CHƯƠNG 4: TỪ CON ĐƯỜNG CŨ ĐẾN HÀNH TRÌNH MỚI
(1927‐9)
Những di chuyển của Hồ Chí Minh
Khi Hồ Chí Minh trốn khỏi Quảng Châu vào tháng 4 / 1927, ông qua Thượng Hải và Vladivostok
để đến Moscow. Tại Moscow, như ta đã thấy, ông đã tìm kiếm hậu thuẫn để đến cơ sở mới tại
Xiêm nhằm tiếp tục công việc mà ông đã bắt đầu tại Quảng Châu. Một phần của mùa hè năm ấy
ông phải nằm viện ở Crimean để điều trị bệnh lao. Tháng 9 / 1927 QTCS soạn thảo chỉ thị cho
những công tác tương lai của ông và gửi ông đi Paris vào tháng 11 để phối hợp chương trình của
ông với Uỷ Ban Thuộc Địa thuộc ĐCS Pháp [1]. Mặc dù giờ đây ĐCS Pháp có trách nhiệm nuôi
dưỡng phong trào cộng sản tại Đông Dương nhưng trên thực tế thì các đảng viên ĐCS Pháp hoạt
động dưới sự giám sát nghiêm ngặt của Moscow.
Mặc dù QTCS đã không còn ảo tưởng về Quốc Dân Đảng, những chỉ thị để Hồ đem đến Paris
vẫn phản ánh chiến lược mặt trận thống nhất với các lực lượng quốc gia. Bản chỉ thị dài hai trang
(đề ngày 12 tháng 9 / 1927) chỉ định ʺAKʺ (Ai Kvak, theo cách phát âm của Nga) phải giúp kích
hoạt ʺnhững nhà cách mạng dân tộc trong số những người Đông Dương lưu vong (trước tiên tại
Paris rồi toàn nước Pháp) bằng cách thiết lập một đội ngũ cộng sản cốt cán trong những phần tử
này... ʺ Rồi ông phải thành lập những liên hệ với Đông Dương với mục đích chuyển giao những
hoạt động cách mạng vào quốc nội. Trong lúc ấy, nhằm hợp tác với ĐCS Pháp, ông được chỉ thị
soạn thảo một cương lĩnh hành động cho phong trào cách mạng dân tộc tại Đông Dương. Sau tài
liệu này được thông qua bởi Ban Chấp Hành QTCS, ông sẽ phát hành nó ở Đông Dương và
ʺnghiên cứu khả năng để tăng cường những hoạt động cách mạng tại quốc gia lân cận như
Xiêmʺ [2]. Đông Dương Cộng Sản Đảng ʺcần bắt đầu vận hành trong một tương lai gầnʺ và sẽ
dựa vào ʺnhững tổ chức cách mạng dân tộc cành nhiều càng tốt với điều kiện những người thiên
tả trong các tổ chức này giữ được quyền tự do phê phán tuyệt đối.ʺ Khẩu hiệu chính trị cơ bản
của phong trào cách mạng được định nghĩa như sau: (1) độc lập; (2) đánh đuổi các lực lượng
chiếm đóng; và (3) triệu tập Uỷ Ban Lập Pháp và tạo ra chính quyền cách mạng dân chủ, bảo
đảm việc phân phát toàn bộ đất đai cho nông dân, dùng chính sách thống nhất các giai cấp để
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 106 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
ủng hộ quyền lợi của người lao động, cương quyết bảo vệ nền độc lập của nước nhà chống lại
mọi tấn công của đế quốc tham tàn.ʺ Điểm cuối cùng của chỉ thị ra ngày 12 tháng 9 lưu ý rằng
QTCS sẽ theo đuổi nỗ lực tạo dựng những liên lạc với Đông Dương qua ngõ Trung Quốc [3].
Vì một số lý do Hồ đã không thực hiện hết những chỉ thị của QTCS tại Pháp, ông báo cáo lại với
Moscow. Chiến dịch ruồng bố những hoạt động cộng sản tại Paris đã xảy ra cùng lúc với khủng
hoảng chính trị trong nội bộ ĐCS Pháp, có lẽ việc này có liên quan đến phong trào thanh trừng
các phần tử Trotskyist đang xảy ra tại Liên Bang Sô Viết để hướng tới Đại Hội Đảng 15 vào
tháng 12. Cùng thời gian ấy Jacques Doriot, người bảo trợ của Hồ tại Uỷ Ban Thuộc Địa của ĐCS
Pháp, đã bị bắt giam tại Pháp. Hồ viết rằng những thành viên còn lại của Uỷ Ban đã tránh những
tiếp xúc riêng với ông. Ý ông muốn nói đến trong báo cáo là việc ʺthiếu linh độngʺ trong hoạt
động của Uỷ Ban có thể đã làm nó tê liệt về mặt chính trị. ʺTrong suốt một tháng rưỡi có mặt tại
Paris,ʺ ông giải thích, ʺtrong khi Đồng Chí Doriot đang ở tù, tôi đã không có được bất kỳ một cơ
hội nào để thảo luận một cách nghiêm túc với các đồng chí khác. Đã vài lần tôi đã đề nghị những
địa chỉ chính xác để có thể liên lạc với họ khi tôi quay lại phương Đông, nhưng đồng chí có trách
nhiệm đã không cho tôi biếtʺ [4], Hồ đã không đề cập đến những liên lạc giữa ông và những
người Việt khác tại Paris, nhưng chúng ta tự hỏi là không biết ông có tìm cách gặp lại Nguyễn
Thế Truyền không. Ít nhất là cho đến năm 1926, Truyền vẫn là đầu mối tiếp xúc chính giữa
những người Việt cánh tả tại Paris và Uỷ Ban Thuộc Địa của ĐCS Pháp. Chính ông là người đã
sắp xếp để gửi những người Việt Nam, trong đó có một số họ hàng của mình, đi Moscow học
tập[5]. Vào đầu năm 1927, sau sự sụp đổ của Công Đoàn Thuộc Địa vào năm 1926, Truyền đã
thành lập một tổ chức mới mang tên An Nam Độc Lập Đảng [6]. Việc ra đời của đảng dân tộc
vào năm 1927 thì thường được xem như là bước khởi đầu cho việc phân chia giữa những người
Việt quốc gia và thân cộng sản. Nhưng hiện tại đã có những bằng chứng rằng Truyền đã đi theo
một chính sách dành cho các nước thuộc địa được QTCS chấp nhận, có thể nó được thực sự củng
cố trong thời gian Bukharin còn nắm quyền trong Ban Chấp Hành QTCS. Chỉ thị của Jaques
Doriot nhằm biến Thanh Niên trở thành một đảng quốc gia đại chúng là một ví dụ cho chính
sách này; Chỉ thị tháng 9 của Hồ Chí Minh cũng là một dấu hiệu của việc các nhóm cộng sản
thuộc địa được phép tồn tại bên trong những đảng cách mạng quốc gia. Ngay cả đến mùa đông
năm 1929, những thành viên của Uỷ Ban Thuộc Địa thuộc ĐCS Pháp vẫn còn tiếp tục thi hành
chính sách này tại Algeria bằng cách tạo dựng một đảng dân tộc Algeria tên Ngôi Sao Bắc Phi
(LʹÉtoile Nord‐africanine ‐ ND) [7].
An Nam Độc Lập Đảng có liên hệ mật thiết với chi nhánh ở Pháp do QTCS lãnh đạo mang tên
Liên Đoàn Phản Đế. Nhóm này đã tổ chức đại hội đầu tiên vào tháng 2 / 1927. Trong một bản
báo cáo của Uỷ Ban Thuộc Địa thuộc ĐCS Pháp gửi cho QTCS vào tháng 3 / 1927, tác giả báo cáo
có nhắc đến việc An Nam Độc Lập Đảng đang tạo dựng các chi bộ tại miền nam nước Pháp và
dự định tổ chức đại hội vào mùa hè. ʺChúng tôi sẽ tham gia vào các cuộc họp của nhóm này tại
Paris nhằm giúp đỡ những hoạt động của họ một cách thực tế hơn,ʺ bản báo cáo viết [8]. Truyền,
cùng với hai nhà hoạt động khác từ Việt Nam là nhà báo Trịnh Hưng Ngẫu thuộc đảng Jeune
Annam và Dương Văn Giáo thuộc đảng Lập Hiến ‐ đã tiến hành một cuộc hành trình diễn thuyết
bằng tiếng Pháp vào tháng 10, trong đó họ kịch liệt lên án chính sách và thể chế của Pháp. Sở
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 107 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Liêm Phóng cho rằng những cuộc hội họp trên được tổ chức với sự đồng loã của ĐCS Pháp [9].
Nhưng cũng như Hồ, có lẽ Truyền cũng thấy được rằng làm việc với ĐCS Pháp trở nên khó
khăn hơn nhiều sau khi Doriot bị bắt. Truyền trở về Việt Nam vào tháng 12. Đến mùa hè 1928
chính sách của QTCS về hoạt động của các nước thuộc địa càng trở nên phức tạp, nhưng mãi cho
đến giữa năm 1929 QTCS mới dứt khoát thay đổi quan điểm của mình trong việc hợp tác với
những người quốc gia phi cộng sản tại các nước thuộc địa.
Vào tháng 12 1927 Hồ chuyển từ Paris đến Brussels để tham dự một hội nghị, ông cho biết.
Nhưng đó không phải, khác với mọi người thường viết, là Đại Hội lần 1 của Liên Đoàn Phản Đế
vì nó đã xảy ra vào tháng 2 trước [10]. Có thể là ông đã tham dự một cuộc họp nội bộ của Ban
Chấp Hành Liên Đoàn được tổ chức vào ngày 9 tháng 12 ở Brussels [11]. Từ trung tuần tháng 12
đến tháng 5 1928 ông ở tại Berlin để chờ đợi tiền và chỉ thị từ QTCS cho chuyến trở về châu Á
của mình. Ông nhận 18 đồng Mark (mệnh giá tiền Đức ‐ ND) mỗi tuần từ tổ chức Trợ Giúp Đỏ
(Red Aid, tổ chức cứu trợ của QTCS ‐ tương tự như Hội Chữ Thập Đỏ ‐ ND) để trang trải chi phí
thường nhật nhưng không đủ để sống qua ngày, ông nói [12]. Trong thời gian bị bắt buộc ở đây,
ông đã viết hồi ký về phong trào nông dân Quảng Châu, trong đó miêu tả Bành Bái như một vị
anh hùng. Bài viết dài 120 trang, không mang tính chính trị và thống kê, chỉ quan tâm đến cuộc
sống nông dân, ông giải thích. Nông Dân Quốc Tế đã từ chối nhận trách nhiệm hiệu đính cần
thiết để xuất bản, nhưng một số tài liệu của Hồ đã lọt ra và được xuất bản [13]. Việc ông đã có
những tiếp xúc nào với cộng đồng người Hoa tại Berlin thì không được rõ. Nhưng không có gì
ngạc nhiên nếu ông đã trao đổi quan điểm với những người có liên hệ với Liên Đoàn Phản Đế
vốn đã có cơ sở tại Berlin. Vợ của Tôn Dật Tiên là Tống Khánh Linh (Song Qing Ling ‐ ND) đã
đến Berlin vào cuối năm 1927 và dường như đã ở đấy cho đến cuối năm 1928 để thành lập một
ʺĐệ Tam Đảngʺ cho Trung Quốc [14]. Trong lá thư đề ngày 21 tháng 5 gửi cho Moscow, Hồ
thông báo cho các đầu mối rằng ông sẽ liên lạc với họ qua Comade Chutto, một người Ấn làm
việc trong Liên Đoàn Phản Đế [15]. Vì thế có vẻ Liên Đoàn đã là một đầu mối tiếp xúc quan
trọng của ông tại Berlin.
Trong mùa đông ấy, QTCS đang bận tâm với những vấn đề còn quan trọng hơn là về Hồ Chí
Minh và chương trình di chuyển của ông. Leon Trotsky và 148 thành viên của nhóm Đối Lập của
ông đã bị trục xuất ra khỏi Moscow vào cuối tháng Giêng, sau Đại Hội thứ 15 của ĐCS Liên Xô.
Trong trọn tháng 2 QTCS đang bận rộn với Hội Nghị Toàn Thể lần 9 của Ban Chấp Hành. Sau
khi ra tù, trên đường tham dự Hội Nghị Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS, Jaques Doriot ghé qua
Berlin và đã hứa sẽ giải quyết ʺtrở ngạiʺ của Hồ. Nhưng mãi cho đến trung tuần tháng 4 Hồ vẫn
không nhận được tin tức gì từ Moscow lẫn Doriot [16]. Nông Dân Quốc Tế cũng chẳng giúp
được gì. Hồ đã yêu cầu họ giúp cho 500 Đô‐la và một ʺkế hoạch tổ chức thiết thực để tôi có thể
hoạt động một cách hữu ích” [17] Dombal không những từ chối cung cấp ngân quĩ mà còn nói
rằng ông biết quá ít về tình hình nông dân ở Đông Dương để đưa ra một kế hoạch tổ chức chắn
chắn. Ông khuyên Hồ nên dùng kinh nhiệm của mình về phong trào nông dân Trung Quốc để
bắt đầu những bước căn bản để xây dựng những liên hiệp nông dân [18]. Vào ngày 12 tháng 4
Hồ viết thư cho Jules Humbert‐Droz, một người cộng sản gốc Thụy Sĩ trong Ban Bí Thư QTCS,
ban này chịu trách nhiệm về những vấn đề của những thuộc địa Pháp. Thư nói ʺđồng chí có thể
\Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 108 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
mường tượng được tình trạng thể xác cũng như tinh thần của tôi lúc này: biết được còn rất nhiều
việc phải làm nhưng lại không làm được gì cả, lo nghĩ, thiếu tiền, sống ngày qua ngày trong tình
trạng bị ép buộc phải bất động, vân vânʺ [19]. Cuối cùng Humbert‐Droz đã bảo Hồ (bằng 2 mẫu
ghi chú ngắn đề ngày 28 tháng 4) rằng quyết định về việc chi trả cho chuyến đi và ba tháng đầu
làm việc đã được chấp nhận: ʺSố tiền chúng tôi gửi trong tương lai sẽ tuỳ thuộc vào tin tức từ
đồng chí. Tôi nghĩ tốt hơn là đồng chí nên tìm cách tự lực cánh sinh hơn là chờ đợi giúp đỡʺ[20].
Trong sự tiễn đưa thờ ơ ấy, Hồ Chí Minh đã quay lại châu Á vào cuối tháng 5, từ Thụy Sĩ sang Ý,
và từ đó đi đường thuỷ đến Băng Cốc. Lúc ấy chắc hẳn ông đã biết được việc đàn áp phái Đối
Lập Trotsky do Stalin khởi xướng bên trong ĐCS Liên Xô cũng như những khuynh hướng khác
chống lại chính sách của Stalin bên trong QTCS. Ta có thể giả định rằng ông cũng đã được đọc
những tài liệu của Đại Hội Toàn Thể thứ 9 Ban Chấp Hành QTCS được tổ chức vào tháng 2 1928,
trong đó có một số nghị quyết về Trung Quốc. Những nghị quyết này đã nói rõ người Nga nghĩ
rằng đã đến lúc các đồng chí Trung Quốc nên cẩn trọng hơn, nên dừng lại sau cố gắng khởi
nghĩa đầy liều lĩnh vào cuối năm 1927 (dĩ nhiên là nó đã tiến hành dưới sự chỉ đạo của đại diện
của QTCS là Lominadze và Neuman.) Hiện trạng của cách mạng Trung Quốc được cho là không
mang đặc tính xã hội hoặc ʺcố địnhʺ như Lominadze đã nhận định một cách sai lầm, mà vẫn
đang nằm trong giai đoạn ʺdân chủ tư sảnʺ. Đường hướng chiến lược cơ bản của ĐCS Trung
Quốc là ʺsẵn sàng dùng bạo lực để dấy lên những làn sóng cách mạng mớiʺ. Nhưng nhiệm vụ
hiện tại vẫn là ʺnắm được quần chúng công nhân và nông dân, giáo dục chính trị cho họ, tập hợp
họ đi theo đảng và tuyên ngôn của đảng.ʺ Mặc dù một ʺnhiệm vụ chiến lược cấp báchʺ đã được
giải thích như ʺtổ chức và hành động qua khởi nghĩa quần chúng vũ trang,ʺ lực lượng tiên
phong của giai cấp công nông vẫn không được tách rời khỏi quần chúng và không được ʺxem
nhẹ những cuộc nổi dậyʺ [21]. Vì phong trào cách mạng Việt Nam chưa được phát triển như của
Trung Quốc, có thể Hồ Chí Minh đã hiểu những nghị quyết hơi mâu thuẫn này như là như một
xác nhận cho những chính sách riêng của mình: đào tạo và tổ chức chính trị một cách thận trọng.
Điều quan trọng mà ta nên lưu ý là Đại Hội 6 QTCS bắt đầu trong tháng 7 1928, lúc Hồ vẫn còn
lênh đênh trên biển. Có thể ông đã không biết đến những tin tức chi tiết về kết quả của đại hội
cho đến nhiều tháng sau. Theo tất cả những bằng chứng có được, dường như ông đã đi châu Á
với hành trang không có gì ngoài những chỉ thị trong tháng 9 1927 để thực hiện công tác của
mình.
Đại Hội Quốc tế Cộng Sản lần 6
Đến mùa hè 1928 việc đấu tố chống lại phái Trotskist đã làm xáo trộn QTCS và ĐCS Pháp.
Nhưng một cuộc thanh trừng đẫm máu khác lại vừa bắt đầu. Trên thực tế, đến khi Đại Hội 15
ĐCS Liên Xô diễn ra vào cuối năm 1927, những người theo Stalin đã bắt đầu chỉ trích Bukharin
là đã không quan tâm đến ʺnhững đe doạ của cánh hữuʺ trong QTCS [22]. Nhưng Stalin vẫn
chưa sẵn sàng thanh toán những đồng minh cánh hữu của mình. Hai hệ thống điều hành chính
sách đang hình thành tại Nga với Stalin đang tăng cường hoạt động thông qua những thành viên
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 109 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
do ông chỉ định và những tổ chức như đoàn Komsomol để thi hành việc thu thập ngũ cốc cũng
như những chính sách khác [23]. Đại Hội 6 QTCS, một hội nghị kéo dài từ ngày 12 tháng 7 mãi
đến 1 tháng 9, đã phản ánh tình trạng hai hệ thống này. Đây là lúc bắt đầu cho sự chuyển đổi
phương hướng của QTCS, một quá trình kéo dài trọn một năm cho đến Đại Hội Toàn Thể Ban
Chấp Hành QTCS lần thứ 10 vào tháng 7 / 1929. Người ta thường cho rằng Cương Lĩnh và Luận
Cương của Đại Hội 6 QTCS đã đánh dấu một thời kỳ mới cho phong trào cộng sản Việt Nam.
Nhưng thật khó để thiết lập một mối liên hệ trực tiếp về nguyên nhân và hệ quả giữa Moscow
và những sự kiện tại Việt Nam cho đến mùa thu năm 1929, hoặc ngay cả những chính sách cho
những quốc gia thuộc địa thực sự là gì.
Vào mùa hè 1928 những người lãnh đạo ĐCS Trung Quốc đã tập trung tại Moscow, nơi Đại Hội
6 ĐCS Trung Quốc đang nhóm họp từ ngày 18 tháng 6 đến 11 tháng 7, trước thềm Đại Hội
QTCS. Đại hội này được tổ chức dưới sự bảo trợ của Bukharin và đã thông qua những chính
sách ôn hoà hơn để Trung Quốc trình bày trước Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần 9.
Nhưng tính chất lưỡng hệ trong các chính sách của QTCS vào thời điểm này đã được phản ánh
trong nghị quyết Đại Hội, đa số đều mang tính mập mờ và đôi khi mâu thuẫn. Bukharin cổ xuý
cho một liên minh phản đế nhưng xem nhẹ thành phần tiểu tư sản. Khẩu hiệu: ʺchiến thắng mở
màn tại một hay nhiều tỉnhʺ đã trở thành cái mà Trương Quốc Đào (Zhang Guo Tao ‐ ND) gọi là
ʺthần dượcʺ (panacea ‐ ND), một cách biện hộ cho chủ nghĩa manh động vào cuối năm 1927 mà
không phải nói rằng cuộc cách mạng Trung Quốc đang ở lúc ʺcao tràoʺ [24]. Đại Hội đã bầu chọn
một Bộ Chính Trị mới, dẫn đầu bởi Hướng Trung Phát (Xiang Zhong Fa ‐ ND). Những thành
viên khác là Hạ Tế An (Qu Qiu Bai ‐ ND), Chu Ân Lai, Trương Quốc Đào, Thái Hoà Sâm (Cai
Hesen ‐ ND), Lý Lập Tam (Li Li San ‐ ND), Hạng Anh (Xiang Ying ‐ ND). Ba thành viên của bộ
chính trị mới đã quay về lại Trung Quốc trước Đại Hội QTCS là Hướng Trung Phát, Thái Hoà
Sâm và Lý Lập Tam, những người này theo lời Trương Quốc Đào là có nhiệm vụ tổ chức
đảng[25]. Những ảnh hưởng cá nhân của những nhà lãnh đạo ĐCS Trung Quốc vừa quay về lại
Thượng Hải vào tháng 7 hoặc tháng 8 1928, sau khi đại hội đảng của họ kết thúc và trước khi đại
hội QTCS bắt đầu, có thể lúc đầu đã có nhiều tác động đến những người cộng sản Việt Nam hơn
là bản thân Đại Hội 6 QTCS.
Mặc dù Đại Hội 6 QTCS thường được xem là một sự kiện quyết định mà từ đó đã cho ra những
từ ngữ như ʺhành trình mớiʺ và ʺvô sản hoáʺ, thực ra nó chỉ là bước đầu của việc chuyển hướng
tổ chức. Bukharin, vẫn là Tổng Bí Thư của QTCS, đã chiếm độc quyền trong việc soạn thảo và
thông qua bản ʺCương Lĩnh Chung của Đệ Tam Quốc Tếʺ. Nhưng vị thế của ông đã bị yếu đi vì
sự lũng đoạn của Stalin trong ĐCS Liên Xô ‐ đến tháng 12 1928 ông đã từ chức trong QTCS mặc
dù chưa chính thức bị cách quyền cho đến tháng 6 1929. Với vị thế của Bukharin trong QTCS,
những đồng minh ʺcánh hữuʺ của ông trong các đảng châu Âu như Jules Humbert‐Droz vẫn giữ
được ảnh hưởng cho đến mùa đông [26]. Vì thế đến mùa hè 1928, QTCS vẫn phần nào hậu thuẫn
cho chính sách hợp tác với tầng lớp dân chủ xã hội cánh tả và thiếu nhất trí trong việc phân tích
một cách đúng đắn hiện trạng của chủ nghĩa tư bản thế giới. Đoàn đại biểu Liên Xô mà chủ yếu
là những người theo Stalin, đã không hài lòng với ʺĐề Cươngʺcủa Bukharin, và ʺđã hiệu chỉnh
nó nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng quốc tế của những kế hoạch kinh tế Sô Viết và những mâu
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 110 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
thuẫn của sự ổn định tư bản cũng như tăng cường việc tấn công vào những người dân chủ xã
hội cánh tảʺ [27]. Dù vậy giọng điệu tận thế miêu tả ʺGiai Đoạn Thứ Baʺ về diễn biến của chủ
nghĩa tư bản sau chiến tranh cũng không được mạnh mẽ mấy khi nó được đưa ra trong Đại Hội
Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 vào năm 1929. Tại Đại Hội 6, Bukharin đã miêu tả
Giai Đoạn Thứ Ba như một ʺổn định của chủ nghĩa tư bảnʺ mà cuối cùng sẽ trở thành một khủng
hoảng mới của chủ nghĩa này [28]. Đến mùa hè 1929, Otto Kuusinen đã báo cáo lên Đại Hội Toàn
Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 rằng ʺhiện đã hoàn toàn thống nhất trong việc nhận định
về Giai Đoạn Thứ Ba như là một thời kỳ tan rã của sự ổn định của chủ nghĩa tư bản và hơn nữa ‐
cũng là giai đoạn chín muồi của một cao trào cách mạng mớiʺ [29].
Kuusinen, một nhà cộng sản lão thành người Phần Lan, là người đứng đầu Uỷ Ban Thuộc Địa tại
Đại Hội và được giao trách nhiệm lãnh đạo Ban Bí Thư Cục Đông Phương khi Đại Hội bế mạc.
Ông đã trở thành một trong những người điều hành của QTCS ở phương Đông. Nhưng chính
Cương Lĩnh Chung của Bukharin là văn bản súc tích nhất về chính sách của Đệ Tam Quốc Tế đối
với các nước thuộc địa. Cương lĩnh đã liệt kê tám nhiệm vụ chính:
(1) Lật đổ chủ nghĩa tư bản ngoại bang, chế độ phong kiến và tầng lớp địa chủ;
(2) Thành lập nền chuyên chính dân chủ của giai cấp công nông trên nền tảng của chính
quyền Sô Viết;
(3) Tiến tới độc lập nước nhà và thống nhất chính trị;
(4) Huỷ bỏ nợ quốc gia;
(5) Quốc hữu hoá những cơ sở kinh doanh lớn của giai cấp tư bản (trong những ngành công
nghiệp, giao thông, ngân hàng, vân vân);
(6) Sung công tài sản của những đại địa chủ, nhà thờ và tu viện, quốc hữu hoá toàn thể đất
đai;
(7) Thực hiện chính sách ngày làm tám tiếng; và
(8) Thành lập quân đội cách mạng công nông [30]
Trong nội bộ Uỷ Ban Thuộc Địa, cố gắng của Kuusinen nhằm thiết lập một chính sách chi tiết
hơn cho ʺnhững nước thuộc địa và bán thuộc địaʺ đã gặp phải một chống đối khá mạnh. Các đại
biểu không hiểu được cách thức phân chia các nước thuộc địa ra 4 thành phần khác nhau của
ông cũng như sự thiếu rõ ràng về chiến lược đối với những nước lạc hậu hơn [31]. (Việc phân
loại này đã bị huỷ bỏ trong văn bản chính thức của luận cương). Trong bài phát biểu bế mạc của
mình vào ngày 21 tháng 8, Kuusinen đã thú nhận rằng trong Luận Cương của mình, đoạn nói về
ʺnhững tiến triển phi tư bản cho những nước thuộc địa lạc hậuʺ đã thiếu những luận chứng cần
thiết. (ông cũng nhắc là Luận Cương 1920 của Lenin cũng thiếu luận chứng về phần này). Ông
đề nghị vào thời điểm này, thời điểm của ʺhướng đi riêngʺ đến chủ nghĩa cộng sản, nên được sự
quan tâm đặc biệt từ uỷ ban soạn thảo, uỷ ban này vẫn chưa bắt đầu làm việc [32]. Trong những
nhận xét về hoạt động của uỷ ban soạn thảo, ông có nhắc đến bản Luận Cương trong phần đề
cập đến những vấn đề chiến lược hiện nay chỉ được áp dụng cho một nhóm các nước thuộc địa
sau: Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập và Nam Dương ‐ ʺchắc chắn là những quốc gia thuộc địa quan
trọng nhấtʺ, theo như ông nói [33].
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 111 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Luận Cương cho các Quốc Gia Thuộc Địa và Bán Thuộc Địa đã không được xuất bản trên tờ
Inprecor (viết tắt của International Press Correspondence, một tạp chí cộng sản đa ngôn ngữ của
QTCS ‐ ND) vào cuối năm 1928, không như những nghị quyết và luận cương khác của Đại Hội;
cuối cùng nó được in thành tập sách mỏng với 96 trang bằng tiếng Nga đề năm 1928 nhưng
không rõ chính xác là khi nào [34]. Trong văn bản chính thức, luận cương giữ nguyên quan điểm
rằng chủ nghĩa tư bản là một lực lượng rệu rã, không có một vai trò tiến bộ trong tương lai, ngay
cả trong những nước thuộc địa. Một bài viết ngắn với quan điểm đối lập của đoàn đại biểu Anh
gửi đến Uỷ Ban Thuộc Địa đã được xuất bản vào ngày 27 tháng 12 1928 [35]. Thành viên người Ý
Angelo Tasca (Serra], người đứng đầu Ban Bí Thư khu vực nói tiếng Roman trong một thời gian
ngắn tại Đại Hội 6 cũng không mấy hài lòng. Ông đã viết cho Kuusinen vào tháng Giêng 1929
than phiền về Luận Cương. ʺChúng không hoàn toàn là một luận cương chính trị hay là một
cương lĩnh hành động, trong cả hai trường hợp chúng đều không đầy đủ. Tôi không biết là ĐCS
Pháp đã can dự nhiều vào việc soạn thảo hay không...ʺ [36]. Đến tháng 7 Tasca liền bị đưa ra
khỏi hàng ngũ lãnh đạo của QTCS. Jacques Doriot, người khởi xướng mặt trận thống nhất tại
Việt Nam, để giữ được chức vụ của mình trong ĐCS Pháp, đã phải công khai từ bỏ quan điểm
của mình về việc hợp tác với phái dân chủ xã hội [37]. Khó khăn trong việc tìm ra ý kiến thống
nhất về đường hướng đúng đắn cho các quốc gia thuộc địa là dấu hiệu cho tình trạng tồi tệ
chung của guồng máy QTCS trong giai đoạn cuối năm 1928. Vào tháng 11 Andres Nin, một đảng
viên cộng sản Tây Ban Nha, đã bộc lộ trong một mẫu thư gửi cho Trotsky: ʺTình trạng QTCS
đang vô cùng lộn xộn. Chẳng có việc gì hoàn tất. Mọi người đều ngóng chờ kết quả của trận đấu
đá giữa Stalin và cánh hữu. Một sự băng hoại hoàn toàn,ʺ ông than phiền [38].
Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Đại Hội 6 gồm ba người do ĐCS Pháp lựa chọn từ những nhà
hoạt động ở Paris. Một trong ba người ấy là Nguyễn Thế Vinh, họ hàng với Nguyễn Thế Truyền.
Ông đã theo học tại Moscow từ tháng 9 1926 đến tháng 11 1927 nhưng đã rời khỏi đây vì lí do
sức khoẻ [39]. Người thứ hai là một một thuỷ thủ Bắc Kỳ có gọi là ʺBanʺ, người này không lâu
sau Đại Hội đã rời bỏ đảng [40]. Người thứ ba là Nguyễn Văn Tạo, một người miền Nam và là
thành viên của ĐCS Pháp, ông đã thành lập một tổ chức cộng sản người Việt tại Paris vào tháng
4/1928 [41]. Ông đã đọc một bài diễn văn gửi đến Uỷ Ban Thuộc Địa vào ngày 17 tháng 8 với bí
danh là ʺAnʺ [42]. Phân tích của ông về chủ nghĩa thực dân Pháp cũng gần giống với quan điểm
của Kuusinen về sự phát triển của hệ thống thuộc địa tại Ấn Độ: ngành tiểu công nghiệp của
Việt Nam đã bị phá huỷ bởi sự cạnh tranh giữa các công ty nằm trong tay của tư sản bản xứ và
đế quốc; những người thợ thủ công đang gia nhập giai cấp vô sản trên đà lớn mạnh; sản lượng
nông nghiệp bị đình trệ. Báo cáo của ông không hề nhắc đến việc đào tạo những nhà hoạt động
người Việt tại Quảng Châu hoặc việc thành lập Thanh Niên Hội. Vì lý do này nên rất có thể Hồ
Chí Minh đã không phải là người soạn thảo bài phát biểu của Tạo, theo phỏng đoán của Sở Liêm
Phóng sau này. Một nhóm khác bao gồm những người Việt tương đối kinh nghiệm tại Nga trong
thời gian giữa năm 1928 trong đó có Trần Phú, Ngô Đức Trì và Lê Hồng Phong. Hình như họ chỉ
tham gia Đại Hội với tư cách quan sát viên. Ta không rõ lý do tại sao họ không được là thành
viên của đoàn đại biểu chính thức. Hai trong số ba đại biểu từ Paris hình như đã trở thành
những người ʺkhông được chào đónʺ (nguyên văn Latin: Peronae Non Gratae ‐ ND). Sau đó vào
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 112 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
năm 1930, một lá thư đầy bất bình của một nhà hoạt động người Việt có trụ sở tại Paris được gửi
đến Ban Bí Thư Đông Phương có nhắc đến việc một đại biểu của đoàn Việt Nam tại đại hội đã
phê phán hoạt động của Uỷ Ban Thuộc Địa trong ĐCS Pháp, hai đại biểu (có lẻ là Nguyễn Thế
Vinh và Ban) đã được đưa vé tàu quay về Pháp ngay ngày hôm sau [44]. Vào tháng 9 1928 một
quá trình tái tổ chức trong QTCS lại một lần nữa chuyển giao phần trách nhiệm Đông Dương lại
cho Phân Bộ Trung Đông, một chi nhánh của Đông Phương Cục bao gồm cả Ấn Độ và Nam
Dương. [45] Vì thế, dù ĐCS Pháp và Uỷ Ban Thuộc Địa của đảng này vẫn tiếp tục được cho là có
trách nhiệm trong phong trào Việt Nam, trên lý thuyết thì nguồn hướng dẫn tư tưởng chính
thống giờ đây đã thuộc về Ban Bí Thư Cục Đông Phương do Kuusinen đứng đầu.
Tại Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 Kuusinen đã có dịp công bố một cách có
hệ thống hơn về những chiến lược trong buổi khai mạc đại hội vào ngày 3 tháng 7 1929. Stalin,
người chiến thắng tuyệt đối trong cuộc đấu đá nội bộ của ĐCS Liên Xô, đang dùng QTCS để
biểu lộ phong cách lãnh đạo mới của mình. Trong báo cáo này mà sau đó đã được in với đầu đề
Tình Hình Quốc Tế và Những Nhiệm Vụ của Quốc tế Cộng Sản, Kuusinen kêu gọi các đảng
cộng sản nên trở thành ʺhoá chất tinh khiếtʺ, để sẵn sàng cho ʺtrận chiến quyết định quyền lựcʺ.
[46] ʺNếu không gột rửa mình khỏi những phần tử cơ hội cũng như vượt qua được mong muốn
hàn gắn quan hệ với chúng, các đảng cộng sản sẽ không thể đạt được thành công để tiến đến giải
quyết những khó khăn mới, lớn dậy từ sự tôi luyện của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời đại
mới của phong trào công nhân,ʺ ông tuyên bố [47]. Thành viên của bất cứ đảng cộng sản nào
không chấp nhận quyết định của QTCS sẽ bị khai trừ [48]. Giờ thì không còn những lập lờ về
chiến lược của mặt trận thống nhất ‐ M.N. Roy, thành viên cộng sản người Ấn, người tin tưởng
vào một mặt trận thống nhất với những người Ấn Độ quốc gia, đã bị lên án [49]. Trong phần kết
luận đầy phấn khích, Kuusinen tuyên bố rằng ʺCon đường hiện tại của Quốc tế Cộng Sản là một
con đường mới, nhưng nó cũng là con đường cũ. Ba phần tư thế kỷ trước, Marx đã tuyên khởi
khẩu hiệu hiện thời của chúng ta ʺGiai cấp chống lại giai cấpʺ trong lời hiệu triệu cho cuộc cách
mạng đấu tranh giai cấp của ông. Đây là hướng đi mới của chúng taʺ [50].
Đại Hội Mở Rộng lần thứ 10 đã không chú ý nhiều đến việc điều chỉnh chi tiết hơn về những
hướng dẫn cho các quốc gia thuộc địa đang trong những hoàn cảnh phát triển khác nhau. Cách
mạng thế giới, một cuộc cách mạng thuần tuý cộng sản, đã được xem như như là một lực lượng
khổng lồ đang chiến đấu cho giai cấp vô sản trên toàn địa cầu. Kuusinen đã hưng phấn tột bật
trong khả năng hùng biện của mình:ʺNhìn lại những cuộc đấu tranh toàn cục đã xảy ra trong
một thời gian ngắn kể từ Hội Nghị Thế Giới lần 6, ta có thể nói rằng: đội quân thế giới của
những chiến sĩ giai cấp tích cực đang phát triển nhanh chóng. Những người thợ mỏ ở vùng Ruhr
(một khu vực ở Đức ‐ ND) và Scotland, những người thợ dệt ở Balan và Pháp, những chiến sĩ tại
phòng tuyến Berlin, những người biểu tình và đình công ở Bombay, những phu đồn điền ở
Columbia, những người khởi nghĩa da đen ở Congo, những nông dân đang đình công tại
Czechoslovakia và Balan, những công nhân cách mạng và du kích bần nông tại Trung Quốc,
những nhà tranh đấu người Ma Rốc và hàng trăm nghìn người khác ‐ đây là một đạo quân tích
cực khổng lồʺ [51]. Thảo luận của Kuusinen về đấu tranh quần chúng là dấu hiệu của những gì
sẽ xảy ra tại Việt Nam trong vài năm tới. ʺTrong giai đoạn hiện tại, điểm xuất phát của đấu tranh
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 113 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
quần chúng là những quyền lợi tiên khởi và thường nhật của nhân dânʺ, ông nói. ʺChúng ta phải
lưu ý điều này trong những chiến lược của mình. Nhưng cuộc đấu tranh hiện nay không chỉ giới
hạn trong những đòi hỏi cấp bách và cục bộ này ‐ nó có chiều hướng mạnh mẽ và rõ ràng để đi
xa hơn nữa [52].
Tại Xiêm
Hồ Chí Minh đặt chân đến Xiêm vào lúc QTCS đang bắt đầu chuyển sang các chính sách có tính
chất giai cấp mạnh mẽ hơn vào mùa hè 1928. Vì ông không có bất cứ báo cáo nào gửi cho QTCS
trong khoảng 16 tháng ở Xiêm, từ tháng 7 1928 đến tháng 11 1929, chúng ta nắm được thông tin
trong giai đoạn này nhờ vào một số hồi ký của những đảng viên cộng sản kì cựu và trong cuốn
sách của Trần Dân Tiên, được cho là tự truyện của Hồ. Hình ảnh của một nhà chính trị lưu vong
bị quên lãng rút ra từ những lá thư của ông đã biến thành một nhà hiền triết khổ hạnh bí mật,
băng rừng đến từng bản làng. Mặc dù lúc ấy ông độ khoảng 35 ‐ 36 tuổi nhưng trong sách Trần
Dân Tiên ông được gọi là ʺông già Chínʺ và luôn đi trước cảnh sát một bước. Tiên đã viết rằng có
lúc Hồ phải gia nhập một tu viện Phật Giáo để tránh sự truy lùng của mật thám Pháp [53]. Việc
này hoàn toàn có thể xảy ra, nhưng nó đã không được nói đến trong bất cứ hồi ký của người Việt
nào đề cập về thời gian Hồ ở Xiêm.
Việc thiếu tài liệu thông tin trong thời gian này thật vô cùng thất vọng, vì người ta cho rằng Hồ
Chí Minh đã hoạt động nhiều hơn là chỉ thành lập các hội tương tế, đóng vai già làng hoặc dựng
trường học. Âm vọng về những thay đổi trong đường lối của QTCS đã lan đến Trung Quốc, Việt
Nam và toàn bộ Đông Nam Á vào mùa thu 1928, nhưng chúng ta không biết gì nhiều từ những
hồi ký có được rằng nó đã có ảnh hưởng ra sao đến miền Bắc Thái Lan. Những người biết được
danh tính thật của ông thì chỉ có vài học viên Thanh Niên mà ông đào tạo tại Quảng Châu và
Cao Hoài Nghĩa, một cựu thuỷ thủ và cũng có lẽ là một thành viên trong nhóm của Hồ tại
Quảng Châu. [54] Đến năm 1929 tin đồn lan đến châu Âu rằng ông đã bị bắt [55]. Thành phần
lãnh đạo của Thanh Niên tại Quảng Châu cho là ông vẫn còn ở Moscow [56]. Không rõ việc này
đơn giản chỉ là thói quen giữ bí mật tài tình của ông hay vì một lý do đặc biệt nào đó mà ông
phải nằm im chờ đợi. Ta có thể đoán rằng ông đang đợi chờ cho những đợt cuồng phong chống
những người Trotskyist lắng xuống. (Mặc dù khó có thể cho ông là một phần tử Trotskyist,
nhưng trong nội bộ ĐCS Pháp, ông đã từng tiếp xúc với Doriot, người được cho là thân
Trotskyist). Cũng có thể ông sợ bị tố giác bởi những người Việt không theo cộng sản mà ông đã
có liên hệ khi còn ở miền nam Trung Quốc; hoặc có thể ông đang nghi ngờ Lâm Đức Thụ là một
chỉ điểm của Pháp.
Đi bộ từ thị trấn trung tâm Phichit, Hồ đến Udon, một trong những tâm điểm của cộng đồng
người Việt hải ngoại, vào tháng 8 1928, theo hồi ký của Hoàng Văn Hoan [57]. Căn cứ vào những
gì rút ra được từ hồi Ký của Hoan và những người khác trong thời điểm này, Hồ Chí Minh đã
hoạt động rất cẩn trọng, thu thập tin tức về tình hình địa phương, giúp tổ chức và xây dựng
trường lớp đào tạo thanh niên Việt Nam tại một ngôi làng ngoại ô Udon [58]. Hoan viết rằng sau
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 114 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
khi ở lại Udon, Hồ chuyển đến Nakhon Phanom bên dòng Mekong [59]. Võ Mai, một thành viên
của Thanh Niên vùng Nghệ An, trong năm 1931 đã khai với người thẩm cung mình rằng ông đã
đưa tám học viên từ Vinh đến Lakhon (tên cũ của vùng Nakhon Phanom] vào tháng 10 1928.
Ông ở lại với họ trong khoá học dài 3 tháng rồi dẫn họ về lại Vinh vào thánh 12. Lời khai của Võ
Mai không nhắc đến sự hiện diện của Hồ Chí Minh tại Xiêm, nhưng thời điểm của nó cho thấy
chuyến đi có thể có liên hệ với việc Hồ có mặt tại đây. Võ Mai, một liên lạc viên đã làm việc
chung với Thanh Niên Kỳ Bộ tại Trung Phần Việt Nam, có thể đã đem sang nhiều tin tức quan
trọng về tình hình trong nước [60].
Phương cách tổ chức phong trào tại nông thôn của Hồ làm ta liên tưởng đến phương pháp của
Bành Bái tại Quảng Đông trong thời kỳ mặt trận thống nhất với Quốc Dân Đảng. Đến khi Hồ đặt
chân đến Xiêm, những phương pháp này đã được đưa vào thực hành bởi những thành viên
Thanh Niên như Hoàng Văn Hoan, người đã đến miền bắc Xiêm vào tháng 6 1928. Trọng tâm
của phong trào là những trường ʺcấp tiếnʺ mà các nhà hoạt động đã thành lập tại các vùng nông
thôn. Trong những trường này các học viên trẻ được tiếp cận với những ý tưởng chính trị hiện
đại và rèn luyện thân thể, ngoài ra họ còn tự sản xuất lương thực và nếu dư thừa thì dùng để trả
lương cho giáo viên. Vào tháng 2 1930, khi Hồ báo cáo những hoạt động của mình cho QTCS,
ông cho biết Thanh Niên đã thành lập được 3 trường đào tạo và đang xây dựng ngôi trường thứ
tư [61] Trong cùng bản báo cáo, ông đã giải thích rằng những người Việt cư ngụ tại Xiêm là
những ʺnông dân tự do, thợ thủ công, tiểu thương, họ có thể được đưa vào những hội ʺái hữuʺ
với những tư tưởng yêu nước và phản đếʺ [62]. Ông đề nghị những nhà hoạt động Việt Nam nên
đổi tên tờ báo địa phương của họ từ ʺĐồng Thanhʺ sang ʺThân Áiʺ, với hàm ý hướng về một
hình thức tổ chức rộng mở hơn [63]. Dường như không có giai cấp bần cố nông trong thành
phần người Việt tại Xiêm để ông quan tâm. Vào cuối năm 1929, việc nhấn mạnh ʺtư tưởng yêu
nướcʺ bị cho là thành phần cách tân nguy hiểm. Nhưng có lẽ Hồ đã không được thông báo về
việc thay đổi xu hướng trong phong trào cộng sản thế giới cho đến mùa hè 1929, khi hai đại biểu
người Việt ở Xiêm trở về từ Hội Nghị Thanh Niên lần thứ nhất được tổ chức tại Hồng Kông vào
tháng 5.
Những hồi ký có được thì thiếu những chi tiết về hoạt động của Hồ Chí Minh từ cuối năm 1928
đến tháng 11 1929, khi ông rời Xiêm đi Hồng Kông. Võ Mai đã không báo cáo thêm những
chuyến đi vượt Lào qua Xiêm sau tháng 12 1928. Hoàng Văn Hoan cho chúng ta biết rằng Hồ
đang bận rộn với việc chuyển ngữ những luận thuyết cộng sản từ tiếng Hoa sang tiếng Việt dễ
hiểu và họ thường làm việc chung trong công tác dịch thuật này. Nhưng ông viết những việc này
đã xảy ra vào cuối của năm 1928. Tại Sakho, Hồ được cho là đã soạn thảo một bản trường ca về
Trần Hưng Đạo, một anh hùng dân tộc của thế kỷ 13 mà người Việt địa phương tôn thờ như
thần thánh. Hồi ký của Đặng Văn Cáp cho biết rằng Hồ lúc đó đã học được nghề thuốc Đông y
để giúp chữa bệnh cho dân địa phương [64]. (Có lẽ ông đã tìm cách chữa chạy chứng lao phổi
của mình, vì sau này ông có kể với một đồng nghiệp người Việt tại Hồng Kông là ông đã bị bệnh
hơn một năm ở Thái Lan, và đã ʺkhông thể làm được bất cứ việc gìʺ [65]) Hồ đã báo cáo với
QTCS là ông đã qua Lào một thời gian ngắn để gặp gỡ những Việt kiều nhưng đã hai lần từ bỏ
việc vượt biên sang Việt Nam vì mật độ cảnh sát quá nhiều tại biên giới [66]. Theo Lê Mạnh
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 115 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Trinh, vào khoảng tháng 6 1929 ông đã sang Bangkok để thăm hỏi một số nhà ʺcựu cách mạngʺ
[67].
Một số sử gia người Việt tin rằng Hồ đã nối lại liên lạc với thân phụ của ông trong những năm
1928 và 1929 qua sự môi giới của người vợ goá của Lương Ngọc Can, người này có nhà ở Phnom
Penh và làm công tác liên lạc giữa cộng sản và những người Việt quốc gia [68]. Từ mùa xuân
1928 cho đến khi ông qua đời vào tháng 11 1929, Nguyễn Sinh Huy (tức Nguyễn Sinh Sắc) sống
tại làng Hoà An gần Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc. Người Pháp tin rằng Huy đi lại như một thầy thuốc
Đông y lưu động để giữ liên lạc với những cơ sở hoạt động ở miền Nam. Tuy nhiên đã không có
bằng chứng về những tiếp xúc trực tiếp giữa hai cha con, mặc dù Huy thường xuyên viết thư
cho vợ goá của Can vào mùa xuân 1928 với hy vọng là bà có tin tức gì đặc biệt cho ông [69]. Khi
ông còn làm việc tại Xiêm, Hồ được cho rằng đã gửi hai người gốc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An đang sống tại Xiêm sang công tác ở Cambodia [70]. Rất có thể là Hồ không những đã liên lạc
với thân phụ mình qua ngõ Phnom Penh mà còn với những thành viên Thanh Niên đang thành
lập một ngôi trường cấp tiến tại thị trấn Sa Đéc. Những người này bao gồm Châu Văn Liêm, Hà
Huy Giáp và Phạm Văn Đồng, theo lời Trần Văn Diep, một học viên Quảng Châu người gốc Cần
Thơ đang giảng dạy tại đó [71]. Đa số những người nhóm này trở thành thành viên của thành
phần cộng sản trung thành với nhóm lãnh đạo Quảng Châu và Hồ Chí Minh, đó là An Nam
Cộng Sản Đảng, vào mùa thu năm 1929.
Sự phát triển của Thanh Niên
Trong khi Hồ Chí Minh đang âm thầm hoạt động tại Xiêm và trong khi QTCS đang chỉnh đốn
hướng đi tại Moscow, phong trào cách mạng ở miền Nam Trung Quốc và Việt Nam đang tự
mình tiến triển. Trong khoảng cuối năm 1928 một nhóm khoảng 24 người Việt Nam đang giảng
dạy và học tập tại Hoàng Phố ‐ những người đã từng bị bắt giữ vào tháng 12 1927 và đã được thả
tự do [72]. Cho đến giữa năm 1928 những Kỳ Bộ của Thanh Niên đã được thiết lập trên cả ba
miền Việt Nam [73]. Vào tháng 2, Tổng Bộ Quảng Châu đề cử các thành viên sau cho Kỳ Bộ
Trung Kỳ: Vương Thúc Oánh, Nguyễn Thiệu và Nguyễn Sĩ Sách. Vào tháng 6, lãnh đạo Quảng
Châu bổ nhiệm Lê Văn Phát đứng đầu Kỳ Bộ Nam Kỳ, lúc này gồm có Nguyễn Kim Cương,
Châu Văn Liêm và có thể cả Ngô Thiêm [74]. Phát là một thầy thuốc nam gốc Bến Tre vừa về từ
Quảng Châu, nơi ông đã bị giam giữ sau khởi nghĩa tháng Chạp. Kỳ Bộ Bắc Kỳ được thành lập
vào tháng 7 1928, bao gồm Dương Hạc Đính, Trịnh Đình Cửu và có thể cả Nguyễn Danh
Đới,[75] dưới quyền lãnh đạo của Trần Văn Cung, khi ông này quay về từ Quảng Châu vào đầu
năm 1929. Thông tin tìm thấy trong văn khố Pháp về những hoạt động của giới lãnh đạo Thanh
Niên tại Quảng Châu trong thời kỳ này thì tương đối ít nên không thể biết chắc được ai là người
đóng vai trò chủ đạo trong việc phân nhiệm các thành viên về các Kỳ Bộ tại Việt Nam.
Vào tháng 6 1928, nỗ lực cuối cùng nhằm thống nhất Cách Mạng Đảng với Thanh Niên bị thất
bại. Sau đó Cách Mạng Đảng đã tổ chức đại hội ở Huế, tại đây đảng này đã đổi tên thành Tân
Việt. Những lãnh đạo được bầu ra tại Đại Hội là Phan Đăng Lưu, Hải Triều (Nguyễn Khoa Văn)
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 116 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
và Nguyễn Chí Diểu mà sau này đã trở thành những lãnh đạo của đảng cộng sản tại Trung Kỳ
trong thời kỳ Mặt Trận Dân Chủ vào cuối thập niên 30 [76]. Võ Nguyên Giáp, một học sinh
trường Quốc Học Huế, cũng có thể đã tham gia trong Đại Hội. Đảng Tân Việt, cũng như Thanh
Niên và Việt Nam Quốc Dân Đảng, đã bắt đầu tổ chức vận động phụ nữ trong thời gian này.
Nguyễn Thị Minh Khai, một học sinh từ Vinh, đã được bầu làm lãnh đạo của phân hội phụ nữ.
Sau này bà cho biết vào năm 1928, phân hội của bà có 50 thành viên trong đó có một tiểu tổ 20
người tại nhà máy diêm ở Vinh và một tiểu tổ khác với 15 người tại một xưởng gỗ [77]. Việc tổ
chức công đoàn cũng được phát triển mạnh tại Đông Dương vào năm 1928 [78]. Hà Huy Tập đã
viết rằng một cuộc bãi công đã tổ chức thành công tại đồn điền mía Phú Mỹ ở Bà Rịa vào tháng 6
và tháng 7. Chính bản thân ông đã đi làm phu đồn điền vào tháng 9 1928. Ông nhớ lại cuộc đình
công vào tháng 8 của công nhân hoả xa Biên Hoà và đình công khác tại nhà máy dầu Nhà Bè.
Ông cho rằng những hoạt động này là do những người cộng sản (ông không nêu tên) tổ
chức[79].
Vào ngày 28 và 29 tháng 9 1928 Kỳ Bộ Bắc Kỳ của Thanh Niên được cho là đã họp mặt gần Hà
Nội để thảo luận phương hướng nhằm ʺvô sản hoáʺ đảng. Theo một nguồn tài liệu của Việt
Nam, cuộc họp này, đôi khi được cho là một đại hội, đã được tổ chức tại nhà riêng của Ngô Gia
Tự tại làng Liên Sơn, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh [80]. Nó được biết như là ʺHội Nghị Tái Tổ
Chứcʺ, tài liệu cho biết. Kỳ Bộ đã nhận thấy thành viên của họ đa số là học sinh và giáo viên và
thống nhất rằng trong tương lai nền tảng của phong trào sẽ phải là giai cấp lao động. Họ quyết
định tăng cường công tác tuyên truyền trong hàng ngũ công nhân mỏ và các xí nghiệp; gửi
thành viên đến làm việc trong các khu mỏ, nhà máy và đồn điền, và dùng ʺmọi phương tiện hợp
pháp để tổ chức quần chúng một cách rộng rãiʺ [81]. Hai thành viên của Thanh Niên là Ngô Gia
Tự và Nguyễn Đức Cảnh được phân công tổ chức tuyên truyền trong hàng ngũ công nhân. Họ
cũng có nhiệm vụ trông coi việc chuyển hoá thành phần học sinh tiểu tư sản và con em của giới
trí thức đang chiếm đại đa số trong Thanh Niên sang thành phần vô sản. Những thành viên
Thanh Niên nào không thay đổi theo đòi hỏi mới sẽ bị đào thải khỏi tổ chức. Thành phần này
bao gồm những thành viên tư sản được ʺnuông chiềuʺ, những người không có phong thái cách
mạng, không chịu được gian khổ và thiếu đạo đức. Vào tháng 3 1929 Kỳ Bộ Bắc Kỳ theo đuổi con
đường tả khuynh bằng cách thành lập một cuộc họp mà họ gọi là tổ chức cộng sản đầu tiên tại
Việt Nam. Những người tham dự cuộc họp tại số 5‐D đường Hàm Long, Hà Nội gồm có Ngô
Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh và Trần Văn Cung (Quốc Anh) từ Nghệ An, người này như ta đã biết,
vào đầu năm 1929 đã từ Quảng Châu về lại Bắc Kỳ để nắm Kỳ Bộ [82]. Đây chính là nhóm người
ở lại Quảng Châu sau khi Hồ Chí Minh đã đi khỏi nơi này trong thời kỳ khởi nghĩa 1927. Trần
Văn Cung được cho là đã tham gia trong cuộc Khởi Nghĩa Quảng Châu [83]. Những hoạt động
của họ từ tháng 9 năm 1928 đến cuối năm 1929 cho thấy họ đã mất tin tưởng vào giới lãnh đạo
của Thanh Niên ở Quảng Châu. Câu hỏi đặt ra là họ đang theo đuổi tư tưởng nào trong giai
đoạn này. Mặc dù cuộc họp vào tháng 9 1928 có thể là một phản ứng đối với Đại Hội 6 QTCS,
nhưng có lẻ quá sớm để họ nhận thức thấu đáo cương lĩnh của Đại Hội, nhất là vẫn không có
một sự nhất trí về việc áp dụng cương lĩnh như thế nào trong những nước thuộc địa.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 117 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Tin tức về những sự kiện trong năm 1928 ở Moscow ‐ Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS
lần 9 và Đại Hội 6 của ĐCS Trung Quốc và QTCS trong mùa hè ‐ có thể đã lọt về đến châu Á vào
mùa thu năm đó. Những báo cáo không chính thức của những người Việt tại Moscow và của
Nguyễn Văn Tạo tại Paris có thể đã đánh động Thanh Niên rằng sẽ có những thay đổi sắp đến.
Nhưng chắc hẳn những chỉ thị cụ thể cho Đông Dương của QTCS đã không đến được các nhà
cách mạng Việt Nam trước mùa xuân mà vào mùa thu năm 1929. Lúc đó thì Luận Cương về Các
Quốc Gia Thuộc Địa và Bán Thuộc Địa của Kuusinen chắc hẳn đã được in ra bằng tiếng Nga, và
ʺCương Lĩnh Chungʺ của Bukharin có thể đã được biết đến qua tờ Inprecor và những tờ báo
cộng sản khác. Nhưng ta cần nên nhớ rằng, dù vậy bản thảo Luận Cương của Kuusinen mãi đến
ngày 4 tháng 10 1928 mới được in trên Inprecor; bài phát biểu của ʺAnʺ về Việt Nam đến 25
tháng 10 mới xuất hiện trên báo này. ĐCS Pháp đã không bắt đầu thực thi chính sách ʺCon
Đường Mớiʺ cho đến sau Đại Hội 6 của đảng này, được tổ chức vào tháng 4 1929. Trong một bài
báo ngày 21 tháng 4 / 1929 trên tờ Nhân Đạo, Maurice Thorez đã viết rằng đảng này đang bước
vào ʺmột giai đoạn chấn chỉnh mang tính quyết địnhʺ và một cuộc đấu tranh quan trọng chống
lại ʺchủ nghĩa cơ hộiʺ.
Sự phát triển của lực lượng cánh tả Trung Quốc
Từ những hồ sơ lưu trữ của QTCS về Trung Quốc ta có thể thấy trong suốt năm 1928 Bộ Chính
Trị ĐCS Trung Quốc muốn theo đuổi một chính sách vũ trang mạnh mẽ hơn của QTCS trong
hiện tình cách mạng Trung Quốc. Ví dụ như một tuyên bố vào tháng 5 1928 của Bộ Chính Trị
ĐCS Trung Quốc đã phê phán Hội Nghị Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần 9 vào tháng 2 năm
ấy. Tuyên bố nhấn mạnh rằng ʺcao trào cách mạngʺ vẫn đang tiếp diễn và nghị quyết của QTCS
đã ʺđề cập quá ít về sự thiếu sót của viễn cảnh cho sự ổn định kinh tế và chính trị của giai cấp
thống trịʺ ở Trung Quốc [84]. Cục Viễn Đông thuộc Ban Chấp Hành QTCS, được thành lập ở
Thượng Hải vào năm 1926 để hướng dẫn những đảng cộng sản châu Á, đã thuyên giảm xuống
còn một nhóm cốt cán ít ỏi trong thời kỳ này và đã không nắm lại vai trò chỉ đạo hoàn toàn cho
đến mùa xuân 1929 [85]. Đại diện của Cục Thông Tin Quốc Tế (Otdel Mezhdunarodnoi Svyazy
hay OMS) thuộc QTCS là A.E. Albrecht (Abramovich), lãnh hai trách nhiệm: phân bổ ngân sách
và đại diện chính trị trong thời kỳ gián đoạn này. Vào thượng tuần tháng 6 1928, từ Thượng Hải
Albrecht đã viết thư cho Moscow than phiền về ʺtính manh độngʺ trong ĐCS Trung Quốc vẫn
tiếp tục phát triển đến các vùng nông thôn. Ở miền nam các tỉnh Hồ Nam, Sơn Tây và phía bắc
Quảng Đông, quân đội vẫn tiếp tục giao tranh. Nhưng nó đã xa rời quần chúng và hành xử như
ʺmột nhóm thổ phỉʺ. Albrecht quy trách nhiệm cho đồng nghiệp của mình, một đại diện QTCS
tên Mitkevich (còn có tên là Olga), là đã gieo rắc tinh thần manh động trong ĐCS Trung
Quốc[86]. Nhưng bản thân Mitkevich cũng đã phê phán những hành động thái quá của Sô Viết
Hải‐Lục‐Phong: ví dụ như mệnh lệnh bắt tất cả nhà cửa phải được sơn đỏ, và ʺchủ trương tàn
phá các huyện lỵ (là trung tâm quyền lực của giới địa chủ và quý tộc)ʺ [87].
Mặc dù Albrecht báo cáo việc người Nhật can thiệp vào Tế Nam (Jinan ‐ ND) đã dẫn đến việc
ʺđẩy mạnh phong trào quần chúng tại thành thịʺ, nhưng trọng tâm của ĐCS Trung Quốc đã
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 118 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
hướng về vùng nông thôn. Các toán quân cộng sản do Chu Đức (Zhang De ‐ ND) và Trần N
Nghị
(Chen Yi ‐ ND) chỉ huy đã kết hợp với lực lượng của Mao Trạch Đông tại vùng biên giới Hồ
Nam ‐ Giang Tây vào tháng 4 1928 để tạo thành một vùng cơ sở nông thôn. Sau thất bại của Sô
Viết Hải‐Lục‐Phong vào tháng 3, một số người tham gia đã rút vào vùng núi non phía đông
Quảng Đông, trong khi một số khác có thể đã quay về Quảng Châu và hoà nhập với quân đội
Quốc Dân Đảng. Những người còn lại hoà chung với làn sóng tị nạn đang dồn lên trong năm
1927 hướng về những cộng đồng người Hoa ở Nam Dương [88]. Làn sóng của tầng lớp lao động
Trung Quốc đổ về khu vực Đông Nam Á rõ ràng là đã thúc đẩy việc thành lập Uỷ Ban Lâm Thời
Nam Dương và từ đấy đã củng cố ảnh hưởng của uỷ ban này đối với phong trào cộng sản Việt
Nam. Bộ Ngoại Giao Pháp đã báo cáo rằng cho đến năm 1927 tại Sài Gòn, Chợ Lớn và Phnom
Penh đã có một ʺcon số đáng kể của người Hoaʺ trong thành phần cu‐li và phu bến tàu. Tại Bắc
Kỳ người Hoa có mặt rất đông ở ʺmột số các vựa mỏʺ [89].
Những người tị nạn trong đó bao gồm cả những người cộng sản lẩn trốn, đã được lôi cuốn vào
cộng đồng lưu vong được tổ chức chặt chẽ ở nơi mà Quốc Dân Đảng đã có cơ sở vững vàng. Báo
cáo của Pháp về vấn đề người nhập cì cho biết rằng ʺnhững người Trung Quốc tại Đông Dương
đều nhận là có liên hệ với tổ chức dân tộc Quốc Dân Đảng... Họ đã bị bắt buộc tham gia, và họ
không dám cưỡng lại quyền lực của các ʺHội Đồngʺ vì chúng đều trực thuộc dưới quyền của một
Tổng Đoàn thuộc Quốc Dân Đảngʺ [90]. Ta không rõ những cơ cấu cộng sản vào năm 1928 đã ẩn
mình ra sao trong lòng tổ chức Quốc Dân Đảng. Tại Quảng Châu, như ta đã thấy, một số thành
viên cộng sản người Việt vẫn nằm trong cơ cấu của Quốc Dân Đảng cho đến cuối năm ấy để tiếp
tục những lớp tập huấn bí mật của mình cũng như để mưu sinh. Tại những nước thuộc địa Đông
Nam Á, họ cũng phải làm như thế đơn giản là để sống còn. Ví dụ như tại Singapore, thành phần
cánh tả chịu ảnh hưởng của cộng sản (được biết đến như là phong trào Main School) đã kiểm
soát 21 trong số 29 chi bộ Quốc Dân Đảng vào tháng 4 / 1928 [91]. Nhưng Uỷ BAn Nam Dương
có lẽ đã thiết lập một cơ chế mặt trận mới trong năm ấy nhằm giữ nguyên tổ chức, như tôi sẽ
phân tích thêm ở dưới.
Trong khoảng giữa năm 1928 và 1929 không khí trí thức cánh tả tại Trung Quốc đang chịu ảnh
hưởng từ nỗ lực chấn hưng khối Quốc Dân Đảng tả khuynh, không phụ thuộc vào QTCS. Vào
tháng 5 1929 Hội Đồng Chí Tái Tổ Chức được thành lập. Cụm từ ʺtái tổ chứcʺ hàm ý về tinh thần
của phong trào tái tổ chức Quốc Dân Đảng trong năm 1924, được thực hiện dưới ảnh hưởng của
Borodin. Nguyên nhân tiên khởi kích động việc thành lập tổ chức này chính là việc Nhật chiếm
đóng Tế Nam trong tỉnh Sơn Đông trong cùng tháng ấy [92]. Nhưng theo quan điểm của So
Waichor, thành phần Quốc Dân Đảng cánh tả không bằng lòng về việc Tưởng Giới Thạch đã lơ
là những nguyên tắc cơ bản của họ: phản đế và cải cách điền địa [93]. Cái lý tưởng mà Hội Đồng
Chí đại diện từ 1928 đến khi nó sụp đổ vào năm 1931 là để ʺnhắm vào sự đồng tình của ʺgiai cấp
bị bóc lộtʺ ở Trung Quốc, bao gồm nhiều thành phần xã hội như giới trung thương và tiểu
thương, giới nông dân ‐ từ tiểu địa chủ đến lao công nông trại, giai cấp lao động, giai cấp tiểu tư
sản, trí thức và thanh niênʺ [94].
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 119 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Ảnh hưởng trí thức của nhà lãnh đạo Hội Đồng Chí là Trần Công Bác (Chen Kungpo ‐ ND) đã
vượt ra ngoài phạm vi Quốc Dân Đảng. Ông là một học giả được đào tạo tại Mỹ và một cựu
đảng viên ĐCS Trung Quốc từng giữ nhiều chứ vụ quan trọng trong thời kỳ mặt trận thống
nhất[95]. Tạp chí Cách Mạng Bình Luận (Ko Ming Pʹing Lun ‐ ND) do ông xuất bản từ đầu năm
1928 đến khi bị Tưởng Giới Thạch đóng cửa vào tháng 9 là một tờ báo có chiều hướng Marxist.
Những người viết bài cho tạp chí đại diện cho phái cực tả của Quốc Dân Đảng và có cả những
người ʺbạn đồng hànhʺ cộng sản [96]. Một trong những tư tưởng do Trần Công Bác cổ xuý trong
tạp chí và những bài viết khác là ʺCuộc Cách Mạng Dân Tộc Trung Quốc có liên hệ chặt chẻ với
cuộc cách mạng phản đế toàn cầuʺ. Ông tin rằng Quốc Dân Đảng nên nhận lấy nhiệm vụ lãnh
đạo cuộc cách mạng dân tộc của nhân dân thuộc địa Đông phương, từ đó thúc đẩy cách mạng
thế giới [97]. Về vấn đề này ông khuyến khích việc thành lập một tổ chức ʺQuốc Tế Phương
Đôngʺ hoặc một ʺTam Dân Quốc Tếʺ nhằm cân bằng thế lực với cả Hội Liên Hiệp Quốc Gia và
Đệ Tam Quốc Tế ở Moscow. So Waichor đoan chắc rằng chủ thuyết phản đế của Trần Công Bác
ʺđã gieo mầm tư tưởng về vấn đề này trong những người cánh Tả.ʺ
Việc thành lập một hội phản đế mới tại Thượng Hải vào tháng 7 hoặc tháng 8 ʺLiên Hiệp các
Dân Tộc Phương Đông bị Áp Bứcʺ có thể là kết quả hoạt động của Hội Đồng Chí (còn được gọi
là ʺTái Tổ Chứcʺ) trong Quốc Dân Đảng [99]. Liên Minh này sẽ đóng vai trò chủ chốt trong trong
phong trào cánh tả ở Nam Dương trong giai đoạn từ 1929 đến đầu 1930. Sự ra đời của nó có thể
đã tạo điều kiện cho nỗ lực của Hội Đồng Chí trong việc thành lập các chi nhánh hải ngoại tại
Hồng Kông, Nhật, Việt Nam và Singapore [100]. Nhưng Liên Hiệp này dường như chỉ để dùng
làm một vỏ ngoài hợp pháp cho những hoạt động cộng sản. Việc này có vẻ như đã lỗi thời ‐
giống như một sự tiếp tục của mặt trận thống nhất giữa Quốc Dân Đảng ‐ ĐCS Trung Quốc ‐ có
lẽ đã liên hệ đến chủ trương của Willy Munzenberg trong Liên Hiệp Phản Đế ở Berlin. Tại Đại
Hội 6 QTCS ông đã lên tiếng về sự cần thiết của việc giữ vững ảnh hưởng cộng sản trong hàng
loạt những tổ chức phi cộng sản khác [101]. Cho đến tháng 4 1929 Phu nhân Tôn Dật Tiên, nằm
trong phong trào ʺĐệ Tam Đảngʺ, vẫn được mang chức vụ Chủ Tịch Danh Dự trong tờ báo của
Hội Liên Hiệp [102]. Trong một lá thư viết vào tháng 3 1930, Cục Viễn Đông đã khen ngợi ĐCS
Trung Quốc về sự ʺthành thạo trong việc sử dụng những khả năng hợp pháp và bán hợp phápʺ,
trong đó bao gồm Liên Hiệp Phản Đế và ʺLiên Hiệp Tự Doʺ [103].
Một báo cáo của Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương (cho Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc) viết
vào ngày 19 tháng 7 1928 đã phản ánh tầm quan trọng của phong trào phản đế trong giai đoạn
này. Nó cũng đề cập đến việc đòi hỏi phải có một cuộc ʺđấu tranh không khoan nhượngʺ trong
các tổ chức hàng đầu của Uỷ Ban [104]. Bản báo cáo cũng tường thuật một hội nghị toàn thể mở
rộng bắt đầu vào ngày 2 tháng 7 1928. Hội nghị này bao gồm những đại biểu từ Bonero, ʺTiểu Tổ
Thuỷ Thủ Đặc Biệtʺ, những tổ công nhân cao su, Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản và Liên Đoàn
Phản Đế [105]. Uỷ Ban Quảng Đông đã không gửi đại biểu tham dự; và cũng không thấy nhắc
đến những đại biểu của chi bộ Nam Kỳ ‐ Cam Bốt. Đại Hội Toàn Thể tuyên bố rằng tổ chức đảng
của vùng Quần Đảo Mã Lai (một cách gọi khác của người Nga cho vùng Nam Dương) phải được
tái tổ chức; mọi thành phần ʺphá hoại, thoái hoá và do dựʺ sẽ bị đào thải. Chỉ có ʺnhững đồng chí
cương quyết, trung thực và quên mìnhʺ sẽ được đề bạt; những người xuất thân thành phần công
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 120 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
nông được đưa thẳng lên hàng ngũ lãnh đạo. Hội Nghị đã dành ngày 3 tháng 8 cho những khoá
giảng về phản đế, và nó đã được nhấn mạnh một cách đặc biệt trong chương trình đại hội. Các
học viên được chỉ thị ʺđến với nông dânʺ và tổ chức ʺmột đội ngũ quần chúng rộng rãiʺ để ʺtự
nổi dậyʺ tham gia phong trào chống Nhật. Nhưng những hoạt động trên không được nhân danh
Uỷ Ban Nam Dương. Báo cáo nói rằng ʺhiện tại chúng tôi không có khả năng lãnh đạo phong
trào quần chúng một cách công khai dưới danh nghĩa đảng cộng sảnʺ. Vì thế phong trào ngày 3
tháng 8 đã được lãnh đạo một cách bí mật, nhân danh những tổ chức quần chúng như Hiệp Hội
Kháng Nhật, Hiệp Hội Hoa Kiều Cứu Quốc, Hiệp Hội Tẩy Chay Hàng Hoá Nhật, vân vân [107].
Điều lý thú là thời điểm của Hội Nghị toàn thể mà trong đó sắc lệnh tái tổ chức Uỷ BAn Nam
Dương được ban hành lại rất gần với thời điểm của ʺHội Nghị Tái Tổ Chứcʺ của Kỳ Uỷ Bắc Kỳ
của Thanh Niên vào tháng 9. Liệu chi bộ Nam Kỳ‐Cam Bốt của Uỷ BAn Nam Dương đã nhận chỉ
thị về việc cần phải ʺtái tổ chứcʺ sau hội nghị toàn thể tháng 7? Liệu có những liên hệ gì giữa
những nhà hoạt động người Hoa tại Sài Gòn hoặc Bắc Kỳ và những thành viên người Việt trong
Thanh Niên? Rất có khả năng những tổ chức cộng sản Nghiệp Đoàn Thuỷ Thủ, Liên Đoàn
Thanh Niên Cộng Sản, Ban Bí Thư Nghiệp Đoàn Thái Bình Dương, hoặc những phần tử cộng
sản trong Liên Đoàn Phản Đế đã cung cấp cơ cấu tổ chức để liên lạc và truyền đạt những giúp
đỡ về chính trị. Ta có thể đoán ít nhất là động lực thúc đẩy Thanh Niên và chú trọng việc tổ chức
tầng lớp vô sản đã được chuyển tải từ ĐCS Trung Quốc, có lẽ là qua ngõ Uỷ BAn Nam Dương
mà không phải trực tiếp từ Moscow hoặc từ Hồ Chí Minh đang ở Xiêm. Uỷ Ban Trung Ương của
Thanh Niên tại Quảng Đông hình như không liên quan đến việc này ‐ theo như những sự kiện
trong năm 1929 cho thấy.
Khi Lý Lập Tam (Li Li San ‐ ND) từ Moscow quay về vào cuối mùa hè hoặc đầu mùa thu 1928,
ông đã nhanh chóng khuyến khích xu hướng thiên tả bên trong ĐCS Trung Quốc với phương
pháp tạm thời đưa những người cộng sản Trung Quốc vào một mặt trận thống nhất hạ tầng với
những thành phần cánh tả của Quốc Dân Đảng. Đây là một khía cạnh trong chính sách của Lý
Lập Tam đã không được phản ánh trong tài liệu chính thức của ĐCS Trung Quốc. Nhưng tài liệu
của QTCS về ĐCS Trung Quốc đã cung cấp những bằng chứng về khía cạnh đã không được
công nhận này trong phong cách lãnh đạo của Lý Lập Tam. Khía cạnh này theo tôi đã có ảnh
hưởng đến hướng đi của những sự kiện tại Việt Nam trong năm 1929 và đầu năm 1930. Khi Lý
quay về lại Thượng Hải, ông chỉ là một thành viên dự khuyết của Bộ Chính Trị và Uỷ Ban
Thường Trực [108]. Nhưng với tư cách là người đứng đầu Phòng Tổ Chức, ông đã sớm trở thành
người lãnh đạo tối cao trong những khu vực thành thị. Rất có thể là Lý Lập Tam đã đưa ảnh
hưởng của mình vào trong Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương. Là lãnh đạo của Tổng Liên Đoàn Lao
Động tại Thượng Hải trong thời kỳ hoàng kim của nó vào năm 1925, và cũng là thành viên trong
Ban Bí Thư Thường Trực của Nghiệp Đoàn Thái Bình Dương, có thể ông đã là một nhân vật
quen thuộc đối với những người hoạt động công đoàn đã nhập cư đến những bến cảng ở Đông
Nam Á từ năm 1926 đến 1928 [109]. Ông mang những quan điểm thiên tả của Uỷ Ban Chấp
Hành của Phân Bộ Quảng Đông mà ông đã là thành viên sau khi trốn khỏi Thượng Hải vào cuối
năm 1925 [110]. Sau thất bại của Công Xã Quảng Châu ông được đề cử để đứng đầu Tỉnh Uỷ
Quảng Đông; không rõ là ông đã giữ chức vụ này bao lâu [111]. Cảnh sát Singapore sau này đã
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 121 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
lưu ý rằng đã có một ʺsự tăng cường mạnh mẽ trong việc tuyên truyềnʺ từ Uỷ Ban Trung Ương
ĐCS Trung Quốc đến Mã Lai trong năm 1928 và 1929. Họ cho là việc phát triển của chủ nghĩa
cộng sản tại Mã Lai là do phong trào tuyên truyền này [112]. Việc Lý Lập Tam quay về Thượng
Hải vào nửa cuối năm 1928 cho thấy đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tăng
cường tuyên truyền trên.
Một trong những hành động đầu tiên của Lý Lập Tam khi quay về Thượng Hải là trục xuất Thái
Hoà Sâm (Cai Hesen ‐ ND) ra khỏi thành phần lãnh đạo, một hành động mà QTCS cho là để bác
bỏ những kết quả của Đại Hội 6 ĐCS Trung Quốc. QTCS đã hy vọng việc bảo đảm được sự đoàn
kết trong thành phần lãnh đạo ĐCS Trung Quốc bằng cách đưa những đại biểu từ nhiều tầng lớp
khác nhau vào Bộ Chính Trị, một lá thư của Vladimir Kuchumov thuộc Cục Viễn Đông gửi vào
tháng 12 1928 cho Stalin, Molotov, Bukharin và Pyatnitsky đã giải thích như thế. Nhưng việc
Thái bị trục xuất được xem là một bước lùi lại thời kỳ cực tả trước Đại Hội 6. Lá thư của
Kuchumov đã đề cập đến thông tư (không có số) của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc bàn
về những vấn đề tổ chức trong đó đã lên án đường hướng ôn hoà của Chi Uỷ Thượng Hải, khác
hẳn với đường hướng cực đoan của Tỉnh Uỷ Quảng Đông. Lá thư của Kuchumov do đó đã phê
phán Hướng Trung Phát (Xiang Zhong Fa ‐ ND) và Lý Lập Tam đã không tổ chức được quần
chúng và không phát huy khẩu hiệu ʺĐoàn kết với giai cấp Tiểu Tư Sảnʺ. Phương cách khắc
phục những sai lầm chính trị này là gửi đến một nhóm đại diện cho Ban Chấp Hành QTCS để
làm việc với Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc. Điểm cuối cùng trong lá thư của Kuchumov
là đề xuất việc tái thiết lập Phân Bộ Viễn Đông để lãnh đạo các tổ chức tại Trung Quốc, Nhật,
Triều Tiên, Philippines và Đông Dương [113].
Phân Bộ Viễn Đông mới đã bắt đầu hoạt động tại Thượng Hải vào hạ tuần tháng 3 1929 [114]. Nó
bao gồm một người Ba Lan tên là Ignaty Lyubinetski‐Kylski, còn có tên là ʺOstenʺ, và một người
Đức thuộc cả hai cánh tả và hữu của ĐCS Đức trong những năm 20. Người này tên là Gerhard
Eisler, anh của Ruth Fischer, được biết đến với tên ʺRobertsʺ. Những người khác đóng cơ sở tại
Thượng Hải là đại diện của Công Đoàn Quốc Tế Đỏ (Profintern ‐ ND) là George Hardy và một
người khác tên là G.M. Bespalov, phái viên của Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản là Willy hoặc
ʺYoungʺ. Jakov Rudnik, người đứng đầu những hoạt động của Cục Thông Tin Quốc Tế đã quay
lại Thượng Hải vào mùa xuân 1930 với bí danh Milaire Noulens cùng với một số người
khác[115]. Osten/Rylski và Robers/Eisler là những báo cáo viên chính trị chủ chốt cho đến khi
Pavel Mif xuất hiện vào tháng 9 1930, trong khi đó những thành viên khác trong Phân Bộ Viễn
Đông có ít trách nhiệm hơn, ví dụ như là những công tác về công đoàn, hoặc trong trường hợp
của Rudnik là lo về tài chánh và hậu cần cho Phân Bộ. Những người cộng sản biết được, theo lời
Trương Quốc Đào (Zhang Guo Tao ‐ ND), rằng Kylski và Eisler đã có ʺnhưng sai lầm hữu
khuynhʺ trong quá khứ. (Trương đã nhầm lẫn tên của họ là Thalheimer và Brandler). Vì lý do
này, ông cho rằng, họ không được xem như những những người uỷ quyền đáng tin cậy dưới
quan điểm của một QTCS đã được Stalin hoá [116].
Mùa hè 1929 đã đem đến những tiến triển mới hứa hẹn một ʺcao trào cách mạngʺ xa vời mà
những người Trung Quốc hằng trông đợi mà giờ đây sắp sửa xảy ra. Như ta đã thấy, Đại Hội
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 122 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Toàn Thể QTCS lần thứ 10 vào tháng 7 đã quyết định ʺPhương Hướng Mớiʺ và việc đấu tranh
giai cấp là những chính sách chủ đạo trong phong trào cộng sản quốc tế. (Một lá thư của QTCS
gửi cho ĐCS Trung Quốc vào mùa hè năm ấy thông báo cho ĐCS Trung Quốc biết rằng những
người trung nông không còn được xem như là đồng minh trong cuộc đấu tranh chống giai cấp
địa chủ [117]). Cùng lúc ấy, phong trào chống đối vũ trang của một liên minh lỏng lẻo gồm
những địa chủ và sứ quân chống lại Quốc Dân Đảng đang dâng cao ở Nam Kinh. Kuusinen đã
phê bình ĐCS Trung Quốc trong một hội nghị của Ban Bí Thư Chính Trị thuộc Ban Chấp Hành
QTCS vào tháng hai rằng ʺRất nhiều đồng chí Trung Quốc chỉ chú trọng vào mục tiêu trước
mắt,, làm như họ đang ngồi bên cửa sổ chờ đợi một phép màu cách mạng thình lình xuất hiện.
Phép màu này phải xuất hiện ra sao thì không rõ ràng mấy.... Họ bàn về cuộc đấu tranh giữa giai
cấp tư sản và tổ chức Quảng Tây và bảo rằng nhờ nó mà cao trào cách mạng đang đến gần” [118]
Dù vậy, vì QTCS không ngừng nhấn mạnh sự cần thiết cảnh giác chống lại ʺchủ nghĩa cơ hội
hữu khuynhʺ và ʺchủ nghĩa thoả hiệpʺ, ĐCS Trung Quốc dường như đã quyết định rằng việc
nhen nhóm lại ʺchiến tranh quân phiệtʺ đã mở ra cho họ cơ hội để đẩy mạnh những cuộc khởi
nghĩa vũ trang. Stalin cũng đã đẩy mạnh mối căng thẳng trong nội bộ QTCS bằng cách liên tục
đưa ra những cảnh báo về một cuộc chiến tranh của đế quốc chống lại nước Nga Sô Viết, có lẽ để
kêu ủng hộ cho những chính sách kinh tế táo bạo của mình. Ông đã sử dụng mối mâu thuẩn
đang căng thẳng tại tuyến đường sắt Trung Quốc Đông Phương (đoạn nối dài của tuyến đường
sắt nổi tiếng Trans‐Siberian, là nguyên nhân của chiến tranh Nga‐Nhật và Trung‐Nhật ‐ ND) để
đưa ra quan điểm rằng một trong những nhiệm vụ của cộng sản thế giới là bảo vệ Liên Bang Sô
Viết.
Khi những người trong Hội Tái Tổ Chức tham gia vào việc điều phối cuộc đấu tranh vũ trang
chống lại chính quyền Nam Kinh vào giữa năm 1929, ĐCS Trung Quốc đã chủ tâm ủng hộ họ.
Trong số những người quân phiệt đã thách thức giới lãnh đạo Quốc Dân Đảng gồm có Trương
Phát Khuê (Zhang Fakui ‐ ND) ở Hồ Bái, Lý Tôn Nhân (Li Zong Ren ‐ ND) và Du Bình Bá (Yu
Zuobo ‐ ND) ở Quảng Tây [119]. Trần Công Bác chuyển đến Hồng Kông vào tháng 6 1929 để chỉ
huy chiến dịch vũ trang, được gọi là ʺPhong Trào Vệ Đảng Cứu Quốcʺ [120]. Có lúc dường như
nó đã có cơ hội chấm dứt quyền lực của Tưởng Giới Thạch. Hai thành viên cộng sản, Đặng Tiểu
Bình (Deng Xiao Ping ‐ ND) và Trương Vân Dật (Zhang Yun Yi ‐ ND) người gốc Hải Nam đã
được điều từ Thượng Hải đến Quảng Tây để trà trộn vào ʺPhong Trào Cứu Quốcʺ, Đặng đến vào
khoảng giữa năm 1929 và Trương vào khoảng đầu năm 1928. Đặng kể lại với Edgar Snow (nhà
báo Mỹ ‐ ND) vào năm 1936 rằng ông đã đến Quảng Tây qua ngã Hải Phòng, Việt Nam vì ngã
Quảng Châu quá mạo hiểm. Ông kể rằng đã liên lạc với những phiến quân người Việt, những
người đã phát động cuộc ʺkhởi nghĩa Công‐Nông vào năm 1930ʺ [121]. Không chắc hẳn như lời
của Uli Franz (nhà sử học Đức ‐ ND) rằng Đặng đã tham khảo với Hồ Chí Minh tại Thượng Hải
về con đường nào tốt nhất để đi Quảng Tây. Nhưng rõ ràng là Đặng đã dùng những cơ sở người
Việt để giúp ông di chuyển từ Hải Phòng bằng tàu hoả để đến biên giới Quảng Tây, từ đó ông đi
theo con đường của những thành viên Thanh Niên đến Long Châu rồi từ đó đi Nam Kinh [122].
Sau Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10, Phân Bộ Viễn Đông tại Thượng Hải ‐
bao gồm những nhân viên ʺhữu khuynhʺ cũ ‐ đã đưa ra quan điểm bằng cách thông qua một
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 123 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
nghị quyết biểu lộ sự ủng hộ tuyệt đối của họ đối với chính sách ʺPhương Hướng Mớiʺ. Tài liệu
này được viết vào tháng 10 1929, trong đó tuyên bố rằng Phân Bộ Viễn Đông sẵn sàng chiến đấu
chống lại ʺnhững đe doạ mang tính cơ hội và dao động trong ĐCS Trung Quốcʺ. Bản nghị quyết
cũng đã phê phán ĐCS Trung Quốc chỉ có ʺmột lớp mỏng của thành phần công nhân và tiếp xúc
với một số tổ chức quốc gia cách tânʺ. Tỉnh Uỷ Quảng Tây đã thương lượng với Tướng Du Bình
Bá về hoạt động trong đội quân của ông ta, và gửi điện đến những tổ chức địa phương kêu gọi
một chiến dịch rộng lớn ủng hộ khối Trương Phát Khuê ‐ Du Bình Bá, bản nghị quyết cho biết.
Một số đảng viên đã từ chối thành lập những công đoàn đỏ trong những hãng xưởng đã có
những công đoàn vàng hoặc trực thuộc chính phủ tồn tại [123].
Nghị quyết này của Phân Bộ Viễn Đông đã tạo ra phản ứng đầy giận dữ từ Bộ Chính Trị Trung
Quốc. Trong những cuộc họp với Phân Bộ Viễn Đông vào tháng 12 1929, những người Trung
Quốc, do Chu Ân Lai, Lý Lập Tam và Hướng Trung Phát đại diện, đã không thừa nhận việc bị
cáo buộc là có những ʺsai lầm hữu khuynhʺ. Tại cuộc họp ngày 10 tháng 12 Rylski đã phê bình
ĐCS Trung Quốc về việc đã hợp tác với thành phần trung nông và những người ʺquốc gia cách
tânʺ tại Quảng Tây [124]. Ông thừa nhận là khi những mâu thuẫn xảy ra tại tuyến đường sắt
Đông Phương, ʺchúng tôi đã thảo luận về chiến tranh du kích với các đồng chí và đã đưa ra
những đề xuất rất vững chắc mà các đồng chí cũng đã chấp nhận. Chúng tôi đã đề nghị các đồng
chí nên tổ chức, mở rộng và kích hoạt những cuộc chiến tranh du kích...ʺ [125]. Nhưng với nỗ lực
nhằm tránh liên hệ trách nhiệm vì những sai lầm của ĐCS Trung Quốc, ông đã bổ xung rằng đề
nghị này đã đi kèm với những chỉ thị giáo dục quần chúng mà ĐCS Trung Quốc đã không chịu
áp dụng [126]. Lý Lập Tam phản biện lại lời chỉ trích này tại cuộc họp thứ hai (13 tháng 12], ông
nói rằng Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc luôn đấu tranh chống lại mối đe doạ hữu
khuynh, rằng họ đã chiến đấu những khuynh hướng thiên hữu bằng những phương pháp như
hợp pháp hoá phong trào, phát triển hoà bình và đánh giá nghiêm khắc tầng lớp tư sản. Ông
cũng chỉ ra rằng Uỷ Ban Trung Ương cũng đã phê phán những người ʺTái Tổ Chứcʺ tại Quảng
Tây: ʺCó thể có những đồng chí hoạt động trong quân đội đã không hiểu rõ tình hình tại Quảng
Tây. Nhưng không nên liên hệ những sai lầm của họ với Uỷ Ban Trung Ương và Đặc Uỷ Quảng
Tâyʺ [127].
Cuối cùng sau một thuyết trình dài của Eisler vào ngày 17 tháng 12, cả hai phía đã đồng ý đệ
trình những bất đồng của họ lên Moscow để thỉnh cầu quyết định tối hậu về chính sách. ʺKhi
chưa có được nghị quyết về vấn đề này, chúng tôi sẽ vẫn tiếp tục những hoạt động thường nhật
như trước đâyʺ, Hướng Trung Phát kết luận. ʺNếu ĐCS Trung Quốc phạm sai lầm, Phân Bộ Viễn
Đông sẽ chấn chỉnh họ và ngược lại, nếu Phân Bộ sai phạm, chúng tôi sẽ phải đấu tranh phản
đối họ. Ngoài việc gửi điện, chúng tôi đề nghị gửi một đồng chí Trung Quốc đến Moscow” [128]
Kết cục này đã làm cho Phân Bộ Viễn Đông không có một quyền lực thật sự nào trong mắt của
ĐCS Trung Quốc cho đến khi Moscow đưa ra quyết định cuối cùng. Dường như từ cuối tháng 12
1929, Lý Lập Tam và người của ông đã cho thấy họ càng trở nên độc lập trong việc giải thích
những chính sách của QTCS. Dù thế, họ lại không muốn mất đi số tiền viện trợ từ QTCS mà
trong năm 1929 đã lên đến hơn 200 nghìn đô‐la cũng như số tiền 16.408 đô‐la dành cho Đoàn
Thanh Niên Cộng Sản [129]. Vào tháng 2 1930 Chu Ân Lai bắt đầu đi Moscow để hội ý. Ông đến
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 124 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Moscow vào tháng 4 sau khi đi qua Berlin [130]. Rylski cũng quay lại Moscow trong khoảng thời
gian ấy.
Sự rạn nứt của Thanh Niên
Giai đoạn của việc Lý Lập Tam tìm cách nắm giữ quyền lực trong cơ cấu của ĐCS Trung Quốc
xảy ra cùng lúc với sự rạn nứt đang lớn dần trong Thanh Niên Hội. Như đã nhắc đến ở trên, bắt
đầu từ tháng 9 1928, chi bộ phía bắc của Thanh Niên đã bắt đầu một chiến dịch ʺvô sản hoáʺ
chính mình. Vào tháng 3 1929 họ đã thành lập một nhóm cộng sản ở Hà Nội. Khi Phân Bộ Viễn
Đông đang tự thiết lập ở Thượng Hải, tầng lớp lãnh đạo của Thanh Niên đã triệu tập một hội
nghị toàn quốc ở Hồng Kông (họ đã phải rời Quảng Châu vào đầu năm 1929, khi Hồ Tùng Mậu
và một nhóm học viên người Việt ở Hoàng Phố bị bắt). Khi đại hội khai mạc vào tháng 5, chiều
hướng thiên tả đã được khẳng định rõ ràng. Đã không có những bất đồng lớn giữa các đại biểu
về sự cần thiết để thành lập một đảng cộng sản theo khuôn khổ Bolshevik, dựa trên tinh thần
của Đại Hội QTCS lần 6. Nhưng trong những cuộc họp tiền đại hội, đoàn đại biểu từ phía bắc đã
tạo ra mối chia rẽ khi họ đòi hỏi phải thành lập đảng cộng sản ngay lập tức. Ba nhân vật bất
đồng này là Trần Văn Cung, Nguyễn Tuấn và Ngô Gia Tự đã sớm rút khỏi đại hội trong khi
những người lãnh đạo từ Trung Quốc là Lâm Đức Thụ và Lê Hồng Sơn đã không chịu thay đổi
quan điểm của họ rằng Việt Nam chưa sẵn sàng bước khỏi giai đoạn chuẩn bị cho việc thành lập
đảng [131]. Nhưng theo tài liệu của Sở Liêm Phóng thì Lê Hồng Sơn đã tham khảo ý kiến về
cương lĩnh mới với ĐCS Trung Quốc tại Hồng Kông và vì thế ông có cơ sở để cho rằng mình đã
đi đúng hướng [132]. Những đại biểu từ các phân bộ miền trung, miền nam và Xiêm của Thanh
Niên lưu lại Hồng Kông cho đến cuối tháng 5 để hoàn thành bộ ʺtiểu cương lĩnhʺ khổng lồ bao
gồm những hình thức kỷ luật trong đó có năm vi phạm dẫn đến án tử hình. Cương lĩnh đặc biệt
thừa nhận những văn bản của Đại Hội QTCS lần 6 và tuyên bố chấm dứt mọi liên hệ với Quốc
Dân Đảng Trung Quốc, giờ đã bị họ cho là đảng của ʺphong kiến, địa chủ và đế quốcʺ [133]. Một
Uỷ Ban Trù Bị được thành lập để bắt đầu việc thiết lập đảng cộng sản. Hồ Chí Minh bị đánh rơi
khỏi hàng ngũ lãnh đạo vì ông đang ở quá xa; theo lời Lâm Đức Thụ thì đã có những tin đồn
rằng ông đang bị ốm nặng tại Đức [134].
Câu hỏi tại sao những người lãnh đạo Thanh Niên ở phía bắc lại có thái độ chống đối với Uỷ Ban
Trung Ương của Thanh Niên tại Trung Quốc có lẽ không có câu trả lời đơn giản. Tuổi trẻ cao
ngạo có lẽ là một phần nguyên nhân, cộng với ước mong hợp lý là đem giới lãnh đạo cộng sản
đến gần với những thành viên trong nước. Đến khi Đại Hội tiến hành ra vào tháng 5, nhóm phía
bắc có thể đã có một vài phản đối chắc chắn đối với giới lãnh đạo tại Quảng Châu/Hồng Kông.
Ví dụ rõ ràng nhất là sự hiện diện của Lâm Đức Thụ, ngay cả vào năm 1929, Thụ đã bị những
nhà cách mạng, đặc biệt là Nguyễn Hải Thần nghi ngờ là mật thám của Pháp [135]. Thụ còn biết
đến như là một người có lối sống suy đồi và chính ông đã báo cáo với Sở Liêm Phóng rằng mình
đã ʺbị những đồng chí phê phán mạnh bạo trong suốt cả năm.ʺ Vì thế ông đã yêu cầu không
nhận lãnh một chức vụ lãnh đạo nào, và đã trấn an Sở Liêm Phóng rằng việc này sẽ ʺlàm cho
công tác của tôi dễ dàng hơnʺ [136]. (công tác của ông có lẽ liên quan đến việc tạo ra sự hiểu lầm
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 125 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
giữa những nhóm cách mạng). Một nguyên nhân khác của sự xích mích trên là ưu thế của những
người có gốc gác từ những tỉnh miền trung như Nghệ An và Hà Tĩnh trong hàng ngũ lãnh đạo
tại Hồng Kông. Liên quan đến mối căng thẳng vùng miền này có thể là sự khác nhau của hai
nhóm trong phương pháp đào tạo và tổ chức. Nhóm Trung Quốc bao gồm các thành viên đã qua
huấn luyện quân sự, một số trong họ đã từng là giảng viên tại Hoàng Phố. Những người này
gồm có Trương Văn Lềnh, Lê Quảng Đạt, Lê Duy Điếm và Lê Hồng Sơn. Họ cũng có nguồn gốc
từ nông thôn. Lê Hồng Sơn từng là tuyên truyền viên cho Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Quốc
Tế trong tầng lớp nông dân tại Đảo Hải Nam; Hồ Tùng Mậu đã giúp tổ chức những hiệp hội
tương ái tại những vùng thôn quê ở Xiêm. Trong khi đó, những thành viên Bắc Kỳ của Thanh
Niên ngày càng tập trung vào việc tổ chức tại những khu vực thành thị. Hoạt động của họ tại
bến cảng Hải Phòng và những khu mỏ Cẩm Phả, Uông Bí và Mạo Khê, nơi có mật độ người lao
động gốc Hoa cao, có lẽ đã giúp họ liên lạc với những người tổ chức công đoàn thuộc Liên Đoàn
Lao Động Nam Dương và Tỉnh Uỷ Quảng Đông của ĐCS Trung Quốc. Những căng thẳng này
cũng có thể đã xuất hiện tại Nam Kỳ. Sự tranh đua giữa Tôn Đức Thắng, một lãnh tụ công nhân
tại Sài Gòn, và Lê Văn Phát đã dẫn đến việc Phát bị Thanh Niên ám sát vào tháng 12 1928, có thể
được bắt nguồn từ những xung đột thành thị và nông thôn. Chúng ta có thể thấy được những
khác biệt này đã tạo thành mảnh đất màu mỡ để cho Sở Liêm Phóng gieo rắc những hạt giống
kích động tranh chấp.
Thời điểm từ tháng 6 1929 đến tháng 2 1930 là thời điểm nguy kịch của những người cộng sản
Việt Nam. Thành phần ly khai tại Bắc Kỳ đã thành lập một đảng cộng sản riêng vào tháng 6 gọi
là Đông Dương Cộng Sản Đảng và đã nhanh chóng điều động phái viên đến những vùng khác
trong nước. Vì họ nắm quyền tại chi bộ phía bắc của Thanh Niên nên những thành viên miền bắc
dù muốn hay không cũng đã tự động gia nhập đảng mới. Họ cũng đã xâm nhập vào miền trung
và miền nam. Trong cả hai vùng này hàng ngũ lãnh đạo của Thanh Niên đã bị một làn sóng bắt
bớ tấn công vào cuối năm 1929. Vào tháng 7 toàn bộ chi uỷ của miền trung đã bị bắt, trong đó có
Nguyễn Sĩ Sách vừa mới trở về từ hội nghị của Thanh Niên và Vương Thúc Oánh, Trần Văn
Cung cũng bị bắt. Võ Mai trốn lên vùng thượng du Nghệ Tĩnh [137]. (Hồ Chí Minh và Trần Phú
đều bị xử tử vắng mặt tại một phiên toà ở Vinh vào tháng 10 1929). Cũng vào tháng 7 người
Pháp bắt đầu bắt giữ những nhà hoạt động mà tên tuổi được tìm ra từ cuộc điều tra về cái chết
của Lê Văn Phát, còn gọi là vụ án đường Barbier. Những người này gồm có Phạm Văn Đồng,
Tôn Đức Thắng và Nguyễn Kim Cương [138]. Những nhà tổ chức khác bị buộc phải rút về vùng
nông thôn như Đồng Tháp [139]. Cùng lúc đó, đảng Tân Việt (Cách Mạng Đảng cũ) đã bị tê liệt
vì những người lãnh đạo tại miền trung và Sài Gòn đã bị bắt giữ. Việc họ cư ngụ chung với
những lãnh đạo Thanh Niên đã dẫn đến việc khám phá ra những tài liệu của Đảng do Hà Huy
Tập soạn thảo khi vụ án mạng đường Barbier được phanh phui (Hà Huy Tập và hai thành viên
Tân Việt khác là Trần Ngọc Danh và Trần Phạm Ho đã trốn đi Thượng Hải sau khi cơ quan
trung ương của Việt Tân bị khám phá vào tháng 12 / 1928 [140]). Tại Vinh, Nguyễn Thị Minh
Khai báo cáo rằng chỉ còn những nhóm công nhân và phụ nữ vẫn còn đứng vững [141]. Những
vụ bắt bớ này chắc chắn đã tạo ra lợi thế cho Đông Dương Cộng Sản Đảng (ĐDCSĐ) vì họ mặc
nhiên đã trở thành một tổ chức với những người đứng đầu có kinh nghiệm nhất tại Việt Nam.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 126 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
Không bao lâu sau khi ĐDCSĐ hình thành, Ngô Gia Tự được phái đi Sài Gòn để thành lập cơ sở
trong tầng lớp cu‐li tại Chợ Lớn và bắt đầu tạo ra một Tổng Liên Đoàn Lao Động. Những người
tổ chức công đoàn của Thanh Niên không gia nhập ĐDCSĐ không bao lâu sau cũng đã thành
lập một Tổng Liên Đoàn Lao Động riêng cho mình [142].
Trước mối đe doạ bị mất tất cả các thành viên, Uỷ Ban Trung Ương Thanh Niên tại Hồng Kông
bắt buộc phải từ bỏ quan điểm của mình về việc thành lập đảng cộng sản. Đến cuối tháng 8 /
1929, ngay sau khi Hồ Tùng Mậu và khoảng 20 cựu học viên Hoàng Phố vừa được phóng thích,
họ đã quyết định thành lập An Nam Cộng Sản Đảng. Họ đã viết trong một văn thư dài đầy tính
tự vệ cho các thành viên (có thể được viết vào trung tuần tháng 10, vì văn thư có đề cập đến một
lá thư gửi cho ĐDCSĐ vào ngày 4 tháng 10): ʺUỷ Ban Trù Bị đã phù hợp với tình hình trước đây,
nhưng giờ đây Uỷ Ban này đã không còn đáp ứng được những đòi hỏi hiện tại” [143] Một phần
của trở ngại này là đã có nhiều thành viên trong Uỷ Ban bị bắt giữ trên đường quay về Việt Nam
sau kỳ Đại Hội vào tháng 5, bản văn thư giải thích. Thanh Niên Hội đã bị giải tán và giờ đây chỉ
có vài nhóm còn lại tại Xiêm và Nam Kỳ. Một tiểu tổ của An Nam Cộng Sản Đảng (ANCSĐ) đã
được thành lập tại Hồng Kông với nhiệm vụ thành lập một đảng thực thụ, ʺnhư chúng tôi đã lưu
ý, ĐDCSĐ không phải là một đảng thực sựʺ, bức thư nói. Đảng mới do Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng
Sơn, Lê Quảng Đạt và Lê Duy Điếm lãnh đạo, tuyên bố rằng ANCSĐ hoàn toàn chấp thuận
cương lĩnh của đảng đối phương. Họ than phiền rằng ĐDCSĐ đã bắt đầu tổ chức từ trên xuống
trước khi thành lập các chi bộ tại các khu lao động hoặc trong lòng quần chúng. Một phê phán
khác là ĐDCSĐ đang thành lập các nhóm của những người ʺĐỏʺ, những người này được kêu gọi
hoạt động với quần chúng và đóng Đảng phí hàng tháng mà không thực sự phải trở thành đảng
viên. Do đó, những người ʺĐỏʺ bị bắt buộc phải hoàn toàn chấp hành mệnh lệnh và quyết định
của đảng ‐ điều này đi ngược lại với nguyên tắc dân chủ tập trung, lá thư nói. (Những người
đứng đầu ANCSĐ căn cứ vào những hiểu biết của họ về phương pháp hoạt động của ĐDCSĐ
dựa theo một bức thư đề ngày 4 tháng 10 1929 của ĐDCSĐ gửi cho ĐCS Trung Quốc, cũng như
trên tờ báo Cờ Đỏ của ĐDCSĐ số ra ngày 26 tháng 9 [145]). Ngoài ra còn có một than phiền khác
nữa là, căn cứ theo một thành viên ẩn danh của ĐDCSĐ, đảng này ʺđã dẫn dắt quần chúng phá
hoại các đền chùaʺ [146].
Có lẽ sai lầm tệ hại nhất của ĐDCSĐ là việc đảng này đã hoạt động để ʺnhằm lật đổ Thanh Niên
và Tân Việt, trong khi đó lại đề xướng việc hợp tác với Việt Nam Quốc Dân Đảng hòng thúc đẩy
việc phát triển của đảngʺ. Bản văn thư cho rằng, thực chất ĐDCSĐ đã giúp đỡ Việt Nam Quốc
Dân Đảng (VNQDĐ) bằng cách thay đổi cương lĩnh của mình và giới thiệu những người cộng
sản vào VNQDĐ [147]. Việc đưa những người cộng sản vào VNQDĐ đã gợi lại sách lược của Hồ
Chí Minh trong giai đoạn 1926‐7 đối với Cách Mạng Đảng/Tân Việt. Có thể đây là một sự lập lại
của liên minh hiển nhiên đã tồn tại trong giai đoạn 1928‐9 giữa ĐCS Trung Quốc và Quốc Dân
Đảng cánh Tả. Quan hệ thân thiện giữa ĐDCSĐ và VNQDĐ cũng là dấu hiệu cho thấy hiện
tượng tị hiềm vùng miền giữa khu vực miền trung và miền bắc. Trong khi giới lãnh đạo của
Thanh Niên đã khéo léo trà trộn và hợp nhất với Đảng Tân Việt là một tổ chức có gốc gác từ
miền trung Việt Nam thì ĐDCSĐ lại muốn thành lập một mặt trận chung với một đảng phi cộng
sản có nguồn gốc từ phía bắc. Lãnh đạo của ĐDCSĐ vào ngày 4 tháng 10 đã viết thư cho ANCSĐ
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 127 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
rằng đảng của họ tin rằng ʺhọ có thể hợp tác với VNQDĐ trong hoàn cảnh hiện tại... Nhưng sự
hợp tác này chỉ xảy ra nếu Quốc Dân Đảng không phản đối những hoạt động tuyên truyền và tổ
chức của ĐDCSĐ ngay bên trong đảng của họ (có nghĩa là ĐDCSĐ sẽ bí mật điều khiển nó[148]).
Và rồi trong một lá thư của Uỷ Ban Trung Ương ĐDCSĐ gửi cho Ngô Gia Tự đề ngày 7 tháng 1
1930, tác giả bức thư lưu ý rằng để đối diện với VNQDĐ, ĐDCSĐ sẽ tiếp tục tìm các phương
hướng trà trộn nhằm thành lập một Sô Viết, từ đó sẽ ʺkết hợp với quần chúng của ta để tạo ra
một Sô Viết thực thụʺ [149].
Con số thành viên của hai nhóm cộng sản đang tranh đua thì khác nhau, nhưng ĐDCSĐ tự nhận
rằng đến 5 tháng 12 1929 họ đã kết nạp được 60 thành viên ở Nam Kỳ, và khoảng 40 hoặc 20 ở
Trung Kỳ (báo cáo viên không nhớ được chính xác [150]). Hà Huy Giáp đã viết trong hồi ký của
mình rằng có 800 thành viên Thanh Niên ở miền nam vào mùa thu 1929 [151]. Nhưng ANCSĐ
chỉ thu nhận khoảng 50 người từ nhóm này trong giữa mùa thu, theo lời của Dương Hạc Đính,
một chỉ điểm của Sở Liêm Phóng. Ông là một học viên trước đây của Thanh Niên và cho đến
tháng 5 1929 là thành viên của thành phần ly khai Bắc Kỳ. Nhưng ông lại đầu quân cho nhóm
lãnh đạo Thanh Niên ở Trung Quốc sau đại hội và vào tháng 9 đã được gửi đi Sài Gòn để thành
lập một uỷ ban lâm thời cho ANCSĐ. (Việc này xảy ra sau việc bắt giữ hầu hết các thành viên
của uỷ ban trù bị vào tháng 7). Cùng với Hoàng Tuyên (Trần Văn Minh), một cựu học viên
Hoàng Phố từ Nam Kỳ, Nguyễn Ngọc Ba, Đỗ Lương và Nguyễn Văn Ngọc, ông đã thành lập
một danh sách các thành viên Thanh Niên trong vùng Sài Gòn ‐ Gia Định và một danh sách khác
cho vùng Mỹ Tho và Cần Thơ để kết nạp họ vào đảng mới. Hai bản danh sách này tổng cộng
được khoảng 50 người, Đính cho biết [152].
Yếu tố đầu tiên từ bên ngoài thúc đẩy việc hợp nhất của hai đảng cộng sản đã đến từ một kiểm
soát viên người Trung Quốc thuộc Phân Bộ Viễn Đông ở Thượng Hải. Ông đến Hồng Kông vào
tháng 11 và đang trên đường đến Singapore. Như Hồ Tùng Mậu đã viết cho ĐDCSĐ vào ngày
14 tháng 11, một quyết định đã được đưa ra ở Thượng Hải để thành lập một ban bí thư cho Liên
Hiệp Cộng Sản các Dân Tộc Phương Đông bị Áp Bức. Nhiệm vụ của Liên Hiệp này là ʺđể trực
tiếp chỉ đạo tổ chức các nước Mã Lai Á, Java, Burma, Xiêm và An Nam nhằm thành lập các đảng
cộng sản càng nhanh càng tốt.ʺ Phiên họp khai mạc của tổ chức này sẽ được bắt đầu trong vòng
hai tháng, với sự tham dự của các đại biểu từ các nước. ʺNhưng tốt hơn là chúng ta nên hoàn tất
việc thống nhất trước khi gửi đại biểu đến,ʺ Hồ Tùng Mậu viết [153]. Ban bí thư của Liên Hiệp sẽ
đặt tại Singapore và dường như là một hiện thân của Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương. Dấu hiệu
về tầm quan trọng của vai trò ĐCS Trung Quốc đối với phong trào cộng sản Việt Nam vào cuối
năm 1929 có thể tìm được trong nhận định của Sở Liêm Phóng về một trong những thư từ trao
đổi giữa hai thành phần trong tháng 11. Sở Liêm Phóng nhận định rằng ĐDCSĐ tại Sài Gòn
đang gửi tài liệu tuyên truyền bằng tiếng Hoa cho thành viên của họ tại Bắc Kỳ, một dấu hiệu
cho thấy phía Nam vẫn là trung tâm hoạt động của Uỷ BAn Nam Dương tại Việt Nam [154].
Những người Việt tại Hồng Kông đã đặt vấn đề về việc phải hoạt động trong quyền hạn của
Singapore, theo lời kể của Dương Hạc Đính. Đại diện của Trung Quốc khuyên họ nên cho Phân
Bộ Viễn Đông biết suy nghĩ của mình và đồng thời khuyến khích họ nên gửi đại biểu từ mỗi
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 128 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
đảng đến Singapore sau này. Do đó Lê Quảng Đạt đã được phái đến Thượng HảI để nói chuyện
với ʺmột số thành viên Trung Quốc tại Phân Bộ Viễn Đôngʺ [155].
Điều quan trọng là vào thời điểm này những thành viên châu Âu của Phân Bộ Viễn Đông dường
như đang cổ động cho vai trò của cộng sản Trung Quốc tại Đông Nam Á. Nhiệm vụ của kiểm
soát viên người Trung Quốc đề cập ở trên có thể là kết quả từ yêu cầu của Liên Đoàn Phản Đế ở
Berlin rằng Phân Bộ Viễn Đông nên tập hợp một đoàn đại biểu để đến Hội Nghị Thanh Niên
Phản Đế đang dự định tổ chức tại Frankfurt trước khi Đại Hội Thế Giới lần 2 của Hội Liên Hiệp
Phản Đế, dự định tổ chức vào tháng 7 1929. Phân Bộ Viễn Đông gửi thư cho Berlin vào tháng 5
1929 bảo rằng họ không có địa chỉ của những tổ chức thanh niên ở Triều Tiên, Nam Dương,
Đông Dương hoặc Mã Lai Á. ʺKhả năng còn lại là làm việc thông qua các tổ chức của Trung
Quốc ở các nước ấy,ʺ lá thư nói. Họ quyết định rằng ʺphải gửi một đồng chí đến những địa điểm
trên để truyền đạt chỉ thị và đề xuất nhằm xây dựng một tổ chức phản đế trẻ bao gồm những
thanh niên bản xứ và Trung Quốc.ʺ Nỗ lực của Phân Bộ Viễn Đông rõ ràng là đã quá trễ để gửi
các đại biểu đến Berlin, nhưng theo lời giải thích của họ, phái viên của họ sẽ giúp họ ʺcó khả
năng tìm hiểu trực tiếp những điều kiện tại những nơi này và để bắt đầu các bước thành lập
những tổ chức dân tộcʺ [156].
Vào tháng 1 1930 Rylski báo cáo rằng Phân Bộ Viễn Đông đang thiếu hụt thành viên để thực hiện
những chuyến công tác theo yêu cầu trong khu vực. Sự tiện lợi của những người Trung Quốc bị
giới hạn vì họ thường bị từ chối nhập cảnh vào các nước Đông Nam Á hoặc bị bắt giữ khi vừa
đến đích [157]. Dù vậy dường như đã không còn khả năng nào khác ngoại trừ việc trông đợi vào
những thành viên Trung Quốc này. Tại Moscow, QTCS cũng đã đi đến kết luận như trên. Phân
Bộ Trung Á vừa được tái lập, có trách nhiệm tại Burma, Ấn Độ, Nam Dương và Đông Dương, đã
tổ chức một cuộc họp vào ngày 12 tháng 11 để thảo luận về việc tái thiết Đảng Cộng Sản Đông
Dương. Vì những thành viên Nam Dương đã bị phân tán bởi nhà cầm quyền Hà Lan sau cuộc
khởi nghĩa 1926, một đề nghị được đưa ra là tận dụng ʺtổ chức cộng sản người Hoa đang tồn tại
ở Singapore, các tiểu bang Mã Lai và Nam Dương có quan hệ với Uỷ Ban Trung Ương ĐCS
Trung Quốc bất chấp sự yếu kém về số lượng và tư tưởngʺ, bản nghị định viết, ʺtổ chức này có
liên hệ với những công nhân người Hoa và địa phương và đang lãnh đạo một số nghiệp đoàn
trực thuộc Hội Đồng Nghiệp Đoàn của Quần Đảo Mã Lai... Tạm thời tổ chức này có thể được
dùng làm cơ sở để phát triển hoạt động tại Nam Dương” [158] QTCS dường như đã không hiểu
rõ truyền thống của người Trung Quốc về khái niệm ʺNam Hảiʺ, một khu vực đang chịu ảnh
hưởng thống trị của Trung Quốc. Những thành viên châu Âu tại Phân Bộ Viễn Đông cho rằng
Singapore là trung điểm liên lạc giữa các khu vực đang chịu sự điều phối của Phân Bộ Trung Á
thuộc QTCS bao gồm từ Ấn Độ đến Nam Dương, và nếu cần thiết, cả Đông Dương nữa.
Kuusinen xem Ấn Độ và Nam Dương là những mục tiêu chính cho hoạt động của QTCS trong
khu vực, như ta đã thấy; hai thuộc địa này sẽ là điểm đến chính thức của hai kiểm soát viên
người Pháp của QTCS, được gửi đến Đông Nam Á trong năm 1930 và 1931.
Người đầu tiên là một đại diện có tên là ʺThibaultʺ, vào tháng 8 1929 ông đang ở Bỉ để làm giấy
tờ giả. Trong khi đang đợi tin tức và tiền từ Moscow, ông đã báo cáo rằng ông đang thu thập tài
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 129 Diễn đàn www.x‐cafevn.org
liệu về Nam Dương, khu vực Ấn thuộc Hà Lan và quần đảo Philippines. Ông yêu cầu gửi gấp
những quyết định mới nhất về công tác của ông, kể cả tài liệu từ Liên Đoàn Phản Đế [159]. Tập
hợp các nguồn dữ liệu lại với nhau, ta có thể đoán được rằng nhân vật này là Jean Crémet, một
thành viên cộng sản người Pháp mà từ lâu nay bị cho là đã mất tích tại Trung Quốc vào đầu năm
1930 (Vào những năm 1960, ông tái xuất hiện ở Bỉ) [160]. Joseph Ducroux, được Liên Đoàn
Thanh Niên Cộng Sản Quốc Tế phái đến châu Á vào năm 1931 có nhắc đến trong hồi ký của
mình rằng Cục Thông Tin Quốc Tế đã yêu cầu ông tìm Crémet ở Thượng Hải và Hồng Kông vì
QTCS đã không nhận được tin của ông đã hơn một năm [161]. Ducroux nhớ lại là Crémet đã di
chuyển bằng một hộ chiếu Bỉ dưới tên là Walloon. Ducroux từng làm việc cho Liên Đoàn Thanh
Niên Cộng Sản Quốc Tế tại Moscow từ 1928 đến 1930 như là một chuyên gia về Ấn Độ và trong
mùa đông 1929‐30 được phân công chuyển những ʺtrợ giúp về chính trị, vật chất và tinh thầnʺ
đến cho ĐCS Ấn. Cả hai đại diện người Pháp này đều thất bại trong nhiệm vụ của họ:Thibault
đã không qua khỏi Bắc Kỳ trước khi biến mất vào tháng 2 1930, và Ducroux, sau khi đi qua Việt
Nam, đã bị bắt tại Singapore vào năm 1930 trước khi đến được Ấn Độ. Việc Thibault/Crémet mất
tích dường như đã tạo ra những bối rối trong quá trình thống nhất của hai tổ chức cộng sản Việt
Nam, như sẽ được phân tích ở chương kế tiếp.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ
No comments:
Post a Comment