Wednesday, June 6, 2012

NGUYỄN THIÊN THỤ * TRUNG ĐẠO III





PH„N IV 
áp døng TRUNG ñẠO
TRONG CU¶C S–NG



Trung Çåo cûa ÇÙc PhÆt nhÜ m¥t tr©i. Nh© có ánh dÜÖng mà có ngày Çêm,  vån vÆt vui sÓng và trܪng thành. Con ngÜ©i dùng ánh dÜÖng Ç‹ chæn nuôi, trÒng tr†t, phÖi quÀn áo, phÖi khô hoa quä, rau, th¿c phÄm và cá thÎt. Ngày nay, ngÜ©i ta còn dùng næng l¿c m¥t tr©i Ç‹ thay th‰ nhiên liŒu. NhÜng phäi tùy sÙc, tùy trÜ©ng h®p. SÙc nóng m¥t tr©i có th‹ lên rÃt cao, có th‹ làm cháy m¶t thành phÓ. 

Chúng ta  nên áp døng thuy‰t trung Çåo cûa ÇÙc PhÆt vào trong Ç©i sÓng tu tÆp và Ç©i sÓng bình thÜ©ng. Tuy nhiên, thuy‰t cûa ÇÙc PhÆt rÃt cao, chúng ta là ngÜ©i phàm, không th‹ th¿c hiŒn hoàn toàn. Tùy theo khä næng chúng ta. M¥t tr©i là cûa chung, ai cÛng có th‹ hÙng lÃy m¶t vài tia n¡ng Ãm. Và ai cÛng có th‹ rút tØ tri‰t lš trung Çåo cûa ÇÙc PhÆt làm nguÒn sÓng cho mình. Có nhiŠu phÜÖng cách áp døng thuy‰t trung Çåo. Sau Çây là m¶t vài š ki‰n Çóng góp v§i các bÆc thiŒn tri thÙc.






CHÐ÷NG XIII
Hu TH„N Và VÔ TH„N

            PhÆt giáo là tôn giáo hay chÌ là tri‰t h†c? Là vô thÀn hay h»u thÀn?   Qua ÇÎnh nghïa cûa các h†c giä, ta có th‹ tóm t¡t r¢ng Tôn giáo là m¶t  c¶ng ÇÒng nhân loåi,  có tín ngÜ«ng và nghi thÙc cúng t‰, có m¶t nŠn væn hóa, lÎch sº, và thÀn h†c. Tôn giáo mang tính cách thÀn bí ho¥c không thÀn bí.. Trong tôn giáo, ngÜ©i ta chú tr†ng vŠ m¶t cá nhân thiêng liêng, hay con ngÜ©i trÀn gian, m¶t hŒ thÓng tÜ tܪng, hay m¶t ÇÓi tÜ®ng ÇÜ®c coi là siêu nhiên hay thánh thiŒn. Tôn giáo Çã lÆp nên m¶t nŠn luân lš, ngôn ng», væn t¿, tÆp quán, nghi lÍ, và nhÃt là tåo nên m¶t dòng tri‰t h†c. Tôn giáo cÛng là m¶t phÜÖng cách sÓng.
            Ngày nay, có hai khuynh hܧng chính nghiên cÙu vŠ PhÆt giáo. M¶t khuynh hܧng xem PhÆt giáo là vô thÀn và m¶t phái coi là h»u thÀn.
M¶t sÓ PhÆt tº và nhà nghiên cÙu cho r¢ng kh©i thûy PhÆt giáo vô thÀn, là tri‰t h†c, nói nhÜ vÆy, h† muÓn phû nhÆn Çåo PhÆt, phû nhÆn tôn giáo. M¶t sÓ ngÜ©i nói r¢ng sau này các bÆc Çåo sÜ bi‰n tri‰t h†c PhÆt thành tôn giáo. ñúng là PhÆt giáo là m¶t khoa tri‰t h†c phát xuÃt sau Bà La Môn giáo. ñÙc PhÆt quä là m¶t tri‰t gia, Çã Çem vào kho tàng tri‰t lš nhân loåi nh»ng ÇiŠu m§i mÈ. NhÜng khªi ÇÀu ÇÙc PhÆt cÛng Çã Çi tu, thành lÆp m¶t giáo h¶i, m¶t tæng Çoàn, có giáo ÇiŠu, có gi§i luÆt, các sa môn phäi gi» ‘’phåm hånh’’ m¥c dÀu chÜa có nghi thÙc cúng lÍ , nhÜng Çã có nghi thÙc tøng niŒm cá nhân và tÆp th‹. 

Hãy nêu rõ đời sng phm hnh hoàn toàn thanh tnh. Có nhng chúng sanh ít nhim bi đời, nếu không được nghe chánh pháp s b nguy hi. Nếu được nghe, s thâm hiu chánh pháp. C sáu năm, hãy đến ti kinh đô Bandhumati để tng đọc gii bn". (Trung B¶ I, 14. Kinh ñi bn, 24)

 Tôn giáo nào cÛng vÆy. Khªi ÇÀu các giáo chû rao giäng tri‰t lš, ho¥c hành Ƕng cÙu nhân Ƕ th‰, ho¥c làm các phép lå. Các bÆc Çåo sÜ Ç©i sau m§i t° chÙc và  xây d¿ng thành m¶t tôn giáo nhÜ ngày nay. Qua m‡i th©i gian và không gian, Çåo PhÆt mang nh»ng màu s¡c khác nhau cÛng nhÜ nh»ng tôn giáo khác trên th‰ gian Çã bi‰n Ç°i. 

M¶t sÓ ngÜ©i ghét tôn giáo. H† cho r¢ng tôn giáo bây gi© khác ngày xÜa. Các tu sï bày ra nhiŠu phiŠn toái, quá chú tr†ng nghi lÍ, cúng t‰. Tôn giáo bu°i ÇÀu chú tr†ng khai mª nhân tâm, nhÜng vŠ sau thiên vŠ thÀn bí. Con ngÜ©i ljn chùa chiŠn, ÇŠn th©, thánh ÇÜ©ng là Ç‹ cÀu tài l¶c. Con ngÜ©i trÀn gian hܧng ljn ThÜ®ng ñ‰ cao siêu nhÜng Çåi ÇiŒn ThÜ®ng ñ‰, PhÆt, Thánh låi là nh»ng lái buôn, nh»ng kÈ t¶i l‡i. Tôn giáo sa dža là ª ch‡ Çó. Có ngÜ©i  không theo tôn giáo vì tôn giáo bi‰n chÃt, h† chÌ tôn tr†ng tri‰t lš mà thôi.

            ñó là nh»ng kÈ vô thÀn nhìn vŠ PhÆt giáo, , nhất là những Phật tử lại chạy theo chủ nghĩa Marx, họ  cố chứng minh Phật giáo vô thần thì mới là khoa học như lý thuyết Marx. M¶t sÓ tu sï và h†c giä ÇÎnh nghïa tôn giáo là giáo phái tôn th© thÜ®ng lj, n‰u không thì không th‹ liŒt vào tôn giáo. Quan niŒm này quá chÆt hËp  nhÜ m¶t ngÜ©i Çã yêu m¶t cô gái ch¶t m¡t, do Çó anh quan niŒm r¢ng ngÜ©i th‰ gian ai cÛng dÜ m¶t m¡t. Tôn giáo là m¶t t° chÙc Ça dång vì tôn giáo có th‹ là NhÃt thÀn giáo hay ña thÀn giáo.

 M¶t sÓ t¿ nhÆn là ñ¶c ThÀn giáo, nhÜng h† còn th© giáo chû, cha mË ho¥c ÇÒ ÇŒ cûa giáo chû, cho nên h† cÛng là ña thÀn giáo.Tôn giáo là m¶t niŠm tin trong suÓt dòng lÎch sº. VÎ thÀn linh có th‹ nguÒn gÓc là ngÜ©i trÀn hay là m¶t thÀn linh. NhÜng tôn giáo Ç‹ làm gì? Tôn giáo Çem yêu thÜÖng cho trái ÇÃt này hay tôn giáo chính là mÀm móng chi‰n tranh? công cø cûa chi‰n tranh? Cùng th© ThÜ®ng ñ‰, nhÜng ngÜ©i ta vÅn nhân danh ThÜ®ng ñ‰  Ç‹ gi‰t ÇÒng Çåo và ngÜ©i ngoåi Çåo nhÜ tåi  th‰ gi§i ngày nay!
            Dù công nhÆn PhÆt giáo là m¶t tôn giáo, m¶t sÓ h†c giä và PhÆt tº coi PhÆt giáo thu¶c phái vô thÀn. H† viŒn dÅn nhiŠu lš do:
            -ñÙc PhÆt là ngÜ©i thÜ©ng.
            -ñÙc PhÆt phû nhÆn ThÜ®ng ñ‰.
            -ñÙc PhÆt không chû trÜÖng th© cúng.
            -Ni‰t Bàn là cäm giác.
            -Nh»ng thÀn thoåi vŠ ñÙc PhÆt, nh»ng chi ti‰t thÀn hóa vŠ PhÆt giáo chÌ là nh»ng quan niŒm Bà La Môn nhÆp vào PhÆt giáo.
            -ñÙc PhÆt chÌ trích  phép lå.
            -ThiŠn chÌ là m¶t phÜÖng pháp luyŒn tÆp th¿c tiÍn, không phäi là Ç‹ Çåt cänh siêu nhiên, huyŠn bí.
             Qua các kinh Tång Pali cÛng nhÜ Hán tång (Kinh Trường A-Hàm, Kinh Trung A-Hàm, Kinh Tp A-Hàm, và Kinh Tăng Nht A-Hàm), và các kinh Çi‹n B¡c phÜÖng PhÆt giáo, chúng ta së có nh»ng cái nhìn rõ rŒt vŠ ÇÙc PhÆt và PhÆt giáo. PhÀn sau Çây, chúng tôi së thäo luÆn vŠ nh»ng Çi‹m trên.
            PhÆt giáo thØa hܪng væn hóa ƒn ñ¶, trong Çó có tri‰t h†c  Bà La Môn giáo m¥c dÀu PhÆt giáo có nhiŠu Çi‹m khác biŒt v§i Bà La Môn giáo. Chúng ta khó phân biŒt Çi‹m nào là cûa PhÆt giáo, Çi‹m nào là cûa Bà La Môn giáo. Có nhiŠu Çi‹m chung gi»a PhÆt gíáo và Bà La Môn giáo, và cÛng có nh»ng ÇÜ©ng lÓi riêng cûa PhÆt giáo. Không phäi PhÆt giáo chÓng ÇÓi tÃt cä quan Çi‹m cûa Bà La Môn giáo. Ta thº xét vŠ nh»ng Çi‹m chính vŠ thÀn h†c:

1- Linh hÒn  :
 
PhÆt giáo lÃy ÇiŠu này làm cÓt lõi cho nên PhÆt giáo khác v§i chû nghïa vô thÀn là chû trÜÖng tin không có thÀn linh, ch‰t là h‰t. Linh hÒn sau khi ch‰t vÅn tÒn tåi nhÜng luân chuy‹n tØ ch‡ này sang ch‡ khác, tØ ki‰p này sang ki‰p khác theo luÆt luân hÒi.  PhÆt giáo tin có  thÀn linh, ma qu›,  cõi tr©i, cõi ÇÎa ngøc. Có løc Çåo luân hÒi là thiên Çåo, nhân Çåo, ngå qu›, bàng sinh, a tu la, và ÇÎa ngøc. NhÜ vÆy, PhÆt giáo có tính cách thÀn bí  và h»u thÀn chÙ không phäi là vô thÀn.

 Quan niŒm luân hÒi là công nhÆn sau khi ch‰t con ngÜ©i chuy‹n ki‰p ÇÀu thai vào løc Çåo, và trong løc Çåo có ma qu›, thánh thÀn, thÜ®ng lj. . . ñÙc PhÆt Çã th¿c hiŒn phép thÀn thông bay lên các cõi tr©i và thuy‰t pháp tåi Çây. Trong các kinh, nhÃt là trong Kinh Th‰ Kš, ÇÙc PhÆt Çã tä cänh các cõi Tr©i, cõi ÇÎa ngøc. ñÙc PhÆt cÛng cho bi‰t qu› thÀn ª chung v§i con ngÜ©i trên trái ÇÃt:

Tt c ch như nhà ca ca mi người đều có qu thn, không có ch nào là không có c. Tt c mi đường sá, mi ngã tư, hàng tht, ch búa, cùng bãi tha ma đều có qu thn, không có ch nào là không có c. Phàm các loài qu thn đều tùy thuc vào ch nương náu mà có tên. Như nếu nương vào người thì gi là người; nương vào thôn thì gi là thôn; nương vào thành thì gi là thành; nương vào nước thì gi là nước; nương vào đất thì gi là đất; nương vào núi thì gi là núi, nương vào sông thì gi là sông.
Pht bo T-kheo:
Tt c mi loi cây ci dù là cc nh như trc xe cũng đều có qu thn nương ta, không có ch nào là không có.. Tt c mi người nam, người n khi mi bt đầu sinh ra đều có qu thn theo bên ng h; nếu khi nào h chết thì qu thn gi gìn h, thu nhiếp tinh khí ca h, nên người này s chết ngay.( TrÜ©ng A Hàm, Kinh Th‰ Kš, 414-415)

2. TÙ ñiŒu ñ‰: 

Các tri‰t gia và nhà nghiên cÙu ÇŠu công nhÆn TÙ ñiŒu ñ‰ là tÜ tܪng chính cûa ñÙc PhÆt. TÙ DiŒu ñ‰ có Çi‹m khác và Çi‹m giÓng tÜ tܪng Bà La Môn Trong TÙ DiŒu ñ‰, ÇÙc PhÆt Çã nói ljn luân hÒi, ki‰p trܧc, ki‰p sau và nhân quä. DiŒt kh° là Ç‹ chÃm dÙt trÀm luân løc Çåo. NhÜ vÆy, ngÜ©i ta không th‹ nói PhÆt giáo vô thÀn, vì ª Çây PhÆt giáo Çã Ç¥t ra vÃn ÇŠ siêu th‰ gi§i (thiên Çàng, ÇÎa ngøc), thÀn thánh, ma qu›.  . .


3.Thn linh và  ThÜ®ng ñ‰:
Các tôn giáo ÇŠu tin linh hÒn tÒn tåi sau khi ch‰t. Nh»ng linh hÒn Çó thành ma qu› hay thánh thn, ch£ng qua là cÃp bÆc khác nhau, tính cht khác nhau và ª nh»ng th‰ gi§i khác nhau. 
Nhiều người cho rằng Thiên chúa giáo không tin có ma quỷ. Điều này sai. Thiên chúa giáo không cho thờ quỷ thần, chứ không phủ nhận quỷ thần, vì Satan là quỷ ở Thiên Đàng với Chúa, rồi đánh nhau với chúa mà phải xuống địa ngục.  Nhiều tôn giáo tin có ma quỷ. PhÆt giáo tin có linh hÒn, có løc Çåo, có thiên ÇÜ©ng ÇÎa ngøc cho nên không th‹ coì là vô thÀn.
Các tôn giáo tin r¢ng trên tÃt cä thÀn linh là ThÜ®ng ñ‰. ThÜ®ng ñ‰ là chúa t‹ các thÀn linh , con ngÜ©i và vÛ trø.
ñÙc PhÆt tin là có ThÜ®ng ñ‰. NhÜng ThÜ®ng ñ‰ theo quan niŒm cûa ñÙc PhÆt khác v§i ThÜ®ng ñ‰ các tôn giáo. Các tôn giáo th© ThÜ®ng ñ‰ coi Ngài là vÎ Sáng Tåo th‰ gi§i, ban Ön giáng h†a cho con ngÜ©i. Ngài là vÎ ThÀn Linh duy nhÃt và TÓi cao, TÓi thÜ®ng. ñÙc PhÆt quan niŒm có nhiŠu th‰ gi§i (Tam Thiên ñåi Thiên Th‰ gi§i) và løc Çåo. Thiên gi§i có 26 cõi tr©i nhÜ TÙ Thiên vÜÖng, Tam ThÆp Tam Thiên, Då Ma Thiên, ñâu SuÃt Thiên, Hóa Låc Thiên, Tha Hóa T¿ tåi ThiŒn v.v.. . Các thÜ®ng lj cai quän các cõi tr©i. Thiên gi§i cao hÖn nhân gi§i và ñÎa ngøc.

 Các ThÜ®ng lj là nh»ng chúng sinh có quä vÎ l§n, sáng lÆp ra th‰ gi§i, cai quän cõi tr©i m¶t th©i gian rÒi cÛng  trÀm luân løc Çåo. ñÙc PhÆt không theo chû trÜÖng cûa Bà La Môn vì Bà La Môn ÇÜa ljn gÀn ThÜ®ng ñ‰ nhÜng thÜ®ng lj chÜa phäi là giäi thoát.
NhiŠu tôn giáo tin tܪng có ThÜ®ng ñ‰ nhÜng m‡i tôn giáo có m¶t ÇÜ©ng lÓi riêng. PhÆt giáo, Kh°ng giáo và Lão giáo có cái nhìn khác biŒt v§i Thiên chúa giáo. 

ña sÓ d¿a vào thuy‰t Nhân quä. Thuy‰t Nhân quä là mÅu sÓ chung cûa nhiŠu tôn giáo, cÛng nhÜ mÅu sÓ chung gi»a tôn giáo và khoa h†c. PhÆt giáo, Nho giáo tin có Ç©i này, Ç©i sau, thiŒn ác h»u báo. Thiên chúa giáo tin có ngày phán xét cuÓi cùng.

Các tôn giáo cho r¢ng con ngÜ©i và vån vÆt sinh ra là do m¶t nguyên nhân. Các nhà siêu hình h†c Çi tìm nguyên nhân sau cùng cûa s¿ vÆt. Có thuy‰t cho là thái c¿c sinh lÜ«ng nghi, lÜ«ng nghi sinh tÙ tÜ®ng. CÛng có thuy‰t nói cái không sinh ra cái có. Và có thuy‰t cho r¢ng thÜ®ng lj sinh ra muôn loài . Và cÛng có thuy‰t nói Bàn C° hay Brahman là ÇÃng sáng tåo loài ngÜ©i. NhÜ vÆy, các nhà siêu hình h†c Çã chia ra hai phái, m¶t phái vin vào ThÜ®ng ñ‰, m¶t phái cho là vô thÀn.

 Phái tin vào ThÜ®ng ñ‰ lš luÆn:
-Ai sinh ra con?- Cha mË
-Ai sinh ra cha mË? Ông bà?
-Ai sinh ra ông bà, t° tiên? Ông cÓ, ông sÖ.
-Ai sinh ra ông cÓ, ông sÖ?
Giäi Çáp cuÓi cùng là ThÜ®ng ñ‰.
NhÜng theo møc Çích siêu hình h†c là Çi tìm nguyên nhân sau cùng, ta có th‹ hÕi ti‰p:
-Ai sinh ra thái c¿c?
-Ai sinh ra không?
-Ai sinh ra thܮng lj?
N‰u bäo thÜ®ng lj là nhÃt, thái c¿c là sau cùng, không là nguyên do ÇÀu tiên cûa vån vÆt, ngoài ra không có gì cä. Nói vÆy thì låi trái v§i luÆt nhân quä, vì luÆt nhân quä tin r¢ng vån vÆt phäi có nguyên do, không có cái gì t¿ nhiŒn sinh ra. N‰u bäo thái c¿c, không và thÜ®ng lj không do ai sinh ra, nghïa là t¿ nhiên sinh ra thÌ con ngÜ©i, th‰ gi§i và vÛ trø cÛng có th‹ t¿ nhiên sinh ra, không do ThÜ®ng lj.Thuyết big bang và nhiều thuyết khoa học hiên nay cho rằng vũ trụ và con người là ngẫu nhiên sinh ra, do các vụ nổ lớn ( big bang), do sự co lại...  không do thượng đế sáng tạo

            NhÜ vÆy là vÃn ÇŠ không ÇÜ®c giäi quy‰t trên bình diŒn lš luÆn. Tri‰t gia c° kim chia ba phe, phe tin có thÜ®ng lj, phe bäo không, và phe trung lÆp, không tuyŒt ÇÓi tin thÜ®ng lj toàn næng.
            N‰u tin vào thÜ®ng lj, m¶t vÃn ÇŠ khác låi sinh ra. M¶t sÓ tôn giáo tin ThÜ®ng lj toàn næng, 
ngài ban ân phúc cho m†i ngu©i. VÆy ngÜ©i làm ác mà cÀu thÜ®ng lj là ÇÜ®c lên thiên Çàng hay sao? N‰u thÜ®ng lj s¡p Ç¥t m†i s¿ thì con ngÜ©i có tự do hay không? N‰u tin vào thiên mŒnh thì con ngÜ©i làm ác là do thÜ®ng lj sinh ra, thÜ®ng lj phäi chÎu trách nhiŒm chÙ con ngÜ©i không bÎ trØng phåt, không bÎ Çày xuÓng ÇÎa ngøc. 
            N‰u thÜ®ng lj là toàn næng, tåi sao låi sinh ra kÈ xÃu, bŒnh tÆt và chi‰n tranh?         NhÜ vÆy vÃn ÇŠ thÜ®ng lj là nan giäi, là bÃt khä tri, không nên tranh luÆn. Con ngÜ©i phäi làm thiŒn Ç‹ tâm an låc và th‰ gi§i hòa bình. Và Çó chính là trung Çåo cûa PhÆt giáo.

4 .Ni‰t Bàn:


Theo quan niŒm cûa ñÙc PhÆt, møc Çích tu là giäi thoát kh° ách luân hÒi:
            Bch Thế Tôn, gii thoát vi mc đích gì?
- Gii thoát, này Ràdha, vi mc đích Niết-bàn. .  . .Nhp vào Niết-bàn, này Ràdha, là s thc hành Phm hnh; Niết-bàn là mc tiêu cui cùng; Niết-bàn là cu cánh. (TU 3, Chuong 2, Tương Ưng Ràdha).

Ni‰t Bàn là møc Çích, là Çi‹m cuÓi cùng, là cõi hånh phúc  cûa cu¶c l» hành:

 Ví như, này các T-kheo, sông Hng thiên v phương ñông, hướng v phương ñông, xuôi v phương ñông; cũng vy, này các T-kheo, T-kheo tu tp bn Thin, làm cho sung mãn bn Thin, thiên v Niết-bàn, hướng v Niết-bàn, xuôi v Niết-bàn. ( TÜÖng Ung V, Thiên ñi Phm. ChÜÖng IX.TÜÖng Ðng ThiŠn), 262.

 

Thưa Tôn gi Gotama, ví như con sông Hng (Ganga) hướng v bin c, chy v bin c, xuôi dòng v bin c, lin đứng li khi xúc chm vi bin c; cũng vy hi chúng này ca Tôn gi Gotama, gm có cư sĩ và xut gia, hướng v Niết-bàn, chy v Niết-bàn, xuôi dòng v Niết-bàn, đứng li khi xúc chm vi Niết-bàn.  (Trung B Kinh2,  73.Vaccaghotta, 231)

 

Khi Çã  qua các giai Çoån thiŠn, Çåt ÇÌnh cao cûa viŒc tu tÆp là  chÙng nhÆp cänh gi§i Ni‰t Bàn, không còn phäi ÇÀu thai, chÎu n°i kh° cûa luân hÒi. ñÙc PhÆt dåy:

 

Này các T-kheo, như vy Như Lai khéo chng đạt pháp gii này, Như Lai nh chư Pht quá kh, nhng v này đã nhp Niết-bàn, đã đon các chướng đạo, đã chm dt s luân hi, đã thoát ly mi đau kh
( TrÜờng B¶ Kinh I. XIV. Kinh ñåi B°n, 25)

Các  Çåo sÜ và nhà biên khäo có š ki‰n khác nhau vŠ Ni‰t Bàn. Theo  Th¡ng Pháp TÆp Y‰u LuÆn, Ni‰t Bàn là do ch» Pali  Nibbana, còn Sanskrit là Nirvana. Nibbàna hay Nirvàna (Phm-văn) gm có Ni và Vana, Ni có nghĩa là không. Vàna có nghĩa là ái. Chính ái này tác dng như mt si dây ni lin các đời sng ca mt cá nhân, khi cá nhân này trôi lăn trong bin sanh-t. CÛng có cách giäi thich khác. Ni có nghĩa là không, Vàna: có nghĩa là thi tt. Nibbàna có nghĩa là thi tt la tham ái, sân-hn và si-mê. Niết-Bàn là nguyên lš cui cùng (Vatthudhamma) thuc v siêu thế, ra ngoài thế gii ca tâm và sc hay ngÛ un. ñÙc PhÆt Çã nói ljn hai loåi Ni‰t Bàn:


Này các T-kheo, có hai Niết-bàn gii này. Thế nào là hai? Niết-bàn gii có dư y và Niết-bàn gii không có dư y.
Này các T-kheo, thế nào là Niết-bàn gii có dư y? đây, này các T-kheo, T-kheo là bc A-la-hán, các lu hoc đã tn, Phm hnh đã thành, vic nên làm đã làm, đã đặt gánh nng xung, đã đạt được mc đích, hu kiết s đã dit, đã gii thoát nh chánh trí. Trong v y, năm căn còn tn ti, ngang qua các căn y, v y hưởng th kh š, không kh š vì rng t ngã không có thương hi cm giác lc kh. Vi v y, tham dit, sân dit, si dit. Này các T-kheo, đây gi là Niết-bàn có dư y. 
Này các T-kheo, thế nào là Niết-bàn gii không có dư y? đây, này các T-kheo, T-kheo là bc A-la-hán, các lu hoc đã tn, Phm hnh đã thành, vic nên làm đã làm, đã đặt gánh nng xung, đã đạt được mc đích, hu kiết s đã dit, đã gii thoát nh chánh trí. đây, đối v y, mi cm th đều không có hoan h ưa thích, s được lng du. Này các T-kheo, đây gi là Niết-bàn không có dư y. Này các T-kheo có hai Niết-bàn gii này này được nói đến..Thế Tôn đã nói lên š nghĩa này, đây  (TIEU BỘ I, chương 2, PhÄm 2)

Khi Çã  qua các giai Çoån thiŠn, Çåt ÇÌnh cao cûa viŒc tu tÆp là  chÙng nhÆp cänh gi§i Ni‰t Bàn, không còn phäi ÇÀu thai, chÎu n°i kh° cûa luân hÒi. ñÙc PhÆt dåy:

 

Này các T-kheo, như vy Như Lai khéo chng đạt pháp gii này, Như Lai nh chư Pht quá kh, nhng v này đã nhp Niết-bàn, đã đon các chướng đạo, đã chm dt s luân hi, đã thoát ly mi đau khổ.
( TrÜờng B¶ Kinh I. XIV. Kinh ñåi B°n, 25)

Cæn cÙ vào nghïa Çen cûa Nirvana, nhiŠu h†c giä chû trÜÖng Ni‰t Bàn là cäm giác, là trång thái tâm lš. NhÆn ÇÎnh nhÜ vÆy là sai lÀm vì ngôn ng» nào cÛng có nghïa bóng, nghïa Çen, và ngÜ©i ta dùng nh»ng tØ cø th‹ Ç‹ tä nh»ng ÇiŠu trØu tÜ®ng. M¶t sÓ h†c giä quan niŒm r¢ng Niết-Bàn là nguyên lš cui cùng (Vatthudhamma) thuc v siêu thế, ra ngoài thế gii ca tâm và sc hay ngÛ un. Theo Th¡ng Pháp TÆp Y‰u LuÆn thì có hai loåi Ni‰t Bàn: Ni‰t bàn trܧc và sau khi ch‰t. Ni‰t Bàn ÇÜ®c chúng ng¶ nh© tr¿c giác.  ( PhÀn VI. Nibbanà ,32-34).
ñoàn Trung Còn ÇÎnh nghïa nhÜ sau:

Ni‰t Bàn là cänh trí cûa nhà tu hành dÙt såch các phiŠn não và t¿ bi‰t r¢ng mình ch£ng còn luy‰n ái.
Ni‰t: (Nir) : Ra khÕi. Bàn hay Bàn Na: là rØng, tÙc là ra khÕi  cänh rØng  mê tÓi, rØng phiŠn não.
Sách ch» Hán dÎch Ni‰t Bàn ra nhiŠu nghïa:
(1). DiŒt: dÙt nhân nhÖn quä sanh tº, dÙt nghiŒp luân
hÒi.
(2). DiŒt Ƕ: DÙt nhân quä sanh tº, qua khÕi dòng nܧc månh.
(3). TÎch diŒt: TÎch là vô vi, trÓng không, l¥ng lë, an °n. DiŒt: cái tai håi l§n cûa sanh tº Çã diŒt.
(4). BÃt sanh: Nh»ng kh° quä sanh tº ch£ng còn n»a, tÙc ch£ng sanh ra n»a.
(5). Vô vi: không nhÖn duyên tåo tác nghiŒp lÀm.
(6). An låc: An °n, khoái låc, h‰t kh°
(7). Giäi thoát: lìa khÕi các phiŠn não
ñÓi v§i Nam tông, nhÆp Ni‰t Bàn là ÇÜ®c vào nÖi ngÖi nghÌ, tr†n vËn, dÙt tÃt cä vØa th‹ chÃt vØa tinh thÀn.
ñÓi v§i B¡c tông, nhÆp Ni‰t Bàn là vào cõi cao rÓt sau khi linh hÒn Çã qua khÕi các tØng tr©i và ti‰n b¶.  ( PhÆt H†c TØ ñiŠn, 335).


N‰u có hai loåi Ni‰t Bàn tåi th‰ và Ni‰t Bàn sau khi ch‰t, thì  Ni‰t Bàn h»u dÜ y, Ni‰t bàn tåi th‰ là cäm giác, là trång thái tâm hÒn thanh tïnh, an låc. NhÜng Ni‰t Bàn sau khi ch‰t thì khác, không còn là cäm giác, mà là m¶t cänh gi§i siêu nhiên nhÜ Thiên Çàng cûa các tôn giáo khác.
Thật vậy, có Niết Bàn tại thế và Niết Bàn sau khi chết. Đức Phật năm 49 tuổi thành đạo, và 500 vị đệ tử thành La Hắn tức là đã đạt Niết Bàn tại thế.


M¶t sÓ quan niŒm Ni‰t Bàn là ch‰t (tÎch, diŒt), là vô tri , vô giác. DiŒt là diŒt ÇÜ®c døc v†ng, t¡t là t¡t tham ái; bÃt sinh bÃt diŒt nghïa là không sinh mÀm xÃu, không tái sinh, không bÎ diŒt trong luân hÒi chÙ không có nghïa là bÎ tiêu diŒt, là ch‰t vïnh viÍn. Møc Çích tu hành cûa ÇÙc PhÆt là giäi thoát chúng sinh trong Çó có nhân loåi thoát khÕi kh° ách luân hÒi. Ngài Çã nhiŠu lÀn nhÃn månh cÙu cánh Ni‰t Bàn. Ni‰t Bàn phäi là m¶t cõi cao hÖn Thiên gi§i thì m§i thoát khÕi luân hÒi. 
ñÙc PhÆt nhiŠu lÀn nhÃn månh vŠ Ni‰t Bàn là  an låc, là chÙng Ç¡c, là vÜ®t luân hÒi. VÆy 
Ni‰t Bàn không phãi là cõi ch‰t vïnh viÍn, là cäm giác, mà là m¶t cõi an låc, m¶t th‰ gi§i vïnh c»u an låc. Quan niŒm này phù h®p v§i vÛ trø quan PhÆt giáo. PhÆt giáo chû trÜÖng th‰ gi§i có nhiŠu cõi. Con ngÜ©i t¶i l‡i thì sau khi ch‰t ÇÀu thai làm ngå qu›, súc sinh, trª låi làm ngÜ©i; còn nh»ng ai ÇÙc hånh së lên thiên gi§i làm thÀn, thánh, tiên, thÜ®ng lj. .  . Niết Bàn là một cảnh giới cao hơn thiên giới, là nơi vĩnh viễn hạnh phúc, thoát khổ ách luân hồi.

NhÜng ThÜ®ng ñ‰ rÒi cÛng trÀm luân. ChÌ có nh»ng ai chÙng quà Ni‰t Bàn là thoát trÀm luân. ñó là Çi‹m sáng tåo cûa ÇÙc PhÆt và là con ÇÜ©ng giác ng¶ cûa Ngài. Nh»ng ai quan niŒm Ni‰t Bàn là trång thái là cäm giác thì cÛng nhÜ nh»ng ngÜ©i mù s© m¶t vài b¶ phÆn cûa con voi. N‰u h† s© h‰t tÃt cä, h† së có quan niŒm khác. 

ñó là quan niŒm cûa các nhà duy vÆt. CÛng có th‹ là quan niŒm các PhÆt tº suÓt Ç©i tu tÆp mà ch£ng Çåt ÇÜ®c thành quä nào. CÛng có th‹ Çó là cäm nghï cûa m¶t vài hành nhân Çã ÇÜ®c m¶t quäng ÇÜ©ng khá dài nhÜng chÜa ljn Çich. Mãy ai trª thành A La Hán, BÒ Tát? ñÓi v§i Ça sÓ, Ni‰t Bàn là m¶t cõi xa v©i. Tuy nhiên n‰u Çåt ÇÜ®c m¶t ít an låc tÙc là Çã hܪng mùi vÎ Ni‰t Bàn, nhÜng con ÇÜ©ng tØ núi rØng ljn kinh Çô còn xa.    
                                                
Nh»ng hiŒn tÜ®ng ÇÀu thai, nh§ tiŠn ki‰p Çã ÇÜ®c ki‹m tra, tìm hi‹u nhÜng nh»ng nhà khoa h†c chÜa dám có k‰t luÆn chÙng th¿c. PhÆt giáo Tây Tång và PhÆt giáo Hòa Häo là niŠm tin l§n vào ÇÀu thai, chuy‹n ki‰p.
-Nh© thành t¿u thiŠn, ÇÙc PhÆt Çã thÃy ÇÜ®c tiŠn thân, nh»ng tiŠn thân tÓi thÜ®ng cûa PhÆt. ñi‹m này cho ta thÃy ÇÙc PhÆt ÇÀu thai ª  cõi trÀn nhÜng không phäi là m¶t ngÜ©i bình thÜ©ng:

Này các T-kheo, chín mươi mt kiếp v trước, Thế Tôn Vipassì (T-bà-thi), bc A-la-hán, Chánh ñng Giác ra đời. Này các T-kheo, ba mươi mt kiếp v trước, Thế Tôn Sikhì (Thi-khí) bc A-la-hán, Chánh ñng Giác ra đời. Này các T-kheo, cũng trong ba mươi mt kiếp y, Thế Tôn Vessabhù (T-xá-bà) bc A-la-hán, Chánh ñng Giác ra đời. Này các T-kheo cũng trong tin kiếp y, Thế Tôn Kakusandha (Câu-lâu-tôn) bc A-la-hán, Chánh ñng Giác ra đời. Này các T-kheo, cũng trong tin kiếp y, Thế Tôn Konàgamana (Câu-na-hàm) bc A-la-hán, Chánh ñng Giác ra đời. Này các T-kheo, cũng trong tin kiếp y, Thế Tôn Kassapa (Ca-diếp) bc A-la-hán, Chánh ñng Giác ra đời. Này các T-kheo, cũng trong tin kiếp y, nay Ta, bc A-la-hán, Chánh ñng Giác ra đời.
5. Này các T-kheo, Thế Tôn Vipasì, bc A-la-hán, Chánh ñng Giác sanh thuc chng tánh Sát-đế-l, sanh trong giai cp Sát-đế-l. Này các T-kheo, Thế Tôn Sikhì, bc A-la-hán, Chánh ñng Giác, thuc chng tánh Sát-đế-l, sanh trong giai cp Sát-đế-l. Này các T-kheo, Thế Tôn Vessabhù, bc A-la-hán, Chánh ñng Giác, thuc chng tánh Sát-đế-l, sanh trong giai cp Sát-đế-l. Này các T-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bc A-la-hán, Chánh ñng Giác, thuc chng tánh Bà-la-môn, sanh trong giai cp Bà-la-môn. Này các T-kheo, Thế Tôn Konàgamana, bc A-la-hán, Chánh ñng Giác thuc chng tánh Bà-la-môn, sanh trong giai cp Bà-la-môn. Này các T-kheo, Thế Tôn Kassapa, bc A-la-hán, Chánh ñng Giác thuc chng tánh Bà-la-môn, sanh trong giai cp Bà-la-môn. 


Này các T-kheo, nay Ta là bc A-la-hán, Chánh ñng Giác thuc chng tánh Sát-đế-l, sanh trong giai cp Sát-đế-l
6. Này các T-kheo, Thế Tôn Vipasì, bc A-la-hán, Chánh ñng Giác thuc danh tánh Kondanna (Câu-ly-nhã). Này các T-kheo, Thế Tôn Sikhì, bc A-la-hán, Chánh ñng Giác thuc danh tánh Kondanna. Này các T-kheo, Thế Tôn Vessabhù, bc A-la-hán, Chánh ñng Giác thuc danh tánh Kondanna. 


Này các T-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bc A-la-hán, Chánh ñng Giác thuc danh tánh Kassapa. Này các T-kheo, Thế Tôn Konàgamara, bc A-la-hán, Chánh ñng Giác thuc danh tánh Kassapa. Này các T-kheo, Thế Tôn Kassapa, bc A-la-hán, Chánh ñng Giác thuc danh tánh Kassapa. 

Này các T
-kheo, nay Ta là bc A-la-hán, Chánh Çng Giác, thuc danh tánh Gotama (Cù-đàm).(TrÜ©ng B¶ Kinh I, 14. Kinh ñ
i bn)
Nh© tu tÆp thiŠn thành t¿u, ÇÙc PhÆt Çåt ÇÜ®c phép thÀn thông, có th‹ ljn các cõi tr©i, thuy‰t pháp cho chÜ thiên:
Mt thi, này các T-kheo, Ta ti Ukkattha trong rng Subhagavana, dưới gc cây Tala vương. Lúc by gi, này các T-kheo, Phm thiên Baka khi lên ác tà kiến như sau: "Cái này là thường, cái này là thường hng, cái này là thường ti, cái này là toàn din, cái này không b biến hoi, cái này không sanh, không già, không chết, không dit, không khi, ngoài cái này, không có mt gii thoát nào khác hơn". 
Này các T-kheo, sau khi vi t tâm biết được tâm ca Phm thiên Baka, như người lc sĩ dui ra cánh tay đang co li, hay co li cánh tay đang dui ra, Ta biến mt ti Ukkattha, rng Sabhagavana, dưới gc cây Tala vương, và hin ra ti cõi Phm thiên y. Này các T-kheo, Phm thiên Baka thy Ta t xa đi đến, sau khi thy, lin nói vi Ta:
"- Hãy đến, Tôn gi, thin lai Tôn gi, đã lâu, nay Tôn gi mi có dp đến đây. Này Tôn gi, cái này là toàn din, cái này là thường hng, cái này là thường ti, cái này là toàn din, cái này không b biến hoi, cái này không sanh, không già, không chết, không dit, không khi, ngoài cái này không có mt gii thoát nào khác hơn (Trung B Kinh I, 49. Kinh Phm Thiên cu thnh).

Khi ÇÙc PhÆt thuy‰t pháp, các vÎ  tiên, thánh thÀn ª Çây tÆp trung rÃt Çông Ç‹ nghe l©i PhÆt dåy:
Này Sàriputta, chư Thiên y tuy con s đến 10, 20, 30, 40, 50, 60, nhưng cùng đứng ch trong khong trng đầu mt cây kim, không có chen ln nhau
 (TĂNG CHI I,ChÜÖng2, IV. PhÄm Tâm thæng b¢ng ). 


            Có nh»ng Çi‹m khác biŒt gi»a kinh Çi‹n Nam Tông và B¡c Tông, nhÜng cÛng có nhiŠu Çi‹m tÜÖng ÇÒng. Các kinh Çi‹n B¡c Tông vÅn thØa nhÆn tri‰t lš cæn bän cûa PhÆt giáo là TÙ DiŒu ñ‰, Bát Chánh ñåo, ThÆp NhÎ Nhân Duyên, NgÛ UÄn, Luân hÒi løc Çåo, NghiŒp báo v. v.. . 

M¶t sÓ kinh B¡c Tông cÛng vi‰t vŠ viŒc ÇÙc PhÆt Çi ljn Tam Thiên ñåi Thiên Th‰ gi§i, và viŒc chÜ Thiên tÆp h†p Ç‹ nghe PhÆt thuy‰t pháp. Quan Çi‹m Tam Th‰ PhÆt cÛng Çã ÇÜ®c ÇÙc PhÆt minh xác. ñÙc PhÆt Thích Ca là PhÆt hiŒn tåi, các tiŠn thân cûa PhÆt là PhÆt Quá KhÙ, và Di L¥c là PhÆt tÜÖng lai. T° chÙc væn hóa nào trong Çó có tôn giáo cÛng phäi giäi quy‰t n°i Çau kh° tinh thÀn và vÆt chÃt cho  con ngÜ©i, phäi hòa ÇÒng v§i quÀn chúng trong h¶i hè, lÍ bái, phäi có nh»ng nghi thÙc tøng niŒm, cÀu nguyŒn, cÀu an. ñØng k‰t t¶i tôn giáo. 

N‰u quš vÎ cÛng là thành viên cûa m¶t giáo h¶i, ch§ nên chÌ trích tôn giáo khác mê tín dÎ Çoan vì tôn giáo nào cÛng có nh»ng thÀn thoåi và ÇÙc tin. N‰u quš vÎ là nhà khoa h†c, quš vÎ ÇØng chÌ trích vì tôn giáo không là ÇÓi tÜ®ng nghiên cÙu cûa quš vÎ. N‰u quš vÎ là nhà chính trÎ, xin ÇØng Çàn áp tôn giáo, tܧc Çoåt quyŠn t¿ do tín ngÜ«ng cûa nhân dân.  ñoàn th‹ nào cÛng có ngÜ©i tÓt kÈ xÃu. Tôn giáo Çã là nån nhân cûa nh»ng th‰ l¿c bên ngoài xâm læng và th‰ l¿c bên trong ch‰ ng¿. NgÜ©i Á ñông ta có tinh thÀn r¶ng mª. Các vua Lš TrÀn là nh»ng vÎ sÜ nhÜng vÅn phát tri‹n Nho h†c và Lão giáo. 

Tinh thÀn Tam giáo ÇÒng nguyên Çã làm nŠn täng cho væn hóa ViŒt Nam. NgÜ©i ViŒt Nam, Trung QuÓc quan niŒm ñåo là con ÇÜ©ng. Có th© cúng hay không th© cúng, có giáo chû hay không giáo chû, có lÍ nghi hay không nghi lÍ, tÃt cä ÇŠu không quan tr†ng. Cái quan tr†ng là nŠn væn hóa này, vÎ giáo chû này phäi chÌ cho ta m¶t con ÇÜ©ng Çi ljn chân, thiŒn, mÏ. Con Çܪng này chÌ Çi trong hiŒn tåi hay hܧng ljn tÜÖng lai, hay chÌ quay vŠ quá khÙ?

 Cái Çó là quyŠn l¿a ch†n cûa nhân dân. Trong væn hóa Tam giáo, chÜa thÃy ai dùng tiŠn båc, th‰ l¿c Ç‹ b¡t ép ngÜ©i vào Çåo. Vì vÆy, Tam giáo là T¿ Do, nhÃt là PhÆt giáo, m¶t tôn giáo rÃt t¿ do và cªi mª. PhÆt giáo không tham gia viŒc chính quyŠn. ñ©i Lš TrÀn, các sÜ chÌ vào kinh giäng thuy‰t, ho¥c làm cÓ vÃn cho vua. 

Sau khi PhÆt tÎch diŒt, PhÆt giáo không có nh»ng vÎ giáo chû, giáo tông quyŠn th‰ nhÜ vua chúa. PhÆt giáo không b¡t tín ÇÒ Çi lÍ, Çóng góp theo quy ÇÎnh. Các tu sï không phäi là nh»ng viên chÙc hành chánh hay an ninh ÇÓi v§i các tín ÇÒ cûa mình. PhÆt giáo không lÆp tòa án giáo h¶i Ç‹ xº  t¶i tín ÇÒ và nhân dân trong nܧc. TÃt cä là do tâm t¿ nguyŒn. PhÆt giáo là m¶t tôn giáo t¿ do, là m¶t con ÇÜ©ng chính Çåo, và thiŒn Çåo.

Có nh»ng Çi‹m khác biŒt gi»a PhÆt giáo và các tôn giáo khác.Tuy nhiên, PhÆt giáo cÛng có nhiŠu Çi‹m tÜÖng ÇÒng v§i các tôn giáo khác. ñi‹m giÓng nhau là duy tâm, siêu hình và Çåo lš. PhÆt giáo là h»u thÀn vì chû trÜÖng linh hÒn tÒn tåi sau khi ch‰t, tin có ÇÀu thai chuy‹n ki‰p, có nhân quä báo Ùng và tin r¢ng có thiên gi§i, ÇÎa ngøc, ma qu›, thÀn linh và chúa t‹ các cõi tr©i. TÃt cä giáo lš, niŠm tin trên tåo m¶t cu¶c sÓng Çåo ÇÙc và thanh bình cho con ngÜ©i trong khi trên th‰ gi§i bi‰t bao cá nhân, bao th‰ l¿c m¶t chi‰m Çoåt th‰ gi§i, trong ÇÀu óc h† luôn tìm phÜÖng cách chinh phøc con ngÜ©i b¢ng tiŠn tài, danh l®i  và b¢ng vÛ l¿c.




CHÐ÷NG XV

TỰ LỰC VÀ THA LỰC


I.                   TỰ LỰC.

Đặc điểm chính của Phật giái là tự lực, chính đặc điểm này làm cho Phật giáo khác với các tôn giáo khác. Phần lớn các tôn giáo đều chủ trương tin cậy tha lực. Bà La Môn Giáo (Brahmanisme) tức Án Độ giáo (Hindouisme) là một tôn giáo xưa nhất trong lịch sử nhân loại đã tôn thờ thượng đế (Brahman). Thượng Đế hay thần thánh là những vị thần tối cao, còn tồn tại trong thế giới siêu hình, và có khả năng can thiệp vào đời sống con người.

Người ta theo tôn giáo là để đặt niềm tin vào đấng Thiêng Liêng, nhờ cậy Thiêng liêng phù hộ, độ trì, ban ơn ban phước, cứu nạn giải ách. Trong những lúc đau khổ, thất bại, con người lại cần Thượng Đế, Thần Linh. Các kinh kệ, triết lý và nghi thức đều nhắm vào việc cầu khẩn thần linh. Người ta cầu thần linh bằng nhiều cách . Có nơi người ta giết người để cúng tế, bất chấp thuyết bác ái, thuyết huynh đệ của đấng tối cao.

Trong vũ trụ quan và triết lý Phật giáo, con người tùy theo kết quả của hành động thiện ác trong đời mà luân hồi trong sái nẻo. Phật giáo chia ra tam giới, nhưng chúng ta có thể chia hai thế là thế giới hữu hình và thế giới vô hình. Thế giới hữu hình gồm có súc sinh và loài người. Thế giới vô hình có ngạ quỷ, địa ngục, A tu la và các cõi trời.

Các cõi trời cao nhất. Trên đó là thế giới của Tiên, thánh, thần. Trong mỗi cõi tròi, cao nhất là Thượng đế, cũng gọi là Thiên chủ, thiên chúa hay Thiên vương. Con người it kẻ được tái sinh làm người huống hồ làm Thánh, thần, tiên. Mục đích của Bà La môn là được tái sinh vào Phạm Thiên (tức Thượng Đế, cõi Trời). Phật cũng dạy các phương pháp tu tập, trong đó có niệm Thiên, tức là suy nghĩ về Thượng Đế, cầu khẩn Thượng Đế nhưng Phật dạy rằng Thượng Đế là cõi cao nhất trong lục đạo nhưng mãn kiếp ở cõi trời có thể nhập Niết Bàn nhưng cũng có thể đọa lạc luân hồi mà vào sáu cõi.

Thiên giới là cõi cao nhất nhưng chưa phải là mục đích rốt ráo giải thoát luân hồi. Nát Bàn là cõi cao hơn Thiên giới. Muốn đến cõi này thì phải tu hành. Tất cả kết quả trong quá khứ, hiện tại và tương lai, xuống địa ngục hay lên cõi trời, làm súc sinh hay loài người đều do kết quả hành động thân khẩu ý trong đời. Như vậy chính ta tao hạnh phúc hay xô ta xuống khổ ải chứ không ai khác. Ta phải tự ta tìm hạnh phúc, tìm giải thoát. Đó là ý nghĩa của tự lực. Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Ta gieo trồng thì ta gặt hái kết quả.

Đức Phật dạy:
5. Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có an lạc, không có thể do cầu xin an lạc hay tán thán để làm nhân đem đến an lạc. Vị Thánh đệ tử muốn có an lạc cần phải thực hành con đường dẫn đến an lạc. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến an lạc, sự thực hành ấy đưa đến vị ấy nhận lãnh được an lạc, vị ấy nhận lãnh được an lạc hoặc chư Thiên, hoặc loài Người. 

6. Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có tiếng tốt, không có thể do cầu xin tiếng tốt hay tán thán để làm nhân đem đến tiếng tốt. Vị Thánh đệ tử muốn có tiếng tốt cần phải thực hành con đường dẫn đến tiếng tốt. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến tiếng tốt, sự thực hành ấy đưa vị ấy nhận lãnh được tiếng tốt, vị ấy nhận lãnh được tiếng tốt hoặc chư Thiên, hoặc loài Người (Tăng Chi, Chương V - Năm Pháp. I. Phẩm Sức Mạnh Hữu Học (III) (43) Khả Lạc)

Thần Linh cũng phải căn cứ vào thiện nghiệp hay ác báo của ta mà xử lý, không thể vì ai cầu xin nhiều. hối lộ nhiều mà cho kẻ ác hưởng phước nhiều hoặc được tha tội. Nho gia cũng nói đến thuyết Nhân quả, và sự công bằng trong thế giới siêu hình. Khi ta đã phạm tội ác thì không thể cầu khẩn thần linh.

Kinh Thư có câu: Hoàng Thiên vô thân duy đức thị phụ 皇天無親惟德是輔.(Trời không thân riêng ai, người có đức thì được trợ giúp)
Khổng Tử nói:"Hoạch tội ư thiên, vô sở đảo giả" 獲罪於天無所禱也 (Có tội với Trời còn cầu nguyện vào đâu được!)

Như vậy phúc tội là do ta mà Thượng Đế hay Thần linh chỉ là vị giám sát, là quan tòa cân nhắc công tội. Trước khi nhập diệt, đức Phật đã dạy các đệ tử phải tự lực để giải thoát, đừng mong cầu tha lực:

Này Ananda, những ai hiện nay hoặc sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một điều gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một gì khác; những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.
(Trường Bộ Kinh I, Kinh Đại Niệm xứ, Tụng phẩm 2, 26, 58)


-Hãy sống tự mình làm hòn đảo cho chính mình, này các Tỷ-kheo, hãy nương tựa nơi chính mình, không nương tựa một ai khác. Hãy lấy pháp làm hòn đảo, hãy lấy pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một ai khác.(Tương ưng III, Chương I.Tương Ưng Uẩn .Tự Mình Làm Hòn đảo,51).
Thường ngày, Đức Phật đã dạy các đệ tử phải lo tự độ:

Này Ananda, các ngươi hãy nỗ lực, hãy tin tấn hướng về tự độ, sống không phóng dật, cần mẫn, chuyên hướng tự độ. (Trường Bộ III, Kinh Đại Bát Niết Bàn, 141A)


II. THA LỰC
Tôn giáo nào cũng đề cao vai trò của đức tin. Ngay trong chính trị, kinh tế, quân sự, con người cũng cần có niềm tin. Chủ nghĩa duy vật bài xích tín ngưỡng nhưng chính chủ nghĩa Marx đã trở thành tốn giáo và các lãnh tụ là những kẻ giáo điều mù quáng. Các tôn giáo đều đặt nặng vào sự tin tưởng thần linh, vào thượng, lấy sự cầu xin, van lạy làm chính. Phật giáo thì đặt năng về tự lực.

Trong cuộc đời, bất cứ việc gì, con người phải tự lực, tự đứng lên trên hai chân mình, tự lao động, tự tìm tòi, tự học hỏi. Không ai ăn hộ, uống giùm cho người khác. Nhiều người không lo tu tập, không chú trọng hành thiện, họ làm ác, họ sống buông thả, chạy theo vật dục mà lại cầu xin Thượng đế ban ân huệ. . Đó là một cách hối lộ thần thánh. Thượng Đế có ban ân cho kẻ ác không? Thượng Đế là đấng cao cả, không phải là một kẻ thích nịnh hót, thích hối lộ và có tâm thiên lệch. Thượng Đế phải là bậc công bằng chính trực, xét xử công minh. Thiên chúa giáo tin rằng có ngày phán xét cuối cùng, nghĩa là Thiên chúa giáo tin vào luật nhân quả:"Ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ."

Những người duy vật và khác tôn giáo cho rằng đức Phật chủ trương tự độ, nghĩa là ai lo nấy, không có sự giúp đỡ, không có sự cầu xin, không có sự tin tưởng duy tâm.

Vì đa số người mất khả năng tranh đấu, không tự mình làm đuốc cho chính mình,làm hòn đảo cho chính mình mà chỉ ỷ lại vào người khác, vào thần linh. Đó là một thái độ sai lầm cho nên đức Phật nhấn mạnh về tự lực, chỉ cho chúng sinh một con đường sống tự lập và hạnh phúc, đó là tinh thần thần tự lập. Nói như vậy không phải là không có sự phù hộ, sự giúp đỡ. Tự lực và tha lực không mâu thuẫn mà kết hợp nhau.

Một số người khác cho rằng Phật chỉ là một con người, một thường nhân, không có khả năng giúp đỡ, chỉ có thần thánh, thượng đế mới có uy lực để thưởng thiện, phạt ác. Thật vậy, Phật là một người thường , con của vua Tịnh Phạn. Và tất cả chúng ta cũng là những con người thường.Nhưng với cái nhìn vô thủy vô chung của luân hồi, con người hôm nay đã trải qua bao kiếp sống. Chúng ta có thể từ súc sinh , hay từ thiên đàng mà đến thế gian.

Trong tương lai, chúng ta có thể lên thiên giới, hay lên cõi Niết Bàn. Đức Phật là người thường nhưng là một người rất đặc biệt. Trong quá khứ , Ngài đã là Phật, Ngài đã đến Thiên giới, đã thuyết pháp cho các thiên chúa, thiên vương, thượng đế. Ngài xưng là bậc thầy của thượng đế và loài người. Trong các kinh Nguyên Thủy, nhất là Tăng Chi bộ kinh, đức Phật thường nói đến việc này.

Và đức Phật cũng nói cõi Niết Bàn là cõi cao nhất, là nơi tham dục đã bị đốt cháy, là nơi hạnh phúc vĩnh viễn, cón Thiên đàng, hay Thiên giới, các chúa trời, thiên vương và các tiên, thánh,thần sau một thời gian sung sướng phải đầu thai vào trong lục đạo. (1)

Như vậy, Phật được Thượng đế, tiên thánh, thần linh kính trọng, và có địa vị cao hơn Thượng đế. Đức Phật đã nói trong Tăng Chi bộ kinh:
Trong thế giới chư Thiên
Phật được gọi tối thượng.
( V. 15. Thi thiết)


Các tôn giáo khác đề cao phép màu của các thần linh, và khả năng cứu rỗi. Đức Phật khuyên đệ tử tu tập, không khuyến khích về phép lạ mặc dầu Ngài có phép lạ. Đức Phật có quyền năng siêu việt, như đi từ cõi trời này sang cõi trời khác trong nháy mắt. Như vậy đức Phật cũng có khả năng phù hộ độ trì chúng sinh.(2)
Đạo Phật chủ trương bác ái cho nên người tu Phật phải mở rộng cõi lòng, phải giang bàn tay cứu giúp chúng sinh. Nếu ta có khả năng, ta phải cứu giúp người khác. Đức Phật luôn nghĩ đến lợi ich của chúng sinh, hạnh phúc của nhân loại. Ngài khuyên các đệ tử phải ra sức tự độ để sau đó có thể độ tha.Tự độ và độ tha có liên hệ với nhau. Giúp người tức giúp mình:
8) Này các Tỷ-kheo, "Tôi sẽ hộ trì cho mình", tức là niệm xứ cần phải thực hành. Này các Tỷ-kheo, "Tôi sẽ hộ trì người khác", tức là niệm xứ cần phải thực hành. Trong khi hộ trì cho mình, này các Tỷ-kheo, là hộ trì người khác. Trong khi hộ trì người khác, là hộ trì cho mình.(TUONG UNG V, Tập V - Thiên đại Phẩm[47] Chương III.Tương Ưng Niệm Xứ (a) I. Phẩm Ambapàli) 19. IX. Sedaka, hay Ekantaka)



Đức Phật dạy ta phải nỗ lực tự độ, nghĩa là muốn cho Phật tử hiểu rõ vai trò quan trọng của cá nhân trong việc giải thoát, đừng chuyên chú cầu Thần linh và làm nô lệ cho thần linh. Nói như vậy, không phải là ta phủ nhận vai trò của Tha lực. Con đường trung đạo phải lấy Tự lực là chính, Tha lực là phụ. Cần có Tha lực, cần có sự trợ giúp của Tha Lực để chúng ta có thể tiến nhanh và thuận lợi trong việc tu tập và trong đời sống.
Việc này cũng giống như trong đời sống thực tế. Ta có khả năng nhiều hoặc ít, nếu ta được cha, mẹ, anh em và bạn bè và đồng bào giúp đỡ thêm, sự thành công của ta sẽ đến nhanh hơn và vững vàng hơn. Niệm Phật, tin Phật cũng là tự lực và cũng là đặt niềm tin vào tha lực. Thật vậy, chư Phật và Bồ Tát có khả năng cứu độ chúng sinh. Thời đức Phật tại thế, Ngài đã nói đến ích lợi của môn niệm Phật và tín Phật:

-Ở đây, này Mahànàma, có người thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật: "Đây là bậc Ứng Cúng, ... Phật, Thế Tôn"... đối với Pháp... đối với chúng Tăng, có trí tuệ hoan hỷ (hàsapanna), có trí tuệ tốc hành và thành tựu giải thoát. Vị ấy do đoạn tận các lậu hoặc ngay trong hiện tại với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Người này, này Mahànàma, được giải thoát khỏi địa ngục, được giải thoát khỏi loài bàng sanh, được giải thoát khỏi cõi ngạ quỷ, được giải thoát khỏi ác sanh, ác thú, đọa xứ. (TUONG UNG V, Phẩm Saranani, 24. IV. Sarakàni, hay Saranàni ,381.)

-Ở đây, này Nandiya, Ông hãy tùy niệm Như Lai: "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Như vậy, này Nandiya, duyên vào Như Lai, ông hãy an trú niệm trong nội tâm. (TANG CHI III. Chương XI - Mười Một Pháp. II. Phẩm Tùy Niệm. (II) (14) Nandiya)
 
Khi cư sĩ Cấp Cô Độc bị bệnh, Ananda khuyên ông nên tin vào Phật thì sẽ cảm thấy hết
đau đớn:

Nếu Gia chủ tự mình thấy lòng tịnh tín bất động đối với Pháp, thời lập tức các cảm thọ của Gia chủ được an tịnh. (TUONG UNG V. [55] Chương XỊTương Ưng Dự Lưu (b).VỊ Ác Giới, hay Anàthapindika, 384-86).
Mặc dầu khuyên đệ tử nỗ lực tự độ, đức Phật đôi khi khi cũng dùng phép thần thông để giúp các đệ tử chóng thành công. Thiền định có thể đạt đến cảnh giới siêu nhiên. Đức Phật trong khi thiền định đã lên đến các cõi trời, và gập các vị chúa tể cõi trời và tiếp xúc với quỷ thần. Tuy có thần thông nhưng đức Phật chỉ trích việc tu tập để đạt thần thông vì các lý do sau:

-Tu hành theo Phật giáo là để giải thoát khỏi ách luân hồi chứ không phải vì các mục đích khác.
-Nếu mục đích là có phép lạ thì không cần tu Phật. Nhiều giáo phái như phái Phù thủy có thể dạy phép thần thông.
-Phép thần thông vô ích vì muốn thành tựu phải mất nhiều năm để đi bộ qua sông, trong khi đó chỉ cần vài xu, vài đồng là qua bên kia bờ.
-Tham quyền lực, thần thông sẽ lạc lối, sẽ điên cuồng và trầm luân. Thiền tối kị tham dục, và nôn nóng.

Đức Phật không bao giờ biểu diễn thần thông nhưng đôi khi Ngài đã dùng thần lực hộ trợ các đệ tử trên bước tu hành. Mục Kiền Liên là người có đại lực lại có phép thần thông nhưng cũng phải nhờ phép thần thông của Phật để thành tựu. Trong khi ngồi thiền, Mục Kiền Liên nghe đức Phật nhắc nhở:

"Này Moggalàna, hãy đặt tâm vào Vô tướng tâm định!. . . . . Này Moggalàna, hãy đăt tâm vào Thiền thứ tư! Hãy nhứt tâm vào Thiền thứ tư ( Tương Ưng IV, Tập IV - Thiên Sáu Xứ. Chương VI. Tương ưng Moggalàna. IX. Vô tướng, 272-273)

Sau Mục Kiền Liên kể lại việc này và nói:

"Này chư Hiền, nếu ai nói một cách chơn chánh: "Vị đệ tử được bậc đạo sư hỗ trợ, chứng được đại thắng trí", người ấy sẽ nói về tôi như sau: "Mahà Moggahàna là người đệ tử được bậc đạo sư hỗ trợ, chứng được đại thắng trí".( Tương ưng IV, Tập IV - Thiên Sáu Xứ. Chương VI. Tương Ưng Moggalàna. IX. Vô tưởng, 272-273)
Ngài còn cứu vớt những kẻ xấu xa, tàn ác, khiến cho họ sớm giác ngộ chứ không phải để mặc họ trong vũng bùn tội lỗi và trôi lăn trong quả báo luân hồi. Ngài đã giơ tay lên, cứu vớt họ khiến họ nhanh chóng trở lại đời lương thiện, và tu tập thành A la hán như tên cướp Angulimala (Trung Bộ Kinh II Kinh Angulimala, 97-106), và một số kỹ nữ sau này cũng thành A la hán .( Tiểu Bộ Kinh I, Trưởng Lão ni kệ, 191).
Sau Phật giáo phân ra Bắc phương và Nam phương , Phật giáo Bắc phương đã nhấn mạnh về tha lực. Người ta cầu A Di Đà Phật để mong về Cực Lạc quốc, cầu Dược sư bồ tát để mau lành bệnh, nhất là đa số Phật tử tin tưởng Quan Âm Bồ tát. Quán thế âm nghĩa là quán sát các âm thanh giữa thế gian mà hiểu suốt hết thảy nỗi thống khổ của chúng sanh. Nếu có chúng sanh nào trong lúc lâm nạn, thiết tha kêu cầu vị Bồ tát này, tức thời Ngài quán được tiếng kêu cầu kia mà đến cứu độ. Động cơ thúc đẩy khiến có sự linh cảm giữa một bên "hô" và một bên "ứng" như thế là lòng đại bi rộng lớn của Ngài. Vì vậy, Ngài thường được tôn xưng là đức Bồ tát Đại bi Linh cảm ứng Quán thế âm.

Từ điển Wikipedia viết như sau:
Quan Âm (zh. 觀音, ja. kannon), nguyên là Quán Thế Âm nhưng do tránh chữ Thế trong tên nhà vua Đường là Lý Thế Dân nên gọi là Quan Âm hoặc Quán Âm, là tên của Bồ Tát Quán Thế Âm (zh. 觀世音, sa. avalokiteśvara) tại Trung Quốc, Việt Nam và các nước lân cận. Phật tử Trung Quốc thường thờ cúng Quan Âm bên cạnh các vị Bồ Tát Phổ Hiền (zh. 普賢, sa. samantabhadra), Địa Tạng (zh. 地藏, sa. kṣitigarbha) và Văn-thù-sư-lợi (zh. 文殊師利, sa. mañjuśrī). Đó là bốn vị Đại Bồ Tát của Phật giáo Trung Quốc.(3)
Quan Âm hiện thân trong mọi hình dạng để cứu độ chúng sinh, nhất là trong các nạn lửa, nước, quỷ dữ và đao kiếm. Phụ nữ không con cũng hay cầu Quan Âm. Quan Âm cũng hay được nhắc tới bên cạnh Phật A-di-đà (sa. amitābha) và trong kinh Diệu pháp liên hoa, phẩm 25 với tên Phổ môn, các công hạnh của Bồ Tát trình bày rõ ràng và tán thán. Tại Trung Quốc và Việt Nam, Quan Âm hay được diễn tả dưới dạng nữ nhân.

Kinh A Di Đà nói rằng ai niệm danh hiệu A Di Đà thì trước khi chết sẽ thấy Phật A Di Đà và chúng Bồ tát, và được chư Phật hộ niệm:

Này Xá-lỵ-phất, chúng sinh được nghe danh hiệu Phật kia, cần nên phát nguyện, nguyện sinh Cực Lạc. Như thế là sao? Vì được cùng với bậc thượng-thiện-nhân hội họp một chốn! Này Xá-lỵ-phất, không thể chỉ có một chút nhân duyên phúc đức thiện căn mà được sinh sang cõi nước Phật kia! Này Xá-lỵ-phất, nếu có thiện nam và thiện nữ nào, nghe được danh hiệu Phật A-di-đà, trì danh hiệu ấy một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, cho đến bảy ngày, nhất tâm không loạn, khi thọ mệnh hết, người ấy sẽ được Phật A-di-đà, cùng các thánh chúng, hóa hiện ngay trước, khiến cho khi mất, tâm không điên đảo, liền được đưa sang cõi nước Cực Lạc của Phật Di-đà. ....

Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. .

 
            Nước Việt Nam chịu ảnh hưởng của Phật giáo từ lâu đời. Các truyện cổ Việt Nam như truyện Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Con khỉ đỏ đít. . . đều có bóng dáng của Bụt hiện lên để giúp đỡ những kẻ đau khổ. Và trong truyện cổ của các quốc gia trên thế giời đều nói lên nhu cầu cứu giúp, nhu cầu tâm linh trong tận đáy lòng con người. Bình thường, chúng ta it thấy sự hiện hữu của thế giới siêu hình, nhưng khi gặp nguy khốn, và đau khổ, chúng ta có thể nhận thấy ơn cứu rỗi của Trời, Phật và Thánh Thần.
Con người có khi đau khổ và thất vọng, con người yếu đuối, cần có sự che chở, an ủi của Trời, Phật, Thánh Thần. Trời Phật, Thánh Thần luôn luôn tồn tại trong thế giới vô hình, ta có thể nhân thấy họ hay không là do tâm của ta. Cổ nhân nói " linh tại ngã, bất linh tại ngã". Nếu tĩnh tâm và chú ý quan sát, hoặc có khả năng đặc biệt thì ta có thể cảm nhận. Nhiều người nhìn thấy táo rơi nhưng sao một mình Isaac Newton tìm ra quy luật hấp lực của trái đất.

Đó là do tĩnh tâm và chú ý quán sát. Mặt khác, thần linh có giúp đỡ được ta không là tùy nhiều lý do. Thứ nhất bản thân ta là ai? Là kẻ ác thì khó được giúp đỡ. Cũng như trong một gia đình, cha mẹ không thể xuất tiền cho đứa con ham mê bài bạc. Thứ hai là yêu cầu của ta có quá đáng không. Có thể trời Phật cứu ta tai qua nạn khỏi, cho sống thêm vài kỷ, nhưng sinh lão bệnh tử là nguyên tắc chung. Thần linh chắc chắn không giúp ai sống hai ba trăm năm.

Nhiều bậc đại sư, trên đường tu tập cho biết rằng hành giả phải kết hợp tự lực và tha lực. Người Tây phương cũng có câu: ‘’Mình tự giúp mình trước, Trời sẽ giúp mình sau (Help yourself. God will help you" Aide toi. Dieu t'aidera ).

Trong ñåi ThØa Khªi Tín LuÆn, Mã Minh vi‰t:

Từ khi mới phát tâm cầu đạo cho đến thành Phật, trong khoảng thời gian ấy, hành giả hoàn toàn nhờ chư Phật và Bồ Tát gia hộ cho trên đường tu hành. Vì tâm đại bi nên Phật và Bồ Tát hiện làm người thân thuộc, như cha mẹ, hoặc hiện làm thiện hữu trí thức, hoặc hiện làm người tôi tớ hầu hạ, hoặc hiện làm kẻ oan gia, hoặc dùng tứ nhiếp pháp cho đến làm không biết bao nhiêu công hạnh để huân tập cho hành giả, làm cho hành giả hoặc nhớ nghĩ công đức của Ngài, hoặc thấy hình tượng hoặc nghe thuyết pháp mà được lợi ích mà tăng trưởng căn lành (118-119).


Mã Minh cũng nói đến việc cần thiết của tha lực:


Chúng sanh tuy sẵn tính Phật.( Chơn Như), là cái nhân chánh để thành Phật, song nếu không có ngoại duyên là gặp các đức Phật, Bồ Tát, thiện trí thức v.v.. . dẫn dặt, chỉ dạy cho phương pháp tu hành thì hành giả cũng không thể tự mình đoạn trừ phiền não và tu chứng Niết Bàn được (116).

Hàm Sơn thiền sư cũng nói đến việc tụng kinh, trì chú trong khi tập thiền


Những người mà trở ngại quá lớn, tham dục quá mạnh, và tư tưởng, tập dụng quá thâm căn cố đế trong tạng thức, không biết phải quán tâm ra sao, phải tập lạy Phật, tụng kinh và sám hối. (Chang Chen Chi, 184).

Chang Chen Chi cÛng có š ki‰n tÜÖng t¿:
Thiếu sự chuẩn bị tâm linh phát sinh nhờ rèn luyện ý chí và sùng mộ, bất cứ loại thiền định nào cũng khó mà có kết quả lành mạnh được, thay vì vậy, nó còn thường có thể đưa con người ta đi lạc đường. Các hành giả không ngộ được sau một thời gian tu thiền dài dẵng, thường khám phá ra rằng công trình chuẩn bị trong phạm vi sùng mộ và tâm linh của họ còn thiếu sót. Khi ấy họ hẳn trở lại tu tập pháp căn bản như là Tứ Vô lượng tâm, Bồ Tát nguyện, cầu nguyện, lễ bái. . . để trừ bỏ khiếm khuyết của họ trong phạm vi này ( Chang Chen Chi, 335)

Mã Minh cho r¢ng có hai loåi tha l¿c. M¶t loåi là duyên bình Ç£ng, m¶t loåi là duyên sai biŒt. Ông vi‰t:

Duyên bình đẳng là sự hỗ trợ đồng đều cho tất cả mọi người, mọi chúng sinh. Chư Phật và Bồ Tát thường hằng tùy thuận chúng sinh nào muốn thấy Phật, nghe Pháp thì đều bình đẳng hiện ra để hóa độ, không bỏ sót một chúng sinh nào. Bởi thế nên chúng sinh trong thiền định đều được bình đẳng thấy Phật (121).
Duyên sai biŒt là s¿ h‡ tr® cûa PhÆt và BÒ Tát cho riêng tØng ngÜ©i, Ç‹ cho hành giä ÇÜ®c tinh ti‰n trên ÇÜ©ng tu tÆp. Có hai duyên sai biŒt. Duyên gÀn khi‰n hành giä mau chÙng quä BÒ ñŠ. Duyên xa làm cho hành giä vŠ sau m§i ÇÜ®c t‰ Ƕ (122).


Nói tóm lại, trong việc tu tập cũng như trong đời sống bình thường, chúng ta phäi theo trung đạo, phải lấy tự lực là chính,nhưng cũng cần tha lực phù trợ cho chóng thành tựu.
____
(1). Ta thuở ấy là Mahà Govinda. Ta dạy cho các đệ tử của Ta con đường đưa đến sự thân hữu ở Phạm thiên quốc. Nhưng này Pancasikha, con đường phạm hạnh ấy không đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn. Con đường ấy chỉ đưa sanh lên cõi Phạm thiên. Này Pancasikha, con đường phạm hạnh của Ta hoàn toàn đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn. Ðó là con đường Thánh đạo tám ngành tức là Chánh Tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh. Này Pancasikha, con đường phạm hạnh này hoàn toàn đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn.


(2). Trường Bộ Kinh, Digha Nikaya 19. Kinh Ðại Ðiển Tôn (Mahàgovinda sutta).Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya 86. Kinh Angulimàla.(Angulimàla sutta)
(3).Tác giả viết không rõ. Bốn vị Bồ tát này do các sư  Trung Quốc suy nghĩ ra chứ không phải  là người Trung Quốc.

 


No comments: