn. Trong lúc làm việc với nhau ở quận, khi nghỉ làm việc ở Ràng Động, Minh Tân, Quì Khê, Minh Đức Thuỷ nguyên, hoặc Châu Xá, Kinh Môn... tôi và anh Vũ Kính hay đem Tứ thư, Ngũ Kinh ra bàn luận. Trong đó có chữ “tín”, Khổng Tử nói trong sách Luận ngữ. Trong một buổi Khổng Tử giảng bài cho học trò của mình có mặt Tử Cống, một trong 72 học trò giỏi của Khổng Tử. Tử Cống là nhà ngoại giao và chính trị. Ông hỏi đức Khổng Tử một câu về chính trị “Tử Cống vấn chính, Khổng Tử viết, Túc thực, túc binh dân tín chi hĩ” (Tử Cống hỏi về làm chính trị, Khổng Tử trả lời: Đủ lương thực, đủ binh lính, giữ chữ tín với dân). Tử Cống hỏi tiếp: Nếu 3 điều trên bất đắc dĩ phải bỏ một thì bỏ điều nào trước?


12. Khổng Tử bảo: bỏ bớt binh lính. Tử Cống lại hỏi, còn 2 điều cũng bất đắc dĩ phải bỏ một thì bỏ điều nào? Khổng Tử trả lời: bỏ lương thực và giải thích: “Nhân sinh giai hữu tử, nhân vô tín bất lập” (Mọi người sinh ra phải có chết, nhưng người không giữ được chữ tín thì không thành người). Câu chuyện của Khổng tử nói với Tử Cống, chúng tôi rất tâm đắc, nên tôi nghĩ anh Vũ Kính dù có đứng trong danh sách 11 người, nhưng chỉ nói và công nhận sự thật để giữ được chữ tín”. Đó cũng là điều khó làm đối với một số người đã không giữ được chữ tín, mà còn bịa đặt, tráo trở lá mặt lá trái... là điều đáng suy ngẫm lắm thay!

Anh Đỗ Mười kết luận.
Trước khi kết thúc, anh Mười nói:
- Đề nghị anh Thành thôi không truy ngược lại nữa. Vì Đảng ta còn khó khăn”. Bản thông báo lời lẽ rõ ràng, nghiêm túc. Có đoạn viết “...Các đồng chí nghi vấn chính trị với đồng chí Đoàn Duy Thành là sai, không có căn cứ xác thực, yêu cầu các đảng viên phải nghiêm túc chấp hành kết luận của Ban Bí thư. Nếu đồng chí nào còn có ý kiến bảo lưu ở khía cạnh này, hay khía cạnh khác thì để lưu vào hồ sơ. Không đồng chí nào được nói khác kết luận của Ban Bí thư. Phải giữ vững nguyên tắc lập trung dân chủ và kỉ cương của Đảng”.

Thông báo này phổ biến đến các Tỉnh uỷ, Thành uỷ, Đảng uỷ trực thuộc Trung ương. Riêng Đảng bộ thành phố Hải Phòng và Đảng bộ cơ sở nơi đồng chí Đoàn Duy Thành sinh hoạt Đảng được phổ biến đến chi bộ (Đồng chí Đào Duy Tùng thay mặt Ban Bí thư đã kí).

13. Sau 3, 4 tháng, tình hình lắng dịu. Khoảng tháng 9-1993, có Hội nghị giữa nhiệm kì, bầu bổ sung Trung ương. Số đại biểu đi dự đại hội lần thứ 7 chỉ được triệu tập khoảng 70%, tôi không được triệu tập đi họp, dù tôi là đại biểu chính thức Đại hội Đảng lần thứ 7.


Tôi không được cử đi họp là chắc chắn như dự đoán của tôi. Tôi cũng không biết chính xác số đại biểu dự hội nghị giữa nhiệm kì là bao nhiêu đại biểu. Nhiều đồng chí uỷ viên, có cả uỷ viên Bộ Chính trị nói với tôi, yêu cầu Trung ương mời tôi đi dự hội nghị giữa nhiệm kì và bầu lại vào Ban chấp hành Trung ương.


Nhưng tôi đều cảm ơn và từ chối, không đặt vấn đề này ra làm gì nữa. Việc nó đã qua rồi, cho nó qua. Có đồng chí còn nói găng: “Cứ đến bắt đền ông Mười là ông ấy phải giải quyết”. Tôi nói lại: “Tôi đã nói với anh Mười, tôi chỉ đến xin công việc làm ích quốc lợi dân, còn xin chức vụ, quyền lợi không bao giờ tôi xin”.

Trong bản dự thảo thông báo của Văn phòng Trung ương về vấn đề của tôi, đưa cho anh Mười duyệt, anh chỉ gạch đi 2 từ: “hoàn toàn” ở câu: “Các đồng chí nghi vấn chính trị đối với đồng chí Đoàn Duy Thành là hoàn toàn sai”. Nay chỉ còn “là sai”. Nó cũng làm nhẹ khuyết điểm cho những đồng chí vu khống tôi một ít. Anh Đỗ Mười thừa biết là họ “hoàn toàn” bịa đặt.

Sau một thời gian, họ lại tung tin: “Anh Đỗ Mười vội vàng, hồ đồ kết luận không chính xác về Đoàn Duy Thành”. Rồi họ đi “vơ bèo vạt tép” tin thất thiệt về tôi, như nhân chứng Nguyễn Văn Cấp, nguyên Bí thư Huyện uỷ Kim Thành nói là không có việc tôi về chữa bệnh ở Kim Thành.

Tôi yêu cầu cho đối chất với anh Cấp. Anh Mười bảo: “Đối chất thế là đủ rồi. Vấn đề là để làm rõ bị bắt tháng 9 hay tháng 2-1951. Tháng 7-1951 cậu còn ở cơ quan văn phòng Thành uỷ. Còn dự đám cưới tập thể, bao nhiêu người làm chứng. Còn việc đi chữa bệnh ở Kim Thành tháng 2 đến tháng 5-1951 đã có anh Lê Công Thiệu làm chứng là đủ”. Tôi muốn đối chất với anh Cấp để vạch bộ mặt giả dối của anh ta. Vì tôi về chữa bệnh ở cơ quan huyện đội, anh Cấp cùng đồng chí Nguyễn Đình Củng, Chánh văn phòng đến thăm tôi ở nhà bà Kỉ, xóm Chùa, thôn Quê Phương, xã Bình Dân.


14. Khi cơ quan huyện đội chuyển sang sơ tán ở Bãi Xuân Đám, Thanh Hà, ban đêm ngủ trên thuyền, anh Cấp còn đánh cờ tướng bằng trí nhớ với tôi v.v... Anh Cấp quen biết quá rõ tôi. Thế mà trong đơn tố cáo tôi, anh Cấp nói: “Tôi không biết anh Thành, tôi cũng không gặp anh Thành lần nào. Chỉ khi anh Thành làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tôi mới biết...”

Anh bị một số anh em tù Côn Đảo ở Hải Dương và đồng chi Lê Công Thiệu phản bác lại. Anh Cấp lại đến đồng chí Nguyễn Đình Củng xác minh việc anh ta đến thăm tôi và có ý vận động anh Củng nói là không có. Khi sinh thời, đồng chí Củng kể lại chuyện này với tôi. Tôi lại càng thấy đấu tranh nội bộ nếu không nghiêm, nó sẽ lây lan rất phức tạp.

Chính sau khi đối chất xong, các đồng chí Ban Tổ chức kiến nghị với anh Mười nên có hình thức kỉ luật với những người nói sai sự thật, nhưng anh Mười gạt đi.

Một số anh em trong số 11 người, đi phân bua với nhiều người, nói là vì việc chung phải làm. Có người còn nói với một đồng chí bạn thân của tôi là: “Mình phục vụ cho ông ấy (ý nói anh Mười), ông lại kết luận mình sai. Nay mình chỉ yêu cầu ông ấy sửa bản thông cáo, bỏ chữ “là sai” là chúng mình không làm tiếp nữa. (nghĩa là không vu khống ông Thành tiếp nữa)”. Cổ nhân đã răn dạy, cần phải nhớ: “Sinh sự, sự sinh; hà nhật liễu! (Sinh ra việc, gây sự với người ta, người ta phải gây sự lại, không ngày nào kết thúc được).

15. Do đó người lãnh đạo vì dân, vì nước, phải biết vì lợi ích của nhân dân, phải chọn điểm dừng, chấm dứt sự việc. Chỉ biết có mình và quên việc người khác phản ứng lại ra sao, tất nhiên phải đẻ thêm chuyện, không biết giải quyết đến lúc nào cho hết. Đến nay thấy rõ hai phía đều đòi nợ anh Mười. Tôi đòi anh Mười phải trả lại những gì anh đã làm ảnh hưởng đến tôi, gia đình vợ con tôi. Còn phía bên kia họ đòi công phục vụ anh, hơn nữa đã không được trả công lại bị kết luận là sai. Cứ thế, và cứ thế...

Từ việc làm không đàng hoàng chính trực, biết bao cán bộ cấp dưới bắt chước, sinh nhờn kỉ luật. Từ kỉ luật sắt thành kỉ luật “mỡ” đó chẳng phải là bài học xây dựng Đảng, xây dựng con người lãnh đạo, phải có đức, có tài để làm gương tốt cho đời nay và mai sau hay sao? Các con tôi, bốn trai, các cháu đã trưởng thành, đều là đảng viên và cán bộ trung cấp.

Chúng biết suy nghĩ và đều có bản lĩnh. Các cháu không buồn, không nản lòng, chỉ cám cảnh cho những đồng chí của bố mình lại làm những việc đen tối, nhằm hãm hại bố mình một cách độc ác. Có một số nhà văn, nhà báo đến phỏng vấn các cháu, cháu Đoàn Duy Khương con trai thứ ba của tôi đã trả lời:

- Tôi biết bố tôi đã hi sinh cho đất nước, cho gia đình và chúng tôi như thế nào. Mẹ tôi và bạn bè của bố tôi kể lại cho chúng tôi nghe. Tôi tin tưởng sắt đá rằng bố tôi là người trung thành tuyệt đối với Đảng và dân tộc. Nhưng cứ giả thiết rằng bố tôi là “gián điệp quốc tế” thì tôi rất tự hào được là con một người thông minh nhất thế giớí. Vì tất cả các loại gián điệp thông minh và giỏi nhất thế giới, mà ta biết, họ đi làm gián điệp, phải thay tên đổi họ, phải bỏ vợ con gia đình ở quê hương, đi một nơi khác...

Thế mà bố tôi làm “gián điệp quốc tế” vẫn sống đầm ấm với mẹ con tôi vẫn sống ở quê nhà với cái tên thật mà trong nước lẫn thế giới đều quen thuộc: “Ông Đoàn Duy Thành”. Như thế phải là người thông minh nhất thế giới mới che mặt được cơ quan chống gián điệp của ta chứ!

16. Đồng chí Đỗ Mười đã dùng rất nhiều cách để hạ uy tín của tôi. Có rất nhiều chuyện, tôi chỉ kể ra đây hai chuyện. Trước đại hội 7 trong cuộc họp bàn về nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá 7. Anh Mười đứng lên phát biểu: “Bây giờ mới khui ra Đoàn Duy Thành có 3, 4 nhà ở Hải Phòng...”. Đồng chí Nguyễn Đình Hương, Phó ban Tổ chức Trung ương phải đứng lên cải chính: “Anh Đoàn Duy Thành chỉ có một nhà ở Hải Phòng do thành phố thu xếp cho, chúng tôi đã đi kiểm tra. Khi về công tác ở Trung ương, anh Thành đã trả lại nhà cho thành phố”.

Câu chuyện thứ hai. Anh Mười nói với một số cán bộ thân anh Mười để họ làm cái loa nói theo: “Đoàn Duy Thành ôm chân Võ Văn Kiệt.”. Họ rêu rao chuyện đó hàng năm. Anh Lê Đức Thọ nghe biết chuyện này. Anh Thọ đã nói trong một cuộc họp: “Đoàn Duy Thành nó thèm ôm chân ai. Đến tôi, nó cũng cãi tới số”. Một hôm tôi gặp anh Mười, tôi bảo: “Anh bảo tôi ôm chân anh Võ Văn Kiệt? Anh biết đấy, ở cái đất nước này tôi không thèm ôm chân ai. Nếu có ôm chân là ôm chân anh. Tôi đề nghị anh không nên nói như vậy. Tôi quý trọng người có đức, có tài; lễ độ, tôn kính người biết lự trọng và đối nhân xử thế có nhân cách...” Từ đó anh Mười mới không nói nữa v.v...

Kể ra còn nhiều, nhưng tôi nghĩ những chuyện sinh hoạt tầm thường của cá nhân không nên kể.

Năm 1997, Đại hội Phòng Thương mại và Công nghiệp có dư luận nói là lần này tôi không làm chủ tịch và về hưu. Việc về nghỉ, với tôi, tôi đã nói nhiều rồi. Bao giờ Đảng và Nhà nước bảo nghỉ là nghỉ ngay. Tôi không xin. Không rõ ai nói đến tai nhà tôi, nhà tôi đến nhà anh Mười, xin cho tôi làm thêm khoá nữa. Khi nhà tôi về, tôi hỏi nhà tôi đi đâu.

17. Nhà tôi bảo đi đòi nợ ông Mười. Tôi hỏi lại, đòi cái gì? Nhà tôi mới cho biết đến đề nghị anh Mười để tôi làm thêm một khoá nữa. Tôi bảo: “Anh đã bảo em nhiều lần, không nên xin anh Mười chức vụ quyền lợi gì”. Nhà tôi đứng phắt dậy nói: “Em đến đòi nợ ông ta. Ông ta đã làm anh khổ sở, quá thiệt thòi. Đến đòi được ít nào hay ít ấy... Anh để mặc em, lần này em phải làm cho ra nhẽ. Không để ông ấy bắt nạt mình mãi...”.

Mấy hôm sau, anh Mười gọi tôi đến bảo: “Cậu về làm đơn xin làm thêm khoá nữa”. Anh không nhắc gì chuyện nhà tôi đến gặp anh. Tôi bảo: “Anh bảo tôi làm đơn, anh có ủng hộ không? Nếu anh không ủng hộ, không sao đâu”. Anh Mười chỉ bảo “Cậu về làm đơn đi”. Tôi về suy nghĩ, bàn với mấy đồng chí giúp việc. Các đồng chí khuyên tôi nên viết đơn.

Phòng Thương mại và Công nghiệp cũng rất cần tôi làm thêm khoá nữa. Còn tôi, tôi cũng nghĩ đến những công trình dở dang, cơ chế về vai trò của doanh nghiệp và doanh nhân chưa được thông qua, nếu tôi làm tiếp cũng là để hoàn tất được công việc. Tôi viết đơn gửi anh Mười và gửi đồng chí Nguyễn Văn An, Uỷ viên Bộ chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương.

Sau Đại hội Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, anh Mười đi một số nơi tại Hải Phòng, anh Mười nói: “Đấy, Đoàn Duy Thành xin tôi làm khoá nữa, tôi cho làm đấy”. Tôi nghe các đồng chí nói lại. Tôi bảo nhà tôi: “Anh Mười đã kể công với mình đấy”. Nhà tôi bực mình nói: “Mặc ông ấy, mình đòi được một ít nợ là được rồi”. Tôi bảo: “Nợ này được cái gì? Chỉ biết trước mắt phải làm bao nhiều việc cho doanh nghiệp, cho VCCI...”. Nhà tôi lại lí sự với tôi: “Được làm việc cho cách mạng, đem lại lợi ích cho mọi người chứ sao. Để người khác họ đến phá và thu vén hết cho cá nhân, thì công lao khoá trước của anh cũng mất hết...” Tôi cười vui và nói: “Tôi lại thấp mưu hơn cô”.

18. Đến giữa nhiệm kì khoá 7. Tôi lại thăm anh Mười. Dù anh đối xử với tôi thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn giữ tình cảm anh em, đồng chí với anh. Lúc nào tôi cũng coi anh là Thủ trưởng. Anh kể cho tôi nghe, cuộc họp Trung ương giữa nhiệm kì này, anh xin nghỉ. Tôi hỏi ai thay, anh bảo tôi: “Lê Khả Phiêu”. Rồi anh giới thiệu quá trình của anh Lê Khả Phiêu, có đoạn đáng lưu ý và buồn cười với sự giới thiệu và giải thích này “Cậu Phiêu nó chiến đấu ở Bình Trị Thiên được rèn luyện 14 năm. Nó lên có thể giữ được hai khoá.

Còn bảo nó hủ hoá thì mấy người còn hủ hoá quá nó!”. Tôi nói, phải giữ được hàng trăm năm chứ sao lại hai khoá? Còn đoạn sau tôi không bình luận. Khi nghĩ một Tổng Bí thư giới thiệu một Tổng Bí thư mới thay mình mà nói như vậy nghe không được. Không rõ anh Mười đã nói với bao nhiêu cán bộ về câu chuyện này? Tôi thấy cách giải thích đó không đúng tầm của một cán bộ lãnh đạo quốc gia...

Đến Đại hội 9, trong thời gian chuẩn bị nhân sự đại hội, tôi biết có nhiều phức tạp. Bộ Chính trị mời một số cán bộ cao cấp đến tham khảo ý kiến về nhân sự, trước khi đến họp tôi lại thăm anh Mười. Anh nói nhiều chuyện về nhân sự. Khi nói đến Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, anh Mười nói: “Cậu Phiêu bây giờ gái nó nắm hết rồi. Có đứa là CIA. Kì này phải thay người khác...” Tôi đã định nói một câu, nhưng suy đi nghĩ lại sợ anh Mười phật lòng, nên tôi không nói nữa. Câu tôi định nói là: “Nay chắc anh Lê Khả Phiêu hủ hoá hơn mấy người trước?”. Tôi thấy rất buồn, cán bộ chủ chốt không đào tạo, không qui hoạch, thay đổi vội vàng thì lòng Đảng không yên, lòng dân yên sao được?

19. Trong việc thay anh Lê Khả Phiêu, tôi đến dự hội nghị được một đồng chí cho biết: có một cán bộ thân với anh Mười, hỏi anh Mười sao lại làm như vậy. Anh Mười trả lời: “Nó lật tôi, tôi lật lại”. Tôi nghĩ trong nội bộ mà xử sự như vậy lộn xộn lắm!

Tôi nhớ lại, Đại hội 7, anh Nguyễn Văn Linh, Tổng bí thư sẽ nghỉ. Anh bảo tôi lại nhà chơi. Anh hỏi tôi giới thiệu ai là người thay anh. Rồi anh đưa vài người ra phân tích cho tôi nghe. Khi anh lại hỏi ý kiến. Tôi nói: “Như anh đã nói nhiều lần khi anh làm Tổng Bí thư khoá 6: Cán bộ không qui hoạch, không đào tạo, nước đến chân mới nhảy, như cầm đóm đi soi ếch... còn bây giờ tùy anh và Bộ chính trị chọn. Tôi nghĩ: “Cạn ao, bèo đến đất”; “Chọn bó đũa lấy cột cờ”, giữ được đoàn kết nội bộ, ổn định chính trị là tốt nhất. Còn các đồng chí mà anh giới thiệu, kẻ 8 lạng, người nửa cân, người được mặt này, yếu mặt kia, tùy anh lựa chọn. Tôi không dám tham gia cụ thể”.

Sắp hết đời chỉ mong được tự do nhưng vẫn không yên thân

20. Cuối năm 2002 mọi người đều biết là đến tháng 4-2003 tôi sẽ nghỉ hưu, sau Đại hội Phòng Thương mại và Công nghiệp VN. Một số nhà văn, nhà báo đến chơi. Trong các buổi đến chơi, các đồng chí cũng không đặt vấn đề phỏng vấn, chỉ đề nghị tôi trong đời hoạt động cách mạng có những gì còn đọng lại, mang dấu ấn vui buồn thì kể lại cho nghe. Trong các cuộc gặp gỡ cuối năm vui vẻ đó, tôi kể một số chuyện mà tôi tâm đắc nhất...

Rồi các nhà báo về tự viết. Họ đưa lại tôi xem những sự kiện viết có chính xác không, còn văn vẻ, đầu đề bài báo do nhà báo, nhà văn viết, tôi không duyệt lại. Số báo có các bài khi xuất bản các đồng chí đều biếu tôi, nơi một bản, nơi 2, 3 bản, như các bài “Vị tướng của doanh nhân” báo Thế Giới Mới; bài “Thủ lĩnh của doanh nghiệp” của báo Tài chính; bài “Người say mê với sự nghiệp làm giàu” của báo Khoa học. Và một số báo khác.

Những bài báo trên là hoàn toàn sự thật 100% nhưng không hiểu sao anh Đỗ Mười lại tức giận đến thế! Anh không nói gì với tôi, nhưng qua nhiều nguồn tin tôi biết. Tôi nghĩ có dịp đến thăm, tôi sẽ nói cho anh Mười rõ là tôi không có ý định viết về mình. Ngay các nhà báo viết những bài trên, gần đây đến chơi và gọi điện cho tôi nói rằng họ viết hoàn toàn tự nguyện, không ai đề nghị, nhưng áy náy vì đã làm cho tôi phải phiền lòng. Tôi bảo không sao cả, quan trọng là sự thật.

21.Ngày 2-8-2003 anh Đỗ Mười bảo tôi đến chơi. Nhân đó tôi hỏi anh Mười sao không kỉ luật những người tái vu khống tôi trên tờ báo An ninh Thế giới?

- Tôi sẽ kiện ra toà về tội vu khống chính trị. Hôm nay tôi chính thức đề nghị với anh đồng ý cho tôi kiện.

Anh Mười vội vàng tìm máy gọi anh Nông Đức Mạnh, anh Phan Diễn, anh Trần Đình Hoan để nói chuyện. Nhưng ba anh trên đều đi vắng. Anh Mười nói chuyện với thư kí của ba anh, nhắc ba anh giải quyết sớm vụ việc của tôi, không để tôi đi kiện.

Sau đó anh ngồi nói chuyện với tôi, anh bảo: “Mình đã vo tròn lại, cậu lại rũ rối ra”. Câu nói đó tôi rất sửng sốt, không hiểu tôi rũ rối cái gì. Vụ anh Tô Duy vu khống tôi, từ ngày có kết luận của Tổng Bí thư tôi có nói gì nữa đâu. Chỉ khi họ tung tin anh Mười kết luận “hồ đồ”, “vội vàng”, ám chỉ anh Mười thiên vị tôi, tôi mới làm đơn xin đối chất lại, xoá kết luận cũ, giao cho một người chủ trì do phía anh Tô Duy giới thiệu, để khỏi mang tiếng cho anh Mười.

Có thế thôi. Tôi có rũ rối gì đâu? Anh Mười nói: “Tôi nhận được miếng giấy con của anh Nguyễn Văn Trân (anh giơ ba đầu ngón tay ra, và nói bằng từng đây này), phản đối bài báo của cậu “Vị tướng của doanh nhân”. Tôi nghĩ liên quan gì đến anh Nguyễn Văn Trân về bài báo này nhỉ? Tôi ngồi suy nghĩ phân vân quá! Vì sao mấy bài báo nói sự thật vừa qua, lại dẫn đến bài báo của anh Tô Duy đăng ở trang 31 báo An ninh thế giới ra ngày 17-4-2003- trước ngày họp Đại hội Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam? Thật là khó hiểu...

22.Sau đó anh Mười bảo tôi thôi đừng kiện Tô Duy nữa: “Hai ông gộc, một Phó Thủ tướng, một Bộ trưởng đi kiện nhau làm gì”. Tôi nói tôi kiện thì anh và anh Võ Chí Công cũng phải ra toà làm chứng. Anh Mười bảo: “Thế cơ à”. Tôi cười và nói: “Luật của thế giới là vậy đấy. Còn ở ta các anh viết một lá thư, hoặc cho luật sư nói thay là đủ”. Anh Mười bảo tôi thôi đừng kiện nữa, sẽ bảo anh Nông Đức Mạnh giải quyết sớm. Còn việc nhập vàng hỏi chú Thuý, anh không nhớ. Tôi nghĩ việc nhập vàng anh “chửi” tôi hàng năm, anh lại không nhớ, thật là kì lạ! Tôi chào anh ra về. Anh tiễn tôi ra đến cổng, một cách thân mật.

Tối về nhà, tôi tiếp tục suy nghĩ. Mở lá thư của anh Tô Duy viết ngày 15-5-2003 gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư và anh Đỗ Mười, trang 4 có đoạn viết: “Đồng chí Đỗ Mười nguyên Tổng bí thư Trung ương Đảng, tố cáo bài báo đó chứa đựng nhiều điều bịa đặt, lừa bịp rất trắng trợn, để đề cao cá nhân Đoàn Duy Thành một cách hết sức lố bịch”.

Tôi lại nhớ buổi gặp anh Mười, khi tôi mới đến, anh Mười nói ngay: “Cậu Tài nó mới được phong anh hùng đấy!” Thoáng nghĩ tôi hiểu anh lại muốn động viên tôi (anh Tài cũng bị nghi oan khi ở tù như tôi, sau được thẩm tra kết luận tốt).

Khi tôi nói đến các bài báo mới đăng dịp tết năm 2002-2003 đều hoàn toàn là sự thật, chẳng có một việc nào bịa đặt, tôi chìa lá thư của anh Tô Duy ra. Anh Mười tỏ vẻ hơi bối rối, nói lảng sang chuyện khác. Vì lá thư này anh Tô Duy cũng gửi cho anh Mười. Tôi định đọc đoạn anh Mười nhận xét bài báo như đã nói trên, nhưng suy nghĩ tôi lại thôi. Vì anh mời tôi đến chơi chứ tôi không chủ động đến để “đôi co” với anh.

24. Mấy hôm sau chị Kiệm, nguyên Vụ trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (phu nhân đồng chí Lê Xuân Thịnh, nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng đã hi sinh ở Thái Bình) đến chơi kể lại chuyện mới gặp anh Mười. Chị kể: “Anh Mười nói: cậu Thành cũng có khuyết điểm. Tôi đã vo tròn rồi cậu Thành lại cho đăng báo tâng bốc mình quá mức. Việc nhập vàng là tôi bảo Cao Sĩ Kiêm nhập.


Cậu Trần Phương và cậu Thành lúc đó tính đều sai cả. Tôi làm, tôi tính mới đúng, mới giải quyết được lạm phát, khủng hoảng kinh tế”. Chị Kiệm nói lại với anh Mười: “Tôi tưởng khuyết điểm gì, chứ nói quá mức thành tích thì không khuyết điểm để so sánh với việc anh Tô Duy đăng trên báo An ninh thế giới...”.

Sau khi tôi nghe chị Kiệm kể lại câu chuyện gặp anh Mười, tôi buồn cười về một đồng chí Thủ tướng vơ hết thành tích về mình, đổ lỗi cho người khác, nhất là nói sai sự thật:

1/ Khi tôi nhập vàng anh Cao Sĩ Kiêm còn ở Thái Bình.
2/ Việc anh Trần Phương tính ra sao tôi không biết.

Còn bài tính của tôi khi tôi làm Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, anh Mười đã tuyên bố 2 lần ở các phiên họp Hội đồng bộ trưởng và Thường vụ Hội đồng bộ trưởng là “làm theo bài tính của anh Đoàn Duy Thành”. Nay anh Mười nói với chị Kiệm là tôi tính sai hết. Tôi vừa buồn cười vừa suy nghĩ nói với chị Kiệm: “Đúng là nhân dục vô nhai. Mình là thằng đầy tớ dọn cỗ cho thầy ăn, mình chỉ đợi vét đĩa mà cũng không được vét đĩa, thầy lại đòi vét nốt...”.


25. Tôi nhớ lại khi được điều về Hà Nội công tác, vội vàng khăn gói ra đi, nhà tôi sợ tôi ốm, cũng theo lên Hà Nội phục vụ chồng, giao cho bà ngoại trông nom các cháu ở Hải Phòng. Các cháu cũng đã lớn, đi làm việc nhưng vẫn ăn ở chung tại số 10 Đinh Tiên Hoàng. Nghe chú Xuân Khang, kĩ sư, nhạc sĩ kể lại mà tôi rơi nước mắt: “Đến gặp cháu Phương, cháu Trọng đang ăn cơm trưa, chẳng thấy có gì. Cháu Phương bảo cháu Trọng xem còn gì mang cho anh ăn cơm. Cháu Trọng bảo chỉ còn mấy con tôm, bà dặn để dành tối ăn...”. Tôi nhắc câu chuyện đó với nhà tôi, bảo nhà tôi lo cho các cháu đôi chút về đời sống. Nhà tôi gắt: “Lương chỉ có thế thì ăn thế. Nghe cái mồm chú Khang làm gì...”.

Trong lúc đó, không biết theo chỉ thị của ai, họ đem camera, đặt ở tầng hai nhà kế bên nhà số 10 Đinh Tiên Hoàng để theo dõi nhà tôi. Sau này tôi biết một chi tiết rất nhỏ: “Đặt camera theo dõi nhà ông Thành xem có di chuyển tài sản gì đi đâu không. Nếu có, báo ngay cho biết chuyển tài sản gì đi, nhất là ban đêm, sẽ ập vào bắt và khám nhà”. Theo dõi nửa năm chẳng thấy động tĩnh gì nên họ rút.

Phòng gác hai là của đồng chí Phan Văn, Giám đốc Sở Văn hoá được phân phối. Nhưng đồng chí Phan Văn về ở với con, phòng khoá cửa. Còn do ai cho mượn để đặt máy quay thì đồng chí kể lại chuyện này không cho tôi biết.

Họ nghĩ rằng tôi công tác ở Hải Phòng 36 năm, làm Chủ tịch và Bí thư Thành uỷ 7 năm, chắc vơ vét được nhiều tiền của lắm, nhiều tài sản quý hiếm lắm! Sau khi được nghe kể lại chuyện này, tôi rất buồn. Làm cho dân, cho nước, mình không vụ lợi một xu nhỏ, đối xử với mình lại như thế?

Mãi đến 1990, khi tôi nghỉ Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại và xin về hưu, một số công ti thuộc Bộ và địa phương đến thăm thấy Bộ trưởng tài sản chẳng có gì, đồng chí Mai Văn Dâu, Giám đốc Tổng hợp I của Bộ mang xuống tặng một cái Tivi cũ của Nhật bản; Công ti xuất nhập khẩu thành phố Vũng Tàu và tỉnh Đồng Tháp cho cái tủ lạnh và bộ Radio Cassette; Vợ chồng đồng chí Giám đốc công ti Huy Hoàng - Cẩm Nhung cho bộ Cassette 4 tầng mới nhất của Nhật Bản và 5 triệu đồng.


26. Nhà tôi từ chối mãi không được. Chú Huy Hoàng và cô Cẩm Nhung nằn nì mãi, và nói: “Anh đã nghỉ rồi, đây là tình cảm, chị nhận cho”. Nhà tôi nhất định không nhận. Hai cô chú cứ để lại và ra về... Công ti Rau quả Hải Phòng cho nhà tôi một điều hoà cũ do Liên Xô sản xuất. Từ đó trong nhà chúng tôi mới có hàng “xịn” để dùng. Còn trước chỉ có một Tivi Neptun của Ba Lan sản xuất, một đài Hồng Đăng của Trung Quốc. Nghỉ Bộ trưởng, thành ra đổi đời về sinh hoạt.

Khi đương chức, một số anh em biếu quà bình thường, thì nhà tôi nhận, còn không nhận. Có người đi nước ngoài về cho mấy củ sâm cao ly, khách ra đến cổng rồi, nhà tôi còn đuổi theo trả lại. Năm 1993 tôi sang thăm Thái Lan. Biết anh Nguyễn Văn Linh mới đi thăm Italia về cùng nghỉ ở lầu trên khách sạn Principale Băng Cốc, tôi lên thăm anh. Anh kể chuyện đi thăm Italia cho tôi nghe. Rồi anh nhắc lại việc tôi xin từ chức, anh lại khóc, anh lại nói lại: “Tôi không cứu được anh”. Tôi bảo: “Tôi làm gì khiến anh phải cứu?

Có ủng hộ tôi thì ủng hộ”. Tôi biết anh Nguyễn Văn Linh rất có tình cảm với Hải Phòng và với tôi. Anh lớn lên từ 6 tuổi đã ở với chú tại Hải Phòng. Qua nhiều năm công tác, tôi quen biết anh, lại cùng ở tù Côn Đảo, tuy anh là bậc đàn anh, lớp tù trước so với tôi nhưng mỗi khi anh em gặp nhau là chuyện trò rất sôi nổi... Các đồng chí tỉnh uỷ Hải Hưng kể lại với tôi, anh đến thăm Hải Hưng, nói chuyện với Tỉnh uỷ, anh cũng nhắc đến tôi một cách trìu mến và nói: “Trong Đảng ta, cán bộ cao cấp được thử thách, thẩm tra, xem xét kĩ nhất là đồng chí Đoàn Duy Thành...”. Có đồng chí hỏi anh: tại sao anh không bảo vệ được anh Thành? Anh trả lời: “Ba thằng đánh một, chẳng chột cũng què”.

27. Tôi cũng chẳng tìm hiểu họ là ai, mặc dù một số đồng chí Tỉnh uỷ Hải Hưng nói rõ là anh Linh đã chỉ ra họ, tên là gì, nhưng tôi nghĩ tìm hiểu để làm gì? Mình theo tư tưởng và đạo đức của Bác Hồ, và đối nhân xử thế của Khổng đạo. Sách Luận ngữ đã chép, có một học trò hỏi Khổng Tử một câu về xử thế: “Dĩ đức báo oán hà như?”(Lấy điều đức để báo oán lại oán thù có được không?) Khổng Tử trả lời: “Bất nhược dĩ trực báo oan” (không bằng lấy điều thẳng để báo lại). Bởi vậy tìm hiểu chỉ thêm phải suy nghĩ. Một người đã quá đủ rồi, huống chi lại ba người đánh một! Tôi bỏ qua, chẳng nghĩ, chẳng nói làm gì, họ chỉ là người “góp cỗ chia phần” thôi. “Dậu đổ thì bìm leo” đó là thói đời.

Trước khi anh Nguyễn Văn Linh mất 25 ngày, tôi đến thăm anh ở nhà riêng, có các đồng chí Vũ Tiến Lộc, Nguyễn Hữu Hải, Phạm Gia Túc cùng đi. Lúc này anh yếu nhiều. Anh vẫn đi từ gác xuống, một tay bịt một bên mắt, một tay ôm bụng, tiếp chúng tôi hơn 1 giờ. Tôi tặng anh cuốn Côn Đảo một thời để nhớ, hồi kí của tập thể anh em tù chính trị Côn Đảo sinh sống ở Hà Nội. Anh cố vui để tiếp chúng tôi, nói nhiều chuyện trong nước và thế giới. Bất thình lình anh hỏi: “Tại sao lúc đó anh lại thôi Phó thủ tướng nhỉ?”.

Tôi cũng bất ngờ. Tôi trả lời anh, tôi từ chức tại hội trường T78, anh chủ trì mà anh quên rồi à? Anh suy nghĩ một lát rồi nhớ ra: “Tại sao tôi lại cho anh từ chức nhỉ?”. Rồi anh lại khóc. Tôi vừa cảm động, vừa thương anh, không biết với anh chống đỡ được đến bao giờ bệnh ung thư đang hoành hành ở anh. Đau yếu thế, mà anh chỉ bàn việc, lo cho nước, cho dân.

28. Bao điều suy nghĩ mà anh bộc lộ với tôi và các đồng chí cùng đi. Chúng tôi rất cảm động về con người cộng sản này. Hoạt động từ năm 13 tuổi, đến 16 đã bị bắt, bị tra tấn và đày đi Côn Đảo. Gần đây đồng chí Nguyễn Văn An, Uỷ viên Bộ Chính trị khi làm trưởng Ban tổ chức kể lại với tôi là: “Anh Linh là người mà bảo nghỉ là nghỉ ngay, rất vui vẻ, không khó khăn như những anh khác...”.

Kể từ sau ngày tôi từ chức, đến lúc anh Nguyễn Văn Linh qua đời, tôi gặp anh bốn lần. Lần nào anh cũng khóc mỗi khi nhắc đến việc từ chức của tôi. Còn tôi từ chức là vì lí tưởng và phẩm chất của tôi, giữ cho đảng ta nội bộ đoàn kết, tìm được người có tài -đồng chí để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đối với anh Nguyễn văn Linh, tôi biết ơn anh đã có tình cảm thực sự chân thành với tôi.

Và từ ngày 02-8-2003 tôi khẳng định được hơn 20 năm qua anh Đỗ Mười là nguyên nhân của mọi nguyên nhân gây rắc rối cho đời hoạt động của tôi.

Còn anh Tô Duy là người trung thành với anh Đỗ Mười, được anh Mười giao mọi việc, đã cung cấp tài liệu giả để anh Mười tin. Khi sự thật đã quá rõ ràng anh Mười không còn cách nào khác, phải kết luận là tôi đúng. Anh Tô Duy vừa không bằng lòng, vừa cố ý tìm chứng cứ để cho anh Mười tin mình đúng, nên đã táng tận lương tâm cứ nói tôi bị bắt tháng 2-1951, dù không có chứng cứ gì cả.

Còn anh Mười cũng phải bảo vệ anh Tô Duy. Anh Tô Duy vì anh Mười mà làm. Bởi thế sự việc giải quyết không dứt điểm được. Tôi tự hỏi sự việc này còn kéo dài đến bao giờ? Đó là nguy cơ tiềm ẩn, gây rối ren trong nội bộ, gây bài học xấu cho hiện nay và mai sau về việc tranh chức, tranh quyền trong nội bộ. Còn tôi sống được đến hôm nay vì trong Đảng cũng còn dân chủ, cũng có những cán bộ trung thực, không a dua làm điều bất nghĩa.

Tôi nhớ năm 1996, tôi đến Paris dự hội thảo và dự triển lãm Việt Nam tại Pháp. Xong việc, tôi cùng đồng chí Bùi Việt Cường, đại điện Việt Nam ở Liên hiệp quốc đóng ở Geneve Thuỵ sĩ và ông Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư kí Hội Việt kiều ở Pháp, đến thăm người em con ông cậu tôi là Nguyễn Đức Riễm đã gần 90 tuổi. Hai vợ chồng chú Riễm đón chúng tôi, chú mừng rỡ nói:

“Bác còn giữ được cái đầu đến thăm em là quý lắm rồi! Bên này người ta đồn bác là gián điệp quốc tế, em rất lo. Thế là chế độ cộng sản cũng còn công minh hơn phong kiến nhà Lê. Nếu không thì đã có vụ “Lệ Chi Viên thứ hai ở Việt Nam”. Tôi buồn cười hỏi: “Sao, ghê thế cơ à?” Tôi chẳng thấy gì đáng sợ. Tôi không lúc nào buồn và suy nghĩ ghê gớm như chú cả. Tôi vẫn làm việc bình thường”. (Chú Riễm là cơ sở tình báo của ta, từ 1954 đưa vào vùng tạm chiếm hoạt động, còn hoạt động như thế nào tôi không biết. Chú Riễm đã mất năm 2000).

29. Trong nước cũng nhiều người lo lắng cho tôi, nhưng tôi không kể làm gì cho thêm đau lòng. Mong sao từ nay trở về sau không còn có những con người như vậy, để Đảng ta vượt lên tầm của thời đại, để có một Đảng trong sáng tuyệt vời. Noi gương Bác Hồ để xây dựng Đảng, thì mọi việc sẽ thành công.

Còn đối với anh Đỗ Mười, tôi phải phục anh là người “siêu” trong việc che giấu nội tâm của mình.

Ngày 21-6-2003 trong thư tôi gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư, anh Đỗ Mười, anh Võ Chí Công, ở trang 7 tôi còn đánh giá: “Chắc cả nước ta ai cũng biết đồng chí Đỗ Mười là người thẳng thắn trung thực”. Nhưng mãi đến ngày 2-8-2003, hơn 20 năm, sự thật đã trần truồng, tôi mới khẳng định được, người đứng sau vụ án “gián điệp quốc tế” này, chính là đồng chí Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư của Đảng ta.

Đồng chí Đỗ Mười đạo diễn và chỉ đạo rất tinh vi, lúc cứng lúc mềm đối với tôi, làm cho đối tượng như rơi vào trận đồ bát quái, không xác định được phương hướng. Do đó, quá trình diễn ra vụ án nghi vấn chính trị lớn nhất đối với tôi, có rất nhiều đồng chí, kể cả hầu hết Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, lúc đó đặt câu hỏi với tôi: “Cần phải xem xét còn có nguyên nhân sâu xa gì nữa mà hơn một chục cán bộ chủ chốt Hải Phòng, không ai có chứng cứ cụ thể, lại dám kí vào đơn tố cáo? Anh cần xem xét kĩ việc này”. Tôi chưa trả lời được câu hỏi ấy.

Nhưng từ sau ngày 2-8-2003, tôi đã có thể trả lời câu hỏi này, khi đồng chí Trần Đình Hoan, Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, ngày 8-8-2003 đặt câu hỏi như nội dung trên. Xin thưa: “Tất cả là do đồng chí Đỗ Mười”.

30. Tháng 1-2004 đồng chí Nguyễn Đức Tâm, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương lại đặt lại câu hỏi này với tôi, mà trước đây đồng chí đã hỏi tôi nhiều lần, tôi chưa trả lời được. Nay tôi đã trả lời chính thức đồng chí Nguyễn Đức Tâm: “Tất cả là do đồng chí Đỗ Mười”.

Viết đến đây tôi nhớ đến Nguyễn Trãi. Trước khi qua đời ông đã than rằng:

“Mọi chưng khắp chốn đều thông cả,
Bui một lòng người cực hiểm thay!”

Và, lời trăng trối cuối cùng của Phu-xích, Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, tác giả tiểu thuyết Viết dưới giá treo cổ:

“Nhân loại hỡi! Ta yêu tất cả mọi người.
Hãy cảnh giác!”.


2007-04-12 09:55:19



No comments: