Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến
Sophie Quinn‐Judge
Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 2 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
HỒ CHÍ MINH:
NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
===== HO CHI MINH: THE MISSING YEARS =====
Tác giả: Bà Sophie Quinn‐Judge
Bản tiếng Anh: University of California Press, 2002
Dịch giả: Diên Vỹ và Hoài An
Hiệu đính: Hồ Gươm
Nguồn: Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 3 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Thưa các bác, vậy là cuốn sách Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến, sau 2 năm
vật lộn đã hầu như hoàn tất. Chỉ còn phần chú thích nữa mà tôi sẽ cố gắng hoàn tất nay mai.
Trước hết xin chân thành cảm ơn bác Hoài An, người đã có công giới thiệu và chuyển ngữ phần
đầu của cuốn sách. Không có bác thì tôi cũng chả biết mà đi tìm đọc. Kế đến xin cảm ơn bác Hồ
Gươm, một người với kiến thức dồi dào về lịch sử đảng đã giúp hiệu đính rất nhiều tên tuổi và
địa danh được đề cập trong cuốn sách. Và cuối cùng xin cám ơn sự kiên nhẫn và nhiệt tình của
các thành viên khác đã khích lệ và cổ vũ công việc chuyển ngữ này.
Như bác Hoài An đã nhấn mạnh ngay từ lúc đầu. Chúng tôi bỏ công ra dịch cuốn sách này
không ngoài mục đích nào khác là đem sự thật (gần nhất) về cuộc đời của Hồ Chí Minh ra ánh
sáng khách quan. Quyền nhận định xin nhường cho người đọc. Tác giả của cuốn sách, bà Sophie
Quinn‐Judge, đã sử dụng hàng ngàn tài liệu từ Sở Liêm Phóng Pháp và từ tàng thư của Quốc tế
Cộng Sản vừa được bạch hoá. Với cách viết theo thể biên niên ký, tác giả đã rất cẩn trọng, tỉ mỉ
và nghiêm túc vạch lại rất chi tiết con đường chính trị của Hồ Chí Minh từ Hội Nghị Hoà Bình
Paris năm 1919 cho đến ngày ông về lại biên giới Việt Nam năm 1943. Qua cuốn sách, ta thấy
rằng Hồ Chí Minh, không như những sách vở tài liệu của cả hai bên (ủng hộ và chống đối) từ
trước đến nay vẫn thường miêu tả, đã không phải là người duy nhất có công/tội truyền bá chủ
nghĩa cộng sản vào Việt Nam. Từ một thanh niên với lòng yêu nước nồng nàn nhưng giản đơn
cho đến khi trở thành người lãnh đạo phong trào cộng sản Việt Nam, ông không hẳn là người có
ảnh hưởng nhất trong nội bộ Đảng CS cũng như phong trào giải phóng thuộc địa tại Đông
Dương. Những hệ quả lịch sử của Việt Nam cho đến giai đoạn ấy và có lẽ về sau này, luôn bị
ảnh hưởng bởi những nhân tố và tác động chủ quan và khách quan khác ngoài nhân vật Hồ Chí
Minh. Sự khác biệt về ý thức hệ trong cuộc chiến Quốc‐Cộng mà vô tình lẫn cố ý, những người
của cả hai bên chiến tuyến cùng lúc đã biến ông trở thành một vị thánh sống và một tên đồ tể.
Hy vọng cuốn sách sẽ hé mở nhiều chi tiết có giá trị lịch sử cho người đọc để họ hiểu rõ hơn về
cuộc đời của Hồ Chí Minh cũng như những tranh chấp quyền lực và hệ tư tưởng trong thành
phần lãnh đạo phong trào cộng sản Việt Nam từ khi nó vừa ra đời. Từ đó có được cái nhìn khách
quan hơn về nhân vật nổi tiếng này cũng như hiện tình lịch sử của đất nước trong giai đoạn ấy.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 4 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Tôi hoàn thành bản dịch cuốn sách này với tâm trạng vui buồn lẫn lộn. Vui vì đã đọc được một
công trình nghiên cứu đầy tính chuyên nghiệp và khách quan của một học giả tận tâm. Buồn là
vì đã gần 40 năm sau ngày Hồ Chí Minh qua đời, các học giả, sử gia người Việt trong và ngoài
nước vẫn chưa vượt qua được những ràng buộc chính trị, cảm tính cá nhân hoặc ý thức hệ để có
thể cho ra đời một nghiên cứu như thế này mà phải nhờ đến bàn tay và trí óc của người ngoại
quốc. Với khả năng ngôn ngữ có hạn, đặc biệt là những địa danh, nhân danh và những từ ngữ
chuyên môn, bản dịch chắn chắn còn nhiều khiếm khuyết. Mong những thành viên tiếp tục đóng
góp để nó thêm hoàn chỉnh.
Một lần nữa xin cảm ơn mọi người. Hẹn gặp lại các bác trong những dự án khác.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 5 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Đài BBC Việt Ngữ phỏng vấn tác giả cuốn “Hồ Chí Minh ‐
Những năm chưa biết đến”
Cuốn ʺHồ Chí Minh: Những năm chưa biết đếnʺ (Hochiminh: The missing years) của tác giả
Sophie Quinn‐Judge, đại học LSE, London, chủ yếu dựa trên tư liệu về Quốc tế cộng sản được
giải mật năm 1992 của Trung tâm lưu trữ quốc gia Nga – và tư liệu từ kho lưu trữ quốc gia Pháp.
Tập trung vào những năm hoạt động của ông Hồ Chí Minh thời kì trước 1945, quyển sách cố
gắng dựng lại chân dung cũng như vị trí thật sự của ông Hồ trong thời kì này. Tiến sĩ Sophie
Quinn‐Judge, người Mỹ hiện sống tại Anh đã trả lời phỏng vấn của đài Ban Tiếng Việt BBC.
BBC: Cuốn sách của bà mở đầu bằng hội nghị hòa bình tại Paris năm 1919 khi lần đầu tiên ông Hồ Chí
Minh – mà lúc này có tên Nguyễn Ái Quốc – được nhiều người biết tới. Vậy trước giai đoạn này chúng ta có biết gì nhiều về hoạt động của ông, đặc biệt là việc người cha của ông có ảnh hưởng thế nào đến ôngkhông?
Sophie Quinn‐Judge: Cha của ông Hồ là một nhân vật rất đáng chú ý và tôi hi vọng sẽ có thêm
tài liệu nghiên cứu tiếng Việt để hiểu rõ hơn thân thế của người này. Nhưng rõ ràng là việc
người cha bị thất sủng, không còn là quan cấp tỉnh trong chế độ Pháp đã có tác động đến cuộc
sống ông Hồ.
Bởi sau khi ông Nguyễn Sinh Huy bị miễn nhiệm tại tỉnh Bình Định, con ông Nguyễn Tất Thành
buộc phải thôi học ở trường Quốc học Huế và trở thành thầy giáo tại Phan Thiết. Rồi ông vào
Nam và như mọi người đều biết, ông đi Pháp năm 1911.
Nếu cha ông vẫn còn tại chức, thì có lẽ người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã tiếp tục đi học ở
Huế và sự nghiệp chống thực dân của ông có thể đã ngả sang một hướng khác. Chúng ta không
biết chắc, nhưng những hoàn cảnh bên ngoài đã buộc ông phải ra nước ngoài.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 6 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Tìm đường cứu nước
BBC: Bà ngụ ý là ban đầu ông Hồ ra nước ngoài không phải với mục đích tìm đường cứu nước?
Không, ý tôi không phải là như thế. Dựa trên tài liệu của Pháp nói về các anh chị trong gia đình
ông Hồ và những lần họ giúp đỡ cho Phan Bội Châu, tôi nghĩ gia đình họ tham gia vào các hoạt
động yêu nước chống thực dân từ sớm.
Tôi tin là ông Hồ Chí Minh cũng sẽ tham gia vào các hoạt động chống thực dân theo cách này
hay cách khác. Nhưng bởi vì ông không thể ở lại trường Quốc học, nên ông ra nước ngoài để tìm
biện pháp hoặc học thêm để nghĩ cách chống người Pháp.
BBC: Khi ông Hồ tới hội nghị hòa bình Versailles 1919, người ta nhìn ông Hồ như thế nào?
Đây là một điều mà chúng ta rất khó biết chắc bởi vì có một khoảng trống lớn trong tiểu sử của
ông Hồ. Chúng ta không biết trước năm 1919, ông Hồ hoạt động ở mức độ nào, chuyện chính trị
có phải là vấn đề bận tâm duy nhất của ông hay không.
Nên khi ông xuất hiện tại hội nghị Paris tháng Sáu năm 1919, phân phát bản kiến nghị cho các
đại biểu tham dự, mọi người thấy khó chấp nhận ông ấy như một nhân vật ngang hàng với
những người nổi tiếng như Phan Chu Trinh hay Phan Văn Trường.
BBC: Sau hội nghị ở Paris, ông Hồ đến Nga năm 1923 rồi sau đó đi Quảng Đông. Trong khoảng thời gian
này, vị trí của ông Hồ trong Quốc tế cộng sản như thế nào, bởi vì một số tác giả cho rằng lúc này ông Hồ
đã được Quốc tế cộng sản chú ý nhiều?
Đầu tiên, ông Hồ lúc đó không phải là thành viên của một đảng cộng sản châu Á nào. Ông ấy
đang là thành viên của đảng cộng sản Pháp. Vì thế, ông chưa có vị trí vững chắc trong nội bộ
Quốc tế cộng sản. Ví dụ, ông không có chân trong ban chấp hành. Có nhiều nhân vật khác quan
trọng hơn như Mahendra Roy từ Ấn Độ hay Sen Katayama của Nhật.
Nhưng Nguyễn Ái Quốc có một thông điệp rất rõ về việc phong trào cộng sản có thể tham gia
thế nào trong phong trào quốc gia tại các thuộc địa. Tôi nghĩ bởi vì thông điệp này nên ông ấy
được khuyến khích lên phát biểu tại đại hội lần thứ năm của Quốc tế cộng sản năm 1924. Nhưng
lúc ấy, theo tôi, ông Hồ chưa phải là người phát ngôn hàng đầu về các vấn đề thuộc địa trong
Quốc tế cộng sản.
Việc ông Hồ là thành viên đảng Cộng sản Pháp cũng có thể đã khiến vị trí của ông trở nên phức
tạp. Trotsky – đối thủ chính trị của Stalin thời bấy giờ ‐ có một ảnh hưởng đáng kể đối với những
người cộng sản Pháp. Trong một bãi mìn chính trị như vậy, ông Hồ dường như bắt đầu học cách
hợp tác với bất kì ai đang nắm quyền lực và học cách theo đuổi những quan tâm của riêng mình.
BBC: Một số tác giả như Jean Lacouture nói rằng ông Hồ được gửi tới Quảng Đông để làm trợ lý hay thư ký cho Michail Borodin?
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 7 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Tôi nghĩ điều này không chính xác, bởi vì ông Hồ lúc đó từ Nga đi Quảng Đông mà không mang
theo một hướng dẫn rõ ràng về những gì ông sẽ làm tại đó. Ban đầu ông ấy không được cho một
vai trò chính thức. Có vẻ như người ta đã tìm cho ông công việc làm người dịch thuật tại hãng tin
của Nga tại đó để có tiền thực hiện các hoạt động chính trị của ông.
Chứ còn lúc mới đến Quảng Đông, ông Hồ rất vất vả trong việc có đủ tiền giúp cho việc giúp đưa
các thanh niên Việt Nam sang Quảng ̣Đông tham gia các khóa đào luyện. Như vậy, không có một
kế hoạch, chỉ thị rõ ràng dành cho ông Hồ và ông phải tự bươn chải, đối phó với các vấn đề khi
chúng diễn ra.
BBC: Chúng ta có biết tâm trạng của ông Hồ lúc này không?
Tôi nghĩ ông ấy cảm thấy bức bối vì thiếu sự giúp đỡ cụ thể của Quốc tế cộng sản, hay người Nga
hay người cộng sản Pháp lúc đó. Trong năm 1924, ông Hồ liên tục gửi thư yêu cầu các lãnh đạo
Quốc tế cộng sản chú ý nhiều hơn đến nhu cầu của phong trào tại Việt Nam.
Cuối cùng thì vào đầu năm 1927, thông qua một đại biểu Quốc tế Cộng sản từ Pháp sang Quảng
Đông, ông Hồ nhận được một khoản ngân sách. Nhưng không may là trước khi kế hoạch được
thực hiện, xảy ra cuộc đảo chính của Tưởng Giới Thạch và ông Hồ phải rời khỏi Quảng Đông
trước khi các khóa đào tạo mà ông muốn tiến hành có thể khởi động một cách toàn diện.
Tăng Tuyết Minh
BBC: Trong khoảng thời gian ông Hồ ở tại Quảng Đông, có xuất hiện cái tên của bà Tăng Tuyết Minh với những lời đồn đoán khác nhau. Theo nguồn tài liệu mà bà có, thì Tăng Tuyết Minh là ai?
Gần đây đã có một chuyên gia Trung Quốc đề cập đến người này. Còn theo tài liệu mà tôi tìm
thấy tại Pháp, Tăng Tuyết Minh khi đó là một phụ nữ trẻ ở Quảng Đông. Và có lẽ bà ấy và ông
Hồ đã kết hôn vào tháng Mười năm 1926. Họ ở với nhau cho đến khi ông Hồ phải rời Quảng
Đông tháng Năm 1927. Như vậy thời gian kéo dài khoảng sáu tháng.
BBC: Từ mà bà dùng – “có lẽ” – ở đây nghĩa là thế nào?
Không chắc vào thời kì đó, một cuộc hôn nhân được định nghĩa như thế nào. Ta bắt gặp những
ví dụ khác nhau trong các văn bản về phong trào cộng sản. Đôi khi một cuộc hôn nhân diễn ra
đơn thuần vì lý do chính trị. Hai người sống chung với nhau như một cách ngụy trang để duy trì
các hoạt động chính trị của họ. Thí dụ, nếu họ điều hành một tòa soạn báo, sẽ an toàn hơn khi
giả làm hai vợ chồng. Và tôi không biết trong các phong trào cách mạng, đâu là các yếu tố tạo
nên một cuộc hôn nhân có ràng buộc. Những điều này có vẻ không chặt chẽ, chẳng hạn nếu ta
nhìn sự nghiệp của Mao Trạch Đông, một người mà đã nhiều lần thay đổi người nâng khăn sửa
túi cho mình.
BBC: Sau khi rời khỏi Quảng Đông, ông Hồ Chí Minh đã bôn ba nhiều nơi trước khi quay trở lại châu Á.
Và rồi chúng ta có sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mà sau đó có tên Đảng Cộng sản Đông dương.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 8 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Theo quyển sách của bà, thì Đảng Cộng sản thành lập tháng Hai năm 1930 và đến tháng Mười năm đó,
ông Hồ Chí Minh đã đánh mất ảnh hưởng của mình trong đảng?
Cần nhắc là ông Hồ đã trải qua thời gian ở Thái Lan, rồi sang Hồng Kông vào mùa đông 1929.
Hồng Kông là nơi mà tháng Hai năm 1930, một đảng cộng sản thống nhất của người Việt Nam
ra đời. Cùng lúc này thì có nhiều sự không rõ ràng xung quanh việc ai là người ban đầu được
chính thức giao trách nhiệm thành lập nên đảng. Bởi vì trước đó Quốc tế Cộng sản gửi về hai
người là Trần Phú và Ngô Đức Trì. Hai người này đã học tại Moscow trong khoảng ba năm và
trở về mang theo chỉ thị của Quốc tế cộng sản về cách thức thành lập đảng.
Vậy là sau khi Nguyễn Ái Quốc thành lập đảng cộng sản vào tháng hai, hai người này quay về
Việt Nam hoạt động. Cuối cùng đến tháng Mười, diễn ra hội nghị trung ương lần thứ nhất tổ
chức tại Hồng Kông. Đến lúc này hai người, mà đặc biệt là Trần Phú ‐ theo tôi – đã cố gắng ấn
định các chỉ thị mà họ mang theo từ Moscow. Chỉ thị này bao gồm đảng phải là tổ chức của riêng
giai cấp lao động, một chủ trương mà sẽ dẫn đến một nỗ lực thanh trừng các thành phần yêu
nước gốc trung lưu trong nội bộ đảng.
Nguyễn Thị Minh Khai
BBC: Cũng khoảng thời gian này, có một lá thư đề ngày 12‐1‐1931 của Văn phòng Viễn Đông của Quốc
tế Cộng sản nhắc ông Nguyễn Ái Quốc rằng ông cần thông báo cho họ về cuộc hôn nhân của mình hai
tháng trước khi cuộc hôn nhân diễn ra. Đây là lúc muốn được hỏi bà, theo bà, thì có cuộc hôn nhân giữa bà
Nguyễn Thị Minh Khai và ông Hồ Chí Minh hay không?
Tôi không chắc đó có phải một cuộc hôn nhân thật sự hay không. Chúng ta biết là khoảng giữa
năm 1930, bà Nguyễn Thị Minh Khai được giao đến làm việc tại văn phòng của ông Hồ ở Hồng
Kông, rồi sau đó được giao công việc liên lạc với đảng cộng sản Trung Quốc.
Vào tháng Hai năm 1931, ông Hồ có nhắc việc vợ của ông đang bận chuẩn bị cho ngày Tết và
chuẩn bị đón khách từ Việt Nam. Ông Hồ cũng viết thư cho Quốc tế Cộng sản, có vẻ như trong
đó ông đề cập tới một đám cưới sắp diễn ra. BởI vì sau đó Quốc tế Cộng sản viết thư trả lời, nói
ông cần đình hoãn đám cướI cho đến khi có chỉ thị mới. Tôi sẽ ngần ngừ khi nóI liệu ông Hồ có
phảI đang nóI về việc làm đám cưới thật sự hay không bởI vì trong các thư từ, họ thường sử
dụng nhiều loạI mật mã.
Nhưng trong trường hợp này, có vẻ như lá thư nói những chuyện thật sự đang diễn ra bởi vì
trong cùng một lá thư ông Hồ cũng thảo luận nhiều vấn đề khác một cách công khai. Và từ
những gì ngườI ta biết vào năm 1934, Nguyễn Ái Quốc có một người vợ được cử tới đại hội của
Quốc tế cộng sản ở Moscow. Khi Minh Khai tới Moscow, bà ấy có viết trong lý lịch nói mình kết
hôn với “Lin” – bí danh của ông Hồ thời bấy giờ. Vì vậy, người ta có thể ngờ rằng giữa hai người
có một mối quan hệ vào năm 1931.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 9 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
BBC: Bà nói mình không chắc có thể dùng chữ “hôn nhân” ở đây. Vậy nếu người ta hỏi liệu đã một mối
quan hệ tình cảm giữa ông Hồ Chí Minh và bà Nguyễn Thị Minh Khai, vậy bà sẽ trả lời thế nào?
Tôi nghĩ câu trả lời là Có, đặc biệt nếu chúng ta dựa vào một số chứng liệu khác. Ví dụ vào năm
1945, trong cuộc nói chuyện với một phóng viên Mỹ, ông Hồ Chí Minh có nhắc ông từng có một
người vợ, nhưng bà đã qua đời. Hoặc có những đề cập nói rằng vào cuối thập niên 1930, khi
Nguyễn Thị Minh Khai quay về Việt Nam, bà đã chia cắt với người chồng là một nhà cách mạng
lớn tuổi đang ở nước ngoài. Điều này nghe giống như một sự miêu tả ông Hồ Chí Minh.
BBC: Nhưng nếu dựa trên những nguồn tài liệu của Pháp, ta có khuynh hướng tin là bà Nguyễn Thị
Minh Khai có nhiều mối quan hệ với các đồng chí khác nhau trong khoảng thời gian từ 1930 đến 1940.
Vậy thì đâu là thực, đâu là hư?
Đây chính là điểm làm câu chuyện phức tạp. Thông tin tình báo của Pháp lúc bấy giờ thường đề
cập bà Minh Khai có mối quan hệ với nhiều người khác nhau. Ví dụ, năm 1932, mật thám Pháp
tin rằng bà là người tình của Trần Ngọc Danh, em trai ông Trần Phú.
Chúng ta không biết chắc liệu đây có thuộc về dạng hôn nhân cách mạng hay không, khi mà hai
người cùng chí hướng đã giả trang làm người yêu để dễ đánh lạc hướng chính quyền đương
thời. Hay còn điều gì hơn thế! Thật khó để biết rõ cách thức hoạt động của những người hoạt
động cách mạng bởi vì họ có thể xem mình thuộc về một thế giới khác, vượt khỏi các khuôn khổ
đạo đức bình thường.
Mâu thuẩn trong đảng
BBC: Trong quyển sách, bà viết là đến khi hội nghị trung ương đảng cộng sản Đông Dương họp tại SàiGòn ngày 12‐3‐1931, mối quan hệ giữa Ban chấp hành trung ương với ông Hồ Chí Minh đã xuống dốcrất nhiều. Vì sao lại như vậy?
Thật sự thì Ban chấp hành gồm rất ít người, người lãnh đạo chính là ông Trần Phú. Tôi nghĩ có
một sự khó chịu về nhau từ cả hai phía – ông Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông và các ông Trần
Phú, Ngô Đức Trì và các lãnh đạo khác ở Sài Gòn. Than phiền chính của họ là những khó khăn
trong việc liên lạc với Quốc tế cộng sản, mà đại diện là văn phòng phương Đông tại Thượng Hải.
Có nhiều lý do vì sao việc liên lạc lại khó khăn. Một trong số đó là chi nhánh đảng cộng sản
Trung Quốc tại Hồng Kông đã bị người Anh phát hiện vào khoảng đầu năm 1931. Nên không
còn một cơ sở hạ tầng cho việc liên lạc như trước đây.
Và dĩ nhiên lúc đó đảng cộng sản tại Việt Nam cũng bị tổn hao vì những đợt bắt bớ của người
Pháp. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, dễ hiểu là vì sao các bên đổ lỗi cho nhau. Ông Hồ
không nhận được thông tin từ trong nước, nên ông yêu cầu ban chấp hành ở miền Trung và Hà
Nội. Điều này làm các lãnh đạo ở Sài Gòn khó chịu. Vì thế ông Hồ cảm thấy mình không được
sử dụng đúng và sau đó đề nghị đảng cho thôi chức vụ của ông tại Hồng Kông.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 10 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
BBC: Nhưng bên cạnh đó, một lý do khác dường như là xung đột trong hệ tư tưởng giữa các bên, phải
không?
Vâng, theo tôi, ông Hồ lúc đó bị chỉ trích vì người ta bắt đầu xem ông là một nhà cải cách theo xu
hướng quốc gia. Ông ấy coi đảng phải sử dụng những tình cảm yêu nước để thu hút nhiều đối
tượng. Trong khi đó, tại Sài Gòn, chi bộ đảng đã bắt đầu đi theo chính sách mới của Quốc tế
Cộng sản, tức là đấu tranh giai cấp và đảng chỉ là đảng của người vô sản mà thôi, sinh viên hay
tầng lớp trung lưu chỉ đóng vai trò hỗ trợ.
BBC: Cái vấn đề là người quốc gia hay cộng sản đã được bàn đến nhiều xung quanh ông Hồ Chí Minh. Có
người nói là ngay cả khi xem ông Hồ là người theo chủ nghĩa dân tộc, thì thật ra đó không phải lý thuyết
của chính ông? Bà nghĩ sao?
Thật khó để biết đâu là xu hướng riêng trong chính sách của ông Hồ lúc đó, đâu là ông đi theo
chính sách của Quốc tế cộng sản thời kì thập niên 1920. Nhưng có thể nói xu hướng của ông Hồ
lúc đó phù hợp với chính sách của Quốc tế cộng sản lúc 1920. Theo đó, những người cộng sản
nên tập trung vào các cuộc cách mạng dân tộc ở các nước thuộc địa bởi vì giai cấp vô sản hay
đảng cộng sản còn rất nhỏ, tự mình hành động thì không có lợi. Ông Hồ theo xu hướng này. Còn
ông có những ý tưởng nào vượt ra khỏi điều này không, thì tôi không rõ.
BBC: Chúng ta hãy chuyển sang giai đoạn giữa thập niên 1930 khi ông Hồ quay về Nga. Có vẻ như vị trí
của ông trong Quốc tế cộng sản lúc này bị lung lay?
Stalin lúc này đã củng cố ảnh hưởng của mình. Nói chung những ai đã từng làm việc ở nước
ngoài sẽ bị nghi ngờ mang tư tưởng tư sản. Những ai trở về Nga phải tự thú. Có cảm giác kẻ thù
ở mọi nơi. Đặc biệt những người như ông Hồ Chí Minh đã từng làm việc với mặt trận thống
nhất tại miền nam Trung Hoa. Thêm vào điều đó, lại còn những vụ bắt giữ người cộng sản tại
Hồng Kông, Thượng Hải năm 1931. Cơ sở của quốc tế cộng sản tại Thượng Hải sụp đổ. Và
những người lãnh đạo đảng cộng sản tại Việt Nam cũng bị bắt. Nên dĩ nhiên diễn ra các vụ điều
tra xem ai có tội, và ông Hồ chắc chắn trải qua những ngày vất vả khi đó.
BBC: Sau những vụ thanh trừng tại Nga 1937 – 1938, thì nhiều người tự hỏi vì sao ông Hồ Chí Minh có
thể tồn tại sau những ngày như thế?
Đó là câu hỏi mà các chuyên gia nước ngoài đã tập trung nghiên cứu từ lâu. Quan điểm trước
đây của họ cho rằng lý do chính là vì ông Hồ, vào cuối thập niên 30, đã trở thành lãnh tụ của
đảng cộng sản nên vì thế được Stalin bảo vệ hay ít nhất cũng là một trong những người được tin
dùng. Theo tôi, đó là một sự tổng quát hóa không có cơ sở. Stalin có thể diệt trừ những người
thân cận nhất của mình, không có ai là an toàn. Những nhân vật thân cận như Kalinin, Molotov
cũng là nạn nhân của Stalin (vợ của họ bị bắt và đây có thể xem là một cách để khống chế những
người này). Nên phải nói ngay từ đầu cái ý nghĩ bạn có thể an toàn khi ở cạnh Stalin là điều
không có thật. Và ngoài ra, ông Hồ Chí Minh đã bị cảnh gần như bị giáng chức vào năm 1935 vì
cáo buộc ông chịu trách nhiệm cho những vụ bắt giữ năm 1931. Nên không thể nói ông ấy lúc đó
là nhân vật hàng đầu trong Quốc tế cộng sản.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 11 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Kết luận lại, tôi nghĩ lý do chính là vì ông đã sống kín đáo, lặng lẽ. Mà thực sự Việt Nam cũng
không phải nằm trong danh sách những nước là Stalin lo âu. Ông ta quan tâm hơn đến việc
thanh trừng đảng cộng sản ở các nước láng giềng.
Thời thế đưa đẩy
BBC: Theo tường thuật của bà trong sách, đường cách mạng của ông Hồ Chí Minh vẫn còn rất gian nan
trong thập niên 30. Vậy ông Hồ đã làm thế nào để có được quyền lực trong đảng cộng sản để rồi sau này
dẫn tới cách mạng năm 1945?
Quá trình dẫn đến việc nắm quyền lực năm 1945 của ông Hồ không phải là một tiến trình có sẵn
từ đầu. Một trong những điểm tôi cố gắng làm rõ trong quyển sách là quá trình dẫn đến việc
nắm quyền lực năm 1945 của ông Hồ không phải là một tiến trình có sẵn từ đầu.
Năm 1938, khi ông Hồ quay lại Trung Quốc, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập là thuộc trong số
những lãnh đạo đảng tại Sài Gòn. Sau đó thì lần lượt từng lãnh đạo tại Sài Gòn bị Pháp bắt sau
khi mặt trận bình dân tại Pháp sụp đổ và người Pháp một lần nữa ra chính sách trừ diệt đảng
cộng sản. Sau đó, tôi nghĩ có một cuộc khủng hoảng lãnh đạo trong đảng. Lúc này, ông Hồ đang
ở Trung Quốc xây dựng một nhóm những người yêu nước Việt Nam theo đuổi chính sách thống
nhất – một chính sách mà vào lúc này quốc tế cộng sản quay lại sử dụng. Tôi nghĩ đến đầu thập
niên 40, ông Hồ Chí Minh là người Việt Nam cần lúc đó, có mặt và sẵn sàng hành động.
BBC: Như bà viết trong sách, nhiều tác giả – cả cộng sản và không cộng sản – đã phần nào phóng đại vai
trò của ông Hồ Chí Minh. Vì sao?
Tôi nghĩ đó là điều mà trong giới sử học gọi là phát triển bằng cách viết ngược (back formation).
Bởi vì ông Hồ trở thành chủ tịch nước năm 1945, người ta đặt ra những tiền đề không có căn cứ
về sự nghiệp của ông. Và thật dễ dàng để cho rằng ông đã luôn là một trong những nhân vật
hàng đầu trong quốc tế cộng sản. Dĩ nhiên đảng cộng sản Việt Nam sẵn sàng chấp nhận suy nghĩ
này vì nó cho họ một uy tín trong phong trào cộng sản quốc tế.
BBC: Nhưng vì sao ngay cả những người không cộng sản cũng có thiên hướng chấp nhận điều này?
Theo tôi, đó là vì một chân dung như thế cũng hợp với những nghị trình của họ. Họ muốn tin
rằng ông Hồ đã luôn là một người cộng sản ẩn đằng sau cái vỏ dân tộc chủ nghĩa. Tôi nghĩ
những nhà chỉ trích ông Hồ Chí Minh ‐ thuộc cả hai phía cộng sản và không cộng sản ‐ duy trì
chân dung về ông như một nhà cộng sản đầy quyền lực bởi vì ông ấy là biểu tượng nổi tiếng
nhất của phong trào cộng sản Việt Nam.
BBC: Khi đọc về những bước đường đầu tiên trong sự nghiệp của ông Hồ Chí Minh, nó có giúp gì cho
người ta hiểu về phần đời sau này của ông hay không?
Vâng, tôi nghĩ phần nào đó, những gì diễn ra trong thập niên 30 cũng tái lặp trong cuối thập niên
40, đầu 50. Mâu thuẫn trong phong trào cộng sản tại Việt Nam và quốc tế không bao giờ vụt tắt.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 12 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Một bên muốn đi tới thật nhanh, xây dựng điều mà họ gọi là chủ nghĩa xã hội bằng cách loại trừ
tầng lớp trung lưu. Một bên lại cho rằng chủ nghĩa cộng sản phải được xây dựng từ từ, trải qua
giai đoạn của chủ nghĩa tư bản. Tôi nghĩ người ta cần hiểu hai quan điểm này cứ thay nhau được
chấp nhận, rồi gạt bỏ. Cứ như vậy.
Đó là một trong những lý do – tôi nghĩ – vì sao ông Hồ Chí Minh không phải bao giờ cũng duy
trì được vị trí là một nhà lãnh đạo có thực quyền.
(Nguồn BBC Việt Ngữ)
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 13 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Lời cảm tạ của bà Sophie Quinn-Judge
Tôi xin chân thành cảm ơn John D. và Catherine T. tại quỹ McAthur vì đã tài trợ cho những
nghiên cứu của mình và năm 1994 tại Moscow và Aix‐en‐Provence. Quỹ nghiên cứu của đại học
trung tâm London đã là nơi tài trợ cho nghiên cứu của tôi ở Aix‐en‐Provence vào năm 1998. Tôi
rất biết ơn những người quản thư tại trung bảo tồn và lưu trữ tàng thư về lịch sử cận đại của
Nga, những người đã hết lòng giúp đỡ trong những điều kiện khó khăn.
Chính bạn bè của tôi tại Việt Nam, Nga, Mỹ, Anh, Pháp đã ủng hộ và khuyến khích tôi thực hiện
việc nghiên cứu về Nguyễn Ái Quốc/Hồ Chí Minh, một dự án nghiên cứu tưởng như viển vông
mà ban đầu tôi đã không lường hết được. Trong những năm tháng học tại khoa châu phi học của
trường đại học tổng hợp London, tôi đã có được nhiều trao đổi về mặt học thuật với bạn bè qua
các seminar về lịch sử Việt nam. Tôi cũng muốn cảm ơn chồng và hai con gái của mình vì đã hỗ
trợ hết mình cho công việc nghiên cứu này.
Quyển sách này giành để tặng cho những người quá cố là Huỳnh Kim Khánh, người đầu tiên
khơi gợi sự tò mò của tôi về mối quan hệ giữa Nguyến Ái Quốc và Quốc Tế III; và Ralph B.
Smith, một người bạn với nhiều lời khuyên chân thành, một tấm gương về sự lao động quên
mình của một học giả.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 14 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Nội dung sách
Chương 1: Paris: Sự xuất hiện của Nguyễn Ái Quốc (1919‐23)
Chương 2: Ra nhập Quốc Tế III (Comintern) (1923‐4)
Chương 3: Thời kỳ ở Quảng Châu và sau đó (1924‐8)
Chương 4: Từ con đường cũ đến con đường mới (1927‐9)
Chương 5: Sóng triều cách mạng (1930‐1)
Chương 6: Chết ở Hồng Kông, chôn tại Moscow?
Chương 7: Sự trở lại của Hồ Chí Minh và con đường đến Hội nghị Tám (1937‐41).
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 15 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Qui ước viết tắt trong sách
ACP Annam Communist Party (An Nam Cộng sản Đảng)
AOM Archives d’Outre‐Mer
BNTS Hồ Chí Minh: Biên Niên Tiểu Sử
CC Central Committee (Trung ương)
CCP Chinese Communist Party (Đảng CS Trung Quốc)
CYL Communist Youth League (Liên đoàn Thanh niên Cộng sản)
DDSCD Đông Dương Cộng sản Đảng
ECCI Executive Committee of the Communist International (Ban chấp hành
Quốc tế Cộng Sản).
FCP French Communist Party (Đảng cộng sản Pháp)
FEB Far East Bureau (Viễn Đông Cục)
GMD Guomindang (Quốc dân Đảng)
ICP Indochinese Communist Party (Đông dương Cộng sản Đảng)
MAE Ministère des Affaires Etrangères
NCLS Nghiên cứu Lịch sử (tạp chí)
NXB Nhà xuất bản
OMS Bộ phận liên lạc quốc tế
RS Trung bảo tồn và lưu trữ tàng thư về lịch sử cận đại Nga
SHAT Service Historique de l’Armée de Terre
SLOTFOM Service de Liaisons avec les Originaires des Territoires de la France
d’Outre‐Mer.
SMP Hồ sơ cảnh sát thành phố Thượng hải.
SPCE Service de Protection du Corps Expéditionaire
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 16 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
VNQDD Việt Nam Quốc Dân Đảng
VNTNCMDCH Việt nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 17 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
CHƯƠNG 0: GIỚI THIỆU
Huyền thoại kép
Nhân viên trong bóng tối của Quốc Tế III được thế giới bắt đầu biết đến từ năm 1945 dưới cái tên
là Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản tại Việt nam nhiều năm sau ngày
ông lên nắm quyền với tư cách là chủ tịch đầu tiên của đất nước mình. Trong cuộc chiến giữa Mỹ
và Việt nam, ông nổi lên như một hình tượng của chủ nghĩa cộng sản “hai mặt” điển hình Á châu
(nghĩa là mặt cộng sản và mặt dân tộc – ND), và đối với tổng thống Mỹ Lyndon Johnson ông là
một kẻ thù. Hình tượng này phần nào được dựng lên do các chiến dịch tuyên truyền thời chiến
tranh lạnh, mà ở đó ông được mô tả như một kẻ cuồng tín, đam mê quyền lực, một người từng
theo chủ nghĩa dân tộc nhưng cuối cùng đã phản bội lại chính những người theo chủ nghĩa dân
tộc phi cộng sản [1]. Hồ phải chịu trách nhiệm cho những khổ đau mà đất nước ông phải hứng
chịu do chiến tranh và chủ nghĩa cộng sản đem lại.
Hình ảnh trên của Hồ Chí Minh được đưa ra bởi phe chống cộng
ngược hẳn lại với hình ảnh được xây dựng kỹ lưỡng về ông của những
người cộng sản Việt nam trong đó ông được mô tả như một người chủ
tịch, một người cha của nước Việt nam độc lập, một người sống mẫu
mực, khổ hạnh như thầy tu, một người đã cống hiến trọn đời mình
cho dân tộc. Từ sau năm 1945, những người cộng sản Việt nam đã sử
dụng ông như một phương tiện để tạo ra một lịch sử của một Đảng
cộng sản thống nhất, đoàn kết và luôn luôn sáng suốt. Ở một mức độ
nào đó, bản thân ông Hồ cũng khuyến khích việc xây dựng hình
tượng mình như một người yêu nước giản dị theo chủ nghĩa dân tộc.
Việc sử dụng hình ảnh Hồ Chí Minh theo kiểu này càng trở nên rõ
hơn sau năm 1947, khi quân đội Pháp đã tái chiếm thuộc địa và chính phủ Mỹ tỏ ra nghi ngờ tính
dân tộc của Việt Minh. Trong lời giới thiệu đầu quyển sách tiểu sử đầu tiên về Hồ Chí Minh xuất
hiện ở Paris 1949, đã mô tả ông như “biểu tượng của khát vọng dân tộc”; trái tim ông được cho là
“cùng đập một nhịp với những người dân Việt nam”; những lời dậy của ông tràn đầy “sự nhân ái
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 18 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
cao cả” nhưng lại “cực kỳ gần gũi giản đơn” [2]. Một bài trên báo Nhân Dân số ra ngày 25 tháng 3
năm 1951 lại mô tả một vai trò khác của ông Hồ. Bài báo đó xem Hồ chủ tịch như “linh hồn của
cách mạng Việt nam và cuộc kháng chiến” , trong khi đó lại xác nhận vai trò của Trường Chinh,
lúc đó là tổng bí thư Đảng Cộng sản, như là “người kiến thiết và lãnh đạo cách mạng” [3].
Cho đến năm 1964, khi những người cộn sản Việt nam đang bị kéo ngày càng sâu hơn vào cuộc
đối đầu với Mỹ, thì một hình ảnh thống nhất về chủ tịch Hồ Chí Minh trong lịch sử Đảng càng trở
nên hết sức quan trọng. Như chúng ta đã biết, thời điểm năm 1963 là thời kỳ căng thẳng trong
Đảng với cuộc đấu tranh nội bộ xem nên theo đường lối quốc tế nào (giữa theo Liên Xô và Trung
Quốc – ND). Vì vậy bài báo xuất hiện trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số ra tháng 2 năm 1964
trong đó mô tả vai trò của Hồ Chí Minh trong việc hợp nhất các Đảng Cộng sản Việt năm năm
1930 mang một thông điệp quan trọng. Đó là thông điệp về một hình ảnh thống nhất về phẩm
chất chính trị được xác nhận và hình tượng hoá bởi chính Hồ Chí Minh [4]. Đồng thời Đảng cũng
tự mô tả mình như một Đảng có sức mạnh vô địch nhờ sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Hồ Chí
Minh. Mỉa mai là ở chỗ, vào thời điểm năm 1964, quyền lực cá nhân thực sự của Hồ Chủ Tịch
trong Đảng lại đã bị giảm đi đáng kể [5]. Trong lần xuất bản thứ 5 cuốn tiểu sử “chủ tịch Hồ Chí
Minh” do Trường Chinh viết năm 1973, lần đầu tiên xuất hiện một đoạn dài nói về những “chiến
lược cách mạng” của Hồ Chí Minh và một đoạn khác nói về “Đạo đức và phẩm hạnh” của ông [6].
Tuy vậy cho đến năm 1989 khi khối XHCN ở Đông Âu sụp đổ, những người Cộng sản Việt nam
mới bắt đầu hệ thống hoá lại “tư tưởng Hồ Chí Minh” và dùng nó như một kim chỉ nam tư tưởng
hệ.
Theo quan điểm của tôi, cả hai quan điểm dập khuôn về Hồ Chí Minh như là một người cộng sản
theo Machiavelli (theo thuyết “mục đích biện minh cho hành động – ND), hay là một vị thánh có
tinh thần dân tộc đều gây cản trở cho việc nghiên cứu nghiêm túc một hình tượng lịch sử. Lấy ví
dụ chúng có thể gây ra những cuộc tranh cãi rất vô bổ như liệu Hồ Chí Minh có phải là một kẻ
mạo danh? Hay một kẻ đóng kịch [7]? (Rõ ràng là Hồ Chí Minh có thể là một người đối thoại rất
trung thực và thẳng thắn, đồng thời lại có thể là một người rất xảo quyệt luôn biết tự cảnh giác).
Hình ảnh quá thực tế cuộc sống của Hồ đã làm nhiều học giả nghiên cứu về chủ nghĩa cộng sản ở
Việt nam phóng đại quá mức về tầm quan trọng của ông trong việc tạo dựng tình hữu nghị cộng
sản quốc tế. Lấy ví dụ cuốn tiểu sử viết bởi Jean Lacouture, một người ái mộ ông Hồ, đã mô tả
rằng ông là một người bạn mật thiết của những trí thức cánh tả nổi tiếng của Pháp như Boris
Souvarine [8]. Mặc dù vậy những tài liệu từ Nga và Pháp mà chúng tôi đã nghiên cứu lại cho thấy
thực ra ông Hồ là người cầu cạnh các mối quan hệ với họ chứ không phải bạn thân. Souvarine, có
lẽ hầu như không có mấy quan hệ với ông Hồ cho đến tận năm 1923, vì ông ở Pháp rất ngắn sau
khi bị bỏ tù vào các năm 1920, 1921, và cho đến khi ông ta bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Pháp
năm 1924 [9]. William Duiker thì mô tả ông Hồ như “một diễn giả chính của phương Đông và
giúp làm tăng sự chú ý đến các vấn đề của nông dân” tại phiên bế mạc của hội nghị lần thứ năm
của Quốc Tế III năm 1924 [10]. Tuy nhiên trong thực tế, ông Hồ chỉ là một diễn giả phụ nói về vấn
đề thuộc địa và thậm chí không phải là đại diện của một Đảng Cộng sản Á châu nào. Charles
McLane cho rằng, sau khi trở lại Moscow từ Trung Quốc năm 1927, ông Hồ đã bàn định lại chính
sách đối với các nước Đông Nam Á với các nhà lãnh đạo Quốc Tế III, “Thậm chí có lẽ là với chính
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 19 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Stalin” [11]. Mặc dù vậy, hiện chưa có một bằng chứng nào cho thấy điều đó ngoài việc ông Hồ
nộp một bản báo cáo cho Krestintern (Quốc Tế Nông Dân) và bàn bạc với cấp trên của mình ở ban
chấp hành Quốc tế Cộng Sản trong khoảng thời gian ông ở Moscow năm 1927. Charles Fenn cho
rằng ông Hồ là một trong hai đại diện tham dự hội nghị lần thứ 7 của Quốc Tế III tham gia ủng hộ
mặt trận bình dân [12]. Thực ra ông Hồ không có quyền bỏ phiếu, các các chiến lược chính sách đã
được Dimitrov chuẩn bị kỹ lưỡng trước dưới sự hỗ trợ của Stalin. Vai trò của một nhà tuyên truyền
cách mạng của ông Hồ nhiều khi cũng bị thổi phồng một cách quá đáng. Ví dụ như trong bài báo
viết về tiểu sử của ông đăng trên báo Nhân Dân số ra ngày 17 tháng 5 năm 1970, năm sau khi ông
mất, đã mô tả tờ báo chống đế quốc Le Paria, mà ông Hồ làm chủ biên ở Paris, là “đã tạo nên một
cơn gió cách mạng thổi bùng trên toàn Đông dương và các nước khác”. Theo quan điểm cá nhân
của chúng tôi, đó là sự nói quá về vai trò của Le Paria trong những năm đầu thập niên 20.
Những học giả chống cộng thường có xu hướng chấp nhận một phiên bản của cách nhìn trên về
tầm ảnh hưởng của Hồ Chí Minh. Tôn Thất Thiện trong bài luận có tựa đề “Sự thật và giả dối:
Chuyến đi bí mật của Hồ Chí Minh đến Nga năm 1923 và sự thất sủng của ông trong Quốc tế
Cộng Sản 3”, đã đặt vấn đề nghi ngờ về tầm ảnh hưởng của Hồ Chí Minh trong phong trào cộng
sản quốc tế. Ông cho rằng bài phát biểu của ông Hồ tại đại hội 2 Đảng Cộng sản Pháp đã gây ấn
tượng mạnh đối với đặc phái viên của Quốc tế Cộng Sản 3 Dmitry Manuilsky, và ngay tại đó Hồ
đã được mời tham dự Đại hội 5 Quốc tế Cộng Sản 3 tại Moscow [13]. Trong thực tế, các tài liệu tại
các tàng thư của Nga và Pháp lại cho thấy vấn đề phức tạp hơn một chút. Trong chương 2, chúng
tôi sẽ chỉ ra rằng thực tế ban đầu ông Hồ chỉ dự định ở lại Moscow có 3 tháng và không có ý định
tham dự hội nghị 5. Theo Lacouture, ông Hồ đã tham dự một hội nghị phản đế quan trọng vào
đầu năm 1928 nơi ông gặp gỡ Nehru và các nhà dân tộc chủ nghĩa khác [14]. Nhưng thực ra hội
nghị này diễn ra tháng 2 năm 1927, trong khi ông Hồ vẫn còn đang ở Quảng Châu. Trong quá
trình nghiên cứu của mình, chúng tôi phát hiện ra nhiều chuyện thú vị về việc rất nhiều việc được
gán cho ông Hồ nhưng thực tế ông không làm do hoặc là ông không có mặt tại địa điểm diễn ra
hành động, hoặc ông không có đủ tầm ảnh hưởng để làm.
Một trong những ví dụ kiểu này là việc cho rằng ông là tác giả bài báo: ”The Party’s Military
Work among the Peasants” in trong tập tái bản của cuốn sổ tay Quốc tế Cộng Sản 3, “Armed
Insurrection”. Bài báo gốc được in vào năm 1929 dưới bút danh A. Neuberg, mặc dù đã có một
bài viết với tiêu đề tương tự của Alfred Langer, xuất hiện ở Đức năm 1928. Những học giả như
William Duiker và Huynh Kim Khanh đã dung bài luận này để lý giải về quan điểm của ông Hồ
về nông dân và cuộc nổi dậy của Xô‐viết Nghệ Tĩnh năm 1930‐1 [15]. Trong phần giới thiệu của
bản in năm 1970, Erich Wollenberg, người tự nhận là một trong các tác giả gốc, đã chỉ rõ Hồ Chí
Minh là tác giả của chương cuối, về khởi nghĩa của nông dân [16]. Wollenberg cũng cho rằng
chính Hồng quân đã cử Hồ Chí Minh đến Trung Quốc năm 1924. Việc thừa nhận ông Hồ như một
chuyên gia về quân sự như nhiều tài liệu báo chí phương tây sau này, hiện chưa được minh chứng
trong các tài liệu và chứng cứ chúng tôi đã nghiên cứu. Trong Quốc tế Cộng Sản 3, ông Hồ chỉ
hoạt động như một phiên dịch, một chuyên gia tuyên truyền và vận động cách mạng. Khi trở về
Moscow từ Trung Quốc vào tháng 6 năm 1927, ông có báo cáo về phong trào nông dân ở tỉnh
Quảng Đông, nhưng bài báo cáo ở dạng mô tả cụ thể chứ không có dáng điệu phân tích sâu sắc
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 20 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
như bài báo trên. Ở Berlin năm 1928, ông đã viết bài mô tả về phong trào nông dân Pen Pai.
Nhưng tại thời điểm của cuộc nổi dậy Nanchang, Sô Viết Hai‐Lungfeng, hay khởi nghĩa ở Quảng
Châu, ông không có mặt tại đó mà những sự kiện này lại được phân tích rất kỹ lưỡng trong bài
luận năm 1929 kia. Theo tài liệu của Quốc Tế III, Hội đồng quân sự của ban thư ký Đông phương
của Quốc Tế III đã giao nhiệm vụ cho A. Gailis, một người Litva (biệt danh là Tom khi làm việc tại
Trung Quốc], và Y. Zhingur một người làm việc làm việc trong lực lượng tình báo quân đội ở
Nam Trung Quốc từ năm 1926 đến 1927 nghiên cứu các chiến thuật cho một cuộc khởi nghĩa vũ
trang. Quyết định này được đưa ra trong cuộc họp ngày 22 tháng 3 năm 1928, trong khi ông Hồ
vẫn còn đang ở Berlin [17]. Cuốn sách của Gailis về chủ đề này đã được in ở Moscow vào ngày 20
tháng 6 năm 1929 [18]. Do đó có lẽ sự xác nhận ông Hồ là tác giả bài luận cuối của lần tái bản năm
1970 có lẽ chủ ý muốn đề cao vai trò của ông Hồ như là một lý thuyết gia Cộng sản. (Sự thực thì
quan điểm của bài báo cũng chính là quan điểm chính thống của Quốc Tế III năm 1928 , và cho
dù ông Hồ có đồng quan điểm với nó thì cũng khó có khả năng ông Hồ lại có thể sử dụng giọng
kẻ cả như vậy đối với sự thất bại của Đảng Cộng sản Trung Quốc).
Những tiểu sử đầu tiên của phương Tây về Hồ Chí Minh (như của Lacouture, Fenn) là những tiểu
sử mang đậm dấu ấn của trường phái ấn tượng (ý muốn nói có nhiều điều không thật –ND), do
thiếu tư liệu lịch sử. Bản thân ông Hồ cũng rất khéo léo trong việc che dấu quá khứ của mình.
Trong nhiều năm thông tin về tiểu sử của mình mà ông cung cấp phần nhiều là những mẩu
chuyện hư cấu với những ngày tháng lộn xộn không rõ ràng chứ không phải những sự kiện thật
trong cuộc đời của ông. Cuốn tiểu sử lần đầu in tại Paris năm 1949, trước đó đã xuất hiện năm
1948 bằng tiếng Trung Quốc, sau này được in lại nhiều lần bằng tiếng Việt với tiêu đề: “Những
mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch”. Mặc dù tên tác giả là Trần Dân Tiên, nhưng
hiện mọi người đều đã công nhận đó là tự do ông Hồ viết [19]. Cuốn sách là tập hợp những khắc
hoạ mờ ảo trong trí nhớ về ông của các đồng chí của ông với ngày tháng lộn xộn. Mặc dù nó có
dựa trên những sự thật những sự thiếu hụt thông tin, sự trang hoàng và tiền đề thuyết phục người
đọc về những phẩm chất vô sản của ông Hồ chỉ làm quyển sách này có tác dụng xây dựng nên
huyền thoại Hồ Chí Minh chứ không phải là một cuốn sách có giá trị lịch sử cao. Tiểu sử Hồ Chí
Minh bằng tiếng Nga của Kobelev là tác phẩm của một nhà báo hơn là của một lịch sử gia [20].
Cuốn tiểu sử này phần lớn dựa trên cuốn tiểu sử viết bởi Hồng Hà, một người mà qua cách đánh
giá về việc cẩn trọng trong việc sử dụng tài liệu tham khảo nên cũng được xem là một nhà báo hơn
là một sử gia thực thụ [21].
Những thông tin tiểu sử về thời trai trẻ của Hồ Chí Minh trong những năm tháng đầu tiên ở Paris
được phát hiện trong tàng thư của Pháp bởi, Nguyễn Thế Anh, Thu Trang Gaspard, và Daniel
Hémery sau khi cuốn sách của Lacouture được in đã làm mạnh thêm quan điểm về nguồn gốc
dân tộc chủ nghĩa của ông Hồ [22]. Đặc biệt trong bài báo in năm 1992 của mình với tựa đề
“Jeunesse d’un Colonisé genèse d’un exil, Ho Chi Minh jusqu’en 1911”, Hémery đã chỉ ra sự
nghiệp của bố ông Hồ (cụ Nguyễn Sinh Huy – ND) và việc ông bị cách chức quan đã ảnh hưởng
như thế nào đến sự phát triển của anh thanh niên Nguyễn Tất Thành. Cuốn tiểu sử gần đây của
William Duiker đáng tiếc đã không lưu ý đến nghiên cứu này của Hémery. Duiker chỉ sử dụng
những tài liệu về thời trẻ của ông Hồ được xuất bản ở Hà nội. Mặc dù Duiker cũng đưa các quan
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 21 Diễn đàn www.x‐cafevn.orgđiểm ngược chiều vào cuốn tiểu sử của mình và sử dụng một số tài liệu của Quốc Tế III, nhưng
ông cũng cho rằng Kobelev đã hơi thổi phồng quá vai trò của ông Hồ trong Quốc tế Cộng Sản 3.
Tìm kiếm hình ảnh lịch sử thật của Hồ Chí Minh
Với việc tàng thư Quốc tế Cộng Sản được mở công khai năm 1992, hiện đã có thể có đủ dự kiện
để phác hoạ về sự thật cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh trong những năm trước 1945, thay
vì những huyền thoại như trước đây. Nghiên cứu trong cuốn sách này là về những năm tháng
hoạt động chính trị của ông từ năm 1919, khi ông lần đầu tiên xuất hiện tại Paris dưới cái tên
Nguyễn Ái Quốc; cho đến năm 1941 trước cuộc đại chiến thế giới lần thứ 2, khi liên hệ giữa
những người Cộng sản Việt Nam với Quốc Tế III chấm dứt. Nghiên cứu trong cuốn sách này
dựa trên nghiên cứu các tàng thư tại Trung bảo tồn và lưu trữ tàng thư về lịch sử cận đại Nga,
trước đây là Học viện Marx‐Lenin [23], và tại Centre d’Archives d’Outre‐Mer tại Aix‐en‐
Provence. Chúng tôi cố gắng nhất trong mức có thể giữ nguyên trạng những sự thực do chúng
tôi phát hiện được trong những tàng thư này mà không biến chúng thành một chuỗi các sự kiện
rời rạc. Chúng tôi có chỉnh lý những tự chuyện, hồi ký của người Việt và cố gắng so sánh với
nguồn tài liệu chính thống của Đảng Cộng sản Việt nam với các tài liệu chúng tôi tìm thấy tại các
tàng thư về cùng một sự kiện mỗi khi có thể. Cũng cần chú ý rằng đối với các tài liệu về thời kỳ
từ năm 1941 trở về trước trong kho tài liệu của Đảng Cộng sản Việt nam, trừ các hồi ký, và
những tài liệu đã được in lại trong Văn Kiện Đảng, Hồ Chí Minh Toàn Tập đều được thu thập
đầy đủ từ các tàng thư của Nga và Pháp nói trên (Xem thêm chi tiết tại phần tài liệu tham khảo).
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 22 Diễn đàn www.x‐cafevn.orgMục đích của nghiên cứu này không phải là để huỷ hoại thanh danh của Hồ Chí Minh, mà chỉ là
để làm rõ sự thực những gì ông đã làm trong thời kỳ ông làm việc cho Quốc Tế III. Những năm
tháng hoạt động bí mật và được cải trang kỹ lưỡng đã đưa ông Hồ trở thành một huyền thoại
kiểu Phantomat. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Sự thực là mặc dù cuộc đời ông trong
giai đoạn này đẫy rẫy những sự nguy hiểm, thì một trong những công việc mà ông cũng thường
xuyên phải làm là ngồi gõ thật nhiều các bản báo cáo với mục đích thuyết phục người Nga cung
cấp thêm nhiều tiền cho các hoạt động của ông. Ông Hồ thực sự không có cuộc sống của nhà tu
hành, Ông có hai mối quan hệ với phụ nữ được chứng minh bằng các tài liệu chúng tôi tìm được
trong khoảng thời gian hoạt động mà cuốn sách này đề cập đến [24]. Ông là một sinh vật chính
trị phức tạp chứ không phải là một vị thánh. Tài liệu chính thống của Việt nam thường đặt trọng
tâm vào tấm gương lãnh đạo của ông và thường xem ông như là người khởi nguồn của mọi tình
huống – ông được khắc hoạ như một nhân vật đạo đức cao cả hàng đầu. Chúng tôi muốn khắc
hoạ hình ảnh của ông khách quan hơn trong một ngữ cảnh rộng hơn trong đó ông chỉ là một
trong số nhiều nhân vật chứ không phải là nhân vật trung tâm duy nhất.
Sự nghiệp của Hồ Chí Minh trong những năm đó đóng vai trò một cầu nối giữa Việt Nam và
Quốc tế Cộng Sản 3. Nghiên cứu của chúng tôi sẽ làm rõ tiến trình quan hệ này, bắt đầu từ việc
Quốc Tế III cố gắng khuyến khích và đỡ đầu các cuộc cách mạng ở các thuộc địa cho đến thời kỳ
của cuộc đấu tranh giai cấp quốc tế từ năm 1928 đến 1935, và quay lại phòng trào giải phóng dân
tộc bắt đầu từ đầu những năm của cuộc đại chiến thế giới lần thứ 2.
Những năm tháng mà ông Hồ có ảnh hưởng nhất chính là những năm tháng của mặt trân dân
tộc thống nhất. Còn trong những năm 1930s ông không có được ảnh hưởng đáng kể và do đó đã
tạo điều kiện để những lãnh đạo khác như Trần Phú, Hà Huy Tập, Trần Văn Giầu, Lê Hồng
Phong, và Nguyễn Văn Cừ chiếm lĩnh sự ảnh huởng. Tất cả các lãnh đạo trên, trừ Nguyễn Văn
Cừ, đều được học tập và huấn luyện tại Moscow. Đây có lẽ là cách tiếp cận nghiên cứu Topdown
về ảnh huởng lãnh đạo, một xu hướng có phần lỗi thời trong nghiên cứu lịch sử. Nhưng
trừ phi chúng ta có đầy đủ tài liệu, bằng chứng về những người và những tư tưởng đã giúp hình
thành nên chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam thế kỷ 20, mà không cần đến những kiến thức về nguồn
gốc kinh tế và nhân chủng học của các cuộc nổi dậy chống thực dân, thì khung lịch sử của chúng
ta chỉ mang tính thuần tuý lý thuyết.
Để hiểu được mối liên quan giữa các chính sách tại Moscow và những sự kiện ở Việt nam chúng
tôi đã phải nghiên cứu lại kỹ lượng các cuộc tranh luận và tài liệu chính yếu trong việc thiết lập
các chính sách của Quốc Tế III đối với các nước thuộc địa. Một trong những thứ quan trọng nhất
đó là cuộc tranh luận về bản luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin năm 1920,
năm Hồ Chí Minh ra nhập Đảng Cộng sản Pháp. Một cuộc tranh luận quan trọng nữa là cuộc
tranh luận diễn ra từ năm 1928 đến năm 1929, mà các tài liệu về chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam
thường diễn giải sai. Cuộc tranh luận về các chính sách cấp tiến hơn cho phong trào cộng sản
quốc tế, thay thế các chiến thuật giành cho các nước thuộc địa mà Lenin đề ra năm 1920. Để phân
tích quá trình cấp tiến hoá của phong trào cộng sản tại Việt nam những năm cuối thập niên 20,
chúng ta cần xem xét trình tự thời gian mà chính sách của Quốc Tế III chuyển sang “giai cấpHồ
Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 23 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
đấu‐giai cấp” mà thường được gọi là “giai đoạn 3” của chủ nghĩa tư bản sau năm 1918. Trong
chương 3, 4, và 5 chúng tôi cũng sẽ phân tích những con đường khác nhau mà những chủ nghĩa
cực đoạn kia có thể đã được truyền vào Việt nam. Hơn nữa các sự kiện ở Việt nam được đặt
trong một ngữ cảnh rộng hơn đó là ngữ cảnh của toàn bộ Đông Nam Á. Dường như lịch sử ít đề
cập đến vai trò của Hội Đồng Nam Hoa của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Việt nam trong
những năm cuối thập niên 20, mà trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ ra rằng nó đã tồn tại ở Việt
Nam và có lẽ đã hoạt động độc lập ngoài tầm kiểm soát của Quốc Tế III.
Có thể có người sẽ cho rằng, đến thời điểm này đã có thể quét sạch những thứ lịch sử bị chính trị
hoá, những tuyên truyền thuần tuý về Hồ Chí Minh. Nhưng thực tế, mọi tài liệu đều có vấn đề
riêng của nó và cần được diễn giải cẩn thận. Về khía cạnh tích cực mà nói, các sự kiện được đề
cập đến trong các tài liệu của Quốc Tế III, thường được khẳng định và minh hoạ bởi các tài liệu
trong tàng thư của Pháp, nhưng để xác định tác giả, nguồn gốc, ngày tháng của các tài liệu trong
tàng thư của Quốc Tế III không phải là chuyện dễ dàng. Trong các bản báo cáo gửi về Moscow
của mình các lãnh đạo của Đảng CS, nhất là Hồ Chí Minh, thường cố gắng tránh không sử dụng
tên thật của mình. Đôi khi có thể xác định chính xác ngày viết và ngày nhận của các bản báo cáo
tại Moscow nhưng không phải lúc nào cũng xác định được như vậy.
Một vấn đề khác nữa, không chỉ của riêng Nga, là không phải tất cả các tài liệu đã được bạch
hoá. Lấy ví dụ phần tài liệu liên quan đến hoạt động của các bộ phận của Quốc Tế III dưới sự
điều khiển của NKVD (lực lượng mật vụ Sô Viết, hậu thân của Cheka) vẫn còn đóng kín. Do đó
nếu chỉ dựa vào nguồn tài liệu đã bạch hoá ở Moscow, có lẽ còn quá sơm để khẳng định rằng
mối quan hệ giữa Quốc Tế III và những người cộng sản Việt nam đã được làm sáng tỏ hoàn toàn.
Ví dụ cho đến giờ chúng tôi vẫn chưa có đủ cứ liệu về cuộc điều tra của Quốc Tế III về các hoạt
động của Hồ Chí Minh ở Trung Quốc cho đến thời điểm ông bị bắt năm 1931. Mặc dù nguồn tài
liệu phụ khác cho chúng tôi thấy, Hồ Chí Minh đã bị loại khỏi Đại hội Quốc Tế III năm 1935 và
trong khoảng thời gian từ năm 1934‐1938 Ông “gần như không hoạt động chính trị gì” trong thời
gian sống tại Moscow. Vì vậy ta chỉ có thể phỏng đoán rằng đã có một sự nghi ngờ và điều tra từ
phía Quốc Tế III đối với Hồ Chí Minh tại thời điểm này và có lẽ thông tin về cuộc điều tra này có
trong các tài liệu còn đang chưa được bạch hoá kia. Ngay bản thân Hồ Chí Minh, khi khai báo
với Quốc Tế III cũng thường xuyên đưa những thông tin mơ hồ và trái nghịch về chính bản thân
mình. Ví dụ khi nhập học tại trường quốc tế Lenin năm 1934, ông đã khai báo kiến thức nghề
nghiệp của mình là “không có gì”. Hay như năm 1938, ông tự khai lý lịch của mình là sinh năm
1903, khoảng 10 tuổi trẻ hơn so với tuổi thật của mình [25].
Việc sử dụng các nguồn tài liệu từ tàng thư của Pháp cũng có thể gây tranh cãi. Độ tin cậy trong
những nguồn tin và phân tích của lực lượng mật vụ Pháp không có gì đảm bảo là chính xác. Hơn
nữa các tài liệu tại SPCE được sử dụng ít hơn vì chúng mới chỉ được bạch hoá vào những năm
90. SPCE chỉ lưu trữ các hồ sơ chủ yếu của Phòng nhì liên quan đến các hoạt động của từng nhà
cộng sản hay chủ nghĩa dân tộc đơn lẻ. Nguồn tài liệu này lưu trữ những bản cung khai vô giá
lấy được của cảnh sát Pháp từ những người Cộng sản bị giam cầm, hoặc các báo cáo của các điệp
viên, chỉ điểm của Pháp trong hàng ngũ những người cộng sản.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 24 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Mặc dù những nguồn tài liệu này cần được sử dụng một cách hết sức thận trọng, nhưng trong
một số tình huống chúng tôi vẫn buộc phải sử dụng các nguồn tài liệu này. Chúng tôi dựa vào
những khai báo trung thực đối với cảnh sát Pháp của những người cộng sản từ bỏ hàng ngũ do
bất đồng và thường kiểm tra chéo bằng cách so sánh với các lời khai của những người khác về
cùng một sự kiện. Điều này đặc biết có lý trong khoảng thời gian từ năm 1930 đến 1931, khi mối
bất đồng trong việc lựa chọn chiến lược giữa các lãnh đạo Đảng cộng sản lên đến đỉnh điểm. Đối
với những điệp viên và chỉ điểm của Phòng nhì, thì rất có thể họ phóng đại những thông tin, liên
hệ và hiểu biết bên trong của họ nhằm lấy lòng chủ của họ là Phòng nhì Pháp. Mặc dù vậy chúng
tôi thường chỉ lựa chọn thông tin cung cấp bởi những người chỉ điểm lâu năm và dường như đã
chiếm được niềm tin của Phòng nhì Pháp vì điều đó chứng tỏ tài liệu và thông tin của họ cung
cấp chính xác hơn những người chỉ điểm khác.
Lấy ví dụ, một điệp viên chỉ điểm thành công nhất của Phòng nhì Pháp chính là Nguyễn Công
Viên hay còn được gọi là Lâm Đức Thụ (trong cuốn Wiliam Duiker , Lâm Đức Thụ được mô tả như là
một người bạn thân thiết của Nguyễn Ái Quốc, lúc đó là Lý Thuỵ, Lâm Đức Thụ cưới vợ người Hoa, và
theo Hoàng Tranh chính là người cùng với vợ giới thiệu Tăng Tuyết Minh làm vợ Lý Thuỵ, Lâm Đức
Thụ bị Việt Minh bắn chết năm 1945 tại quê nhà Thái Bình vì tội Việt gian – ND), người không chỉ gửi
các báo cáo đều đặn đến phòng nhì về các hoạt động của Hồ Chí Minh ở Quang Đông từ năm
1925 trở đi mà còn thường xuyên gửi các tài liệu và thư gốc. Lấy ví dụ ông ta chuyển cho Phòng
nhì Pháp gần như toàn bộ các số báo Thanh Niên của Hồ Chí Minh, mà bản dịch hiện vẫn đang
được lưu trữ ở tàng thư nói trên. Giá trị của các bản báo cáo này đối với các sử gia là ở chỗ ông
Hồ đã cố gắng đấu kín các mối quan hệ với cả phía cộng sản lẫn không cộng sản, mà vào những
năm 1950 điều này có thể nguy hiểm cho cả hai bên, nên không được bên nào nhắc tới. Điều đó
cho thấy sự trái ngược với cách nhìn nhận thời kỳ chiến tranh lạnh rằng đã có sự chia rẽ sâu sắc
giữa các nhà hoạt động cộng sản và phi cộng sản những năm 20 ở Nam Trung Hoa.
Mặc dù quãng thời gian đề cập đến trong nghiên cứu này nằm ngoài tầm ảnh hưởng của thời kỳ
chiến tranh lạnh, nó cũng bị ảnh hưởng bởi quan điểm nhìn nhận diễn giải của thời kỳ phân cực
này. Do đó nhất thiết cần phải nắm vững những tập quán của “lịch sử chính tranh lạnh mới” khi
xem xét lại thời kỳ đầu trong sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Theo quan điểm của John Lewis
Gaddis, có ba điểm cần nhấn mạnh [26]. Đầu tiên cần phải “thấy được đoạn sản phẩm cuả đời
sau không phản ánh giai đoạn lịch sử giai đoạn trước”. Chính vì vậy mà các nguồn tài liệu hiện
có về Hồ Chí Minh được chúng tôi xem xét cẩn thận kết hợp với sự nghiên cứu về mức độ kiến
thức, hiểu biết trực tiếp của tác giả nguồn tài liệu về các vấn đề đề cập trong tài liệu . Quan điểm
thứ hai của Gaddis là phải “ xem xét kỹ lưỡng tầm quan trọng của lý tưởng”. Điều đó buộc
chúng tôi phải đặt địa vị của mình vào để hiểu được những gì diễn ra trong suy nghĩ của những
người chiến đấu chống lại thực dân Pháp, và cố thấu hiểu sức mạnh của những lý tưởng Marxit‐
Leninit trong những năm 20 và 30 của thế kỷ trước. Để có được sự tôn trọng và duy trì được
quyền lực trong phong trào Quốc tế Cộng Sản, những nhà lãnh đạo cộng sản cần phải chứng tỏ
họ nắm vững những lý tưởng này như thế nào trước Quốc Tế III.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 25 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Quan điểm thứ ba của Gaddis là phải sử dụng nhiều nguồn tài liệu từ nhiều tàng thư, và chúng
tôi đã cố gắng đạt được điều này thông qua việc nghiên cứu các tài liệu về cuộc đời và sự nghiệp
của Hồ Chí Minh từ các tàng thư ở Nga và ở Pháp. Lẽ dĩ nhiên sẽ còn nhiều phát hiện thú vị
khác về các hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn này từ các tàng thư của Trung Quốc và
Việt Nam khi chúng được bạch hoá đối với các nhà nghiên cứu. Thậm chí ngay cả các tài liệu còn
chưa được bạch hoá ở Nga, Pháp, Anh, hay Mỹ sẽ có thể cung cấp thêm cho chúng ta những
hiểu biết mới về những năm tháng mà Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc. Mặc dù vậy hy vọng
rằng tài liệu này cho thấy được giá trị của nguồn tài liệu từ Quốc Tế III và cho thấy được sự ảnh
hưởng của những thay đổi trong chính sách diễn ra ở Nga lên các hoạt động của Hồ Chí Minh
trong giai đoạn này.
Chú thích cho chương 0
1. Thái độ này phần nào là do gán ghép về sự phản bội của Hồ Chí Minh đối với nhà lãnh đạo
theo chủ nghĩa dân tộc Phan Bội Châu năm 1925. Vấn đề này sẽ được bàn luận trong chương 3.
2. Tran Ngoc Danh, Tiểu Sử Hồ Chủ Tịch, Paris, chi hội Liên‐Việt tại Pháp, 1949, trang 6.
3. Trích trong Thai Quang Trung, Collective Leadership and Factionalism, Institute of South East
Asia Studies, Singapore, 1985, trang 20.
4. Nguyen Nghia, Công cuộc hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt nam và vai trò của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử, số tháng 2, năm 1964.
5. Judith Stowe, “Revisionism in Vietnam”, paper for AAS conference, Washington DC, 03/1998,
trích cuộc trò chuyện với Hoàng Minh Chính tháng 2 năm 1995, về việc Trường Chinh thú nhận
năm 1963 ông Hồ Chí Minh đã bị “vô hiệu hoá”.
6. Trường Chinh, Hồ Chủ Tịch: Lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và nhân dân Việt nam,
Nhà xuất bản sự thật, Hà nội, 1973, trang 66.
7. Xem ví dụ trong, Pierre Brocheux, Ho Chi Minh, Paris: Presses de Sciences Po, 2000, trang 55‐
71.
8. Jean Lacouture, Ho Chi Minh, Hamondsworth, Penguin, 1968, trang 33.
9. Branko Lazitch, A Biographical History of the Comintern, Standford, CA: Hoover Institution
Press, 1973, trang 378.
10. William J. Duiker, Ho Chi Minh: A Life, Hyperion, New York, 2000, trang 102.
11. Chales B. McLane, Soviet Strategies in South‐East Asia: An Exploration of Eastern Policy
under Lenin and Stalin, Princeton University Press, 1966, trang 137.
12. Chales Fenn, Ho Chi Minh, New York, Chales Scribner’s Sons, 1973, trang 59.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 26 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
13. Ton That Thien, Vérités et Mensonges: Le voyage clandestine de Ho Chi Minh en Russie en
1923 et sa disgrâce Au Komintern en 1933‐1939, in Ho Chi Minh: L’homme et son héritage, Paris:
La Voie Nouvelle, 1990, trang 51‐52.
14. Lacouture, sách đã dẫn trang 48.
15. William J. Duiker, The Communist Road to Power in Vietnam, Boulder, CO: West View
Press, 1996, trang 21‐23; Huynh Kim Khanh, Vietnamese Communism 1925‐1945, Ithaca, NY:
Cornell University Press, 1968, trang 168‐170.
16. A.Neuberg, Armed Insurrection, London: NLB, 1970, Dịch bởi Quentin Hoare từ bản tiếng
Đức năm 1928 và bản tiếng Pháp năm 1931.
17. Titerenko, Leunert et al., VKP, Komintern I Kitai (dokumenti), Vol III, 1927‐1931, phần 1),
Moscow Russien Center, 1999, trang 35.
18. Titarenko et al. Tài liệu đã dẫn, trang 572‐574, Letter from Berzin and Sudakov to Shifres.
19. Tran Dan Tien, Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch, NXB Chính trị
Quốc gia, 1994. Việc gán ghép tác giả bản xuất hiện năm 1949 cho Trần Ngọc Danh có gì đó
không rõ rang. Sự thực Trần Ngọc Danh đã bị trục xuất khỏi Đảng Cộng Sản Đông dương (ICP)
năm 1949, có thể sự gán ghép này nhằm làm dịu những thắc mắc bên trong Đảng về tác giả thật
của cuốn sách.
20. Yevgeny Kobelev, Ho Chi Minh, Moscow: Progress, 1989 dịch từ bản tiếng Nga năm 1983.
21. Hong Ha, Ho Chi Minh v Strane Sovietov (Hồ Chí Minh trên đất nước Sô Viết), Moscow
Polit. Literatury, 1986, dịch từ bản tiếng Việt, Hồ Chí Minh trên đất nước Lenin, Hanoi: NXB
Thanh niên, 1980.
22. Xem Nguyen The Anh, ‘How did Ho Chi Minh become a Proletarian? Reality and Legend’,
Asian Affairs, Vol. 16, Part II; Thu Trang Gaspa, Ho Chi Minh à Paris (1917‐1923), Paris:
L’Mahattan, 1992; and Daniel Hémery, ‘Jeunesse d’un colonisé, genèse d’un exil, etc.’, Approcies
Asie, no. 11, 1992.
23. Trong năm 2001, Tàng thư này được đổi tên thành “Tàng thư quốc gia Nga về lịch sử chính
trị xã hội”.
24. Người phụ nữ thứ nhất là “Tuyết Minh”, một cô gái sinh viên hộ lý người Quảng Châu,
người bắt đầu cuộc sống vợ chồng với Hồ Chí Minh từ tháng 10 năm 1926. Bà không được đề
cập đến trong chương 3 của cuốn sách này vì mối quan hệ đã chấm dứt ngay khi Hồ Chí Minh
trốn khỏi Trung Quốc năm 1927. (Xem AOM, SPCE 367, Renseignements fournis par
Lesquendieu au sujet de Tuyet Minh, femme chinoise, maitresse de Nguyen Ai Quoc, Hanoi,
28/10/1931). Người phụ nữ thứ 2 là Nguyễn Thị Minh Khai, có tầm quan trọng chính trị lớn hơn
người trước (xem chương 5,6, và 7).
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên
25. Các form khai báo hồ sơ nhân sự của ông có tại RC, 496 201/1. Năm sinh khả dĩ nhất của ông
là vào khoảng năm 1892 hoặc 1893 theo lời khai của chị ông (bà Thanh) với cảnh sát Pháp năm
1920 (SPCE 364 Note conf. 711, Hue, 7/05/1920). Còn theo nguồn chính thống của Hà Nội thì ông
sinh năm 1890.
26. John Lewis Gaddis, We know how: rethinking cold war history, Oxford Clarendon Press,
1997; đặc biệt chương cuối: “The New Cold War History”
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 28 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
CHƯƠNG 1: SỰ XUẤT HIỆN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC
1919: Con đường đến hội nghị hoà bình Paris
Mùa hè năm 1919, mật vụ Pháp bắt đầu liên tục gửi yêu cầu tới chính quyền bảo hộ tại Hà nội
yêu cầu cung cấp thông tin khẩn cấp [1]. Một nhà hoạt động chính trị bí ẩn mới xuất hiện ở Paris,
chỉ 4 năm sau khi nước Pháp bước vào cuộc chiến nặng nề (chiến tranh thế giới lần thứ nhất –
ND). Anh dường như có rất nhiều mối quan hệ với nhiều người trong cái cộng đồng người Việt
Nam tạp nham tại Pháp thời điểm đó – bao gồm cả trí thức, công nhân, và binh lính bị bắt sang
phục vụ mẫu quốc trong thời kỳ chiến tranh. Hầu như không có ai biết anh là ai và từ đâu đến,
một con người hoàn toàn bí ẩn. Tên của anh không có trong hồ sơ lưu trữ về cư trú từ Đông
Dương. Trong thời gian chờ đợi tin tức gửi từ phía Phòng Nhì tại Đông Dương, Bộ thuộc địa đã
phải gấp rút cử một nhân viên điều tra về con người bí ẩn này, một nhân vật mới xuất hiện trên
chính trường Paris.
Anh thường ký tên mình “Nguyễn Ái Quốc” (Nguyễn, người yêu nước) với vị trí là “đại diện
cho nhóm những người Việt nam yêu nước”. Anh hành xử với một phong thái thật tự nhiên,
mạnh dạn liên hệ trực tiếp với các nghị sỹ, các phái đoàn đến dự hội nghị hoà bình Paris và các
chủ báo. Thậm chí tháng 9 năm 1919 anh còn trực tiếp liên hệ với Albert Sarrault, toàn quyền
Pháp tại Đông Dương mới trở về nước sau khi hết hạn nhiệm kỳ [2]. Thông điệp mà anh mang
đến gây sốc đối với các nhà chức trách Pháp. Anh trực tiếp gửi thư thỉnh cầu với tựa đề “Yêu
sách của nhân dân An Nam” tới các đại biểu tham gia hội nghị hoà bình quốc tế tại Paris, một
diễn đàn chính trị mà ở đó 27 đoàn đại biểu họp để cùng nhau lập ra một trật tự thế giới mới sau
cuộc đại chiến lần thứ nhất. Mặc dù thực sự lúc đó ít có đại biểu nào ngoài những người Pháp
biết được Việt Nam nằm ở đâu trên bản đồ thế giới, nhưng cũng có một số đoàn đại biểu đã bỏ
thời gian để thông báo cho anh về việc họ đã nhận được thỉnh nguyện thư này. Đáng chú ý là lá
thư phúc đáp viết rất lịch sự và trang trọng của Đại tá House đại diện cho tổng thống Mỹ Wilson
gửi, cũng như một lá thư phúc đáp khác được gửi bởi của một nhà ngoại giao Nicaragoa [3]. Hội
nghị hoà bình đã thu hút được sự tham gia của nhiều nhà hoạt động chính trị trên thế giới, từ
Ireland đến Triều Tiên, tất cả đều bày tỏ mong muốn cho sự độc lập của quốc gia mình. Mặc dù
đứng trên quan điểm của người Pháp, chuyện đòi độc lập của Việt Nam tại thời điểm đó là
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 29 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
không tưởng, nhưng đối với những người Việt nam yêu nước, thì đó có thể là cơ hội để có sự
thay đổi. Các đế chế Nga và Phổ đã suy yếu, còn tổng thống Mỹ Wilson đã hứa sẽ chấm dứt tình
trạng ngoại giao trong bí mật, trong đó những nhà quý tộc hay chính trị gia trong hoàng gia hay
chính phủ các nước Châu Âu có thể tự quyết định từ xa số phận của hàng triệu người dân các
nước thuộc địa.
Bản yêu sách của người dân Việt Nam kêu gọi các cường quốc chiến thắng trong đại chiến thế
giới lần thứ nhất hãy giữ đúng lời hứa của họ về về một kỷ nguyên mới của “luật lệ và công
bằng” cho những người dân thuộc địa. Bản yêu sách này cũng xuất hiện trong một bài báo ngắn
trên trang 3 của tờ báo theo xu hướng dân chủ xã hội L’Humanité, ngày 18 tháng 6 năm 1919.
Một bản báo cáo với những đòi hỏi về dân chủ và nhân quyền rất vừa phải. Đó là những đòi hỏi
về:
1) Trả tự do cho tất cả những tù nhân chính trị trong nước.
2) Cải tổ lại hệ thống pháp luật để người dân Đông Dương được bình đẳng trước Pháp luật
như đối với người Châu Âu.
3) Tự do ngôn luận và tự do báo chí.
4) Tự do lập hội.
5) Tự do di cư và ra nước ngoài cư trú.
6) Tự do mở các trường dạy kỹ thuật và dạy nghề tại các tỉnh giành cho dân bản xứ.
7) Thay thế luật cai trị bằng pháp trị.
8) Đề nghị có dân biểu do dân Việt Nam bầu ra trong nghị viện Pháp để có thể nói lên
những nguyện vọng và mong muốn của nhân dân bản xứ.
Bản yêu sách này được ký: “Đại diện cho nhóm người Việt yêu nước, Nguyễn Ái Quốc”.
Tuy nhiên vào thời điểm đó giới cầm quyền tại Pháp không hề có ý định buông lỏng quyền lực
kiểm soát thuộc địa cũng như mạng sống của người dân thuộc địa tại bất cứ đâu cho dù đó là
người Algeria, Campuchia hay Việt Nam. Nước Pháp vừa bước ra khỏi một cuộc chiến mà miền
bắc của họ đã bị tàn phá nặng nề, mà tài nguyên ở các nước thuộc địa có vai trò rất quan trọng
đối với việc phát triển và khôi phục kinh tế Pháp sau chiến tranh. Vậy nên chính quyền Pháp
cảm thấy sốc trước sự xuất hiện và bản yêu sách của một người dân thuộc địa, bất ngờ xuất hiện
trong cuộc họp của những người chiến thắng, và lẽ tự nhiên chính phủ Pháp không đáp ứng lại
bản yêu sách này mà xem nó như một hành động đòi lật đổ chính quyền thuộc địa. Họ công khai
trên phương tiện truyền thông nhà nước xem bản yêu sách kia là một sự ʺbáng bổʺ [4]. Trong hồ
sơ hải ngoại Pháp (French Oversea Archives), nhiều tài liệu cho thấy chính quyền Pháp đã gần
như ngay lập tức tìm cách phát hiện ra nơi cư trú của Nguyễn Ái Quốc và cử người theo dõi anh
suốt thời gian ở Paris năm 1919 và cả sau này cho đến năm 1923. Đáp lại chiến dịch kêu gọi nhân
quyền cho người Việt tháng 6 năm 1919, bộ phận quản lý binh lính người Việt tại Pháp thành lập
bộ phận Service de Renseignerment (SR) dưới sự chỉ huy của Pierre Arnoux [5]. Chỉ điểm của SR
trà trộn vào nhóm bạn bè người quen của Nguyễn Ái Quốc, ghi lại và báo cáo về các buổi nói
chuyện của anh [6]. Họ thu thập các bài báo, thư từ mà anh định gửi về Việt Nam, việc làm của
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 30 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
họ như thể cho anh thấy rằng cách thức duy nhất có thể chống lại chính quyền bảo hộ là hoạt
động bí mật.
Vào mùa thu năm 1919, thông tin tình báo thu thập được đã cho phép chính quyền Pháp xây
dựng được bức chân dung ban đầu về người Việt bí ẩn kia:
“Nguyễn Ái Quốc tự nhận mình sinh ra ở Nam Đàn, Nghệ An, hiện đang ở cùng Phan Văn
Trường, dường như đã học ở Anh và sống ở đó khoảng 10 năm, điều hành một nhóm người Việt
yêu nước không được thừa nhận, dường như anh ta đã thay thế Phan Chu Trinh và Phan Văn
Trường trong vai trò này. Hãy cho biết những thông tin mà các ngài cần biết, cần thu thập về con
người này” [7].
Một chỉ điểm người Việt khác có bí danh là “Edouard” cung cấp thông tin tên thật của Quốc là
Nguyễn Văn Thành, gần đúng so với tên mà cha của Quốc gọi anh lúc trưởng thành Nguyễn Tất
Thành (Nguyễn ‐ người sẽ thành công). Phần lớn những thông tin còn lại cung cấp bởi Edouard
đều sai lệch (có lẽ là do chính Quốc cung cấp) trong đó cho biết Quốc quê ở Đà Nẵng và hiện
đang sống nhờ vào tiền trợ cấp từ gia đình khá giả của anh [8]. Đến tháng 12 năm 1919, mật vụ
Pháp đã thường xuyên qua lại và theo dõi mọi hành động tại số 6 Villa des Goblins. Đó là một
khu nhà yên tĩnh nằm trong một ngõ cụt ở phía đông nam Paris, nơi có một anh thanh niên tự
xưng là Quốc ở cùng với luật sư Phan Văn Trường và nhà sĩ phu bị lưu đầy Phan Chu Trinh.
Đối với những người Việt yêu nước chống đế quốc, hai trí thức họ Phan là những người nổi
tiếng đáng kính trọng, thậm chí đối với Phan Chu Trinh là sự tôn thờ. Phan Văn Trường từng bị
bắt vào thời kỳ đầu xảy ra chiến tranh năm 1914 vì bị buộc tội là đã hỗ trợ và hợp tác với phòng
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 31 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
trào đấu tranh khởi nghĩa chống lại thực dân Pháp tại Đông Dương. Phan Chu Trinh cũng bị
nghi ngờ là đã tham dự vào các kế hoạch nổi loạn ở Đông Dương nói trên và đã liên lạc với
người Đức. Chính vì lý do đó mà Phan Chu Trinh từng bị câu lưu tại nhà tù Cherche‐Midi tại
trung tâm Paris. Mặc dù vậy những lời buộc tội hai nhà trí thức này đã bị dỡ bỏ chỉ sau 1 năm
khi nhân chứng chính yếu người Việt bị tâm thần và không thể làm chứng trước toà [9]. Thế
nhưng chính quyền Pháp vẫn nghi rằng họ có tội [10]. Đối với Phan Văn Trường, sự nghi ngờ
này có thể xuất phát từ truyền thống phản kháng nổi loạn của gia đình ông. Hai người anh em
của ông đã bị kết tội lưu đầy và lao động khổ sai vì đã tham gia vụ đánh bom làm chết hai sỹ
quan chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Kỳ (một trong rất nhiều vụ đánh bom được thực hiện bởi
những người theo Phan Bội Châu, lúc bấy giờ đang lưu vong ở nước ngoài). Chuyến đi năm
1913 của Phan Văn Trường sang Anh để gặp Joseph Thanh, một phái viên của hoàng tử Cường
Để, càng làm tăng sự nghi ngờ này [11]. Phía Pháp cũng rất ngại sự hiểu biết và thông tuệ của
Phan Văn Trường, một người được đào tạo làm phiên dịch tại Hà Nội, nhờ những năm tháng
học luật tại Paris đã trở thành người có khả năng tranh luận chính trị hết sức sắc sảo và nhạy
bén.
Bản thân Phan Chu Trinh đến Pháp năm 1911 sau khi được ân xá khỏi nhà tù vì đã tham gia vào
việc ủng hộ và khuyến khích phong trào đấu tranh đòi giảm sưu thuế của nông dân trung kỳ
năm 1908. Trong năm đầu ở Paris, công việc chủ yếu của Phan Chu Trinh là đấu tranh nhằm
buộc chính phủ thuộc địa Pháp phải trả lại tự do cho các đồng chí của mình. Bài viết “Toàn cảnh
cuộc nổi dậy của nông dân trung kỳ” lên án sự đàn áp nặng nề của thực dân Pháp đối với những
người nông dân tham gia đấu tranh đòi giảm sưu thuế đã được dịch sang tiếng pháp bởi Jules
Roux (một nhà hoạt động xã hội theo hướng dân chủ xã hội, người đã can thiệp và đại diện cho
Phan Chu Trinh lúc ông bị bắt vào tù) [12]. Chính phủ Pháp lo sợ ảnh hưởng của Phan Chu
Trinh tới các sinh viên Việt Nam tại Paris thời trước chiến tranh và cố gắng cô lập ông khỏi
những nhà hoạt động cách mạng người Á khác đang tập hợp tại khu phố Latin [13].
Mặc dù vậy những cố gắng của chính quyền Pháp không mang lại thành công nào. Năm 1912, Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường đã thiết lập được một câu lạc bộ người Việt thường tụ tập nhau tại
các quán Cafe hay quán ăn Tầu tại Montparnasse, nơi họ không chỉ nói những chuyện thông
thường của cuộc sống tha hương, Trinh luôn cho rằng mình không dính dáng gì đến các âm
mưu chống lại thực dân Pháp của Phan Bội Châu và hoàng tử Cường Để. Để chứng minh sự
trong sạch của mình thậm chí Trinh còn gửi cho bộ thuộc địa một lá thư của hoàng tử Cường Để
gửi cho ông năm 1913 [14]. Những lời chứng chống lại ông có thể là do chính quyền quân sự
thêu dệt nên. Nhưng chính người phiên dịch cho ông vào năm 1915 đã khai rằng “Phan Chu
Trinh nhận tiền trực tiếp từ Đức của chính phủ Đức thông qua hai phái viên của hoàng tử
Cường Để là Trương Duy Toàn và Đỗ Văn Ý” [15].
Người chỉ điểm cũng cho biết trong trườnghợp xảy ra nổi loạn tại Việt nam chính phủ Đức hứa sẽ cấp thêm tiền thông qua người của họ ởTrung Quốc. Quan điểm xem Phan Chu Trinh là một người vận động bằng lời nói và bài viếthơn là người tham gia tổ chức các kế hoạch nổi dậy trên có lẽ là quan điểm gần với sự thật nhất.Người cầm đầu nhóm điều hành Đông dương (mà Phan Chu Trinh là một thành viên) đã viết
như sau lên cấp trên của mình: ”Nếu có một người sinh viên hay học sinh trẻ tuổi người Đông
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 32 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Dương, thì đối với anh ta Phan Chu Trinh là người chỉ biết dùng lời nói để đấu tranh chứ không
phải là hành động, nhất là khi nếu người sinh viên hay học sinh trẻ tuổi này có mối liên hệ với
những người Trung Quốc, Nhật... Ấn Độ, những kẻ tín đồ của các phương thức đấu tranh cực
đoan hơn” [16].
Việc Phan Văn Trường và Phan Chu Trinh tham dự vào những chuyện nổi dậy ở quê nhà như
thế nào vẫn còn là điều chưa rõ ràng. Bằng chứng tố cáo họ cuối cùng không có sức thuyết phục
vì kẻ chỉ điểm đã mắc bệnh và bị câm. Sau khi được thả khỏi tù năm 1915, trợ cấp chính phủ cho
Phan Chu Trinh bị cắt và ông buộc phải tự kiếm sống bằng nghề in tráng ảnh. Sự quấy rối
thường xuyên của cảnh sát Pháp làm ông không mấy tin tưởng nữa vào tầng lớp lãnh đạo của
mẫu quốc [17]. Phan Văn Trường thì bị bắt buộc làm việc cho quân đội với tư cách là một thông
dịch viên tại kho vũ khí Toulouse và sau khi được giải ngũ năm 1918, ông bắt đầu hành nghề
luật sư. Cho đến những năm cuối của cuộc chiến hai người đã thành lập nên một nhóm người
Việt mới có tên là “Hội người Việt yêu nước”.
Quan hệ của Nguyễn Ái Quốc đối với hai sỹ phu họ Phan là không rõ ràng dưới con mắt của
những người ngoài cuộc. Người thanh niên với cái tên này chỉ đáng tuổi con của Phan Chu
Trinh và chưa cho thấy chút phẩm chất học giả nào. So với Phan Văn Trường, anh chỉ như một
người dân quê lên tỉnh. Do sự khác biệt như vậy nên sau này nhiều người sau này đã cho rằng
thực chất Quốc chỉ là người đưa tin, mang thông điệp và đại diện cho hai nhà hoạt động chính
trị nổi tiếng hơn kia mà thôi. Nhà trí thức theo phái Trostkit Hồ Hữu Tường trong hồi ký của
mình đã viết rằng, mọi ý tưởng của nhóm là do Phan Chu Trinh đưa ra, sau đó Phan Văn
Trường và những người khác dịch sang tiếng Pháp, còn Quốc mang các bài viết đến các toà soạn
báo. Mặc dù ông Tường không có liên hệ trực tiếp nào với nhóm trên [18], nhưng trong hồ sơ
của phòng nhì Pháp cũng cho thấy một chỉ điểm người Việt có bí danh là “Chỉ điểm Jean” cũng
có cùng kết luận như vậy trong một báo cáo của mình lên thanh tra Arnoux vào năm 1919. “Chỉ
điểm Jean” báo cáo Arnoux rằng Quốc “chẳng qua chỉ là kẻ cầm đầu bù nhìn thông minh được
ngụy trang bằng những sự bí ẩn nhằm làm tăng vẻ khả kính. Nguyên nhân là hiện Phan Chu
Trinh và Phan Văn Trường đang bị theo dõi bởi pháp luật nên Quốc bây giờ được đóng vai lãnh
đạo” [19].
Phần lớn những bản báo cáo của cảnh sát Pháp thì lại nhìn nhận anh Quốc bí ẩn như là một
người có tri thức và kinh nghiệm xã hội bên cạnh hai họ Phan chứ không phải là một chú bé
ngây ngô. Vào cuối năm 1919, Chỉ huy quân đội Đông dương tại Pháp, Pierre Guesde, lại tin
rằng Quốc thực sự là một nhà hoạt đống chính trị. Những bản báo cáo mà tướng Guesde có
được từ những chỉ điểm của ông ta cho thấy Quốc là một người tích cực đấu tranh cho quyền
con người ở Việt nam, một nhà hoạt động chính trị với tâm huyết bù vào khiếm khuyết vì không
được học hành đào tạo bài bản. Các bản báo cáo cho thấy Quốc thường xuyên liên hệ với các đại
biểu theo chủ nghĩa dân tộc đến dự hội nghị hoà bình từ Ireland, Trung Quốc, và Triều Tiên. Các
bản ghi báo cáo về những cuộc nói chuyện của Quốc với bạn bè trong hội người Việt cho thấy
anh nhận thức được rất rõ những vấn đề mà dân tộc anh đang phải hứng chịu và nhận thức này
chịu sự ảnh hưởng sâu sắc các quan điểm của Phan Chu Trinh. Lấy ví dụ vào tháng 12, chỉ điểm
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 33 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
viên người Việt “Edouard”, có lẽ là một viên chức người Việt trong bộ thuộc địa đã gửi một bản
tường trình dài 11 trang về một buổi tối tại số 6 Villa des Gobelins. Phần đầu của bản báo cáo nói
về cuộc nói chuyện với Nguyễn Ái Quốc về vấn chuyện toàn quyền Đông Dương mới trở về
nước sau khi hết hạn nhiệm kỳ, Albert Sarraut, người sau này trở thành bộ trưởng bộ thuộc địa,
và những kế hoạch cải tổ của ông ta.
Edouard viết “Quốc gần như hoàn toàn tán đồng với các chính sách ở Đông Dương của toàn
quyền Sarraut đặc biệt là việc thiết lập một hệ thống giáo dục kiểu Pháp và xây dựng hệ thống
đường xe lửa giúp khai thác các khu rừng ở An Nam và Lào”. Anh ta viết tiếp những nhận định
theo lời của Quốc:
“Quốc nói ngài Albert Sarraut đã cho xây dựng một đại học và một trường trung học ở Hà nội,
điều đó tốt nhưng mới chỉ là sự khởi đầu. Với 20 triệu dân ở Đông Dương chúng ta cần không
phải là 1 trường trung học mà là 20 thậm chí 30 trường trung học. Người dân cần phải được giáo
dục bắt buộc, bởi vì chính họ tạo nên đông đảo tầng lớp quần chúng chứ không phải giới thượng
lưu của xã hội ... nhiều người cứ vin cớ thiếu tiền bạc để giải thích về vấn đề phát triển giáo dục ở
Đông Dương và họ sẽ còn sử dụng lý do này để chống lại toán quyền kế nhiệm tiếp tục công việc
mà ngài Albert Sarraut đã bắt đầu“ [20]
Khi Phan Chu Trinh đến và tham dự vào cuộc nói chuyện thì ông và Edouard tiếp tục bàn luận
về chính sách tương lai và những yêu sách người dân thuộc địa có thể đòi hỏi từ toàn quyền
mới, Maurice Long. Nguyễn Ái Quốc xen ngang và cho rằng người dân thuộc địa lại sẽ chẳng
bao giờ được gì nếu chỉ bằng cách đưa yêu sách và chờ sự nhân nhượng của thực dân Pháp,
Quốc nói: “Tại sao 20 triệu đồng bào chúng ta lại không thể làm gì để buộc cho chính quyền thực
dân phải trao trả lại nhân quyền? chúng ta đều là người cả vậy phải được đối xử bình đẳng?
những kẻ không chịu đối xử bình đẳng với ta thì phải coi chúng là kẻ thù“. Phan Chu Trinh quay
ra quở lại Quốc vì sự bộp chộp: “Thế anh muốn đồng bào của chúng ta không tấc sắt trong tay
đối đầu lại với người Tây phương với vũ khí tối tân ư?“ ông hỏi tiếp “Tại sao cứ phải đẩy người
dân chết một cách vô nghĩa mà chẳng thu được kết quả nào?“ [22]. Quan điểm đấu tranh bất bạo
lực của Phan Chu Trinh rõ ràng đối nghịch với quan điểm bạo động của Phan Bội Châu, mà sau
này Quốc đã tiếp thu, cũng như anh tiếp thu quan điểm của bậc tiền bối của mình về việc phát
triển kinh tế và giáo dục. Nhưng anh nhanh chóng rời bỏ quan điểm của Phan Chu Trinh về
phương pháp yêu sách đòi nhân quyền trong hoà bình một cách “nhẹ nhàng, từ bước, và bền bỉ“
[23].
Để có một bức tranh hoàn chỉnh và khách quan về con người mà sau này là Hồ Chí Minh tại thời
điểm mới đến Paris, theo quan điểm của chúng tôi, chúng ta cần phải bắt đầu với các tài liệu và
bằng chứng cung cấp bởi Phòng Nhì Pháp. Sau đó lần ngược trở lại những năm tháng trước từ
khi anh rời Việt nam năm 1911 đến khi anh xuất hiện dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc. Sau khi cân
nhắc các bằng chứng, chúng tôi cho rằng cho tới thời điểm năm 1919, ông Hồ đã là một nhà hoạt
động chính trị có kinh nghiệm, và ông đã hoạt động tích cực trong khoảng thời gian đó chuẩn bị
cho vai trò của mình sau này trong công cuộc giải phóng dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của thực
dân Pháp. Mặc dù rõ ràng, Phan Văn Trường là tác giả của bản tiếng Pháp bản yêu sách của
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 34 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
nhân dân An Nam gửi tới hội nghị hoà bình tại Paris, và là tác giả của phần lớn các bài báo ký
tên Nguyễn Ái Quốc vào năm 1919 đó, thì Hồ có lẽ cũng là một nhân tố tích cực trong việc thúc
đẩy phong trào đòi nhân quyền cho nhân dân Đông Dương vào thời điểm tháng 6 đó tại Paris.
Thực tế đó cũng là lời giải thích trong cuốn tự truyện của Hồ (lấy tên là Trần Dân Tiên –ND): tác
giả nói chính ông là người đưa ra các ý tưởng cho bản yêu sách, nhưng Phan Văn Trường là
người soạn bằng tiếng Pháp, bởi bản thân Hồ tại thời điểm đó không có khả năng viết tiếng
Pháp một cách trôi trảy [24]. Người thanh niên trẻ tự xưng là Nguyễn Ái Quốc đã chứng tỏ các
kỹ năng tổ chức chính trị đối với cộng đồng người Việt vượt lên trên cả chuyện viết tuyên ngôn
hay thư ngỏ.
Một trong những đầu mối của cho việc chứng minh kinh nghiệm chính trị của Hồ trước năm
1919 chính là việc anh đã từng có những liên hệ với đoàn Triều Tiên ở hội nghị hoà bình Paris.
Chỉ điểm “Jean“ báo cáo rằng Quốc đã học được rất nhiều ý tưởng từ phong trào đòi độc lập của
Triều Tiên[25]. Hội dân tộc Triều Tiên hoạt động ở Mỹ đã bắt đầu chiến dịch đấu tranh đòi độc
lập từ Nhật bản gần như ngay khi tổng thống Mỹ Woodrow Wilson ra bản tuyên bố 14 điểm vào
tháng giêng năm 1918. Lời kêu gọi trao trả độc lập cho họ từ Nhật bản được đưa ra vào ngày 12
tháng 5 năm 1919, chỉ khoảng một tháng trước khi bản yêu sách của nhân dân An Nam xuất hiện
tại Paris. Một tờ báo Trung Quốc in ở Tianjin, tờ Yishibao, ra ngày 18 và 20 tháng 9 năm 1919
đăng bài phỏng vấn Nguyễn Ái Quốc tại Paris, giải thích rằng Quốc đã trao đổi kinh nghiệm và
ý tưởng với đoàn Triều Tiên trong một chuyến anh sang thăm nước Mỹ [26]. Tác giả của bài báo,
có lẽ là một Người Hoa hay Triều Tiên sống tại Mỹ mô tả Quốc như một đại diện của Việt Nam
No comments:
Post a Comment