Tuesday, June 19, 2012

HỒ CHÍ MINH SINH BÌNH KHẢO III





Thiên IV

Khúc ca buồn về chuyện hôn nhân tình ái
(Hôn nhân luyến tình đích bi ca)

Chương 1
Hồ sơ hôn nhân Hồ Chí Minh

Trong bài “Nguyễn Ái Quốc (NAQ) chết rồi sống lại”, tôi đã nhấn mạnh, vào mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc chết vì bệnh lao phổi; người xuất hiện sau này tuyệt đối không phải NAQ mà chính là Hồ Tập Chương, làm nhiều chuyên gia nghiên cứu về Hồ Chí Minh (HCM) đặt câu hỏi nghi ngờ. Trong quá trình viết cuốn sách này, tôi đã tham khảo không chỉ một vài tài liệu mà thực chất đã tiếp cận hàng đống hồ sơ, do đó đã phát hiện ra những điều bất hợp lý thậm chí mâu thuẫn nhau trong cuộc đời nhân vật lịch sử này. Vấn đề quan trọng nhất là cần phải khách quan và trung thực trên cơ sở những chứng cứ khoa học, đồng thời hết sức tránh thái độ cực đoan do thành kiến, nhằm loại trừ những sai lầm để tìm ra sự thật.

Nguyễn Ái Quốc
Nghiên cứu hồ sơ hôn nhân, tình ái của Hồ Chí Minh chính là để làm sáng tỏ Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh, người này không thể là người kia và ngược lại. Hôn nhân, tình ái của Nguyễn Ái Quốc cần được phân biệt giữa Breiere, Tăng Tuyết Minh và Nguyễn Thị Minh Khai (NTMK). Hôn nhân tình ái của Hồ Chí Minh cũng phải được phân biệt giữa Lâm Y Lan (LYL), Đỗ Thị Lạc (ĐTL) và Nông Thị Xuân (NTX). Một số cuộc hôn nhân, tình ái này đã được đề cập rải rác trong “Truyện Hồ Chí Minh” của Willam J.Duiker và “Những năm tháng Hồ Chí Minh mất tích” của Sophie Quinn – Judge, quyển 2; Nguyệt san “Vũ Hán văn sử tư liệu” (Đại lục) với bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”; Nguyệt san “Nhân Dân Văn Trích” (Đại lục) có bài “Mối tình sống chết giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”. Về phía Việt Nam (VN) có tác phẩm “Chị Minh Khai” của nhà văn Nguyệt Tú; “Việt duệ Hoa nhân Lĩnh Nam di dân” chuyên san có bài “Thê thiếp và tình nhân của Hồ Chí Minh”. Nói chung, các tác phẩm trên đều có những phát hiện và trình bày, phân tích về tình trạng hôn nhân, tình ái của Hồ Chí Minh tương đối đúng sự thực. Tuy nhiên, về phía nhà nước Việt Nam, những người lãnh đạo cao cấp đều ra sức phản bác, cũng như lúc sinh thời, Hồ Chí Minh chưa bao giờ thừa nhận mình từng có vợ có con. Họ coi Hồ Chí Minh là thần thánh, biểu tượng tối cao của sự nghiệp cách mạng, nên sẵn sàng nhắm mắt, bịt tai trước sự thật lịch sử. Hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hiện thực khách quan, được bạch hóa tại nhiều hồ sơ lưu trữ, không thể xóa bỏ được vết hằn lịch sử.

Từ sau năm 1933 cho đến lúc qua đời, Hồ Chí Minh không bao giờ thừa nhận các quan hệ hôn nhân, gia đình, nhưng trước năm 1933, tình trạng hôn nhân của NAQ lại được công khai rõ ràng. Nhà nước Cộng sản Việt Nam (CSVN) cường điệu chuyện Hồ Chí Minh vì sự nghiệp độc lập giải phóng dân tộc mà hy sinh tình cảm cá nhân, bởi vì họ không muốn và cũng không dám đối mặt với một sự thật chết người, ấy là Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không phải là một. Không còn cách nào khác, các nhà lãnh đạo cao cấp, thông qua bộ máy tuyên truyền, đã lợi dụng những chuyện cường điệu, bịa đặt về thứ tình yêu “đồng chí cộng sản” để nấp sau tấm màn nhung, điều khiển vở hài kịch “trộm rồng đổi phượng”, “dời hoa tiếp cây”…

Chuyện hoang đường về đạo đức thánh nhân

Trong nhận thức của một số người, ấn tượng phổ biến về việc ông HCM không có vợ con là bởi sự nghiệp cách mạng, vì độc lập dân tộc nên dã hy sinh hạnh phúc gia đình. Đại sứ Trung Quốc (TQ) Lý Gia Trung đã viết trên tờ “Thế Giới Tân Văn” ngày 11 tháng 7 năm 2005 như sau: “HCM vì sự nghiệp cách mạng chấp nhận sống độc thân, không xây dựng gia đình, không vợ không con”. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, vào những năm 50, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã từng có ý sắp đặt một nữ thanh niên ưu tú bên cạnh Bác để giúp đỡ Người trong công tác cũng như sinh hoạt. Thế nhưng, khi người phụ nữ ấy được đưa đến, HCM lại bảo: “Bác ở đây không có việc gì, cháu hãy về cơ quan công tác cho tốt”. Có lần HCM tâm sự với các nhân viên phục vụ về nguyên nhân mình không xây dựng gia đình: “Thời trẻ, Bác bôn ba nước ngoài, đi đến đâu cũng được phụ nữ để ý, chỉ hiềm lúc ấy Bác đang hoạt động bí mật, sẽ có ngày trở về nước làm cách mạng, một khi thành gia thất thì rất khó bảo vệ được bí mật”. Lý Đại sứ viết tiếp: “HCM vì tự do độc lập của nhân dân mà chấp nhận cuộc đấu tranh cách mạng gian khổ, không màng đến sự sống chết và hạnh phúc cá nhân, cho nên chấp nhận suốt đời sống độc thân”. Việc không có vợ con của HCM có đúng như Lý Gia Trung nhận định là chỉ vì nền độc lập dân tộc hay là còn có lý do khác quan trọng hơn mà họ cố ý giấu nhẹm sự thật, tạo ra chung quanh một vòng hào quang để biến ông thành vị thánh sống?

Căn cứ vào những hồ sơ từ thời thực dân Anh Pháp để lại, mới được giải mật gần đây, thì NAQ và HCM đã có thời kỳ hôn nhân tốt đẹp, đồng thời cũng tồn tại nhiều mâu thuẫn trong các mối quan hệ. Tuy nhiên, nhà nước cộng sản (CS) Liên Xô (LX), TQ và VN cho đến nay chẳng những không chịu thừa nhận thực trạng hôn nhân của HCM mà còn cố ý làm sai lệch các hồ sơ trên. Họ làm vậy với mục đích gì? Lần lượt phân tích các hồ sơ qua nội dung đã được bạch hóa, có thể suy đoán, Nga cộng, Trung cộng, Việt cộng, không dám công bố sự thật hôn nhân HCM là bởi họ đã hiểu NAQ và HCM là hai người khác nhau. Một khi các chuyên gia nghiên cứu về HCM công bố trước thế giới sự thật này thì thân phận HCM sẽ trở thành một “song bào án”, hình tượng HCM bỗng chốc sụp đổ, làm gì còn đủ tư cách “cha già dân tộc”!

Những năm ấy Quốc tế cộng sản (QTCS) phải khó khăn lắm mới tạo ra được vở kịch “mượn xác hoàn hồn” với kế hoạch cài cắm một phái viên của QTCS vào Việt Nam nhằm thực hiện mục đích “nhuộm đỏ” khu vực Đông Nam Á (ĐNA), nay có nguy cơ bị vạch trần nên tất yếu họ tìm mọi cách bưng bít.

Vào những năm dầu thế kỷ XXI (năm 2000), sự thực về hôn nhân, tình ái của HCM còn được Sophie Quinn- Judge trong “Những năm tháng Hồ Chí Minh mất tích”, quyển I, ở phần mở đầu, giới thiệu tóm tắt đã viết: “HCM không phải là hòa thượng độc thân, qua thẩm xét, nghiên cứu kỹ lưỡng, ông ta từng có quan hệ chính thức với hai người phụ nữ”. Phần tổng kết, tác giả nhắc lại: “HCM tuyệt đối không phải là một vị thánh của Chủ nghĩa Cộng sản (CNCS) chỉ vì ông ta không có cơ hội chung sống cùng phụ nữ mà thôi”. Một tác giả người Việt là nhà nghiên cứu Trần Gia Phụng trong tác phẩm “Ông Hồ có bao nhiêu vợ?”, đã viết: “HCM cũng chỉ là một người bình thường. Ông đã từng trải qua mấy cuộc hôn nhân, có vợ có con, thậm chí có đến mấy bà vợ cùng nhân tình”. Trong xã hội Việt Nam năm sáu mươi năm về trước, đây là hiện tượng cực kỳ phổ biến. Chỉ có điều, đã trót suy tôn ông ta là “nhà chính trị kiệt xuất”, “cha già dân tộc”, “biểu tượng của cách mạng Việt Nam” nên bắt buộc phải giấu biệt các mối quan hệ hôn nhân, tình ái, vô hình chung Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã biến ông HCM thành kẻ phụ tình, bất nghĩa, thoái thác trách nhiệm làm chồng làm cha, một lẽ thường của đạo nhân luân.

Cầu trả về cầu, đường trả về đường

Qua những sự thực lịch sử về tình trạng hôn nhân của HCM, cẩn thận xem xét, kiểm nghiệm kết hợp với so sánh, đối chứng, ta có thể thấy rõ, NAQ và HCM có những quan hệ hôn nhân, tình ái vào các thời kỳ khác nhau. Nếu đem hai người có tình trạng hôn nhân ở hai thời kỳ khác nhau gộp lại cho một người rồi đồng nhất cùng một thời gian thì chẳng khác gì câu chuyện dân gian “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, làm biến dạng bản chất sự việc. Muốn làm rõ việc này cần phải lấy năm 1932 làm mốc phân ranh giới giữa NAQ và HCM. Trước năm 1932, thuộc hôn nhân, tình ái của NAQ với Breiere, Tăng Tuyết Minh và Nguyễn Thị Minh Khai (NTMK). Từ năm 1933 về sau, thuộc hôn nhân tình ái của HCM với Lâm Y Lan, Đỗ Thị Lạc và Nông Thị Xuân. Đem NAQ ghép với HCM là không thể. Để loại trừ những kết luận chủ quan, sai lầm, cần phải đối chiếu thời gian, tìm hiểu các mối quan hệ, phân tích dữ liệu một cách cẩn trọng trong đống hồ sơ lưu trữ về HCM để trả lại sự minh bạch cho lịch sử như tục ngữ của người TQ là “cầu trả về cầu, đường trả về đường”. Xin độc giả tham khảo những tư liệu sau đây:

1 – Năm 1921, NAQ ở trọ tại biệt thự Qua Bách Lâm thủ đô Paris nước Pháp, (Gobelins (avenue des), một đại lộ thuộc Quận XIII, Paris, nơi có nhà riêng của luật sư Phan Văn Trường, cho ông Phan Chu Trinh tá túc, rồi thêm Nguyễn Tất Thành) làm quen với một thiếu nữ người Pháp là cô Briere. Cảnh sát xác nhận cô này là tình nhân của NAQ.

2 – Năm 1925, tại Quảng Châu, NAQ quen biết một thiếu nữ Trung Quốc là Tăng Tuyết Minh, năm 1926 hai người kết hôn. Sau khi kết hôn hai người ở trong biệt thự của Mikhail Borodin.

3 – Năm 1930, tại Hương Cảng, NAQ mang theo từ Việt Nam một người đồng hương đồng thời là người yêu của ông ta tên Nguyễn Thị Minh Khai. Mùa xuân năm 1931, NAQ và NTMK cử hành hôn lễ đơn giản tại nhà khách qua sự chứng kiến của các đồng chí đến từ Tây Cống (Saigon, theo âm Quảng Đông) và Đông Kinh.

4 – Năm 1935, Mạc Tư Khoa triệu tập Hội nghị lần thứ 7- QTCS. Thời gian này NAQ bị bệnh đã qua đời, NTMK với tư cách là vợ của NAQ, khi đến Mạc Tư Khoa, ghi trong tờ khai là đã kết hôn với một người đồng chí có tên PC. Lin. Hội nghị kết thúc, NTMK ở lại Liên Xô, đến phòng đăng ký giá thú làm thủ tục kết hôn với Lê Hồng Phong, là người lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD).

5 – Cuối năm 1944, HCM trở lại căn cứ địa cách mạng Bắc Kỳ. Trong số 18 cán bộ nòng cốt theo HCM về VN có một phụ nữ là Đỗ Thị Lạc (ĐTL), mọi người quen gọi “chị Thuận”. Tại Cao Bằng, HCM và ĐTL sống chung với nhau một thời gian.

6 – Năm 1955, một thiếu nữ xinh đẹp người Nùng, quê Hòa An, Cao Bằng là Nông Thị Xuân (NTX) được cử làm y tá bên cạnh HCM. Hai người sống chung với nhau gần một năm thì cô Xuân sinh hạ một bé trai. Đứa bé lúc đầu gửi Hội Phụ nữ rồi Chu Văn Tấn chăm sóc, sau này thư ký riêng của ông Hồ là Vũ Kỳ bí mật nhận làm con, nuôi dưỡng tại nhà mình.

7 – Năm 1965, nhân việc Đào Chú, một yếu nhân của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đồng thời là bạn thân của HCM viếng thăm Hà Nội, ông Hồ có nhờ Đào Chú tìm giúp một phụ nữ từng quen biết thời trẻ ở Quảng Đông là Lâm Y Lan để nối lại tình xưa nghĩa cũ. Họ Đào trở về TQ báo cáo việc này với Tổng lý Chu Ân Lai, tuy nhiên quan hệ ngoại giao hai nước lúc ấy không còn mặn mà như trước vì cuộc “Đại Cách Mạng văn hóa” nên đề nghị của ông Hồ tạm thời bị xếp lại.

Mối tình đầu của Nguyễn Ái Quốc với cô Breiere

Breiere và Bourdon

Breiere có phải là người tình đầu tiên của NAQ hay không, việc này xác minh không khó. Qua quá trình thẩm xét, các hồ sơ liên quan đến NAQ đều cho thấy, Breiere đúng là người tình đầu tiên của NAQ. Mối quan hệ tình ái này, cả trong tác phẩm của William Duiker và Nguyễn Thế Anh đều không được đề cập đến, bởi các nhà nghiên cứu quan niệm, chuyện yêu đương thời kỳ đầu của Nguyễn thường là giả tạo, thậm chí còn bị tô vẽ phóng đại với mục đích chính trị.

Người tình đầu tiên của NAQ là một phụ nữ Pháp tên Breiere, chẳng hiểu vô tình hay hữu ý đã bị lẫn lộn với mối tình của nữ chiến sĩ cách mạng NTMK. Việc làm này rõ ràng có ý đồ tạo ra một giả tượng đồng nhất HCM với NAQ. Giáo sư Nguyễn Thế Anh trong tác phẩm “Con đường chính trị của Hồ Chí Minh”, khẳng định người tình đầu tiên của NAQ là cô Bourdon, còn William Duiker trong “Truyện Hồ Chí Minh”, trang 76 lại ghi người tình đầu tiên của NAQ là cô Bourdon Breiere. Có nhiều khả năng, từ tiếng Pháp chuyển dịch sang tiếng Trung, danh xưng này bị phiên âm khác đi. Theo các tài liệu lịch sử để lại, cô Breiere và cô Bourdon đều là người tình của NAQ thời kỳ đầu đến nước Pháp thực chất chỉ là một người. William Duiker dẫn theo tài liệu thời kỳ đầu còn Nguyễn Thế Anh dẫn theo tài liệu ở thời kỳ kết thúc của mối tình này nên mới có sự bất đồng.

Mối tình đầu của Nguyễn Ái Quốc

Giáo sư Nguyễn Thế Anh trong “Con đường chính trị của HCM” có ghi chép về mối tình đầu của HCM như sau: “Năm 1923, HCM từng bị thất tình với một cô gái người Pháp là Bourdon. Cô này đã trách móc Hồ vì việc Hồ tuyên bố với mọi người cô là vợ mình. Từ một bức thư đề ngày 10 tháng 5 năm 1923, HCM gửi cho Bourdon có thể biết được mối quan hệ tình ái của họ trong thời gian ấy: “Nhận được thư của em làm anh vô cùng sung sướng. Anh cũng gửi đến em lời cảm ơn về những tấm ảnh đẹp. Anh tạm gửi lại em hai tấm, còn giữ lại ba tấm, nếu có thời gian sẽ in tráng. Mong em cho phép anh in tráng hai bộ, một bộ gửi em, một bộ anh giữ để làm kỷ niệm tình đồng chí của chúng ta”. Sau đó hai người còn thư từ qua lại với nhau một thời gian nữa, hẹn sẽ có ngày gặp mặt. Có khả năng, theo lá thư đề ngày 11 tháng 6 năm 1923 gửi cho Bourdon, HCM viết: “Vừa nhận được thư cô, xin cô hãy giữ gìn các tấm ảnh, nhưng không cần thiết phải phóng đại số ảnh ấy. Đọc thư, tôi rất sửng sốt, không sao hiểu được ý tứ của những lời nói ấy. Nếu cô nghĩ rằng tôi làm việc ấy, xin mời cô hãy đến quán ăn, ta sẽ làm rõ sự thật”. (Tác giả nhận định, thời gian ấy, NAQ làm việc tại một hiệu ảnh, còn cô Bourdon có thể làm làm bồi bàn trong một nhà hàng). Trích dẫn từ một lá thư do Cục Bảo An Pháp thu được, hiện bảo tồn tại Trung tâm Hồ sơ Pháp quốc Hải ngoại (SLOTFOM), hàng thứ 2, hòm số 4, William J. Duiker trong “Truyện Hồ Chí Minh”, chương 2, trang 76, viết: “Năm 1921, NAQ quyết định gia nhập đảng Cộng sản Pháp (ĐCSP), việc này đã tạo ra sự căng thẳng với nhóm người cùng ngụ trong biệt thự Qua Bách Lâm. Họ xem Nguyễn là nhân vật cấp tiến và hành động của anh ta có mùi vị súng đạn. Thời kỳ Hội nghị Versailles, NAQ có kể với người đồng hương là Trần Tiến Nam về người bạn gái bất đồng quan điểm với mình vì cô cho rằng anh ta có tư tưởng cực đoan. Cũng cuốn sách trên, trang 593 (chú giải số 49), có ghi: “Căn cứ Hồ sơ Pháp quốc hải ngoại của Trung tâm Viễn chinh quân Bảo hộ, tủ thứ 36, ngày 27 tháng 12 năm 1920, Deveze viết như sau: “Người bạn gái là Breiere, cảnh sát tin là nhân tình của Nguyễn Ái Quốc”.

Mối tình đầu giữa NAQ và Breiere là tình yêu chân chính của những người tuổi trẻ. Nó thường bị lợi dụng gắn kết với mối tình giữa NAQ và NTMK, cố ý gây lẫn lộn, làm mối tình đầu thất bại này mang phong vị lãng mạn, tạo ra một hình ảnh HCM thánh nhân, đạo đức “đất nước chưa độc lập thống nhất, HCM không thể xây dựng gia đình riêng”. Theo các đề mục ở phần sau của tác phẩm “Hồ Chí Minh vì sao không lấy vợ?”“Tình yêu vượt qua Hồng Hà” (Truyện Hồ Chí Minh), hai thiên này rất không đúng sự thực, chứng tỏ vòng hào quang chung quanh HCM chỉ là thần thoại giả tạo.

Nghi án ái tình giả tạo

Hồ Chí Minh vì sao suốt đời không lấy vợ?, tờ “Nhân Dân Nhật Báo” Trung Quốc, bản hải ngoại (bản số 3, ngày 16 tháng 9 năm 2000), Hồ Văn Sinh viết: “Năm 20 tuổi HCM lên một chiếc tàu thủy đến nước Pháp, bắt đầu tìm thấy chân lý ở chủ nghĩa Marx – Lenine. Trên đường đi, ông làm quen với một cô gái xinh đẹp người Việt, dáng mảnh mai, tính tình nhu thuận. Họ nhanh chóng có tình cảm với nhau. Khi HCM tham gia “Phong trào vận động giải phóng dân tộc Việt Nam” thì người bạn gái yêu thương bị kẻ thù giết hại một cách thảm khốc. Một hôm, ông đến gặp các nhà lãnh đạo chủ chốt của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (VNTNCMĐCH) trịnh trọng tuyên bố: “Một khi VN chưa giải phóng, đất nước chưa thống nhất thì đời này, kiếp này tôi nhất định không thành gia thất”. Từ Đại lục, “Phúc Kiến Kiều Báo” có đăng tải bài “Tình yêu vượt qua Hồng Hà, chuyện tình Hồ Chí Minh” với nội dung như sau: “Năm 20 tuổi, HCM rời quê hương Nghệ An ra đi trên một chiếc tàu thủy đến nước Pháp tìm chân lý qua nghĩa Marx- Lenine để giải phóng dân tộc. Hai tháng lênh đênh trên biển, ông làm quen với một cô gái con nhà gia thế, dáng vóc xinh đẹp, tính tình nhu thuận. Ông Hồ là một thanh niên cao thượng, phong cách tao nhã, làm việc cần mẫn không nghỉ, quyết chí hiến thân cho lý tưởng quốc gia độc lập, dân tộc giải phóng, làm người thiếu nữ vô cùng cảm động và ái mộ. Năm 1923, HCM đi Liên Xô học tập. Một thời gian sau người yêu của ông cũng được cử qua đường Liên Xô về nước truyền bá ngọn lửa cách mạng. Cặp tình nhân níu áo, rơi lệ từ biệt nhau. Sau đó, HCM từ Liên Xô trở về Quảng Châu - Trung Quốc vận động thành lập VNTNCMĐCH và “Hội Liên Hiệp Các Dân Tộc Á Đông Bị Áp Bức” (HLHCDTAĐBAB). Đúng vào lúc HCM toàn tâm toàn ý hoạt động cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt thì một tin dữ truyền đến, người yêu của ông bị kẻ thù sát hại một cách thảm khốc. HCM đau đớn tưởng như không thể sống được nữa. Một ngày, ông đến gặp các cán bộ chủ chốt của VNTNCMĐCH trịnh trọng tuyên bố: “Việt Nam chưa giải phóng, đời này, kiếp này, tôi quyết không thành gia thất”.

(Còn tiếp)Hồ Tuấn Hùng
Chương 2
Tăng Tuyết Minh, người vợ đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc

Câu chuyện hôn nhân, ái tình của Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh

Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc (NAQ) đến Quảng Châu đổi tên thành Lý Thụy. Vào một ngày cuối năm 1925, Tăng Tuyết Minh (TTM) đến trụ sở “Hội Phụ nữ Vận động Diễn tập” tìm gặp Thái Sướng, lúc xuống lầu, bất ngờ gặp Lý Thụy ở chỗ rẽ cầu thang. Khi ấy, hai người chẳng để ý gì đến lễ tiết mà cùng đối mặt nhìn nhau. Lý Thụy bị phong thái cao nhã, dáng vẻ rạng rỡ của cô bắt mất hồn, khi lên gác, không nén được bèn hỏi Thái Sướng: “Vị tiểu thư vừa rời khỏi đây tên là gì và có quan hệ thế nào với Hội Phụ nữ?”. Thấy Lý Thụy dường như đã có tình ý với TTM nên Thái Sướng đã có nhã ý giới thiệu nhân thân cô gái Quảng Châu với anh ta, đồng thời, cùng Đặng Dĩnh Siêu đứng ra làm mối cho cuộc nhân duyên này.

Cô Tăng Tuyết Minh thời trẻ
Tăng Tuyết Minh sinh tháng 10 năm 1905 tại Quảng Châu, nguyên quán trấn Tông Khẩu, huyện Mai, tỉnh Quảng Đông. Cha là Tăng Khai, nhà buôn, đã từng kinh doanh ở Đàn Hương Sơn (San Francisco, California, Mỹ), cả nhà theo đạo Cơ Đốc. Tăng Tuyết Minh là con gái út của gia đình. Từ năm 1912 đến năm 1917, Tăng Tuyết Minh học tư thục tại Quảng Châu qua các trường Trấn Quang tiểu học và Đệ thập tứ Quốc dân tiểu học. Mùa xuân năm 1923, TTM vào học trường Nữ Hộ Sinh, năm 1925 tốt nghiệp. Sau khi được Hiệu trưởng Hoàng Ngọc Anh giới thiệu, cô đến làm nữ y tá trợ sản Sở Y vụ La Tú Vân, Quảng Châu. Lúc ấy, TTM vừa tròn hai mươi tuổi. Đương thời, Quảng Châu được xem như trung tâm cách mạng. Hà Hương Ngưng, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng sáng lập tổ chức “Phụ nữ Vận động Diễn tập”. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng, TTM thường đến trụ sở Hội nghe diễn thuyết, tham gia hoạt động, kết bạn thân thiết với Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng.

TTM có người anh thứ hai là Tăng Cẩm Tương là bạn cũ của Tôn Trung Sơn, tinh thông năm ngoại ngữ, văn bút tinh xảo, là giảng viên đại học. Tăng giáo thụ mời Lý Thụy đến nhà. Trong khi nói chuyện, thấy Lý Thụy khiêm nhường, tự tin, thiết thực, nhiệt tình, có viễn kiến, lịch duyệt và biết nhiều ngoại ngữ, ông đã thay mặt gia đình tác thành cho đôi lứa. Ngày 18 tháng 10 năm 1926, hôn lễ được cử hành long trọng tại nhà hàng Thái Bình Dương trước sự chứng kiến của đông đảo quan khách do Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng chứng kiến và chủ trì. Cố vấn Nga Xô Mikhail Borodin, trợ thủ đắc lực của Trương Thái Lôi cũng đến chúc mừng.

Cuối năm 1926, Tăng Tuyết Minh mang thai. Lý Thụy khấp khởi mừng thầm vì sắp được hưởng niềm vui làm bố. Có điều, mẹ TTM là Lương Thị, sau khi biết việc này, sợ con gái sinh cháu bé sẽ theo chồng đi mất nên đã tìm mọi cách ép nàng phá thai. Tuy TTM có những mười anh chị em, nhưng trừ anh hai Tăng Cẩm Tương, còn lại đều sống xa gia đình. Cha mất sớm, mẹ tuổi già cô độc, vì chữ hiếu, nàng khó mà trái lời khuyên của mẹ nên đã gặp Lý Thụy nói sự thật rồi nuốt nước mắt bỏ đi cốt nhục của mình, để lại mối hận cho đến cuối đời. Từ khi kết hôn đến lúc hai người chia tay chưa đầy một năm.

Tình hình cách mạng Trung Quốc biến chuyển nhanh. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, Tưởng giới Thạch gây ra sự kiện Trung Sơn Hạm triệt để phản bội cách mạng, điên cuồng truy sát các đảng viên cộng sản, tạo thành vụ khủng bố trắng tanh máu người làm chấn động dư luận quốc tế. Trước tình hình nghiêm trọng, Lý Thụy nhận chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản, theo đoàn cố vấn Nga Xô đi Vũ Hán, chuyển qua Thượng Hải, sau đó đến Vladivostok để sang Mạc Tư Khoa. Từ đó vợ chồng mỗi người một phương.

Năm 1929, Lý Thụy đến Hương Cảng đổi tên thành Tống Văn Sơ, tháng 2 năm 1930, theo chỉ thị của QTCS, thành lập ĐCSVN tại Cửu Long, Hương Cảng. Tháng 6 năm 1931, Tống Văn Sơ bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam tại nhà lao Victoria. Tống Văn Sơ tìm cách báo tin cho Tăng Tuyết Minh biết việc mình bị câu lưu. Được tin, các chị gái TTM nhiệt tình giúp đỡ bằng cách mời luật sư biện hộ để em rể thắng kiện trước tòa. TTM theo các chị đến nơi mới biết Tống Văn Sơ chính là Lý Thụy, chồng mình, vội đến nhà giam thăm nhưng không được gặp đành gạt nước mắt ra về.

Năm 1958, Viện Vệ sinh Y vụ Quảng Châu tiến hành chỉnh phong với phương châm “đại minh, đại phóng”. Trong đám đống sự có người tố cáo, trước đây TTM và HCM có quan hệ hôn nhân mờ ám làm kinh động cả giới lãnh đạo ngành y tế. Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi, TTM chỉ nói, người có sự trùng tên, vật có sự đồng dạng, chuyện hôn nhân có tính chất quốc tế này là bịa đặt. Căn cứ vào sự phủ nhận của đương sự, hơn nữa, đây là sự việc trọng đại, lãnh đạo ngành y tế bèn làm văn bản gửi lên Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Trung Quốc Thái Sướng. Thái Sướng liền gửi công văn cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rõ, Lý Thụy là một bí danh của HCM thời kỳ ở Quảng Châu, đồng thời cũng xác nhận Tăng Tuyết Minh và Hồ Chí Minh đã từng là vợ chồng. Tuy nhiên, chuyện này liên quan đến quan hệ hai nước, không được làm ảnh hưởng đến tình hữu nghị Trung – Việt, sự việc mới lắng xuống.

Liệu Hồ Chí Minh có biết Tăng Tuyết Minh vẫn còn sống hay không? Vì sao ông ta không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhờ tìm người vợ đã mất tin nhiều năm? Tăng Tuyết Minh một thân cô quả, thủ tiết chờ chồng từ năm hai mươi mốt tuổi, làm nghề nữ hộ sinh, trải qua sóng gió Cách mạng Văn hóa rồi nghỉ hưu, một thân một mình cho đến năm 1991 thì qua đời ở tuổi 86.

Vợ tôi, đối với Tăng Tuyết Minh thuộc hàng cháu, thường gọi bằng “cô Mười”. Từ khi sinh ra đến lúc qua đời bà đều sống ở Quảng Châu, là tín đồ trung thành của đạo Cơ Đốc, ngày đêm cầu khấn cho Lý Thụy bằng an. Năm 1988, khi tôi cùng vợ về Quảng Châu viếng thăm bà cô Mười, trong ký ức bà vẫn nhớ đến Hồ Chí Minh lúc chia tay từ mấy chục năm trước. Bà kể tường tận cho chúng tôi nghe về thời kỳ quen biết Hồ Chí Minh, nảy sinh tình cảm nam nữ rồi quá trình tổ chức hôn lễ rất xúc động. Tôi gửi lại bà tấm ảnh quý và bức thư ngày trước viết cho HCM mà bà gửi tôi giữ hộ. Lúc ấy trong tay vợ tôi còn có chiếc nhẫn hồng ngọc mà Lý Thụy đã tặng lúc đính hôn cùng với tấm rèm cửa được cố vấn Mikhail Borodin chúc mừng hôn lễ. Những vật kỷ niệm này được gia đình tôi coi như bảo vật truyền gia của người bà để lại. Vào dịp kỷ niệm ngày sinh 111 năm của Hồ Chí Minh và 96 năm của Tăng Tuyết Minh, tôi, với tư cách là thành viên Sở Nghiên cứu Văn sử thành phố Vũ Hán, Ủy viên Chính hiệp Thành phố, là nhà thư pháp, hiểu rất rõ trách nghiệm và nghĩa vụ của mình khi soạn cuốn sách này. Bởi vì cuốn sách chính là tấm lòng kính yêu của một kẻ hậu sinh tưởng nhớ đến người cô TTM, cho dù tình cảm bị tổn thương vẫn một lòng chung thủy chờ chồng, suốt đời cam chịu sống độc thân, và lãnh tụ HCM, chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi vì sự nghiệp cách mạng dân tộc, vì sự nghiệp cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, suốt đời sống độc thân, không mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Dù thời gian qua đi nhưng tình cảm của hai người vẫn không thay đổi, một lòng một dạ trung trinh, đời đời ghi vào lịch sử.

Hồ sơ về hôn nhân, tình ái giữa Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh

Viết về hôn nhân và tình ái của HCM, có thể điểm đến các tác phẩm “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, dài khoảng 4200 chữ, do Từ Song Minh (cháu của người chị gái bà Tăng Tuyết Minh viết), Khổng Khả Lập phê bình, chú giải tại Nguyệt san “Vũ Hán Văn sử Tư liệu”, năm 2001, kỳ 1; William J. Duiker, với “Truyện Hồ Chí Minh” gồm hai phần, cả hai phần này đều lấy tư liệu từ “Trung tâm Quân viễn chinh Bảo hộ” thuộc “Hồ sơ Pháp quốc Hải ngoại”, hòm số 367, tiêu đề “Hồ sơ Nguyễn Ái Quốc, 1926 – 1927).

Phần thứ nhất, chương 4 – “Long đích truyền nhân” (Người nối dòng rồng), trang 143, nội dung như sau: “Mùa xuân, năm 1927, NAQ dừng lại ở Quảng Châu già nửa năm. Ông ta đã trở thành nhân vật trọng yếu được các thành viên trong đảng đoàn kính nể, đồng thời cũng kiến lập được mối quan hệ rất tốt với nhà cách mạng Chu Ân Lai, Trương Thái Lôi và các lãnh tụ Quốc Dân Đảng cánh tả (là đảng viên ĐCSTQ) Liêu Trọng Khải v.v. Đến lúc ấy, chẳng những NAQ đã ổn định cuộc sống tại Trung Quốc mà còn muốn tìm một người vợ để học Trung văn, đồng thời lo liệu mọi sinh hoạt gia đình. Không lâu sau, một người đồng sự là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) giới thiệu với NAQ một thiếu nữ là Tăng Tuyết Minh để hai người làm quen. Tuy cô gái là con một gia đình có giáo dục nhưng một số đồng nghiệp vẫn không tán thành. NAQ bất chấp mọi phản đối, quyết định cầu hôn. Sau hôn lễ, hai người chuyển đến ở một phòng trên tầng 2 biệt thự của Mikhail Borodin. Việc này đã được báo cáo với Mạc Tư Khoa”.

Thư gửi Tăng Tuyết Minh
bị Mật thám Đông Dương
chặn được ngày 14.8.1928,
hiện tàng trữ tại C.A.O.M.
(Aix en Provence).
Xuất xứ Daniel Hémery,
HO CHI MINH De L’Indochine au
Một phần khác, ghi chép tại chương 6 – “Xích sắc Nghệ Tĩnh” (Màu đỏ Nghệ Tĩnh), trang 188-189 viết: “Tình yêu giữa NTMK và NAQ không phải mọi người đều biết, thậm chí cũng chẳng biết có hay không hôn lễ cử hành chính thức”. Từ tháng 4 năm 1927, tuy NAQ đã rời TQ, vẫn còn chưa mất hết dấu tích, chứng cứ là, vào năm 1930, TTM ngẫu nhiên gặp lại chồng ở Hương Cảng nhưng cuối cùng quan hệ giưa hai người vẫn không nối lại. Theo một đồng chí của NAQ là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) nói với một người quen ở Cục Bảo An: “TTM chê NAQ nhiều tuổi, không hợp với mình, đồng ý kết hôn chỉ vì lý do kinh tế”. Khoảng gần một năm sau, khi NAQ rời Quảng Châu có gửi cho TTM một bức thư: “Hai ta phân ly gần một năm, cho dù không nói được lời nào nhưng anh vẫn thấy tình cảm chẳng khác gì ngày trước. Anh viết gửi em mấy dòng này làm vật chứng, xin em chắp tay trước nhạc mẫu chuyển lời của anh chúc phúc đến bà”. Khi quan hệ hôn nhân của NAQ và TTM chấm dứt, vào năm 1931, ông bắt đầu có quan hệ luyến ái với với một nữ đồng chí trẻ tuổi người đồng hương là NTMK, đồng thời đề nghị Cục Viễn Đông tổ chức đám cưới cho hai người. Giáo sư Hoàng Tranh, viện trưởng Viện Khoa học lịch sử Quảng Tây, đã dành nhiều thời gian và tâm huyết nghiên cứu về mối quan hệ Trung Việt và HCM. Sau nhiều năm điều tra, khảo chứng, ông đã viết trên tờ “Đông Nam Á tung hoành” (Dọc ngang Đông Nam Á), kỳ 12, tháng 11, năm 2001, kết luận Hồ Chí Minh đích xác có một người vợ Trung Quốc là Tăng Tuyết Minh.

Trung Cộng ẩn giấu chuyện hôn nhân Tăng Tuyết Minh

NAQ và TTM, năm 1925 bắt đầu có quan hệ luyến ái, năm 1926 kết hôn, vậy vì sao, người cháu con bà chị là Từ Song Minh đến năm 2000 mới công bố bài viết “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” kể về chuyện hôn nhân của bà Cô Mười? Qua sử liệu và quá trình nghiên cứu, đối chiếu, ta có thể thấy bên trong sự kiện này có nhiều vấn đề phức tạp. Sự thật cuộc hôn nhân này dường như đã bị ban lãnh đạo Cộng sản Việt Nam bưng bít, xem như một loại tài liệu cơ mật không thể công bố. Năm 2000, William J. Duiker xuất bản cuốn “Truyện Hồ Chí Minh”, tập 1, tác giả có đề cập đến chi tiết, một đồng chí của NAQ là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) tố cáo với Cục Bảo An Pháp như sau: “TTM chê NAQ nhiều tuổi, không phù hợp với mình, chấp nhận kết hôn chẳng qua là do nhu cầu kinh tế”. Đoạn này rất không phù hợp với sự thực lịch sử, bởi nó đã vu khống tình yêu chân chính (sinh tử luyến) và tấm lòng trung trinh của TTM với NAQ, bôi nhọ nhân cách và danh dự của bà làm cho Từ Song Minh vô cùng phẫn nộ đối với W.J. Duiker. Vì thế, năm 2001, ông mới viết bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” do Khổng Khả Lập phê bình, đăng tại Nguyệt san “Vũ Hán Văn sử Tư liệu”. Bài báo cực lực phản bác Lam Đức Thư vu khống, đồng thời khẳng định tình cảm của bà cô TTM đối với NAQ trước sau như một không hề thay đổi. Qua bài viết, Từ Song Minh cũng đã làm sáng tỏ giai đoạn bị ẩn giấu sau 75 năm quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh, từ đó cũng chứng minh được Trung Cộng và Việt cộng luôn tìm cách che giấu sự thật lịch sử này.

<
Nguyệt san
Vũ Hán Văn Sử Tư Liệu
Trong “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc” có đoạn viết: “Ngày 19 tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc tờ “Văn Hối Báo” thấy in ảnh chân dung Hồ Chí Minh cùng điện văn chúc mừng sinh nhật lần thứ 60 của Trung ương ĐCSTQ và Chủ tịch Mao Trạch Đông (MTĐ) kèm theo bài viết về cuộc đời hoạt động và sự nghiệp văn chương của ông. Đến lúc ấy bà mới biết, hình bóng người chồng thân thương lúc nào cũng thấp thoáng hiện về trong giấc ngủ hàng đêm chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên mọi cố gắng của Tăng Tuyết Minh liên hệ với Hồ Chí Minh đều không có kết quả. Trong “Thê thiếp, nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” viết: “Tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc “Nhân Dân Nhật Báo” mới biết người chồng xa cách hơn hai mươi năm là Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước VNDCCH. Bà đã mấy lần gửi thư đến Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh cho Hoàng Văn Hoan nhưng không bao giờ nhận được hồi âm. Sau năm 1954, TTM lại đề nghị với nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa sang Hà Nội gặp HCM nhưng cuối cũng vẫn bị lãnh đạo Trung Cộng cự tuyệt.

Theo tinh thần của bài viết, rõ ràng cho thấy, NAQ của năm 1926 và HCM của năm 1950 là không cùng một người. Trung Cộng và Việt Cộng vì muốn che dấu thân phận thật của HCM nên không dám dể TTM gặp mặt ông ta. Người chủ trì hôn lễ lúc ấy là Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu biết rõ HCM năm 1950 không phải là NAQ (Lý Thụy) năm 1926, chỉ biết giả câm giả điếc, biết rõ TTM đau khổ mà không làm gì được.

Hôn nhân Tăng Tuyết Minh, thật giả - một vụ án kép

Trong “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” có đoạn: “Năm 1958, Viện Vệ sinh Y vụ Quảng Châu tiến hành chỉnh phong với phương châm “đại minh, đại phóng”. Trong đám đồng sự có người tố cáo trước đây TTM và HCM có quan hệ hôn nhân mờ ám làm kinh động cả giới lãnh đạo ngành y tế. Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi, TTM chỉ nói: “người có sự trùng tên, vật có sự đồng dạng”, chuyện hôn nhân có tính chất quốc tế này là bịa đặt. Căn cứ vào sự phủ nhận của đương sự, hơn nữa, đây là sự việc trọng đại, lãnh đạo ngành y tế bèn làm văn bản gửi lên chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ TQ Thái Sướng. Thái Sướng liền gửi công văn cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rõ, Lý Thụy là một bí danh của HCM thời kỳ ở Quảng Châu, đồng thời cũng xác nhận TTM và HCM đã từng là vợ chồng. Tuy nhiên, chuyện này nếu xử lý không thận trọng sẽ ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị hai nước, nội vụ mới được dẹp yên.

Liệu HCM có biết TTM vẫn còn sống hay không? Vì sao ông ta không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhờ tìm người vợ đã mất tin nhiều năm?

Trong “Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” có đoạn viết: “Năm 1958, bên bờ sông, tại Hà Nội, hai ông già thong thả buông cần câu cá, đó chính là Hồ Chí Minh và Đào Chú. Hồ Chí Minh thần sắc khác thường trịnh trọng nói với Đào Chú: “Trung Quốc có câu ‘Lúc trẻ là vợ chồng, về già là bạn’. Tôi và Lâm Y Lan quen biết nhau đã hơn 20 năm, vì sự nghiệp cách mạng đành gác lại tuổi thanh xuân, giờ muốn đón Y Lan sang Hà Nội, bí mật cử hành hôn lễ để thỏa nguyện mong ước bấy lâu”. Sau khi về nước, Đào Chú báo cáo với Chủ tịch Mao Trạch Đông đề đạt nguyện vọng của Hồ Chí Minh. Khi ấy Thủ tướng Chu Ân Lai và các vị lãnh đạo cao cấp cũng có mặt, vô cùng kinh ngạc. Về phía mình, Bắc Việt vội triệu tập cuộc họp Bộ Chính Trị để biểu quyết về sự kiện đặc biệt này.

Hai bài báo trên đều xuất hiện vào năm 1958. “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” xuất hiện vào thời kỳ Trung Cộng “đại minh, đại phóng”, sự kiện hôn nhân của TTM và NAQ bị hiểu sai. Thân phận nhân vật nam chính NAQ bị biến thành HCM theo kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia” hay “hồn Trương Ba da hàng thịt” tạo nên sóng gió của một vụ án kép (song bào án). Bài “Mối tình nồng thắm của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” kể về việc HCM nhờ ĐCSTQ nối lại mối quan hệ hôn nhân với người phụ nữ Quảng Đông Lâm Y Lan. Hai sự kiện hôn nhân và tình ái trên đã thể hiện rất rõ sự khác nhau của mỗi trường hợp. Hoàn cảnh xuất hiện con người và tình yêu cũng không giống nhau. Tình yêu của Nguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh có Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng, Mikhail Borodin, Trung Cộng và QTCS chứng kiến. Tình yêu giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan có Mao Trạch Đông, Đào Chú của Trung Cộng, Tổng Bí thư Lê Duẩn và các Ủy viên Bộ Chính Trị Đảng Cộng sản Việt Nam biết rõ.

Có thể khẳng định, bất cứ ai, nếu không biết rõ, sẽ không dám tự tiện đưa sự kiện này lên báo chí, càng không thể có gan bịa đặt, hư cấu. Cho nên, hai bài báo về hai sự kiện hôn nhân mâu thuẫn nhau như đã trình bày phải được khẳng định là có cơ sở thực tế.

“Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già”
Trên tường treo ảnh
chân dung Hồ Chí Minh
Bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, phần cuối có kèm thêm hai tấm ảnh chân dung, một trong hai tấm có dòng chữ “Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già”. Trên tường treo ảnh chân dung Hồ Chí Minh chụp năm 1960, nhưng nếu so với tấm ảnh Lý Thụy, tức NAQ treo trước tủ gương thì hai khuôn mặt rất không giống nhau. Tấm ảnh NAQ chụp năm 1930 có đeo cravate. Tác phẩm “Truyện Hồ Chí Minh”, của giáo sư William J. Duiker, trong một trang ảnh kèm theo có hai tấm chân dung NAQ và tấm chân dung TTM để trong hộp gương gần như giống nhau hoàn toàn. W.J. Duiker nói rõ về tấm ảnh bên cạnh: “HCM và bạn bè thanh minh, suốt đời ông chưa bao giờ thắt cravate”, nhưng căn cứ vào tấm ảnh chân dung, có thể chứng minh, HCM bảo mình chưa bao giờ thắt cravate là chuyện hoang đường. Từ chi tiết trên, bất giác tôi nhận ra được cái lý trái ngược của sự hoang ngôn ấy. Bởi vì, từ đầu chí cuối William J. Duiker luôn cho rằng NAQ và HCM chỉ là một người nên mới có chuyện nghi ngờ HCM suốt đời chưa từng thắt cravate. Khẳng định NAQ và HCM không phải là hai người, William J. Duker giải thích thế nào về lời thanh minh của ông ta?

Kiểm tra tỷ mỉ các tấm ảnh chân dung từ sau năm 1933 kèm theo hồ sơ, bất kể là HCM chủ trì các hội nghị lớn nhỏ, phát biểu trước đồng bào toàn quốc, cũng như các chuyến xuất ngoại sang Liên Xô, Trung Quốc, Ấn Độ hay nước Pháp… đều chưa thấy ông đeo cravate. Nói chung, trang phục thường xuyên của Hồ Chí Minh chỉ là loại quần áo đồng màu như Lenine hoặc Tôn Trung Sơn. Cách ăn mặc này có phần chất phác, không mấy coi trọng hình thức, thậm chí còn có vẻ quê mùa. Đây là kiểu sinh hoạt rất đặc biệt của Hồ Chí Minh.

Ngược lại, cách ăn mặc của Nguyễn Ái Quốc lại tỏ ra rất hợp thời trang. Ví dụ, năm 1907, lúc NAQ 17 tuổi, rời nhà vào Huế học hệ sơ học Trường Quốc học, bị bạn bè trêu chọc, chế giễu đã chủ động cắt tóc ngắn, trang phục như trào lưu thời thượng. Tại nước Pháp, Liên Xô hay Trung Quốc, cho dù gặp lúc kinh tế quẫn bách, nhưng tại các cuộc họp, NAQ vẫn tạo mọi điều kiện để mặc Âu phục, thắt cravate. Những tấm ảnh còn lại được lưu trong hồ sơ của ông đã chứng thực nhận xét trên. Trong “Thê thiếp và nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” từng viết: “Con gái Vera Vasilieva từng nói với Sophie Quinn Judge ‘Nguyễn Ái Quốc ăn mặc cực kỳ chỉnh tề và đúng mốt thời trang’. Ông ta thường phối hợp màu sắc một cách hài hòa khiến mọi người đều phải chú ý vào chiếc cravate. Hơn nữa, trên người Nguyễn lúc nào cũng phảng phất mùi nước hoa càng tăng thêm vẻ lịch lãm”. Phía sau tấm ảnh chân dung dường như còn ẩn giấu nỗi đau buồn của câu chuyện tình thời trai trẻ.

(Còn tiếp)
Hồ Tuấn Hùng
Thái Văn
chuyển ngữ
© Thông Luận 2010

Chương 3 Khói lửa chiến tranh chứng kiến tình yêu – Nữ sĩ Nguyễn Thị Minh Khai

Tự khúc bi ca ái tình

Tình yêu và hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc (NAQ) và Nguyễn Thị Minh Khai (NTMK) vào năm 1930-1931 trước sau cộng lại không đầy một năm vì hai người từ biệt nhau đến Hương Cảng thì bị cảnh sát bắt giam, kết thúc giai đoạn hôn nhân ngắn ngủi. Cuộc hôn nhân tuy không dài nhưng lịch sử đã ghi lại rất rõ ràng, trong khói lửa chiến tranh, tình cảm của đôi lứa thật chân thành. Năm 1932, NAQ bị bệnh qua đời là sự thực, còn NTMK, đến năm 1935 cải giá, kết hôn với Lê Hồng Phong (LHP), cùng là sự thật. Sự việc này vốn dĩ rất bình thường nếu như không có bàn tay Quốc Tế Cộng Sản (QTCS) thao túng, bí mật đạo diễn màn kịch “hồn Trương Ba - da hàng thịt”, cùng giới chóp bu Trung cộng và Việt cộng, tạo ra chung quanh Hồ Chí Minh (HCM) vòng hào quang, biến ông thành một vị thánh, phỉ báng mối tình đẹp đẽ của NAQ và NTMK.

Hồ sơ hôn nhân của Nguyễn Thị Minh Khai

1/ William J. Duiker viết về quan hệ hôn nhân, tình ái của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai

William J. Duiker, trong “Truyện Hồ Chí Minh” viết: “Hồ sơ về tình yêu, hôn nhân của NAQ và NTMK gồm ba phần. Tư liệu của ba phần này đều dẫn từ “Trung tâm Quân viễn chinh Bảo hộ” thuộc “Hồ sơ Pháp quốc Hải ngoại”, hòm số 367 và “Hồ Chí Minh từ Đông Dương đến Việt Nam” của Đạt Ni Ai Nhĩ Hách Mai Lý, do NXB Galimard-Paris, ấn hành năm 1990.

Phần thứ nhất

Tại chương 6 “Màu đỏ Nghệ Tĩnh” (“Xích sắc Nghệ Tĩnh”), trang 85 viết: “Tháng 10 năm 1930, tại nhà trọ “Nhất Đống”, phố Khai Di, Cửu Long, Hương Cảng, khai mạc Hội nghị Trung ương , NAQ là đại biểu QTCS được cử làm Chủ tịch ĐCSVN. Cùng dự còn có một nữ đảng viên trẻ tuổi, mắt sáng, da ngăm ngăm, được ủy nhiệm làm trợ lý cho NAQ là NTMK”.

Phần thứ hai

Cũng tại chương 6, trang 198-199, tác giả viết: “NAQ tại Hương Cảng chờ tin tức. Từ khi NTMK làm trợ lý cho NAQ, hai người đã nảy sinh tình cảm. Minh Khai tuổi trẻ, ngoại hình hấp dẫn đã làm NAQ mê đắm. Tình yêu của NAQ và NTMK đến khá nhanh chóng. Vào mùa xuân năm 1932, hai người đã báo cáo với Cục Viễn Đông đề nghị được kết hôn. Đại biểu QTCS là Hải Lai Nhĩ Nặc Lâm (Mikhail Borodin) đã gửi thư thông báo cho NAQ vào tháng tư. Tuy nhiên, không lâu sau, NTMK vì bị tình nghi có liên can đến hoạt động phiến loạn, bị cảnh sát Hương Cảng bắt chuyển về Quảng Châu tống giam vào nhà tù QDĐ.

Phần thứ ba

Tại chương 7 “Đứng trước những biến động”, trang 224- 225, viết: “Ngày 25 tháng 7 năm 1935, khai mạc Hội nghị QTCS lần thứ 7 tại Mạc Tư Khoa, ĐCSĐD cử ba đại biểu là LHP, NTMK và Hoàng Văn Nọn (Nông) tham gia hội nghị. Ban tổ chức Hội nghị yêu cầu cả ba đại biểu đều đọc tham luận. NAQ lúc ấy là thư ký Cục Viễn Đông, đến Hội nghị với tư cách quan sát viên, không được phép phát biểu, như một diễn viên phụ, đóng vai trò bàng quan.

Trước khi Hội nghi khai mạc mấy tháng, Ban lãnh đạo ĐCSĐD có gửi cho bí thư thứ nhất Đông Phương Cục một bức thư, kèm theo bản báo cáo mật, nội dung đề cập đến “Nguyễn Ái Quốc phu nhân”, một đại biểu tham gia Hội nghị. Lời văn ám chỉ NAQ và NTMK, năm 1932, tại Hương Cảng, trước khi bị cảnh sát bắt đã từng là vợ chồng. Có lẽ như Tô Duy Ai, tác giả “Quoc’s wife” (Vợ của Quốc), từng suy đoán, trên đường sang Mạc Tư khoa, NTMK ái mộ phong độ anh tuấn của LHP rồi nảy sinh tình yêu chăng? Có khả năng, vào mùa xuân năm 1931, sau khi khi chia tay với NAQ rồi bị bắt, đến lúc ấy đã qua 4 năm, tình cảm hai người không còn đằm thắm như trước. Cho dù sự thực thế nào, thì sau khi Hội nghị 7 bế mạc không lâu, LHP và NTMK đã kết hôn tại Mạc Tư Khoa.

Thời gian NAQ và NTMK sống với nhau, có thể nói, nhân thân của NAQ có nhiều vấn đề khó lý giải. Trở lại một số năm trước, ông chưa từng nói với các đồng chí về mối quan hệ này. Tuy nhiên các nhà lãnh đạo Hà Nội lại ra sức phủ nhận hai người đã từng có quan hệ vợ chồng. Cũng không loại trừ trường hợp, NAQ và NTMK chưa kịp cử hành hôn lễ chính thức mà chỉ có sự chứng kiến của một số ít đồng sự làm cơ sở pháp lý. NAQ cùng một lúc mất cả vợ lẫn quyền lãnh đạo (Liệu có đúng?!), phải chăng, như một nhà quan sát từng nói “hai lần tủi nhục”.

2/ Sophie Quinn Judge viết về quan hệ hôn nhân, tình ái của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai

Trong tác phẩm “Những năm tháng Hồ Chí Minh mất tích”, tài liệu mà Sophie Quinn Judge dùng để thuật lại quan hệ hôn nhân của NAQ và NTMK gồm hai phần. Phần một, dẫn từ hồ sơ số 367 của “Trung tâm Quân viễn chinh Bảo hộ” thuộc “Hồ sơ Pháp quốc Hải ngoại”, ngày 12 tháng 2 năm 1931 do Victor viết gửi về. Phần hai, dẫn từ “Lịch sử hiện đại Liên Xô” của “Trung tâm Nghiên cứu và Lưu trữ” 495/154/688, trang 14, từ các ngày 14, 17 tháng 12 năm 1934 và ngày 31 tháng 3 năm 1935 của Cục Hải Ngoại gửi về Mạc Tư Khoa.

Phần một, chương 5 “Cao trào cách mạng”, trang 182, viết: “Mùa đông năm 1930, NAQ báo cáo với Cục Viễn Đông kế hoạch kết hôn. Ngày 12 tháng 1, Cục Viễn Đông gửi văn bản trả lời, nội dung là NAQ phải thông báo thời gian chính xác trước hai tháng. Vì thư hồi đáp không ghi danh tính người nhận chỉ nên chỉ có thể suy đoán là chuyện hôn sự của HCM. Sang tháng hai, HCM bàn với NTMK, đầu năm mới, chuẩn bị đón khách từ Tây Cống và Đông Kinh đến thăm.

Phần hai, chương 6, có tiêu đề “Chết ở Hương Cảng, mai táng ở Mạc Tư Khoa?” (trang 202- 203), viết: “Ngày 8 tháng 12 năm 1930, ba đại biểu của ĐCSĐD đến Mạc Tư Khoa. Những người này phân biệt rõ rệt với các thành viên của Cục Hải Ngoại, là LHP, NTMK và Hoàng Văn Nọn. Tổng Bí Thư ĐCSĐD Hà Huy Tập gửi thư cho QTCS nói, NTMK là vợ NAQ. NTMK sau khi đến Mạc Tư Khoa, điền vào tờ khai cá nhân, ở mục hôn nhân là đã có chồng tên là PC.Lin, chính là một trong những bí danh của HCM. Về điểm này có thể nói, thời gian quan hệ vợ chồng đằm thắm của hai người chỉ như hạt sương mai trên ngọn cỏ. Tuy nhiên HCM chưa bao giờ được những người cộng sản chính thức công nhận đã từng có vợ. NTMK ở Mạc Tư Khoa thường dùng bí danh Phan Lan.

3/ Tác phẩm “Chị Minh Khai” của nhà văn Nguyệt Tú, ngày kỷ niệm Quốc tế Phụ nữ năm 2005, NXB Tổng hợp Tp HCM ấn hành có liên quan đến chuyện tình ái và hôn nhân, viết như sau:

- Vào một tháng của năm 1930, là thời kỳ NAQ tham gia giảng dạy tại khóa huấn luyện chính trị. Hôm ấy là một ngày mưa bão, khắp các đường phố, cây cổ thụ bị bão đánh bật tung gốc. MTMK trong nhóm học viên nhòm qua ra sổ, nói: “Hôm nay có khả năng đồng chí Lý Thụy không đến được”. Nhưng chỉ một lúc sau đã thấy đồng chí bước vào, tay cầm ô, áo quần ướt sũng nước. Đồng chí ấy đã lên lớp đúng giờ. MTMK nhìn thân thể gầy yếu của Lý Thụy, trong lòng vô cùng lo lắng.

- Ngày 29 tháng 4 năm 1932, NTMK bị bắt, ba năm liền giam trong ngục, không nhận được bất cứ tin tức nào. MTMK nhớ lại những ngày sau khi bị bắt ở Hương Cảng, từ nhà giam, cô định gửi cho các đồng chí mảnh giấy nhắn tin, nhưng rồi lại nghĩ, liệu có được chuyển đến tay người nhận hay không? Chắc là không thể được nên đã thu lại mảnh giấy mà chỉ gửi lời nhắn. Cách đấy không lâu, ngày 6 tháng 6 năm 1932, đồng chí NAQ bị mật thám Anh bắt tại Cửu Long. Cô nghĩ đến người lãnh đạo chủ chốt của cách mạng Việt Nam phải đối diện với hiểm nguy, lòng đau như cắt.

- NTMK và các đồng chí trong đoàn đại biểu tham gia Hội nghị 7 QTCS, từ đoàn trưởng LHP đến Hoàng Văn Nọn, đều không ai có đủ quần áo ấm. Minh Khai tranh thủ thời gian, cố gắng đan cho Hoàng Văn Nọn chiếc áo len cộc tay và LHP chiếc khăn quàng cổ. Hoàng Văn Nọn tham gia rất nhiệt tình vào lễ thành hôn giản dị những vô cùng vui vẻ, thắm tình đồng chí của LHP và NTMK. Sau này, trong hồi ký của mình, Hoàng Văn Nọn kể về hôn lễ của LHP và NTMK: “Lúc trở về nhà, nhìn thấy mâm cơm chiều có nhiều món ăn hơn so với ngày thường, tôi hỏi: “Hôm nay Minh Khai làm cô dâu nên chiêu đãi anh em phải không?”. Minh Khai đỏ mặt không nói gì, chỉ lắc đầu cười. Khi mọi người đã ngồi vào bàn, Hà Huy Tập đứng lên trịnh trọng tuyên bố: “Hôm nay, Đảng vì anh chị tố chức hôn lễ, chúng tôi chúc cho cô dâu chú rể sống đến đầu bạc răng long”.

Sự thật về quan hệ hôn nhân giữa Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai

1/ William J. Duker viết: “Năm 1931, NAQ và NTMK bắt đầu yêu nhau, sau đó đề nghị Cục Viễn Đông cho phép kết hôn.

2/ Sophie Quinn Judge viết: “Mùa đông năm 1930, NAQ báo cáo Cục Viễn Đông kế hoạch kết hôn. Cục Viễn Đông có thư trả lời nhưng vì thư hồi đáp không ghi danh tính người nhận chỉ nên chỉ có thể suy đoán là chuyện hôn sự của HCM. Trong vòng hai tháng, HCM bàn với vị hôn thê, sau năm mới chuẩn bị đón khách từ Tây Cống và Đông Kinh đến thăm.

3/ Nhà văn Nguyệt Tú, trong “Chị Minh Khai” viết: “Hoàng Văn Nọn kể lại: Tham dự lễ cưới đơn giản nhưng vô cùng vui vẻ, thắm tình đồng chí của LHP và NTMK, anh Hà Huy Tập trịnh trọng tuyên bố: ‘Hôm nay, Đảng vì anh chị tố chức hôn lễ, chúng tôi chúc cho cô dâu chú rể sống đến đầu bạc răng long’ ”.

Tổng hợp các ghi chép trên, có thể thấy, báo cáo của NAQ về việc kết hôn với NTMK vào mùa đông năm 1930 với Cục Viễn Đông và hôn lễ được cử hành tại Hương Cảng vào mùa xuân năm 1931 là có thực. Nguyệt Tú dẫn lại hồi ức của Hoàng Văn Nọn đã bất ngờ làm rõ việc ĐCSVN cố tình ẩn giấu sự thực hôn nhân giữa NAQ và NTMK. Bản ý của Hoàng Văn Nọn cho rằng, năm 1931, hôn lễ của NAQ và NTMK là sự thực, còn việc LHP kết hôn với NTMK tại Mạc Tư Khoa chỉ là lễ cưới giả. Những người chủ trương ẩn giấu sự kiện hôn nhân NAQ và NTMK không ngờ đến mấy dòng ghi chú phần cuối: “Vương huynh” chỉ LHP, “Duy tỉ” chỉ NTMK đã vô tình làm lộ tẩy chân tướng .

Khảo cứu kỹ lưỡng nhiều lần các từ “Vương huynh” và “Duy tỉ” có thể thấy, “Vương huynh” chỉ “lão Vương” hoặc “đồng chí Vương”, “Duy Tỉ” là “Chị Duy” hoặc “A Duy”, bí danh của NTMK. Danh xưng “Vương huynh “ và “Duy Tỉ” được dùng vào những năm 1924 đến 1931 lúc NAQ và NTMK công tác tại Quảng Châu, Hương Cảng.Trong khi ấy, LHP dùng biệt danh Litvinov, Tuệ An, Gia Chính, Hạ Dương v.v… nhưng chưa bao giờ dùng “Vương huynh” làm bí danh (gần đây, khi bí mật trên bại lộ, những người viết tiểu sử LHP đã thêm cho ông bí danh “Vương…” để phản bác những ý kiến đối lập, nhằm hợp lý hóa thân phận HCM và LHP. Xin tham khảo mục “Lê Hồng Phong” trên từ điển mở Wiki). Điều này làm cho người ta không khỏi nghi ngờ. Hà Huy Tập vào năm 1935, không có khả năng xuất hiện tại Mạc Tư Khoa trong hôn lễ LHP và NTMK. Tháng 6 năm 1934, Hà Huy Tập giữ chức Tổng Bí Thư, sau khi chủ trì Hội nghị Áo Môn, đến năm 1938 bị bắt, năm 1942 bị xử tử và chưa bao giờ đến Mạc Tư Khoa, làm sao có thể chủ trì hôn lễ của LHP và NTMK? Điều này chứng tỏ, Ban lãnh đạo cao cấp ĐCSVN cố tình che giấu sự thật hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai.

Hôn ước của Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai

1/ William J. Duiker viết: “Ngày 25 tháng 5 năm 1935, khai mạc Hội nghị lần thứ 7 QTCS tại Mạc Tư Khoa, LHP, NTMK và Hoàng Văn Nọn là đại biểu chính thức của ĐCSĐD. Hội nghị kết thúc, LHP và NTMK ở lại Mạc Tư Khoa, không lâu sau, hai người đến Phòng đăng ký giá thú làm thủ tục kết hôn.

2/ Nhà văn Nguyệt Tú viết:

- Sau khi Hội nghị 7 QTCS kết thúc, LHP từ biệt NTMK trở về Việt Nam công tác tại Xứ ủy Nam Kỳ, lấy bí danh là Lý, với tư cách đại biểu Trung ương. LHP và đồng chí Quang ở cùng một nơi. Hai người phụ trách phong trào vận động công nhân, cùng ở trong một gian phòng bình dân khu chợ Sắt Tây, ít lâu sau lại chuyển đến Ngã Sáu. Đồng chí Quang rất thông cảm với Minh Khai, ngẫu nhiên được gặp chồng mà chỉ bàn bạc công việc, rất khó để cùng ăn với nhau một bữa cơm. Phòng của LHP chỉ đủ kê chiếc giường bạt, ban ngày gấp lại, tối đến mới mở ra để ngủ.

- Tết Nguyên Đán năm 1940, Minh Khai ở chợ Tân Thành, gần đường Mạch Khắc mã Hồng (tác giả dự đoán đây là tỉnh Tân Tri, thuộc Nam Kỳ – Có lẽ là Tân Định và Mac Mahon ở Saigon, vì không có tỉnh nào là Tân Trì cả) trong nhà hộ sinh Hồng Phúc nổi tiếng. Tại đây NTMK sinh hạ bé gái. Đứa bé ra đời được 5 ngày thì NTMK đặt tên cho con là Nguyễn Thị Hồng Minh, chính là tên lót của LHP và NTMK ghép lại. Ngày 30 tháng 7 năm 1940, NTMK bị cảnh sát Pháp bắt giam tại nhà tù Phú Mỹ. NTMK bao giờ cũng mặc bộ đồ trắng đến phòng hỏi cung. Ngày 28 tháng 8 năm 1941, NTMK bị dẫn ra pháp trường Phúc Môn Bình Lăng Cương (có thể là tên Pháp đường Paul Blancourt, ở Saigon) xử tử. LHP nhận được tin vợ thọ nạn, một năm sau, vào một ngày tháng 9 năm 1942, bị tra tấn dã man cũng chết ở nhà tù Côn Đảo.

Theo ghi chép ở trên, quan hệ hôn nhân của LHP và NTMK là chính xác. Năm 1935, sau Hội nghị 7 QTCS, hai người đã đăng ký kết hôn, Tết năm 1940, Nguyễn Thị Minh Khai sinh con gái Nguyễn Thị Hồng Minh, năm 1941 bị thực dân Pháp xử bắn. LHP chết ở nhà tù Côn Đảo năm 1942.

Bí danh P.C.Lin của Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc

Năm 1934, bí danh P.C.Lin (hoặc P.C.Lâm) của HCM chắc chắn không phải là NAQ. Tại chương 2 “Màn kịch trộm rồng đổi phượng”, ở mục 3 “Ve sầu thoát xác, thực giả nhân sinh”, tôi đã dẫn những chứng cứ về việc NAQ bị lao phổi đã chết vào mùa thu năm 1932, còn HCM, từ Hạ Môn qua Thượng Hải đi Mạc Tư Khoa là một người khác. Nói rõ hơn, khoảng thời gian từ mùa xuân đến mùa hè năm 1933, người đến Mạc Tư Khoa mang bí danh Linov hoặc P.C.Lin chính là Hồ Tập Chương, không phải NAQ. QTCS đã cử người thay thế NAQ dùng bí danh thay cho thân phận ông ta. Trong khi ấy, Ban lãnh đạo ĐCSVN cố tình đề cao mối tình Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai, giấu kín và ra sức phủ nhận quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai, dẫn đến hệ quả là: Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và bí danh P.C.Lin của Hồ Chí Minh, ba người nhưng lại có bốn thân phận trong quan hệ hôn nhân, làm cho tình hình trở nên vô cùng phức tạp. Điều này khiến cho các tác giả viết truyện ký về Hồ Chí Minh, mỗi người đều tự tìm ra những nhầm lẫn trong sử liệu để giải thích về các mối quan hệ hôn nhân đầy nghi vấn của họ.

Nguyễn Ái Quốc
Nguyễn Thị Minh Khai
Hồ Chí Minh

1/ Năm 1934, sau khi đến Mạc Tư Khoa, NTMK phải điền vào tờ khai nhân thân là đã có chồng tên P.C.Lin. Nếu NTMK biết bí danh của NAQ là P.C.Lin thì làm sao lại có thể công khai kết hôn với LHP để làm mất mặt NAQ? NAQ và HCM cùng mang bí danh P.C.Lin, vậy vì sao, năm 1935, khi cùng đến Mạc Tư Khoa dự Hội nghị 7 QTCS, NTMK lại coi NAQ gần như người xa lạ? Việc này nhất định không hợp tình hợp lý. Chỉ có một cách giải thích là QTCS đã chơi trò bỡn cợt “dời hoa tiếp cây” (di hoa tiếp mộc), giấu nhẹm mối tình cao đẹp, trong sáng của NAQ và NTMK mà đề cao cuộc hôn nhân giữa LHP với NTMK.

2/ NAQ với tư cách Bí thư Cục Viễn Đông, tham dự Hội nghị 7 QTCS với tư cách quan sát viên, không được quyền phát biểu, chỉ lẳng lặng ngồi một bên nhìn thế sự. Rõ ràng là, trong thời gian NAQ và NTMK có quan hệ thân mật, người ta đã dự liệu sẵn một kế hoạch nào đó. NAQ cùng một lúc bị tước quyền lãnh đạo Đảng và mất vợ. Chuyện đúng sai khoan hãy bàn, nhưng khi nghe một nhà phân tích nhận định ông “bị hai lần tủi nhục” thì bản thân người đọc cũng thấy bất bình.

Lời bàn:

NAQ , bí danh P.C.Lin, đến Hội nghị 7 QTCS với tư cách quan sát viên, không được phát biểu, từ đầu đến cuối chỉ lẳng lặng ngồi nghe các đồng chí của mình đăng đàn, trái ngược hẳn với Hội nghị lần thứ 5. Khi ấy, NAQ lấy danh nghĩa QTCS, vận động các nguyên thủ quốc gia, một mình thượng đài, ra sức tranh thủ diễn đàn phát biểu chính kiến, thật là có sự khác nhau giữa hai người. Như trên đã nói, hiện tượng rất không bình thường trên chỉ có thể giải thích hợp lý nhất là, người tham dự Hội nghị 7 QTCS năm 1935 không phải Nguyễn Ái Quốc mà là Hồ Tập Chương mang bí danh P.C.Lin.

3/ NAQ lấy bí danh P.C.Lin trong thời gian làm việc tại Viện Nghiên Cứu “Các vấn đề dân tộc và thuộc địa”. Thời gian ấy, NTMK và năm học viên đang học trong trường Đại học Phương Đông. Trong những ngày diễn ra Hội nghị 7 QTCS, NAQ đã tận tình giúp đỡ sửa chữa, biên tập văn bản tham luận Hội nghị, góp phần làm cho Đoàn đại biểu ĐCSĐD hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc làm cho LHP và NTMK thật sự cảm động.

Sau khi tổ chức hôn lễ, công việc của LHP vô cùng bận rộn, một trong số đó là lập kế hoạch trù bị cho Đại hội Thanh niên Cộng sản Quốc tế làn thứ 6, đồng thời đề cử NTMK tham gia với tư cách đại biểu của phụ nữ của ĐCSĐD. NAQ được mời làm đại biểu dự thính. Ngày bế mạc, Đại hội tuyên bố, ĐCSĐD chính thức trở thành một chi bộ của QTCS. LHP được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành QTCS. Trong buổi liên hoan giữa Đoàn đại biểu Đảng cộng sản Pháp (ĐCSP) và Đoàn đại biểu ĐCSĐD, NTMK và LHP cùng song ca một bài do LHP viết nhạc, NTMK đặt lời. (Nguyệt Tú, “Chị Minh Khai”, trang 76, 82,83, 89 và 90).

Lời bàn:

Cuốn sách “Chị Minh Khai” của Nguyệt Tú luôn luôn ẩn giấu mối quan hệ hôn nhân của NAQ và NTMK, đồng thời tô vẽ mối tình giữa LHP và NTMK. Tuy nhiên sự thực lịch sử không giống như lời kể trên. Chuyện rắc rối ở đây là, từ NAQ, LHP (P.C.Lin) đến NTMK, ba người lại có đến bốn thân phận công khai hoạt động. NTMK và LHP biểu hiện mối tình nồng thắm, với NAQ (P.C.Lin), hai người kính trọng như khách, xem ra rất hợp lý. Rốt cuộc, P.C.Lin này chính là Hồ Tập Chương cùng NTMK đến Mạc Tư Khoa xem như mới quen biết nhau nên tỏ thái độ kính trọng là hợp lẽ. Với NAQ, NTMK ngoài tình đồng chí còn là tình nghĩa vợ chồng cao đẹp, một người cộng sản như NTMK không thể cầm tay LHP cùng vui vẻ song ca ngay trước mặt ông chồng đáng kính, bởi hành vi ấy chính là làm nhục NAQ…

(Còn tiếp)
Hồ Tuấn Hùng
Thái Văn
chuyển ngữ
© Thông Luận 2010 Gởi đến cho bạn bè Gởi đến cho bạn bè


Thiên IV
Khúc ca buồn về chuyện hôn nhân tình ái
(Hôn nhân luyến tình đích bi ca)

1 2 3 4 5

Chương 4
Hồ Chí Minh và tri kỷ má hồng – Lâm Y Lan tiểu thư

Hồ sơ về mối tình Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan

Chuyện tình của HCM và Lâm Y Lan chủ yếu căn cứ vào ghi chép của Lương Ích Tân qua bài viết “Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”. Lương Văn Nguyên viết “Thế giới lịch sử Đảng Cộng Sản Trung Quốc” năm 2004, đăng trên Nguyệt san “Nhân Dân Văn Trích”, kỳ 12, dài khoảng ba ngàn ba trăm chữ, là bài viết muộn nhất cung cấp cho bạn đọc tư liệu về chuyện tình ái của Hồ Chí Minh. Đây là tác phẩm thuộc thể tài tiểu thuyết, từng đoạn, từng đoạn kể về cuộc tình của Hồ Chí Minh (HCM) với Lâm Y Lan (LYL). Nội dung tác phẩm được thể hiện qua nhiều chi tiết khá lý thú, làm xúc động lòng người. Chỉ tiếc, các sử liệu được vận dụng, chỗ thì lắp ghép một cách khiên cưỡng, chỗ lại tập hợp trình bày nhảy cóc, nhất là đoạn nói về mối tình với Nguyễn Thanh Linh trong những năm 1930. Việc làm này dường như tác giả có ý đồ tạo ra sự lẫn lộn Hồ Chí Minh với Nguyễn Ái Quốc , đồng nhất hai người làm một, tô vẽ ông thành một nhân vật phi thường, mặc dù, trên thực tế, Nguyễn Thanh Linh chỉ là nhân vật hư cấu. William J. Duiker, trong “Truyện Hồ Chí Minh”, chương 5 “Quyết chiến tối tiền tuyến”(…), trang 554- 555, có những chi tiết tương đồng với các tư liệu báo chí đã công bố. Từ đó có thể khẳng định, mối tình của HCM và LYL là có thực.

Mối tình của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan

Từ những năm 30 của thế kỷ trước, để tạo điều kiện cho Hồ Chí Minh công tác tại Quảng Đông, Hương Cảng, Trung Cộng đã bố trí một thiếu nữ là Lâm Y Lan đóng giả làm vợ để giúp đỡ việc sinh hoạt hàng ngày cho ông ta. Không lâu sau, hai người có tình ý với nhau. nhưng đó là thời kỳ năm 1938 đầy sóng gió, nên cuối cùng mối quan hệ luyến ái này không đi đến hôn nhân. LYL hoài niệm về mối tình xưa, nhớ thương HCM, lâu ngày không biết còn sống hay đã chết, sức khỏe suy giảm rồi qua đời vào năm 1968. HCM biết tin, vô cùng đau khổ, một năm sau cũng tạ thế. Lúc hấp hối ông có nhắc đến tên LYL.

Lời đầu (Dẫn tử)

Mùa đông, Mạc Tư Khoa tuyết rơi không ngừng. HCM ở một ga xe bên sườn núi ngoại thành, dầm mình trong cái lạnh khốc liệt của tiết trời băng giá, nước mắt lã chã rơi thấm ướt cả lá thư. Bức thư báo tin dữ, người bạn gái thân thiết Nguyễn Thanh Linh (NTL) vừa bị giặc sát hại. Ông nghĩ đấy không phải là sự thật, mắt trừng trừng nhìn vào dòng chữ, đọc đi đọc lại nhiều lần từng chữ một. Không sai, thư viết rất rõ ràng, NTL đã bị ngộ hại tại VN.

Bạn gái Nguyễn Thanh Linh bị sát hại

HCM và NTL bắt đầu quen nhau vào mùa xuân năm 1930. Năm ấy HCM đang bôn ba hải ngoại tìm chân lý cách mạng, trên đường về Việt Nam ngẫu nhiên gặp NTL. NTL chẳng để ý đến việc gia đình phản đối, kiên quyết hiến thân cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, truyền bá ngọn lửa cách mạng, trở thành người bạn thân thiết và trợ thủ đắc lực của HCM. Tại Việt Nam, NTL vận động giới phụ nữ tham gia đấu tranh chống thực dân, đế quốc áp bức bóc lột, trở thành một cán bộ đảng rất có uy tín. Thời kỳ HCM sang Liên Xô học tập kinh nghiệm cách mạng, do bị một kẻ phản bội khai báo, NTL chẳng may bị địch bắt. Đối mặt với những dụ dỗ, truy bức, cô vẫn kiên trinh bất khuất, đến chết vẫn không chịu cúi đầu. Cuối năm ấy, trong cuộc họp VNTNCMĐCH của lưu học sinh Việt Nam, HCM tuyên bố trước mọi người: “Đồng chí Nguyễn Thanh Linh đã hy sinh anh dũng nhưng đồng chí vẫn sống mãi trong lòng chúng ta. Dòng máu đỏ của đồng chí không chảy phí hoài mà nó càng tô thắm ngọn cờ giải phóng dân tộc. Tôi tuyên bố với thể giới, một khi nước Việt Nam chưa được giải phóng thì đời này, kiếp này sẽ không xây dựng gia đình”. HCM không thể ngờ, câu nói trên lại ảnh hưởng đến chuyện hôn nhân sau này. Nó giống như trái núi lớn đè nặng lên tâm lý, không thể chống đỡ làm ông đau khổ cho đến lúc qua đời.

Trốn tránh truy bắt, ẩn mình ở Quảng Châu

Năm 1930, Tưởng Giới Thạch điều động quân đội Quốc Dân Đảng bao vây tiễu trừ Hồng quân khu Giang Tây, đồng thời ra lệnh cho các địa phương khẩn trương truy bắt các phần tử cộng sản. Dương Thành (Quảng Châu) cũng không ngoại lệ. HCM lúc này đang ở Quảng Châu. Nơi đây, trước đó do nhu cầu công tác, ông đã mấy lần về Việt Nam, tuy nhiên, lần này thì khác, HCM bị đặc vụ truy đuổi ráo riết, không chốn nương thân, chỉ còn cách liên lạc với Tỉnh ủy Quảng Đông nhờ giúp đỡ. Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông - Đào Chú đã bố trí một nữ đảng viên là Lâm Y Lan, đóng giả làm vợ HCM để bảo vệ an toàn cho ông ta. Khi ấy HCM trở về nhà trọ thu xếp hành lý tìm đến nơi ở mới. Vừa vào đến cửa ông sững lại bởi cô gái đứng trước mình có khuôn mặt hao hao giống Nguyễn Thanh Linh, người yêu của mình đã bị địch xử tử năm nào. Cô gái không biết làm cách nào giải thích cho đối phương mà chỉ hỏi: “Ông là HCM tiên sinh phải không? Tôi họ Lâm, thường gọi là Lâm Y Lan”. HCM biết mình nhận lầm người, vội nói: “Xin lỗi cô Lâm, tôi lầm”.

Lâm Y Lan được giao nhiệm vụ làm “vợ” Hồ Chí Minh

Sau đó, HCM từ từ kể lại mối tình mười năm với NTL gợi đến niềm tâm sự, nước mắt bỗng nhiên trào ra. LYL nghe tâm sự, bất giác cũng cảm như mình lâm vào cảnh ngộ ấy, trong lòng vô cùng cảm động. Tiếp đó, Tỉnh ủy Quảng Đông thông báo với HCM hiện tại Hương Cảng rất phức tạp, đặc vụ Quốc Dân Đảng có mặt khắp nơi, không có việc gì chúng không dám làm, nên dặn đi dặn lại LYL phải bảo vệ HCM an toàn. Lúc ấy, Đào Chú nửa đùa nửa thật bảo: “Các bạn nên nhớ, đến một ngày hai “vợ chồng” trăm tuổi, Y Lan tuyệt đối không được bỏ rơi “phu quân” mà không quản lý đấy nhé”, làm LYL, vốn là một tiểu thư chưa chồng, hai má đỏ lựng. Lấy danh nghĩa người “vợ”, LYL chăm sóc HCM trong sinh hoạt thường ngày vô cùng tận tình, chu đáo làm cho HCM đặc biệt cảm kích, đã có lúc muốn thổ lộ tình cảm, nhưng vì thời cơ chưa chín muồi nên trong lòng vẫn trù trừ. LYL thấy HCM nói với mình những lời chân thành, thâm tâm đã có phần ưng ý, nhưng vì là phận nữ nhi, không tiện nói ra. Lúc chia tay, HCM ôm lấy LYL, dùng khăn tay lau nước mắt cho cô: “Hãy cứng rắn lên, đừng để kẻ thù cười chúng ta mềm yếu”, nói rồi lấy quyển nhật ký đưa cho LYL: “Tâm sự của tôi đều ở trong này, sẽ cùng đi với em”.

Trong hoạn nạn thấy sự chân thành

Ba ngày sau khi HCM được cứu thoát, LYL nhìn đăm đăm vào khuôn mặt hốc hác của ông, hỏi: “Chí Minh, sao không đợi tôi đến đón?”. HCM nói: “Tôi nghĩ, càng về nhanh càng chóng được gặp muội”. Nói rồi HCM đưa cho LYL một nhành hoa lan: “Xin tặng muội, chúc mọi sự vui vẻ”. Thấy LYL có vẻ bối rối, HCM lại nói: “Muội đã đọc nhật ký chưa? Lòng tôi luôn tin tưởng hoa lan không bao giờ bị héo”. LYL nhận hoa, không nén được tình cảm, ngã vào lòng HCM.

Những năm 50 của thế kỷ XX, Trung Quốc đại lục đã được giải phóng, lúc này LYL là cán bộ cao cấp của Tỉnh ủy Quảng Đông. HCM trở về nước tiếp tục sự nghiệp cách mạng chưa hoàn thành. Bấy giờ, Đào Chú là Bí thư Trung ương Cục Hoa Nam kiêm Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Quảng Đông, thấy LYL vẫn sống cô đơn đã đứng ra làm mối vài đám nhưng lần nào cũng bị cô khéo léo từ chối. Lúc ấy Đào Chú không hiểu tâm trạng LYL, sau nhiều lần cân nhắc, cuối cùng ông hỏi thẳng cô ta: “Giấy không bọc được lửa, hơn nữa, việc này cũng chẳng có gì là bí mật. Nói thật đi, người ấy là ai?” LYL thong thả bảo: “Hồ Chí Minh”. Đào Chú nghe xong thất kinh, mãi một lúc sau mới hỏi lại: “Chủ tịch ĐCSVN Hồ Chí Minh? Ông ta yêu cô phải không?”. LYL gật đầu: “Hồ Chí Minh nói là tôi hãy đợi ông ấy”. Nghe xong, Đào Chú tự trách mình: “Ôi chao! Chỉ tại ngày ấy tôi hồ đồ giao nhiệm vụ cho cô, nào ngờ dẫn đến chuyện hai người ở hai phương trời thương nhớ lẫn nhau…”

Không di lưỡng đại tương tư

LYL vẻ mặt rạng rỡ hạnh phúc, cười khẽ: “Việc này không thể trách đồng chí. Tôi và HCM hai người đã dốc lòng cùng nhau, hồng nhạn đưa tin, thế nào cũng có ngày tái ngộ. Huống hồ, tình cảm của hai người đã là vĩnh cửu, há đâu phải một sớm một chiều (Lưỡng tình nhược thị trường cửu thời, hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ). Tôi tin tưởng tình yêu qua thời gian đã được thử thách”. Đào Chú chỉ biết xoa tay. Ông đã rõ chuyện, chỉ đợi xem tình huống phía Việt Nam. Mối nhân duyên này, có thể nói, sự thành công là không dám chắc. Ông hiểu rõ mình gánh trọng trách, hơi thiếu cẩn trọng, rất có thể sẽ gây nên bi kịch di hận ngàn thu.

Dịp may đã đến. Đó là chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch HCM vào ít năm sau đó. Đào Chú bèn thỉnh cầu Mao Trạch Đông sắp xếp cho ông và nữ cố nhân Quảng Đông gặp mặt. Mao Chủ tịch lập tức gọi điện cho Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông - Đào Chú, LYL và những Ủy viên Thường vụ khác về Bắc Kinh. LYL nhận được tin báo vui mừng đến phát cuồng. HCM kết thúc chuyến thăm Trung Quốc sắp lên máy bay về nước, bỗng nhiên ông nhìn thấy LYL vội sải bước đến gần cô, hai tay nắm chặt không nói nên lời. Hai người nhìn nhau rất lâu, lòng rưng rưng xúc động trào nước mắt. Trước lúc phi cơ khởi trình, LYL lấy cuốn nhật ký ngày nào đưa trả lại HCM, nhẹ nhàng bảo: “Không có anh bên cạnh, lâu rồi tôi không ghi nhật ký, xin gửi lại anh”.

Ủy thác Đào Chú làm mối

Vào một ngày đẹp trời năm 1958, trên bờ sông ở Hà Nội, hai ông già lặng lẽ buông cần câu. Họ chính là HCM và Đào Chú. Lúc ấy HCM thần sắc có vẻ khác thường, trịnh trọng nói với Đào Chú: “TQ có câu ‘Lúc trẻ là vợ chồng, về già là bạn’. Tôi và LYL biết nhau đã hơn hai mươi năm, vì sự nghiệp cách mạng đành tạm gác tình riêng. Đến nay chúng tôi cũng đã có tuổi, muốn đón LYL sang Hà Nội, bí mật tổ chức hôn lễ để thỏa ý nguyện từ những năm trước”. Sau khi về nước, Đào Chú bay đến Bắc Kinh báo cáo sự việc với Trung ương ĐCSTQ. Chủ tịch Mao Trạch Đông chuyển đạt ý nguyện của HCM đến Tổng lý Chu Ân Lai. Tại Phủ Thủ tướng Quốc vụ viện, các vị lãnh đạo đều vô cùng kinh ngạc.

Chuyện hôn sự của Hồ Chí Minh không nhỏ

Mao chủ tịch trầm ngâm một lúc rồi nói: “Nói cho cùng, chính là chúng ta đề xướng ra đoạn tình duyên này, hôn nhân tự chủ, nên đáp ứng nguyện vọng của Hồ Chí Minh, nhưng đây không phải là việc nhỏ, chớ xem thường”.

Hội nghị Bộ Chính Trị Đảng Lao động Việt Nam

Hồ Chí Minh và Lê Duẩn ngồi đối diện nhau, hai bên là các Ủy viên Bộ Chính Trị. Sự việc được đưa ra nhưng mọi người đều im lặng không nói. Cuối cùng HCM đập bàn, đứng lên: “Tôi chịu đựng đủ rồi. Thật tình tôi không nghĩ là sẽ được gặp lại người ta. Tôi có quyền quyết định việc riêng của mình, vì vậy, đề nghị các đồng chí không nên thuyết phục nữa”. Lê Duẩn tuy bất bình nhưng chưa dám gây căng thẳng, vẫn bình tĩnh nói: “Thưa Bác! Bác không nên quá xúc động, phải tính kế lâu dài, nên cân nhắc kỹ rồi hãy hành động. Chúng tôi can ngăn lúc này là vì lo cho Bác. Bác từng nói ‘Việt Nam chưa giải phóng thì đời nay, kiếp này tôi không xây dựng gia đình’. Câu nói ấy có ảnh hưởng rất lớn. Một khi Bác làm trái lời thề thì ý nghĩa của sự nghiệp thần thánh Giải phóng miền Nam cũng như uy tín ‘cha già dân tộc’ của Bác sẽ bị tổn thương, không những thế uy tín của Đảng ta trước phe XHCN cũng như cộng đồng quốc tế cũng bị giảm sút”. Thực ra tâm trạng Lê Duẩn vô cùng mâu thuẫn, ông ta không muốn ép HCM, nhưng vì ở cương vị Bí thư thứ nhất nên bắt buộc phải tỏ thái độ cứng rắn.

Thiểu số phục tùng đa số

HCM thấy Lê Duẩn nhất quyết can thiệp vào hạnh phúc riêng tư của mình, không nói nữa mà bảo: “Theo nguyên tắc, thiểu số phục tùng đa số, đề nghị các đồng chí giơ tay biểu quyết”. Nói rồi ông đưa mắt nhìn sang hai bên. Ý kiến tán thành và phản đối ngang nhau, riêng Lê Duẩn vẫn ngồi im. Mọi người đều chăm chú theo dõi thái độ của Bí thư thứ nhất. Lúc ấy Lê Duẩn mới từ từ nâng tay phải, nhưng đến nửa chừng lại đột nhiên bỏ thõng xuống, thở dài nói: “Tôi không thể làm mất uy tín của Bác”. Điều làm Lê Duẩn giật mình là, HCM không nổi trận lôi đình, trái lại, ông chỉ cười nhạt rồi thong thả rời cuộc họp bước ra ngoài.

Bi kịch tình yêu kết thúc

Tại bệnh viện Quảng Châu, LYL trông ngóng HCM nhưng chỉ nhận được bức thư vài dòng ngắn ngủi: “Y Lan thân mến! Chúng ta vô duyên không thể tái hợp. Muội đã nghe nói đến tình yêu theo kiểu Platonic chưa? Tuy không được ở bên nhau nhưng tâm hồn hai ta mãi mãi dung hòa nhất thể”. LYL cầm lá thư ném xuống bệ cửa sổ, nhìn theo lá thư vờn bay theo gió, hai dòng lệ lã chã tuôn rơi. Sau đó LYL viết thư hồi đáp HCM, trong thư, bà sử dụng hai câu trong “Trường hận ca” của Bạch Cư Dị:
“Trên trời xin làm chim chắp cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành; Trời cao đất dày rồi cũng tận, tình này vĩnh viễn mãi không nguôi”.
(Tại thiên nguyện vi tỷ dực điểu, tại địa nguyện vi liên lý chi; Thiên trường địa cửu hữu tận thời, thử tình miên miên vô tuyệt kỳ).
Bà chuyển chữ “hận” cải thành chữ “tình” để chứng tỏ tấm lòng thủy chung như nhất của mình đối với HCM. Bức thư bất đắc dĩ của HCM là một đòn nặng nề đánh vào tinh thần LYL khiến bà bị suy sụp rồi mắc trọng bệnh, năm 1968 thì qua đời. HCM nghe tin người yêu mất thì vô cùng ân hận và thương cảm. Sau đấy một năm, vào ngày 2 tháng 9 năm 1969, lúc hừng đông, HCM bỗng nhiên thở dài, lúc hấp hối ông đã gọi tên Lâm Y Lan.
Trở lên là câu chuyện tình của HCM và LYL. Chuyện ly kỳ này là do Lương Ích Tân viết trong tác phẩm “Mối tình nồng cháy của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”.

Sự thật về mối tình của Lâm Y Lan

Trong “Truyện Hồ Chí Minh”, trang 554-555, William J.Duiker viết: “Tháng 8 năm 1965, Đào Chú thăm Hà Nội, HCM có nhờ ông làm mối cho một phụ nữ trẻ, người Quảng Đông trước đây từng quen biết nhau. Khi trở lại Trung Quốc, Đào Chú báo cáo với Chu Ân Lai lời thỉnh cầu trên. Chu Ân Lai bèn cùng với lãnh đạo Bắc Việt thương thảo việc này nhưng cuối cùng không có kết quả”. William J. Duiker viết đoạn này, nếu đem đối chiếu với các bài “Mối tình nồng cháy của HCM và LYL”; “Ủy thác Đào Chú làm mối”; “Hội nghị Bộ Chính Trị Đảng Lao động Việt Nam”v.v. thì các chương mục gần như có nội dung thống nhất. Chi tiết Hồ Chí Minh yêu cầu Đào Chú tác thành với một người phụ nữ Quảng Đông để làm bạn là xác thực với những sự việc báo chí dã đưa tin. William J.Duiker viết tại chương này: (Hán văn trang 668) chỉ rõ nguồn gốc là “Chu Đào chi mê” của tác giả Quách Trinh, đăng tải trên tạp chí “Văn học Quân sự Tây Nam”, kỳ 72, Thành Đô 1995. Trong phần chú giải phụ thêm, William J. Duiker có một đoạn như sau: “Từ Cách mạng Văn hóa cho đến lúc trước khi bị thanh toán là lãnh đạo Tỉnh ủy Quảng Đông. Bà và HCM trước đây từng rất thân thiết nhau. Tôi căn cứ vào văn bản suy đoán, sự kiện này xảy ra vào mùa xuân hoặc mùa hạ năm 1966”.

Trong bài viết “Mối tình nồng cháy giữa HCM và Lâm Y Lan”, ở phần “Trốn tránh truy bắt, ẩn mình ở Quảng Châu”, có đoạn: “Năm 1930, Tưởng Giới Thạch điều động quân đội Quốc Dân Đảng bao vây tiễu trừ Hồng quân khu Giang Tây, đồng thời ra lệnh cho các địa phương khẩn trương truy bắt các phần tử cộng sản. Dương Thành (Quảng Châu) cũng không ngoại lệ. HCM lúc này đang ở Quảng Châu. Nơi đây, trước đó do nhu cầu công tác, ông đã mấy lần về Việt Nam, tuy nhiên, lần này thì khác, HCM bị đặc vụ truy đuổi ráo riết, không chốn nương thân, chỉ còn cách liên lạc với Tỉnh ủy Quảng Đông nhờ giúp đỡ. Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông - Đào Chú đã bố trí một nữ đảng viên là Lâm Y Lan, đóng giả làm vợ HCM để bảo vệ an toàn cho ông ta”. Ở mục: Lâm Y Lan được giao nhiệm vụ làm “vợ Hồ Chí Minh” và “Trong hoạn nạn thấy sự chân thành” đều có viết: “Không lâu sau, do một kẻ phản bội khai báo, HCM bị bắt nhưng ba ngày sau lại được cứu thoát”.

Những phần ghi chép trên nói rõ là, vào đầu năm 1930, HCM đúng là bị bắt ở Quảng Châu. Đối chiếu với “Hồi ức Trịnh Siêu Lân” về sự kiện HCM bị bắt ở Quảng Châu vào năm 1931, đồng thời so sánh với bài viết “Hồ Tập Chương, đến từ Miêu Lật - Đài Loan bị bắt ở Quảng Châu, giam tại nhà ngục Nam Thạch Đầu” trên “Đài Loan Nhật Nhật Tân Báo” thì thấy rất rõ ràng, nhân vật nam chính trong bài “Mối tình nồng cháy giữa HCM và LYL” chính là Hồ Tập Chương đến từ Miêu Lật - Đài Loan. [Xem lại Thiên III “Ve sầu lột xác, thật giả kiếp người” (Kim thiền thoát xác chân giả nhân sinh), “Hồ Chí Minh bị bắt tại Quảng Châu”, và Thiên IV “Những năm tháng phiêu bạt” (Phiêu bạt lưu lãng đích tuế nguyệt) đăng tải trên “Đài Loan Nhật Nhật Tân Báo”.]

Theo nhận định của William J. Duiker, các bài viết “Nhờ Đào Chú làm mối”“Chuyện hôn sự của Hồ Chí Minh không nhỏ” của tác giả Lương Văn là xác thực. Nhìn lại cuộc đời hoạt động chính trị thăng trầm của Đào Chú cũng có thể gián tiếp khẳng định, Chu Đào và LYL là một người. Đào Chú lãnh đạo Tỉnh ủy Quảng Đông từ mùa xuân năm 1951 đến năm 1966, từng là “phong cương đại lại” rồi nhảy nhanh lên Ủy viên Bộ Chính Trị, Phó Thủ tướng Quốc vụ viện, Bộ trưởng Tuyên truyền, Cố vấn Tiểu tổ Cách mạng Văn hóa, thứ bậc chỉ xếp sau Mao, Lâm, Chu, ngồi ghế thứ tư trong Thường vụ Bộ Chính Trị, có thể nói vận số vô cùng hanh thông. Thế nhưng, tai vạ bỗng đâu ập đến, trong Đại Cách mạng Văn hóa, Đào Chú bị “Lũ bốn tên” vu cáo thuộc phe “bảo hoàng”. Chúng xúi giục Hồng Vệ Binh đấu tố, hạ nhục ông cho đến lúc thân tàn ma dại rồi chết một cách tức tưởi vào ngày 30 tháng 11 năm 1969. Cùng thời kỳ sóng gió ấy, Chu Đào bị hạ phóng ra biên giới Tây Nam.

Theo nội dung các bài “Hội nghị Bộ Chính Trị Đảng Lao động Việt Nam”“Chuyện hôn nhân của Hồ Chí Minh không nhỏ”, có thể thấy một sự thực là, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sử dụng câu nói ‘Một ngày đất nước chưa độc lập, tôi quyết không kết hôn’ làm cái cớ gây áp lực mạnh lên ý nguyện xây dựng gia đình của Hồ Chí Minh.
© Thông Luận 2010
(Còn tiếp)
Hồ Tuấn Hùng
Thái Văn
chuyển ngữ

Chương 5
Chuyện tình giữa Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc

Căn cứ vào “Thê thiếp và nhân tình của Hồ Chí Minh” của “Lĩnh Nam Di Dân”, thì Hồ Chí Minh có bốn người phụ nữ trong các thời kỳ khác nhau. Người vợ đầu là Tăng Tuyết Minh, tiếp theo là Nguyễn Thị Minh Khai, Đỗ Thị Lạc và cuối cùng là Nông Thị Xuân. Mối tình với Đỗ Thị Lạc, tác giả viết: “Sau khi ra tù, HCM được tướng Trương Phát Khuê, tướng Tiêu Văn tín nhiệm. Ông được bổ sung làm Ủy viên dự khuyết Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (VNCMĐMH), hoạt động rất có uy tín. Không lâu sau, được sự đồng ý của các tướng lĩnh Quốc Dân Đảng, HCM mang theo 18 người trở về Bắc Việt Nam sau khi kết thúc khóa huấn luyện cán bộ. Một trong 18 người theo HCM trở về là Đỗ Thị Lạc, người phụ nữ duy nhất trong Đoàn thường được mọi người goi là “chị Thuận”. Nhân thân Đỗ Thị Lạc không rõ, người ta chỉ biết cô này từ năm 1942 tại Liễu Châu, Quảng Tây, với tư cách học viên Ban Huấn Luyện quân sự. Trở về Cao Bằng, Việt Bắc, Đỗ Thị Lạc và Hồ Chí Minh sống chung với nhau một thời gian tại vùng Khuê Nam (?!), phụ trách công tác dân vận và thiếu nhi. Sử gia Trần Trọng Kim, trong hồi ký “Một cơn gió bụi”, viết: “Đỗ Thị Lạc có với Hồ Chí Minh một người con gái. Tuy nhiên, sau một thời gian sống chung với nhau ở Khuê Nam, HCM dấn thân vào cao trào cách mạng, không bao giờ còn trở lại với ĐTL nữa”.

Căn cứ vào các tư liệu đã tra cứu được, vào thời kỳ HCM đem theo 18 cán bộ về Việt Bắc thì người phụ nữ có tên Đỗ Thị Lạc là có thật. Giáo sư Tưởng Vĩnh Kính, trong cuốn “Hồ Chí Minh ở Trung Quốc”, trang 194 đến 206 viết: “Ngày 10 tháng 9 năm 1943, HCM được phóng thích tại Liễu Châu, được Tư lệnh Đệ tứ chiến khu Trương Phát Khuê tín nhiệm, giao nhiệm vụ cải tổ VNCMĐMH. HCM đề nghị với Trương Phát Khuê ý định về Việt Nam hoạt động, đồng thời chuyển giao cho ông bản đề cương kế hoạch “Nhập Việt công tác” được khởi thảo với bốn mục tiêu lớn. Căn cứ vào kế hoạch đại cương, HCM tự tuyển chọn 18 thanh niên cốt cán trở về Việt Nam làm công việc huấn luyện nhiệm vụ cách mạng. Danh tính của 18 người như sau: Dương Văn Lộc, Lê Nguyên, Vi Văn Tôn, Hoàng Nhân, Hoàng Quảng Triều, Nông Kim Thành, Hoàng Kim Vận, Hoàng Thanh Thủy, Phạm Văn Minh, Hà Hiến Minh, Hoàng Sỹ Vinh, Lê Văn Tiền, Nông Văn Mưu, Dương Văn Lễ, Hoàng Gia Tiên, Đỗ Trọng Viện, Trương Hữu Chí (đều thuộc Tổng đội Công tác Chiến địa) và Đỗ Thị Lạc (thuộc Đội Công tác Chính trị Biên giới)”. Lại căn cứ vào “Hồ Chí Minh tại Liễu Châu” do Quảng Tây Nhân Dân xuất bản xã phát hành năm 2005, trang 103, có đoạn viết: “Từ 1943 đến 1944, dưới chân núi Cao Lượng, Liễu Châu, nơi Ban Huấn Luyện cán bộ mở lớp học, HCM thường đến giảng bài. Trong số học viên có một phụ nữ là Đỗ Thị Loan, quê tại thị trấn Bắc Môn, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, bị bệnh, chữa không khỏi, chết tại Liễu Châu, mai táng dưới chân núi Cao Lượng, bia mộ ghi ngày sinh, ngày mất và quê quán bằng Trung văn”. Có thể phỏng đoán, Đỗ Thị Lạc, Đỗ Lạc, Đỗ Thị Loan, danh tính ba lần chuyển dịch không giống nhau nhưng có lẽ vẫn cùng là một người.

Trần Trọng Kim viết: “Nghe tin Đỗ Thị Lạc đã có một người con gái với HCM nên có thể xem chuyện này là có thật”. Căn cứ vào “Hồ Chí Minh và Trung Quốc” trang 164 của giáo sư Hoàng Tranh, có đoạn ghi chép về “Hồ Chí Minh và Đỗ Lệ Hoa”, tôi phỏng đoán, Đỗ Lệ Hoa chính là Đỗ Thị Lạc. Chuyện như sau: “Tháng 8 năm 1962, HCM đến Trung Quốc, ở lại một thời gian, đã từng đến thăm phong cảnh nổi tiếng ‘Thạch Lâm’ ở Vân Nam. Đoàn Văn công Vân Nam có nữ ca sĩ hát giọng nữ cao Đỗ Lệ Hoa tháp tùng Chủ tịch HCM tham quan. Bên cạnh HCM, Đỗ tiểu thư đã có những giây phút vô cùng hạnh phúc. Trước đó một năm, HCM đã từng quen biết Đỗ Lệ Hoa. Đó là năm 1961, HCM cùng đoàn đại biểu Đảng Lao Động Việt Nam sang thăm Trung Quốc. Một ngày, tại Hoài Nhân Đường, Bắc Kinh, đoàn nghệ thuật chuẩn bị thăm Miến Điện, biểu diễn một buổi dành riêng cho các vị khách Việt Nam. Sau buổi biểu diễn, HCM đặc biệt đề nghị Đỗ Lệ Hoa cùng ông và Chủ tịch Mao Trạch Đông chụp chung một kiểu ảnh. HCM cười hiền từ nhìn Đỗ Lệ Hoa rất lâu như muốn lưu giữ mãi hình ảnh của cô. Lần này, khi đến nhà khách, Đỗ Lệ Hoa được thông báo, HCM mời vợ chồng cô đến Thạch Lâm tham quan thắng cảnh. Đỗ Lệ Hoa vô cùng phấn chấn, lòng thầm nghĩ, đã một năm qua rồi, không biết HCM giờ đây thế nào, cô hận là không thể lập tức chạy ngay đến bên Hồ Chủ tịch. Khi Đỗ Lệ Hoa vừa đến nhà khách Thạch Lâm, HCM đã chờ sẵn ở cửa trước, vừa nhìn thấy cô văn công, ông vội bước ra, thân mật gọi: ‘Tiểu thư Lệ Hoa, hoan nghênh cô đến, có nhớ năm trước chúng ta gặp nhau ở Bắc Kinh không?’. Đỗ Lệ Hoa phấn khởi nói: ‘Nhớ, nhớ ạ’, rồi trân trọng trao tấm ảnh kỷ niệm đã được phóng to cho HCM”.

Từ việc Đỗ Thị Lạc chết, độ tuổi của Đỗ Lệ Hoa; Đỗ Lệ Hoa đứng giữa Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh chụp ảnh kỷ niệm, đến cuộc gặp gỡ và tình cảm đặc biệt giữa Đỗ Lệ Hoa và Hồ Chí Minh ở khu nghỉ mát Thạc Lâm, làm cho người ta khó nói Đỗ Lệ Hoa không phải là người tình của Hồ Chí Minh.

Mối tình của Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân

Trần Quốc Hoàn vì có công trong việc trấn áp các phần tử phản cách mạng mà thành danh, năm 1953 được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Công An. Năm 1955, một thiếu nữ là Nông Thị Xuân (NTX) từ vùng biên giới tỉnh Cao Bằng được đưa về Hà Nội. Cô này khá xinh đẹp được Chủ tịch Hồ Chí Minh để ý nên Ban Bảo vệ Sức khỏe Trung ương đã bố trí làm y tá bên cạnh ông Hồ. Một năm sau, NTX sinh với HCM một bé trai. Đứa bé được bí mật gửi nuôi vài nơi, nhưng cuối cùng, thư ký riêng của HCM là Vũ Kỳ đưa về nhà nhận làm con. Vào một ngày năm 1957, người ta phát hiện NTX bị tai nạn ô tô chết bên đường chân dốc Chèm. Không lâu sau, hai người em họ của cô Nông Thị Xuân cũng bị đột tử. Khi mới xảy ra sự kiện này rất ít người biết chuyện, nhưng nhiều năm sau, người chồng chưa cưới của một trong hai thiếu nữ, đã viết thư gửi lên Quốc Hội, tố cáo Trần Quốc Hoàn cưỡng dâm Nông Thị Xuân rồi sát hại cô bằng một vụ tai nạn được công an dàn dựng. Anh ta nói rõ, Trần Quốc Hoàn sợ hai người em họ của Nông Thị Xuân tố cáo tội ác nên hắn đã cho mật vụ thủ tiêu cả hai chị em. Tất nhiên, sự kiện này bị ỉm đi và cũng không có bất cứ phiên tòa nào đủ bản lĩnh đứng ra thụ lý vụ án trên.Trần Quốc Hoàn xem như vô can, tại Đại hội III, y còn được bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính Trị, những tin tức về vụ giết người bịt miệng dã man này đã được các cán bộ cao cấp của ĐCSVN tại Hà Nội biết rõ, có điều tất cả đều ngậm miệng, bởi họ không lạ gì Cảnh Con (tên tục của Trần Quốc Hoàn) vốn xuất thân từ dân đao búa, đã từng làm đủ nghề, từ cầm cờ đám ma, lưu manh trộm cắp đến lừa thầy phản bạn… HCM có biết hay không sự kiện động trời này, mọi người đều không dám khẳng định, cho dù, ông mới là “chính danh thủ phạm” của vụ án thảm khốc cướp đi mạng sống của ba thiếu nữ xinh đẹp, vô tội.

Mối tình của HCM và NTX được William J. Duiker ghi chép tại chương 9: “Giữa hai lần chiến dịch”, trang 505-506 trong tác phẩm “Truyện Hồ Chí Minh”. Phần chú thích từ trang 63 đến 660, nội dung dẫn từ “Đêm giữa ban ngày” của nhà văn Vũ Thư Hiên (con trai cụ Vũ Đình Huỳnh, thư ký riêng cho HCM thời kỳ 1946-1955). Nguyên văn bản tố cáo tội ác Trần Quốc Hoàn của vị hôn phu cô Nguyễn Thị Vàng đăng tải trong “Việt Nam lục”, mùa thu, tháng 8 năm 1997, trang 8-11.


Lúc ấy Hồ Chí Minh đã 65,
Nông Thị Xuân mới gần 22
Trong “Thê thiếp và nhân tình của Hồ Chí Minh” của “ Lĩnh Nam Di Dân” cũng ghi chép về mối quan hệ luyến ái giữa HCM và NTX: “Ngày 20 tháng 7 năm 1954, sau Hiệp định Genève, HCM trở về Hà Nội đảm nhiệm chức Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH). Năm 1955, Ban Bảo vệ Sức khỏe Trung ương tuyển một thiếu nữ thuộc thành phần gia đình cách mạng miền núi đưa về Hà Nội, phục vụ sinh hoạt cho HCM. Cô gái là Nông Thị Xuân, dân tộc Nùng (một chi nhánh của người Tráng, Quảng Tây, Trung Quốc. Việt Nam gọi là người Nùng), nhà ở thôn Hà Ma, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Lúc ấy Hồ Chí Minh đã 65, Nông Thị Xuân mới gần 22. Ít lâu sau, hai cô khác, một tên Vàng, một tên Nguyệt là con người cậu của Nông Thị Xuân cũng được chọn đưa về Hà Nội. Ba cô cùng ở trên gác hai ngôi nhà số 66 phố Hàng Bông Nhuộm. Vì để mối quan hệ giữa HCM và NTX không bị tiết lộ, mỗi lần cô Nông Thị Xuân đến Phủ Chủ tịch đều được Bộ trưởng Công An Trần Quốc Hoàn cho xe đến đón”.

Những câu chuyện “Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc”, “Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân”, cùng “Chuyện tình ái và những người con sinh ra trong bóng tối”, (cho đến nay, dân gian vẫn lưu truyền, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh là con rơi của Hồ Chí Minh) cũng như thân phận thật Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc, vẫn còn là những bí mật, chưa có câu trả lời thỏa đáng. Đỗ Thị Lạc, Nông Thị Xuân, thời gian ghi chép, địa điểm, nội dung, nguồn gốc tin tức… sự thật chỉ có một mà sự tô vẽ, phóng đại thì rất nhiều bởi người đời làm cho sự việc ngày càng trở nên phức tạp, khó xác định chân tướng.

Tổng kết về hôn nhân và tình ái trong cuộc đời Hồ Chí Minh

Khảo cứu về hôn nhân, tình ái của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh trong vô vàn sự kiện cũng như mối quan hệ phức tạp, phải nói rất khó khăn và tốn nhiều công sức. Tuy nhiên, cần phải tin chắc một điều, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không phải là một người, cho nên chuyện hôn nhân và tình ái của họ cũng khác nhau. Trong khi tra cứu hồ sơ, tìm hiểu manh mối qua các nguồn tư liệu, (người viết) cần có thái độ khách quan, tôn trọng chứng cứ mới tìm ra được sự thật trong mớ tài liệu hỗn độn do lịch sử để lại, về quan hệ hôn nhân, tình ái của nhân vật đặc biệt này.

Trước hết, cần phân biệt chuyện hôn nhân tình ái của Nguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh; Nguyễn Ái Quốc với Nguyễn Thị Minh Khai khác với hôn nhân tình ái giữa Hồ Chí Minh với Đỗ Thị Lạc; Hồ Chí Minh với Nông Thị Xuân; Hồ Chí Minh với Lâm Y Lan. Từ đó có thể rút ra kết luận: quan hệ tình ái giữa Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh; Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai; Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai đều hình thành trong đấu tranh cách mạng một cách chân tình, nồng nhiệt. Những cuộc tình bắt nguồn từ khói lửa chiến loạn này rất đáng được ca ngợi, không cần phải giấu diếm, càng không nhất thiết có thái độ bôi nhọ.

Tình ái giữa Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc, Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân, Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan, trong đó hàm chứa những nỗi đau triền miên làm người đọc cảm động, tỏ thái độ đồng tình, đồng thời phản đối chiến tranh, phản đối bạo lực. Hy vọng rằng những tình cảm nam nữ chân thành này sớm được làm sáng tỏ để nhân gian có cái nhìn đúng đắn về nhân vật huyền thoại Hồ Chí Minh.
Mùa hè năm 1959, ĐCSTQ họp Bộ Chính Trị mở rộng tại Lư Sơn, cũng là lúc Hồ Chí Minh đến thăm Trung Quốc với tư cách cá nhân. Chiều ngày 8 tháng 10, Lưu Thiếu Kỳ cùng Vương Quang Mỹ, Chu Đức cùng Khang Khắc Thanh, Chu Ân Lai cùng Đặng Dĩnh Siêu, Lý Phú Xuân cùng Thái Sướng đến biệt thự 394. Hồ Chí Minh thấy nhiều bạn bè cũ đến thăm, chợt cao hứng hỏi Đặng Dĩnh Siêu: “Tiểu Siêu, nhiều khách quý thế này, hôm nay tôi phải lấy gì chiêu đãi?”. Một tiếng “Tiểu Siêu” làm Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu nhớ lại một thời đã qua. Dịp ấy vào năm 1925, Nguyễn Ái Quốc vừa từ Liên Xô về Quảng Châu, biết tin Chu Ân Lai vừa được bổ nhiệm là Hiệu trưởng Trường Quân sự Hoàng Phố, ông ta đã đến tận phòng ở của hai người chúc mừng. Lúc ấy, Chu Ân Lại gọi vào trong nhà: “Tiểu Siêu, mang đường ra đây”. Đã hơn ba mươi năm, Hồ Chí Minh đã trở thành ông già “cổ lai hy”, từ một chí sĩ vong quốc đến người đứng đầu nhà nước Việt Nam, tất cả dường như chỉ mới hôm qua. Đặng Dĩnh Siêu đón tiếp Hồ Chí Minh, ánh mắt tươi rói, cười bảo: “Pha cà phê”.

Chiều ngày 12 tháng 8, vào lúc 5 giờ, Dương Thượng Côn cùng Vương Giá Tường đến biệt thự 394 thăm Hồ Chí Minh. Một lúc sau có tiếng phụ nữ ồn ào từ ngoài vọng vào. Hồ Chí Minh quay đầu nhìn ra, chính là đội ngũ “nương tử quân” “giá đáo” gồm Thái Sướng, Đặng Dĩnh Siêu, Khang Khắc Thanh, Vương Quang Mỹ, ngoài ra còn một vài người chưa quen biết. Mọi người mời Hồ Chí Minh ở lại Lư Sơn thêm ít ngày.

- Được thôi, sau này Việt Nam thống nhất tôi sẽ sang Lư Sơn ở hẳn một năm hoặc nửa năm.

- Chúng tôi không mời riêng một mình Chủ tịch ở lại đâu nhé! Thái Sướng nói giọng đầy ẩn ý.

- Đương nhiên, tôi biết, vì thế, tôi sẽ mời một số đồng bào…

- Không đâu, chỉ đề nghị Chủ tịch cùng phu nhân đến thôi.

Hồ Chí Minh cười, chậm rãi nói:

- Được thôi, nhờ Tiểu Siêu đề đạt ý kiến với Hội Phụ nữ, không được thì phải đền đấy.

- Đúng vậy, Chủ tịch nên chọn một người vợ cách mạng, chẳng nên bắt đền chị Đặng.

Các bà khách chẳng giữ ý tứ gì, nói năng thoải mái, cười khanh khách vang khắp nhà. Hồ Chí Minh luôn sống độc thân. Nhiều năm qua, Việt Nam và Trung Quốc quan tâm đến tình trạng hôn nhân của ông không ít, nhưng có lẽ, ngay từ thờ trai trẻ, ông đã chủ tâm lập chí, đất nước chưa độc lập, thì chưa thành gia thất chăng?

Các “nữ đồng bào” vẫn vui vẻ cười đùa:

- Lần sau Chủ tịch đến đây chị em chúng tôi mong được ăn kẹo cưới.

Hồ Chí Minh đứng lên, vẫy tay gọi vào trong:

- Mời mang kẹo ra đây chiêu đãi khách quý.

- Loại kẹo này chúng tôi không ăn.

- Vậy xin mời các phu nhân dùng cà phê.

- Cà phê cũng không uống.

Hồ Chí Minh cười:

- Vậy tôi đọc một bài thơ được không?

- Không yêu cầu Chủ tịch làm thơ.

Các vị khách đều biết Hồ Chí Minh sành làm thơ nên mới nói đùa vậy.

Hồ Chí Minh là một người có tính cách đặc biệt, ông nhẹ nhàng nói, thời kỳ năm 1940, cơ cấu ban lãnh đạo cách mạng Việt Nam được thành lập tại Côn Minh, để cổ vũ quần chúng, tôi có làm một số “du thi”, xin đọc một bài để các nữ đồng chí nghe:
Tam tứ niên lai vọng đoạn trường
Niệm lang lưu lạc tại tha hương
Đồng tâm kết phát thùy thiếp kiên
Cửu biệt lệ lưu thấp lang diện
Quốc hận gia sầu lang vật vong
Gia thường tỏa sự thiếp toàn đương
Đãi lang diệt địch quy lai nhật
Huề thủ đoàn viên lạc điền trang.
Tạm dịch nghĩa:
Ba bốn năm nay trông ngóng đến đứt ruột
Nhớ chàng lưu lạc nơi quê người
Dải tóc kết đồng tâm rủ xuống vai thiếp
Dòng lệ khi từ biệt thấm ướt mặt chàng
Nợ nước thù nhà chàng không quên
Công việc ở nhà thiếp gánh vác
Đợi ngày chàng diệt địch trở về
Dắt tay nhau vui vẻ sống cảnh điền viên.

Các phu nhân chăm chú nghe Hồ Chí Minh đọc từng câu thơ với tâm trạng vô cùng xúc động. Ông biểu thị tình cảm sâu sắc qua từng ngữ điệu, khiến các vị khách, sau khi rời biệt thự 394 lòng đầy cảm thán: “Nếu như Việt Nam sớm độc lập, thống nhất, Hồ Chí Minh nhất định sẽ là người chồng mẫu mực, hết lòng thương yêu vợ”. Trước lúc chia tay, các phu nhân còn tranh nhau đứng gần Hồ Chí Minh chụp ảnh kỷ niệm làm Dương Thượng Côn và Vương Giá Tường phải bật cười”.
Đoạn viết trên là căn cứ vào “Hồ sơ Lư Sơn” của Mã Xã Hương, chương 4 “Hồ Chí Minh bí mật đến Lư Sơn”, do Nhân Dân Xuất Bản Xã ấn hành tháng 5 năm 2006. Căn cứ văn bản trên, tôi đặc biệt nghi ngờ Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu. Có một tấm ảnh Hồ Chí Minh cầm tay Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng cười giữa một đoạn đường núi được Han Suyin chụp, Trương Liên Khang dịch trong cuốn “Chu Ân Lai và Trung Quốc hiện đại”, trang 314. “Hồ sơ Lư Sơn – Hồ Chí Minh bí mật đến Lư Sơn”, kèm theo tấm ảnh, Hồ Chí Minh đứng giữa, bên phải cầm tay Đặng Dĩnh Siêu, bên trái cầm tay Thái Sướng, ba người tỏ ra rất thân mật. Tôi không tin việc Hồ Chí Minh, với tư cách Chủ tịch, lấy quốc gia làm trọng, vậy mà lại gọi phu nhân của Chu Ân Lai bằng cái tên “Tiểu Siêu”, Đặng Dĩnh Siêu chẳng những không phật ý mà còn vui vẻ mỉm cười. Lại nữa, Hồ Chí Minh trả lời các mệnh phụ phu nhân: “Việt Nam thống nhất tôi sẽ sang Lư Sơn ở hẳn một năm hoặc nửa năm”. Thái Sướng nói giọng đầy ẩn ý: “Chúng tôi không mời riêng một mình Chủ tịch ở lại đâu nhé!”. Những lời đối đáp có tính cợt nhả ấy đều vượt qua nghi lễ ngoại giao, thậm chí vượt qua cả tình cảm đồng chí, nhất là, khi ấy Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng lại là cán bộ cao cấp lãnh đạo Hội Phụ nữ Trung Quốc. Chuyện các vị nữ khách đề nghị Hồ Chí Minh đọc thơ tình cũng rất khó xảy ra. Người viết không tin là giữa Hồ Chí Minh và các phu nhân có bất kỳ mối quan hệ tình cảm mờ ám nào. Tôi đồ rằng, trong số các mệnh phụ phu nhân đến biệt thự 394 hôm ấy, có người ngấm ngầm muốn công khai bí mật thân phận thật của Hồ Chí Minh trước bàn dân thiên hạ. Chính vì vậy, qua những lời nói khá tình cảm của Hồ Chí Minh và Đặng Dĩnh Siêu, làm tác giả Bùi Tín hiểu lầm là hai người đã từng yêu nhau.

Trở lại năm 1926, Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh chính thức cử hành hôn lễ tại Quảng Châu: Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng từng là người làm mối và chủ trì. Năm 1958, xảy ra vụ “Tăng Tuyết Minh hôn nhân xung đột song bào án kiện” (“Vụ án kép những mâu thuẫn hôn nhân của Tăng Tuyết Minh”), Thái Sướng phải đứng ra giải quyết mới dẹp được sóng gió. Cũng năm 1958, Hồ Chí Minh vì muốn hoàn thành tâm nguyện kết hôn cùng Lâm Y Lan nên đã nhờ Đào Chú, Chu Ân Lai giúp đỡ. Theo những bằng chứng đáng tin cậy, có thể thấy, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng biết rất rõ Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không phải là một người, biết rõ Nguyễn Ái Quốc đã bị bệnh chết, càng rõ hơn, Hồ Chí Minh là kẻ bội bạc hôn nhân. Tuy nhiên, với Lâm Y Lan, Hồ Chí Minh lại đặc biệt dành tình cảm cho bà, khiến tôi vô cùng kính trọng và biểu đồng tình.

Ngày 16 tháng 7 năm 1947, Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn một tờ báo nước ngoài: “Đã hỏi đến chuyện hôn nhân và tương lai, xin hãy để tôi tự nhiên trả lời. Tôi không có gia đình, không vợ con, Việt Nam chính là gia đình tôi, các bậc phụ lão chính là người thân của tôi, phụ nữ Việt Nam chính là chị em tôi. Tôi chỉ có một điều duy nhất phải theo đuổi là đấu tranh để Việt Nam độc lập, thống nhất và dân chủ. Sau khi nguyện vọng hoàn thành, tôi sẽ cáo lão hồi hương, làm một người dân bình thường, du ngoạn núi sông, trồng cây, viết sách”.

Đoạn trả lời phỏng vấn trên được dẫn từ “Hồ Chí Minh toàn tập”, tập V, trang 171, NXB Chính trị Quốc gia, làm tôi suy nghĩ mãi. Trừ đoạn nói là không gia đình, không vợ con, Hồ Chí Minh sau khi hoàn thành nguyện vọng không thấy ông cáo lão về quê, bởi suy cho cùng, nếu thực hiện lời hứa ấy thì ông về quê nào?

Vào thời kỳ trước năm 1947, Hồ Chí Minh chưa từng công khai quê quán hoặc thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, thậm chí còn tích cực tranh thủ nước Mỹ, yêu cầu viện trợ giúp đỡ Việt Nam giành độc lập. Trong thâm tâm Hồ Chí Minh, phải chăng, ông đợi sau khi Việt Nam độc lập, Đài Loan được ủy thác cho quân Đồng minh quản lý cũng giành độc lập, như thế, ông có thể đàng hoàng trở về quê hương, thực hiện lời hứa với người em Hồ Tập Dưỡng: “Không thành công không về quê hương”. Tuy nhiên, trời chẳng chiều người, chỉ một năm sau, quân đội Quốc Dân Đảng tiến nhập Đài Loan, thế là Hồ Chí Minh chẳng bao giờ có thể trở về cố hương, đúng như lời Ngô Trọc Lưu nói, ông Hồ là “đứa con côi châu Á”.

(Hết Thiên IV)
Hồ Tuấn Hùng
Thái Văn
chuyển ngữ
© Thông Luận 2010
 

No comments: