PHÐ÷NG PHÁP thiŠn
ÇÎnh
ñåo PhÆt chú tr†ng t¿ l¿c, t¿ Ƕ. ThiŠn
là m¶t phÜÖng cách t¿ l¿c và t¿ Ƕ. ñåo PhÆt là m¶t tôn giáo chú tr†ng th¿c
hành. Tam tång kinh Çi‹n rút g†n vào bÓn ch»: hành thiŠn và hành thiŒn.
Vì vÆy sau phÀn lš thuy‰t Trung Çåo,
chúng tôi trình bày v¡n t¡t phÜÖng pháp tÆp thiŠn Çã ÇÜ®c ÇÙc PhÆt truyŠn dåy
qua kinh sách Ç‹ nh»ng ai Çang tÀm sÜ h†c Çåo, có th‹ theo Çó mà Çi, Ç« mÃt thì
gi© và lÀm låc.
chÜÖng xX
vào thiŠn
i.
NGU—N G–C
ThiŠn là tÆp trung tÜ tܪng vào m¶t s¿
vÆt. ViŒc này thÜ©ng là hܧng n¶i.. TÆp trung tÜ tܪng có nguÒn gÓc ª các tôn
giáo ñông phÜÖng, tØ næm ngàn næm trܧc
trong Çåo Bà La Môn. Pháp môn này có møc Çích phát tri‹n trí tuŒ và tôn giáo.
Phái Yoga Devanagari là m¶t trong 6 trÜ©ng phái th¿c hành thiŠn ÇÎnh tåi ƒn ñ¶.
Trong ƒn ñ¶ giáo và PhÆt giáo, ngÜ©i ta dùng danh tØ bhãvanã, Jhanã,
dhyâna,samadhi ÇÜ®c dÎch ra ch»
Trung Hoa là thiŠn
禪, thiŠn na 禪那, hay
thiŠn ÇÎnh 禪定. Phát âm ti‰ng Trung Hoa là
ch’an , ñåi Hàn là Seon, NhÆt bän là Zen,
và ViŒt Nam
là ThiŠn.
Ngày nay, trên th‰ gi§i ngÜ©i ta quen thu¶c v§i tØ Zen cûa NhÆt Bän. Trong
Bát chánh Çåo, chánh niŒm và chánh ÇÎnh tÙc là
thiŠn ÇÎnh.
Ngܩi
Tây phÜÖng dùng ch» meditation Ç‹ nói vŠ tình trång tÆp trung tÜ tܪng vào m¶t s¿
vÆt. NhiŠu tôn giáo th¿c hành thiŠn. Bà La môn giáo, PhÆt giáo, Lão giáo, Çåo Bahai, phái Jainism, Judaism , các võ phái tåi Trung QuÓc, NhÆt
Bän, ñåi Hàn. ÇŠu th¿c hành thiŠn. Theo t¿ Çi‹n Wikipedia, Thiên chúa giáo cÛng
có nh»ng hình thÙc tÜÖng t¿ thiŠn nhÜ rosary
và adoration.
Các tôn giáo và võ phái ÇŠu dùng thiŠn nhÜng
møc Çích khác nhau và phÜÖng pháp cÛng khác nhau. Møc Çích thiŠn cûa Bà La Môn
giáo là ÇÜ®c lên cõi tr©i, ÇÜ®c sÓng v§i
thÜ®ng lj. PhÆt giáo cho r¢ng thÜ®ng lj
ª cõi tr©i rÒi cÛng bÎ luân hÒi. Møc Çích cûa PhÆt giáo là Çåt giäi thoát khÕi
kh° ách luân hÒi. Pháp môn phù thûy dùng thiŠn Ç‹ Çåt các phép mÀu. Các phái võ
Trung Hoa, NhÆt Bän, Thái Lan, dùng thiŠn Ç‹ tæng sÙc månh š chí và cÖ th‹.
Nhiều sách Trung Quốc cho rằng Đạt Ma sư tổ là tổ sư thiền, nghĩa là người khai sáng ra Thiền, cũng hàm ý Thiền sinh ra ở Trung Quốc. Sai. Thiền bắt nguồn từ đạo Bà La Môn, Ấn Độ. Khi vào rừng sâu, đức Phật đã học thiền với hai vị sư Bà La môn, sau đó đức Phật tự tìm đường lối riêng, là con đường Niết Bàn giải thoát chứ không phải thiền để về với Thượng Đế. Đạt Ma sư tổ là là học trò đời sau mà các sư Trung Quốc tôn tụng quá đáng và không có tài liệu chính xác . Nhiều sư Trung Quốc viết rằng có năm loại thiền, và tỏ ý khinh bỉ ngoại đạo thiền, tiểu thừa thiền. Đó cũng là tâm ngã mạn.
Nhiều sách Trung Quốc cho rằng Đạt Ma sư tổ là tổ sư thiền, nghĩa là người khai sáng ra Thiền, cũng hàm ý Thiền sinh ra ở Trung Quốc. Sai. Thiền bắt nguồn từ đạo Bà La Môn, Ấn Độ. Khi vào rừng sâu, đức Phật đã học thiền với hai vị sư Bà La môn, sau đó đức Phật tự tìm đường lối riêng, là con đường Niết Bàn giải thoát chứ không phải thiền để về với Thượng Đế. Đạt Ma sư tổ là là học trò đời sau mà các sư Trung Quốc tôn tụng quá đáng và không có tài liệu chính xác . Nhiều sư Trung Quốc viết rằng có năm loại thiền, và tỏ ý khinh bỉ ngoại đạo thiền, tiểu thừa thiền. Đó cũng là tâm ngã mạn.
Ii. Nguyên t¡c
Tu tÆp thiŠn có nhiŠu nguyên tác, ª Çây
chúng tôi chÌ trình bày nh»ng nét chính.
1.TÆp
trung tÜ tܪng:
ThiŠn
hay thiŠn ÇÎnh là tÆp trung tÜ tܪng vào m¶t ÇÓi tÜ®ng, nghïa là trong
khi thiŠn, phäi Ç‹ tâm vào ÇÓi tÜ®ng, tránh š mã tâm viên. Phäi c¶t ch¥t tâm š
vào ÇÓi tÜ®ng, m¶t tÃc không Çi, m¶t ly không r©i. Có ba loåi ÇÓi tÜ®ng:
-ñÓi tÜ®ng ª trong cÖ th‹ con ngÜ©i: Ãn
ÇÜ©ng, mÛi, Çan ÇiŠn, Çïnh ÇÀu.. . .
-ñÓi tÜ®ng ª ngoài không gian: cây
hÜÖng, m¥t tr©i, m¥t træng, m¶t Çi‹m nhÕ ª trܧc m¥t, m¶t hình hình tÜ®ng.
-ñÓi tÜ®ng ª trong tâm trí: niŒm
PhÆt, niŒm pháp, niŒm xanh, niŒm ÇÕ, niŒm vàng, niŒm thánh thÀn. . .Ho¥c suy nghï vŠ m¶t vÃn ÇŠ nhÜ ki‹u thiŠn công
án:
-PhÆt là gì?
-Ta là ai?
-ñåt Ma sÜ t° tØ
Tây trúc sang là š th‰ nào?
2. Trung Çåo:
ñã trình bày ª phÀn trܧc vŠ trung
Çåo, nay chÌ nh¡c låi. Trong tu tÆp, không nên lÜ©i bi‰ng, cÛng không nên quá
cæng th£ng, không døc låc cÛng không quá kh° hånh. Phäi buông thä, phäi nghe cÖ
th‹. N‰u mŒt thì nghÌ, cÓ g¡ng quá së sinh bŒnh n¥ng nhË.
3.
Thanh tâm:
Hãy Ç‹ lòng thanh tïnh, không tham
chÙng Ç¡c, không cÀu thÀn thông, không v¶i vàng nóng näy, không sinh v†ng tâm,
không tܪng nghï vu vÖ. . .Hãy š thÙc r¢ng ta Çang ª th‰ gi§i này và ta là
ngÜ©i có lÜÖng tri và lš trí. Ta ª th‰ gi§i này và Çang tu tÆp thiŠn, không
chÃp nhÆn thiên ÇÜ©ng ÇÎa ngøc, thánh thÀn vì Çó là äo änh và v†ng tܪng. Ta
không nghe ai dø d‡ uÓng rÜ®u, c© båc hay gi‰t ngÜ©i. . . Ngoài ra hành giä còn
phäi tránh nh»ng thiŠn bŒnh nhÜ ngû gÆt, mê mŒt. Luôn luôn tÌnh thÙc, luôn š
thÙc m†i viŒc Çang xäy ra xung quanh, nhÃt là không tham thì së bình an và Çåt
thành công trên ÇÜ©ng tu tÆp.
N‰u ngÒi thiŠn mà sinh v†ng tâm, thÃy ma qu› thì nên ngÜng tÆp và cÀn cao nhân chÌ Çi‹m. Chúng ta sinh ra cõi Ç©i này nguÒn gÓc khác nhau, bän chÃt khác nhau, và nghiŒp báo khác nhau cho nên thành quä khác nhau. Trong viŒc tÆp thiŠn, niŒm PhÆt, trì chú, có ngÜ©i Çi ljn k‰t quä dÍ dàng, có ngÜ©i g¥p trª ngåi nhÜ bøng nóng nhÜ lºa, ho¥c hôn trÀm, ho¥c ca hát, nhäy múa. Có ngÜ©i thành công ª pháp này mà thÃt båi ª pháp kia. ViŒc này cÛng phäi nh© cao nhân chÌ Çi‹m. Ÿ Çâu, trong Çåo cÛng nhÜ ngoài Ç©i, ta cÀn có nh»ng cÓ vÃn góp š và hܧng dÅn.
N‰u ngÒi thiŠn mà sinh v†ng tâm, thÃy ma qu› thì nên ngÜng tÆp và cÀn cao nhân chÌ Çi‹m. Chúng ta sinh ra cõi Ç©i này nguÒn gÓc khác nhau, bän chÃt khác nhau, và nghiŒp báo khác nhau cho nên thành quä khác nhau. Trong viŒc tÆp thiŠn, niŒm PhÆt, trì chú, có ngÜ©i Çi ljn k‰t quä dÍ dàng, có ngÜ©i g¥p trª ngåi nhÜ bøng nóng nhÜ lºa, ho¥c hôn trÀm, ho¥c ca hát, nhäy múa. Có ngÜ©i thành công ª pháp này mà thÃt båi ª pháp kia. ViŒc này cÛng phäi nh© cao nhân chÌ Çi‹m. Ÿ Çâu, trong Çåo cÛng nhÜ ngoài Ç©i, ta cÀn có nh»ng cÓ vÃn góp š và hܧng dÅn.
Iii. ChuÄn bÎ
Trܧc khi vào thiŠn, chúng ta cÀn
chuÄn bÎ m¶t sÓ viŒc.VŠ tinh thÀn, ta phäi Ç‹ lòng thanh tïnh, không lo âu,
buÒn b¿c. Không nên ngÒi ngoài tr©i ho¥c nÖi hoang v¡ng ngoåi trØ quán thây ma
nÖi nghïa ÇÎa, và nh»ng hành giä Än mình nÖi sÖn lâm cùng cÓc. ñÙc PhÆt ban ÇÀu
cho các ÇŒ tº sau khi æn xong, l¿a ch‡ v¡ng vÈ ngÒi thiŠn ª ngoài rØng. Sau
này, Ngài cho lÆp thiŠn viŒn Ç‹ chÜ tæng cÜ trú, tránh gió, mÜa, n¡ng, bão gây
bŒnh tÆt cho hành giä. Sau này, các thiŠn sÜ dù Ö nÖi núi rØng cÛng lÆp am
tranh mà ngÒi tu tÆp.
Không nên æn quá no, cÛng nhÜ Ç‹ bøng Çói. Nên
m¥c quÀn áo r¶ng rãi. Phäi ch†n lúc yên tïnh, v¡ng ngÜ©i và bän thân không bÆn
r¶n công viŒc. Có th‹ t¡m rºa trܧc khi vào thiŠn.
Phäi tÆp m¶t vài Ƕng tác Ç‹ làm
nóng cÖ th‹, nhÃt là phäi xoa bóp chân tay. Phäi n§i r¶ng th¡t lÜng. Phäi có
m¶t cái gÓi ( t†a cø) Ç‹ ngÒi cho êm. T†a
cø còn giúp ta ngÒi th£ng lÜng, không bÎ Çau lÜng, Çau chân.
Ngoài ra có ba ÇiŠu tr†ng y‰u cÀn
th¿c hiŒn trܧc khi vào thiŠn:
1.ñiŠu thân:
Có nhiŠu cách ÇiŠu thân: co du‡i chân
tay, n¡n bóp các kh§p xÜÖng chân tay, nghiêng thân ra Ç¢ng trܧc hay Ç¢ng sau
vài lÀn, sau Çó m§i x‰p Ç¥t chân tay, th£ng thân t†a thiŠn.
2.ñiŠu
tÙc:
Trܧc khi tÆp thiŠn, phäi nhË nhàng
hít thª vài hÖi.
3.
ñiŠu tâm:
Phäi
Ç‹ lòng thanh tïnh, l¡ng dÎu, gåt bÕ m†i tåp niŒm m§i ngÒi thiŠn.
4. Th©i gian và không gian
Chúng ta ch†n m¶t phòng yên tïnh, không
quá sáng cÛng không quá Òn ào, không quá nóng cÛng không quá lånh. Các vÎ sÜ
thÜ©ng ngÒi thiŠn vào các gi© tí, ng†, mão, dÆu. Chúng ta không có nhiŠu thì
gi© thì tÆp ngày m¶t hai lÀn vào lúc thuÆn tiŒn. Lúc 11 -12 gi© Çêm là lúc
thuÆn tiŒn nhÃt. M‡i bu°i khªi ÇÀu vài phút, sau ( vài tháng hay vài næm sau), tæng dÀn ljn nºa
gi© ho¥c m¶t, hai gi©, tùy theo s¿ chÎu Ç¿ng cûa cÖ th‹.
IV. Các tÜ th‰
Có bÓn tÜ th‰,
bÓn cách thiŠn, danh tØ PhÆt giáo g†i là bÓn oai nghi
là Çi, ÇÙng, n¢m, ngÒi. Các vÎ sÜ Nam tông khi Çi
khÃt th¿c Çã th¿c hành thiŠn. N¢m thì dÍ ngû. ña sÓ ch†n ngÒi thiŠn tÙc
t†a
thiŠn. Trong tù, Cộng sản bắt tù nhân ngủ dúng giờ, ai còn thức sẽ bị
phạt. Các sĩ quan VNCH phải thay nhau canh gác để được ngồi thiền. Tại
sao không nằm mà thiền? Lẽ tất nhiên trong bốn tư thế đi đứng nằm ngồi
thì ngồi là tiện nhất, phổ biến nhất. Đi thì khó tập trung tư tưởng vì
đường nuíi, đường quê gập ghềnh cao thấp khó đi dễ vấp ngã. Nằm thì dễ
ngủ, thật ra ngồi cũng dễ ngủ. Phải cố gắng thì sau một thời gian có thể
nằm thiền. Khi già cả, bênh hoạn, lưng đau, thân mỏi, phải cố gắng nằm
thiền.
NgÒi thiŠn là t†a thiŠn 坐禅, ti‰ng NhÆt là zazen, Trung QuÓc là tso-chan. T†a thiŠn phäi có t†a cø (zafu, 座蒲) Có nhiŠu cách ngÒi thiŠn. Bao gi© cÛng lÜng ngÒi th£ng, nhÜng tay và chân có nhiŠu tÜ th‰ khác nhau. T¿u trung hai bàn tay chÒng lên nhau Ç‹ trܧc bøng, có th‹ hai ngón cái chåm nhau, có th‹ Ç‹ hai tay lên ÇÀu gÓi, nhÜng Ça sÓ Ç¥t hai tay chÒng lên nhau ª trܧc bøng nhÜ tÜ th‰ ngÒi cûa tÜ®ng PhÆt.
Kiêt già
NgÜ©i gÀy dÍ ngÒi ki‰t già. NgÜ©i
Tây phÜÖng khó ngÒi ki‰t già. NgÒi thiŠn phäi Çåt ba tiêu chuÄn: yên l¥ng,
thoäi mái và thÜ giän. Tuy vÆy, th©i gian ÇÀu, m§i ngÒi thiŠn, chân Çau, lÜng
mÕi, khó Çåt thoäi mái. Sau m¶t th©i gian m§i thoäi mái. Các ki‹u ngÒi không
quan tr†ng. Không phäi ngÒi ki‰t già thì tÓt hÖn bán già, cao siêu hÖn ngÒi
gh‰. Cái quan tr†ng là thoäi mái.
Bán già
v.Trong khi t†a thiŠn
Trong khi ngÒi thiŠn, m¡t hÖi nh¡m.
Không nên nh¡m tít vì dÍ ngû. LÜ«i cong lên nóc h†ng. NgÒi lâu thì lÜng cong xuÓng ho¥c thân
hình nghiêng ngã, nên ÇiŠu chÌnh cho lÜng th£ng, thân th‹ thoäi mái. N‰u thÃy
quá mŒt mÕi, thì nghÌ, ÇØng quá cÓ g¡ng.
N‰u thÃy m¥t, mÛi, chân, tay ngÙa,
ho¥c Çau nhÙc, hãy kiên trì thì m†i hiŒn
tÜ®ng së bi‰n mÃt. N‰u thÃy ma qu›, ho¥c thiên ÇÜ©ng, ÇÎa ngøc, thì Çó là äo
änh, ÇØng quan tâm, và lòng hãy t¿ bäo: Çó là äo änh, không phäi thÆt. N‰u Çi
theo äo änh là së bÎ låc vào ma Çåo.
Nên hít thª bình thÜ©ng. Pháp môn Yoga chû trÜÖng thª ba
hÖi: thª ra - ngÜng thª
- thª vào
Ho¥c: hít vào - nín thª - thª ra.
PhÜÖng
pháp này giúp ta thª sâu, có ích l®i ÇÓi v§i m¶t sÓ ngÜ©i, nhÜng ª m¶t sÓ ngÜ©i
khác, viŒc nín thª lâu ngày chÀy tháng
có th‹ gây huy‰t áp cao.
TÆp thiŠn xong, ta phäi th¿c hiŒn m¶t vài Ƕng tác, g†i là
xä thiŠn. Trܧc tiên, ta phäi tØ tØ cº Ƕng, thª ra vài hÖi, xoa bóp chân tay, m¥t mÛi., và
cº Ƕng thân th‹ cho máu lÜu thông, nhiên nhÆu m§i ÇÙng dÆy. Lúc này nên
cº Ƕng tØ tÓn vì chân tay ta còn tê cÙng, chÜa th‹ hoåt Ƕng bình thÜ©ng.
Sau tÆp thiŠn hai ba gi©, m§i t¡m
rºa vì lúc tÆp thiŠn, các måch máu và chân lông Çang nª ra, phäi Ç‹ lâu cho
chúng trª låi bình thÜ©ng, n‰u không së bÎ cäm måo.
chÜÖng xXi
phÜÖng pháp thiŠn
I. CÁC PHÁP MÔN
Trܧc khi vào Çåi h†c, ta phäi ch†n,
m¶t trÜ©ng, m¶t ngành. CÛng vÆy, thiŠn có rÃt nhiŠu pháp môn thiŠn, chúng ta
phäi ch†n m¶t pháp môn trܧc khi Çi vào th¿c hành. ñÙc PhÆt Çã ÇÜa ra nhiŠu
pháp môn thiŠn Ç‹ các ÇŒ tº l¿a ch†n.
1. - Có
một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Phật. Chính một pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
2-10. Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đế nhứt hướng nhàm chán, ly tham,
đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm
Pháp... niệm Tăng... niệm Giới... niệm Thí... niệm Thiên... niệm Hơi thở vô, Hơi thở ra... niệm Chết... niệm Thân... niệm An tịnh. Chính một pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham,
đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. . .
. . . .Tu tập như š túc câu hữu với Dục định tinh cần hành ... câu hữu với Tinh tấn định tinh cần hành ... câu hữu với Tâm định tinh cần hành ... câu hữu với Tư duy định tinh cần hành ...
22-31. Tu tập Tín căn ... tu tập Tấn căn ... tu tập Niệm căn ... tu tập Çịnh căn ... tu tập Tuệ căn ... Tu tập Tín lực ... tu tập Tấn lực ... tu tập Niệm lực ... tu tập ñịnh lực ... tu tập Tuệ lực ...
32-38. Tu tập Niệm giác chi ... tu tập Trạch pháp giác chi ...
tu tập Tinh tấn giác chi ... tu tập Hỷ giác chi ... tu tập Khinh
an giác chi ... tu tập Ðịnh giác chi ... tu tập Xả giác chi ...
39-46. Tu tập Chánh tri kiến ... tu
tập Chánh tư duy ... tu tập Chánh ngữ ... tu tập Chánh nghiệp ... tu tập Chánh mạng ... tu tập Chánh tinh tấn ... tu
tập Chánh niệm ... tu tập Chánh định ...
. . . Quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh,
ánh sáng xanh. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy ... "
Quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy ..."
Quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, tướng sắc đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy ..."
Quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy ... . ."
83-92. Tu tập tưởng vô thường ... tu tập tưởng vô ngã ... tu tập tưởng về chết ... tu tập tưởng ghê tởm đối với các món ăn ... tu tập tưởng không hỷ lạc đối với tất cả thế giới ... tu tập tưởng hài cốt ... tu tập tưởng bị trùng bọ ăn ... tu tập tưởng bị xanh bầm ... tu tập tưởng bị đầy những lỗ hổng ... tu tập tưởng bị sưng phồng lên ... .. . (TăngChi, XVI.PhÄm M¶t pháp)
ñÙc PhÆt truyŠn dåy nhiŠu pháp môn và các bÆc sÜ trܪng cÛng Ç‹ låi nhiŠu pháp môn t†a thiŠn. VŠ võ công, ngÜ©i ta có th‹ luyŒn thÆp bát ban võ nghŒ, còn t†a thiŠn thì chÌ m¶t pháp chuyên nhÃt thì m§i thành t¿u. CÛng có kÈ k‰t h®p hai hay ba pháp. Gi§i, ñÎnh TuŒ là ba pháp, TÙ vô lÜ®ng tâm là bÓn pháp, Quán và chÌ là hai pháp.
Ÿ phÀn trܧc, chúng tôi Çã k‹ sÖ lÜ®c các
pháp tu thiŠn và møc Çích tu thiŠn. Nay chúng tôi xin Çi‹m qua m¶t sÓ phÜÖng
pháp tu tÆp trong nhiŠu môn phái khác. Người ta bảo rằng chú tâm vào thân thể thì tốt hơn là chú tâm vào sự vật bên ngoài. Chưa biết thực hư như thế nào.
1.
Quán
cây hÜÖng
ñêm khuya, th¡p m¶t cây hÜÖng Ç‹ trܧc
m¥t, ngang tÀm m¡t, xa khoäng m¶t, ha, ba thܧc. NgÒi nhìn chæm chú vào cây
hÜÖng, không ch§p m¡t. M§i tÆp, khó chÎu l¡m, nܧc m¡t chäy ràn røa, lâu ngày
thành quen.TÆp nhìn cây hÜÖng ÇÜ®c thì së tÆp thôi miên dÍ dàng. Khi tÆp, së
thÃy cây hÜÖng di Ƕng. Hãy t¿ bäo lòng cây hÜÖng ÇÙng m¶t ch‡, không th‹ bay
nhäy ho¥c múa may. N‰u cây hÜÖng chuy‹n Ƕng là äo änh ho¥c tâm ta v†ng tܪng.
Hãy tØ bÕ äo tܪng và v†ng tâm. Khi nào thấy dốm lửa đứng im là đạt bước đầu.
2.
Quán
m¥t Tr©i:
Ánh sáng mÆt tr©i quá månh, së làm
cho mù m¡t. ñØng tham thÀn thông mà luyŒn phép này.
3.
Quán bÃt tÎnh
Có nhiŠu cách quán bÃt tÎnh nhÜng t¿u trung là quán tܪng nh»ng vÆt tanh hôi, ghê tªm nhÜ xác ch‰t sình thÓi, quán nh§t räi, máu mû trong cÖ th‹ con ngÜ©i khi bŒnh hoån. . . Møc Çích quán này là Ç‹ trØ tham ÇËp, tham sÓng, tham giàu Ç‹ nhÆn ÇÎnh con ngÜ©i và th‰ gi§i là vô thÜ©ng. Ngày xÜa tåi ƒn ñ¶ có tøc Ç‹ xác ch‰t cho diŠu tha, quå rÌa, mà không chôn cÃt, cho nên các Bà la môn thÜ©ng ra nghïa ÇÎa ( thi lâm) trong Çêm khuya Ç‹ quán xác ch‰t. Ban ÇÀu, ÇÙc PhÆt dåy cho ÇÒ ÇŒ pháp môn này. Sau m¶t mùa an cÜ, ÇÙc PhÆt trª vŠ, thÃy ÇŒ tº v¡ng m¥t quá nhiŠu. Ngài hÕi A Nam và A Nan trä l©i vì quán bÃt tÎnh, m¶t sÓ chán sÓng, m‡i ngày có hai, ba chøc ngÜ©i quyên sinh. A Nan xin PhÆt dåy môn khác, PhÆt ÇÒng š và dåy pháp môn quán hÖi thª ( TÜÖng Ðng IV, 329, ho¥c TÆp V, Thiên ñåi phÄm, TÜÖng Ðng HÖi thª vô, hÖi thª ra).
4. Quán Çan ÇiŠn
Cách này thu¶c loåi quán hÖi thª,
và ÇÜ®c g†i là thª bøng. Thª vào,
thª ra ÇŠu Ç¥n. TÆp trung tÜ tܪng vào Çan ÇiŠn tÙc là m¶t khoäng ª dܧi rÓn
hai ba phân. Lúc thª, không khí chÌ Ç‰n ph°i nhÜng ta tܪng tÜ®ng hÖi thª xuÓng
tÆn Çan ÇiŠn. TÆp lâu næm, lúc thÙc ngû së thÃy Çan ÇiŠn có cº Ƕng nhè nhË nhÜ
cái thóp mŠm cûa trÈ con m§i sinh. ñây
là cái mà Çåo gia g†i là ‘’k‰t thánh
thai ‘’, và thành ‘’thai tÙc’’, tÙc là tu
lâu bøng së to nhÜ có thai, và bøng chuy‹n Ƕng nhÜ có thai cº Ƕng. Các võ
phái thÜ©ng luyŒn cách này.
Cách
luyŒn Çan ÇiŠn này cÛng giÓng nhÜ luyŒn yoga chû trÜÖng nín thª cho tim ngÜng
thª, Ç‹ tim b§t mŒt, con ngÜ©i trÜ©ng sinh bÃt tº. Theo thi‹n ki‰n, nín thª làm
cho tim y‰u, nhÎp måch gia tæng, së Çi ljn cao huy‰t áp. Nh»ng ai tim và huy‰t
áp có vÃn ÇŠ thì không nên tÆp. N‰u thích nên hít thª bình thÜ©ng và tܪng Çan
ÇiŠn mà không ngÜng thª tåi Çan ÇiŠn.
5. Quán ƒn ñÜ©ng
TÆp trung tÜ tܪng vào Ãn ÇÜ©ng, tÙc vÎ trí gi»a hai ÇÀu lông mày. Hít thª bÌnh
thÜ©ng. Sau m¶t th©i gian së thÃy xuÃt hiŒn gi»a Ãn ÇÜ©ng hay trܧc m¡t, các
loåi ánh sáng lÀn lÜ®t thay Ç°i nhÜ xanh, vàng, tím, hÒng, tr¡ng. Có th‹ thÃy
nhiŠu màu hòa tr¶n tuyŒt ÇËp. ñåo gia g†i là linh quang hay huyŠn quang. Ánh
sáng phát hiŒn tÙc là tinh, khí, thÀn Çã h®p nhÃt,tåo thành m¶t sÙc månh, bÓc
lºa mà thành ra ánh sáng hiŒn ª Ãn ÇÜ©ng hay m¡t. Lúc này cÛng có th‹ thÃy
miŒng Ùa nܧc ng†t, và tai có th‹ nghe nh»ng âm thanh lå. NhÜng ch§ tham luy‰n
nh»ng cái Çó, hãy tÆp trung vào Ãn ÇÜ©ng.
6.
Quán kinh måch:
TÆp trung tÜ tܪng vào nhâm måch, ÇÓc
måch hay vòng châu thiên. ñây là phÜÖng pháp luyŒn võ, luyŒn khí công. Phäi có
thÀy dåy.
Trên Çây là gi§i thiŒu vài phép
thiŠn Ç‹ Ƕc giä có th‹ bi‰t r¢ng có rÃt nhiŠu phÜÖng pháp khác nhau
.
.
iI.
niŒm hÖi thª
ñÙc PhÆt Çã nhiŠu lÀn dåy phép quán hÖi thª. Phép
này cÛng g†i là niŒm hÖi thª, theo dõi hÖi thª, phép thª bøng, thiŠn minh sát ,
s° tÙc quán v. v. . . Ch» Pali là Anàpànasati..
1. PHÐ÷NG PHÁP
PhÜÖng pháp này rÃt th¿c t‰, tiŒn l®i
và h»u hiŒu. HÖi thª là nguÒn gÓc s¿
sÓng. Không ai có th‹ nhÎn thª vài phút.
HÖi thª là t¿ nhiên, không phäi
tìm ki‰m Çâu xa nhÜ phép niŒm tº thi phäi vào trong nghïa ÇÎa. Ai cÛng
bi‰t thª, cÀn thª, không nguy håi nhÜ phép quán m¥t tr©i.
Tuy niŒm hÖi thª là m¶t pháp môn, nhÜng
th¿c t‰, pháp môn này còn có nhiŠu danh xÜng khác nhau, và cách thÙc dÎ biŒt
tùy môn phái và thÀy. Chúng tôi xin trình bày nh»ng nét sÖ lÜ®c và cæn bän.
(1). Thª bình thÜ©ng, chú tr†ng vào hÖi
thª. ñó là cæn bän cûa phép thiŠn niŒm hÖi thª.
(2). M¶t vài môn phái thêm vào nh»ng
Ƕng tác phø nh¢m giúp thiŠn sinh khÕi nhàm chán và cÛng Ç‹ ‘’ c¶t niŒm låi’’,
không cho niŒm thoát ly:
+Trong khi thª vào, thª ra, ta nói
nhÅm:
Thª
vào dài, tôi bi‰t tôi thª vào dài
Thª
vào ng¡n, tôi bi‰t tôi thª vào ng¡n.
Thª
ra ng¡n, tôi bi‰t tôi thª ra ng¡n
Thª
ra dài, tôi bi‰t tôi thª ra dài.. . .
+Trong khi thª vào, thª ra, m¡t nhìn l‡
mÛi, hay Ãn ÇÜ©ng, hay chú vào tâm v. v. .
+Trong khi thª, ngÜ©i ta niŒm chú, hay
các hình tÜ®ng.
+Trong khi chú tr†ng hÖi thª, ngÜ©i ta
cÛng ljm nhÅm.
-Có phÜÖng pháp ljn tØ 1 ljn 5, rÒi
tæng lên 1-6, 1-9. Có th‹ ljm: vào ra là m¶t, vào ra là hai, vào ra là ba cho
ljn mÜ©i. RÒi ljm låi tØ 1 ljn 10, cÙ th‰ mãi. Có th‹ ljm tØ 1 ljn 10 rÒi tØ 10
ljn 1, rÒi 1-10 cÙ th‰ mãi. Cách khác là ljn 1 ljn m¶t træm, hai, ba træm, hay
vài ngàn, Ç‹ xem m‡i bu°i tÆp dài ÇÜ®c bao lâu. Khi nào ljm ÇÜ®c khoäng hai, ba
ngàn mà không lÀm lÅn là Çã khá. Cách ljm này là tÆp trung tÜ tܪng và cÛng là
cách luyŒn trí nh§.
Cách ljm nhÜ vÆy cÛng dÍ mŒt trí, cho
nên bu°i ÇÀu chÌ Ç‰n næm, mÜ©i phút, sau tæng nºa gi© ho¥c m¶t gi© là Çû. Sau
Çó ta chuy‹n tâm hoàn toàn vào hÖi thª.
CÛng có phÜÖng pháp ljm m¶t th©i gian
mà Çã nhuÀn nhuyÍn, nên chuy‹n qua hoàn toàn chú tâm vào hÖi thª, vào hÖi gió
vào ra hai l‡ mÛi.
2.
CHUY”N BIẾN
TÆp m¶t th©i gian, thân th‹ và tinh
thÀn ta có bi‰n chuy‹n.
-Ban ÇÀu ta thª khó khæn, sau m¶t th©i gian, hÖi thª nhË
nhàng hÖn, vi t‰ hÖn giÓng nhÜ m¶t ngÜ©i tÆp violon, ban ÇÀu âm thanh thô, khó
nghe, sau trª nên thanh tao, nghŒ thuÆt hÖn.
-Ban ÇÀu ta chû Ƕng thª ra hít vào,
b¢ng ph°i, sau m¶t th©i gian, ta së t¿ Ƕng chuy‹n qua thª bøng, nghïa là bøng
së t¿ Ƕng phình ra xËp vào.
-Sau m¶t th©i gian së xuÃt hiŒn các
thiŒn tܧng (
cÛng có nÖi g†i là ÇÎnh tܧng), nghïa là nh»ng hiŒn tÜ®ng báo cho bi‰t viŒc tu
tÆp Çã có chút k‰t quä, ti‰ng Pali là nimitta.
Tùy theo giới hạnh của từng
cá nhân, định
tướng sẽ hiện
ra. Mỗi cá nhân khác nhau
sẽ có những định tướng
khác nhau. Dù đang nhắm mắt, theo dõi hơi
thở, dần dần ta sẽ
thấy định tướng hiện
ra, có khi như là một làn chỉ trắng,
một luồng ánh sáng trắng, một ngôi sao, một
cụm mây hoặc một nhúm bông gòn. Nó có thể rất
to, trùm cả khuôn mặt, hoặc như
mặt trăng, mặt trời,
hoặc một viên ngọc thạch, một
viên ngọc trai. Lúc ban đầu, định tướng
có thể có màu tr¡ng, màu xanh, màu tím, màu vàng hay
màu cÀu vÒng. Ánh sáng này có th‹ hiŒn ª Ãn ÇÜ©ng, trܧc m¡t, gÀn m¶t tÃc ljn
xa vài thܧc, ho¥c ª trên trÀn nhà, ho¥c trên tÜ©ng. Nhìn vào ÇÎnh tܧng và
ti‰p tøc theo dõi hÖi thª thì ta së ti‰n bܧc khá hÖn. ´t lâu ta së cäm
thÃy an låc và t§i gÀn ÇÎnh. ThÜ©ng ÇÎnh tܧng xuÃt hiŒn rÃt chóng rÒi tan
bi‰n, rÒi låi hiŒn ra.
SÖ thiŠn :
N‰u chæm chú vào ÇÎnh
tܧng ÇÜ®c m¶t hai gi© thì chúng ta Çåt sÖ thiŠn, v§i næm trång thái g†i là næm
thiŠn chi (jhananga) :
- Tầm (vitakka): đem tâm hướng về định tướng,
- Tứ (vicara): bám sát vào định tướng,
- Hỷ (pity): ưa thích định tướng,
- Lạc (sukha): cảm giác an lạc, sung sướng khi tiếp xúc với định tướng,
- Nhất tâm (ekaggata): tập trung tâm về một điểm (đó là định tướng) . NgÜ©i ta còn g†i là ÇÎnh.
ñåt
sÖ thiŠn chÌ là bܧc ÇÀu vì chúng ta vÅn còn nhiŠu triŠn cái là:
- Tham dục (kamachanda)
- Sân hận (vyapada)
- Hôn trầm (thiramiddha)
- Trạo cữ (udhaccakukucca)
- Nghi ngờ (vicikiccha)
NhÎ
thiŠn:
Sau m¶t th©i gian, ta Çåt nhÎ thiŠn, ta
có h›, låc và nhÃt tâm. M§i vào ngÒi thiŠn Çã thÃy hÌ låc. H› låc kéo dài vài
phút rÒi tæng lên hàng gi©.
Tam
thiŠn:
låc và nhÃt tâm. (Låc là vui sܧng). Låc làm cho ta cäm giác mát mÈ, m§i ÇÀu vài phút sau kéo dài hàng gi©..
låc và nhÃt tâm. (Låc là vui sܧng). Låc làm cho ta cäm giác mát mÈ, m§i ÇÀu vài phút sau kéo dài hàng gi©..
TÙ thiŠn:
Låc và Xä, NiŒm. Xä niŒm thanh tÎnh nghïa là không chú tr†ng vào cäm giác n»a, hÖi thª trª nên nhË nhàng, nhÜ có nhÜ không. NgÜ©i nhË nhàng, Çåt trång thái khinh an. ñåt tÙ thiŠn là Çã có phép thÀn thông, nhÜng phép thÀn thông tÒn tåi ít lâu rÒi së mÃt nhÜ hoa nª m¶t th©i. PhÆt giáo không cÀu thÀn thông. ñØng mê Ç¡m thÀn thông. ñØng Çem thÀn thông Ç‹ cÀu danh l®i. Nên nh§ r¢ng m¶t sÓ ngÜ©i t¿ nhiên có thÀn thông, ho¥c h†c phép phù thûy cÛng Çåt thÀn thông. Còn ngÒi thiŠn rÃt lâu m§i Çåt thÀn thông.
ñåt tÙ thiŠn rÒi còn nhiŠu bÆc khác n»a. Tuÿ nghiŒp cûa m‡i cá nhân , k‰t quä së ljn nhanh, trong m¶t vài ngày, vài tháng h†¥c vài næm, ho¥c rÃt chÆm vài chøc næm. Tuy nhiên, ta nên nh§ nh»ng ÇiŠu sau:
Låc và Xä, NiŒm. Xä niŒm thanh tÎnh nghïa là không chú tr†ng vào cäm giác n»a, hÖi thª trª nên nhË nhàng, nhÜ có nhÜ không. NgÜ©i nhË nhàng, Çåt trång thái khinh an. ñåt tÙ thiŠn là Çã có phép thÀn thông, nhÜng phép thÀn thông tÒn tåi ít lâu rÒi së mÃt nhÜ hoa nª m¶t th©i. PhÆt giáo không cÀu thÀn thông. ñØng mê Ç¡m thÀn thông. ñØng Çem thÀn thông Ç‹ cÀu danh l®i. Nên nh§ r¢ng m¶t sÓ ngÜ©i t¿ nhiên có thÀn thông, ho¥c h†c phép phù thûy cÛng Çåt thÀn thông. Còn ngÒi thiŠn rÃt lâu m§i Çåt thÀn thông.
ñåt tÙ thiŠn rÒi còn nhiŠu bÆc khác n»a. Tuÿ nghiŒp cûa m‡i cá nhân , k‰t quä së ljn nhanh, trong m¶t vài ngày, vài tháng h†¥c vài næm, ho¥c rÃt chÆm vài chøc næm. Tuy nhiên, ta nên nh§ nh»ng ÇiŠu sau:
-RÃt
lâu m§i có m¶t PhÆt ra Ç©i. Với một số nào đó có thể đốn ngộ, trong một
thời gian ngắn đã thành tựu. Còn đa số công phu tu tập phải lâu dài:
Nhân sinh thành Phật dễ đâu,
Tu hành cứu khổ rồi sau mới thành(Quan Âm Thị Kính)
Nhân sinh thành Phật dễ đâu,
Tu hành cứu khổ rồi sau mới thành(Quan Âm Thị Kính)
-Không phäi vào ÇÜ®c vài bÆc thiŠn mà Çã có trí tuŒ. Trí tuŒ trong thiŠn
khác v§i trí tuŒ th‰ gian. ñåt vài bÆc thiŠn, ÇØng tܪng là Çã giÕi hÖn ti‰n
sï!
-ñåt vài bÆc thiŠn, dØng cho mình là kim cÜÖng bÃt hoåi. LuÆt cûa PhÆt giáo
là sinh lão bŒnh tº, dù chÙng ng¶ vài bÆc thiŠn rÒi cÛng bŒnh và ch‰t.
Tuy nhiên khi chÙng ng¶ thiŠn có th‹ Çåt H»u dÜ y Ni‰t bàn trong hiŒn tåi,
thân tâm së an låc, và thành quä thiŠn n‰u chÜa vào Ni‰t Bàn thì sau khi ch‰t
së không phäi dža ÇÎa ngøc, súc sinh và ngã qu›.
Chúng tôi xin ghi låi væn bän Çoån kinh trong
TÜÖng Ðng B¶ Kinh tÆp V:
TÜÖng Ưng HÖi Thª
Vô, HÖi Thª Ra
- Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn thời có quả lớn, có lợi ích lớn. Thế nào là một pháp? Niệm hơi thở vô, hơi thở ra. Và này các Tỷ-kheo, niệm hơi thở vô, hơi thở ra, tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào thời có quả lớn, có lợi ích lớn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến chỗ nhà trống, ngồi kiết-già, lưng thẳng, đặt niệm trước mặt; vị ấy chánh niệm thở vô, chánh niệm thở ra.
Thở vô dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở vô dài". Thở ra dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra dài". Thở vô ngắn, vị ấy rõ biết : "Tôi thở vô ngắn". Thở ra ngắn, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập."Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
Tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo, làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời có quả lớn, có lợi ích lớn.
( Thiên ñại Phẩm. [54] Chương X)
Sau Çây là m¶t Çoån khác vŠ phép tÆp thª vào, thª ra trong Trung B¶ Kinh III, cÛng do PhÆt truyŠn dåy
118. Kinh NhÆp tÙc, XuÃt tÙc niŒm
(Kinh Quán niŒm hÖi thª)
(Kinh Quán niŒm hÖi thª)
Như vầy tôi nghe.
Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo sống chuyên tâm, chú tâm tu tập nhập tức xuất tức niệm.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết-già, lưng thẳng và trú niệm trước mặt. Chánh niệm, vị ấy thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra.
Thở vô dài, vị ấy biết: "Tôi thở vô dài". Hay thở ra dài, vị ấy biết: "Tôi thở ra dài". Hay thở vô ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở vô ngắn". Hay thở ra ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
Nhập tức xuất tức niệm, này các Tỷ-kheo, tu tập như vậy, làm cho sung mãn như vậy, được quả lớn, được công đức lớn. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là nhập tức xuất tức niệm được tu tập? Như thế nào là làm cho sung mãn, khiến bốn niệm xứ được viên mãn?
Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thở vô dài, vị ấy biết: "Tôi thở vô dài". Hay khi thở ra dài, vị ấy biết "Tôi thở ra dài". Hay thở vô ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở vô ngắn". Hay khi thở ra ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
trong khi tùy quán thân trên thân, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
trong khi tùy quán thân trên thân, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Này các Tỷ-kheo, đối với các thân, Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thân trên thân, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nghĩ: "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán thọ trên các thọ, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đối với các cảm thọ, Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do vậy này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thọ trên các cảm thọ, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nghĩ: "Cảm giác tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tu tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm Thiền định, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm Thiền định, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán tâm trên tâm, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời.
Này các Tỷ-kheo, sự tu tập nhập tức xuất tức niệm không thể đến với kẻ thất niệm, không có tỉnh giác. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán tâm trên tâm, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Khi nào này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nghĩ: "Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham.... quán đoạn diệt... quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán trên các
pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Vị ấy, do đoạn trừ tham ưu, sau khi thấy với trí tuệ, khéo nhìn sự vật với niệm xả ly. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán pháp trên các pháp, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Vị ấy, do đoạn trừ tham ưu, sau khi thấy với trí tuệ, khéo nhìn sự vật với niệm xả ly. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán pháp trên các pháp, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Nhập tức xuất tức niệm, này các Tỷ-kheo, được tu tập như vậy, được làm cho sung
mãn như vậy, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn.
ChÜÖng xxII
KINH NGHIỆM THI“N
Trong mọi công việc, thiên hạ đều cần kinh nghiệm. Văn minh ngày nay
là do ngàn năm tich lũy kinh nghiệm. Lớp đi trước truyền kinh nghiệm lại
cho lớp sau để cố gắng phải triển cái tốt và tránh xa cái xấu, cái
sai. Trong ki‰p này, ÇÙc PhÆt Çã chÙng
ng¶ Ni‰t Bàn. Ngài Çã thuÆt låi nhiŠu lÀn nh»ng kinh nghiŒm cûa Ngài:
Và này
Aggivessana, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không
tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này
Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm
Ta.
Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana,
như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Aggivessana,
như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp.
Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này". Như vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Aggivessana, đó là
minh thứ nhất Ta đã chứng được trong đêm canh một, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh
sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.
Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và š, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến; những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào làm
những thiện hạnh về thân, lời và š, không phỉ báng
các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến; những vị này sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú,
cõi trời, trên đời này.
Như vậy Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh.
Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này Aggivessana, đó là minh thứ hai Ta đã chứng được trong đêm canh giữa, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này Aggivessana, đó là minh thứ hai Ta đã chứng được trong đêm canh giữa, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Ta biết như thật: "ñây là Khổ",
biết như thật: "ñây là Nguyên nhân của khổ", biết như thật: "ñây là sự Diệt khổ", biết như thật: "ñây là Con đường đưa đến diệt khổ", biết như thật: "ñây là những lậu hoặc", biết như thật: "ñây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật: "ñây là sự diệt trừ các lậu hoặc", biết như thật: "ñây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. ñối với tự thân đã giải thoát như vậy, Ta khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát."
Ta đã biết: "Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa".
Này Aggivessana, đó là minh thứ ba mà Ta đã chứng được trong canh cuối, vô minh diệt, minh
sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do
Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. (Trung Bộ Kinh I. 36. ñại kinh Saccaka)Ta đã biết: "Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa".
ñÙc PhÆt Çã qua b© bên kia, còn chúng
ta vÅn ÇÙng b© bên này. Møc tiêu chÜa Çåt, chúng ta còn là nh»ng hành giä Çang
lang thang trên con ÇÜ©ng thiên lš. Tuy nhiên, m‡i ngày m‡i Çi, hành nhân së
ljn gÀn Çích hÖn. M¶t sÓ ngã xuÓng trong cu¶c vån lš trÜ©ng chinh, nhÜng m¶t sÓ
có lë thành BÒ tát hay Çã Çåt ljn tam, tÙ thiŠn. Tuy nhiên nguyên t¡c chung là
có nhân thì có quä, trên ÇÜ©ng tu tÆp,
chúng ta së thành t¿u không nhiŠu thì ít.
Theo truyền thống xưa nay, các bÆc thÀy gi» kín
các thành t¿u tu tÆp vì s® ÇÒ ÇŒ nÄy sinh v†ng tâm ho¥c có kÈ l®i døng mà khoe
khoang lØa bÎp.
Kinh Viên Giác ( chương IX) có nói :Thiện nam tử, kỳ tâm nãi chí chứng ư Như Lai, tất cảnh liễu tri thanh tịnh Niết-bàn, giai thị ngã tướng.
DỊCH :Này thiện nam, cho đến tâm kia chứng quả Như Lai hoặc biết rõ Niết-bàn thanh tịnh rốt ráo đều là tướng ngã.
GIẢNG : Tâm kia là tâm còn thấy có ngã, hoặc nói tôi đắc quả Phật, hoặc nói tôi thấycó tướng Niết-bàn thanh tịnh… cũng là tâm thấy có ngã. Do đây chúng ta mới thấy rõ ý nghĩa thâm sâu của lời Phật nói: “Không thấy có pháp A-nậu-đa-la Tammiệu-tam-bồ-đề để đắc nên Phật Nhiên Đăng mới thọ ký ta thành Phật. Vậy ai tu hành mà cứ khoe tôi chứng cái này đắc cái kia, sự chứng đắc đó là hiện thân của bản ngã, mà hiện thân của bản ngã là vô minh chớ không phải chứng đắc. Người thế gian thì hay nghe, hễ ai khoe chứng khoe đắc thì lễ bái, cho rằng vị đó là Bồ-tát là Phật. Người biết đạo nghe nói chứng đắc là bỏ đi liền, vì đó là cái tướng của ma quái chớ không phải của người tu chân chánh. Nhưng rất tiếc một số Phật tử thuần thành cũng bị lầm, hễ nghe ai nói chứng đắc hay nói chuyện quá khứ vị lai là bái phục, và cũng thích tìm thầy để hỏi chuyện quá khứ vị lai nữa. Như vậy mớibiết không phải người thế gian lầm mà người trong đạo cũng lầm (Thích Thanh Từ dịch và giải)
Quan niệm trên có phần đúng nhưng cũng có phần sai lệch. Ngày xưa, một số người có thói quen giấu nghề. Nghề làm bánh, nghề làm tương, nghề võ, ngay cả "nghề tu hành", nhiều nơi luôn giữ "bí mật nghề nghiệp" . Nhiều gia đình chỉ truyền cho con trai, không truyền cho con gái. Thầy võ không truyền hết nghề cho đệ tử vì sợ đệ tử phản thầy. Thầy chỉ truyền nghề cho những đệ tử thân tín hoặc khéo nịnh hót!
Đó là những trường hợp đặc biệt. Còn đa số dân chúng, thường trao đổi kinh nghiệm với nhau như kinh nghiệm thời tiết, kinh nghiệm trồng trọt, kinh nghiệm đối nhân xử thế:
-Trời nắng tốt dưa, trời mưa tốt lúa.
-Thâm đông, hồng tây, dựng may,
Ai ơi ở lại dăm ngày sẽ đi"
-Ăn mặn ngấm lâu, cày sâu tốt lúa
-Lúa mùa thì cấy cho sâu
Lúa chiêm thì gẩy cành dâu mới vừa.
-Con ơi nhớ lấy câu này,
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua"
-Những người ti hí mắt lươn,
Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người"
Trong h†c tÆp cũng như trong đời sống, con người cÀn phải trao Ç°i kinh nghiŒm. Như trên đã nói, chính đức Phật đã thuật lại kinh nghiệm của Ngài trên đường tu hành.Sau này các sư cũng truyền bá kinh nghiệm của họ cho thế gian biết (sẽ trình bày ở phần dưới). Trình bày kinh nghiệm và khoe khoang là hai việc khác nhau. Khoe khoang và dối trá khác nhau. Trên ÇÜ©ng Çi, trong rØng sâu hay trên ÇÜ©ng thiên lš, ta cÀn hÕi thæm khách vãng lai Ç‹ bi‰t ÇÜ©ng còn xa bao nhiêu và Çi có Çúng ÇÜ©ng hay låc ÇÜ©ng. Vì vÆy, chúng tôi chép låi các kinh nghiŒm Çã thu thÆp qua sách vª và thiŒn trí thÙc, Ç‹ hành giä khÕi lo âu ngÀn ngåi.
Chúng tôi trong khi hành thiền, có nhiều thắc mắc mà không biết hỏi ai. Tâm trạng rất bối rối và khốn khổ. Chúng tôi nghe kể rằng có bà già nọ tu thiền lâu năm. Một hôm ngồi thiền bỗng nghe ở lưng chuyển động một cái rột. Bà đi hỏi các thầy nhưng chẳng thầy nào trả lời được. Bà sợ quá bèn bỏ tu thiền. Uổng quá. Bà này đã thành tựu ít nhiều, từ giai đoạn bất động đã đi đến giai đoạn dộng như chúng tôi sẽ nói dưới đây.Động cũng có nhiều hình thái và có thể kéo dài năm, mười năm tuỳ duyên.
Do bän chÃt con ngÜ©i khác nhau, do nhân duyên ki‰p trܧc khác nhau, do phÜÖng pháp khác nhau, và do n‡ l¿c khác nhau, chúng ta thu hoåch nh»ng k‰t quä khác nhau. Có nhiều cách tu thiền, và có rất nhiều kinh nghiệm khác nhau, không ai từng trải hết. Nh»ng ÇiŠu trình bày sau Çây chÌ là nh»ng mô hình tiêu bi‹u.
Kinh Viên Giác ( chương IX) có nói :Thiện nam tử, kỳ tâm nãi chí chứng ư Như Lai, tất cảnh liễu tri thanh tịnh Niết-bàn, giai thị ngã tướng.
DỊCH :Này thiện nam, cho đến tâm kia chứng quả Như Lai hoặc biết rõ Niết-bàn thanh tịnh rốt ráo đều là tướng ngã.
GIẢNG : Tâm kia là tâm còn thấy có ngã, hoặc nói tôi đắc quả Phật, hoặc nói tôi thấycó tướng Niết-bàn thanh tịnh… cũng là tâm thấy có ngã. Do đây chúng ta mới thấy rõ ý nghĩa thâm sâu của lời Phật nói: “Không thấy có pháp A-nậu-đa-la Tammiệu-tam-bồ-đề để đắc nên Phật Nhiên Đăng mới thọ ký ta thành Phật. Vậy ai tu hành mà cứ khoe tôi chứng cái này đắc cái kia, sự chứng đắc đó là hiện thân của bản ngã, mà hiện thân của bản ngã là vô minh chớ không phải chứng đắc. Người thế gian thì hay nghe, hễ ai khoe chứng khoe đắc thì lễ bái, cho rằng vị đó là Bồ-tát là Phật. Người biết đạo nghe nói chứng đắc là bỏ đi liền, vì đó là cái tướng của ma quái chớ không phải của người tu chân chánh. Nhưng rất tiếc một số Phật tử thuần thành cũng bị lầm, hễ nghe ai nói chứng đắc hay nói chuyện quá khứ vị lai là bái phục, và cũng thích tìm thầy để hỏi chuyện quá khứ vị lai nữa. Như vậy mớibiết không phải người thế gian lầm mà người trong đạo cũng lầm (Thích Thanh Từ dịch và giải)
Quan niệm trên có phần đúng nhưng cũng có phần sai lệch. Ngày xưa, một số người có thói quen giấu nghề. Nghề làm bánh, nghề làm tương, nghề võ, ngay cả "nghề tu hành", nhiều nơi luôn giữ "bí mật nghề nghiệp" . Nhiều gia đình chỉ truyền cho con trai, không truyền cho con gái. Thầy võ không truyền hết nghề cho đệ tử vì sợ đệ tử phản thầy. Thầy chỉ truyền nghề cho những đệ tử thân tín hoặc khéo nịnh hót!
Đó là những trường hợp đặc biệt. Còn đa số dân chúng, thường trao đổi kinh nghiệm với nhau như kinh nghiệm thời tiết, kinh nghiệm trồng trọt, kinh nghiệm đối nhân xử thế:
-Trời nắng tốt dưa, trời mưa tốt lúa.
-Thâm đông, hồng tây, dựng may,
Ai ơi ở lại dăm ngày sẽ đi"
-Ăn mặn ngấm lâu, cày sâu tốt lúa
-Lúa mùa thì cấy cho sâu
Lúa chiêm thì gẩy cành dâu mới vừa.
-Con ơi nhớ lấy câu này,
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua"
-Những người ti hí mắt lươn,
Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người"
Trong h†c tÆp cũng như trong đời sống, con người cÀn phải trao Ç°i kinh nghiŒm. Như trên đã nói, chính đức Phật đã thuật lại kinh nghiệm của Ngài trên đường tu hành.Sau này các sư cũng truyền bá kinh nghiệm của họ cho thế gian biết (sẽ trình bày ở phần dưới). Trình bày kinh nghiệm và khoe khoang là hai việc khác nhau. Khoe khoang và dối trá khác nhau. Trên ÇÜ©ng Çi, trong rØng sâu hay trên ÇÜ©ng thiên lš, ta cÀn hÕi thæm khách vãng lai Ç‹ bi‰t ÇÜ©ng còn xa bao nhiêu và Çi có Çúng ÇÜ©ng hay låc ÇÜ©ng. Vì vÆy, chúng tôi chép låi các kinh nghiŒm Çã thu thÆp qua sách vª và thiŒn trí thÙc, Ç‹ hành giä khÕi lo âu ngÀn ngåi.
Chúng tôi trong khi hành thiền, có nhiều thắc mắc mà không biết hỏi ai. Tâm trạng rất bối rối và khốn khổ. Chúng tôi nghe kể rằng có bà già nọ tu thiền lâu năm. Một hôm ngồi thiền bỗng nghe ở lưng chuyển động một cái rột. Bà đi hỏi các thầy nhưng chẳng thầy nào trả lời được. Bà sợ quá bèn bỏ tu thiền. Uổng quá. Bà này đã thành tựu ít nhiều, từ giai đoạn bất động đã đi đến giai đoạn dộng như chúng tôi sẽ nói dưới đây.Động cũng có nhiều hình thái và có thể kéo dài năm, mười năm tuỳ duyên.
Do bän chÃt con ngÜ©i khác nhau, do nhân duyên ki‰p trܧc khác nhau, do phÜÖng pháp khác nhau, và do n‡ l¿c khác nhau, chúng ta thu hoåch nh»ng k‰t quä khác nhau. Có nhiều cách tu thiền, và có rất nhiều kinh nghiệm khác nhau, không ai từng trải hết. Nh»ng ÇiŠu trình bày sau Çây chÌ là nh»ng mô hình tiêu bi‹u.
-Chúng ta së träi qua nhiŠu thành quä,
lên cao tØng bÆc. ñiŠu này do hành giä t¿ bi‰t nhÜ m¶t ngÜ©i nhúng tay vào
nܧc, t¿ mình së bi‰t nóng lånh.
-Thành quä, chuy‹n bi‰n nhanh chÆm do ª
k‰t quä ki‰p trܧc và công phu hiŒn tåi, có th‹ là tiŒm ng¶ ( giác ng¶ tØ tØ)
hay ÇÓn ng¶ ( giác ng¶ nhanh), nhÜng Ça
sÓ là tiŒm ng¶.
-Qua m¶t th©i gian tu tÆp, vài næm hay
vài chøc næm, n‰u b§t tính tham sân si, tính tình hòa nhã, thân tâm an låc, tÙc
có k‰t quä tÓt. N‰u nóng giÆn hÖn, tham lam hÖn, nhÃt là t¿ xem mình Çã thành
PhÆt, thành BÒ Tát, hay ca hát, Çi lang thang, ho¥c nói nhiŠu, tÙc là Çã låc
vào ma Çåo.
-Sau vài næm tu tÆp, s¡c diŒn tÜÖi tÓt,
không u ám, hÖi thª ngày càng nhË nhàng hÖn trܧc, là có ti‰n b¶.
- Có thể sau một thời gian tập ( vài tháng hay vài năm), bạn sẽ thấy dễ dàng khi ngồi thiền, không đau đớn và mỏi mệt thân xác.
-Bạn sẽ thấy âm thanh hoặc tiếng nói bên tai như tiếng nhạc, tiếng chuông hoặc âm thanh kỳ bí.
-Bạn sẽ có cảm giác nước ngọt chảy ra ở miệng.
-Bạn có cảm giác như ngưng thở trong vài giây, vài phút , và nghĩ rằng không cần thở mà vẫn sống.
-Bạn sẽ có cảm giác an vui hạnh phúc dù chỉ một vài giây.
- Có thể sau một thời gian tập ( vài tháng hay vài năm), bạn sẽ thấy dễ dàng khi ngồi thiền, không đau đớn và mỏi mệt thân xác.
-Bạn sẽ thấy âm thanh hoặc tiếng nói bên tai như tiếng nhạc, tiếng chuông hoặc âm thanh kỳ bí.
-Bạn sẽ có cảm giác nước ngọt chảy ra ở miệng.
-Bạn có cảm giác như ngưng thở trong vài giây, vài phút , và nghĩ rằng không cần thở mà vẫn sống.
-Bạn sẽ có cảm giác an vui hạnh phúc dù chỉ một vài giây.
-Sách ñÒng Mông ChÌ Quán cûa Çåi sÜ Trí Khäi và nhiŠu tài liŒu cho bi‰t có nhiŠu thiŒn cæn
phát khªi trong khi tu tÆp:
(1). Khinh : cäm giác thân th‹ nhË
nhàng
(2). Noãn : Ãm áp
(3). Lãnh ( lånh)
(4). Tr†ng ( n¥ng nŠ)
(5). ñ¶ng ( cº Ƕng)
(6).
NgÙa
(7). Rít
(8). TrÖn
-Sau
m¶t th©i gian, ta qua rÃt nhiŠu bi‰n chuy‹n. Lúc nào ta có cäm giác rùng mình,
toàn thân chuy‹n Ƕng là Çåt m¶t bܧc quan tr†ng. Có th‹ nói Çây là giai Çoån
chót cûa chuy‹n Ƕng. Kinh DÎch nói c¿c Ƕng sinh tïnh, c¿c tïnh sinh Ƕng. Sau
m¶t th©i gian chuy‹n Ƕng, cÖ th‹ Ƕt nhiên im l¥ng, ta có cäm giác thanh tïnh,
an nhiên và sÓng trong m¶t th‰ gi§i trong sáng và an bình. Trong væn chÜÖng, š niŒm th©i gian và không gian ngÜng džng
là Çúng cho trÜ©ng h®p này.
Chúng ta cäm thÃy m†i hoåt Ƕng ngÜng låi, không cÀn thª vÅn sÓng. Cäm
giác này xäy ra vài giây, ho¥c kéo dài vài
phút. Cái đó tùy duyên.
Tiểu ngộ là bạn đã thành công trong thiền định nhưng chưa phải là thánh, là Bồ tát . Một bạn tôi, GS. Nguyễn Hữu Doãn đã có kinh nghiệm tiểu ngộ, rungđộng toàn thân khi đọc kinh Phật, và một người khác cũng đã rúng động toàn thân như đi vào cõi tiên khi xem đám nam nữ thanh niên trình diễn ca vũ ở một phố thị, nhưng ông cho biết ta vẫn là ta, vẫn đói ăn khát uống, nhưng cũng có tiến bộ chút đỉnh như bớt nóng giận và thấy an lạc hơn. . Con đường đi còn dài, thép đã tôi nhưng chưa rèn được gươm, đá gần hóa ngọc nhưng mới được một phần triệu, đất sinh vàng nhưng vàng còn non, phải qua thời gian rất lâu, ngàn năm hay vạn kiếp mới thành vàng mười.
M¶t th©i gian n»a, s¿ an låc kéo dài suÓt bu°i tÆp. Ban ÇÀu ta phäi ngÒi rÃt lâu m§i Çåt an låc ho¥c ÇÎnh nhÜng sau, b¡t ÇÀu ngÒi thiŠn là Çåt an låc, là vào ÇÎnh ngay.
Thiền Quan Sách Tấn, cho biết khi chưa đạt đến đại ngộ có thể trải
qua mấy mươi lần tiểu ngộ. Tuy nhiên, tiểu ngộ
cũng có cạn có sâu, trong Truyền Đăng Lục cũng có nhiều trường hợp
như vậy. Nói về đại ngộ, theo ngài Huỳnh Long Thiền sư không chia thành
nhiều lớp; Huỳnh Long Thiền sư có 3 cửa về đại ngộ, gọi là "Huỳnh
Long Tam Quan", ấy là sơ quan, trùng quan và mạc hậu lao quan. Người
tham thoại đầu đến nghi tình vỡ thì gọi là "phá bổn tham", tức
đã thấu được sơ quan, cũng gọi là "Tổ sư quan". Hễ phá được
bổn tham thì như bậc A La Hán, siêu xuất luân hồi. Nhưng Lai Quả thiền
sư có nói :" Phá được sơ quan thấy pháp thân, phá được trùng quan
chứng pháp thân, phá được mạc hậu lao quan là thấu pháp thân". Trên đây nói sơ qua tình
hình của tiểu ngộ đại ngộ, sau khi ngộ rồi chỉ có mình biết, người
xung quanh chẳng hiểu được, nên nói "Như người uống nước, lạnh nóng
tự biết". Lại, ngộ rồi muốn nói cho người chưa ngộ biết cũng chẳng
được, như người chưa ăn qua đường thì chẳng biết vị ngọt là thếnào,
dù người đã ăn qua giải thích từ sáng đến chiều cũng chẳng thể diển
tả cho biết được. Muốn cho hiểu, chỉ cần đem một ít đường cho nếm
qua thì "Ổ" lên một tiếng , hóa ra ngọt là như thế ! Đối với
vật chất đã như vậy, người có kinh nghiệm nói với người không có
kinh nghiệm cũng chẳng được, huống là kinh nghiệm về tinh thần, Làm sao
nói cho người khác biết ! Chỉ có người đã ngộ rồi nói với nhau mới
biết, cũng như tôi đã ăn qua đường, nói về chất ngọt với người đã
ăn qua thì y biết liền.
Tiểu ngộ là bạn đã thành công trong thiền định nhưng chưa phải là thánh, là Bồ tát . Một bạn tôi, GS. Nguyễn Hữu Doãn đã có kinh nghiệm tiểu ngộ, rungđộng toàn thân khi đọc kinh Phật, và một người khác cũng đã rúng động toàn thân như đi vào cõi tiên khi xem đám nam nữ thanh niên trình diễn ca vũ ở một phố thị, nhưng ông cho biết ta vẫn là ta, vẫn đói ăn khát uống, nhưng cũng có tiến bộ chút đỉnh như bớt nóng giận và thấy an lạc hơn. . Con đường đi còn dài, thép đã tôi nhưng chưa rèn được gươm, đá gần hóa ngọc nhưng mới được một phần triệu, đất sinh vàng nhưng vàng còn non, phải qua thời gian rất lâu, ngàn năm hay vạn kiếp mới thành vàng mười.
M¶t th©i gian n»a, s¿ an låc kéo dài suÓt bu°i tÆp. Ban ÇÀu ta phäi ngÒi rÃt lâu m§i Çåt an låc ho¥c ÇÎnh nhÜng sau, b¡t ÇÀu ngÒi thiŠn là Çåt an låc, là vào ÇÎnh ngay.
-Ban ÇÀu, ta nhÆn thÃy rõ s¿ tinh cÀn
và ti‰n b¶, nhÜng sau dù ta tích c¿c tu tÆp, låi thÃy m†i s¿ trª nên bình thÜ©ng. ñó là ta Çã lên m¶t bÆc
chÙ không phäi thoái b¶. M¶t vÎ Çåi sÜ nói: ‘’Lúc
m§i tÆp, thÃy sông không là sông, núi không là núi. TÆp m¶t th©i gian thì thÃy núi
là núi, sông là sông’’. ñó là k‰t quä cûa tu tÆp, là Çåt ÇÜ®c ‘’bình thÜ©ng
tâm’’.
Khổng tử khi về già than: " Từ lâu, ta không mộng thấy Chu Công"
Lúc trẻ, Khổng tử tích cực với đạo, cho nên trong mộng thường thấy Chu Công. Về già thì trở lại bình thường tâm, cho nên không thấy Chu Công nữa.
Khổng tử khi về già than: " Từ lâu, ta không mộng thấy Chu Công"
Lúc trẻ, Khổng tử tích cực với đạo, cho nên trong mộng thường thấy Chu Công. Về già thì trở lại bình thường tâm, cho nên không thấy Chu Công nữa.
-Tu tÆp m¶t th©i gian thì ta có th‹ Çåt
nh»ng khä næng Ç¥c biŒt, ho¥c có thÀn thông, tùy trình Ƕ cao thÃp. Ta có th‹
tự nhiên làm thÖ, có tài biŒn luÆn, tiên Çoán tÜÖng lai. . .ñó là hoa nª
m¶t th©i. NhÜng hoa nª rÒi hoa tàn, thÀn thông rÒi së bi‰n mÃt. ñØng
tham luy‰n thÀn thông vì thÀn thông dÍ mÃt, và không là møc Çích giäi thoát cûa
PhÆt giáo.
Một vài người cho rằng ngồi thiền cũng gặp tai nạn. Một số người hoá điên. Có lẽ những người này có sẵn bệnh tâm thần, hoặc bị ma quỷ ám. Trong vạn sư ni, ai cũng khôn ngoan lanh lợi, chả thấy ai điên, ngoại trừ Tế Điên tăng! Trái lại, nhiều người tập thiền để chữa bệnh. Nếu khi tập thiền mà mắc bệnh, có thể do nhiều nguyên nhân.
Cũng có thể tập sai. Cũng có thể tập những pháp môn không thích hợp. Cũng có thể dio tham thần thông mà nôn nóng. Cũng có thể quá hăng say ra ngoài khuôn khổ của trung đạo.
Một số cho rằng nếu tâm trung định lực vào đan điền thì sẽ tham nhục dục.Tập nhìn mặt trời có thể bị hư mắt. Thời Phật tại thế, nhiểu đệ tử tập pháp môn quán xác chết ( quán bất tịnh) cho nên sinh ra chán đời muốn tự tử. Vì vậy, Phật dạy họ pháp môn niệm hơi thở.
Ngồi thiền lâu thì lưng cong xuống, hoặc thân hình lệch, phải điều chỉnh lại. Đau chân tay, mệt mỏi là điều khó tránh lúc đầu. Nếu khi tập mà đau ở một chỗ nào, như ngực, bụng nên nghỉ tập, lấy tay xoa bóp chỗ đau. Nếu vẫn cứ đau, nên đổi pháp môn. Tập thở ba thời ( thở vào, ngưng, thở ra), nếu ngưng lâu sẽ có ảnh hưởng xấu đến tim mạch. Nên đi đo huyết áp thường xuyên. Có người nói khi ngồi thiền, nghe tiếng trống dục cho hồn đi. Không phải vậy. Đó là trạng thái cao huyết áp cho nên khi tĩnh tâm cao độ có thể nghe nhịp đập của con tim.
Khi tập thiền, nếu nghe tiếng nói bên tai, mình hãy lắng nghe. Nếu đó là lời tiên tri, ta thử xem có ứng nghiệm hay không. Nếu không ứng nghiệm thì đừng nghe. Nếu nghe xúi dục làm điều xấu, điều ác thì cương quyết cự tuyệt.
Kinh Phật cũng nó đến những sai lầm, những nghiệp chướng khi tu thiền.Và các kinh cũng cảnh cáo ta phải bình tâm khi thấy Phật hay ma quỷ xuất hiện. Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển 9, có nói đến ngũ ấm ma và ma quỷ đến phá trong khi tu tập. Đây là đoạn đầu Ngũ ấm, tức ma sắc ấm:
Chúng ta cần phải suy nghĩ về đoạn này. Các ý tưởng trong kinh văn Bắc Tông và các sư Bắc Tông nói trên là nhằm cảnh giác ta hoang tưởng khi ngồi thiền. Vì vọng tưởng mà sinh ra huyển cảnh như đứa bé mong mẹ đi chợ về cho nên thấy bóng ai xa xa cũng cho là mẹ đã về.
Tuy nhiên nói như thế không có nghĩa là phủ nhận việc Phật, Bồ tát thị hiện. Trong các tôn giáo thường có sự linh ứng như Chúa Trời, Đức Mẹ hiện ra. Những người vượt biên đã nghe tiếng kêu khóc trên biển và thấy Quan Âm bồ tát, đức Mẹ xuất hiện. Nhưng việc thị hiện này rất hiếm hoi, thường thì ta thấy Phật, Bồ tát, thần thánh trong mộng.
Đức Phật có nói:
Do thấy Pháp nên thấy Ta. ( TIEU B¶ I, Kinh PhÆt thuy‰t nhÜ vÆy, ChÜÖng 3, phÄm 5 .489).
Câu này có nghĩa ai theo đúng lời Phật dạy là đệ tử chân chính của Phật, cũng có nghĩa là sẽ gần gũi với Phật, sẽ thấy Phật, sẽ về xứ Phật. Các Phật tử tin tưởng Quan Thế Âm có thể nghe tiếng kêu khổ của dân chúng và Bà sẽ thị hiện cứu giúp. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phẩm Phổ Môn có đoạn:
Sự
mong muốn được thấy Phật là mong muốn chính đáng của Phật tử cũng như
thần dân được mong gặp vua hiền. Mã Minh đã nói rằng Phật tử có thể thấy
Phật và Phật có thể hiện ra dưới nhiều dạng để hộ trì, để khuyên bảo
ta:
. có ngoại duyên là gặp các đức Phật, Bồ Tát, thiện trí thức v.v.. . dẫn dặt, chỉ dạy cho phương pháp tu hành thì hành giả cũng không thể tự mình đoạn trừ phiền não và tu chứng Niết Bàn được (Đại Thừa Khởi Tín Luận, 116).
Một vài người cho rằng ngồi thiền cũng gặp tai nạn. Một số người hoá điên. Có lẽ những người này có sẵn bệnh tâm thần, hoặc bị ma quỷ ám. Trong vạn sư ni, ai cũng khôn ngoan lanh lợi, chả thấy ai điên, ngoại trừ Tế Điên tăng! Trái lại, nhiều người tập thiền để chữa bệnh. Nếu khi tập thiền mà mắc bệnh, có thể do nhiều nguyên nhân.
Cũng có thể tập sai. Cũng có thể tập những pháp môn không thích hợp. Cũng có thể dio tham thần thông mà nôn nóng. Cũng có thể quá hăng say ra ngoài khuôn khổ của trung đạo.
Một số cho rằng nếu tâm trung định lực vào đan điền thì sẽ tham nhục dục.Tập nhìn mặt trời có thể bị hư mắt. Thời Phật tại thế, nhiểu đệ tử tập pháp môn quán xác chết ( quán bất tịnh) cho nên sinh ra chán đời muốn tự tử. Vì vậy, Phật dạy họ pháp môn niệm hơi thở.
Ngồi thiền lâu thì lưng cong xuống, hoặc thân hình lệch, phải điều chỉnh lại. Đau chân tay, mệt mỏi là điều khó tránh lúc đầu. Nếu khi tập mà đau ở một chỗ nào, như ngực, bụng nên nghỉ tập, lấy tay xoa bóp chỗ đau. Nếu vẫn cứ đau, nên đổi pháp môn. Tập thở ba thời ( thở vào, ngưng, thở ra), nếu ngưng lâu sẽ có ảnh hưởng xấu đến tim mạch. Nên đi đo huyết áp thường xuyên. Có người nói khi ngồi thiền, nghe tiếng trống dục cho hồn đi. Không phải vậy. Đó là trạng thái cao huyết áp cho nên khi tĩnh tâm cao độ có thể nghe nhịp đập của con tim.
Khi tập thiền, nếu nghe tiếng nói bên tai, mình hãy lắng nghe. Nếu đó là lời tiên tri, ta thử xem có ứng nghiệm hay không. Nếu không ứng nghiệm thì đừng nghe. Nếu nghe xúi dục làm điều xấu, điều ác thì cương quyết cự tuyệt.
Kinh Phật cũng nó đến những sai lầm, những nghiệp chướng khi tu thiền.Và các kinh cũng cảnh cáo ta phải bình tâm khi thấy Phật hay ma quỷ xuất hiện. Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển 9, có nói đến ngũ ấm ma và ma quỷ đến phá trong khi tu tập. Đây là đoạn đầu Ngũ ấm, tức ma sắc ấm:
l. A Nan, đang
trong lúc tham cứu diệu minh, quên cả tứ đại, bỗng sắc
thân ra vào các vật chất đều chẳng chướng ngại, ấy gọi
là sự sáng tỏ tràn ra trước mắt. Sự việc ấy chỉ là
công dụng tạm được như thế, chẳng phải chứng thánh;
chẳng tự cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt, nếu cho là
thánh, liền lọt vào tà ma.
2. Trong lúc
tham cứu diệu minh, thân như lưu ly, bỗng trong thân lấy ra
các loài giun sán mà thân vẫn y nguyên, chẳng bị thương tổn,
ấy gọi là sự sáng tỏ tràn ra hình thể, đây chỉ là do
tu hành tinh tấn tạm được như thế, chẳng phải chứng thánh;
chẳng tự cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt, nếu cho là
thánh, liền lọt vào tà ma.
3. Trong lúc
tham cứu diệu minh, khi ấy, ngoài sắc thân ra, hồn phách,
ý chí, tinh thần dung hòa lẫn nhau, bỗng trong hư không nghe
tiếng thuyết pháp, hoặc nghe mười phương chư Phật cùng
diễn mật nghĩa, đây gọi là hồn phách, ý chí thay phiên
nhau làm chủ khách, ly hợp lẫn nhau, thành tựu thiện chủng,
tạm được như thế, chẳng phải chứng thánh; chẳng tự
cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt, nếu cho là thánh, liền
lọt vào tà ma.
4. Trong lúc
tham cứu diệu minh, trong tâm sáng tỏ, phát ra ánh sáng, chiếu
khắp mười phương thành màu sắc Diêm Phù Đàn, tất cả
các loài đều hóa thành Như Lai. Bỗng thấy Phật Tỳ Lô Giá
Na ngồi trên đài Thiên Quang, ngàn Phật vây quanh, trăm ức
cõi Phật cùng hoa sen đồng thời hiện ra. Ấy gọi là việc
sở nhiễm của tâm hồn linh ngộ, ánh sáng của tâm chiếu
soi các thế giới, tạm được như vậy, chẳng phải chứng
thánh; chẳng tự cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt, nếu
cho là thánh, liền lọt vào tà ma.
5. Trong lúc
tham cứu diệu minh, quan sát chẳng ngừng, sức đè nén hàng
phục quá mức, bỗng trong hư không thành màu sắc bách bảo,
xanh vàng đỏ trắng đồng thời cùng khắp mười phương mà
chẳng chướng ngại nhau. Ấy gọi là sự dụng công đè nén
quá mức tạm được như thế, chẳng phải chứng thánh; chẳng
tự cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt, nếu cho là thánh,
liền lọt vào tà ma.
6. Trong lúc
tham cứu diệu minh, trong sáng chẳng loạn, bỗng lúc nửa đêm,
ở trong nhà đen tối, thấy rõ các vật chẳng khác ban ngày,
ấy gọi là tâm dụng đến chỗ vi tế, cái năng thấy trong
như lưu ly, cái sở thấy thấu qua đen tối, tạm được như
thế, chẳng phải chứng thánh; chẳng tự cho là thánh, gọi
là cảnh giới tốt, nếu cho là thánh, liền lọt vào tà ma.
7. Trong lúc
tham cứu diệu minh, toàn tâm dung hòa với hư không, bỗng thân
thể đồng như cây cỏ, lửa đốt, dao chém chẳng có cảm
giác, thiêu chẳng thấy nóng, chém chẳng thấy đau, ấy gọi
là tâm và trần dung hợp thành một, tạm được như thế,
chẳng phải chứng thánh; chẳng tự cho là thánh, gọi là cảnh
giới tốt, nếu cho là thánh, liền lọt vào tà ma.
8. Trong lúc
tham cứu diệu minh, dụng công đến chỗ thanh tịnh, bỗng
thấy núi sông, đất đai mười phương đều thành cõi Phật
đầy đủ thất bảo, ánh sáng chiếu khắp, lại thấy hằng
sa chư Phật, cung điện trang nghiêm, cùng khắp thế giới,
thấy khắp thiên đàng địa ngục đều chẳng ngăn ngại,
ấy gọi là tập trung tư tưởng ngày càng sâu đậm, lâu ngày
hóa thành, chẳng phải chứng thánh; chẳng tự cho là thánh,
gọi
là cảnh giới tốt, nếu cho là thánh, liền lọt vào tà ma.
9. Trong lúc
tham cứu diệu minh, đến chỗ sâu xa, bỗng ở nửa đêm, thấy
được các đường phố và bà con phương xa, nghe được tiếng
nói của họ, ấy gọi là tâm bức bách quá mức bay ra, nên
cái thấy thấu qua vật chất, chẳng phải chứng thánh; chẳng
tự cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt, nếu cho là thánh,
liền lọt vào tà ma.
10. Trong lúc
tham cứu diệu minh, thấy hình thể của thiện tri thức, trong
giây lát hiện ra đủ thứ biến đổi, ấy gọi là tâm tà
bị yêu mị, hoặc thiên ma xâm nhập, thình lình thuyết pháp,
thông đạt diệu nghĩa, chẳng phải chứng thánh; chẳng tự
cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt, nếu cho là thánh, liền
lọt vào tà ma.
- A Nan! Mười
thứ cảnh giới thiền định trên, đều do Sắc Ấm và dụng
tâm giao tranh lẫn nhau mà hiện ra. Chúng sanh ngu mê chẳng tự
xét kỹ, gặp nhân duyên này mà chẳng tự biết, nói là chứng
thánh thành đại vọng ngữ, đọa địa ngục A Tỳ.
- Sau khi Như
Lai nhập diệt, trong thời mạt pháp, các ngươi phải theo lời
dạy bảo như trên khai thị người tu, hộ trì cho họ thành
Vô Thượng Đạo, chớ để cho thiên ma được dịp quấy phá...
Thầy Quảng-Hóa nói: Có lần tôi chứng kiến Ðức Quán-Âm hiện ra với
tướng mạo trang nghiêm đẹp đẽ; cả chuỗi anh lạc của Ngài cũng tuyệt đẹp.Hòa-Thượng Quảng Khâm cười, nói rằng: Thật sao? Ở
đâu mà có Bồ-tát như thế?
Một vị sư Việt Nam nổi tiếng, nay đã già, nghe nói khi ngồi thiền phải
cất hết tranh ảnh...Chúng ta cần phải suy nghĩ về đoạn này. Các ý tưởng trong kinh văn Bắc Tông và các sư Bắc Tông nói trên là nhằm cảnh giác ta hoang tưởng khi ngồi thiền. Vì vọng tưởng mà sinh ra huyển cảnh như đứa bé mong mẹ đi chợ về cho nên thấy bóng ai xa xa cũng cho là mẹ đã về.
Tuy nhiên nói như thế không có nghĩa là phủ nhận việc Phật, Bồ tát thị hiện. Trong các tôn giáo thường có sự linh ứng như Chúa Trời, Đức Mẹ hiện ra. Những người vượt biên đã nghe tiếng kêu khóc trên biển và thấy Quan Âm bồ tát, đức Mẹ xuất hiện. Nhưng việc thị hiện này rất hiếm hoi, thường thì ta thấy Phật, Bồ tát, thần thánh trong mộng.
Đức Phật có nói:
Do thấy Pháp nên thấy Ta. ( TIEU B¶ I, Kinh PhÆt thuy‰t nhÜ vÆy, ChÜÖng 3, phÄm 5 .489).
Câu này có nghĩa ai theo đúng lời Phật dạy là đệ tử chân chính của Phật, cũng có nghĩa là sẽ gần gũi với Phật, sẽ thấy Phật, sẽ về xứ Phật. Các Phật tử tin tưởng Quan Thế Âm có thể nghe tiếng kêu khổ của dân chúng và Bà sẽ thị hiện cứu giúp. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phẩm Phổ Môn có đoạn:
Phật
bảo Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: "Thiện-nam-tử! Nếu có chúng
sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật được độ
thoát thời Quán-Thế-Âm Bồ-Tát liền hiện thân Phật vì
đó nói pháp.
Người
đáng dùng thân Duyên-giác được độ thoát, liền hiện thân
Duyên-giác mà vì đó nói pháp.Người
đáng dùng thân Thanh-văn được độ thoát, liền hiện thân
Thanh-văn mà vì đó nói pháp.Người
đáng dùng thân Phạm-vương được độ thoát, liền hiện
thân Phạm-vương mà vì đó nói pháp....
Người
đáng dùng thân Tỳ-sa-môn được độ thoát, liền hiện thân
Tỳ-sa-môn mà vì đó nói pháp. Người
đáng dùng thân Tiểu-vương được độ thoát, liền hiện
thân Tiểu-vương mà vì đó nói pháp.Người
đáng dùng thân Trưởng-giả được độ thoát, liền hiện
thân Trưởng-giả mà vì đó nói pháp. Người
đáng dùng thân Cư-sĩ được độ thoát, liền hiện thân Cư-sĩ
mà vì đó nói pháp.
. có ngoại duyên là gặp các đức Phật, Bồ Tát, thiện trí thức v.v.. . dẫn dặt, chỉ dạy cho phương pháp tu hành thì hành giả cũng không thể tự mình đoạn trừ phiền não và tu chứng Niết Bàn được (Đại Thừa Khởi Tín Luận, 116).
Mã Minh cho r¢ng có hai loåi tha l¿c. M¶t loåi là duyên bình
Ç£ng, m¶t loåi là duyên sai biŒt. Ông vi‰t:
Duyên bình đẳng là sự
hỗ trợ đồng đều cho tất cả mọi người, mọi chúng sinh. Chư Phật và Bồ Tát thường
hằng tùy thuận chúng sinh nào muốn thấy Phật, nghe Pháp thì đều bình đẳng hiện
ra để hóa độ, không bỏ sót một chúng sinh nào. Bởi thế nên chúng sinh trong
thiền định đều được bình đẳng thấy Phật (121).
Trong các khóa lễ Phật giáo Bắc Tông, các Phật tử thường tụng đọc: nghi thức:
Lư hương sạ nhiệt.
Như vậy, việc Phật thị hiện là một ước mong và có thể là một sự thật nếu ta có cơ duyên.
Trong các khóa lễ Phật giáo Bắc Tông, các Phật tử thường tụng đọc: nghi thức:
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch.
Cảm biến đạo giao nan tư nghì.
Ngã thử đạo tràng như đế châu.
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung.
Ngã kim ảnh hiện chư Phật tiền.
Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ
Cảm biến đạo giao nan tư nghì.
Ngã thử đạo tràng như đế châu.
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung.
Ngã kim ảnh hiện chư Phật tiền.
Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ
Lư hương sạ nhiệt.
Pháp giới mông huân.
Chư Phật hải hội tất diêu văn.
Tùy xứ kiết tường vân.
Thành ý phương ân.
Chư Phật hiện toàn thân.
Chư Phật hải hội tất diêu văn.
Tùy xứ kiết tường vân.
Thành ý phương ân.
Chư Phật hiện toàn thân.
Như vậy, việc Phật thị hiện là một ước mong và có thể là một sự thật nếu ta có cơ duyên.
Qua m¶t vài tài liŒu, các bÆc Çåi sÜ
cho bi‰t có 8 giai Çoån thiŠn. Sau giai Çoån 8 là Çåt Ni‰t Bàn. NhÜ Çã
trình bày, có hai quan niŒm. M¶t quan niŒm cho r¢ng Ni‰t bàn là cäm giác, và
m¶t quan niŒm Ni‰t Bàn là m¶t th‰ gi§i cao
hÖn Thiên gi§i.
BÓn giai Çoån ÇÀu là:
-SÖ thiŠn : ñåt sÖ thiŠn thì coí cäm giác : tÀm, sát, hÌ, låc, ÇÎnh (nhÃt tâm).
-NhÎ
thiŠn:
-Tam
thiŠn
-TÙ
thiŠn:
Giai Çoån này ta cäm thÃy khinh an và Çåt thÀn thông, thÃy nhiŠu cänh gi§i. NhÜng
thÀn thông rÒi cÛng mÃt. ñØng say mê thÀn thông.
ThÀn thông này có th‹ giäi thích theo
Yoga. Con ngÜ©i có nhiŠu khä næng tiŠm Än. Phái Yoga Çã tìm thÃy nh»ng trung
tâm sinh l¿c g†i là luân xa (Chakras)
hay bäy hoa sen. Có bäy luân xa. N‰u tÆp trung vào các luân xa sau thì së Çåt
thÀn thông:
(1). Sahasrara: Bông sen nghìn cánh ª ÇÌnh
ÇÀu
( huyŒt bách h¶i), là chû t‹ các hoa sen khác.Hoa sen này có màu xanh ª gi»a,
xung quanh có ánh sáng vàng. Khi nào hoa sen này nª thì Ç¡c Çåo.
(2). Ajna: Hoa sen hai cánh màu tr¡ng, vÎ trí ª gi»a hai lông mày (huyŒt
ƒn ñÜ©ng). ñây là con m¡t thÙ ba tÙc thiên nhãn. TÆp trung vào Çây thì trí tuŒ
sáng suÓt, t¿ chû. Khoa Çóa sen này nª ra, ta có th‹ hi‹u tâm ngÜ©i khác ( tha
tâm thông), và có th‹ gây änh hܪng ª ngÜ©i khác
(3). Vishudda: hoa sen 16 cánh, màu xám, n¢m
tåi y‰t hÀu, làm cho trí tuŒ sáng suÓt.
(4).Anahata: hoa sen 12 cánh, màu hÒng, vàng, n¢m gi»a hai vú, gÀn trái
tim. Có khä næng bi‰t quá khÙ, vÎ lai, và nghe nh»ng vÆt ª xa ( thiên nhï
thông).
(5). Manipura: mÜ©i cánh, màu tím, tåi rÓn. KhÕi bŒnh tÆt, hÒn có th‹
lìa khÕi xác Ç‹ phiêu du.
(6).Svadhisthana
: sáu cánh, ÇÕ th¡m, ª c¶t xÜÖng sÓng ÇÓi diŒn Çan ÇiŠn. Dâm døc.
(7)
Muladhara: BÓn cánh, màu ÇÕ, tåi ÇÓt xÜÖng
sÓng cuÓi cùng, trên hâu môn. TÆp trung tÜ tܪng vào Çây thì có khä næng di
chuy‹n qua không gian. Tuy nhiên, nhiŠu ngÜ©i cho r¢ng tÆp trung tÜ tܪng vào Çây
thì gây là dâm døc mãnh liŒt.
- Tu tÆp m¶t th©i gian, m¶t lúc nào Çó
nghe ti‰ng gió th°i, chim kêu, ho¥c džc m¶t Çoån sách, tøng m¶t Çoån kinh, nghe
m¶t khúc nhåc, nghe m¶t l©i nói cûa ai Çó, cä ngÜ©i rúng Ƕng, ho¥c thÃy m¶t cänh gi§i thanh tïnh ho¥c ÇÀy
ánh sáng Ãy là ta Çã bܧc vào m¶t cänh gi§i khác, chuÄn bÎ cho m¶t bܧc ti‰n
quan tr†ng.
ChÜ t° sÜ có kinh nghiŒm này, và trong væn chÜÖng, chÜ tæng g†i là ‘’hoát nhiên Çåi ng¶’’. Có th‹ có nh»ng vÎ b‡ng chÓc chúng ng¶ Ni‰t Bàn, nhÜng v§i Ça sÓ e chÜa phäi ‘’Çåi ng¶’’, mà chÌ là ‘’ti‹u ng¶’’, phäi qua nhiŠu ‘’ng¶’’n»a. Thành t¿u lúc này chÌ là m¶t chÙng chÌ cûa l§p Ãu h†c, con ÇÜ©ng lên Çåi h†c và hÆu Çåi h†c còn xa, cÀn phäi kiên trì và n‡ l¿c.
ChÜ t° sÜ có kinh nghiŒm này, và trong væn chÜÖng, chÜ tæng g†i là ‘’hoát nhiên Çåi ng¶’’. Có th‹ có nh»ng vÎ b‡ng chÓc chúng ng¶ Ni‰t Bàn, nhÜng v§i Ça sÓ e chÜa phäi ‘’Çåi ng¶’’, mà chÌ là ‘’ti‹u ng¶’’, phäi qua nhiŠu ‘’ng¶’’n»a. Thành t¿u lúc này chÌ là m¶t chÙng chÌ cûa l§p Ãu h†c, con ÇÜ©ng lên Çåi h†c và hÆu Çåi h†c còn xa, cÀn phäi kiên trì và n‡ l¿c.
-Tu tÆp là có ti‰n b¶ nhÜng không có
nghïa là trÜ©ng sinh bÃt tº, kim cÜÖng bÃt hoåi. Sinh, lão, bŒnh, tº là quy
luÆt chung cho m†i vÆt và m†i chúng sinh.
Sau đây chúng tôi xin ghi lại những thành tựu thiền.
Trong ThiŠn ñåo Tu TÆp, Chang Chen Chi ghi låi nhiŠu kinh nghiŒm thành
t¿u thiŠn:
1. Hàm
SÖn Çåi sÜ:
LÀn thÙ nhÃt nghe giäng kinh Hoa Nghiêm
hÓt nhiên ng¶ ÇÜ®c y‰u chÌ cûa pháp gi§i viên dung, lÀn thÙ hai džc TriŒu LuÆn.
LÀn thú ba, æn cháo xong Çi kinh hành.
B‡ng nhiên tôi ÇÙng l¥ng, thÃy mình không còn thân tâm.
Tôi chÌ thÃy m¶t toàn th‹ chi‰u diŒu--
bi‰n tåi, viên mãn, quang minh. NhÜ Çåi viên kính mà sÖn hà Çåi ÇÎa chÌ là änh
hiŒn trong Ãy (195- 204).
LÀn thÙ tÜ (1586), m¶t bu°i chiŠu trong
khi thiŠn ÇÎnh, sÜ thÃy rõ rŒt cái Toàn Th‹ Chi‰u DiŒu, trong suÓt, tråm nhiên,
trÓng không và minh nhiên nhÜ m¶t Çåi dÜÖng trong v¡t -- ch£ng có gì hiŒn h»u (215).
2.Vô
Væn thiŠn sư
Ngài quán ch» Vô, sau g¥p Hoài ThÜ®ng Kính, nh¡c câu thÖ cûa Xuyên Lão
Tº:
MuÓn bi‰t š manh mÓi,
Nhìn B¡c ñÄu phÜÖng Nam.
TØ Çó Ngài quán ch» ‘’ muÓn bi‰t’’. M¶t hôm
cùng các tæng ngÒi ª m¶t gÓc cây, trong khoäng th©i gian m¶t b»a æn, b‡ng nhiên thÃy tâm hoát nhiên, trong sáng, nhË nhàng,
thanh thoát, thÃy các tÜ tܪng thu¶c cäm giác v« tan, y nhÜ bóc vÕ vÆy, trܧc
m¡t ch£ng hŠ thÃy m¶t vÆt, y nhÜ chìm vào hÜ không vÆy. Khoäng nºa gi© sau tÌnh
låi, toàn thân ÇÅm mÒ hôi, liŠn ng¶ ÇÜ®c câu ‘’Quay vŠ Nam nhìn B¡c ñÄu’’ (221). Sau tu thêm 12 næm m§i giäi thoát.
3. Tuy‰t Nham thiŠn sÜ
Ngài quán ch» ‘’vô’’. Lúc nào Ngài cÛng
nghï ljn ch» vô.
B‡ng nhiên m¶t hôm tôi quán tܪng trª låi vŠ ch‡ phát sinh
cûa niŒm ÇÀu. Ngay lúc Çó tâm trª nên nhÜ bæng lånh, trong suÓt, không Ƕng
không lay. M¶t ngày trôi qua mà chÌ nhÜ m¶t khoänh kh¡c, ch£ng nghe cä ti‰ng
chiêng, ti‰ng trÓng (223).
Hai
ba næm sau, Ngài ngÒi lên BÒ ñoàn, trܧc
m¥t b‡ng thÃy m¶t cái gì rång r« mª r¶ng nhÜ nhÜ là ÇÃt lª vÆy.(225).
It
lâu sau, Ngài låi träi qua m¶t kinh nghiŒm n»a. Ngài k‹: m¶t hôm tôi Çi trong PhÆt ÇiŒn, ngܧc m¡t thÃy m¶t cây bách già. B‡ng
nhiên trong ch§p nhoáng tôi tÌnh ng¶. Cái cänh gi§i cho ljn nay sª Ç¡c và cái
vÆt chܧng ngåi tâm tôi søp Ç° tiêu tan, giÓng nhÜ tØ trong nhà tÓi bܧc ra nÖi
m¥t tr©i r¿c r«. TØ Çó không còn nghi sinh nghi tº, nghi PhÆt nghi T° (226).
4.
Tܪng Duy KiŠu.
Ông là ngÜ©i Trung QuÓc, thܪ nhÕ nhiŠu
bŒnh, džc sách Y phÜÖng TÆp Giäi thÃy có dåy phép tïnh t†a cûa Çåo gia Ç‹ chºa bŒnh. ñÃy là phép Løc diŒu
pháp môn, cÛng chú tr†ng vào hÖi thª. Ông tÆp theo thì månh khÕe. Sau lÃy v®
rÒi nhiÍm bŒnh lao, bèn quy‰t tâm xa v®
Ç‹ chuyên tïnh t†a. Næm 29 tu°i, ông tu tÆp, sau ba tháng, bøng cäm thÃy nóng
nhÜ nܧc sôi, rÒi chÃn Ƕng kh¡p nÖi nhÜ b¡p v‰, xÜÖng sÓng, xÜÖng hông, lên
não b¶ v. v . . NhiŠu lÀn nhÜ th‰, trong khoäng 85 ngày thì h‰t bŒnh, tinh thÀn
minh mÅn.
Ông chép låi kinh nghiŒm cûa ông vào
tháng 10 næm giáp ng† 1954.(Trích Kinh MÆt Pháp
NhÃt T¿ ñà La Ni, do Thích Viên ñÙc dÎch, Saigon, 1974)
ThiŠn
là m¶t hiŒn th¿c có th‹ chÙng
nghiŒm trong hiŒn tåi. PhÆt giáo là m¶t tôn giáo k‰t h®p lš thuy‰t và
th¿c
hành. Hành thiŠn và hành thiŒn là Çåt an låc cho mình và nhân loåi ngay
trong
cu¶c Ç©i này. Cao xa hÖn n»a, th¿c hành thiŠn, chúng ta së Çåt H»u y
Ni‰t Bàn
trong hiŒn tåi và Vô dÜ y Ni‰t Bàn sau khi ch‰t. Đức Phật đã giác ngộ
khi ngồi dưới cội Bồ đề nghĩa là Ngài đã đạt Niết Bàn hiện tại. Khoảng
500 đệ tử của Phật đã thành A La hán ngay trong thời Phật tại thế nghĩa
là đã đạt Niết Bàn hiện tại. Tu thiền sẽ đạt được it nhiều thành quả. Tu thiền giúp ta an lạc và đạt được một vài tiến bộ. Đừng tự cao vì dù cao bao nhiêu, tất cả chúng sinh đều bị quy luật sinh lão, bệnh, tử chi phối. Đạt Ma sư tổ, Trương Tam Phong rồi cũng chết. Công phu tu tập kiếp này sẽ truyền lại kiêp sau, nhân kiếp này sẽ thành quả ở kiếp sau.
No comments:
Post a Comment