Thursday, January 6, 2011

TRẦN QUANG CƠ * HỒI KÝ V

Chương 19
HIỆP 2 CỦA HỘI NGHỊ QUỐC TẾ VỀ CAMPUCHIA


Với đà tiến triển nhanh chóng qua các cuộc họp SNC tại Jakarta (6.91), Bắc Kinh, Pattaya (Thái Lan) và Nữu Ước (9.91), P5 quyết tâm giải quyết nhanh gọn vấn đề Campuchia làm đà giải quyết các cuộc xung đột khu vực khác, đặc biệt là Trung Đông. Cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều có lợi ích đồng tình với phương Tây – chủ yếu là Mỹ – gạt nốt những vướng mắc cuối cùng trong việc thông qua các văn bản dự thảo Hiệp định 28.11.90 của P5.

Cuối tháng 9.91, tôi dẫn đầu đoàn đại biểu nước ta đi Nữu Ước dự khoá họp thứ 10 Đại hội đồng LHQ. Khác với năm 1988, khi tôi đại diện Việt Nam dự Đại hội đồng LHQ khoá thứ 43, lần này vấn đề Campuchia đã đi sát đến giải pháp. Trong thời gian ở Nữu Ước, tôi đã tranh thủ tiếp xúc với Hun Xen đang họp SNC ở đó để tìm hiểu thái độ bạn Campuchia về dự thảo Hiệp định. Tôi được biết ngày 21.9.91, Nhà nước Campuchia cuối cùng đã buông thả rất nhanh tất cả các điểm yêu cầu sửa dự thảo Hiệp định. Như vậy, chỉ còn lại một mình Việt Nam là nước duy nhất đòi bổ sung dự thảo về 4 điểm liên quan đến Việt Nam. Tôi vội thông báo tình hình này về nước để nhà sớm có quyết sách đích đáng cho đoàn đại biểu ta đi dự Hội nghị quốc tế Paris về Campuchia. Ngày 13.10.91 bộ phận thường trực và sau đó các đồng chí khác trong BCT đã thông qua chủ trương Việt Nam tham gia ký kết Hiệp định với 2 phương án đấu tranh về 4 điểm bổ sung của ta. Sáng 14.10, anh Võ Văn Kiệt đã gặp tôi ở Văn phòng Hội đồng bộ trưởng để cho ý kiến về 2 văn bản do Bộ Ngoại giao chuẩn bị cho cuộc họp về vấn đề Campuchia ở Paris. Sau khi nghe tôi trình bày, anh Kiệt tán thành Tờ trình BCT về phương án đấu tranh của ta tại Hội nghị quốc tế Paris, và góp ý kiến sửa lại 2 chỗ trong bản dự thảo Tuyên bố Chính phủ.

Ngày 16.10, trên đường đi Paris, tôi được điện của của Bộ báo cho biết cả Levitte, thứ trưởng Ngoại giao Pháp và Từ Đôn Tín, lúc này đã là thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc, đều muốn gặp tôi sớm, trước ngày họp Uỷ ban Phối hợp của Hội nghị. Trên cơ sở phán đoán là cả hai đều muốn gặp để thương lượng và thúc đẩy Việt Nam rút các yêu cầu sửa đổi dự thảo Hiệp định để bảo đảm cho cuộc họp Uỷ Ban Phối hợp khỏi gặp trắc trở, tôi đã quyết định gặp Levitte trước, sau đó mới gặp Từ. Suy nghĩ của tôi là: Pháp là nước đồng chủ tịch và là nước đăng cai hội nghị, rất muốn hội nghị đạt kết quả. Đề cao được vai trò Pháp trên quốc tế, đồng thời gặp Pháp trước sẽ tỏ rõ được thiện chí và tính độc lập của ta, nếu gặp Trung Quốc trước gặp Pháp sau thì sẽ chịu tiếng bị sức ép của Trung Quốc mà phải nhượng bộ.

Ngày 18.10, ngay sau khi đến Paris, tôi đã gặp Levitte thảo luận. Đúng như đã phán đoán, Pháp tha thiết mong Việt Nam có thái độ mềm dẻo đối với dự thảo Hiệp định. Cuối cùng, để tỏ thiện chí, tôi đã thoả thuận với Pháp về cách làm như sau: trong báo cáo của Tổng Thư ký LHQ trước Hội Đồng Bảo An sẽ có giải thích những điểm mà Việt Nam yêu cầu làm rõ. Và ngay trong cuộc họp Uỷ ban Phối hợp ngày 21.10.91, trong bản trình bày của Phó tổng thư ký LHQ Ahmed Rafeuddin cũng phải nêu đầy đủ các giải thích này, đồng thời Levitte nhân danh chủ tịch Uỷ ban sẽ tuyên bố hoan nghênh thiện chí hợp tác của Việt Nam đã thôi không đưa các bổ sung dự thảo Hiệp định nữa vì đã có những giải thích thích đáng của Phó Tổng thư ký LHQ. Tôi cũng thoả thuận với Levitte sẽ có cuộc gặp tay ba với Ahmed để có thoả thuận cuối cùng.

Hôm sau, tôi gặp Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Từ Đôn Tín. Từ cũng có mục đích thuyết phục ta thôi không đưa các yêu cầu bổ sung nữa, nói nếu Việt Nam đưa bổ sung thì các nước khác cũng đòi bổ sung để cân bằng lại, Mỹ sẽ đòi hoãn việc ký kết và đổ trách nhiệm cho Việt Nam.

Ngày 20.10.91, như đã thoả thuận với Pháp, ngay sau khi Phó Tổng thư ký LHQ đến Paris, đã có cuộc họp tay ba giữa Việt Nam, Pháp và Phó Tổng Thư ký LHQ Ahmed. Ahmed thoả thuận cách làm như ta đã bàn với Pháp hôm 18.10 và cho trợ lý của ông ta ghi lại các câu chữ mà ta yêu cầu nói rõ khi ông giải thích về mấy điểm bổ sung của ta. Như vậy thực chất là đã vượt mức yêu cầu của ta, nhưng để giữ cao giá, tôi nói sơ bộ thoả thuận như vậy song tôi còn phải xin chỉ thị Hà Nội, sẽ khẳng định lại trong sáng 21.10 trước khi bắt đầu họp Uỷ ban Phối hợp.

Sáng 21.10.91, khi đoàn Việt Nam đến Trung tâm Hội nghị quốc tế Kléber, có một đoàn viên của đoàn Trung Quốc ra mời tôi gặp Từ Đôn Tín có việc gấp cần trao đổi trước khi họp. Từ yêu cầu gặp riêng tôi nói chuyện bằng tiếng Tàu không qua phiên dịch, cho biết Mỹ định đưa bổ sung vào Định ước một đoạn lên án diệt chủng và yêu cầu tôi cho biết ý kiến. Tôi trả lời: “chuyện này bây giờ chủ yếu là vấn đề của người Campuchia, nên để các bên Campuchia có ý kiến. Còn quan điểm của Việt Nam là đến lúc này không nên để bất cứ một vấn đề nào gây trở ngại cho việc ký kết.” Từ xem ra hài lòng về cách tỏ thái độ của ta. Nhưng cuối cùng hình như đã có sự thoả hiệp giữa Mỹ và Trung Quốc, Mỹ rút bỏ từ “diệt chủng” trong đoạn bổ sung và chỉ nói chung chung về “nhân quyền” và các quyền tự do cơ bản của người Campuchia cần được các nước tôn trọng.

Sau đó đã tiến hành phiên họp thứ 8 của Uỷ ban Phối hợp của Hội nghị quốc tế Paris về Campuchia (PICC) [1] để thông qua lần cuối các văn kiện đưa ra Hội nghị cấp bộ trưởng. Sự việc đã diễn ra hoàn toàn đúng như đã thoả thuận giữa ta với Pháp và Phó tổng thư ký LHQ. Sau lời khai mạc của hai đồng chủ tịch Pháp và Inđônêxia, Phó Tổng thư ký LHQ Ahmed đọc bản trình bày tình hình chuẩn bị triển khai việc thi hành Hiệp định sẽ được ký kết và đọc đầy đủ những lời giải thích về 4 điểm mà ta yêu cầu bổ sung (việc đưa trở lại hay đưa quân của bất cứ nước ngoài nào vào Campuchia sẽ là vi phạm Hiệp định; các thông tin cần cung cấp cho UNTAC chỉ liên quan đến các lực lượng nước ngoài còn có mặt ở Campuchia khi ký kết Hiệp định này; sự có mặt của sĩ quan liên lạc UNTAC ở thủ đô Việt Nam, Lào và Thái Lan không có hàm ý mở rộng quyền hạn UNTAC sang các nước láng giềng của Campuchia... phải tôn trọng đẩy đủ chủ quyền của các nước này). Đáp lại, tôi đã phát biểu hoan nghênh và ghi nhận những lời giải thích của Phó tổng thư ký LHQ. Levitte, đồng chủ tịch cuộc họp, biểu thị cảm ơn Việt Nam vì thiện chí hợp tác.

Kết quả cả 4 văn kiện để ký kết đều đã được nhất trí thông qua trong Uỷ ban Phối hợp, không có sự tranh cãi nào về thực chất cả, kể cả những vấn đề ta đã dự phòng như: vấn đề tù binh, vấn đề Việt kiều ở Campuchia, vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia... đều không có đoàn nào nêu ra. Giờ đây chỉ còn là công việc ký kết Hiệp định của anh Nguyễn Mạnh Cầm tối 23.10.91.

Sáng 22.10.91, Đài RFI (Pháp) đã xin gặp tôi và đặt câu hỏi: “Ông tới Paris với tư cách là đại biểu của Việt Nam tham dự Hội nghị hoà bình về Campuchia, và hôm qua ông đã tham gia thông qua văn bản cuối cùng của Hiệp định hoà bình. Trước hết xin ông cho biết cảm tưởng về việc ký kết văn bản này, khi mà sau mười mấy năm chiến tranh ác liệt, nay ở Campuchia đã có hoà bình thực sự ?” Câu trả lời của tôi lúc đó là: “Cảm tưởng của tôi đối với việc một hai ngày nữa sẽ ký kết Hiệp định hoà bình về Campuchia là cảm tưởng của một người sau nhiều ngày luồn rừng leo núi đã tới được quãng đường rộng thảnh thơi, và cũng là cảm tưởng của một người qua nhiều ngày đi trên sa mạc sắp đến trạm nghỉ. Tuy nhiên đây không phải là trạm nghỉ cuối cùng, mà là nghỉ để tiếp tục một chặng đường mới với những thách thức mới, nhưng chắc chắn có nhiều điều hứa hẹn tốt đẹp hơn”.

[1] Paris International Conference on Campuchea (PICC)
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=print&sid=1120

(trả lời: HongYen)







Phụ lục
NHỮNG THÁCH THỨC
ĐỐI VỚI AN NINH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TA
- MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI SÁCH
(Viết theo yêu cầu của Thường trực BCT
và đã gửi các đồng chí Thường trực BCT ngày 20.6.1993)


Những biến đổi lớn trong chính trị thế giới những năm gần đây cũng như những biến đổi lớn của tình hình kinh tế thế giới và những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã tác động tổng hợp vào sự hình thành cục diện chiến lược ngày nay với những xu thế mới ngày càng thể hiện rõ nét.

Bối cảnh chung này đã thúc đẩy tất cả các nước lớn nhỏ, đã phát triển hay đang phát triển, phải điều chỉnh lại chiến lược, điều chỉnh lại thứ tự ưu tiên các mục tiêu chiến lược của mình sao cho phù hợp đặc điểm tình hình thế giới mới và những xu thế chung hiện nay.

Một vấn đề lớn đặt ra cho mỗi nước là sớm xác định được những cơ hội và nhất là những thách thức trở ngại cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược của mình. Đối với ta, trong khi phấn đấu thực hiện mục tiêu chiến lược là sớm đưa đất nước “ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế – xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển với nhịp độ mới vào đầu thế kỷ 21”, để bảo đảm hoà bình và ổn định chúng ta cần tìm ra được câu trả lời cho những vấn đề cấp bách là: hiện nay về mặt đối ngoại đất nước ta đang đứng trước những thách thức, đe doạ chủ yếu gì? có thể từ đâu đến và dưới dạng nào ? Đâu là mối đe doạ trực tiếp nhất, thúc bách nhất cần đối phó ? Phương hướng xử lý, trong đó có vấn đề tập hợp lực lượng để đối phó với những đe doạ, thách thức đó sao cho phù hợp với khả năng còn rất hạn chế về mọi mặt của ta ?

I. Những thách thức đe doạ an ninh và phát triển của ta
có thể xuất xứ từ đâu và dưới những dạng nào ?


Hơn 2 năm qua kể từ Đại hội Đảng lần thứ 7, trên cơ sở những thành tựu trong công cuộc Đổi mới trong nước, việc triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá quan hệ theo hướng “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, chúng ta đã cải thiện một bước đáng kể vị trí nước ta trên quốc tế. Quan trọng nhất là ta đã phá được một bước quan trọng thế bị cô lập về chính trị, tạo môi trường quốc tế thuận lợi hơn cho việc giữ vững hoà bình và đẩy mạnh phát triển kinh tế.

Tuy nhiên, trong tình hình quan hệ đối ngoại của ta đã bị đảo lộn ghê gớm với sự tan rã của hệ thống các nước bạn bè ở Liên Xô và Đông Âu thì những kết quả này mới chỉ là bước đầu và chưa thật vững chắc. Về chính trị, ta chưa tạo được hậu thuẫn quốc tế thay thế cho những chỗ dựa truyền thống mà ta vừa mất đi. Về kinh tế, đất nước ta còn ở tình trạng lạc hậu về kinh tế, KHKT so với nhiều nước trong khu vực và chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế – xã hội. Ngày nay quan hệ giữa ta và các nước chủ yếu dựa trên cơ sở lợi ích tương đồng, trên từng mặt, từng vấn đề; hoàn toàn khác với phương thức tập hợp lực lượng truyền thống trước đây và đối với bất cứ đối tác nào cũng đều có hai mặt hợp tác và đấu tranh rất phức tạp. Trong khi đó, những đe doạ thách thức đã và đang nảy sinh từ những phía khác nhau, trước mắt và trong tương lai gần.

Trên cơ sở dự báo chiến lược, những đối tượng chính trước mắt hoặc sau này có thể tạo nên những đe doạ thách thức chủ yếu đối với sự nghiệp an ninh và phát triển của ta là: Trung Quốc, Mỹ, Nhật và Thái Lan .

Sau đây là những dạng thách thức đe doạ mà mỗi đối tượng có thể gây ra đối với ta:

1. Trung Quốc: Sau hơn 1 năm bình thường hoá, quan hệ Việt –Trung có nhiều mặt được thúc đẩy như trao đổi đoàn qua lại, mở một số cửa khẩu, buôn bán biên giới... Song mặt tiêu cực và hạn chế đang nổi lên, nhiều hiệp định đã ký kết và nhiều thoả thuận ở cấp cao chưa được thực hiện. Đặc biệt từ đầu năm 1993, Trung Quốc dùng nhiều biện pháp tổng hợp để tăng sức ép và tạo thêm nhiều khó khăn cho ta, gây tình hình không ổn định cho ta cả bên trong lẫn bên ngoài nhằm làm chậm đà phát triển kinh tế của ta và kìm hãm việc mở rộng quan hệ đối ngoại của ta trước hết là ở khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương. Những thách thức và đe doạ của Trung Quốc đối với ta đang được thể hiện ngày càng rõ nét dưới các dạng chính sau đây:

a. Xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ta trên bộ và trên biển: trong khi trên bộ, Trung Quốc không có dấu hiệu nào muốn giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới, lại còn làm xấu thêm tình hình (xâm canh xâm cư, xây kè cống làm thay đổi dòng chảy các sông suối biên giới có lợi cho Trung Quốc, lấn sang phía ta) thì trên biển Trung Quốc liên tiếp có những bước leo thang nghiêm trọng từ tranh chấp ngoài biển Đông, Trung Quốc đã từng bước ngày càng lấn sâu vào thềm lục địa, ngay trong khu vực ta đã phân lô ký kết với các công ty nước ngoài và đang thăm dò khai thác dầu khí (đầu tháng 5.93, Trung Quốc cho tàu “FENDOU 4” vào thăm dò địa chấn ở khu vực lô 6 nằm sâu trong thềm lục địa của ta) bộc lộ ý đồ biến một số khu vực trong thềm lục địa của ta thành vùng tranh chấp, đang chuẩn bị dư luận để đưa đảo Bạch Long Vĩ vào diện tranh chấp.

b. Phá môi trường quốc tế hoà bình ổn định của Việt Nam với những hoạt động: ở Campuchia, thông qua Khmer Đỏ khuấy động vấn đề người Việt Nam ở Campuchia đồng thời làm cho tình hình Campuchia khó đi vào ổn định; lôi kéo 3 nước (Thái, Miến, Lào) thành một cụm liên kết kinh tế ở Đông Nam Á lục địa thượng lưu sông Mêkông gắn với Trung Quốc, tách rời Việt Nam; khủng hoảng biển Đông kéo dài cũng có tác động phá môi trường phát triển của Việt Nam.

c. Gây mất ổn định chính trị, kinh tế bên trong Việt Nam: nêu trở lại “vấn đề người Hoa”, đẩy số người Hoa đã bỏ về Trung Quốc từ những năm 78, 79 trở lại Việt Nam; thông qua Khmer Đỏ dồn đuổi Việt kiều ở Campuchia về nước; gây sức ép với Hồng Kông đưa toàn bộ số thuyền nhân ở đó về Việt Nam trước năm 1997; để hàng lậu từ Trung Quốc tuồn vào Việt Nam qua con đường tiểu ngạch bán hàng vào Việt Nam với giá rất rẻ gây rối loạn thị trường, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất ở nước ta.

d. Kìm hãm phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam: tiếp tục bắt giữ tàu thuyền của ta (số lượng nhiều hơn 1992: 28 chiếc); chống việc ICAO trả lại vùng FIR Hồ Chí Minh cho Việt Nam.

2. Mỹ có thể thách thức đe doạ an ninh và phát triển của Việt Nam qua các dạng:

a. Mỹ là nước lớn duy nhất hiện nay chưa bình thường hoá quan hệ với Việt Nam và còn tiếp tục chính sách cấm vận gây trở ngại cho các tổ chức quốc tế (Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới...) và các nước khác trong việc viện trợ tài chính và hợp tác với ta phát triển kinh tế.

b. Tiến hành diễn biến hoà bình: thông qua những cái gọi là đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền ép ta đa nguyên, đa đảng; kích động các vấn đề tôn giáo, dân tộc thiểu số để gây tình hình phức tạp làm mất ổn định chống ta.

c. Nuôi dưỡng những phần tử phản động hoặc thoái hoá biến chất còn lại ở Việt Nam và các lực lượng phản động người Việt đang ở nước ngoài khi có điều kiện thuận lợi thì gây bạo loạn, lật đổ như đã làm ở một số nước.

3. Nhật Bản trước mắt là một đối tượng hợp tác chính của ta để thực hiện yêu cầu phát triển nhanh kinh tế Việt Nam, song ta vẫn phải dự phòng về lâu dài những khả năng xấu từ phía Nhật:

a. Trước hết là cùng với việc tăng cường đầu tư viện trợ, Nhật sẽ từng bước thao túng kinh tế Việt Nam và đưa Việt Nam và cả Đông Nam Á vào quỹ đạo Nhật Bản phục vụ cho tham vọng bá quyền khu vực và thế giới của Nhật Bản về kinh tế cũng như về chính trị.

b. Mặt khác, cùng với tham vọng về chính trị và kinh tế được thực hiện từng bước, chủ nghĩa quân phiệt Nhật có thể được phục hồi nhằm trở thành một siêu cường toàn diện ở khu vực và trên thế giới. Nguy cơ này sẽ có hậu quả trực tiếp tới khu vực Đông Á trong đó có Việt Nam.

4. Thái Lan hiện là một bộ phận của ASEAN mà ta đang tích cực tranh trủ hợp tác cả về kinh tế lẫn chính trị. Nhưng chủ nghĩa “Đại Thái” xưa nay là nguy cơ truyền thống đối với an ninh và phát triển của Việt Nam, hiện vẫn tồn tại và đầy tham vọng.

Thái luôn coi Việt Nam là một đối thủ tiềm tàng về kinh tế cũng như về chính trị. Vì vậy thách thức của Thái đối với ta có thể đến từ hai phía:

a. Về kinh tế, Thái có lợi ích kiềm chế nhịp độ phát triển của Việt Nam (vấn đề Uỷ ban Mêkông, FIR Hồ Chí Minh) đồng thời tận dụng được Việt Nam như một thị trường tiêu thụ hàng Thái và một nguồn cung cấp nguyên liệu (lâm sản, hải sản, khoảng sản).

b. Về chính trị, quân sự, Thái có lợi ích biến Lào và Campuchia từ những đồng minh của Việt Nam thành vùng chịu ảnh hưởng Thái nhiều hơn. Đồng thời Thái vẫn có thể cung cấp căn cứ địa cho các lực lượng phản động Việt Nam thâm nhập phá hoại nội địa ta.

II. Nguy cơ lớn nhất và thúc bách nhất đe doạ
an ninh và phát triển của ta là từ đâu ?


Trong 4 đối tượng có thể tạo nên nguy cơ đe doạ ta, có những nước lớn cỡ toàn cầu hoặc khu vực như Mỹ, Trung Quốc, Nhật; riêng Thái Lan là nước ngang tầm với ta nên mức độ thách thức đối với ta không so được với các nước lớn. Trong các dạng thách thức khác nhau của cả 4 đối tượng, có nhiều điều mới trên cơ sở giả định hoặc dự phòng để cảnh giác, song có những điều đang là hiện thực, đang là những vấn đề thực tế và thúc bách đặt ra trước mắt ta. Vì vậy với khả năng rất hạn hẹp về mọi mặt của ta, ta cần phân biệt rõ đâu là nguy cơ lớn nhất trực tiếp đe doạ những lợi ích sống còn của dân tộc Việt Nam để tập trung trí lực và vận dụng cao độ sách lược đối ngoại đối phó lại. Trước hết chắc chắn đó không phải là Nhật hay Thái Lan. Đó chỉ có thể là Mỹ hay Trung Quốc.

1. Chiến lược của Mỹ và ý đồ Mỹ đối với Việt Nam
Sau sự tan rã của Liên Xô và sự kết thúc chiến tranh lạnh, Mỹ gặp phải nhiều thách thức hơn là cơ hội. Thách thức bởi những vấn đề kinh tế – xã hội cấp bách trong nước, thách thức bởi những đối thủ vốn là đồng minh cũ của Mỹ trong chiến tranh lạnh như Nhật, EC. Vì vậy, mục tiêu chiến lược của Mỹ phải điều chỉnh lại một cách thực tế và khiêm tốn hơn: cố gắng duy trì vị trí số một trên thế giới và ở châu Á - Thái Bình Dương, hiện đang trở thành vũ đài chính của thế giới. Trước thách thức ngày càng lớn của các trung tâm kinh tế phương Tây, việc xoá CNXH ở châu Á chưa phải là ưu tiên hàng đầu của Mỹ hiện nay.

Khoảng cách về so sánh lực lượng giữa Mỹ và các cường quốc khác không còn quá lớn như trước, để thực hiện được mục tiêu chiến lược trên, phương hướng của Mỹ chủ yếu là tạo một cân bằng lực lượng giữa các đối thủ có tiềm năng đe doạ vị trí số một thế giới của Mỹ, dùng đối thủ này kiềm chế đối thủ kia, thông qua hợp tác để kiềm chế các đối thủ, tăng cường vai trò các thể chế quốc tế (như LHQ) trong việc xử lý các xung đột khu vực, tạo thành một thế ổn định chung có lợi cho Mỹ.

Ở châu Á - Thái Bình Dương cũng vậy, Mỹ đang cô lập nên trật tự khu vực mới trên cơ sở tam giác chiến lược mới Mỹ – Nhật – Trung thay cho tam giác Mỹ – Xô - Trung ngày trước, trong đó Mỹ vừa tranh thủ và họp tác với Trung Quốc mà chủ yếu là với Nhật, vừa cảnh giác kiềm chế cả hai, chủ yếu là Trung Quốc.

Riêng với Trung Quốc, Mỹ rất coi trọng vai trò của đất nước có hơn 1 tỉ dân này trong kế hoạch tạo lập một trật tự quốc tế mới. Mỹ cần thúc đẩy và tranh thủ sự hợp tác của Trung Quốc trong nhiều vấn đề, nhất là trong việc xử lý các cuộc xung đột khu vực trong Hội đồng Bảo an LHQ mà Trung Quốc là một thành viên có quyền phủ quyết. Vì vậy chắc chắn Mỹ sẽ không vì Việt Nam mà làm ảnh hưởng xấu đến quan hệ với Trung Quốc. Mỹ sẽ không trực tiếp can thiệp vào các tranh chấp song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc nếu tranh chấp đó không đụng chạm đến lợi ích của Mỹ và đến ổn định của cả khu vực.

Song cũng vì lợi ích chiến lược của Mỹ, Mỹ không thể khuyến khích hoặc làm ngơ để Trung Quốc tự do bành trướng xuống Đông Nam Á. Trong chiến lược châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ, chính quyền Clinton đã tỏ ra coi trọng vai trò Đông Nam Á hơn trước. Có thể vì đây là một vùng khá năng động về phát triển kinh tế, đồng thời lại có một cơ chế tiểu khu vực có sức sống và gắn bó với lợi ích kinh tế của Mỹ. Song mặt khác vì đây đang là hướng bung ra của Trung Quốc trong ý đồ lấp “khoảng trống quyền lực” sau khi Liên Xô tan rã và Mỹ thu bớt sự có mặt quân sự ở Đông Nam Á. Lợi ích của Mỹ là tạo ra được ở đây một Đông Nam Á ổn định và đủ mạnh để cản bước Trung Quốc trong chiến lược “biên giới mềm” và “mở rộng không gian sinh tồn”. Ý đồ của Mỹ là từng bước thúc đẩy việc mở rộng ASEAN thành một tổ chức chung cho cả 10 nước Đông Nam Á, có khả năng trở thành một đối trọng đáng kể đối với Trung Quốc bảo đảm ổn định khu vực. Trong kế hoạch tạo lập một cơ chế an ninh khu vực của châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ, Nhật và phương Tây nói chung đều đã lấy ASEAN làm cốt lõi về tổ chức. Hội nghị thường niên giữa ASEAN và 6 nước đối tác đang trở thành diễn đàn trao đổi về an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Nga cũng tỏ thái độ ủng hộ phương hướng này. Riêng Trung Quốc không mặn mà.

Vậy có khả năng Mỹ đồng tình hay cấu kết với Trung Quốc chống Việt Nam không ? Trước đây Mỹ và Trung Quốc hợp lực chống Việt Nam trong vấn đề Campuchia là vì cả hai cùng có yêu cầu chung là đánh vào Liên Xô và xoá bỏ ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á. Nay Liên Xô đã sụp đổ, thế chiến lược ở châu Á - Thái Bình Dương đã thay đổi, nếu Mỹ lại đi với Trung Quốc chống Việt Nam thì chẳng khác gì là đẩy Việt Nam vào tình thế hoặc chủ động liên minh với Trung Quốc hoặc phải khuất phục trước sức mạnh của Trung Quốc, từ đó tạo điều kiện cho Trung Quốc từng bước khống chế cả Đông Nam Á một cách dễ dàng và nhanh chóng trở thành một trong những đối thủ đe doạ vị trí số 1 của Mỹ trên toàn cầu. Điều này hoàn toàn ngược lại mục tiêu chiến lược của Mỹ.

Mặt khác, một nước Việt Nam đổi mới, độc lập với Nga, Trung Quốc cũng như không chịu sự chi phối của Nhật, cải thiện quan hệ và hoà nhập với các đồng minh của Mỹ ở Đông Nam Á là phù hợp với lợi ích của Mỹ về hoà bình, ổn định, nhằm duy trì ảnh hưởng của Mỹ và hạn chế các thách thức nổi lên đối với vị trí của Mỹ ở khu vực. Việt Nam tuy không có một vị trí quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, nhưng Việt Nam vẫn là một nhân tố mà Mỹ không thể không tính đến trong chiến lược của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á. Hơn nữa về kinh tế Mỹ có lợi ích tranh thủ thị trường và nguồn nhiên liệu của Việt Nam. Mỹ không muốn vắng mặt trong khi các đối thủ của Mỹ đi mạnh vào thị trường Việt Nam.

Bên cạnh những lợi ích có phần nào trùng hợp với ta như trên, mặt tiêu cực trong chính sách của Mỹ đối với ta không nhỏ. Mỹ không thể từ bỏ ý đồ diễn biến hoà bình với ta. Tuy nhiên Mỹ có làm được hay không chủ yếu còn tuỳ thuộc vào khả năng giữ vững ổn định chính trị trong nước của ta, tức là tuỳ thuộc vào bản lĩnh chính trị của Đảng ta và sự vững vàng cảnh giác của cán bộ và nhân dân ta và sự gắn bó giữa dân với Đảng. Ở đây nhân tố vững mạnh bên trong có ý nghĩa quyết định. Thắng lợi của công cuộc Đổi mới, sự ổn định về kinh tế – xã hội ở nước ta và việc không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng trong quá trình đa dạng hóa và mở rộng quan hệ quốc tế sẽ là đảm bảo tốt nhất hạn chế tác động của mọi thủ đoạn diễn biến hoà bình. Mặt khác cũng phải thấy rõ không phải Mỹ tập trung chống phá Việt Nam với bất cứ giá nào vì Mỹ có những ưu tiên chiến lược lớn hơn và hơn nữa hiện nay Mỹ đang có những lợi ích trùng hợp với ta ở khu vực mà ta có thể tranh thủ lợi dụng để phục vụ hữu hiệu cho mục tiêu chiến lược của ta.

2. Chiến lược của Trung Quốc và ý đồ của Trung Quốc đối với Việt Nam
Trái với Mỹ, Trung Quốc thấy ở những biến đổi lớn trong cục diện thế giới ngày nay, một “cơ hội ngàn năm có một”. Đối với Trung Quốc cơ hội đang tăng lên, còn thách thức giảm đi. Trong khi Mỹ cảm thấy cần co bớt lại để củng cố và phòng ngự là chính thì Trung Quốc nuôi tham vọng lớn là muốn vươn lên trở thành một cực trong trật tự thế giới đa cực mới. Trong khi hiện đại hoá trên 4 mặt vẫn là cứu cánh chính để thực hiện mục tiêu đó, Trung Quốc không ngừng tranh thủ mọi cơ hội có được để thực hiện kế hoạch bành trướng, gây mất ổn định của nước khác (Campuchia, Myanmar) để mưu lợi cho mình. Do hiện nay thế cũng như lực chưa đủ mạnh, nên họ thực hiện ý đồ một cách tính toán thận trọng tuỳ theo diễn biến của tình hình khu vực, phản ứng của các đối thủ và thực lực của chính họ.

Trước mắt Trung Quốc đang ra sức thực hiện ý đồ nhanh chóng trở thành một cường quốc ở châu Á - Thái Bình Dương, có địa vị ngang hàng với Mỹ, Nhật ở khu vực này. Trung Quốc đặt mục tiêu lấn chiếm toàn bộ biển Đông ở vị trí ưu tiên hàng đầu. Trung Quốc coi trọng vị trí chiến lược của biển Đông, vì kiểm soát được biển Đông tức là khống chế được cả Đông Nam Á và cả con đường giao lưu huyết mạch từ Thái bình dương qua Ấn Độ Dương, và cũng là khu vực giầu tài nguyên nhất là dầu khí (trữ lượng dầu ở khu vực này ngang Vịnh Ba Tư) mà Trung Quốc đang cần để đẩy nhanh tốc độ phát triển.

Đáng chú ý là trong khi Trung Quốc mở một chiến dịch hoạt động ngoại giao rộng lớn nhằm tranh thủ tăng cường quan hệ hợp tác phát triển với tất cả các nước công nghiệp hoá phương Tây, tranh thủ các nước đang phát triển và không liên kết hòng khôi phục vai trò lãnh đạo thế giới thứ ba, cải thiện quan hệ với các nước láng giềng cùng chung biên giới, đặc biệt là gần đây tăng cường lôi kéo các nước khu vực Đông Nam Á để phá thế “quần lang đấu hổ”, thì Trung Quốc luôn tập trung mũi nhọn gây sức ép và lấn dần Việt Nam trên mọi vấn đề, mặc dù ta đã dùng đủ phương sách để tỏ rõ thái độ cầu hoà và hữu hảo với họ. Phải chăng vì Trung Quốc cho rằng Việt Nam là điểm yếu và dễ tính để lấn nhất lúc này (khó về quân sự, nghèo về kinh tế, đơn độc về chính trị) mà lại chiếm một vị trí chiến lược quan trọng ở Đông Nam Á và là trở ngại lớn nhất cho kế hoạch biển Đông của Trung Quốc.

Những hoạt động bất lợi đối với Việt Nam của Trung Quốc sẽ không dừng lại ở trạng thái hiện nay mà sẽ còn được tiếp tục đẩy tới vì Trung Quốc cho rằng tình thế hiện tại đang rất thuận lợi cho việc Trung Quốc lấn ép Việt Nam mà chỉ gặp phải phản ứng quốc tế ở mức thấp nhất vì Mỹ chưa bỏ cấm vận Việt Nam; quan hệ hợp tác, đầu tư giữa các nước và Việt Nam còn chưa phát triển; vấn đề Campuchia đang còn thu hút nhiều sự chú ý của dư luận quốc tế; cơ chế an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương chưa hình thành. Trung Quốc đặt năm 1997 thành một mốc thời gian quan trọng trong quá trình xây dựng sức mạnh mọi mặt của Trung Quốc: năm 1997 là năm Trung Quốc thu hồi Hồng Kông và cũng có thể là năm thực hiện một bước kế hoạch hình thành “vành đai kinh tế Đại Trung Hoa” bao quanh Đông Nam Á; năm 1997 là năm quân đội Trung Quốc sẽ được trang bị hàng không mẫu hạm và các trang bị tối tân khác, đặc biệt về hải không quân để có thể vươn ra khắp biển Đông; có tin Trung Quốc đang cố rút ngắn mục tiêu của năm 2000 xuống năm 1997 sẽ tăng tổng sản phẩm quốc dân lên gấp 4 lần. Sức ép của Trung Quốc đối với ta sẽ phát triển thuận chiều với sự phát triển các mặt của Trung Quốc.

3. Những phân tích tình hình trên đây có thể dẫn đến kết luận:
Trước mắt cũng như trong tương lai dự báo được, Trung Quốc là nguồn xuất xứ chính của những thách thức đe doạ đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, cũng như đối với an ninh và phát triển của Việt Nam. Những thách thức đe doạ trên nhiều mặt của Trung Quốc đối với ta đều đang là những vấn đề hiện thực, đang xảy ra và ta đang phải xử lý, khác với những thách thức đe doạ của các đối tượng khác, kể cả Mỹ, có phần nào còn là giả định và dự phòng. Những mâu thuẫn về lợi ích trên các mặt giữa ta với Trung Quốc có nhiều hơn với các đối tượng khác.

III. Kiến nghị đối sách

1. Xét về so sánh lực lượng giữa Việt Nam và Trung Quốc, Việt Nam là nước nhỏ so với Trung Quốc là nước lớn, có trọng lượng và ảnh hưởng chính trị rộng lớn hơn ta nhiều. Nếu tách riêng mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc với những vấn đề tranh chấp hiện có cũng như tiềm tàng thì tình hình hoàn toàn bất lợi cho ta. Nhưng nếu gắn mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc vào trong tổng thể quan hệ quốc tế của thế giới và khu vực, thì ta có khả năng vận dụng được những xu thế lớn của thời đại, như tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu được quốc tế hoá cao và xu thế chung muốn duy trì và củng cố hoà bình và ổn định để đẩy mạnh phát triển kinh tế, để cải thiện thế chính trị của ta trong cuộc đấu tranh nhằm giải quyết các vấn đề tranh chấp với Trung Quốc bảo vệ lợi ích chính đáng của ta.

Vì bên cạnh những chỗ mạnh so với ta trên mặt trận đối ngoại Trung Quốc có những điểm yếu cơ bản mà ta có thể và cần biết cách khai thác để có thể hạn chế Trung Quốc trong chính sách lấn ép ta trên nhiều mặt. Những điểm yếu đó là:

a. Để thực hiện ưu tiên tối cao là đẩy nhanh hiện đại, Trung Quốc cần Mỹ hơn là Mỹ cần Trung Quốc. Do đó tuy giữa Mỹ - Trung Quốc có đấu tranh và thoả hiệp, nhưng rõ ràng Trung Quốc ngại phản ứng của Mỹ, không dám thách thức Mỹ trong khi thế và lực của Trung Quốc còn có hạn. Thế giới cũng như các nước khu vực đều coi Mỹ là đối trọng có hiệu quả nhất trong việc kiềm chế Trung Quốc. Cũng vì thế Trung Quốc rất không muốn Mỹ cải thiện quan hệ và đi tới bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.

b. Trong lúc chưa xây dựng được lực lượng kinh tế cũng như quân sự đủ mạnh, Trung Quốc rất ngại các nước khu vực Đông Nam Á - đối tượng bành trướng trước mắt của Trung Quốc – liên kết với nhau, đặc biệt là giữa ASEAN và Việt Nam, thành thế “quần lang đấu hổ” chống lại nguy cơ chung. Chính vì vậy mà Trung Quốc đang tìm mọi cách lôi kéo phân hoá Đông Nam Á thành những mảnh riêng biệt, thậm chí có thể chống đối nhau.

c. Trước xu thế mạnh mẽ của chung trên thế giới và trong khu vực muốn có ổn định để tập trung ganh đua phát triển kinh tế, Trung Quốc rất ngại bị dư luận quốc tế, trước hết là dư luận khu vực, coi là “nhân tố gây mất ổn định” ở châu Á - Thái Bình Dương và thế giới. Cuộc vận động của Mỹ, Nhật, nhất là ASEAN, nhằm từng bước thúc đẩy việc hình thành một diễn đàn và tiến tới một cơ chế về an ninh tập thể khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay chính là nhằm kiềm chế Trung Quốc.

2. Để có thể tận dụng những điểm yếu của Trung Quốc vào việc cải thiện thế chính trị trong cuộc đấu tranh không cân sức này, ta nhất thiết cần phải chọn lựa và hình thành một chiến lược đối ngoại hết sức linh hoạt phù hợp với chiều hướng diễn biến chung của chính trị và kinh tế thế giới, thích ứng với những đặc điểm lớn của cục diện quốc tế hiện tại. Cuộc đấu tranh chống lại những thách thức đe doạ của đối tượng đặc biệt này là một nhiệm vụ hết sức thúc bách, đòi hỏi những biện pháp tổng hợp song điển và trên mặt trận ngoại giao là chính.

Với sự kết thúc trạng thái thế giới phân thành 2 cực đối lẫn nhau, do tính tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nước trên toàn cầu và trong mỗi khu vực, việc không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá để hoà nhập vào đời sống chung của cộng đồng quốc tế là rất quan trọng cả về chính trị lẫn kinh tế. Đồng thời trong bối cảnh quốc tế hiện nay, an ninh của một nước tuỳ thuộc rất lớn và trước hết vào mối quan hệ với các nước trong khu vực. Đặc biệt việc xử lý các vướng mắc trong quan hệ quốc tế và khu vực của ta vừa qua cho thấy việc xử lý tốt mối quan hệ với các nước lớn là cực kỳ quan trọng đối với lợi ích an ninh và phát biểu của nước ta. Kinh nghiệm xương máu của dân tộc ta trong những thập kỷ qua cho thấy cần có chính sách quan hệ cân bằng giữa các nước lớn, khôn khéo lợi dụng những sai khác về lợi ích giữa họ với nhau, và tuyệt đối không để bên ngoài hiểu là Việt Nam có ý đồ đi với nước lớn này chống nước nọ, gần lợi ích của ta với lợi ích an ninh và phát triển của các nước láng giềng trong khu vực để taọ cho nước ta một thế quốc tế thuận lợi hơn.

3. Những trọng điểm trong chiến lược đối ngoại của ta phải là các nước lớn trong tam giác chiến lược châu Á - Thái Bình Dương và khối các nước ASEAN, những nhân tố có khả năng tác động nhiều tới Trung Quốc.

a. Với Mỹ:
Quan hệ với Mỹ là một bộ phận quan trọng trong chính sách đa dạng hoá quan hệ đối ngoại của ta. Hiện nay Mỹ là nhân tố duy nhất có khả năng làm đối trọng và kiềm chế Trung Quốc, do đó ta cần kiên trì và quyết tâm kéo Mỹ đi vào bình thường hoá quan hệ. Kéo Mỹ vào vấn đề Mỹ có lợi ích trực tiếp ở Việt Nam, nhất là lợi ích trong lĩnh vực dầu khí ngoài khơi Việt Nam, khiến Mỹ không thể làm ngơ trước tình hình “bất ổn định” do Trung Quốc khiêu khích, xâm lấn gây ra. Một nhà nghiên cứu Mỹ về châu Á đã đánh giá “một dàn khoan của Công ty Mobil Oil (Mỹ) ở biển Đông có giá trị ngang với cả một Hạm đội 7”.

Thúc đẩy bình thường hoá quan hệ với Mỹ trước hết là việc bỏ cấm vận có ý nghĩa rất quan trọng đối với yêu cầu an ninh, ổn định và phát triển kinh tế của ta, giúp ta cải thiện với các đối tượng khác và tạo thêm điều kiện thuận lợi cho ta đối phó với các thách thức hiện nay. Triển khai mạnh mẽ quan hệ với Mỹ cũng như với các đối tượng khác không phải để tạo một tập hợp lực lượng chống Trung Quốc vì điều đó trái với phương châm đối ngoại “làm bạn với tất cả” của ta, cũng không phù hợp với các tính toán chiến lược của Mỹ cũng như của các nước khác.

Việc ta vừa giữ hoà khí với Trung Quốc vừa có quan hệ bình thường với Mỹ và thúc đẩy quan hệ với Nhật, phương Tây và ASEAN và các nước khác sẽ tạo ra cho ta thế mạnh trong quan hệ cân bằng với các đôí tượng.

Trong tình hình hiện nay việc hợp tác giải quyết tốt vấn đề POW/MIA là khâu thiết yếu để tháo gỡ trở ngại cho quan hệ Việt – Mỹ. Đồng thời đẩy mạnh công tác vận động trong nội bộ Mỹ (lobby) với khẩu hiệu có tính sách lược dễ tranh thủ dư luận Mỹ thúc đẩy Mỹ sớm bỏ cấm vận, thu hút các công ty Mỹ vào làm ăn ở Việt Nam vừa tạo áp lực vừa tạo điều kiện cho chính quyền Mỹ đi vào bình thường hoá quan hệ với ta sớm nhất. Mặt khác ta cần quan tâm có chủ trương, chính sách và biện pháp thích đáng để vô hiệu hoá ý đồ của Mỹ và các nước phương Tây dùng vấn đề “dân chủ, nhân quyền” gây sức ép với ta.

Song song với các bước cải thiện quan hệ Việt Nam và Mỹ, cần kết hợp mở rộng đường lối “hoà hợp dân tộc” bằng những chính sách cụ thể đối với Việt kiều ở Mỹ và các nước khác nhằm chuyển họ thành những lực lượng mạnh mẽ hỗ trợ cho công cuộc hiện đại hoá nền kinh tế và KHKT của nước nhà. Việc làm này tất nhiên sẽ tác động trở lại đối với việc tăng cường quan hệ hợp tác của ta với Mỹ và các nước có người Việt sinh sống.

b. Với ASEAN:
ASEAN hiện được coi là tổ chức khu vực có sức sống mạnh nhất mà các nước lớn, trong đó có Trung Quốc, phải tính đến trong chính sách châu Á - Thái Bình Dương của họ. Giữa ta và các nước ASEAN có nguyện vọng chung là hoà bình, ổn định và phát triển, đồng thời cũng phải lo đối phó với thách thức bên ngoài, từ Trung Quốc và Nhật Bản. Tăng cường hợp tác khu vực vừa phù hợp với xu thế hiện nay vừa tạo thế cho ta trong quan hệ với các nước lớn ngoài khu vực, nhất là Trung Quốc. Để thúc đẩy quan hệ này, ngoài việc tăng cường quan hệ song phương bằng các biện pháp xây dựng lòng tin, cần sớm gạt những tồn tại trong quan hệ tay đôi giữa ta và một số nước ASEAN qua việc hợp tác giải quyết vấn đề vùng chồng lấn với Inđônêxia, Malaysia, Thái Lan,... cần có các bước đi mạnh mẽ tham gia các cơ chế hợp tác khu vực vì an ninh và phát triển phù hợp với khả năng và lợi ích của ta; đặc biệt là cần tích cực tham gia quá trình trao đổi về cơ cấu an ninh khu vực và sớm tính việc tham gia ASEAN. Nói chung ta cần tích cực, chủ động tăng cường các điểm đồng giữa ta và các nước ASEAN, xử lý khéo léo những khác biệt, tránh để những khác biệt ảnh hưởng tới quan hệ hợp tác.

c. Với các nước và các đối tượng khác, đặc biệt là với Nhật Bản, Nga, Cộng đồng châu Âu,... ta cần tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác về nhiều mặt nhằm tận dụng tối đa khả năng hợp tác kinh tế, KHKT, kinh nghiệm quản lý của các nước này cho công cuộc phát triển đất nước và qua đó góp phần tạo thế cân bằng lực lượng có lợi cho ta ở khu vực, tranh thủ tập hợp dư luận rộng rãi hỗ trợ cho cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ của ta, tạo nên một mạng lưới lợi ích kinh tế – chính trị, che chắn thêm cho ta trước mưu đồ xâm lấn của Trung Quốc.

d. Với Trung Quốc:
- Bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc là một yêu cầu chiến lược của ta. Do Trung Quốc thi hành chính sách 2 mặt nên đối sách của ta cũng gồm 2 mặt vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa chủ động thúc đẩy quan hệ trên cơ sở những thoả thuận đã đạt được, vừa kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đồng thời giữ vững phương châm không để trở lại tình trạng đối đầu với Trung Quốc cũng như không đặt các nước trước sự lựa chọn hoặc Việt Nam hoặc Trung Quốc. Biện pháp tối ưu lúc này là chủ động tạo nên cục diện các nước lớn và ASEAN có lợi ích kinh tế, an ninh ngày càng lớn trong quan hệ với Việt Nam. Cục diện đó cộng với sự lớn mạnh càng nhanh càng tốt của bản thân chúng ta sẽ là sự răn đe có hiệu quả nhất đối vơí mọi hoạt động lấn chiếm của Trung Quốc.

- Kiên quyết đấu tranh hạn chế ý đồ lấn chiếm của Trung Quốc ở biển Đông, đặc biệt ở vùng thềm lục địa của ta; áp dụng các biện pháp khôn khéo nhưng có hiệu quả ngăn chặn hoạt động của Trung Quốc mà không dẫn đến đối đầu về quân sự.

- Xúc tiến việc xác định phạm vi của quần đảo Trường Sa để xem xét khái niệm “khai thác chung”, phá ý đồ Trung Quốc lợi dụng vấn đề này chia rẽ phân hoá giữa ta và ASEAN.

- Chuẩn bị khả năng đưa ra toà án quốc tế hoặc trọng tài quốc tế vấn đề Trung Quốc vi phạm thềm lục địa của ta.

- Đến một lúc nào đó ta nên tính đến khả năng mở cảng Cam Ranh thành một thương cảng cho các tàu quốc tế ra vào, kể cả tàu Mỹ, tạo sự có mặt của nhiều quốc gia ở khu vực biển Đông, ngăn ý đồ độc chiếm của một nước. Song tất nhiên ta phải có chính sách và luật pháp chặt chẽ để bảo đảm chủ quyền và an ninh quốc gia.


Chương 20
KẾT THÚC MỘT CHẶNG ĐƯỜNG
NHƯNG LỊCH SỬ CHƯA SANG TRANG

Sau 12 năm ròng rã, đối với chúng ta, vấn đề Campuchia coi như đã kết thúc và đã trở thành một hồ sơ của bộ phận lưu trữ trong Bộ Ngoại giao Việt Nam. Nhưng những bài học của 12 năm ấy vẫn còn có nhiều tính chất thời sự, nhất là bài học về chính sách và thái độ cư xử với các nước lớn.

Tiếp sau việc vấn đề Campuchia được giải quyết là việc thực hiện bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Theo thoả thuận giữa hai bên, ngày 5.11.91, TBT Đỗ Mười và thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có cuộc đi thăm chính thức nước CHND Trung Hoa, đánh dấu sự bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. “Quan hệ Việt – Trung tuân thủ các nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau... Quan hệ Việt – Trung không phải là quan hệ đồng minh, không trở lại quan hệ như những năm 50-60...”

Tuy nhiên sau khi bình thường hoá quan hệ, lại dồn dập diễn ra những sự kiện xấu trên nhiều mặt quan hệ giữa hai nước, tập trung gay gắt nhất là các vấn đề liên quan đến lãnh thổ trên bộ vùng biên giới Hà Giang tháng 2, 3, 4.92; vụ nối lại đường xe lửa Liên vận ở Đồng Đăng, Lạng Sơn tháng 12.91 rồi 4.5.92; Lục Lầm, Quảng Ninh tháng 5.92) và tranh chấp biển đảo mà đỉnh cao là vụ Trung Quốc công khai hoá việc ký kết hợp đồng thăm dò khai thác dầu khí với Công ty Năng lượng Mỹ Crestone tại một vùng rộng lớn trên thềm lục địa của Việt Nam (bãi Tư Chính).

Vì sao Trung Quốc tăng cường lấn ép ta vào thời điểm này? Vì Trung Quốc cho rằng tình hình đó đang thuận lợi cho họ tranh thủ gấp rút thực hiện yêu cầu tăng thế và lực (xây dựng hải quân nhanh, nổ thử bom 1000 kilôton, thi hành chiến lược “biên giới mềm”) nhằm tạo cho mình một vị thế đỡ bất lợi so với Mỹ và các nước lớn khác, trong đó có ý đồ gấp rút biến biển Nam Trung Hoa - mà ta gọi là biển Đông - thành vùng biển độc chiếm của Trung Quốc, từ đó khống chế toàn bộ vùng Đông Nam Á.

1. Trật tự thế giới cũ không còn, trật tự thế giới mới chưa hình thành. Các đối thủ chính của Trung Quốc ở châu Á - Thái Bình Dương đều đang gặp khó khăn, Liên Xô vừa tan rã. Liên bang Nga trước mắt chưa phải là thách thức đáng kể, Mỹ đang giảm bớt sự có mặt về quân sự ở châu Á - Thái Bình Dương, tránh can thiệp nếu lợi ích của Mỹ và đồng minh không bị đụng đến.

2. Đông Nam Á mới bắt đầu quá trình nối lại các quan hệ giao lưu giữa hai nhóm nước đối đầu cũ. Triển vọng liên kết hay nhất thể hoá Đông Nam Á, bất lợi đối với ý đồ bá quyền của Trung Quốc, đang còn có những trở ngại (nghi ngờ nhau do khác ý thức hệ, va chạm lợi ích, ý đồ của Thái Lan đối với Lào, Campuchia) đòi hỏi thời gian khắc phục Trung Quốc muốn tranh thủ thời gian này để cản phá xu thế hợp tác khu vực giữa Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam và ASEAN tạo ra một tập hợp lực lượng thân Trung Quốc ở Đông Nam Á (quân phiệt Thái, quân phiệt Myanmar, Khmer đỏ ở Campuchia và Lào nếu có thể) để khuất phục Việt Nam.

3. Bản thân Việt Nam còn đang lúng túng về những vấn đề chiến lược (vấn đề đồng minh, vấn đề tập hợp lực lượng, vấn đề bạn thù) trong tình hình mới sau khi Liên Xô tan rã, quan hệ với Mỹ chưa bình thường hoá, Trung Quốc muốn đi vào bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trên thế mạnh.

Vì vậy Trung Quốc nhẩn nha trong các bước bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, vừa tạo bề mặt thân mật gắn bó Trung – Việt, vừa xiết chặt bên trong, giành lợi thế cho mình trên mọi lĩnh vực quan hệ. Cả hai mặt đều nhằm đạt mục tiêu khẳng định Việt Nam - Đông Dương là thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc, muốn tách Việt Nam khỏi Đông Nam Á và thế giới bên ngoài.

*

Ngày 29.11.93, tại cuộc họp Trung ương thứ 6 khoá VII để nhận định tình hình và bàn về ảnh hưởng tới, với dự tính sẽ xin rút khỏi Trung ương trong kỳ họp Trung ương giữa nhiệm kỳ tới, tôi đã tranh thủ nói rõ quan điểm của tôi trước phiên họp toàn thể Trung ương dưới dạng trình bày những suy nghĩ của mình về “Thời cơ và những thách thức”.

Tôi cho rằng cục diện mới lúc này có mặt thuận lợi là đang nảy sinh những xu thế phù hợp với yêu cầu mở cửa, hoà nhập vào đời sống kinh tế–chính trị quốc tế của ta, đang tạo nên thời cơ thực hiện mục tiêu hoà bình và phát triển của nước ta.

Đó là:
1. Xu thế độc lập tự chủ, tự lực tự cường của những nước nhỏ và vừa, có ý thức về lợi ích dân tộc của mình, cưỡng lại chính trị cường quyền áp đặt của nước lớn.
2. Xu thế đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, tăng cường ngoại gia đa phương do nhu cầu đẩy mạnh giao lưu kinh tế và an ninh tập thể.
3. Xu thế giữ hoà bình ổn định thế giới và khu vực nhằm bảo đảm môi trường quốc tế thuận lợi cho tập trung phát triển kinh tế.
4. Xu thế liên kết khu vực về kinh tế và an ninh khu vực.
Đồng thời, cũng có những thách thức lớn đối với an ninh và phát triển của ta, cả từ bên trong lẫn từ bên ngoài:
1. Thách thức bên trong là tệ nạn tham ô và nhũng nhiễu đang huỷ hoại sức để kháng vật chất cũng cũng tinh thần của dân tộc ta, làm giảm hẳn khả năng chống đỡ của ta đối với các thách thức bên ngoài.
2. Diễn biến hoà bình - một dạng biểu hiện của mâu thuẫn Đông - Tây sau chiến tranh lạnh.
3. Bá quyền bành trướng. Nguy hiểm không kém diễn biến hoà bình, ở sát nách ta, thể hiện lúc mềm, cứng để gây mơ hồ mất cảnh giác (điểm này trong hội nghị hầu như không có ý kiến nào đề cập tới).
4. Tình hình Campuchia còn đầy bất trắc với Khơ me đỏ còn đó, cộng với chủ nghĩa dân tộc cực đoan của người Campuchia.
Trên cơ sở nhận định về thời cơ và nguy cơ như vậy, tôi đã đưa ra kiến nghị:
1. Cần nhìn tổng thể tình hình khách quan và chủ quan, đối chiếu các thách thức với khả năng các mặt của ta để chọn cách xử lý sát thực tế, vừa sức.
2. Trước hết xử lý thách thức nào trong tầm tay của ta, tập trung chống tham nhũng để bảo tồn và tăng cường sức đề kháng phòng ngừa thách thức bên ngoài.
3. Ưu tiên cho liên kết khu vực (Đông Nam Á). Liên kết không phải để đối đầu chống nước nào.
4. Đối với các nước lớn, quan hệ hữu hảo, không đối đầu nước nào, nhưng đều giữ khoảng cách nhất định.
5. Song song với việc kết bạn, không lơ là với việc đấu tranh khi cần thiết. Song luôn giữ giới hạn. không gây nguy cơ mất ổn định khu vực.
6. Tránh không làm gì có thể dồn hai hoặc ba đối thủ câu kết lại vơi nhau chống ta.
Những ý kiến trên đây có thể dùng làm đoạn kết cho phần hồi ức này của tôi, vì phản ảnh khá đầy đủ quan điểm của tôi và cho đến nay (năm 2000) xem ra nó chưa phải đã lỗi thời.

(còn tiếp)

Trần Quang Cơ

Chương 20
KẾT THÚC MỘT CHẶNG ĐƯỜNG
NHƯNG LỊCH SỬ CHƯA SANG TRANG

Sau 12 năm ròng rã, đối với chúng ta, vấn đề Campuchia coi như đã kết thúc và đã trở thành một hồ sơ của bộ phận lưu trữ trong Bộ Ngoại giao Việt Nam. Nhưng những bài học của 12 năm ấy vẫn còn có nhiều tính chất thời sự, nhất là bài học về chính sách và thái độ cư xử với các nước lớn.

Tiếp sau việc vấn đề Campuchia được giải quyết là việc thực hiện bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Theo thoả thuận giữa hai bên, ngày 5.11.91, TBT Đỗ Mười và thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có cuộc đi thăm chính thức nước CHND Trung Hoa, đánh dấu sự bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. “Quan hệ Việt – Trung tuân thủ các nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau... Quan hệ Việt – Trung không phải là quan hệ đồng minh, không trở lại quan hệ như những năm 50-60...”

Tuy nhiên sau khi bình thường hoá quan hệ, lại dồn dập diễn ra những sự kiện xấu trên nhiều mặt quan hệ giữa hai nước, tập trung gay gắt nhất là các vấn đề liên quan đến lãnh thổ trên bộ vùng biên giới Hà Giang tháng 2, 3, 4.92; vụ nối lại đường xe lửa Liên vận ở Đồng Đăng, Lạng Sơn tháng 12.91 rồi 4.5.92; Lục Lầm, Quảng Ninh tháng 5.92) và tranh chấp biển đảo mà đỉnh cao là vụ Trung Quốc công khai hoá việc ký kết hợp đồng thăm dò khai thác dầu khí với Công ty Năng lượng Mỹ Crestone tại một vùng rộng lớn trên thềm lục địa của Việt Nam (bãi Tư Chính).

Vì sao Trung Quốc tăng cường lấn ép ta vào thời điểm này? Vì Trung Quốc cho rằng tình hình đó đang thuận lợi cho họ tranh thủ gấp rút thực hiện yêu cầu tăng thế và lực (xây dựng hải quân nhanh, nổ thử bom 1000 kilôton, thi hành chiến lược “biên giới mềm”) nhằm tạo cho mình một vị thế đỡ bất lợi so với Mỹ và các nước lớn khác, trong đó có ý đồ gấp rút biến biển Nam Trung Hoa - mà ta gọi là biển Đông - thành vùng biển độc chiếm của Trung Quốc, từ đó khống chế toàn bộ vùng Đông Nam Á.

1. Trật tự thế giới cũ không còn, trật tự thế giới mới chưa hình thành. Các đối thủ chính của Trung Quốc ở châu Á - Thái Bình Dương đều đang gặp khó khăn, Liên Xô vừa tan rã. Liên bang Nga trước mắt chưa phải là thách thức đáng kể, Mỹ đang giảm bớt sự có mặt về quân sự ở châu Á - Thái Bình Dương, tránh can thiệp nếu lợi ích của Mỹ và đồng minh không bị đụng đến.

2. Đông Nam Á mới bắt đầu quá trình nối lại các quan hệ giao lưu giữa hai nhóm nước đối đầu cũ. Triển vọng liên kết hay nhất thể hoá Đông Nam Á, bất lợi đối với ý đồ bá quyền của Trung Quốc, đang còn có những trở ngại (nghi ngờ nhau do khác ý thức hệ, va chạm lợi ích, ý đồ của Thái Lan đối với Lào, Campuchia) đòi hỏi thời gian khắc phục Trung Quốc muốn tranh thủ thời gian này để cản phá xu thế hợp tác khu vực giữa Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam và ASEAN tạo ra một tập hợp lực lượng thân Trung Quốc ở Đông Nam Á (quân phiệt Thái, quân phiệt Myanmar, Khmer đỏ ở Campuchia và Lào nếu có thể) để khuất phục Việt Nam.

3. Bản thân Việt Nam còn đang lúng túng về những vấn đề chiến lược (vấn đề đồng minh, vấn đề tập hợp lực lượng, vấn đề bạn thù) trong tình hình mới sau khi Liên Xô tan rã, quan hệ với Mỹ chưa bình thường hoá, Trung Quốc muốn đi vào bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trên thế mạnh.

Vì vậy Trung Quốc nhẩn nha trong các bước bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, vừa tạo bề mặt thân mật gắn bó Trung – Việt, vừa xiết chặt bên trong, giành lợi thế cho mình trên mọi lĩnh vực quan hệ. Cả hai mặt đều nhằm đạt mục tiêu khẳng định Việt Nam - Đông Dương là thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc, muốn tách Việt Nam khỏi Đông Nam Á và thế giới bên ngoài.

*

Ngày 29.11.93, tại cuộc họp Trung ương thứ 6 khoá VII để nhận định tình hình và bàn về ảnh hưởng tới, với dự tính sẽ xin rút khỏi Trung ương trong kỳ họp Trung ương giữa nhiệm kỳ tới, tôi đã tranh thủ nói rõ quan điểm của tôi trước phiên họp toàn thể Trung ương dưới dạng trình bày những suy nghĩ của mình về “Thời cơ và những thách thức”.

Tôi cho rằng cục diện mới lúc này có mặt thuận lợi là đang nảy sinh những xu thế phù hợp với yêu cầu mở cửa, hoà nhập vào đời sống kinh tế–chính trị quốc tế của ta, đang tạo nên thời cơ thực hiện mục tiêu hoà bình và phát triển của nước ta.

Đó là:
1. Xu thế độc lập tự chủ, tự lực tự cường của những nước nhỏ và vừa, có ý thức về lợi ích dân tộc của mình, cưỡng lại chính trị cường quyền áp đặt của nước lớn.
2. Xu thế đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, tăng cường ngoại gia đa phương do nhu cầu đẩy mạnh giao lưu kinh tế và an ninh tập thể.
3. Xu thế giữ hoà bình ổn định thế giới và khu vực nhằm bảo đảm môi trường quốc tế thuận lợi cho tập trung phát triển kinh tế.
4. Xu thế liên kết khu vực về kinh tế và an ninh khu vực.
Đồng thời, cũng có những thách thức lớn đối với an ninh và phát triển của ta, cả từ bên trong lẫn từ bên ngoài:
1. Thách thức bên trong là tệ nạn tham ô và nhũng nhiễu đang huỷ hoại sức để kháng vật chất cũng cũng tinh thần của dân tộc ta, làm giảm hẳn khả năng chống đỡ của ta đối với các thách thức bên ngoài.
2. Diễn biến hoà bình - một dạng biểu hiện của mâu thuẫn Đông - Tây sau chiến tranh lạnh.
3. Bá quyền bành trướng. Nguy hiểm không kém diễn biến hoà bình, ở sát nách ta, thể hiện lúc mềm, cứng để gây mơ hồ mất cảnh giác (điểm này trong hội nghị hầu như không có ý kiến nào đề cập tới).
4. Tình hình Campuchia còn đầy bất trắc với Khơ me đỏ còn đó, cộng với chủ nghĩa dân tộc cực đoan của người Campuchia.
Trên cơ sở nhận định về thời cơ và nguy cơ như vậy, tôi đã đưa ra kiến nghị:
1. Cần nhìn tổng thể tình hình khách quan và chủ quan, đối chiếu các thách thức với khả năng các mặt của ta để chọn cách xử lý sát thực tế, vừa sức.
2. Trước hết xử lý thách thức nào trong tầm tay của ta, tập trung chống tham nhũng để bảo tồn và tăng cường sức đề kháng phòng ngừa thách thức bên ngoài.
3. Ưu tiên cho liên kết khu vực (Đông Nam Á). Liên kết không phải để đối đầu chống nước nào.
4. Đối với các nước lớn, quan hệ hữu hảo, không đối đầu nước nào, nhưng đều giữ khoảng cách nhất định.
5. Song song với việc kết bạn, không lơ là với việc đấu tranh khi cần thiết. Song luôn giữ giới hạn. không gây nguy cơ mất ổn định khu vực.
6. Tránh không làm gì có thể dồn hai hoặc ba đối thủ câu kết lại vơi nhau chống ta.
Những ý kiến trên đây có thể dùng làm đoạn kết cho phần hồi ức này của tôi, vì phản ảnh khá đầy đủ quan điểm của tôi và cho đến nay (năm 2000) xem ra nó chưa phải đã lỗi thời.

(còn tiếp)

Trần Quang Cơ






Trần Quang Cơ



Trang liên hệ
· Đọc thêm về Hồ sơ Đảng Cộng Sản VN



Phụ lục 2
ĐẠI SỰ KÝ 1975 - 1991

1975
01.02 TNS M. Mansfield báo cáo trước Quốc hội Mỹ sau khi đi thăm Trung Quốc về: Trung Quốc tán thành để 2 nước Việt Nam tiếp tục tồn tại. Trung Quốc cho rằng một nước Campuchia thống nhất trung lập là điều chủ yếu trong một Ðông Dương ổn định.
17.04 Giải phóng Phnom Penh
30.04 Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Giải phóng Sài gòn
04.05 Quân Polpot tấn công đảo Phú Quốc và từ đó liên tiếp tấn công biên giới trên bộ và trên biển của ta
05.05 H. Kissinger: với việc mất Việt Nam, sẽ có sự sắp xếp lại lực lượng quan trọng ở Ðông Nam á, Campuchia và Lào sẽ là chư hầu của Hà Nội, còn Thái Lan và Inđônêxia sẽ tự động liên minh với Việt Nam. Trung Quốc sẽ giữ không cho Việt Nam có bất kỳ hành động quyết liệt nào
?.05 Thông điệp miệng của ta nhờ Liên Xô chuyển tới Mỹ tỏ ý muốn hai bên có quan hệ tốt
12.06 Mỹ gửi đến Ðại sứ quán ta tại Paris thông điệp: "Về nguyên tắc, Mỹ không hận thù gì Việt Nam, đề nghị trên cơ sở đó tiến hành bất cứ quan hệ nào giữa hai bên. Mỹ sẵn sàng nghe bất cứ gợi ý nào đó Việt Nam đưa ra".
11.07 Thông điệp ta trả lời: nhắc Mỹ nghĩa vụ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh
10.07 và 05.09 Tiếp xúc giữa bí thư thứ nhất ÐSQ Việt Nam Ðỗ Thanh và bí thư thứ nhất ÐSQ Mỹ Pratt ở Paris
27 - 29.07 Ðoàn đại biểu Ðảng Lao động Việt Nam do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn dẫn đầu đi thăm Campuchia
09.08 Vụ Watergate - Nixon từ chức. Phó tổng thống G.Ford lên thay
11.08 Tại Hội đồng Bảo an, Mỹ phủ quyết Việt Nam vào LHQ
07.12 G. Ford công bố "học thuyết Thái Bình Dương mới" gồm 6 phương hướng chính: sức mạnh Mỹ đã cân bằng lực lượng ở Thái Bình Dương, liên minh với Nhật, bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, quan hệ mạnh với ASEAN, giải quyết xung đột khu vực, hợp tác kinh tế trong vùng
21.12 Ðoàn hạ nghị sĩ Mỹ do G. V. Montogomery vào Hà Nội nhận 3 bộ hài cốt giặc lái Mỹ. Thủ tướng Phạm Văn Ðồng tiếp đoàn
tháng 12 H. Kissinger phát biểu ở Paris sau khi đi thăm Trung Quốc: Mỹ đang tính toán việc sử dụng Trung Quốc để hạn chế ảnh hưởng của Việt Nam ở khu vực
1976
10.01 Mỹ thông qua Liên Xô thăm dò việc tiếp xúc với ta, song khẳng định không thực hiện Ðiều 21 (bồi thường chiến tranh)
26.03 H. Kissinger gửi công hàm cho bộ trưởng ngoại giao ta: Mỹ sẵn sàng thảo luận với Việt Nam để phát triển quan hệ mới giữa hai nước
10.04 Bộ trưởng Ngoại giao ta trả lời: nêu lại những vấn đề tồn tại giữa hai nước (điều 21 và vấn đề MIA). Trên cơ sở giải quyết những vấn đề đó sẽ bình thường hoá quan hệ với Mỹ
07.05 Tổng thống G. Ford bác kiến nghị của quốc hội Mỹ yêu cầu tạm thời ngừng cấm vận buôn bán với Việt Nam trong 6 tháng
08.05 Công hàm của ngoại trưởng Mỹ H. Kissinger gửi Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh: sẵn sàng mở cuộc thảo luận về việc thiết lập mối quan hệ mới giữa hai nước, song chỉ khi nào vấn đề MIA được giải quyết về thực chất thì mới có tiến bộ đi tới bình thường hoá quan hệ
19.06 Thông điệp của BNG ta phê phán Mỹ "đơn phương tuyên bố xoá bỏ Hiệp định", lẩn tránh nghĩa vụ đối với điều 21 đồng thời lại đòi Việt Nam thi hành điều 8b của Hiệp định: nhắc lại lập trường ta gắn 2 vấn đề với nhau. Bước đầu sẵn sàng gặp đại diện Mỹ ở Paris để trao đổi ý kiến
19.07 Mỹ gửi thông điệp trả lời đồng ý mở cuộc thảo luận tại Paris giữa người thứ 2 của hai sứ quán
01.08 Ta trao trả Mỹ tất cả 27 người Mỹ bị kẹt lại ở Nam Việt Nam sau ngày 30.4.75
27.08 Thông điệp của ta gửi Mỹ xác định người gặp (tham tán Trần Hoàn) và nói gặp (luân phiên giữa hai sứ quán tại Paris)
Tháng 11 Tổng tuyển cử Mỹ - Jimmy Carter (Dân chủ) trúng cử Tổng thống
Tháng 12 Ðại hội IV với luận điểm "3 giòng thác cách mạng trong thế tiến công"
1977
06.01 Mỹ thông qua Liên Xô đưa ra kế hoạch 3 bước bình thường hoá quan hệ với Việt Nam: Việt Nam cho biết tin về MIA ở Việt Nam; Mỹ chấp nhận Việt Nam vào LHQ và sẵn sàng lập quan hệ ngoại giao cũng như bắt đầu buôn bán với Việt Nam; Mỹ có thể đóng góp khôi phục Việt Nam bằng cách phát triển buôn bán, cung cấp thiết bị và các hình thức hợp tác kinh tế khác
11.01 Ngoại trưởng C.Vance: Việc tiến tới bình thường hoá quan hệ Mỹ - Việt Nam là phù hợp với lợi ích của hai nước
03.3 Chính quyền J. Carter quyết định nới lỏng cấm vận với Việt Nam
09.03 Mỹ cho phép công dân Mỹ đi thăm Việt Nam, Campuchia, Bắc Triều Tiên, Cuba, kể từ 18.3.77.
17.03 Uỷ ban của tổng thống Mỹ do Leonard Woodcock dẫn đầu sang thăm Việt Nam.
30.04 Polpot bắt đầu chiến tranh biên giới chống ta.
03 - 04.05 Vòng 1 đàm phán Việt Nam - Mỹ tại Paris về bình thường hoá quan hệ hai nước: Mỹ đề nghị lập ngay quan hệ ở cấp đại sứ, trao đổi sứ quán có quan hệ lãnh sự; Mỹ không cản Việt Nam vào LHQ; Mỹ có khó khăn về mặt pháp luật nên không thực hiện Ðiều 21 được mà hứa sẽ thực hiện khi có quan hệ, bỏ cấm vận buôn bán và xét viện trợ nhân đạo.
02 - 03.06 Vòng 2 đàm phán Việt - Mỹ tại Paris. Mỹ nêu lại các đề nghị đã nói ở vòng 1.
19 - 20.12 Vòng 3 đàm phán Việt Nam - Mỹ tại Paris, Mỹ đề nghị nếu hai bên chưa lập quan hệ ngoại giao đầy đủ thì có thể lập Phòng quyền lợi (Interest Section), nhưng như thế thì chưa bỏ cấm vận được. Song ta vẫn giữ lập trường "cả gói" 3 vấn đề: quan hệ ngoại giao, bồi thường và MIA.
- tháng 12 Liên Xô đưa quân vào Afghanistan - đỉnh cao của quá trình Liên Xô bành trướng, cả thế giới bên ngoài.
31.12 Chính quyền Polpot đơn phương cắt quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
1978
08.01 Z.Brzezinski: Ðiều lý thú là đây là trường hợp đầu tiên của một cuộc chiến tranh qua tay người khác (proxy war) giữa Liên Xô và Trung Quốc, Việt Nam được Liên Xô ủng hộ và Campuchia được Trung Quốc ủng hộ.
05.05 Phó tổng thống Mỹ W.Mondale phát biểu khi đi thăm 5 nước ASEAN: "Mỹ sẽ đẩy mạnh việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì nó giữ thế ổn định khu vực: Chính sách của Trung Quốc ở Ðông Nam á về một số mặt là song hành với Mỹ. Mỹ đã đưa ra đề nghị hợp lý với Việt Nam và vẫn giữ lập trường thiết lập quan hệ mà không có điều kiện tiên quyết. Họ vẫn giữ lập trường là Mỹ trước hết phải cam kết viện trợ. Nhân dân, Quốc hội và chính quyền Mỹ không cho phép làm điều đó."
11.05 R.Oakley, trợ lý ngoại trưởng Mỹ: "Việt Nam, với 50 triệu dân, là quốc gia cộng sản lớn thứ 3 trên thế giới và mạnh nhất về quân sự ở Ðông Nam á. Thái độ Việt Nam với các nước khác là quan trọng trong các thập niên tới. Quan hệ ngoại giao và sự có mặt của Mỹ ở Hà Nội có thể phục vụ lợi ích bạn bè Mỹ ở châu á cũng như lợi ích của Mỹ và Việt Nam."
19.05 Ðặng Tiểu Bình tuyên bố: "Trung Quốc là NATO phương Ðông" (có công giữ 40 sư đoàn Liên xô tại biên giới Xô - Trung), "Việt Nam là Cuba phương Ðông."
29.06 Việt Nam tham gia khối COMEON.
05.07 Thứ trưởng ngoại giao Phan Hiền nói tại Tokyo: Việt Nam sẵn sàng bình thường hoá quan hệ với Mỹ không có điều kiện tiên quyết.
0.05 (7?) Brzezinski cố vấn an ninh của tổng thống Mỹ đi thăm Trung Quốc.
27.07 Nghị quyết TƯ.09 (khoá IV): Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất. Mỹ là kẻ thù cơ bản và lâu dài, quyết tâm đánh đổ chế độ diệt chủng Polpot.
21.08 Ðoàn 7 hạ nghị sĩ Mỹ do G.V.Montgomery sang Việt Nam về vấn đề MIA.
22 - 27.09 Vòng 1 đàm phán Việt Nam - Mỹ (Nguyễn Cơ Thạch - R.Holbrooke) tại New york. Ta chấp nhận đề nghị của Mỹ đưa ra tháng 5.77, tức là bình thường hoá quan hệ không điều kiện. Việc ta chuyển đổi lập trường quá muộn nên không đem lại kết quả. Holbrooke nói: Mỹ coi trọng châu Á lo sợ việc Liên Xô đã cản trở Cam Ranh.
01.10 Việt Nam tuyên bố bác đề nghị của Polpot ngày 29.9.98, đòi Campuchia ngừng bắn và rút khỏi biên giới trước rồi mới có thể bắt đầu thương lượng.
03.11 Việt Nam và Liên Xô ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác.
30.11 R. Oakley gặp Trần Quang Cơ tại Nữu ước nói: Mỹ không thay đổi lập trường bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, nhưng phải chậm lại vì cần làm rõ 3 vấn đề Campuchia, hiệp ước Việt - Xô và vấn đề người di tản Việt Nam.
15.12 Trung Quốc và Mỹ ra thông cáo chung chínn thức công nhận nhau và thiết lập quan hệ ngoại giao từ ngày 1.1.79.
16.12 M.Mansfield đại sứ Mỹ ở Nhật: "chỉ sau khi những khó khăn giữa Trung Quốc và Việt Nam được giải quyết mới có lý do chính đáng để hy vọng giaỉ quyết quan hệ ngoại giao Mỹ - Việt Nam."
1979
07.01 Ta giúp bạn đánh đuổi Polpot và giải phóng Phnom Penh.
11.01 Thành lập nước CHND Campuchia.
29.01 - 04.02 Ðặng Tiểu Bình đi thăm chính thức Mỹ, Hội đàm J. Carter - Ðặng
16.02 Carter nêu 6 nguyên tắc sử xự khi Trung Quốc xâm lược Việt Nam: không can thiệp trực tiếp, khuyến khích các bên kiềm chế, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam; xung đột không đe doạ lợi ích trước mắt của Mỹ; không vì Việt Nam xâm lược Campuchia mà đặt lại vấn đề bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc; quyền lợi đồng minh của Mỹ không bị đe doạ.
17.02 Trung Quốc tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta. "Dạy cho Việt Nam một bài học" (lời Ðặng Tiểu Bình).
17.02 Bộ ngoại giao Mỹ ra tuyên bố phản đối cả 2 cuộc xâm lược (Việt Nam vào Campuchia, Trung Quốc vào Việt Nam) và kêu gọi 2 bên rút quân ngay.
18.02 Chính phủ Liên Xô ra tuyên bố phản đối Trung Quốc xâm lược Việt Nam.
19.02 Ký hiệp ước hoà bình, Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Campuchia tại Phnom Penh.
Cuối tháng 2 Ðặng nói với các nhà báo ở Bắc Kinh: "Chúng tôi có thể dung thứ việc Liên Xô có ở Việt Nam 70% ảnh hưởng, miễn là 30% còn lại dành cho Trung Quốc".
05.03 Trung Quốc tuyên bố rút quân khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Tháng 3 Trung Quốc tuyên bố huỷ Hiệp ước Hữu nghị, đồng minh tương trợ Trung - Xô ký 15.2.1950 giữa Chu Ân Lai và Krouschev dịp Mao thăm Liên Xô.
Tháng 4 Ðàm phán vòng 1 Việt Nam - Trung Quốc tại Hà Nội
Tháng 4 L. Brejnev làm TBT. Ðại hội ÐCS Liên Xô thứ 26
07.10 Sihanouk gửi 2 thư và 1 điện (ngày 7, 23/10 và 11/11). Ta không trả lời.
Tháng 10 Bộ Ngoại Giao phát hành cuốn "Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua".
10.12 LHQ quyết định vẫn để Khmer đỏ giữ ghế của Campuchia tại LHQ.
1980
05.01 Hội nghị ngoại trưởng 3 nước Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 1 tại Phnom Penh. Ðàm phán vòng 2 Việt Nam - Trung Quốc tại Bắc Kinh. Không kết quả. Trung Quốc cắt cầu đàm phán. Từ đó đến cuối năm 1988, ta nhiều lần gửi công hàm hoặc thư đề nghị nối lại đàm phán, song Trung Quốc đều bác bỏ.
29.7 Ðại sứ Mỹ ở Thái Abramowitz: Mỹ không bao giờ công nhận chế độ Polpot; tuy nhiên gạt Polpot ra khỏi LHQ chỉ càng làm tăng vị thế của Việt Nam. Quan điểm của Mỹ và Trung Quốc về Campuchia có khác nhau. Mỹ nhìn vấn đề về mặt chiến lược, đặc biệt lo ngại biên giới Campuchia - Thái Lan.
1981
19.01 Tổng thống mới R.Reagan: Quan hệ Mỹ - Trung dưới thời Carter là không có lợi. Mỹ phải trả giá.
19.02 Ðại sứ Mỹ ở Thái Abramowitz trao ta bản ghi nhớ: Ðáng tiếc Việt Nam, Liên Xô đã phá vỡ ổn định, ngạc nhiên việc Việt Nam cho Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh: không hài lòng việc giải quyết vấn đề MIA trong 2 năm rưỡi qua.
18.05 Nghị quyết 39 BCT: đấu tranh chống chủ nghĩa Mao trên mọi hình thái của nó; chống chủ nghĩa bành trướng bá quyền nước lớn; liên minh và hợp tác toàn diện với Liên Xô.
13.07 Hội nghị quốc tế về Campuchia ở Nữu ước. Ngoại trưởng Mỹ A.Haig nói Mỹ không có ý định bình thường hoá quan hệ với Việt Nam còn đang chiếm đóng Campuchia, làm mất ổn định Ðông Nam Á.
12.12 Ðặng Tiểu Bình tuyên bố với nghị sĩ Italia Colombo: "Cả Mỹ và Liên Xô đều là những tên bá quyền". Từ đó Trung Quốc chuyển từ "chống bá quyền Liên Xô" sang "chống bá quyền" của "hai siêu".
1982
14.01 Sứ quán Mỹ ở Bangkok gửi message cho ta qua Lê Văn Hoá: Mỹ muốn một giải pháp chính trị về Campuchia. Mỹ không nhấn việc đòi Việt Nam rút quân ngay, rút hết mà chỉ đàm phán rút một phần và có 1 lịch rút quân. Một nước Việt Nam độc lập với Liên Xô và Trung Quốc là phù hợp với lợi ích của Mỹ. Muốn biết ý kiến Việt Nam về lực lượng giữ gìn hoà bình của LHQ.
16 - 17.02 Hội nghị 3 ngoại trưởng Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 5 tại Vientiane.
24.03 Brejnev tuyên bố ở Taskent: Liên Xô chưa hề phủ nhận chế độ xã hội chủ nghĩa đang tồn tại ở Trung Quốc. Mong muốn cải thiện quan hệ với Trung Quốc.
07.07 Hội nghị 3 ngoại trưởng Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 6 tại và Campuchia thoả thuận đi bước trước, quyết định sẽ rút một số quân Việt Nam khỏi Campuchia trong tháng 7.82 và có thể xem xét rút thêm căn cứ Thái và sự đáp ứng của Thái Lan.
02.10 Ðàm phán Xô - Trung lần thứ nhất. Trung Quốc đưa ra 5 điểm về Campuchia và quan hệ Trung Quốc - Việt Nam: Việt Nam tuyên bố rút quân vô điều kiện khỏi Campuchia; nếu Việt Nam quyết định rút hết quân khỏi Campuchia thì sau đợt rút quân đầu, Trung Quốc sẵn sàng đàm phán với Việt Nam về bình thường hoá quan hệ.
?.10 R.Childress, cố vấn chính trị - quân sự Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ nói với Nguyễn Cơ Thạch: đề nghị đoàn chuyên viên cấp cao nhất vào Việt Nam để thảo luận vấn đề MIA. Mỹ không muốn Việt Nam rút quân Campuchia để Polpot quay trở lại.
10.11 Brejnev chết. Trung Quốc cử ngoại trưởng Hoàng Hoa sang viếng. Khi đi Ðặng dặn: phải khéo léo nói quan hệ hai nước xấu đi từ sau năm 50 để chỉ Kroutchev, từ sau năm 65 xấu đến mức nghiêm trọng để chỉ Brejnev; tránh nói tên.
1983
23.02 Hội nghị cấp cao Việt Nam - Lào - Campuchia họp ở Viêng chăn. Tuyên bố của Việt Nam và Campuchia: hàng năm sẽ rút một số quân Việt Nam khỏi Campuchia; tất cả quân tình nguyện Việt Nam sẽ rút hết về nước khi mối đe doạ đối với CHND Campuchia chấm dứt.
01.03 Ðàm phán Xô - Trung lần thứ 2. Trung Quốc nêu việc Việt Nam chiếm đóng Campuchia là 1 trong 3 trở ngại cho bình thường hoá quan hệ Trung - Xô.
01.03 Bộ Ngoại Giao Trung Quốc: Việt Nam rút đơn vị đầu tiên khỏi Campuchia, Trung Quốc sẽ nối lại đàm phán.
12.04 Hội nghị bất thường 3 ngoại trưởng Việt Nam - Lào - Campuchia tại Phnom Penh tuyên bố rút quân Việt Nam lần thứ 2 vào tháng 5.83. Rút 1 binh đoàn.
02.05 Lễ tiễn quân tình nguyện Việt Nam rút đợt 2.
19 - 20.07 Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 7 tại Phnom Penh khẳng định: quân tình nguyện Việt Nam sẽ được rút hết khỏi Campuchia khi Trung Quốc chấm dứt đe doạ.
1984
28 - 29.04 Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 8 tại Vientiane.
Tháng 4 Chiến dịch mùa khô đánh vào các Khmer đỏ trên đường biên giới Campuchia - Thái Lan.
21 - 23.06 Ðợt rút quân thứ 3 của quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia.
1985
- Liên Xô: Gorbachov lên, bắt đầu điều chỉnh chính sách đối nội, ngoại. Nhiều lần nói mong muốn cải thiện, quan hệ Xô - Trung, song không đả động đến "3 trở ngại", đặc biệt là việc rút quân Việt Nam khỏi Campuchia.
08.01 Nguyễn Cơ Thạch thư cho Ngô Học Khiêm đề nghị nối lại đàm phán.
28 - 29.01 Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 10 tại TP. Hồ Chí Minh tuyên bố: quân đội Việt Nam sẽ tiếp tục rút dần hàng năm và sẽ rút hết khỏi Campuchia vào năm 1990.
21.01 Ngô Học Khiêm thư trả lời: sau khi Việt Nam công khai cam kết và thực hiện rút quân khỏi Campuchia thì đàm phán mới có ý nghĩa thực tế.
23.01 Ngoại trưởng Trung Quốc Ngô Học Khiêm đi các nước Ðông Nam Á. Khi đến Singapore nói: "Trung Quốc sẽ dạy cho Việt Nam bài học thứ hai".
02.04 Ðợt rút quân thứ 4 của Việt Nam khỏi Campuchia.
15.05 Thứ trưởng ngoại giao Mỹ Armacost: Về vấn đề Campuchia, Mỹ sẽ để ASEAN, Trung Quốc đi trước, Mỹ muốn dùng vấn đề Campuchia để ngăn Trung Quốc và Liên Xô cải thiện quan hệ.
1986
23 - 24.01 Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 12 tại Phnom Penh.
07 - 10.04 Ðàm phán Xô - Trung vòng 8 tại Matxcơva, Trung Quốc vẫn nêu "3 trở ngại", Liên Xô đề nghị gặp cấp cao (Gorbachov - Ðặng). Trung Quốc từ chối.
28.05 Ðợt rút quân tình nguyện Việt Nam thứ 5 khỏi Campuchia.
08.07 Nghị quyết 32 BCT: chuyển sang giai đoạn đấu tranh mới dưới hình thức cùng tồn tại hoà bình với Trung Quốc, ASEAN, Mỹ; giải quyết hoà bình vấn đề Campuchia.
28.07 Diễn văn của Gorbachov ở Vladivodstock nêu những nét lớn của chính sách đối ngoại mới của Liên Xô đối với châu á - Thái Bình Dương: xích dần lại với Trung Quốc, giải quyết "3 trở ngại" để bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (rút quân khỏi Afghanistan, chấm dứt xung đột biên giới Xô - Trung, giải quyết vấn đề Campuchia). Với Mỹ, Liên Xô có thể có "cử chỉ đáp ứng" (responsive gesture) về vịnh Cam Ranh nếu Mỹ rút các căn cứ quân sự ở Philippin.
05 - 15.10 Vòng 9 đàm phán Xô - Trung tại Bắc Kinh. 70% thời gian bàn vấn đề Campuchia.
19.10 Liên Xô bắt đầu rút quân khỏi Afghanistan.
Tháng 12 Ðại hội VI. Nguyễn Văn Linh được bầu làm TBT. Ðỗ Mười làm thủ tướng. Sửa Lời nói đầu của Ðiều lệ Ðảng, xoá chỗ nói về Trung Quốc là "kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất".
1987
07.02 Vòng 10 đàm phán Xô - Trung tại Matxcơva. Trung Quốc lại nêu "3 trở ngại" cho việc bình thường hoá quan hệ Trung - Xô, trở ngại lớn nhất là việc "Việt Nam xâm lược Campuchia".
Ðầu th. 3 Ngoại trưởng Liên Xô Schevarnadzé đến Phnom Penh thúc đẩy giải quyết vấn đề Campuchia.
26.03 Bộ Ngoại Giao thành lập CP87 chuyên trách nghiên cứu giải pháp Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc.
19 - 20.04 Lê Ðức Thọ gặp Hun Xen, Heng Somrin và Chia Xim ở Phnom Penh, khuyên Campuchia thoả hiệp với diệt chủng Polpot, thực hiện "giải pháp Ðỏ".
08.05 Họp BCT về vấn đề Campuchia (sau khi Lê Ðức Thọ đi Phnom Penh, trước khi TBT Linh đi Liên Xô.
20.05 Bộ Ngoại giao kiến nghị BCT sửa Lời nói đầu của Hiến pháp chỗ nói về Trung Quốc (đến 27.8.88 mới thực hiện).
10.06 Phó tổng thư ký LHQ Ahmed chuyển tới ta 4 điểm của Ðặng Tiểu Bình.
17.06 Hun Xen (đi thăm Lào) nói với Ngoại trưởng Lào Phun: muốn liên hiệp với phái Polpot không có Polpot hơn là với Sihanouk với lý lẽ là bọn Polpot có lực lượng nhưng không có thế chính trị, còn Sihanouk ngược lại không có lực lượng nhưng có thế chính trị.
26.06 Nguyễn Cơ Thạch gặp đại sứ Trung Quốc chuyển thông điệp miệng của Thủ tướng Phạm Văn Ðồng gửi lãnh đạo Trung Quốc đề nghị mở đàm phán bí mật hai nước.
29.07 Thông cáo chung Việt Nam - Inđônêxia sau cuộc gặp Nguyễn Cơ Thạch - Mochtar tại TP. HCM. Thoả thuận dùng hình thức "cocktail party" để các bên liên quan gặp nhau bàn giải pháp Campuchia.
22.08 Thư của Ngô Học Khiêm gửi Nguyễn Cơ Thạch nói Trung Quốc chưa thể trả lời thông điệp của ta vì Trung Quốc không muốn chấp nhận việc đã rồi ở Campuchia.
27.08 Chính phủ CHND Campuchia công bố chính sách 5 điểm về hoà hợp dân tộc.
02.10 Thông điệp miệng của ta nhờ Liên Xô chuyển cho Trung Quốc nhân cuộc gặp vòng 11 Liên Xô - Trung Quốc tại Mạc-tư-khoa ngày 6.10.
06.10 Ðàm phán vòng 11 Xô - Trung tại Bắc Kinh. Ðưa công khai việc bàn vấn đề Campuchia vào thông cáo báo chí.
29.11 Ðợt rút quân thứ 6 của quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia.
12.12 Hội đàm Hun Xen - Sihanouk lần thứ 1 tại Fère - en - Taidenois (Pháp). Thông cáo chung thoả thuận: giải quyết xung đột Campuchia bằng biện pháp chính trị; vấn đề Campuchia do nhân dân Campuchia giải quyết; triệu tập Hội nghị quốc tế để bảo đảm thoả thuận giữa các bên Campuchia. Gặp lại vòng 2 ở Paris và vòng 3 ở Bình Nhưỡng.
22.12 Việt Nam và Campuchia tán thành gợi ý của Liên Xô để Liên Xô gửi thông điệp cho ngoại trưởng Trung Quốc đề nghị Liên Xô cùng Trung Quốc dàn xếp một cuộc gặp giữa CHND Campuchia và Khmer Ðỏ, Trung Quốc không đáp ứng.
30.12 BCT quyết định đổi mới quan hệ giữa ta với Lào và Campuchia, rút chuyên gia, cố vấn ta ở Lào và Campuchia giải tán đoàn chuyên gia Việt Nam ở Campuchia.
1988
20 - 22.01 Vòng 2 Hun Xen - Sihanouk tại Paris. Không có thông cáo chung. Hai bên nhất trí: chế độ chính trị ở Campuchia do nhân dân Campuchia quyết định qua tổng tuyển cử có giám sát quốc tế; triệu tập hội nghị quốc tế về Campuchia theo kiểu Hội nghị Genève 1954 về Ðông Dương.
20 - 29.01 Cuba, Angola và trợ lý ngoại trưởng Mỹ họp ở Luanda đã thoả thuận việc rút toàn bộ quân Cuba khỏi Angola.
01.02 Thư Sihanouk gửi thủ tướng Phạm Văn Ðồng: Mối quan tâm luôn luôn giành cho việc khôi phục quan hệ hữu nghị hai nước láng giềng anh em chúng ta. Như vậy thì giải pháp này sẽ tới gần.
08.02 Gorbachov tuyên bố quân đội Liên Xô sẽ rút khỏi Afghanistan trong 10 tháng kể từ ngày 15.5.88.
14 - 16.03 Ðụng độ giữa hải quân Việt Nam và hải quân Trung Quốc ở Trường Sa.
20.05 Nghị quyết 13 BCT: giải quyết vấn đề Campuchia trước 1990, phấn đấu bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc.
26.05 Bộ Ngoại Giao Việt Nam tuyên bố rút quân đợt 7 gồm 50.000 quân và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện; số quân còn lại sẽ rút sâu vào 30km trong lãnh thổ Campuchia dọc biên giới Campuchia - Thái Lan.
Cuối th.5 Họp cấp cao Xô - Mỹ Gorbachov - Reagan tại Matxcơva, có bàn vấn đề Campuchia.
13 - 20.06 Ðàm phán Xô - Trung tại Matxcơva. Hai bên bàn tỉ mỉ vấn đề Campuchia. Liên Xô rút ra 5 điểm đồng với Trung Quốc về vấn đề Campuchia.
28.06 Quốc hội ra nghị quyết sửa Lời nói đầu của Hiến pháp (bỏ câu "Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất"). Chính thức thông qua ngày 27.8.88.
15.07 Nguyễn Cơ Thạch gặp đại sứ Trung Quốc nêu một loạt biện pháp làm giảm căng thẳng quan hệ hai nước, đề nghị hai bên nối lại đàm phán ở bất cứ cấp nào.
25 - 26.07 Họp JIM 1 (Jakarta Infornal Meeting) tại Bô - go (Inđônêxia). Cuộc họp tiến hành làm 2 bước: bước đầu chỉ có 4 phái Campuchia; bước sau có thêm Việt Nam, Lào và 6 nước ASEAN. Mục đích: tạo một khuôn khổ cho các cuộc thảo luận không chính thức, giữa các bên liên quan trực tiếp và các nước hữu quan trong việc tìm kiếm một giải pháp toàn diện, đúng đắn và lâu dài cho vấn đề Campuchia. Cuộc họp đã khẳng định 2 vấn đề then chốt: việc rút quân Việt Nam trong khuôn khổ một giải pháp chính trị và việc ngăn chặn sự trở lại của chế độ diệt chủng Polpot.
07.11 Vòng 3 Hun Xen - Sihanouk tại Paris. Chủ yếu bàn chương trình nghị sự họp cấp cao 3 bên (Hun Xen - Sihanouk - Son San ngày 8.11.88).
01.12 Hoàn thành đợt rút quân Việt Nam thứ 7 khỏi Campuchia gồm 50.000 quân và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia.
1989
05.01 TBT Nguyễn Văn Linh dẫn đầu đoàn đại biểu Ðảng và Chính phủ Việt Nam đi Phnom Penh dự lễ kỷ niệm 10 năm Quốc khánh CHND Campuchia.
06.01 Tuyên bố của Nguyễn Văn Linh và của Heng Somrin là sẽ rút hết quân Việt Nam khỏi Campuchia trong khuôn khổ một giải pháp chính trị vào tháng 9.89.
09.01 Cuba bắt đầu rút quân khỏi Angola theo Hiệp định 12.8.88 giữa Cuba, Angola và Nam Phi.
09.01 Ngoại trưởng Thái Siddhi Savetsila đến Hà Nội.
16 - 19.01 Ðàm phán Việt Nam - Trung Quốc cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước.
01.02 Ngoại trưởng Schevarnadzé đến Bắc Kinh hội đàm với Tiên Kỳ Tham về vấn đề Campuchia.
15.02 Liên Xô hoàn thành việc rút
11.02 Họp BCT bàn việc tách và giải quyết từng bước một mặt quốc tế và mặt nội bộ của vấn đề Campuchia; triển khai các diễn đàn Việt - Trung (vòng 2), JIM 2, Việt - Thái, Việt - Mỹ...
16 - 18.02 Họp trù bị (Working group) JIM 2. Ta đưa ra 3 bước rút quân Việt Nam khỏi Campuchia gắn với 3 bước chấm dứt viện trợ quân sự của nước ngoài cho các bên Campuchia.
19 - 21.02 Họp JIM 2. Khẳng định lại 2 vấn đề mấu chốt của giải pháp cho vấn đề Campuchia là rút quân Việt Nam trong khuôn khổ một giải pháp chính trị và ngăn ngừa sự quay trở lại chính sách và những hành động diệt chủng của chế độ Polpot; chấm dứt mọi sự can thiệp của nước ngoài và sự giúp đỡ về quân sự cho các phái đối lập Khmer.
14.03 Họp BCT: quyết định rút hết quân khỏi Campuchia vào cuối tháng 9.89; thúc đẩy diễn đàn Hun Xen - Sihanouk.
22.02 - 03.03 Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch thăm Singapo, Malayxia và Thái Lan.
23.02 Trung Quốc - Inđônêxia bình thường hoá quan hệ.
25.02 Mỹ - Trung Quốc: Bush đến Bắc Kinh gặp Ðặng Tiểu Bình.
13.03 Xô viết tối cao Liên Xô thông qua nghị quyết lập chức tổng thống Liên Xô Gorbachov được bàn giữ chức vụ này.
15.03 Tiếp và làm việc với Phó tổng thư ký LHQ Ahmed tại Hà Nội về vấn đề Campuchia.
15.04 Ba chính phủ Việt Nam, Campuchia, Lào ra tuyên bố: sẽ rút hết quân Việt Nam khỏi Campuchia tháng 9.
30.04 - 01.05 Quốc hội Campuchia họp phiên bất thường: sửa hiến pháp, đổi tên nước CHND Campuchia thành Nhà nước Campuchia (State of Campuchea), thay quốc kỳ
02 - 03.05 Vòng 4 Hun Xen - Sihanouk tại Jakarta. Sihanouk hoan ngênh việc đổi tên nước, quốc kỳ và nhiều sửa đổi quan trọng trong hiến pháp Campuchia; nói có thể chấp nhận về nước (nhưng khi về tới Bangkok, Sihanouk lại đổi ý. Từ đó, quan hệ Hun Xen - Sihanouk rất xấu)
08 - 10.05 Ðàm phán Việt Nam - Trung Quốc cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh. Trung quốc vẫn đòi ta thoả thuận về nguyên tắc thiết lập chính phủ liên hiệp 4 bên Campuchia do Sihanouk đứng đầu, đông kết và giảm hoặc giải thể lực lượng quân sự của các bên Về quan hệ 2 nước, lập trường của Trung quốc vẫn là giải quyết xong vấn đề Campuchia thì mới cải thiện được quan hệ với Việt nam; tạm thời chưa tính đến tiếp tục đàm phán với ta
15 - 16.05 Hội đàm cấp cao Trung - Xô (Gorbachov - Ðặng) tại Bắc kinh
03 - 04.06 Sự kiện Thiên An Môn
04.06 Ba Lan: Công đoàn Ðoàn kết thắng tuyệt đối tổng tuyển cử
24.07/right> Vòng 5 Hun Xen - Sihanouk tại Paris. Không đạt thoả thuận nào. Sihanouk bác bỏ thoả thuận của JIM 1 và 2, đòi xoá SOC lập chính phủ 4 bên Campuchia
30.07 - 30.08 Hội nghị quốc tế về Campuchia tại Paris: việc rút quân Việt nam không còn là vấn đề lớn ở hội nghị mà vấn đề lớn nổi lên là Diệt chủng. Hội nghị không đạt được một giải pháp chính trị, bế tắc ở vấn đề chia quyền giữa các bên Campuchia trong thời kỳ quá độ. Song đã thông qua được tuyên bố chung ghi nhận hội nghị là một bước tiến có ý nghĩa và sẽ họp lại.
07.08 Gặp Thứ trưởng Lưu thuật Khanh (Phó trưởng đoàn Trung quốc tại PICC) ở Paris.
07.08 Hung: Ðảng Công nhân XHCN đổi tên; Hung gia nhập EC
05.09 TBT Nguyễn Văn Linh gặp Heng Somrin ở Hà nội chuyển lời Liên Xô khuyên Phnom Penh nên nhận chính phủ 4 bên gồm cả Khmer Ðỏ, do Sihanouk làm chủ tịch.
21 - 26 - 09 Ðợt rút quân Việt nam cuối cùng khỏi Campuchia
30.09 Họp BCT nhận định về kết quả hội nghị Paris về Campuchia
07.10 Kayson Phonvihan thăm chính thức Trung quốc đánh dấu việc bình thường hoá quan hệ Lào - Trung quốc. Ðặng nói với Kayson: Nếu Việt nam rút triệt để khỏi Campuchia thì sẽ bình thường hoá quan hệ với Việt nam.
06.11 Thông điệp miệng của Nguyễn Văn Linh gửi Ðặng Tiểu Bình: mong sớm bình thường hoá quan hệ với Trung quốc; mong sớm có dịp gặp lại Ðặng
09.11 Ðông Ðức: Bức tường Berlin sụp đổ, kết thúc chiến tranh Lạnh
20.11 Tiệp: Biểu tình lớn ở Praha. Husak từ chức. Lập chính phủ mới trong đó đảng Công sản chỉ là thiểu số.
21.11 5 nước thường trực HÐBA LHQ (P5) chấp nhận phương án giải quyết vấn đề Campuchia của Úc trong đó đề cao vai trò của LHQ ở Campuchia trong thời kỳ quá độ.
28.11 Thư Nguyễn Cơ Thạch gửi Tiền Kỳ Tham nhắc lại thông điệp miệng của Nguyễn Văn Linh gửi Ðặng và khẳng định lại "phía Việt nam sẵn sàng gặp phía Trung quốc ở cấp Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng Ngoại giao tại Bắc kinh hoặc Hà nội trong tháng 12.89 để bàn các bước bình thường hoá quan hệ hai nước".
02.12 TBT đảng Cộng sản Mã lai Trần Bình ký thoả thuân với chính quyền Malaysia và Thái Lan giải tán đảng Cộng sản và rút về sống ở Hadyai (nam Thái Lan)
10.12 Bulgaria: Biểu tình lớn ở Sofia
12.12 Ðại sứ Trung quốc thông báo trả lời của Trung quốc cho thông điệp ngày 6.11 của Nguyễn Văn Linh: đặt điều kiện cho việc mở lại đàm phán cấp thứ trưởng Ngoại giao với ta (Việt nam phải chấp nhận sự giám sát của LHQ về việc rút quân khỏi Campuchia; phải chấp nhận việc thành lập chính phủ 4 bên Campuchia do Sihanouk làm chủ tịch)
1990
09.02 Ðại sứ Mỹ ở Thái Lan Dônhue chuyển thông điệp của Mý: gợp ý của Việt Nam về một cuộc gặp gỡ giữa bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch hoặc Thứ trưởng Trần Quang Cơ với trợ lý Ngoại trưởng Solômn là quá sớm. Hai bên cần làm rõ các vấn đề cần thảo luận và các khả năng lựa chọn, sau đó Solômn sẵn sàng gặp phía Việt nam. Mỹ hiện vẫn sẵn sàng tiếp tục trao đổi qua hai Ðại sứ ở Bangkok
21.02 Vòng 5 Hun Xen - Sihanouk tại Bangkok. Thoả thuận về nguyên tắc: sự có mặt của LHQ ở mức độ thích hợp của Campuchia là cần thiết; cần thành lập một cơ chế quốc gia tối cao để thực hiện chủ nhất dân tộc của Campuchia.
25.02
Nicaragua: Mặt trận Sandino thất bại trong tổng tuyển cử
26.02 - 01.03 Họp Hội nghị không chính thức về Campuchí (IMC) ở Jakarta. Ngoài thành phần như JIM (Campuchia, Việt nam, Lào và 6 nước ASEAN) còn có thêm đại diện Tổng Thư ký LHQ, Pháp và úc. IMC không đưa ra được tuyên bố chung vì Khmer Ðỏ dùng quyền phủ quyết.
08.03 Lê Ðức Thọ gặp Ðinh Nho Liêm và Trần Quang Cơ (và ngày 10.3 gặp Nguyễn Cơ Thạch) đưa ý kiến: cần có chuyển hướng chiến lược trong đấu tranh về vấn đề Campuchia; phải giải quyết vấn đề Campuchia với Trung quốc, không thể gát Khmer Ðỏ; không thể chấp nhận LHQ tổ chức tổng tuyển cử tại Campuchia, lập chính phủ 2 bên 4 phái Campuchia để tổ chức tổng tuyển cử
10.04 Họp BCT bàn đề án đấu tranh ngoại giao về vấn đề Campuchia trong tình hình thế giới có biến đổi. TBT Nguyễn Văn Linh, Lê Ðức Thọ, Ðào Duy Tùng, Ðồng Sỹ Nguyên nhấn mạnh cần liên kết với Trung quốc bảo vệ CNXH vì lợi ích chung của cả 2 bên.
16.04 Nguyễn Cơ Thạch đi Phnom Penh thuyết phục SOC mềm dẻo trong vấn đề diệt chủng, chấp nhận Khmer Ðỏ tham gia chính quyền liên hiệp trong thời kỳ quá độ...
30.04 TBT Nguyễn Văn Linh nói tại Tp HCM nhân dịp kỷ niệm 15 năm giải phóng Sài gòn: - Nên quên cuộc chiến tranh đi mặc dù đã có biến cố lớn trong quá khứ. - Việt nam cảm thấy có tình hữu nghị với nhân dân Mỹ. - Tôi muốn thấy bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ tuy đó là một tiến trình lâu dài
03 - 08.05 Vòng 3 đàm phán Việt - Trung cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh. Trung quốc nói roc ý họ về các vấn đề thuộc mặt nội bộ trong giải pháp Campuchia và đòi ta tán thành: SNC nên là một cơ cấu có tính chất chính quyền lâm thời, có chức năng lập pháp và hành chính; quân đội các bên Campuchia nếu chưa giải giáp thì tập kết vào một số điểm nhất định và giảm quân.
20 - 21.05 Họp 3 TBT Việt - Lào - Campuchia tại Hà nội nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ chủ tịch. Quyết định cần thực hiện "Giải pháp Ðỏ" để giải quyết vấn đề Campuchia.
04 - 05.06 Hun Xen và Sihanouk đại diện cho 2 chính phủ Campuchía họp tại Tokyo. Ký tuyên bố chung thoả thuận lập SNC với số thành viên 2 bên bằng nhau (6+6) tượng trưng cho chủ quyền quốc gia và thống nhất dân tộc Campuchia
05.06 Lần đầu TBT Nguyễn Văn Linh tiếp Ðại sứ Trung quốc Trương Ðức Duy
06.06 Bộ trưởng quốc phòng Lê Ðức Anh tiếp và mời cơm thân mật Ðại sứ Trung quốc
11 - 13.06 Vòng 4 đàm phán Việt - Trung (Trần Quang Cơ - Từ Ðôn Tín). Ta không chấp nhận việc can thiệp vào vấn đề nội bộ Campuchia như Trung quốc đề nghị. Ðàm phán không kết quả
13.06 Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tiếp Từ Ðôn Tín. Giọng điệu cao ngạo của Từ bị Nguyễn Cơ Thạch phê phán mạnh.
19.06 BCT họp đánh giá vòng 4 đàm phán Việt - Trung (vắng mặt TBT
25.06 Ðại sứ Trương Ðức Duy gặp Thứ trưởng Trần Quang Cơ chuyển thông điệp của Lãnh đạo Trung quốc (có sửa lại) gửi lãnh đạo Việt nam
16 - 17.07 Họp P5 về vấn đề Campuchia tại Paris
18.07 Ngoại trưởng Mỹ Baker tuyên bố chính sách mới của Mỹ về vấn đề Campuchia: Mỹ thừa nhận Việt nam đã rút quân khỏi Campuchia; chính quyền Phnom Penh hiện là lực lượng chủ yếu có khả năng ngăn Khmer Ðỏ trở lại cầm quyền. Vì vậy, Mỹ quyết định rút bỏ việc công nhận chính phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ (của 3 phái) tại LHQ; sẵn sàng thảo luận với Việt nam và SOC để thúc đẩy giải pháp cho vấn đề Campuchia.
06.08 Ðối thoại Việt - Mỹ vòng 1 (Trịnh Xuân Lãng - Kenenth Quinn) tại Nữu ước về vấn đề Campuchia và bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ. Mý yêu cầu ta: cam kết chấp thuận và thúc đẩy Campuchia chấp nhận văn kiện khung P5; tuyên bố hoan ngênh LHQ kiểm chứng rút nhân viên quân sự còn lại ở Campuchia; cho biết ý kiến về SNC và vai trò của LHQ ở Campuchia
12.08 BCT họp bàn vấn đề Campuchia. TBT Nguyễn Văn Linh kết luận: Những vấn đề tồn tại hiện nay thuộc nội bộ và chủ quyền của Campuchia phải do các đồng chi Campuchia tự quyết định. Việt nam tôn trọng những quyết định của các đồng chi Campuchia về những vấn đề này.
12.08 Thủ tướng Lý Bằng tuyên bố khi đến thăm Singapore: Hy vọng sẽ bình thường hoá quan hệ với Việt nam và hai bên sẽ thảo luận các vấn đề khác như tranh chấp Trường sa
13.08 Thứ trưởng Trần Quang Cơ tiếp Ðại sứ Trung quốc biểu thị hoan ngênh tuyên bố của Lý Bằng ở Singapore, nhắc lại mong muốn sớm có gặp cấp cao hai bên.
27 - 28.08 Họp P5 lần thứ 6 về Campuchia đi đến thoả thuận: những dàn xếp quân sự trong thời kỳ quá độ ở Campuchia; tuyển cử dưới sự bảo trợ của LHQ; bảo vệ nhân quyền; vấn đề bảo đảm quốc tế. Hoàn thành toàn bộ 5 văn kiện khung về giải pháp Campuchia
29.08 Ðại sứ Trung quốc gặp Nguyễn Văn Linh và Ðỗ Mười chuyển lời của Giang Trach Dân và Lý Bằng mời TBT Nguyễn Văn Linh, thủ tướng Ðỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Ðồng sang hội đàm bí mật với lãnh đạo Trung quốc tại Thành Ðô vào ngày 3.9.90
30.08 Họp BCT bàn về gặp cấp cao Trung quốc tại Thành đô
31.08 Ðối thoại Việt - Mỹ vòng 2 tại Nữu ước. Mỹ đề nghị Việt nam và Phnom Penh chấp nhận khung giải pháp Campuchia của P5, đề nghị SOC đi họp ở Jakarta để lập SNC trên cơ sở thoả thuận của P5. Mỹ coi đây là điều kiện để Mỹ bình thường hoá quan hệ với Việt nam và để Mỹ gặp Hun Xen
01.09 Xô - Trung họp cấp Ngoại trưởng tại Cáp Nhĩ Tân bàn về vấn đề Campuchia
03 - 04.09 Cuộc gặp cấp cao Trung - Việt tại Thành đô (thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên). Nguyễn Văn Linh chấp nhận công thức lập SNC của Trung quốc (6+2+2+2+1 và Sihanouk làm chủ tịch)
05.09 Nguyễn Văn Linh đi Phnom Penh thông báo lãnh đạo Campuchia về cuộc gặp Thành đô, thuyết phục Phnom Penh nhận công thức lập SNC của Trung quốc. Campuchia phản đối.
07.09 Ngoại trưởng Mỹ thông báo Mý quyết định mở đối thoại trực tiếp với Phnom Penh
10.09 BCT cử Trần Quang Cơ đi Jakarta theo dõi cuộc họp của các bên Campuchia bàn về việc thành lập SNC, dưới sự chủ trì của Pháp và Indonesia - 2 đồng chủ tịch PICC. Các bên Campuchia ra tuyên bố chung "chấp nhận toàn bộ văn kiện khung của P5 làm cơ sở cho việc giải quyết xung đột Campuchia", thành lập SNC.
10.09 Phó trợ lý Ngoại trưởng Mý K. Quinn thông báo: Mỹ quyết định nói chuyện với trưởng đoàn ta tại Ðại Hội đồng LHQ về bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
14 - 18.09 (Trần Quang Cơ) đi Bangkok để theo dõi tiếp cuộc họp của các bên Campuchia giải quyết nốt vấn đề chủ tịch SNC.
17.09 Các bên Campuchia họp tại Bangkok để hoàn tất việc lập SNC. Cuộc họp thất bại do không nhất trí trong việc cử đoàn đại biểu SNC đi dự Ðại Hội đồng LHQ và nhất là do SOC (Hun Xen) không chấp nhận việc cử Sihanouk làm chủ tịch và thành viên thứ 13 của SNC.
20.09 HÐBA LHQ thông qua nghị quyết 608 ghi nhận SNC đại diện cho Campuchia về mặt đối ngoại và giữ ghế của Campuchia tại LHQ.
24.09 Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp sang Trung quốc dự lễ khai mạc ASIAD. Thủ tướng Lý Bằng tiếp, nói về quan hệ 2 nước, nhận xét Trần Quang Cơ là "nhân tố tiêu cực" trong việc thúc đẩy giải pháp Campuchia
29.09 Nguyễn Cơ Thạch gặp Ngoại trưởng Mỹ Baker. Mỹ nói muốn bình thường hoá quan hệ với Việt nam trong khung cảnh một giải pháp chính trị về Campuchia, đồng thời tốc độ và qui mô bình thường hoá quan hệ tuỳ thuộc vào tiến bọ trong vấn đề MIA và các vấn đề nhân đạo khác.
18.11 BCT họp bàn về nguyên tắc đấu tranh về văn kiện chung P5 và vấn đề chức chủ tịch SNC.
26.11 P5 và Indonesia họp tại Paris thoả thuận dự thảo Hiệp định Paris về Campuchia
21.12 Họp SNC tại Paris với sự tham gia của 2 đồng chủ tịch PICC và đại diện Tổng Thư ký LHQ
1991
15 - 16.01 (Trần Quang Cơ) Họp với bộ phận B1 Bộ Ngoại giao Campuchia chuẩn bị cho cuộc họp Uỷ ban phối hợp PICC. Nhận định về Trung quốc
16.01 Hun Xen nói với Trần Quang Cơ: khả năng năm 91 chưa có giải pháp chính trị. Cuộc gặp Paris vừa qua chỉ là diễn đàn dư luận, không phải thương lượng. Vì vậy chúng tôi chưa nêu tách mặt nội bộ và quốc tế.
24 - 25.01 Họp BCT ở Tp HCM thảo luận "Ðường lối đối ngoại phục vụ thực hiện mục tiêu chiến lược của nước ta đến năm 2000" do Bộ Ngoại giao dự thảo và vấn đề Campuchia
02.02 (Trần Quang Cơ) xin rút khỏi danh sách đề cử TƯ khoá VII. Không được chấp nhận.
24.02 Nguyễn văn Linh gặp Heng Somrin tại Hà nội, lại thuyết phục Phnom Penh nhận công thức 6+2+2+2+1 để thúc đẩy chính sách hoà hợp dân tộc theo ý của Trung quốc trong cuộc gặp Thành đô ngày 3.9.90
09.04 Ðối thoại Việt - Mỹ vòng 5 tại Nữu ước. Trợ lý Ngoại trưởng R. Solomon đưa ra lộ trình 4 bước gắp quá trình giải quyết vấn đề Campuchia với các bước cải thiện quan hệ Mỹ - Việt
13.04 BCT họp nhận định tình hình thế giới và bàn chính sách đối ngoại. Yêu cầu phối hợp tốt hơn giữa 3 ngành Ngoại giao - Quốc phòng - An ninh trong nghiên cứu các vấn đề quốc tế.
08.05 Họp 3 ngành Ngoại giao - Quốc phòng - An ninh nhận định tình hình thế giới
15 - 17.05 BCT thảo luận bản dự thảo "Báo cáo về tình hình thế giới, việc thực hiện đường lối đối ngoại của đậi hội VI và phương hướng tới"; tiếp tục đánh giá về cuộc gặp cấp cao với Trung quốc tháng 9.90 tại Thành đô.
15 - 19.05 Giang Trạch Dân thăm Liên Xô - Chuyến thăm Liên Xô đầu tiên của cấp cao nhất Trung quốc trong 34 năm qua. Thông cáo chung 2 bên nói nhiều đến vấn đề Campuchia
02 - 04.06 Họp SNC tại Jakarta. Ngoài các bên Campuchia, có 2 đồng chủ tịch PICC (Pháp và Indonesia), đại diện Tổng Thư ký LHQ. Sihanouk cũng có mặt với danh nghĩa là khách mời của Suharto. Cuộc gặp không đạt kết quả gì đáng kể.
05.06 Hun Xen và Sihanouk gặp riêng để thảo luận về chức Chủ tịch và Phó Chủ tịch SNC, kéo dài ngừng bắn tới khi có tổng tuyển cử, Sihanouk về Phnom Penh, kêu gọi ngừng viện trợ quân sự nước ngoài cho các bên Campuchia
17 - 27.06 Ðại hôi VII Ðảng CS Việt nam. Ðỗ Mười thay Nguyễn Văn Linh làm TBT, Lê Ðức Anh làm Chủ tịch nước. Nguyễn Cơ Thạch ra khỏi BCT và TƯ
09.07 Trần Quang Cơ gặp TBT Ðỗ Mười xin không nhận chức Bộ trưởng Ngoại giao
10.07 Ðỗ Mười gặp Ðại sứ Trung quốc đặt vấn đề cử đặc phái viên sang thông báo lãnh đạo Trung quốc về đại hội VII
28.07 - 02.08 Lê Ðức Anh và Hồng Hà sang Trung quốc với danh nghĩa "Ðoàn đại diện đặc biệt của TƯ đảng CS Việt nam" để thông báo lãnh đạo Trung quốc về Ðại hội VII đảng CS Việt nam. Cả hai đã gặp Từ Ðôn Tín xin lỗi (về vụ to tiếng với bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch)
Tháng 8 Quốc hội khoá 8 họp kỳ 9 thông qua danh sách chính phủ mới. Nguyễn Mạnh Cầm nhận chức Bộ trưởng Ngoại giao thay Nguyễn Cơ Thạch
08 - 10.08 Vòng 5 đàm phán Việt - Trung cấp thứ trưởng tại Bắc kinh về bình thường hoá quan hệ.
09 - 14.08 Ngoại trưởng mới Nguyễn Mạnh Cầm thăm Trung quốc
23.10 Hội nghị quốc tế về Campuchia tại Paris. Ký kết hiệp định hoà bình Campuchia
05 - 10.11 TBT Ðỗ Mười và Thủ tướng Võ văn Kiệt thăm chính thức Trung quốc. Thông cáo chung về bình thường hoá quan hệ hai nước
14.11 Sihanouk trở về Phnom Penh sau 13 năm lưu vong
25.12 Gorbachov từ chức. Cờ búa liềm trên nóc điện Kremli bị hạ xuống thay bằng lá cờ 3 màu của nước Nga đánh dấu việc Liên bang Xô viết chấm dứt tồn tại
1993
24.11 - 01.12 Hội nghị giữa nhiệm kỳ của BCH TƯ khoá VII. (Trần Quang Cơ) Tự nguyện xin rut khỏi Trung Ương


Trang liên hệ
· Đọc thêm về Hồ sơ Đảng Cộng Sản VN


Bài được đọc nhiều nhất trong Hồ sơ Đảng Cộng Sản VN:
Tướng Nguyễn Nam Khánh bị khai trừ?


Lựa chọn

Trang in Trang in

Gởi đến cho bạn bè Gởi đến cho bạn bè

No comments: