Nguyễn Vỹ
Tuấn Chàng Trai Nước Việt
CHƯƠNG 15
1926
- Ðồng sĩ Bình bị bắt,đày đi Ban mê Thuột.
- Thanh niên các mạng chống Pháp đều bị bắt.
- Phong trào cách mạng tràn lan khắp các học đường.
- Thanh niên các mạng chống Pháp đều bị bắt.
- Phong trào cách mạng tràn lan khắp các học đường.
Một buổi tối trò Tuấn đang ngồi làm bài ở nhà thì trò Quỳnh đến, mặt tái mét, bảo thầm Tuấn :
- Mầy có nghe tin thầy Ðổng sĩ Bình bị bắt không ?
Tuấn ngơ ngác lắc đầu :
- Tao không nghe gì hết. Thầy bị bắt hồi nào ? Thật không ?
- Ba ngày nay rôì. Nghe nói thầy đã bị giải đi ở tù nhà lao Ban mê Thuột.
- Ai nói với mầy thế ?
- Một thầy làm sở Mật Thám, ở trọ nhà thằng Quý trên Lò Vôi. Thầy nói với thằng Quý nói lại với tao, mới lúc nãy đây. Tao đến cho mầy mày biết tin. Mày coi có những bài thơ và tờ báo nào của Thầy Ðồng sĩ Bình cho mày thì phải đốt đi, nghe không ?
- Tao có mấy tờ báo " Tiếng Dân "ở Huế, mấy tờ L' Écho Annamite ở Saigon và 1 tờ L' Argus Indochinois ở Hanoi.
- Mầy cất ở đâu, lấy đốt đi ! hay gởi nơi khác cho chắc chắn.
- Tao giấu dưới chiếc chiếu chỗ giường tao nằm. Rệp nó làm ổ đầy ở trong, tao không dám lấy ra.
Trò Quỳnh ngó trước ngó sau, trong nhà không có ai lẩn quẩn ở đấy, liền chỉ cái bếp đang cháy, ( bà chủ nhà đang nấu cháo đậu xanh ) và bảo thầm Tuấn :
- Mau mau lấy mấy tờ báo đó bỏ vô bếp đốt liền đi bây giờ, nếu mày không muốn đi ở tù Ban mê Thuột.
- Mà tại sao thầy Bình bị bắt đi ở tù ?
- Nghe nói mật thám khám nhà thầy, bắt được truyền đơn của " Tân Việt Cách Mạng Ðảng " in bằng đông sương với mấy baì htơ cách mạng.
Nói xong Quỳnh lật đật đi ra ngay.
Tuấn ngồi im lặng một phút cũng sợ...sợ, lo... lo..., liền đứng dậy đi cuốn chiếc chiếu trên giường nằm, lấy ra tất cả chín mười tờ báo đem bỏ vô bếp. Cả đống báo vừa cháy thiêu hết ra tro thì O Vui, em gái của thầy Bửu Vinh chủ nhà, từ trên nhà mang quốc lẹp kẹp đi xuống bếp để xem chừng nồi cháo đậu xanh. O Vui, một thiếu nữ Huế trẻ đẹp độ 20 tuổi, ngôì chỗ bếp lửa quay lại hỏi trò Tuấn :
- Cậu Tuấn có đốt cái chi trong ni mà có mùi rệp khét dữ rứa ?
Tuấn làm bộ ngạc nhiên, bắt chước giọng Huế của O Vui, trả lời :
- Tôi có đốt chi mô có.
O Vui cứ hỏi mãi :
- Chớ răng có mùi rệp khét dữ ri ?
- Mô ?
O Vui cười ngất vì giọng khôi hài của Tuấn, nhưng lúc lên nhà trên, cô ả bép xép học lại với chị dâu là cô Thông Vinh. Cô này lại mét với chồng là thầy Bửu Vinh đang đánh tổ tôm trên gác với mấy thầy nào đó. Trò Tuấn lắng nghe được, sợ quá vội vàng xếp sách vở, tắt đèn, lẻn đi ra đường không dám ở nhà.
Sực nhớ vụ thầy Ðồng sĩ Bình bị bắt, Tuấn chạy đến nhà trọ của Trâm và Anh.
Tuấn bảo thầm hai cô bạn lớp Nhất :
- Mấy bài thơ cách mạng Trâm và Anh chép từ trước đến giờ để đâu ?
Anh hỏi :
- Chi vậy anh ?
- Ðốt hết đi.
Trâm hỏi :
- Sao phải đốt hả anh ?
- Thầy Ðổng sĩ Bình bị bắt ba bốn hôm rồi, đã bị đưa đi ở tù trên Ban Mê Thuột. Họ có khám nhà thầy, tìm được một đống báo và mấy bài thơ cách mạng. Có cả truyền đơn củ aTân Việt Cách Mạng Ðảng. Chỉ có thế mà thầy bị bắt. Tụi mình dạo nọ có để tang cho cụ Phan chu Trinh chắc mât thám cũng để ý. Sợ họ đến khám nhà bất tử thì nguy. Ðốt hết các bài thơ cách mạng đi thì hơn.
Anh khẽ cười :
- Ðốt thì đốt, tụi mình thuộc lòng hết mấy bài thơ đó rồi cóc cần gì anh hí ?
- Ừ, Anh và Trâm còn cất tờ báo cách mạng nào ở trong rương không ?
- Có mấy tờ Việt Nam Hồn và tờ báo Tiếng Dân tụi em coi xong đã trả lại anh lâu rồi. Ở đây tụi em không còn giữ lại tờ nào. Anh đốt hết chưa ?
- Rôì.
- Tội nghiệp thầy Ðổng sĩ Bình ! Ở tù, chắc chết qúa...
Anh, Trâm và Tuấn ngồi cúi đầu làm thinh. Một lúc lâu.Tuấn đưa ngón tay chỉ cây bút vaò quyển vở của Anh và lấy bàn tay làm dâú hiệu muốn viết...Anh lặng lẽ đưa bút chì và vở cho Tuấn. Tuấn nghĩ một lúc nữa rôì viết :
XUÂN MỘNG
Dẫu ta là gái hay là trai
Ái quốc lòng ta quyết chẳng phai
Nô lệ lẽ nào nô lệ mãi ?
Sơn-Hà chung gánh nhẹ hai vai.
Ái quốc lòng ta quyết chẳng phai
Nô lệ lẽ nào nô lệ mãi ?
Sơn-Hà chung gánh nhẹ hai vai.
T.A.T
Tuấn trao bài thơ ấy cho Anh và Trâm coi. Trâm coi xong lấy bút chì gạch hai cái ngang và một dấu hỏi sau chữ T.A.T và ngó Tuấn. Tuấn cười làm thinh, đứng dậy nói :
- Thôi mình về học bài...Bonne nuit, mes amies !
Tuấn đã biến ra ngoài đường. Còn lại nơi bàn Trâm và Anh nhìn nhau mĩm cười. Trâm khẽ hỏi :
- Ảnh ký T.A.T là gì nhỉ ?
Anh tủm tỉm cười, bẻn lẽn, lấy bút chì viết :
- T = Tuấn, A = Anh , T = Trâm.
Hai cô gái mắc cỡ cười khúc khích với nhau và đọc lại bài thơ để cho nhớ, rôì Anh xé tờ giấy chép thơ trong quyển tập. Trâm mở bóng đèn manchon để Anh đốt bài thơ, không dám giữ bút tích lại.
Một tháng sau, bà mẹ già và đứa em trai nhỏ của thầy Ðổng sĩ Bình là Ðổng sĩ Hứa vào Qui-nhơn định đi Ban Mê Thuột để thăm thầy. Ðược tin ấy một nhóm học trò các lớp lớn, từ Ðệ Tam đến Ðệ Nhất niên, do anh Trọng đề xướng, bảo lén với nhau hùn được một số bạc khá nhiều để gơỉ giúp thầy ở nơi lao tù. Riêng Tuấn và Trâm, Anh, chung tiền để may gơỉ cho thầy 2 áo cụt và 1 chiếc quần bằng vải ta. Tuấn chép bài thơ " Mộng Xuân " trên kia bằng mưc tím, và cũng ký tên T.A.T trên một mảnh giấy trắng, bảo Anh xếp lại thật nhỏ nhét trong áo ở vạt trước rồi khâu lại, để lỡ lính gác lao có xét cũng không thấy được. Tuấn bảo :
- Mình muốn gởi lén bài thơ đó cho thầy Bình bằng cách bí mật này, mà không biết thầy sẽ thấy bài đó không ? Chỉ sợ thầy không để ý chỗ lai áo này.
Trâm bảo :
- Chừng nào thầy giặt áo, thì mực tím nhòe ra, thầy sẽ biết chứ.
Anh bảo :
- Nhưng sợ thầy nhúng nước rồi vò áo, vô tình vò nát luôn cả bài thơ, thầy chỉ thấy dấu vết mực tím thôi.
Ba người học trò ngồi suy nghĩ một lúc. Rồi Trâm bảo Tuấn :
- Nè anh à, hay là mình chép lại bài thơ trên mảnh giấy dày hơn, thứ giấy carreaux ? Thầy Bình mặc áo sẽ thấy riêng chỗ đó cộm lên và sẽ biết ngay.
Anh cũng bảo :
- Ừ phải đấy. Nếu thí dụ thầy không để ý đi nữa, thì đến khi thầy giặt áo, sẽ thấy vết mực tím ở chỗ lai áo, thầy sẽ hiểu. Thầy sẽ tháo chỗ đó ra, à sẽ còn đọc được bài thơ vì giấy dày không bị vò nát vụn như giấy mỏng. Phải không anh ?
- Ừ, đúng đấy...Hay là riêng chỗ đó mình may bằng chỉ đen vậy, để cho thầy chú ý ?
- Nhưng nếu may bằng chỉ đen thì sợ lúc bà già đưa áo quần vào, lính gác nhà Lao xét kỹ sẽ để ý và sẽ khám phá ra mưu mô của mình, phải không anh ?
- Cũng có lý... Thôi theo cái ý cũa Trâm, viết trên giấy carreaux là được.
Trâm, Anh và Tuấn tủm tỉm cười. Nụ cười bí mật lý thú chỉ riêng có ba người này hiểu thôi, khi họ trao bộ áo quần bằng vải ra cho mẹ thầy Ðổng sĩ Bình để nhờ bà già đưa lại cho thầy ở Lao Ban Mê Thuột.
Hai tháng sau, trò Tuấn được bức thư đóng dấu nhà giây thép Ban Mê Thuột cũng viết bằng mực tím, gởi ngay đến địa chỉ nhà trường. Tuấn hồi hộp mở thư ra xem. Thư như sau đây :
XUÂN MỘNG
Hai cô bạn gái một chàng trai
Nét đậm ân tình mực khó phai
Khát Nước cổ khô thèm thấy Nước
Mong người chung sức đỡ đôi vai.
Nét đậm ân tình mực khó phai
Khát Nước cổ khô thèm thấy Nước
Mong người chung sức đỡ đôi vai.
ÐỒ SĨ
Tuấn mừng quýnh, tối chạy đến đưa cho Trâm và Anh xem bài thơ. Thoạt tiên hai cô học trò không hiêủ. Trò Tuấn bảo :
- Bài thơ này họa lại đúng ba vần của bài thơ tụi mình đã nhét trong lai aó cho thầy Ðổng sĩ Bình và mượn cả đề thơ giấc mộng mùa Xuân...
- Sao thầy hiểu được là " hai cô bạn gái một chàng trai " ?
- Lúc thầy còn ở đây, tôi thường nói chuyện Trâm và Anh cho thầy nghe, thầy biết ba đứa mình là bạn thân với nhau. Bây giờ xem chữ T.A. T chắc thầy đã đoán ra được. Tôi đố Trâm và Anh taị sao thầy ký Ðồ Sĩ. ?
- Em chịu thua.
- Em cũng chịu thua.
- Nghĩ một chút xíu thì thấy liền.
- Ðồ Sĩ là Ðổng sĩ Bình, phải không anh ?
- Trâm đoán giỏi qúa.
- Em cũng hiểu rôì. Ðồ là viết tắt chữ Ðồng, Sĩ là Sĩ.
- Ừ có gì khó đâu.
- Thế là thầy đã lấy được bài thơ của tụi mình nhét trong lai áo ! Ồ thích quá, anh hỉ ! Thích quá hỉ !
- Tuị em không ngờ bài thơ đó lọt được tới tay thầy ! Vui ghê !
- Bài thơ thầy trả lời vừa để cảm ơn tụi mình, vừa nói thầy đau khổ vì Khát Nước...nghĩa là Mất Nước...và mong cho tụi mình ngày sao lớn lên phải chung sức nhau mà gánh nước...nghĩa là phải lo gánh việc Nước đó !
Trâm và Anh không biết tỏ nổi mừng hào hứng và nồng nhiệt bằng cách nào hơn là lấy 5 xu chạy đi mua kẹo thèo lèo và chè hột sen về ăn khao với Tuấn.
Ðêm ấy, Anh và Trâm bắt Tuấn ở lại suốt đêm để chỉ cho hai cô cách làm thơ Ðường Luật bát cú và tứ tuyệt theo những bài Tuấn đã học trong quyển " Quốc văn trích điểm " sách giáo khoa dạy Quốc văn ở các lớp trên.
Cùng một lúc thầy Ðồng sĩ Bình bị bắt ở Qui-nhơn và bị đày đi Ban Mê THuột thì một số đông trí thức cách mạng khắp ba kỳ Trung-Nam-Bắc, hầu hết là lớp thanh niên đàn anh cùng lưa với thầy Bình, cũng bị bắt và lưu đày đi khắp nơi : Côn Lôn ( Nam Kỳ ), Lao Bảo, Ban Mê THuột ( Trung Kỳ ), Sơn La ( Bắc Kỳ ). Ba lao xá sau đây đều ở nơi rừng thiêng nước độc, vơí đảo Côn Lôn là bốn địa ngục trần gian ghê gớm nhất, đặc biệt để giam tù chính trị, mà lúc bấy giờ gọi là " Tù Quốc Sự ". Ngay tiếng Pháp cũng chỉ riêng bốn nơi ấy là Bagnes không gọi là Prisons, và những người bị tù ở đây là bagnards, một danh từ ghê tởm, bỉ ổi, đúng lý ra là để cho bọn du côn cướp của giết người.
Giòng họ nhà vua ở Huế cũng có một ngườitheo phong trào cách mạng. Chàng vào Saigon viết báo đả-kích chế độ quân chủ, về Trung Kỳ thì đi tuyên truyền tư tưởng dân chủ. Tên chàng là Bửu-Ðình. Bị bắt một lượ với Ðổng sĩ Bình, bị người Pháp trao trả cho Hoàng-phái ( giòng họ Vua ), Bửu –Ðình khi6ng những bị Nam-triều kết án lưu đồ, mà còn bị Tôn nhân phủ ( Hội đồng Hoàng gia ) truất quyền mang họ Vua ( họ Bửu ), bắt phải tay htế bằng họ Tạ : Tạ Ðình, theo tên họ của Tạ ôn Ðình. Anh ruột của Tuấn ở tình nhà là Trần anh Tuấn, Phán Sự Toà Sứ cũng bị bắt đày đi Ban Mê Thuột, vì bí mật liên kết với các thanh niên hoạt động chống Pháp.
Ðược tin, trò Tuấn khóc nức nở, bỏ ăn, bỏ học cả tuần lễ, căm hờn người Pháp hơn bao giờ hết. Vụ nắt bớ này xẩy ra khắp nước nhằm mục đích bỏ tù hết những phần tử trí thức chống Pháp, tưởng như thế là không còn ai chống Pháp nữa. Nhưng hậu quả trái ngược lại không ngờ : nó càng làm sôi nổi lòng công phẩn của đám nam nữ thanh niên học sinh mà đại đa số đều cảm phục và trìu mến các bậc trí thức đàn anh do ảnh hưởng còn sâu đậm của hai nhà chí sĩ Phan bội Châu và Phan chu Trinh. Hai cụ là hai bậc Thuỷ Tổ Cách Mạng của thế hệ 1925.
Những người làm " quốc sự " chống Pháp và chống Vua An nam đều bị đày đi đến nơi ngục thất nguy hiểm đã kể trên hoặc bị gông cùm tại các lao tỉnh, bị tra tấn đánh đập tàn nhẫn do lũ " Thanh Tra Mật Thám " An Nam. Hâù hết là những trí thức trung lưu, tuổi từ 20 đến 30, họ thuộc về các thành phần dưới đây :
Một số là Thông Phán các Toà Sứ và các sở Nhà Nước Bảo Hộ. Họ là những công chức giúp việc cho Hành Chánh Pháp đắc lực nhất.
Ðồng sĩ Bình ờ Trung kỳ, Ký Con ở Bắc Kỳ, là những nhân vật điển hình cho lớp người này.
Các thầy Trợ giáo ( nay là giáo sư Trung học ) đã đỗ Diplôme d' Etudes Primaires Supérieures Franco Indigènes ( Cao đẵng TIêủ học Pháp Việt ), hoặc học lực tương đương. Số này rất đông, và là những phần tử ưu tú nhất trong giáo giới An nam lúc bấy giờ. Một vài nhân vật điển hình như : Ðào duy Anh, Tôn quang Phiệt ( Trung Kỳ ), nhà văn Lan Khai, Nhượng Tống ( Bắc Kỳ ), Lê văn Huấn ( Nam Kỳ ) v..v...
Một thiểu số,--tối thiểu --sinh viên Trường Cao Ðẵng Ðại Học Ðông Dương, Hà Nội, là nơi đào tạo các lớp gọi là Thượng lưu trí thức : y sĩ, đốc học, cử nhân Luật, cao đẳng Thương Mãi, v.v..., như : Nguyễn thái Học, Hồ văn Mịch, Ðặng thái Mai, v.v...
Những thanh niên trí thức làm những nghề nghiệp tự do, phần nhiều là giáo sư tư thục, viết báo, viết văn, như Vũ đình Dy (Hà Nội), Nguyễn an Ninh, Tạ thu Thâu, Trần văn Thạch, Phan văn Hùm ( Saigon ), Bửu Ðình ( Huế).
Sau cùng hết là nam nữ học sinh các trường Collèges ( Trung Học Pháp Việt ) ở Hà nội, Nam Ðịnh, Vinh, Huế, Qui Nhơn, Saigon, Cần Thơ.
Các thành phần học sinh ưu tú từ 16 đến 20 đều tập trung ở trường Trung Học Hà nội, gọi là Trường Bưởi ; -- (ở làng Bưởi ) – danh từ chính thức là Collège du Protectorat ( Trường Trung Học bảo hộ ), và hai trường Trung Học Nam định, Hải Phòng. Hầu hết những thanh niên cách mạng Bắc Kỳ sẽ hoạt động hăng hái nhất sau này đều ở ba Học đường ấy mà ra.
Ở Trung Kỳ, Trường Collège de Vinh, là nơi tập trung các thanh niên học sinh ưu tú nhất của ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tỉnh. Ðây là một ở cách mạng theo truyền thống của Phan bội Châu và Nguyễn Ai Quốc mà lúc bấy giờ chưa ai biết là cộng sản.
Trường Collège Quốc Học Huế, và đứng cặp kè ngay một bên, nhưng yêu kiều duyên dáng hơn, là Trường Nữ Trung học Collège Ðồng Khánh, là hai lò hun đúc các lớp thanh niên nam nữ học sinh hăng hái nhất ở Trung Kỳ -- có thể nói là ở khắp ba kỳ. Học sinh ở đó hầu hết là quê quán ở Thanh, Nghệ, Tỉnh, và Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Ở trường Collège de Qui Nhon, thì 80% học sinh quê quán ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh.
Ở Trung Kỳ có một cầu truyền khẩu rất thông thường gồm 4 " Nam Nghĩa Nghệ Tỉnh " chữ, không biết do ai đặt ra từ hồi nào, nhưng thường xuyên được nhắc nhở trong các câu chuyện thời sự cách mạng, để chứng minh rằng bốn tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Nghệ An, Hà Tỉnh, là bốn nơi mà dân chúng có tinh thần cách mạng cao nhất, mạnh nhất, mà chánh quyền Bảo Hộ Pháp cũng như Triều Ðình Huế lo ngại nhất.
Thanh niên học sinh, cả nam lẫn nữ, ở bốn tỉnh ấy cũng là kỳ khôi và " ba gai " không đâu bằng. Các biến cố gọi là " quốc sự "ở Trung Kỳ trong thời gian 1925 – 1932 đều được học sinh ba trường Collèges Huế, Vinh, Qui Nhơn, nhiệt liệt ủng hộ, và chính họ cũng tự động gây ra những phong trào bãi khóa vô cùng sôi nổi mà mà tôi sẽ thuật trong các chương sau.
Học sinh Saigon thì chịu ảnh hưởng trực tiếp của các nhóm cách mạng Nguyễn An Ninh và Tạ thu Thâu. Nhưng họ hoạt động yếu ớt, rụt rè với sự hướng dẫn bí mật của các đảng viên cách mạng, rất tiếc là rời rạc và thiếu tổ chức.
Các nhóm chính trị " cấp tiến "ở Saigon chú trọng về tổ chức lao động nhiều hơn, trong lúc vài đảng phái trưởng giả hay tiểu tư sản lại thiên hẵn về các giới trí thức trung lưu, và thượng lưu. Thanh niên học sinh không phải bị bỏ rơi, nhưng không được lãnh đạo thường xuyên và thiếu tổ chức chặt chẽ. Họ không có các động cơ thúc đẩy hăng hái như học sinh ở các Collèges Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Phong trào bắt bớ và lưu đày các nhà cách mạng đàn anh xẩy ra khắp ba kỳ Trung, Nam, Bắc, đã gây ra môt lòng căm phẩn ngấm ngầm trong giới học sinh Trung học của Niên Khóa 1926-27. Sự bảo nhau góp tiền may quần áo, mua các đồ vật dụng để gơỉ lén lút giúp các thanh niên đàn anh bị xiềng xích gông cùm trong các lao xá, chính là sự biểu lộ kín đáo lòng công phẩn của học sinh toàn quốc. Học trò làm gì có dư tiền, thế mà ai nấy cũng tự ý sốt sắng nhịn quà bánh, hà tiện từng cắc, từng xu, để góp vào cuộc lạc quyên được số tiền khá lớn. Ở Qui Nhơn, học trò góp được 100 đồng ( năm 1926 ) trao cho mẹ của thầy Ðổng sĩ Bình ở Huế vào ghé Qui Nhơn để đi Ban mê Thuột thăm con.Tuấn, Trâm,Anh có dự cuộc " hội họp " của một nhóm đại diện học sinh với mẹ thầy Bình tại nhà anh Phạm Ðào Nguyên, thư ký kế toán hang Descours et Cabaud của Pháp, ở ngay Công quán Qui Nhơn. Anh này, người Bình Ðịnh, có thể là tiêu biểu cho hạng thanh niên tư chức, giúp việc cho Pháp, có lương tháng khá giả để sống cuộc đời đầy đủ và an nhàn, nhưng cũng có "đầu óc ". Các tư tưởng aí quốc nồng nhiệt của anh và cảm tình đặc biệt của anh đôí với cách mạng, thường được thổ lộ ra nhiêu lần trong nhiêu trường hợp nguy hiểm. Nhờ sự giúp việc tận tụy của anh vơí người chủ Pháp, nhờ sự giao thiệp rộng rãi của anh về nghề nghiệp vớ rất nhiêu người Pháp khác ở thành phố, và cũng nhờ tính điềm đạm, bình tỉnh khôn ngoan của anh mà các cuộc hộp họp bí mật ở ngay trong nhà anh, không hề bị Mật Thám Tây để ý dò xét. Muốn được kín đáo hơn, hai cô nữ sinh Trâm và Anh được chỉ định ngồi trước hè nhà ngoài với cô em gái của anh Nguyên. Ba cô gái vừa ăn bắp vừa nói chuyện cười ầm ĩ, rất là vui vẻ ngây thơ, trong lúc có họp kín ở nhà sau.
Hơn 11 giờ đêm bọn Tuấn mới lần lượt ra về trong lúc thành phố đã ngủ hết. Hai trò con gái mắc cở không dám về ( thời bấy giờ con gái đứng đắn đâu có dám đi chơi khuya như thế ) phần thì sợ ma, vì thành phố chưa có đèn điện, lại có nhiêù chỗ vắng vẻ tối tăm và nhiều khoảng đất trống đầy những mả mồ.
Tuấn cũng không thể đưa hai cô bạn thân về nhà, sợ rằng lỡ có ai gặp, họ sẽ nghi ngờ và đồn bậy bạ. Hai cô sẽ mang tiếng thì sao ? Cả thành phố ai còn lạ gì mặt mũi cái cậu học trò nổi tiếng là nghịch ngợm kai và không ai là không biết hai trò con gái thuỳ mị ở lớp Nhất. Vả lại ban ngày, trai và gái không dám đi chung với nhau nữa là ban đêm.
Sau cùng, tụi bạn phải nhờ mẹ thầy Bình và cô em gái của anh Nguyên đưa Trâm và Anh về ở xóm Bờ Sông. Tuấn mang đôi quốc cùn lẽo-đẽo theo sau, làm " gạc đờ co ".
Khi bà cụ và cô em gái của anh Nguyên đưa Trâm và Anh về đến nhà rồi, thì cả bà già lẫn cô gái đều sợ ma không dám trở về Công quán. Trò Tuấn phải đi hộ tống hai người trở lại nhà.
Anh Nguyên bảo Tuấn ở lại ngủ với anh. Anh pha càphê của Tây cho uống. Nhưng trò Tuấn mới nằm xuống giường chưa nóng lưng đã lóp ngóp bò dậy, bảo anh Nguyên mở cửa để cho trò đi về :
- 12 giờ khuya còn đi về à ?
- Ði về ! Tuấn chỉ bảo thế.
Ra đường, Tuấn lê đôi quốc cùn đến xóm Bờ Sông đi ngang qua trước cổng nhà trọ của Trâm và Anh. Hai cô nữ sinh còn thức, ngôì trên sân dưới ánh trăng sáng dịu, ngó ra ngoài cổng. Trông thấy Tuấn đi ngang qua, Trâm và Anh chạy ra,khẽ gọi :
- Anh Tuấn !
Tuấn quay lại, Trâm bảo :
- Tụi em thức đợi anh, biết thế nào anh cũng trở lại.
Anh bảo :
- Ði vào sân ngồi dưới ánh trăng nói chuyện chơi anh Tuấn.
- Trâm và Anh chưa đi ngủ à ?
- Sao đêm nay tụi em không buồn ngủ. Anh buồn ngủ chưa ?
- Chưa.
- Ði vô sân nói chuyện chơi, anh.
Tuấn khẻ bảo :
- Tụi mình đi vô nhà, đóng kín cửa lại.
Trâm và Anh cười hồn nhiên, lật đật chạy vào nhà với Tuấn. Ánh trăng rọi xuyên qua các song cửa, như lọc những tia sáng lờ mờ xanh dịu. Trâm đóng cửa giữa. Tuấn bảo Anh đóng luôn cả hai bên. Trong nhà tối đen, không có gì nữa cả. Giả sử lúc bấy giờ có ai đứng bên ngoài rình xem, họ cũng khó được biết cậu học trò con trai và hai cô bạn gái nói chuyện gì trong căn nhà tôí đen ấy ? Tuấn rất khẽ :
- Anh thắp đèn dầu hỏa lên. Ðừng thắp đèn măng-sông (manchon ) sáng lắm.
Anh và Trâm di sờ soạng tìm hộp quẹt " Bến Thủy ". Ðó là loại hộp quẹt duy nhất của một hãng Tây chế tạo ở Bến Thuỷ, gần thành phố Vinh, được thông dụng khắp xứ Trung Kỳ lúc bấy giờ. Hai phút sau, một ngọn lửa vàng khè cháy trên đỉnh một chiếc đèn gọi là đèn Huê Kỳ.
Trâm và Anh cứ tủm tỉm cười, không nói gì cả. hai cô chưa biết Tuấn định làm gì.
Tuấn khẽ kép ghế ngồi ngay trước ngọn đèn, thò tay dưới lớp áo dài trắng của Tuấn đang mặc, rút trong lưng quần ra : hai tờ báo. Anh và Trâm thoạt tiên rất kinh ngạc và sợ hãi nhưng rôì trở lại vui mừng, kéo ghế ngôì hai bên Tuấn, sát ngay vào cạnh Tuấn. Ba cái đầu xanh ngây thơ âu yếm kề vào nhau dưới ánh đèn, trố mắt xem chung tờ báo :
Việt Nam Hồn
Cơ quan của Ðảng Việt Nam Ðộc Lập ở Paris
Chủ Nhiệm : Nguyễn thế Truyền
Chủ Nhiệm : Nguyễn thế Truyền
Và tờ báo Tây :
L' Argus Indochinois
Organe de combat l' injustice et l' oppression ( Cơ quan chiến đấu chống bất công và áp chế )
Directeur-gérant : Amédée Clémenti ( Chủ nhiệm, Quản lý : Amédée Clémenti )
14 Bd Doudart-de-Lagré Hanoi
Directeur-gérant : Amédée Clémenti ( Chủ nhiệm, Quản lý : Amédée Clémenti )
14 Bd Doudart-de-Lagré Hanoi
và giòng chữ lớn đăng hết cả bề ngang trên trang nhất :
Le Parti de L' Indépendance Annamite ( Ðảng An nam Ðộc Lập )
Anh nét mặt hớn hở, hỏi thăm Tuấn :
- Anh được hai tờ này hồi nào vậy, anh ?
- Lúc nãy. Sau khi nhóm ở nhà anh Phạm Ðào Nguyên. Chính anh Nguyên trao tôi hao tờ báo này. Tôi cũng chưa xem.
Trâm mừng rỡ lấy tay chỉ một câu in nét đậm ba cột trên tờ Việt Nam Hồn và reo thầm lên :
- Bài này hay quá, anh ơi... Ồ thích quá, anh !
Tuấn gấp tờ L' Argus Indochinois lại để xem tờ Việt Nam Hồn trước.
Vai sát vai, ba đầu xanh kề nhau trìu mến, cúi xuống tờ báo in toàn chữ đỏ trên giấy trắng. Hai cặp mắt huyền lónh lánh, mê nhìn theo ngón tay của Tuấn chỉ từng giòng trừng chữ bài thơ sau đây trong lúc miệng của Tuấn đọc rất khẽ, chỉ đủ cho ba người nghe với nhau :
Cảnh Tỉnh
Hãy thức dậy, hởi người say ngủ,
Chuông Tự Do rền ngũ đại châu
Xôn xao khắp cả hoàn cầu
Sao ta cứ chịu vùi đầu giấc mê ?
Chân ta cứ kéo lê xiềng xích ?
Cổ ta mang nặng chịch gông cùm ?
Nào ta trổi dậy vẫy vùng,
Sao cho xứng đáng con Rồng cháu Tiên.
Chuông Tự Do rền ngũ đại châu
Xôn xao khắp cả hoàn cầu
Sao ta cứ chịu vùi đầu giấc mê ?
Chân ta cứ kéo lê xiềng xích ?
Cổ ta mang nặng chịch gông cùm ?
Nào ta trổi dậy vẫy vùng,
Sao cho xứng đáng con Rồng cháu Tiên.
. . . . . . . . . . . . . . . .
Ðọc hết tờ báo Việt Nam Hồn, Tuấn và Trâm, Anh, đều rạo rực vui sướng vì những bài kịch liệt chửi Tây, hô hào cách mạng, đả đảo chế độ thuộc địa, đòi Ðộc Lập Tự Do. Trời ơi ! Sao ở bên Tây, người An nam mình viết báo chửi Tây sướng quá vậy hỉ ! Tuấn nhảy nhổm lên. Tuấn reo cười thoải mái. Tuấn đi qua đi lại. Tuấn đứng một chỗ không yên. Tuấn ngồi xuống.
Tuấn điên mất rồi ! Hai trang báo in toàn chữ đỏ như làm phừng lên những ngọn lửa huyền diệu trong lòng cậu học trò 16 tuổi, mà trái tim bổng dưng sùng sục sôi lên.
Trâm và Anh thì ngồi yên lặng dưới ánh đèn, cúi đầu xuống chép trong quyển vở những đoạn văn và những bài thơ mà hai cô nữ sinh 14 và 15 tuổi đang say sưa trích trong " Việt Nam Hồn " Tên tờ báo đúng làm sao ! Ðêm nay thật như có Hồn Thiêng của Nước Mẹ Việt Nam nhập vào ba linh hồn ngây thơ của ba đứa trẻ, khiến chúng rạo rực lên, say mê lên, hăng hái lên, cười lên, reo lên !...
Trâm và Anh ngồi chép mấy bài thơ trong Việt Nam Hồn, và những giọt nước mắt êm đềm lặng lẽ từ trên hai cặp mắt huyền mơ diễm lệ rơi từ từ xuống hai trang giấy, đọng trên những vần thơ, nhòa ra nét mực. Thơ của Việt Nam Hồn có thần lực gì mà một đứa con trai khờ khạo, và hai cô gái mảnh khảnh nhu mì, đang bị rung cảm mảnh liệt đến trào ra những ngấn lệ ? Họ khẽ hỏi nhau : ông Nguyễn thế Truyền là ai vậy ? Các nhà ái quốc cách mạng khác làm thơ và viết trong tờ Việt Nam Hồn là ai ? Ba trò còn nhỏ tuổi qúa, làm sao biết được ! Nhưng Tuấn nghĩ rằng các ông có ngờ đâu những tư tưởng cách mạng Tự Do, Ðộc Lập in trên hai trang báo nhào nát của các ông từ bên Tây gởi lén về, đã lọt vào ba mái tóc xanh khắn khít bên ngọn đèn leo lét, trong một thành phố nhỏ ở Trung Kỳ. Ðối với Tuấn cũng như với Trâm, Anh, tên Nguyễn thế Truyền là một thần tượng, như Phan chu Trinh và Phan bội Châu vậy.
Ðến khi đọc qua tờ báo tây L' Argus Indochinois, Tuấn kinh ngạc vô cùng. Ðây cũng là tờ báo cách mạng nhưng viết bằng chữ Tây, xuất bản tại Hà nội, mà chủ nhiệm kiêm chủ bút là người Tây, ông Amédée Clémenti. Trâm hỏi Tuấn :
- Tây mà sao cũng viết báo chửi Tây, hả anh ?
Tuấn không trả lời được. Tuấn đã biết gì đâu việc làm báo và làm " quốc sự ". Thấy thế chỉ biết thế thôi, L' Argus Indochinois in trên giấy xanh, bốn trang rộng lớn đăng toàn những bài đả kích kịch liệt chế độ thuộc địa (le régime colorial) -- danh từ thường dùng nhất trong tờ báo này và rất hăng hái bênh vực người An nam được tự do, nước An nam được độc lập. Trên đầu tờ báo này bên cạnh tên báo, có vẻ một con chim Minh Trĩ ( L' Argus ) với hai chữ la-tinh : unguibus et rostro ( dùng mỏ và móng ). Ý hẳn ông Amédée Clémenti mượn con Minh Trĩ làm tượng trưng cho cuộc tranh đấu cách mạng của ông để binh vực quyền lợi của dân tộc An nam và nước An nam. Cuộc tranh đấu dai dẳng dùng mỏ để cắn, dùng móng chân để đá, nghĩa là quyết liệt, không bao giờ nhượng bộ.
Có điều Tuấn và hai cô bạn học trò lớp Nhất cứ thắc mắc mãi là sao lại có một ông Tây ở Hà nội viết báo chửi Tây còn hơn An nam nữa ?
Những bài báo L' Argus Indochinois ở Hà nội và các bài trong Việt Nam Hồn ở Paris đã gieo thẳng vào óc của Tuấn cũng như Trâm, Anh, một tinh thần cách mạng mãnh liệt hơn bao giờ hết.
Sau khi họ xem xong hai tờ báo không sót một câu một chữ, và chép hết những bài văn bài thơ cảm đông nhất thì trời đã sáng. Hai cô học trò vội vàng tìm chỗ kín đáo để giấu cất những giai phẩm văn chương cách mạng ấy.
Nguyễn Vỹ
Tuấn Chàng Trai Nước Việt
CHƯƠNG 16
1926
- Nghĩ Hè, học sinh góp tiền, nhờ giáo sư đem ra Huế tặng cụ Phan bội Châu.
- Một bà vợ Thành Thái bị Vua chém sứt mất vú.v
- Một bà vợ Thành Thái bị Vua chém sứt mất vú.v
Với mặt trời đã mọc lên cao trên mặt biển, chiếu ánh sáng ấm áp trên thành phố, đời sống rộn rịp lại tiếp tục như mọi ngày, không có gì thay đổi. Ông Cò Tây với bộ râu cá trê, và một người lính " phú lít " An nam cỡi xe máy đi chầm chậm trên con đường lớn, mắt tròn xoe ngó hai bên hàng phố. Nhiều người đi đường cất nón hoặc dở mũ chào. Sáng nay là Chủ Nhật, trò Tuấn đi về nhà, lê đôi quốc cùn kêu lẹp kẹp...lẹp kẹp..., vừa đi vừa huýt gió. Trò giâú hai tờ báo trong lưng quần, dưới lớp áo trắng dài quá đầu gối độ 10 phân. Ông Cò râu cá trê xoe tròn hai con mắt nhình trò. Trò là bộ cười và chào bằng tiếng Tây :
- Bonjour Monsieur le Commissaire de police ! ( Chào ông Cò )
Ông Tây gật đầu cười :
- Bonjour, jeune home ! ( chào cậu bé ! )
Tuấn mang lén hai tờ báo về nhà trọ, định xem lại một lần nữa rôì đem đến cho trò Quỳnh trò Tố xem.
Muà hè 1925, học trò trường Qui-Nhơn xôn xao vì một cái tin đã gây ra nhiều tai tiếng cho một ông Ðốc ( Giáo sư An nam ) chung quanh một số tiền đóng góp gởi ra tặng cụ Phan bội Châu ở Huế. Vụ góp tiền không hiểu do ai đề xướng ra, nhưng một tháng trước ngày nghĩ Hè, học trò các lớp lớn, nghĩa là Ðệ Nhất, Ðệ Nhị, Ðệ Tam niên, bảo nhau đem tiền đến góp tại nhà ông đốc Bính, người Bắc Kỳ. Ông này, như đã có nhắc đến nhiêù lần ở mấy chương trước, vì có đầu óc cách mạng và đã nhiều lần tuyên truyền tư tưởng ái quốc trong đám học trò, nên rất được học trò tín cẩn và kính phục hơn hết các ông đốc khác. Học trò các lớp lớn cho rằng sự đóng góp tiền để giúp thầy Ðổng sĩ Bình bị tù ở ngục thất Ban Mê THuột và để gơỉ tặng cụ Phan bội Châu ở Bến Ngự, Huế, đều là một bổn phận mà học trò phải hăng hái làm tròn.
Ai cũng biết rằng cụ Phan bội Châu ở Bến Ngự là do tiền của đồng bào nuôi, tiền của những người ở khắp các tầng lớp xã hội, từ Bắc chí Nam, ai có tính yêu nước và có lòng sung bái bậc anh hùng chí sĩ đều tự động gởi đến tặng cụ. Việc ấy dĩ nhiên, vì cụ Phan bội Châu làm cách mạng ở hải ngoại về, làm gì có tiền.
Tuấn có nói việc ấy cho Trâm và Anh nghe, hai cô bạn lớp Nhất cũng tán thành :" Phải chớ ! Cụ làm cách mạng cho ai ! Cho Quốc Dân đồng bào, ( những danh từ này thường đúng nhất lúc bấy giờ ). Cụ là bậc cha già của Quốc Dân phải có bổn phận phụng dưỡng cụ ".
Nghe nói đồng bào ở tỉnh nào cũng có gởi tiền về tặng cụ. THành phớ Qui-Nhơn cũng đã có nhiều người góp tiền đem ra Huế tặng tận tay cụ, vì không dám gởi mănh đa, sợ các quan Tây hay được sẽ bỏ tù.
Về phần trường Qui-Nhơn thì học trò biết rằng đến kỳ nghĩ hè có ông Ðốc Bính về thăm quê nhà ở Bắc kỳ, sẽ Huế thăm cụ Phan. Ðó là cơ hội rất tốt để học trò góp tiền nhờ ông Ðốc trao tận tay cụ. Bọn học trò con nhà giàu thì sẳn tiền, còn tụi nhà nghèo lo nghĩ ngày đêm không biết làm cách nào có tiền để tặng cụ Phan ? Tuy là người nào tuỳ tiện góp riêng người đó, chứ không phải góp chung và không ai bắt buộc ai cả, nhưng trò nào không có tiền thật là đau khổ, lương tâm cắn rứt, tự coi như là chính mình trốn tránh bổn phận đối với " Quốc Dân Ðồng Bào " !
Còn 7 ngày nữa, thì đến nghỉ Hè, mà trò Tuấn không có một xu trong túi, Măng đa ở nhà cha mẹ gửi cho trước đó nửa tháng, trò đã lấy trả tiền cơm, và các món nợ vặt vãnh còn dư được một vài đồng trò mua kẹo thèo lèo đãi Trâm và Anh, hai cô bạn lớp Nhất cuối niên khóa đã thi đỗ "ri-me ". Chợt đến vụ góp tiền tặng cụ Phan bội Châu, Tuấn không còn một đồng xu. Tuấn nằm khóc thút thít một mình.
Bảy ngày liên tiếp, Tuấn tự lấy làm hổ thẹn, biệt có dám bước chân đến nhà hai cô bạn Trâm, Anh. Chờ mãi Tuấn không được, hai cô đến nhà trọ tìm Tuấn, nhưng Tuấn lánh mặt.
Ðến ngày phát phần thưởng cuối niên khóa, trò Tuấn vui mừng được lãnh thưởng 3 quyển sách mới thật đẹp. Tan buổi, Tuấn ôm sách đi gạ bán cho mấy thằng bạn nhà giàu. Trong số đó có thằng Nguyễn văn X., con nhà bá hộ nhưng học kém, không được phần thưởng, Tuấn đến gạ nó :
- Tao bán cho mầy ba quyển sách này có đóng dấu của ông Ðìa-réc-tơ tặng thưởng. Mầy đem về khoe với cha mẹ mầy là chính sách phần thưởng của mầy, chắc ởng bả mừng lắm và cưng mầy lắm.
Con nhà bá hộ nghe bùi tai, bằn lòng lập tức. Tuấn theo giá sách đòi 10 đồng bạc, thằng bạn lấy trao Tuấn đủ số, không mặc cả. Tuấn mừng quýnh, chạy đến nhà ông Ðốc Bính, góp 9 đồng vào số tiền tặng cụ Phan bôị Châu. Còn dư 1 đồng, Tuấn mua kẹo thèo lèo đãi Trâm và Anh. Hai cô cũng đã góp mỗi cô 4 đồng nhờ Tuấn trao lại ông Ðốc Bính.
Sau kỳ nghỉ Hè, xẩy ra chuyện tai tiếng rùm beng cả thành phố. Thầy trợ giáo lớp Ba cũng có đi Huế thăm cụ Phan. Khi trở về Qui-nhơn, thầy mét với học trò rằng ra Huế ông Ðốc Bính đã ăn xén bớt một nửa số tiền của học trò đóng góp, chỉ trao tặng cụ Phan một nửa số thôi. Mặc dầu Tuấn và đa số học trò không tin hành động bất lương ấy của ông Ðốc Bính, nhưng một số khác vẫn tin à nhất là mấy ông Ðốc và mấy thầy Trợ giáo không có cảm tình với ông Ðốc Bính.
Việc thứ hai là một thằng bạn xỏ-lá ở cùng làng với con nhà bá hộ, và cũng không được phần thưởng, đã mét với ông bá hộ là thằng con ông đã mua lại sách thưởng của thằng Tuấn. Ông bá hộ nghe lời trò kia, liền đè con xuống đánh một trận nên thân. Gần ngày tựu trường, trò Nguyễn văn X. trả ba quyển sách lại cho Tuấn và đòi lại số tiền 10 đồng...Tuấn phải bán sách cho đứa khác mới có tiền trả lại cho nó.
1924-1927, ba năm...Biết bao nhiêu là thay đổi trong đầu óc người thanh niên Việt Nam ! Cũng như đại đa số, có thể nói là hầu hết thanh niên học sinh Trung kỳ, Bắc kỳ và Nam kỳ, Tuấn năm 1927 đã khác hẳn Tuấn 1924.
Chàng trai nước Việt 1927 không còn vô tư, ngớ ngẩn, khờ khạo, như chàng trai 1924. Hắn không còn say mê điệu quốc ca La Marseillaise của Pháp nữa. Hắn đã ghét lá cờ tam tài xanh-trắng-đỏ. Hắn đã hết sợ ông Tây bà Ðầm, và đã tức giận Tây là kẻ lấy quyền thế, ỷ văn minh, ỷ mạnh, dày xéo trên đất nước An nam, bốc lột dân An nam, khinh khi Nòi giống An nam.
Tuy vậy, tâm hồn các bạn trẻ này hãy còn chất phác, ngây thơ chưa hiểu biết gì nhiều về chính trị trong nước cũng như chưa có ý thức rõ rệt về vai trò của thanh niên đối với chế độ thuộc địa. Ðại khái là thù Tây, ghét Tây ! nhưng vẫn thích học và thích nói tiếng Tây, viết chữ Tây. Ghét chế độ quân chủ, nhưng lại vẫn tôn sùng các ông Vua ghét Tây và đã chống lại Tây. Những vị Hoàng đế như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân đều được bọn học trò và toàn thể thanh niên chiêm ngưỡng. Những chuyện gì dính líu đến các vì Vua ấy đều được kể cho nhau nghe, và ai nấy đều tin, nhất là những chuyện hoang đường để chứng minh rằng các vua ấy là minh quân, quả có cái mạng "Ðế vương của Trời ban cho để cứu nước An nam ".
Một ông tú tài Nho học kể cho Tuấn nghe rằng vua Tự Ðức đi tiêu, ẻ ra cục c... vuông, chứ không phải cục tròn như người phàm tục. Tuấn tin ngay và vội vàng đi kể lại cho nhiều người nghe. Học trò đứa nào cũng tin. Nhiều thầy Trợ giáo cũng tin. Dân chúng thành phố thì ai cũng tin cả. Tất cả đều tin. Chẳng ai cần biết rằng lính vua Tự Ðức đánh Tây ở cửa Hàng, ở Hà Nội, ở Lục Tỉnh trận nào trận nấy đều thua liểng xiểng, rốt cuộc để Tây lấy mất cả nước An nam. Nhưng điều đó không quan hệ. Chỉ một việc đánh Tây, cũng đã là một hành động minh quân rồi, có mạng Ðế vương, đáng " vì thiên tử ".
Tuấn khoái đem câu chuyện cục c...vuông của vua Tự Ðức đi nói cùng cả cho mọi người nghe. Ai cũng cười xòa lên cho đến anh " cu li " xe kéo và chú thợ nề cũng biết và trầm trồ kính phục vua Tự Ðức.
Một hôm, ở trường, trong giờ ra chơi, ông giáo sư Pháp văn, tên là Arago, tính ứa khôi hài và thích chọc trò Tuấn, vừa cười vừa hỏi Tuấn :
- Có phải ông Vua An nam ẻ cục c..vuông không Tuấn ?
Tuấn hết sức ngạc nhiên, khôn gdè các ông giáo sư Pháp cũng nghe chuyện đó, và Tuấn tự thấy hơi lố bịch đối với người Pháp, nên Tuấn trả lời :
- Ai bảo với ông thế ? Những ông vua nước Pháp hồi trước như Louis XIV, có ẻ cục c.. vuông không ?
Ông giáo sư cười hà hà, cú nhẹ trên đầu Tuấn một cái.
Ðaị khái có một chuyẹn lạ nữa mà ai cũng tin, là chuyện Vua Thành Thái ra thăm núi Ngũ Hành Sơn ở Ðà Nẵng. Nơi đây, tong một động núi có hai cái vú đá thiên nhiên rất đẹp, giống hệt như đôi vú vun vén đầy đặn của đàn bà. Nguồn nước trong veo từ đôi vú ấy chảy ra thường xuyên từng giọt, nhỏ xuống hai chậu đá cũng thiên nhiên đặt ngay dưới vú. Các vị tu sĩ ở Ngũ Hành Sơn thay phiên nhau ra múc nưóc thiêng âý đem vào cúng Phật. Bổng một hôm đức Vua Thành Thái ngự du ra xem thắng cảnh, trông thấy đôi "vú thần "đẹp quá. Ngài tinh nghịch đưa tay ra bóp một cái, tự nhiên vú tịt ngòi không chảy nữa. Mãi cho đến sau này, cái vú ấy vẫn cứ câm luôn. Chỉ còn một cái tiếp tục htường xuyên chảy nước là cái vú vô duyên không có vinh hạnh được bàn tay đế vương rờ bóp. Lúc mới nghe, Tuấn cho câu chuyện ấy là hoang đường, phi lý, nhưng mấy cậu học trò quê ờ Quảng Nam, đều quả quyết là chuyện thật 100 phần 100. Hâù hết, những bạn này đều nói có đi xem núi Ngũ Hành Sơn và xác nhận sự kiện lịch sử ấy.
Việc Vua Thành Thái bóp vú đá ở Ngũ Hành Sơn cũng được truyền tụng khắp cả thành phố, và cũng do đam học sinh Ðệ Nhất, Ðệ Nhĩ, và Ðệ Tam niên loan ra.
Một hôm anh Phạm Ðào Nghuyên, thư ký hãng Descours et Cabaud, mét riêng cho trò Tuấn biết rằng người vợ An nam hiện tại của ông Tây Delorme, ở cạnh nhà thờ Thiên chúa, trước kia chính là một trong những bà vợ của Vua Thành Thái, và bà này hiện chỉ có một cái vú độc nhất ở bên trái, vì cái vú bên phải đã bị Vua Thành Thái cầm gươm chém đứt, Phạm đào Nguyên nói và cười, nhưng quả quyết là đúng sự thật. Thấy Tuấn lắc đầu không tin, thầy thư ký hãng Descours et Cabaud bảp Tuấn :
- Nếu anh không tin, cứ việc đến hỏi thẳng bà Delorme, Bả sẽ nói chuyện cho nghe.
Tuấn cho là một chuyện khôi hài, nhưng nó vẫn bị ám ảnh kinh khủng bở cái vú " lịch sử " của bà vợ Tây mà Phạm đào Nguyên qủa quyết bảo trước kia là vợ của Vua Thành Thái. Óc tưởng tượng của tuổi thanh niên, và thêm vào đấy cái tính tò mò học hỏi sẳn có của Tuấn, bị căng thẳng đến tột độ, khiến Tuấn cả đêm không sao ngủ được. Ðến khi ngủ mê, Tuấn chiêm bao thấy cái vú của bà vợ Tây bị Vua Thành Thái cầm gươm chém một nhát phun cả máu ra. Tuấn ú ớ hét lên một tiếng kinh khủng rồi giật mình thức giấc. Cả nhà trọ đều hoảng hốt thức dậy hết. Họ thắp đèn lên và hỏi Tuấn. Cậu học trò ướt đẩm mồ hôi điềm nhiên kể lại :
- Tui thấy bà Delorme có hai cái vú thiệt đẹp, bị vua Thành Thái cầm gươm chém một cái đứt ra chảy đẩm cả máu me. Tui sợ quá hồn vía bay đâu mất !
Cả nhà đều cười xòa mà chế nhạo trò Tuấn là mê đôi vú của bà me Tây. Mắc cỡ, nhưng muốn biết rỏ sự thật, sáng Chủ Nhật, mặc áo dài trắng của học trò, đội mũ trắng, lê đôi quốc cùn đến nhà bà Dolerme. Ông Tây chồng bà đi Saigon, bà đang dạo vườn bắt sâu cho mấy khóm hoa. Cái cổng bằng gỗ mở một cánh. Tuấn đi qua đi lại hai ba vòng, mắt cứ lấm lét ngó vào vườn hoa nhưng không dám vào. May thay bà vợ Tây dừng lại nhìn trò Tuấn rồi mĩm cười nói bằng tiếng Huế :
- Câu kia đi mô rứa ? Ngó chi rứa ? Muốn xin bông hỉ ?
Tuấn cười :
- Dạ, bông gì đẹp quá, bà cho tui một cành được không ?
- Ðược, vô trong ni tui cho.
Thế là Tuấn vào. Ðôi mắt tò mò của Tuấn cứ ngó ngay lên bộ ngực bà, vun vèn đầy đặn cả đôi dưới lờp sơ mi mỏng bằng hàng ngoại quốc. Bà trạc độ 40 tuổi, rất đẹp. Tuấn hồi đó 16 tuổi thôi. Bà cười rất tự nhiên hỏi :
- Răng cậu cứ nhìn cái ngực của tui dữ rứa ?
Tuấn bẽn-lẽn hỏi :
- Thưa bà,phải hồi trước bà là vợ vua Thành Thái không ?
- Phải, trước tê tui là cung phi của đức ngài Thành Thái.
- Tui nghe họ đồn là nhà Vua chặt mất một cái vú của Bà, có đúng không Bà ?
- Ðúng như, như rứa đó.
Xong, bà vui vẻ cởi nút áo ra,phanh một nửa chiếc áo sơ mi để hở một nửa ngực cho Tuấn xem. Bà chỉ cái chỗ vú bên phải :
- Cái ni này.
Tuấn thấy không có cái vú ở chỗ đó nữa, da ngực bằng phẳng chỉ còn một vết thẹo lớn mà thôi. Vú bên trái còn nguyên vẹn thì bà vẫn cầm nữa áo che kín, không cho Tuấn xem. Vã lại, trò Tuấn đâu có đòi xem cái vú còn nguyên vẹn. Xong, bà cựu Cung Phi cài khuy áo lại. Tuấn hỏi :
- Sao Vua Thành Thái lại chém cái vú của bà chi rứa ?
- Tại ri nè. Ngài lo việc đánh Tây. Cho nên sáng mô Ngài cũng bắt Cung Phi Cung Nữ ra vườn tập trận. Ngài ra lịnh trồng chuối chung quanh vườn, cứ cách một khỏang trồng một cây chuối. Ngài truyền Cung phi cưỡi ngựa, cầm gươm, rôì phi ngựa chạy ngang qua giây chuối. Ngài Ngự ngồi ghế truyền lịnh chém cây mô thì phải chém cây nớ. Taị con ngựa của tui nó sợ quá, đến gần chỗ Ngài ngôì là nó nhảy vồ lên, làm tui cũng thiếu điều bổ xuống đất, tui đưa gươm ra chém cây chuối mà không trúng. Ngài Ngự nổi giận liền chạy tới đưa gươm chém vô người tui một phát lại trúng cái ngực, đứt cái vú.Tui bổ xuống đất, máu chảy ra lai láng mà tui không dám kêu.Rôì tui chết giấc luôn. Sau đó nhờ dán thuốc dán lâu ngày cũng khỏi, bây giờ thành thẹo như rứa đó.
Tuấn đứng nghe choáng váng cả mặt mày, muốn té xỉu luôn bên bồn hoa của bà Cựu Cung phi...Bà bẻ cho Tuấn một cành hoa, bảo Tuấn vô nhà chơi, bà cho coi nhiều đồ Tây đẹp lắm. Nhưng Tuấn mắc cỡ, cất mũ chào bà rôì chạy biến ra đường.
Nguyễn Vỹ
Tuấn Chàng Trai Nước Việt
CHƯƠNG 17
1926
- Phong trào học trò mặc Âu Phục bằng vải nội hoá.
- Phản ứng của các giáo sư Pháp.
- Phản ứng của giới thủ-cựu An-nam.
- Phản ứng của các giáo sư Pháp.
- Phản ứng của giới thủ-cựu An-nam.
Một buổi sáng thứ Hai, trống đánh tựu trường được một lúc, thì ông "Ðìa " ( học trò gọi tắt ông Ðìa-réc-tơ Deydier ) và các giáo sư PhápNam đều hết sức ngạc nhiên thấy đa số học rò các lớp lớn từ Ðệ Nhất niên lên Ðệ Tứ niên, đi học đều mặc âu phục. Ông Ðìa và các giáo sư đều gọi đó là " một cuộc cách mạng " ! Vì lần đâù tiên học sinh Qui-nhơn, và cùng một lúc cả học sinh toàn quốc, đi học mặc đồ Tây !
Trước đó, từ Bắc chí Nam, học trò chỉ mặc áo dài An nam, và mang quốc, hoặc đi chưn không. Học trò Bắc kỳ mặc áo the thâm hoặc áo vải quyến trắng. Học trò Trung kỳ mặc áo trăng đầm đen, và quần vải quyến trắng. Học trò Nam kỳ mặc đồ bà ba trắng, chỉ có con nhà giàu sang mới mặc đồ Tây, mang giày tây. Ở Trung kỳ và Bắc kỳ, học trò mặc đồ Tây là việc hi hữu, dù là con nhà giàu hay con nhà quan.
Bỗng dưng, sau vụ Phan bội Châu, Phan chu Trinh 1925-1926, học sinh Trung học cả ba Kỳ đều bảo nhau mặc đồ Tây hết, và đồ Tây may bằng vải nội hóa.
Khởi điểm phong trào đi học mặc đồ Tây là học sinh Quốc Học Huế. Còn cuộc vận động may đồ Tây bằng vải nôị hóa lại là do học sinh trường Qui-nhơn. Nói cho đúng với sự kiện lịch sử và xã hội, thì hai phong trào kia đều do ảnh hưởng đời sống "Âu hóa "đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở Saigon trước tiên, từ ngày cụ Phan chu Trinh bị Tây bắt ở Thượng Hải đưa về Hà nội. Do cuộc tuyên truyền miệng, vì hầu hết những phong trào toàn quốc lúc bấy giờ đều do khẩu truyền mà ra, chứ không phải do nơi cổ động trên báo chí An nam. Suốc cả thời kỳ cách mạng tiền chiến, báo chí đều chỉ đóng vai trò thụ động. Hoặc họ phê bình đã phá các phong trào ái quốc theo mệnh lệnh của Tây. Chưa bao giờ trong thời kỳ sôi nổi 1925-1927, báo chí An nam đóng vai tiền phong hay chủ động, dẩn dắt quần chúng. La Cloche Félée của Nguyễn An Ninh, và La Jeune Indochine của Vũ đình Dy ở Saigon, Tiếng Dân của cụ Huỳnh thúc Kháng ở Huế, L'Argus Indochinois của Amédée Clémenti ở Hà nội, là những cơ quan tranh đâu độc lập, của những nhà trí thức cách mạng An nam và Tây.
Phong trào học trò đi học mặc đồ Tây bằng vải nội hóa, năm 1927, cũng không phải do báo chí cách mạng phát động. Trái lại, có nhiều tờ báo lại còn làm thơ con cóc và đem những triết lý đạo đức vụn ra mà chế nhạo nữa là khác. Mặc kệ, bọn học trò bảo nhau : Tây họ thấy tụi mình mặc áo quần Annam, họ khinh mình là nhà quê, họ chửi mình là " sale race " ( nòi giống nhơ bẩn ), thì từ nay tụi mình mặc đồ Tây đi học để có ý như khiêu khích.
Hôm ấy, trò Quỳnh, trò Hảo, trò Thu, trò Tuấn, trò Ứng, ngôì bàn chuyện tại nhà thầy Phạm đào Nguyên về vấn đề mặc đồ Tây, do mấy anh Quốc Học ở Huế vô đề xướng hôm trước. Lần đầu, trò Hảo còn e ngại :
- Tuị mình mặc đồ Tậy, sợ ông Ðìa với các ông giáo sư cho tụi mình là vô lễ, hay làm phách thì sao ?
Trò Thu chuyên môn giọng cười hài hước :
- Mõa mặc đồ Tây mà mõa cứ học thuộc bài, khỏi ăn hột vịt là mõa " mang phú ". Mấy ông giáo sư mặc đồ Tây có làm phách và vô lễ với ông Ðìa không ?
Quỳnh :
- Tao chỉ sợ xin tiền may đồ Tây, cha tao hổng cho.
Tuấn :
- Tao thì tao năn nỉ anh thợ may cho tao may chịu, rôì nghỉ hè vô sẽ trả tiền.
Hảo cười hì hì :
- Nghỉ hè vô, mày bán bộ đồ Tây đó để trả tiền cho thợ may hả ?
- Nghỉ hè về quê, tao diện đồ Tây, đeo cờ-ra-oách cho oai thì cha mẹ tao khóai mắt, nhứt định là cho tao tiền.
Hảo :
- Ông già bà già tao thì dễ lắm. Ổng mặc đồ Tây, thì ổng cũng thích tao mặc đồ Tây cho giống ổng. Nhưng tao sợ tụi mình mặc đồ Tây đi học thì ông Ðìa cấm, không cho mặc.
Nghĩ đến trường hợp có thể ông Ðìa cấm học trò đi học mặc đồ Tây, trò nào cũng ái ngại. Nhưng Tuấn bảo :
- Tao thì tao hổng sợ ông Ðìa cấm. Cấm là vô lý. Tao chỉ sợ lảo Gabriel càng ghét tao và suốt năm cứ cho tao ăn trứng vịt. Nhưng tao đếch cần !
- Mầy có lảo Arago với lảo Antomachi thương mày. Hễ giờ Toán, Gabriel cho mày zéro thì qua giờ Luận Pháp văn ông Antomachi cho mầy 9 sur 10. Ông Arago cho mầy Lecture cũng 9 sur 10. Cái này bù qua cái kia.
- Ừ, vậy cho nên tao đâu có sợ lão Gabriel !
Rốt cuộc rồi ai cũng tán thành mặc đồ Tây đi học. Nếu xẩy ra chuyện gì, sẽ liệu sau. Nhưng Tuấn đề nghị may bằng vải nội hóa, đừng thèm may vải tây. Cãi nhau một hồi lâu rồi tất cả chịu may bằng vải nội hóa Quảng Nam. Vải dệt ở Qui-nhơn và Quảng Ngãi không đẹp bằng dệt ở Quảng Nam, mấy anh thợ may bảo thế.
Phong trào vận động may đồ Tây được tuyên truyền miệng khắp giới học sinh các lớp Trung học. Học sinh Tiểu học còn nhỏ tuổi, hầu hết các bậc phụ huynh các em không cho mặc đồ Tây. Thế là nửa tháng sau, hai phần ba số học trò lớn đều có mỗi trò một bộ đồ Âu phục bằng vải nội hóa. Họ gọi là là " Nhứt bộ " vì trò nào cũng chỉ kiếm tiền may được một bộ mà thôi. Còn một phần ba, tụi nhát gan nhất, sợ mặc đồ Tây sẽ bị ông Ðìa phạt và giáo sư ghét, thì nhất định tiếp tục áo dài đen, quần trắng, mang guốc.
Sáng thứ Hai ấy, Tuấn dậy thật sớm, tắm rửa sạch sẽ để làm lễ khánh thành bộ đồ tây đầu tiên của trò. Sau khi chãi tóc rẽ trois quarts thật bảnh bao, Tuấn trịnh trọng mặc sơ mi trắng tinh, chiếc sơ mi mới may duy nhất và cẩn thận cài từng nút xa cừ. Thắt cà-ra-óach, thì đã nhờ anh thợ may bày cho, và Tuấn đã tập mãi ngày Chủ Nhật để thắt cho đẹp và cho ngay thẳng giữa cổ.
Xong, không mặc quần đùi vì Tuấn ghét mặc quần đùi, cứ ở truồng như thế Tuấn lấy nhè nhẹ cái quần tây, xỏ nhè nhẹ vào hai ống chân, sợ nó mất plis. Hai tay cầm hai bên lưng quần. Tuấn cúi xuống ngó từ dưới ngó lên xem có ngay thẳng không, rồi mới cài nút. Thắt dây lưng vải, vì hồi đó chưa có tiệm nào bán thắt lưng da ( Anh thợ may giùm cái thắt lưng vải, Tuấn phải trả thêm hai đồng bạc ). Tuấn tròng vô nhè nhẹ cái áo veste...Theo thời trang đời bấy giờ mặc đồ Tây phải mặc complet đủ bộ quân và áo, chứ không ai mặc sơ mi trần. Học trò cũng mặc "đồ lớn " như người lớn vậy. Ðến việc mang giầy, mà không có vớ. Vì mua vớ tốn tiền thêm, và chủ tiệm không bán chịu. Chỉ có anh thợ may là bằng lòng may chịu mà thôi. Dĩ nhiên là trò Tuấn may chịu cả cái cà la oách gía tiền thêm hai đồng nữa, vì chưa có tiệm nào bán cà-la-oách cả.
Xong đâu vào đấy trò Tuấn ngắm nghía trong tủ kiến của ông chủ nhà, tự thấy ngượng ngùng mắc cỡ, muốn cởi ra xếp cất trở vào va li. Người đầu tiên trông thấy Tuấn mặc đồ Tây là cô con gái ông chủ nhà, 14 tuổi, học lớp Nhì. Cô Công Tôn Nữ Thị Linh khen :" Anh Tuấn mặc đồ tây đẹp quá ! " và cứ đứng đó trầm trồ khen mãi. Cô còn chạy xuống bếp gọi :" Mạ ơi, lên coi anh Tuấn mặc đồ tây đẹp quá, nè Mạ ! " Tuấn mắc cỡ, hoảng hồn, chạy vô buồng trốn mất, không dám thò đầu ra...
Thấy Tuấn lần đầu tiên mặc đồ Tây bẽn lẽn, bà chủ nhà và cô con gái cười rồ lên rồi đi tránh xuống bếp. Ðợi một lúc lâu, trong nhà lặng lẽ, Tuấn mơí khẽ cửa buồng và chạy phóng ra ngoài đường. Tuấn rất khổ sở, còn phải rang chịu ái cực hình bị hai bên hàng phố dòm ngó cậu. Phần nhiều dân thành phố tủm tỉm cười và trầm trồ khen ngợi thấy các cậu mặc bộ quần áo tây đi học, như hầu hết học trò lớn trường Qui-nhơn sáng hôm ấy.
Các ông giáo sư Pháp nhìn sự thay đổi đồng phục đột ngột ấy với cặp mắt tò mò đầy cảm tình. Nhưng đa số các ông Ðốc, và giáo sư An nam, thì, trái lại, hình như không tán thành. Vài ông, như ông đốc Th. dạy môn Luân Lý, ông đốc V. dạy Quốc văn, còn có vẻ ác cảm rõ rệt. Ngay trong giờ Luân Lý buổi chiều ở lớp Ðệ Tam niên, ông Th. giảng về " Le respect de soi " ( sự tự trọng ) đã nói bằng giọng mĩa mai :" Thí dụ như người học trò còn đi học mà bắt chước mặc y phục như người lớn, cũng mang giày tây, mặc quần áo tây, chỉ tỏ ra thiếu sự tự trọng, và chỉ đáng khinh khi ".
Toàn thể học trò trong lớp đều hiểu rằng ông giáo sư muọn bài học luân lý để công kích những trò mặc đồ Tây, mang giầy Tây -- nghĩa là gần hết cả lớp, trừ năm ba đứa mà thôi, những đứa nhút nhát còn mang quốc, mặc áo dài đen.
Ông đốc Tr., giáo sư Lý hoá, không nói gì, nhưng hôm ấy ông cho điểm gắt gao hơn thường lệ. Trò Tuấn được gọi lên bảng trả bài. Trò thuộc bài vanh vách, trả lời không vấp một câu một chữ, đáng lẽ như mọi khi trò được 9 điểm, hôm ấy chỉ được ông cho 6 điểm mà thôi. Tuấn đoán chừng tại vì ông ghét bộ đồ tây của Tuấn nên ông trừ mất 3 điểm.Tất cả các trò mặc đồ tây được gọi lên trả bài đều bị sụt điểm như thế.
Trái lại, trò Trân, lên bảng trả lời ấp úng, lại được ông giáo sư cho 8 điểm -- chắc chắn tại vì trò vẫn bảo thủ cái áo dài " trăng đầm "đen, và đi chân không.
Ðại khái phản ứng của một số giáo sư An nam là thế trong lúc chính họ vẫn mặc âu phục, may bằng vải serge bleu marine, hoặc bằng các tissus khác, toàn vải của Tây.
Giáo sư Pháp có những nhận xét công bằng và hợp lý hơn. Chính ông Gabriel, giáo sư Kỷ hà học, là người khó chịu nhất, hay quạu nhất, thực dân hạng nặng, mà vẫn tỏ ý tán thành học trò mặc đồ Tây.
Ông ghét trò Tuấn hơn ai hết, lúc nào cũng gườm gườm gọi Tuấn lên bảng để hỏi những câu bắt bí về Géometrie plane, để rồi thưởng cho trò những con zéro liên tiếp trong các giờ toán. Thế mà hôm đầu tiên Tuấn mặc đồ Tây đi học, ông khen Tuấn một câu : " Hôm nay mầy mặc đồ âu phục, coi cái mặt mày dễ thương hơn " Ông chỉ hỏi Tuấn sơ sài về một định lý, rồi cho Tuấn 8 điểm.
Nhưng quan trọng hơn cả là những nhận xét của ông Ðìa-réc-tơ Henri Deydier. Ông không phản đối sự học trò mặc âu phục đi học, nhưng theo một thông cáo bí mật của Toà Khâm Sứ Huế gửi cho ông Công Sứ Qui Nhơn và chuyển đạt qua ông Ðìa thì sự học trò mặc Âu phục đồng loạt như thế là một cuộc biều tình có tính cách chính trị. Ông Ðià đưa ra những lý do sau đây :
Không phải riêng học trò Qui Nhơn mà đây là một phong trào chung ở tất cả các Trung học Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ.
Cuộc " biểu tình bằng Âu phục " này xẩy ra ngay sau những cuộc xin ân xá Phan bội Châu và truy điệu Phan chu Trinh.
Học trò mặc Âu phục toàn bằng vải nội hóa.
Tuy nhiên những nhận xét của Chính Quyền Thuộc Ðịa Ðông Dương về cuộc " cách mạng quần áo ", danh từ chính thức thông dụng là " revolution vestimentaire " của học trò Trung học toàn quốc, không có hậu quả gì về thực tế. Ông Ðià có cho gọi mấy trò ở các lớp lớn Ðệ Tứ và Ðệ Tam niên hỏi :" Taị sao tự nhiên cả trường rũ nhau mặc đồ Tây ? " tất cả đều trả lời :" taị vì mặc Âu phục rất tiện lợi " ngoài ra không có mục đích gì về quốc sự cả ". Ông Ðìa có hỏi trò Tuấn :
- Tại sao mầy không may đồ Tây bằng vải Tây mà lại may bằng vải An nam ?
Tuấn trả lời :
- Thưa ông Ðốc, tại vì vải An nam rẻ tiền hơn. Tuị tui nghèo, đâu có tiền may vải tây.
Mặc dầu ông Ðià tỏ vẻ hoài nghi nhưng không rầy la, không hăm doạ, không cấm, như nhiều trò đã lo sợ lúc đầu. Rồi từ đấy, các trò mặc Âu phục tiếp tục mặc âu phục mãi, còn các trò nhút nhát dần dần cũng bắt chước theo. Qua năm 1927. sau kỳ nghỉ Hè, toàn thể học trò Trung học tong nước đều mặc Âu phục, trong lúc đi học cũng như đi chơi.
Ở thành phố, các giới đồng bào phản ứng khác nhau.
Ða số tán thành, nhất là giới nhà buôn, công chức và phụ nữ, các cô gái, đều nhiệt liệt hoan nghênh, khen " mấy anh học trò mặc đồ tây coi đẹp quá ".
Trò Tuấn mấy ngày đầu còn hơi mắc cỡ, nhưng sau đó trò thích chí cứ mặc đồ Tây suốt ngày. Cho đến lúc đi ngủ mới cởi thay. Chủ nhật và chiều thứ Năm được nghỉ. Tuấn với vài ba thằng bạn diện đồ Tây nội hóa, nhất bộ, đi chơi rong khắp phố. Ðược mấy cô gái đứng trong cửa sổ nhìn ra, các trò khoái lắm. Hai cô bạn Trâm và Anh vừa thi đậu " xẹc-ti-phi-ca " có làm một bài thơ bát cú tặng Tuấn như sau đây :
Anh mặc đồ tây, coi bảnh trai
Cổ đeo cà-vẹt, chân mang giầy,
Văn minh thế giới đều khai hóa
Học thức An Nam cũng hữu tài
Kinh sử văn chương không kém bạn
Tinh thần vật chất có thua ai ?
Mong anh giữ trọn tình yêu Nước,
Hồ thỉ tang bồng thõa chí trai.
Cổ đeo cà-vẹt, chân mang giầy,
Văn minh thế giới đều khai hóa
Học thức An Nam cũng hữu tài
Kinh sử văn chương không kém bạn
Tinh thần vật chất có thua ai ?
Mong anh giữ trọn tình yêu Nước,
Hồ thỉ tang bồng thõa chí trai.
Phạm thị Trâm - Nguyễn thị Ngọc-Anh
( Lớp Nhất, Collège Qui-Nhơn - 12-6-1926 )
( Lớp Nhất, Collège Qui-Nhơn - 12-6-1926 )
Trò Tuấn xem thơ, cảm động, có họa lại như sau :
Nhìn gương hổ thẹn kẻ làm trai,
Đầu đội mũ tây, gót nện giày
Ðèn sách mỗi ngày lo luyện chí
Văn minh bốn bể rang đua tài
Gái trai Hồng Lạc cùng chung sức
Con cháu Tiên Rồng há kém ai
Quần áo đổi thay, lòng chẳng đổi
Bao giờ quên được phận làm trai !
Đầu đội mũ tây, gót nện giày
Ðèn sách mỗi ngày lo luyện chí
Văn minh bốn bể rang đua tài
Gái trai Hồng Lạc cùng chung sức
Con cháu Tiên Rồng há kém ai
Quần áo đổi thay, lòng chẳng đổi
Bao giờ quên được phận làm trai !
Trần Tuấn
(Ðệ Nhị Niên, Collège Qui-Nhơn - 13-6-1926 )
Hai bài thơ học trò còn vụng về nhưng có một số người truyền nhau chép và đọc đang lúc phong trào mặc đồ Tây thịnh hành.
Nhân kỳ thi " xéc-ti-phi-ca" qui tụ tại Qui-nhơn tất cả học sinh tiểu học toàn tỉnh ( Phù Cát, Phù Mỹ, Bình Ðịnh, Bồng Sơn ) có rất đông các nhà Nho, các ông Tú, ông Cử, đem con đi thi, thành phố Qui-Nhơn rộn rịp lạ thường. Hai bài thơ trên kia cũng đến tai các phụ huynh học sinh Tiểu học. Một ông Tú, tên là Tú Tuyển, ở Gò-Bồi, có họa lại như sau đây :
Ðã được danh gì, các cậu trai ?
Cũng chưng Tây phục, cũng mang giầy ?
Văn minh Ðại Pháp cao vô lượng,
Y phục An Nam khéo đọ tài !
Cà vạt mũ tây coi có vẻ
Xôi kinh nếp sử chửa bằng ai,
Ðua nhau ăn diện làm chi rứa ?
Chỉ khéo trò cười, các cậu trai !
Cũng chưng Tây phục, cũng mang giầy ?
Văn minh Ðại Pháp cao vô lượng,
Y phục An Nam khéo đọ tài !
Cà vạt mũ tây coi có vẻ
Xôi kinh nếp sử chửa bằng ai,
Ðua nhau ăn diện làm chi rứa ?
Chỉ khéo trò cười, các cậu trai !
Tú Tài Trần Tuyển.
Bài thơ này khiến cho một số đông học trò dĩ nhiên phẫn uất. Trò Quỳnh chạy đến nhà trò Tuấn, đọc cho Tuấn nghe, rôì đọc luôn cả bài của Quỳnh đáp lại ( Phan Quỳnh và Trần Tuấn là hai trò có tiếng giỏi Quốc Văn trong lớp ). Quỳnh đã thức nửa đêm bỏ bài học Sử Ký, để họa bài thơ của Ông Tú Tuyển :
Ðến trường mang quốc thẹn chân trai
Theo bưóc văn minh nện gót giầy
Hán tự cùn mòn, quăng vứt xó
Pháp văn mới mẻ chạy đua tài.
Theo bưóc văn minh nện gót giầy
Hán tự cùn mòn, quăng vứt xó
Pháp văn mới mẻ chạy đua tài.
Quỳnh cười đắc chí, ngó Tuấn :
- Mày coi tao ngạo ông Tú nhà Nho đó như chiếc quốc cùn !
Xong Quỳnh đọc tiếp :
Há giòng giống mọi, không hơn nó ?
Phải áo quần tây chẳng kém ai !
Nô lệ cựu trào sao giữ mãi ?
Tương lai hoài bão mấy thằng trai !
Phải áo quần tây chẳng kém ai !
Nô lệ cựu trào sao giữ mãi ?
Tương lai hoài bão mấy thằng trai !
Phan Quỳnh
(Ðệ Nhị Niên, Collège Qui-Nhơn )
(Ðệ Nhị Niên, Collège Qui-Nhơn )
Phan Quỳnh tính rất nóng nảy. Ðọc xong bài của mình, Quỳnh hỏi Tuấn :
- Ðược không, mày ?
- Hay lắm rồi mầy ơi ! Nhưng liệu mày ngạo ổng rồi mày có dám đến đọc cho ổng nghe không ?
- Tao sợ gì ! Nhưng mày cũng phải làm một bài trả lời ổng, rôì hai đứa mình đến đọc cho ổng nghe.
- Tao đã làm rồi. Chính là bài của tao đầu tiên họa lại bài của Trâm và Anh, rồi ông Tú họa theo đó chứ.
Phan Quỳnh nổi quạu liền :
- Mâỳ họa bài của con Trâm con Anh tụi nó vuốt ve mầy thì được, còn ông Tú Tuyển họa lại mắng vào mặt mày, mầy làm thinh không trả lời, ốt dột quá !
- Thì đã có bài của mầy trả lời cho ổng rồi, không đủ sao ?
- Nhưng tao muốn có thêm một bài của mầy nữa. Mày làm liền đây cho tao coi. Rồi tụi mình đem ngay sáng nay lên cho ông Tú, chứ tao nghe nói trưa nay ổng về Gò Bồi đấy. Không trả lời được ổng, tao tức lắm. Phải có hai đứa mình trả lời cho ổng cứng họng.
Trò Tuấn băn khoăn hết sức...Phần thì O-Vui em gái ông chủ nhà, đang nấu chè hột sen ở bếp, mùi thơm bay lên ngào ngạt, Tuấn chỉ ngửi mùi thơm ấy mà không muốn làm thơ...Nhưng Quỳnh cứ giục mãi, Tuấn bảo :
- Thôi mày đi ra bờ biển chơi một lát, rôì trở lại đây.
- Tao trở lại, mày phải làm xong bài thơ hỉ ?
- Mầy phải đi lâu lâu mới được. Bây giờ là 8 giờ, 12 giờ mày hãy trở lại.
- Ừ, 11 giờ tao trở lại.
Phan Quỳnh đi xong, Tuấn leo lên cái gác xếp, không ai ở, nằm sấp xuống chiếu để viết. 11 giờ, Quỳnh trở lại Tuấn mới được 6 câu, đọc cho Quỳnh nghe :
Há phải danh gì, một lũ trai,
Vì mang âu phục, phải mang giầy,
Văn minh rực rỡ ông thầy Pháp,
Hủ lậu co ro bác Tú Tài,
Nhục trước ông cha thua kém họ
Mong sau con cháu kịp bằng ai.
Vì mang âu phục, phải mang giầy,
Văn minh rực rỡ ông thầy Pháp,
Hủ lậu co ro bác Tú Tài,
Nhục trước ông cha thua kém họ
Mong sau con cháu kịp bằng ai.
- Ðược đấy, còn hai câu nữa, làm luôn đi.
- Mày đi ra chơi ngoài chợ một lát, để một mình tao mới làm được.
Nhưng Quỳnh ra cửa còn đúng đấy, thì Tuấn gọi :
- Rồi rồi, Quỳnh ơi, vô đây !
Tuấn đọc nốt hai câu chót :
Nước nhà nô lệ không mong tiến
Mai mỉa làm chi mấy đứa trai ?
Mai mỉa làm chi mấy đứa trai ?
12 giờ trưa, Quỳnh và Tuấn đến nhà thầy Phạm đào Nguyên, nơi trọ của ông tú tài Trần Tuyển : Ông đang ngồi ghế tràng kỷ, rung đùi ngâm bài thơ của ông ra vẻ khoái trá lắm. Quỳnh tiến tới, lễ phép chào rồi trao tận tay ông hai bài thơ họa của hai đứa học trò...Tuấn sợ ông Tú, đứng ở ngoài không dám vào, ông Tú đọc xong, chỉ đưa tay vuốt râu cười.
Nguyễn Vỹ
Tuấn Chàng Trai Nước Việt
CHƯƠNG 19
1927
- Thanh niên học sinh bãi khoá bị đuổi khỏi các trường nhà nước phải phiêu lưu đi kiếm việc làm tạm.
- Làm đâu rồi cũng bị chủ Tây đuổi vì "đầu óc xấu".
- Con gái Bình Ðịnh dạy võ.
- Làm đâu rồi cũng bị chủ Tây đuổi vì "đầu óc xấu".
- Con gái Bình Ðịnh dạy võ.
Tuấn nằm trên bãi cát đến nửa đêm, không muốn về nhà trọ. Ngó lên vòm trời dầy đặc những ngôi sao. Tuấn mơ màng suy nghĩ đến ngày mai, không tìm được lối thoát cho tuổi thơ còn ngu dại. Chưa nghĩ đến tương lai xa vời, chỉ lo đến niên khóa sắp tới, Tuấn sẽ học đâu được nữa vì còn một năm Ðệ Tứ niên mới hết khóa Trung học ? Lẽ nào một chàng trai 17 tuổi đành phải từ biệt mái trường, vơí chút học thức dở dang, đi phiêu lưu vô định ?
Cha của Tuấn có vào trước đó nửa tháng, đem theo nhiều lễ vật để kỉnh quan Ðốc học, lo lót cho con, Tuấn đã xin cha đừng đến ông Ðốc, vì Tuấn đã biết trước ông Ðốc không ăn hối lộ và Tuấn qủa quyết với cha rằng Tuấn sẽ không bị đuổi. Tuấn nói thật với cha tin tưởng rằng Tuấn học khá, sẽ được lên lớp. Cha Tuấn tin con, vui vẻ trở về tỉnh nhà. Không ngờ sự thể hôm nay đã ra như thế !
Tuấn buồn quá, đi trên bãi bể, dưới ánh trăng mờ, mãi đến Gành Ráng, nơi đây Tuấn tìm nột tảng đá bằng phẳng, Tuấn nằm xuống ngủ quên lúc nào không biết.
Tuấn sực tỉnh dậy vừa lúc mặt trời đang ló lên ngoài khơi, một mảnh tròn to lớn, đỏ tươi, long lanh trên mặt bể. Chung quanh, những tia nắng tỏa ra thành hình rẽ quạt, chiếu khắp bốn phương. Tuấn ngồi dậy, ngắm say mê cảnh vũ trụ huy hoàng, quên rằng mình là đứa học trò đã bị đuổi khỏi trường, vì cuộc bãi khóa.
Chiều trở về thành phố, Tuấn đến thẳng nhà Quỳnh, mới biết hầu hết bạn bè ở các tỉnh xa đã mua vé xe về quê từ lúc sáng sớm. Tuấn do dự không muốn về, sợ cha mẹ buồn.
Cậu học trò bị đuổi không dám đi chơi ngoài phố, Cậu muốn đến nhà trọ hai cô bạn Trâm và Anh nhưng mắc cỡ không dám đến. Cậu lại vừa bị bà chủ nhà cũng rầy la về vụ bãi khóa. Ồ, sốt cả ruột...Bãi khóa...Bãi khóa...ai cũng mắng nhiếc cậu về vụ bãi khóa...!
Nhưng ai đó biết đâu rằng cậu làm, cậu chịu, nào có ăn thua gì đến ai, mà ai cũng hành hạ cái tinh thần cậu vì hai chữ bãi khóa...đã cũ rich từ hai tháng qua !
Tuấn nằm co trên ván, ngoài chái sau, trùm chiếc chiếu để đừng ai thấy cậu khóc. Tuấn tức mà khóc, giận mà khóc, buồn cho thân phận mà khóc, chứ thực ra không phải khóc vì bị đuổi sau vụ bãi khóa.
Thình lình có tiếng O-Vui, em gái ông chủ nhà, đến khẽ đập bàn tay trên chiếu, gọi :
- Cậu Tuấn, có cô Trâm, cô Anh tới kiếm cậu kìa.
Tuấn lau khô nước mắt, hất chiếu ra, ngồi dậy. Trâm và Anh bẽn lẽn đứng ngoài hè, không dám vô nhà.
Tuấn vui mừng được gặp hai người bạn gái, nhưng nét mặt hôm nay sượng sùng, mất cả tự nhiên. Tuấn hỏi :
- Trâm và Anh chưa về Phù Cát sao ?
- Tụi em tính sáng mau mới về.Tưởng anh đã về Quảng Ngãi rồi chứ.
Tuấn ngượng nghịu lắc đầu :
- Không muốn về đâu hết.
- Sao vậy anh ?
- Bị đuổi. Về tỉnh, họ cười chết. Cha mẹ rầy la làm sao ?
- Cần gì, anh ! Ðuổi trường này thì anh đi Huế học trường Pellerin của các ông Cố đạo cũng được vậy.
- Trâm và Anh vừa thi đỗ, Nghĩ Hè xong có tính ra Huế thi vào Ðồng Khánh không ?
Anh lắc đầu, buồn :
- Em muốn đi Huế nhưng mà nhà em nghèo, cha mẹ em chỉ cho đi học đỗ Primaire rồi xin làm Trợ giáo đi dạy học ở trong tỉnh, cho gần nhà.
- Còn Trâm ?
- Em cũng vậy
Tuấn càng thêm buồn, lắc đầu khẽ bảo :
- Tôi cũng...lo kiếm việc làm đỡ đâu đó một thời gian, không thèm đi Huế.
- Anh là con trai, cứ đi học nữa đi ! Còn lo cho tương lai, và thực hiện lý tưởng chứ.
- Nếu Trâm và Anh đi ra học Ðồng Khánh, thì tui cũng ráng xin cha mẹ tôi cho đi Huế, học Pellerin...Trâm và Anh không đi tôi cũng không muốn đi. Ra ngoài ấy xa lắc, nhớ nhà nhớ bạn, học gì nổi.
Ba người bạn trẻ làm thinh, cúi mặt xuống đất, suy nghĩ. Bàn tay của Anh mân mê chiếc nón lá. Trâm bảo :
- Chiều anh lại nhà tụi em được không ?
Tuấn gật đầu :
- Ừ, chiều tôi đến
Tuấn nở nụ cười gượng :
- Bửa nay khỏi làm rédaction...
Anh cũng mĩm cười rất dễ thương :
- Làm thơ chơi hỉ !
Chiều Tuấn đến nhà trọ hai cô bạn. Anh và Trâm đang chờ, tóc bỏ xõa hai bên vai. Hình như Trâm và Anh vừa mới tắm, hay gội đầu. Cả hai đều mặc áo cụt trắng quần đen ( nữ sinh đứng đắn thời bấy giờ không bao giờ mặc quần trắng ban ngày ). Hai cô bạn mời Tuấn ăn bánh tráng nướng với đường phổi, rồi Anh đưa Tuấn xem một bài thơ :
- Tụi em dạo này rảnh, tập làm thơ nhiều hơn trước nhưng đọc lên thấy kỳ cục qúa, không hay ho gì hết, anh Tuấn sửa giùm tụi em đi.
Bài thơ : Khuyên bạn
Khen ai khó nhọc đã thành công
Dẫu bị chi chi cũng vững lòng
Ðể lại học đường gương tuấn tú
Rồi đây xa cách, kẻ chờ mong...
Dẫu bị chi chi cũng vững lòng
Ðể lại học đường gương tuấn tú
Rồi đây xa cách, kẻ chờ mong...
Trâm cười :
- Anh coi, hai đứa làm cả buổi mới được bốn câu đó
Anh tiếp lời :
- Dở ẹc, anh sửa lại cho hay đi.
Tuấn :
- Ðể vậy tự nhiên hơn. Sửa chi nữa. Tôi họa lại chơi, hỉ ?
Trâm :
- Dạ, anh họa đi.
Tuấn loay hoay một lúc lâu mới được bốn câu họa vần, trao cho Anh. Trâm và Anh chụm đầu lại đọc :
Bãi khóa hô hào đã mất công
Qui Nhơn cách biệt thật đau lòng
Trường xưa, bạn cũ tìm đâu nữa,
Một bóng từ nay...hai nhớ mong.
Qui Nhơn cách biệt thật đau lòng
Trường xưa, bạn cũ tìm đâu nữa,
Một bóng từ nay...hai nhớ mong.
Trâm và Anh cười rũ rượi rồi lấy bút chép lại cả hai bài thơ, mỗi người trên mỗi quyển tập riêng, trong đó chép lại nhiều thơ hay trong quyển Quốc văn trích điểm.
Trâm bảo :
- Anh làm một baì nữa đi, bài bát cú, rồi tối nay tụi em thức họa lại.
Tuấn lắc đầu :
- Lo buồn đủ thứ làm không ra thơ đâu.
Anh :
- Kệ mà, cứ làm đi, anh đừng buồn.
Tuấn chán ngán lắm, nhưng muốn làm vui lòng Trâm và Anh. Tuấn bảo hai cô bạn đi ra sân chơi, để Tuấn ở một mình trong nhà, ráng sức làm thử xem, có được khôn g.
Tuấn ngồi viết, sửa, bỏ, viết lại, xóa bỏ, rồi lại viết. Mãi thật lâu, hơn một tiếng đồng hồ, mới nguệch ngoạc xong 8 câu, đem ra sân trao cho Trâm và Anh. Hai cô nữ sinh đang tưới nước cho mấy cây cau, và mấy bụi hồng, vôi vàng bỏ đôi thùng nước, ngồi trên đòn gánh đọc :
Từ nay cách biệt mái trường ơi !
Ta sẽ phiêu lưu một góc trời
Nước mất, thương nòi, lòng uất ức
Tình xa, nhớ bạn, giọt châu rơi
Vắng đôi hình bóng trong non nước
Ngại chiếc buồm đơn giữa biển khơi
Chép mấy vần thơ làm kỷ niệm
Trăm năm còn nhớ chuyện xa xôi !
Ta sẽ phiêu lưu một góc trời
Nước mất, thương nòi, lòng uất ức
Tình xa, nhớ bạn, giọt châu rơi
Vắng đôi hình bóng trong non nước
Ngại chiếc buồm đơn giữa biển khơi
Chép mấy vần thơ làm kỷ niệm
Trăm năm còn nhớ chuyện xa xôi !
Tuấn làm xong xem đi xem lại, muốn đổi vài chữ, sửa một vài câu, nhưng rồi rút cuộc, cứ để vậy trao cho Trâm và Anh.
Hai cô bạn, thoạt tiên mừng rỡ đọc to lên, nhưng đến câu thứ ba và câu thứ tư, Trâm tự nhiên ứa nước mắt rồi cả hai không đọc nữa. Hai người vừa xem nốt những câu sau vừa cắn một chéo áo vào môi, nín khóc. Tuấn chàng trai thơ mộng lúc nào hăng hái kêu gọi bãi khóa, bây giờ ngồi gục xuống bàn, khóc thút thít một mình.
Trâm và Anh đứng dậy đi ra giếng, ngồi bên gốc cây khế sùm sề lí ti những chùm hoa nửa tím nửa trắng, rụng lấm tấm trên sân. Hai cô khóc ấm ức. Anh gát cằm trên đầu gối cúi mặt xuống, Trâm dựa vào gốc khế, cầm chéo áo đưa lên cắn trên miệng, một cánh tay chùi nước mắt.
Tuấn ra về, ghé lại gần hai người :
- Thôi, ngày mai Trâm và Anh nên ra về sớm, tôi chúc Trâm và Anh lên đường bình yên, về Phù Cát vui vẻ, hỉ.
Anh ngước mắt nhìn lâu vào Tuấn, không nói được, cả hai cùng ngượng. Anh khẽ bảo :
- Sáng sớm mai, 5 giờ, anh ra bến đưa tụi em lên xe ?
Tuấn gật đầu :
- Vâng, 5 giờ hỉ ?
- Dạ, 5 giờ xe chạy.
Tuấn gật đầu một lần nữa, rồi bước nhanh ra đường
Tuấn ở lại thành phố, không dám về nghĩ Hè ở quê nhà, cậu sợ bị cha mẹ đánh đòn. Vì cậu đã bị đuổi sau cuộc chủ trương bãi khóa. Lần đầu tiên chàng thiếu niên nước Việt biết tình cảnh nước nhà bị một cường quốc Tây phương đô hộ. Tuấn là một thiếu niên đa cảm, cũng như đa số thiếu niên Việt Nam thời bấy giờ, đã chịu những ảnh hưởng trái ngược, một phần thì được thấm nhuần khá sâu đậm Văn Chương Học Thuật Pháp, nhưng phần khác lại được sách báo cách mạng lén lút của các bậc chí sĩ Việt Nam nung đúc tinh thần ái quốc, cách mạng chống Pháp, khiến cho tư tưởng thanh thiếu niên của thế hệ 1925 luôn luôn bị dày vò xâu xé bởi hai ảnh hưởng chống chỏi ấy. Ai đời một học sinh trung học, ở các lớp Ðệ Tam, Ðệ Tứ Niên, đọc say mê các kịch bằng thơ Alexandrius của Corneille, Racine, lại bắt chước làm thơ Pháp theo kiểu đó để hô hào các lớp học sinh bãi khóa, hoặc để ủng hộ cuộc bãi khóa của các trường khác. Thí dụ như dưới đây là mấy câu thơ Alexandrius Pháp của trò Tuấn, cổ võ anh em học sinh trường Quốc học Huế :
En avant mes amis ! Bravo les plus hauts coeur's !
Aimez sans faiblesse nos communes douleurs !
Sachons nous conduire en héros, en fils de braves !
Soyons des enfants fiers, mais pas de vils esclaves !
Aimez sans faiblesse nos communes douleurs !
Sachons nous conduire en héros, en fils de braves !
Soyons des enfants fiers, mais pas de vils esclaves !
.....................
Ðó là những câu thơ tập tểnh của một " thi sĩ cỏ "áp dụng những niêm luât Alexanderius mà cậu vừa học trong trường, và bây giờ mò mẫm cách diễn tả những ý nghĩ say sưa nhiệt cuồng của tuổi trẻ.
Tưởng ghét người Pháp thì ghét cả tiếng Pháp mới hợp lý : hoặc là yêu văn chương học thuật Pháp thì thân thiết với người Pháp, nhưng thực tế không phải vậy. Trừ những kẻ có sẵn óc nô lệ quen nịnh hót Tây, cho đến cái gì của Tây họ cũng khen ngợi cả, tôn thờ Tây như bậc thầy, bậc thánh, ngoài ra, đại đa số thanh htiếu niên lãng mạn 1925, đa sầu đa cảm, đều chịu sự trái ngược lạ lùng của hai phong độ trí thức chống chọi nhau : thích học chữ Tây, thích nói tiếng Tây, mà lại ghét Tây, thù oán Tây đã đem ách nô lệ tròng vào đầu cổ dân An nam.
Ðó là tâm lý chung của thế hệ thanh niên tây học của Nguyễn thái Học, Ðặng thái Mai, Phan Thanh, Võ nguyên Giáp, Nguyễn an Ninh, Tạ thu Thâu...
Trò Tuấn 16 tuổi, học sinh Trung học, cũng bị hai ảnh hưởng trái ngược chi phối các hoạt động văn hóa và chính trị mà Tuấn chỉ là một thiếu niên tập sự, vụng về nhưng hăng hái.
Trong hai tháng đầu của mùa nghỉ hè (nghỉ hè 3 tháng ) Tuấn không ôn lại bài vở như các trò không bị đuổi. Tuấn thường ra bãi biển ngồi ôn lại những tư tưởng cách mạng : Việt Nam vong quốc, dân nô lệ, người dân mất nước như đứa con mất mẹ, xiềng xích áp bức ngục tù...
Tuấn tự cho mình là một người dân mất nước, và ngồi khóc sụt sùi thê thảm như một người con mất mẹ
Năm 1925-1927 những danh từ, thành ngữ cách mạng trên kia hãy còn qúa mới mẻ, còn chứa đựng men nồng của nhiệt huyết, có đũ mãnh lực để làm say sưa xúc động những tâm hồn trai trẻ còn đang trong trắng. Dù bị học đường đuổi vì tội chủ trương bãi khóa hay còn được tiếp tục học, thanh thiếu niên học sinh 1925-1927 đều phần đông có tâm hồn vừa lãng mạn theo kiểu Alfred de Musset, Lamartine ( O Temps, suspend son vol !...) vừa cách mạng theo truyền thống Phan chu Trinh, Phan bội Châu.
Những trò bị đuổi sau cuộc bãi khóa, như Quỳnh, Tố v.v...đều tiếp tục đi học " trường Thầy Dòng Pellerin" ở Huế, để thi diplôme. Riêng Tuấn còn do dự, không dám về nhà thăm cha mẹ, và để xin tiền đi học ở Huế, vì sự thật nhà Tuấn nghèo từ khi anh Tuấn làm thông phán Toà Sứ đã bị bắt ở tù ở Ban Mê Thuột. Ngẫu nhiên Tuấn đến thăm ông chủ nhà trọ của vài người bạn đồng lớp, ông này cho biết hãng nấu rượu ở An Thái, Bình Ðịnh, cần dùng một thư ký, học lực Ðệ Nhị hoặc Ðệ Tam Niên. Thầy hỏi Tuấn muốn đi làm không ? Sẵn trong lúc buồn vì bị nhà trường đuổi, chưa biết làm gì, vì lần đầu tiên thấy có một chỗ làm có lương tháng 100 đồng,Tuấn nhận lời ngay. Chiều hôm đó, thầy Dậu dẫn Tuấn vào giới thiệu với ông Bouillon, người Pháp, giám đốc hãng Société des Distilleries de l'Indochine ( Công ty nấu rượu Ðông Dương ).
Thầy Dậu, không dám nói với ông Bouillon là Tuấn vừa bị đuổi vì tội bãi khóa, thấy chỉ nói qua loa rằng Tuấn nhà nghèo không thích tiếp tục đi học nữa nên xin đi làm.
Hôm sau Tuấn được ông Rocca, phó giám đốc cùng thầy Dậu đưa Tuấn đi xe hơi của hãng lên An Thái, một chi nhánh của hãng, do một người Hoa kiều làm quản lý, Tuấn thỏa mãn được giúp việc thư ký cho " chú" quản lý Huê kiều tại một nơi hương thôn có con sông lớn.
Tuấn mới có 17 tuổi.
Chiều hôm ấy, chú quản lý Diệp-Thành đưa Tuấn sang chào ông Tây Thương Chánh tên là Rossignol. Tuấn rất bỡ ngỡ khi ông Tây và bà Ðầm tiếp Tuấn và chú Diệp Thành tại phòng khách. Ðứa con trai duy nhất của gia đình người Pháp này tên là Louis, 4 tuổi, được giới thiệu với Tuấn. Nó đưa bàn tay nhỏ bé ra bắt tay Tuấn với một câu tiếng Pháp :
- Bonjour monsieur le cratère ( chào ông miệng núi lửa ).
Chữ secrétaire ( thư ký ) bị cậu bé Pháp mới tập nói bập bẹ thành ra cratère, ai cũng phì cười, nhưng Tuấn không cười.
Từ hôm ấy, Trần Tuấn, cậu học trò Ðệ Tam Niên bị đuổi vì cầm đầu cuộc bãi khóa, đành bỏ học đi làm cậu thư ký quèn cho một chi nhành hãng rượu của Pháp ở thôn quê, dưới quyền quản lý người Tàu, với lương tháng 100 đồng, ăn và ở ngay trong hãng.
Ðêm ấy, Tuấn nằm trên chiếc giường kê ngoài hè nhà quản lý, Tuấn thao thức suốt đêm, nghĩ ngợi và khóc liên miên.
Lần đầu tiên chàng trai tuấn tú của nước Việt, 17 tuổi, đã phải thôi học để đi làm thư ký, kiếm tiền nuôi thân. Nhưng Tuấn cho rằng đây chỉ là một giai đoạn tạm thời, Tuấn nuôi hoài vọng dành dụm tiền bạc để một vài năm sau sẽ ra Hà nội hoặc vào Saigon, tiếp tục học.
Chú quản lý Diệp Thành là người Tàu Hải Nam, còn trẻ độ 30 tuổi, không thạo tiếng Pháp, mà chú nói được bập bẹ năm ba câu theo kiểu tiếng bồi. Vì vậy chú rất mến Tuấn, và mỗi khi có việc phải qua tiếp xúc với ông Tây Thương Chánh, Tuấn đi theo để làm thông ngôn.
Công việc của Tuấn là mỗi buổi sáng ngồi bàn giấy bán rượu, thu tiền và viết biên lai trao cho người mua.
Có những buổi sáng, giao việc bán rượu cho một người khác, Tuấn ra ngồi sau chiếc cân lớn để mua gạo. Từng đoàn người thôn quê, đàn ông, đàn bà, thiếu niên, thiếu nữ, ở trong làng và các làng kế cận, gánh gạo đến hãng để bán. Người bán đặt bao gạo lên bàn cân, Tuấn ghi số cân trên một mãnh giấy trao cho người bán cầm giấy ấy vào trong phòng kế cận để lấy tiền.
Buổi chiều, Tuấn làm sổ sách. Tối Tuấn dạy chữ Pháp cho chú quản lý huê kiều.
Tuấn sống cuộc đời khắc khổ, noi theo gương các bậc hiền triết mà Tuấn đã đọc tiểu sử và nghiên cứu sự nghiệp trong các sách Pháp. Tự nguyện rằng cuộc đời mình còn phải làm một công việc gì cho xứng đáng với thân nam nhi, không được hoang phí tuổi trẻ trong cuộc chơi bời phù phiếm, Tuấn quyết tâm dùng thì giờ ở hãng rượu An Thái ( người Pháp viết là An tay ), để tu tâm tủ tính, cố giữ được tư cách một thanh niên học thức, đứng đắn.
Một hôm Tuấn mướn người thợ hớt tóc cạo trọc đầu Tuấn, như một ông thầy chùa. Việc ấy làm xôn xao dư luận An Thái.
Chú Hoa Kiều quản lý, và ông Tây Thương Chánh Rossignol ngạc nhiên hỏi Tuấn nguyên nhân gì khiến Tuấn cạo trọc đầu. Tuấn chỉ tủm tỉm cười đáp : " cạo cho mát ".
Và từ đấy, dân làng An Thái cũng như nhân viên và lao động hãng Rượu gọi Tuấn là " Thầy Ký Trọc "
Trong khi Tuấn làm " Thầy Ký "ở hãng rượu An Thái, Tuấn được chút ít tiền lương, món tiền đầu tiên do tự sức chàng làm ra. Chàng nghĩ rằng tuy là món tiền nhỏ mọn, nhưng nó rất quý báu đối với chàng, chàng phải xài nó vào một việc gì xứng đáng với giá đồng lương. Chàng liền xin phép xuống Bưu Ðiện Bình Ðịnh, mua ba bưu phiếu gởi mua :
1 năm báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng ở Huế.
1 năm báo La Jeune Indochine của ông Vũ đình Dy ở Saigon.
1 năm báo L' Argus Indochinois, của ông Amédée Clémenti ở Hà nội.
1 năm báo La Jeune Indochine của ông Vũ đình Dy ở Saigon.
1 năm báo L' Argus Indochinois, của ông Amédée Clémenti ở Hà nội.
Cả ba tờ báo đều là báo cách mạng. Có điều rất tiện cho Tuấn, là cậu ăn ở luôn trong nhà người Khách trú quản lý hãng rượu, và tối nào cũng dạy Pháp văn cho người chủ ấy. Vì thế, người chủ không tính tiền cơm, và mọi sự chi phí linh tinh đều do chủ cung cấp cho cả. Trung thành với lý tưởng của đời sống mà chàng thư sinh đã tự vạch ra lúc còn đi học ở Qui Nhơn, tiêm nhiễm tư tưởng ái quốc, chàng may hai bộ quần áo bằng vải nội hóa. Sự chàng cạo trọc, mặc kệ người chung quanh gọi chàng là " thầy ký trọc ", tỏ rằng chàng không thiết gì đến sự phục sức bên ngoài, mặc dầu chàng mới 17, 18 tuổi.
Ngoài những công việc của hãng rượu, chàng đọc say mê các tờ báo cách mạng mà lần đầu tiên chàng mua dài hạn với số tiền do tự chàng làm ra.
Người chung quanh lại cho chàng biết rằng làng An Thái ở gần làng Kiên Mỹ là quê hương của ba anh em Nguyễn Nhạc,Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Một chút hoài niệm lịch sử ấy càng nung đúc chí hướng của chàng trai nước Việt sinh trưởng 150 năm sau nhà anh hùng Tây Sơn.
Chiều chiều Tuấn ra ngồi bên bờ sông An Thái, phóng tầm mắt về dãy núi An Khê, rồi quay vào hướng Nam, quay ra hướng Bắc. Tâm hồn ngây thơ khờ dại của chàng thanh niên bị đuổi khỏi học đường vì vụ bãi khóa chống Tây, rung động xiết bao cảm xúc.
Một buổi tối nóng nực, Tuấn tắm bên giếng như thường lệ. Nhưng lần này Tuấn nghe bên nhà ông Tây Thương chánh tiếng nói nheo nhéo của bà bếp chửi đổng qua :
- Cái dân dơ bẩn như chó !
Tuấn hết sức ngạc nhiên. Bà bếp của ông tây Rossignol chửi ai thế ? Không lẽ chửi Tuấn là dơ bẩn trong lúc Tuấn đang tắm ? Tuấn lặng lẽ chờ bà bếp nói gì nữa, Tuấn thả gàu xuống múc nước lên tắm. Vừa dội xong gàu nước, lại nghe tiếng bà bếp :
- Ai tắm đó ?
- Tôi
- Chứ không biết Quan cấm tắm ở chổ giếng đó ?
- Không...Tại sao cấm ?
Quả thật Tuấn không hề có nghe lịnh cấm tắm ở nơi giếng này. Vả lại ông tây thương chánh lấy quyền gì cấm ?
Tuấn đang thắc mắc về câu chuyện khó hiểu, bổng có tiếng của ông Rossignol nói lớn :
- Tôi cấm đấy. Vì giếng này dùng để lấy nước uống. Tắm ở đây là đổ biết bao vi trùng và bẩn thỉu xuống nước giếng.
Tuấn thấy câu chuyện vô lý và Tuấn thật không ngờ. Từ trước đến giờ người ta vẫn tắm ở đây có sao đâu. Ðây là cái giếng duy nhất của hãng rượu, và Tuấn đứng tắm ở ngoài xa theo đúng phép vệ sinh.
Nhưng Tuấn không trả lời ông Rossignol, và không hiểu tại sao dạo này ông Tây thương chính thường kiếm chuyện " cà khịa " với mình ?
Nhưng Tuấn không trả lời ông Rossignol, và không hiểu tại sao dạo này ông Tây thương chính thường kiếm chuyện " cà khịa " với mình ?
Sáng hôm sau, trong lúc Tuấn đang ngồi làm việc trong phòng giấy, ông Rossignol bước vào với nét mặt hầm hầm, ông gây chuyện với Tuấn :
- Tôi cho anh biết rằng anh là một thằng An-na-mít bẩn thỉu và vô lễ. Tôí hôm qua anh cãi với tôi ở nơi giếng nước hả ? Tôi đã cấm anh tắm nơi đấy, anh biết chưa ?
Tuấn lễ phép hỏi lại :
- Thưa ông, tại sao ông cấm như thế ?
- Taị sao hả ? Tại vì cái giếng đó sản xuất ra nước uống chứ không phải nước tắm. Tôi không cho phép anh tắm nơi đó, và cấm cả những người An-na-mít bẩn thỉu của anh.
Tuấn nổi giận :
- Người An-na-mít không bẩn thỉu như ông nói. Ông không có quyền chửi người An-na-mít.
Ông Tây thương chính liền xổ một thôi hồi lâu :
- À, tôi biết mà ! anh là một thằng đầu óc xấu xa. Anh đọc những tờ báo bẩn thỉu như L'Argus Indochinois, mà chủ nhiệm là một người dân Pháp ghiền thuốc phiện, tôi biết nó lắm, là một thằng khốn nạn bị con vợ Annamít bỏ bùa mê. Tờ báo Tiếng Dân, tôi cũng biết, chủ nhiệm nó là một lão nhà quê dốt nát và tướng cướp, bị xử án đày ra Côn lôn. Còn thằng Vũ đình Dy, chủ tờ báo La Jeune Indochine, là một thằng An na mít là nhữn gkẻ vong ân bội nghĩa. Học chữ Tây, học văn minh của Tây, rồi chửi lại Tây... Qủa thật là một giống người hèn hạ !
Tuấn không thể nhịn được nữa :
- Tôi xin lổi ông, nhưng ông chính là một người hèn hạ ! Khốn nạn !
Ông Rossignol đang cầm cây can trong tay, liền đưa can lên toan đập vào đầu Tuấn. Tuấn né đầu qua một bên, rồi chụp luôn ái can của ông Tây. Hai người dằn co nhau làm đỗ cả lọ mực trện bàn.
Ông Tây dựt lại được cây can rồi hục hặc bỏ ra về.
Ba ngày sau, hai ông giám đốc và phó giám đốc Công ty rượu ở Qui Nhơn, Bouillon và Rocca, lên thăm hãng An Thái. Tuấn đoán biết có chuyện không lành. Quả nhiên Bouillon gọi Tuấn vào phòng giấy quản lý, bảo :
- Tôi trả lương cho anh và anh đi ra khỏi chỗ này tức khắc.
Tuấn do dự một chút rồi hỏi lại :
- Th ưa ông, tại sao vậy ?
- Không tại sao cả. Tôi đuổi anh ra khỏi hãng của tôi.
- Nhưng ít nhất ông cũng cho tôi biết lý do chứ.
- Lý do : anh là một thằng An-na-mít bẩn thỉu.
Tuấn liền trả đũa lại :
- Chính ông mới là một người Tây bẩn thỉu.
Ông Bouillon đánh Tuấn một tát tay, Tuấn nhỏ người nhưng cũng mạnh, thoi vào ngực ông một thoi rồi bỏ đi ra ngoài. Chàng từ giã luôn hãng rượu An Thái.
Trưa hôm ấy, cả làng An Thái và nhân viên lao công trong hãng đều xôn xao thì thầm với nhau : " Chu choa ! Thầy Ký Trọc oánh lộn với ông Tây chủ công xi, thầy bị đuổi rồi.
Tuấn đi đò qua sông An Thái để sang phố Chợ. Ðò mới qua được nửa con sông thì có tiếng gọi vọng lại trên bến cũ. Tuấn quay lại thấy An, một thiếu nữ xinh đẹp mà chàng quen biết chưa được hai tháng. An là một bạn đồng chí do Tuấn huấn luyện về văn thơ và tư tưởng cách mạng. An khóc nức nở, tay cầm chiếc khăn vẫy Tuấn lia lịa :
- Anh Tuấn ! Qua bên đó chờ em !
Tuấn cũng định chờ. Nhưng chỉ có một con đò. An phải đợi đò trở lại bến mới sang sông được, trong khi ấy người tài xế chiếc xe cam nhông của hãng rượu đã được lịnh chở Tuấn đi ngay về Qui Nhơn, đừng để ở lại An Thái một phút nào.
Ngồi trên chiếc xe gập gềnh chạy kẽo cà kẽo kẹt trên con đường gồ ghề chật hẹp, Tuấn tức giận ông tây thương chính Henri Rossignol và ông tây chủ hãng rượu André Bouillon. Phải công bằng nhình nhận rằng ông phó giám đốc Rocca dễ thương hơn.
Trước khi Tuấn vĩnh biệt hãng rượu, ông Rocca lấy trong túi ra cho Tuấn 50 đồng và bảo :" Anh thông minh, nên tiếp tục đi học nữa, đừng đi làm thư ký quèn, uổng thì giờ. Tôi biếu anh tiền lộ phí ! " Tuấn ứa nước mắt cảm ơn ông tây Rocca.
Tuấn lại băn khoăn nhớ An. Trần thị An, người đẹp An Thái võ nghệ giỏi. Chính nàng đã dạy cho Tuấn học những bài võ Bình Ðịnh đầu tiên. Tuấn nhớ lại những đêm sáng trăng, trước sân nàng, trong lúc mọi người hàng xóm đã đóng cửa ngủ, An mặc áo cụt, quần đen, tóc bới, dạy cho Tuấn những ngón võ lợi hại của xứ An Thái. Làng này trai gái đều giỏi võ. Có lần nàng kể chuyện một cô em bạn dì vì giỏi võ mà bị tù.
Lộc mới có 18 tuổi, nhưng xác cao lớn, đẫy đà. Thân sinh Lộc là một Võ sư danh tiếng cả Bình Ðịnh. Môn đệ của ông nhiều lắm, từ các làng xa đến học. Nhưng biết Lộc có tính nóng và hung hăng. Ông cụ không bao giờ dạy võ cho con gái của ông, và những đêm ông dạy cho môn đệ, ông cấm Lộc không được xem. Ông nhốt cô con gái nghịch ngơm trong nhà. Nhưng đứng sau song cửa sổ gian nhà tối om, Lộc chăm chú ngó bọn con trai học võ ngoài sân. Ðêm nào cô cũng lén cha, đứng sau song cửa sổ, học võ nghệ bằng mắt và bằng trí nhớ. Ông cụ không hay biết gì cả. Một đêm ông cụ có khách, một ông Chánh tổng cởi ngựa đến chơi, đàm đạo uống rượu rồi ở lại nghỉ. Con ngựa ô của ông đẹp lắm, nhốt trong chuồng ngựa sau nhà.
Nửa đêm, hai ông gìa ngủ say, cô Lộc lén ra chuồng ngựa, cô mở cửa chuồng, dắt ngựa ra rồi nhẩy lên lưng ngựa, quất ngựa phi ra cổng. Cổng đã cài then, cô không cần mỡ, cứ ngồi trên lưng ngựa và bay vượt qua cổng. Cô cưỡi ngựa chạy chơi tận làng xa, mãi sáng mới về. Cổng vẫn còn cài then. Cô và ngựa bay qua.
Cha cô và ông khách dậy sớm, ngồi uống trà trên ghế tràng kỷ, đều kinh ngạc chứng kiến kỳ công võ nghệ của cô. Ðem ngựa vào chuồng xong, cô trở ra lạy cha và khách 3 lạy để xin lổi rồi ung dung xuống bếp.
Một đêm, có chàng võ sĩ ở phương xa đến xem môn đệ của Thầy dượt võ. Hắn phách lối, thách hết 5 cậu học trò của ông ra thử tài với hắn. Lần lượt cả năm cậu đều bị đánh liểng xiểng. Ông thầy tức mình, mắc cỡ, chỉ ngồi uống rượu. Nhất định cứu danh dự của cha và của cả trường, cô Lộc từ trong bếp ra, bảo gả kia :
- Chú lại đây thử với tôi.
Hắn cười ngạo mạn :
- Tôi không nỡ chạm ngọc thể của Nữ nhi.
Lộc tiến tới cho vào mặt gã đàn ông vô giáo dục khinh nàng là nữ nhi. Gã kia trả miếng. Thế là hai người hăng máu trổ hết tài nghệ giữa Vũ trường, dưới ánh trăng sáng tỏ. Một lát sau gã kia bị " nhi nữ "đá cho lăn nhào. Nàng đã trả được cái hận cho cha và cho cả năm môn đệ.
Tiếng cô Lộc từ đấy vang khắp cả cứ Bình Ðịnh. Một hôm, vào buổi trưa mùa hè, cha cô đi vắng. Gió mát, Lộc lim dim trong chiếc võng treo ngoài vườn giữa hai cây mít. Một người lính tập ( lính khố xanh ) từ ngoài cổng bước vào. Cô trông thấy lên tiếng hỏi :
- Chú là ai, đi đâu đó ?
Người lính lạ, cười :
- Cô không biết tui sao, cô Hai ? Tui là lính Tập của Nhà Nước, được phép về thăm nhà hai bửa, sẵn đi ngang qua đây ghé thăm cô Hai đó mà !
- Xin lổi chú lính Tập, cha tui đi vắng, chỉ có một mình tui ở nhà, không có ai tiếp chú.
- Thì cô tiếp tui không được sao ?
- Tui là con gái không được phép tiếp người lạ.
Chú lính tập tiến đến gần võng, cười chớt nhã chọc htiếu nữ :
- Nghe thiên hạ đồn cô Hai võ giỏi lắm, đến coi cô giỏi cách nào ! Tui xin phép cô Hai cho tui bóp vú cô một cái, hỉ ?
Vừa nói chú lính vừa dùng võ thuật chụp vào ngực Lộc bị Lộc đá một đá té nhào xuống đất. Hắn nằm trợn mắt dãu dụa mấy cái rồi chết nghẻo luôn.
Cô Lộc bị tù, vì một ngón võ sái nhơn.
Tuấn ngôì trong xe bị dằn lên dằn xuống nhớ lại câu chuyện của Lộc do cô An kể lại cho chàng nghe một đêm trời không trăng Tuấn vừa học xong một ngón bí hiểm. Trong xe cũng có một thiếu nữ buôn bán ở chợ An Thái xin quá giang xuống Qui Nhơn mua hàng. Cô ngồi đối diện với Tuấn, Tuấn nghĩ thầm :
- Biết đâu cô gái đẹp này cũng là môn đệ của cô Lộc ?
Chàng tủm tỉm cười một mình, nhớ chuyện người lính tập gặp giờ xui xẻo đã lam hỗn vơí bộ ngực hấp dẫn của nàng.
Cô gái đẹp hỏi Tuấn :
- Sao thầy ký cười em ?
Tuấn sờ tay lên cằm..., nhoẻn một nụ cười hiền lành :
- Tôi cười người lính tập chứ không phải cười cô.
Cô gái dịu dàng đáp :
- Em không phải là chị Lộc.
Câu trả lời bí hiểm đó đủ cho Tuấn biết giai nhân không thẹn với uy danh gái An Thái.
Về Qui Nhơn, Tuấn vào trọ tạm nhà thầy Phạm đào Nguyên. Kể chuyện bị sa thải cho Nguyên nghe, thầy ký hãng Descours et Cabaud cười :
- Ði học bị nhà trường đuổi, đi làm bị hãng đuổi. Tôi rang sống lâu để coi đời anh ra sao !
Tuấn nằm suy nghĩ suốt đêm. Chàng muốn đi Hà nội, tiếp tục học thi Tú tài, nhưng không có tiền. Muốn vô Saigon để nhập vào đảng Nguyễn An Ninh, nhưng tiền cũng không có. Chàng thấy con đường tiến thủ bị nghẽn, mà máu nóng cứ sùng sục trong tim, chỉ muốn lồng lên như con ngựa hăng máu.
Ba hôm nằm nhà thầy Phạm đào Nguyên đã không làm gì, lại buổi tối nghe Phạm đào Nguyên nói nhỏ cho nghe : Ngoài Hà nội có một đảng tên là " Việt Nam Quốc Dân Ðảng "đang hoạt động mạnh. Anh nên đi Hà nội.
Cũng đêm ấy, đi lang thang ngoài bờ sông, Tua71n gặp một thầy trợ giáo quen thân, tên là Phạm cự Hải, người Quảng Nam.
Thầy Hải nhét vào Tuấn một ot72 truyền đơn in bằng đông sương, ký tên "Ðông Dương Cộng Sản Ðảng ". Thầy hỏi Tuấn :
- Tuấn học lớp Nhì hay lớp Nhất ?
Tuấn không hiểu, ngơ ngác hỏi thầy Hải :
- Tôi sắp học thi tú tài, sao thầy hỏi lạ vậy ?
Thầy Hải cười :
- Lớp Nhì là Cours Moyen. Lớp Nhất là cours superieur. Anh hiểu không ?
- Không hiểu thầy muốn nói bóng cái gì ?
- Cours Moyen viết tắt là C.M là cách mạng. Cours Supérieur, viết tắt là C.S. là cộng sản.
Tuấn cười :
- Tôi là C.M
Thầy trợ giáo Phạm cự Hải cười :
- Anh học giỏi, anh thông minh, anh phải lên Cours Supérieur( C.S) chứ ! Một thanh niên như anh lẽ nào còn trình độ C.M ?
Tuấn ngây thơ đáp :
- Cộng sản hay Cách mạng cũng đều lo cho quốc gia độc lập và dân tộc tự do. Tôi không hiểu sao lại chia ra Cộng sản, Cách mạng Quốc gia, làm chi vậy ?
Thâỳ trợ giáo Hải kéo Tuấn ra bãi biển ngồi. Thầy htuyết một hối lâu về chủ nghĩa Cộng sản. Tuấn thấy rõ ý định của thầy muốn kéo Tuấn vào tỉnh bộ Cộng sản mà thầy đang muốn thành lập ở Qui nhơn. Nhưng Tuấn lắc đầu :
- Tôi thích Cách mạng quốc gia hơn là cộng sản...
Tuy nhiên thầy trợ giáo Phạm cự Hải và Tuấn từ giã nhau lúc 9 giờ tối trước nhà Giây thép Qui-nhơn với lời hứa hẹn sẽ gặp nhau nữa.
Mãi đến năm 1945 ( 18 năm sau ), Tuấn mới gặp lại thầy trợ Hải. Trên đường vào Saigon ghé lại Nha Trang, cuối tháng 8 – 1945, giữa một thành phố rực rỡ cờ đỏ sao vàng. Tuấn được một người bạn cho biết danh sách Ủy ban Kháng Chiến Khánh Hòa mới thành lập ở Nha Trang. Chủ tịch Ủy Ban là Phạm cự Hải.
Trụ sở Ủy ban đặt nơi tòa Công Sứ cũ của Tây. Tuấn đến xin gặp chủ tịch.
Phạm cự Hải rất niềm nỡ bắt tay Tuấn.
Sau vài ba câu chuyện hàn huyên, Phạm cự Hải nhắc lại câu chuyện gặp gỡ trên bãi biển Qui-Nhơn năm 1924 và cười hỏi :
- Nay chắc anh đã lên C.S ?
Tuấn điềm nhiên cười đáp :
- Không. Tôi vẫn trung thành với C.M.
Sau cuộc nói chuyện với thầy trợ Hải trên bãi biển Qui-Nhơn, Tuấn tự cảm thấy rõ rệt không khí cách mạng đang bao trùm trí óc non nớt của Tuấn.
Ðêm ấy, Tuấn hỏi Phạm đào Nguyên :
- Tôi muốn đi Huế, để yết kiến cụ Phan bội Châu. Ðược không anh ?
Nguyên sốt sắng trả lời :
- Ừ, đi thì đi... Nhưng rồi phải làm gì chớ đi chơi không vậy sao ? Và nhớ : đi thăm cụ Phan coi chừng Mật Thám nhé !
- Ra Huế rồi sẽ liệu.
- Anh phải tiếp tục học nữa mới được. Hay là ra Huế xin vào trường Thầy Giòng ?
- Trường Thầy Giòng là trưòng gì ? Dạy đi thi gì ?
- Trường Thầy Giòng ở Huế tức là trường Pellerin của một ông Cố đạo. Họ dạy thi Diplôme.
- À, phải rồi. Tụi thằng Quỳnh, thằng Tố, cũng bị đuổi ở Qui- Nhơn, đều ra học ở Pellerin, Huế. Tôi muốn ra Huế theo tụi nó.
Nguyên cười hỏi :
- Tiền ?
- Ra Huế, tôi sẽ viết thư về nhà xin tiền cha mẹ tôi.
- Thế sao không về thẳng tỉnh nhà, thăm hai bác rồi xin tiền luôn thể ?
- Tôi sợ cha mẹ tôi đánh. Còn một năm nữa thi Diplôme mà bãi khóa bị đuổi, cha mẹ tôi tức giận lắm. Tôi đi làm thư ký hãng rượu An Thái, đã bị cha tôi viết thư vô rầy dữ. Mẹ tôi buồn rầu khóc lu bù.
- Thôi thì tôi giúp anh 200 đồng để anh đi Huế. Mà ra Huế phải đi học, chớ không được đi chơi nghe không ? Chơi hết tiền, tôi không gởi mandat nữa đâu đấy, nghe không ?
- Ừ.
Sáng hôm sau, Phạm đào Nguyên dậy thật sớm, lúc 5 giờ, một mình đun nước pha hai ly cà phê sữa và nướng một chiếc bánh mì. Xong thầy gọi Tuấn dậy, ăn điểm tâm với Tuấn và lo sửa soạn đầy đủ cho Tuấn ra đi. Trong lúc Tuấn rửa mặt, nghe tiếng gà hàng xóm gáy giữa im lặng của thành phố còn say ngủ, Tuấn lo ngại cuộc hành trình sắp khởi diễn, không biết số kiếp mình sẽ phiêu bạt đến đây ? Tiếng gà gáy như tiếng kèn của định mệnh, chàng ra đi tranh đấu với đời, đơn độc, bơ vơ, sức trai trẻ còn non yếu, chàng sẽ thắng những thử thách nguy nan, hay sẽ qụy giữa đường ?
Tiếng Phạm đào Nguyên gọi :
- Mau lên, anh Tuấn, sắp tới giờ xe chạy rôì.
Tuấn vẫn để đầu trọc mặc lẹ bộ đồ Tây nội hóa, xỏ đôi giày Tây rẻ tiền, rồi xách chiếc va li đan bằng tre chỉ cài với một then ngang, không có ổ khóa.
Phạm đào Nguyên đứng nhìn bộ tịch nửa quê nửa thành thị của Tuấn, và nhoẻn một nụ cười :
- Xong chưa ? Ði !... Cả tương lai của anh bắt đầu từ giờ phút này...Sáng nay tôi tiển anh ra bến xe mà không biết anh sẽ đi về đâu ? Nhưng tôi tin anh là người có chí, tôi chúc anh kiên nhẫn, còn thành bại sau này là chuyện của trời !
Tuấn làm thinh vì không biết nói gì. Tim chàng đập mạnh khi đến bến xe. Trước khi bước lên xe, chàng bịn rịn xiết chặt tay bạn và lẩm bẩm một câu mà chắc Nguyên không nghe rõ :
- Cảm ơn anh Phạm Ðào Nguyên...Cám ơn anh nhiều lắm.
Xe rồ máy đã lâu bắt đầu chạy chậm chậm để quẹo ra đường lớn. Thầy Phạm đào Nguyên còn đứng nhìn theo, vẫy tay từ biệt, Tuấn gục đầu xuống thành xe, lặng lẽ khóc.
Xe ra khỏi thành phố, Tuấn lại nghe tiếng gà gáy trổi dậy sau giãy nhà tranh lụp xụp bên chân núi.
Từ Qui Nhơn ra Tourane (Ðà Nẵng ) đưòng thuộc địa số 1 ( Route Coloniale No. 1 ) hãy còn gồ ghề, chưa tráng nhựa, phải xuống xe ba lần để qua đò : bến Bồng Sơn tại Phủ Bồng Sơn, Bình Ðịnh, bến Trà Khúc, cách tỉnh lỵ Quảng Nam 1 cây số, và Bến Ván, phủ Tam Kỳ, Quảng Nam.
Vì chiếc xà lan ( chaland) nhỏ và hẹp, nên phải để cho xe qua trước, hành khách chờ đi chuyến sau. Cũng may là thời bấy giờ ít có xe chạy, nên hành khách khỏi phải đợi lâu. Nhưng đứng trên bờ nhìn chiếc xe nặng trĩu đậu trong chiếc xà lan nghiêng qua nghiêng lại trên dòng sông rộng, hành khách cứ lo ngại...Nó chồng chềnh quá, lỡ nó đổ hoặc chìmxuống sông thì mất hết cả hành lý của mình chất trên mui xe.
Hành khách sang bên kia sông lên bờ gặp một bác Lính Khố Xanh tay cầm cây roi mây, đứng chận lại hỏi :" thẻ thuế thân ". Mỗi người đàn ông An nam thời bấy giờ 18 tuổi trở lên đều phải có luôn luôn trong mình hai cái bùa hộ mệnh : thẻ căn cước và thẻ thuế thân. Thẻ sau này là một biên lai bằng bìa màu ghi số tiền mình phải nộp " thuế bổn thân " trong năm. Mỗi năm có một thẻ thuế thân, thay cho thẻ năm trước, có đóng con triện bằng mực đen và chữ ký của Lý trưởng trong làng. Ða số những ông xã chưa học quốc ngữ, đều ký tên bằng chữ Hán, Tuấn mơí có 17 tuổi, chưa có thẻ thuế thân nhưng căn cước phải có.
Tuấn thấy có một ông hành khách đang năn nỉ bác Lính Tập một cách khúm núm rất lễ phép. Tò mò, Tuấn đến gần xem, ông hành khách đã rủi ro bỏ mất thẻ thuế thân, nên bị bác Lính Tập đòi bắt giam trong đồn. Nhưng ông hành khách móc túi lấy một đồng bạc cầm hai tay khúm núm " kỉnh " bác Lính, để xin bác rộng lượng tha tội cho. Bác Lính Tập bỏ đồng bạc trong túi áo, rồi đòi thêm một đồng nữa. Người hành khách cũng phải chịu thì bác Lính Tập mới tha cho đi.
Từ Qui-Nhơn ra Tourane phải đi xe hơi mất 2 ngày. Ngủ lại ở Quảng Ngãi một đêm. Lần đầu tiên chàng trai 17 tuổi được đi xa 2 ngày đêm liên tiếp như thế. Tuấn cố thu vào trong con người tất cả những phong cảnh, nhân vật, mà chàng trông thấy dọc đường. Nhưng đêm ở Quảng Ngãi, Tuấn không dám đi dạo phố, sợ gặp những người quen, và nhất là sợ gặp Ông Thân Sinh của chàng. Tuấn có mặc cảm của một đứa học trò bị đuổi, mắc cỡ không dám gặp lại những bạn bè cũ hoặc những người quen thuộc ở tỉnh. Tuấn có cảm tưởng chuyến đi Huế lần đầu tiên này là một cuộc lẫn trốn lén lút như người mạo hiểm trong một cuộc hành trình bí mật.
Ðêm ấy, nằm trong phòng ngủ của khách sạn Công ty do hãng xe đò dành riêng cho hành khách đi xe của hãng, Tuấn lắng tai nghe tong phòng kế cận tiếng khóc ấm ức rất là thê thảm của một người đàn ông. Tuấn nôn nao cảm động, muốn biết người hành khách đó là ai vậy, và tại sao họ khóc liên miên như vậy, không lúc nào ngớt ? Tuấn lóp ngóp bò dậy, khẽ bước chân không ra đứng nơi cửa buồng của chàng.Tuấn lắng tai nhưng không nghe được gì cả, ngoài tiếng khóc thút thít, lúc nức nở, lúc rên rỉ, như kẻ đau khổ đang bị một tai nạn gì bi ai thảm thiết lắm. Một lúc lâu Tuấn thấy cửa phòng mở, và một người đàn ông chạc 35, 40 tuổi từ trong bước ra. Tuấn để ý đến đôi mắt của ông tràn đầy những ngấn lệ.
Ông mặc đồ Tây, không biết từ đâu đến, nhưng có lẽ xuống xe lúc 6 giờ chiều. Bây giờ đã 10 giờ khuya ông vẫn chưa thay đồ ngủ. Ông đi ra sân sau một lúc trở vào, Tuấn đánh bạo hỏi :
- Thưa ông, sao ông khóc dữ vậy ? Ông có điều chi đau khổ lắm phải không ?
Người hành khách lạ lại òa lên khóc, vừa ấm ức trả lời :
- Tôi làm instituteur ( Trợ Giáo Trung Tiểu Học ) ở Tourane, hôm qua được giây thép của Mẫu thân tôi ở Nha Trang...báo tin...ông Thân tôi chết tại quê nhà...Tôi buồn lắm cậu à...Tôi thương Song Thân tôi lắm...Tôi mất ông Thân tôi...tức là tôi mất tất cả...( ông lại khóc lớn ).
- Thưa thầy, Bác năm nay bao nhiêu tuổi ?
- Ông thân tôi..thọ 78 tuổi...
- Thưa thầy, Bác đau bệnh gì ?
- Thân phụ tôi...khoẻ mạnh, ổng chết vì bịnh già...
Bây giờ tôi về...để tang...và lo an táng...Thân phụ tôi.
Thâý Tuấn cũng rưng rưng nước mắt, và gương mặt ngây thơ, ông hỏi :
- Cậu ở đâu ?
- Thưa thầy, tôi là cựu học sinh Collège Qui Nhơn.
- Cậu đi đâu đây ?
- Tôi đi Huế, tiếp tục học thi Diplôme.
- Cậu tên gì ?
- Dạ, Tuấn.
- Cậu còn song thân không ?
- Dạ, thưa thày còn.
- Cậu có phước quá...cậu phải thương yêu song thân như trong sách luân lý đã dạy...Mình là con trai được cha mẹ sinh ra nuôi dưỡng cho khôn lớn, phải có hiếu với cha mẹ, phải kính cha mẹ, thương cha mẹ...cha mẹ mình mất tức là mình mất tất cả...
Vừa nói vừa khóc...thầy trợ giáo lại khóc òa lên khiến Tuấn bùi ngùi không cầm được giọt lệ.
Có lẽ tại vì biết Tuấn là học trò collège( trung học ), nên tự nhiên thày trợ giáo sẳn dịp thuyết cho Tuấn một bài học luân lý gia đình bằng tiếng Pháp :
- Sousvenez-vous que vous avez rencontré un soir un instituteur qui pleurait la mort de son père... Vous voyez. Je ne suis plus jeune comme vous, mais devant le deuil cruel qui me frappe, je pleure comme un enfant...Parce que je suis toujours l'enfant de mon père...un père que j'aime, que j'adore, que je chéris le plus au monde...
( Cậu nên nhớ rằng một đêm cậu có gặp một thầy trợ giáo đang khóc vì cha chết. Cậu thấy không, tôi đâu còn trẻ như cậu, nhưng trước cái tang tàn bạo đang dày vò tôi, tôi vẫn là đứa con của thân phụ tôi, một đấng từ phụ mà tôi yêu tôi cưng, mà tôi qúi hơn hết trên đời ).
Nói xong thầy trợ giáo đủng đỉnh bước vào phòng của thầy. Tuấn nhìn theo cái băng tang bằng crêpe đen, dày và to mà thầy đeo trên cánh tay phải...
Là một thanh niên của thế hệ 1927 sống trong một xã hội còn thấm nhuần đạo Khổng, Tuấn rất khâm phục thầy giáo, tự nguyện rằng mình sẽ là một đứa con có hiếu như thầy và sẽ nhớ mãi những lời thầy khuyên bảo về đạo làm con. Cả đêm Tuấn không ngủ được cứ nghe tiếng thầy trợ giáo ở phòng kế cận thút thít khóc cha và Tuấn cứ lập đi lập lại nhiều lần mấy câu tiếng Pháp của thầy : " Souvenez-vous que vous avez rencontré un soir un instituteur qui pleurait la mort de son père..."
Tuấn nhớ lại có lần Tuấn trông thấy dán trên vách tường nhà một người bạn có theo đạo ThiênChúa một bức ảnh màu của bà Maria ngước lên Trơì đôi mắt đẩm lệ, và ở dưới bức ảnh có chua một câu in nét đậm :" Souviens-toi que ta Mère a pleuré " ( con hãy nhớ rằng Mẹ con đã khóc )
Nào là của đạo Khổng, nào là của đạo Phật, đạo Thiên Chúa, những câu danh ngôn về đạo đức, luân lý, đầy những nước mắt đã thâm nhập vào tâm hồn còn ngây thơ của Tuấn, ngay lúc Tuấn đang còn chập chững phiêu lưu vào trường đời.
Sau này, cuộc đời của Tuấn sẽ thay đổi rất nhiều, xã hội Việt Nam cũng không còn phong độ thanh cao khương kiện nữa, nhưng Tuấn vẫn không quên câu chuyện của thầy trợ giáo khóc cha, và mấy lời thầy chỉ bảo cho chàng bằng tiếng Pháp ở một quán trọ trên bước đường phiêu lãng.
Nguyễn Vỹ
Tuấn Chàng Trai Nước Việt
CHƯƠNG 20
1927
- Nhà tranh ba gian của cụ Phan bội Châu ở Huế.
- Cụ Huỳnh ThúcKháng và Báo Tiếng Dân.
- Phong trào " Nam Nữ bình quyền " của Bà Ðạm Phươngở Huế, và Nữ Sĩ Huỳnh Thị Bảo Hoàở Tourane.
- Cụ Huỳnh ThúcKháng và Báo Tiếng Dân.
- Phong trào " Nam Nữ bình quyền " của Bà Ðạm Phươngở Huế, và Nữ Sĩ Huỳnh Thị Bảo Hoàở Tourane.
Lần đầu tiên đến Tourane, Tuấn trông thấy một nhà ga và một đoàn xe lửa. Trước mặt cậu học sinh 17 tuổi, thật là một vật đồ sộ và phi thường. Ðứng ngoài một hàng rào xi măng ngăn cách đưòng phố với đường rầy xe lửa. Tuấn nhìn trân trân những chiếc wa-gông nối dài gần một trăm thước, đậu trên đưòng rầy với chiếc đầu máy ghê gớm với hai con mắt lớn bằng kiếng, vàng khè, và một ống khói đen ngòm, to và thấp, đang phùn phụt nhả khói.
Tuấn sung sướng nghĩ rằng sáng sớm ngày mai, Tuấn sẽ đươọc đi trên đoàn xe lửa này, ra đến Huế. Cũng như đếm trước, đêm nay Tuấn không ngủ được, chỉ mơ tưởng đến chuyến tàu hỏa đi Huế, hoặc nhớ lại câu tiếng Pháp của thầy Trợ giáo khóc cha.
Sáng sớm hôm sau, mua vé tàu hỏa xong. Tuấn bắt chước mấy người hành khách cất kỹ tấm vé trong túi áo Tây và lấy một cái kim băng ghim túi áo lại, sợ lỡ rớt tấm vé đến khi ông Tây soát vé không có, sẽ bị ở tù.
f Tuấn theo sau mấy ông hành khách, xách chiếc va li tre ra bến xe lửa. Nhưng Tuấn chưa muốn bước lên toa tàu trước khi đứng ngoài xem cho tường tận các chiếc va gông. Tuấn đang đứng ngó đầu máy, thì một bác lính khố xanh bước đến bảo Tuấn :
- Trò đứng gần, điện nó hút cậu vô máy, chết cha !
Tuấn vội vàng đứng ra xa. Sự thực, lần đầu tiên trông thấy tàu lửa, Tuấn cũng hơi sờ sợ. Tuy ở trường đã học về Vật Lý, và đã hiểu qua loa về nguyên tắc máy chuyển động nhờ hơi nước, nhưng Khoa học là một chuyện, còn tâm lý của trẻ con sợ sệt trước một vật to tướng phi thường, máy móc chằng chịt, gớm ghê, lại là một chuyện khác. Ðứng bên đoàn tàu dài 200 thước, với đầu máy kếch xù đang phun khói, Tuấn cảm thấy mình bé quá, thấp quá, tầm thường quá. Ði dọc theo đoàn tàu để xem qua một lượt, Tuấn để ý trên toa hạng nhất và hạng nhì chỉ toàn là ông Tây bà Ðầm, và cả trẻ con Tây. Không có một người An nam mít nào ở hai toa này. Toa hạng ba, cũng có vài ông Tây và các ông An nam sang trọng giàu có.Tuấn đứng xem có ông Tây Thương Chính ôm cặp bước vào hạng ba. Một ông quan An nam đeo bài ngà " Tri Huyện " tòn ten trước ngực, đang ngồi chễm chệ trên chiếc ghế dài bọc da, vội vàng đứng dậy chấp hai tay :
- Chào Quan Lớn.
Ông Tây Thương Chính gật đầu rôì đi thẳng qua toa hạng nhì. Người lính hầu của Quan Huyện đang đứng chực ở cửa toa thứ tư. Quan Huyện khệ nệ bước ra, hỏi bằng hiọng Huế :
- Thằng Ba mô rồi ?
Người lính kính cẩn đáp :
- Dạ, bẩm quan lớn...
- Ðem bình điếu thuốc trà cho tao hút, mi !
- Dạ.
Người lính lệ ( lính hầu các quan ), rất lanh lẹ bưng bình điếu sang toa hạng ba, cuí xuống nhét cục thuốc lào vào miệng điếu rồi đánh một que fiêm châm lửa cho quan huyện hút. Xong người lính lệ lại bưng cái điếu xuống đứng chỗ cửa hạng tư.
Tuấn xách va lit re bước lên toa hạng tư. Vì cửa chật và đồ hành lý của hành khách chồng chất ngay đấy Tuấn phải nhảy qua đống hành lý, vô tình để chiếc va li đụng phải chưn chú lính lệ.
Chú này trợn mắt mắng Tuấn :
- Trò này không coi trước coi sau gì hết.
- Tại chỗ cửa chật quá, chớ phải tại tôi đâu.
- Chật cậu cũng phải tránh tôi chứ.
- Thôi mà lỡ một chút, cứ kiếm chuyện hoài.
Người lính tập nổi giận quát Tuấn :
- Mày không biết tao là ai à ?
Tuấn không cãi lẫy lôi thôi, làm thinh bước qua đống hành lý để kiếm chỗ ngồi.
Ðối với chàng trai Việt Nam năm 1927, Huế là một thần tượng bao trùm bao nhiêu huyền bí, thiêng liêng...Những danh từ "Ðât Thần Kinh ", "Ðế Ðô ", " Kinh Ðô ", v.v... có một sức hấp dẫn phi thường làm xúc động mãnh liệt trí tưởng tượng của những kẻ ở tỉnh và ở thôn quê.
Ai được đi Huế một lần, được dịp viếng đất Thần Kinh, được trông thấy Ðế Ðô, là một hãnh diện lớn lao vô cùng. Những kẻ chưa được thấy Huế, hằng mơ tưởng đấy là kinh thành, là nơi Vua ở, những cung điện nguy nga, những lâu đài tráng lệ, những nàng Công Chúa đẹp như tiên đi thướt tha trong vườn Thượng Uyển...Xem trong sách diễn tả, hoặc nghe người ta nói rất nhiều về những thắng cảnh của Ðế Ðô : cầu Trường Tiền, cầu Bạch Hổ, cửa Thượng Tứ, chợ Ðông Ba, hồ Tỉnh Tâm, cửa Gia Hội, giòng Hương giang, núi Ngự Bình...Ồ, toàn là những phong cảnh trí thơ mộng làm sao ! Lại thêm vào đấy những tên lâu đài rất...lịch sự : Ðiện Cần Chánh, điện Văn Minh, Tam Toà, Lục Bộ..tòa Khâm Sứ, đồn Mang Cá, đền Nam Giao, chùa Thiên Mụ, chùa Diệu Ðế, và lăng tẩm các Vua...cung điện của ông Hoàng bà Chúa.
Tóm lại, Huế, nơi Ðế Ðô, thiêng liêng, oai vệ, không giống một nơi nào phàm tục trong xứ, và cuộc sống của người Huế, những người ưu tiên được ở đất Thần Kinh không giống như các tỉnh Trung Nam, Bắc, Saigon, Hà nội có rộng lớn, xinh đẹp bao nhiêu đi nữa cũng chỉ là những đô thị thường dân, duy chỉ có Huế là Kinh Ðô của các vị Hoàng đế.
Nhưng chàng trai 17 tuổi lần đầu tiên được đi Hỏa xa sung sướng được sắp sửa đặt chân lên đất Ðế Ðô, và tha hồ được ngắm những cảnh thần tiên thơ mộng của núi Ngự sông Hương.
Ngồi trên xe lửa Tuấn tưởng tượng đến Huế ẽ được xem sông Hương nên thơ như thế nào, núi Ngự oai linh như thế nào và cả đất thần kinh của Vua Chúa có sắc thái đặc biệt như thế nào.
Và nhất là Huế lại có túp nhà tranh của cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự.
Nghĩ đến tất cả những kỳ thú trên Tuấn thấy rạo rực trong lòng. Trái tim của Tuấn đập rộn rịp như tiếng xe lửa chạy rầm rộ trên đường rầy. Tuấn nóng lòng chờ đến Huế, mà xem chừng như chuyến xe lửa cũng cố chạy vùn vụt cho mau đến Huế.
Ðoàn xe đến ga lúc 8 giờ tối. Chữ Huế nét đậm và to lớn, ghi bằng mực đen trên mặt tiền nhà ga.
Tuấn xách chiếc va li tre của chàng theo sau những hành khách xuống Huế. Chàng để ý thấy hầu hết những hành khách đều có người nhà hoặc bạn hữu chờ nơi sân ga và rộn rịp vui mừng, kẻ đón người đưa. Tuấn đi thui thủi một mình tìm nhà trọ của một người bạn ở xóm ga, theo địa chỉ đã có.
Tuấn để ý thấy trên đường Jules Ferry từ trước sân ga đa số người đàn ông ớn tuổi đều mặc đồ An nam aó dài đen quần trắng, đầu bit khăn hay đội mũ, chân mang giày Hạ, hay đi guốc. Phần đông bạn trẻ mặc đồ Tây. Tuấn cũng mặc âu phục may bằng vải nội hóa Quảng Nam, nhưng hình như không mấy ai để ý. Hơn nữa, Tuấn vui mừng nhậnthấy những chàng thanh niên Huế trông dáng điệu có vẻ học sinh như Tuấn, cũng mặc đồ Tây bằng vải nội hóa. Tuấn vừa đi vừa nghĩ rằng : thì ra phong trào mặc âu phục bằng vải nội hóa quả thật đã lan tràn khắp cả học đường, ở Huế cũng như ơ Qui Nhơn. Ðó là một nhận xét đầu tiên lúc Tuấn bước chân trên đường phố kinh đô.
Tuấn ở trọ nhà Quỳnh bạn học cũ ở Qui Nhơn, người cùng Tuấn đã gây ra cuộc bãi khóa ở Qui Nhơn một năm trước, và cũng bị đuổi như Tuấn. Quỳnh bây giờ học lớp Ðệ Tứ Niên tư thục Pellerin của các vị Cố Ðạo Huế. Quỳnh vẫn mặc bộ đồ tây may ở Qui Nhơn.
Bây giờ sáng hôm sau, nhân ngày chủ nhật, Tuấn nhờ Quỳnh đưa Tuấn đến thăm cụ Phan bội Châu, Quỳnh bảo :
- Nhà cụ Phan ở Bến Ngự gần đây. Hai đứa mình đến thăm cụ thế nào cũng có mật thám theo dõi, rình mò. Mầy dám đến không ?
Tuấn hỏi :
- Vậy chớ tụi mầy ở Huế thường ngày không đến thăm cụ sao ?
- Thỉnh thoảng mới đến mà tụi tao phải rủ nhau đi một lượt bốn năm đứa để cho lính mã tà và bọn điềm chỉ ít nghi ngờ. Mầy muốn tao rủ thêm vài ba thằng bạn nữa đi vớ tụi mình cho vui không ?
- Thôi không cần, hai đứa mình đi đến thăm cụ, chớ có làm gì mà sợ.
Ði một đoạn đường ngắn lên một dốc khá cao, đường đất đỏ nhiều bụi chưa tráng nhựa - Quỳnh chỉ một nép nhà ở ngay cuối đường :
- Nhà cụ Phan đấy.
Tuấn trông thấy trước hết một chiếc cổng sơ sài bằng hai trụ gỗ, trên đóng ngang một tấm bảng để một dòng chữ đen :
Nhà đọc sách Phan Bội Châu.
Chiếc cổng dựng ngay giữa một hàng rào cây, và luôn luôn mở rộng. Không do dự, Quỳnh và Tuấn bước vào, đi rón rén, giữ lễ phép, qua một sân hẹp rồi bước lên thềm nhà tô xi măng. Nhà có ba gian rộng rãi, để trống. Tuấn hồi hộp tưởng sắp sửa được trông thấy cụ Phan. Nhưng cảnh nhà thanh vắng, không một tiếng động. Tuấn và Quỳnh đứng yên trên thềm, đợi xem có air a thì xin yết kiến Cụ. Một lát, một em bé học trò độ 7 tuổi, đầu cạo trọc chừa một chỏm tóc ở giữa, từ ngoài chạy vào, nét mặt ngây thơ, nói với hai cậu học trò, bằng giọng Nghệ An :
- Cụ bán gạo ở ngoài nớ.
Bé chỉ một gian hàng gạo rất sơ sài ở góc sân, một cái chòi thì đúng hơn, lợp bằng tranh. Một cụ già mặc áo dài màu nâu, đang đứng bán vài lon gạo cho các chị nhà nghèo. Em bé chạy ra thưa với cụ một vài lời gì đó. Cụ cười giao thúng cho bé trông nom, và chống ba toong đi thủng thỉnh vào nhà. Tim Tuấn đập mạnh.Tuấn được chiêm ngưỡng lần đầu tiên nhà Chí sĩ Phan bội Châu, với một chòm râu phong phú, mắt đeo kính trắng, vòm trán cao vút tận đỉnh đầu. Cụ bước đi thư thả, tay mặt chóng ba toon – cây ba toong của toàn quyền Varenne tặng cụ -- tay trái hơi cong, bàn tay lấp dưới tà áo nâu dài.
Cụ mặc quần trắng bằng vải nội hóa, mang đôi dép da. Trông cụ không khác nào một vị Tiên lão da mặt hồng hào, đang bước thung dung ở dưới bóng cây. Cụ bước lên thềm ngó hai cậu học trò. Tuấn và Quỳnh chấp hai tay trước ngực, cúi đầu chào cung kính. Cụ cười rất tự nhiên, rất hiền lành, đưa tay chỉ gian nhà giữa :
- Mời hai cậu vào.
Tuấn và Quỳnh đợi cụ Phan vào trước, và theo sau cụ. Sau khi mời ngồi, cụ hỏi :
- Học cậu học ở trường Quốc Học ?
Tuấn đáp :
- Dạ thưa Cụ, con ở xa mới tới Huế lần đầu tiên, đến hầu thăm Cụ. Thấy Cụ được khỏe mạnh con rất mừng.
Cụ hỏi Quỳnh :
- Còn cậu nì ?
- Thưa cụ, con học trường Pellerin.
Cụ còn hỏi han nhiều câu về việc học và gia đình của hai cậu học trò, rồi cụ nghiêm trang dạy bảo nhiều lời giáo huấn, về lòng yêu nước yêu dân. Cụ gọi người nhà lấy ra hai quyển sách mỏng do cụ soạn, nhan đề Nam Quốc Dân tu tri và Nữ Quốc Dân tu tri. Cụ trao cho hai đứa hai quyển và bảo :
- Các anh chị Nam Nữ Quốc Dân nên xem hai quyển sách nhỏ này để trở thành người Quốc Gia.
Sau một lúc nói chuyện lâu trên một tiếng đồng hồ, cụ thấy ngoài chòi gạo của cụ có đông đồng bào lao động đến mua gạo, cụ xin lỗi đứng dậy :
- Hai cậu ở đây chơi, một lát tôi vào.Tôi ra bán gạo, kẻo bà con cô bác chờ lâu.
Cụ Phan bội Châu chống ba toong đi ra sân, Tuấn và Quỳnh thừa dịp, đi xem qua ba gian nhà của cụ. Một em bé hướng dẫn, bảo :
- Ba gian nhà là tượng trưng Nam Trung Bắc, cùng nhau như an hem một nhà.
Gian bên trái là phòng tắm của cụ, gian bên phải gọi là " phòng đọc sách ", Tuấn để ý rất kỹ hai bức tranh bằng mực đen do một bạn Nam học sinh trường Quốc học vẽ một chậu nước trong đó có bơi vài con cá. Dưới tranh, đề " Cá chậu ". Một bức tranh khác do một chị nữ sinh Ðồng Khánh vẽ, đề là " Chim lồng ".
Ra ngoài sân, nơi góc bên phải, Tuấn thấy một ngôi miếu nho nhỏ, thờ một Nữ đồng chí của cụ.
Kinh thành Huế chia ra ba khu nhà rõ rệt. Bên tả ngạn sông Hương là Thành Nội, với các Cung Ðiện nhà Vua, với Tam Tòa, Lục Bộ, tất cả ở phía trong mấy lớp thành cao. Ngoài thành là các phố buôn bán và chợ Ðông Ba. Bên kia cầu Gia Hội phần nhiều là dinh thự và nhà cửa của các quan.
Bên hữu ngạn sông Hương, nối bằn gmột chiếc cầu sắt khá rông tên là cầu Trường Tiền là khu Bảo Hộ Pháp với tòa Khâm Sứ và các cơ quan hành chánh của Pháp.
Ngôi nhà tranh của cụ Phan bội Châu, ở xóm Bến Ngự, ngoài châu thành, nơi đây phần đông các nhà đều vào hạng trung lưu và bình dân. Nhà cụ Phan bội Châu có thể gọi là tượng trưng cho tinh thần anh dũng của dân tộc, cho truyền thống bất khuất của nhân dân Việt Nam, mặc dù bị kềm hãm trong hoàn cảnh " cá chậu, chim lồng "
Nhà cụ lợp bằng tranh, ở giữa một xóm nhà tranh, và cao ráo khoáng đãng, tiền của đồng bào toàn quốc khắp ba kỳ, tự đông đóng góp, chứng tỏ lòng nhiệt thành chiêm ngưỡng của đồng bào sùng bái cụ.
Có điều rất lạ, là không có một tờ báo nào ở Hà Nội, Huế, Saigon hô hào lạc quyên công khai, mà chỉ có truyền miệng với nhau người này bảo người kia, thế mà mọi người đều tự thấy có bổn phận gần như thiêng liêng, phải đóng góp một chút tiền với đồng bào, để gửi đi Huế tặng nhà Chiến sĩ cách mạng đã hy sinh tất cả vì Dân vì Nước.
Các nhà ái quốc ở Huế thu góp các số tiền ấy, để cất lên cho Cụ một ngôi nhà ba gian, sắm cho Cụ một chiếc thuyền nan để cụ có nơi nghỉ mát trên sông Hương và một số vốn, để cụ uống rượu, ngâm thơ, vừa cùng một chú tiểu đồng đi Thuận An buôn gạo về bán.
Cụ sống cuộc đời thanh bạch và nhàn hạ, chỉ giao du vớicác bạn đồng chí già, và cũng rất mến bạn trẻ, lao động, trí thức, sinh viên, học sinh ở Huế và khắp Bắc Trung Nam. Mọi người đều tôn sùng Cụ như một thần tượng chói lọi uy danh. Ba tiếng " Phan bội Châu " và cả ba tiếng biệt hiệu Phan sào Nam, gợi lên trong trí óc thanh niên hình dáng rất đáng tôn kính của một cụ già có vòm trán cao, đôi mắt sáng ngời, chòm râu tiên lão, gần như một vị thần sống của Lịch Sử Việt Nam ở đương lim thời đại.
Thế hệ thanh niên của Tuấn rất hãnh diện được một vị thầnsống như thế để sùng bái, để thờ. Cho nên những bạn bè của Tuấn và Tuấn đều triệt để tuân theo những lời giáo huấn của cụ, say mê đọc các thi văn của cụ, coi những bài những sách của cụ viết ra như những lời châu ngọc.
Ðến Huế ngày đầu tiên, Tuấn đến thăm cụ Phan bội Châu, và sau khi đã được chiêm ngưỡng dung nhan của cụ, được vinh dự hầu chuyện trên ba tiếng đồng hồ với cụ, được cụ hỏi han khuyên bảo, Tuấn được hoàn toàn thỏa mãn.
Suốt mấy ngày đi thăm các thắng cảnh ở Huế, Tuấn vẫn không rời khỏi hình ảnh cao siêu lẫm liệt của cụ Phan bội Châu. Sông Hương núi Ngự, cầu Bạch Hổ hồ Tỉnh Tâm, điện Hòn Chén, các lăng tẩm của các vị Hoàng đế quá cố đều chỉ là những cảnh đẹp nên thơ, tuy là hùng tráng, vĩ đại như không thể nào thanh cao tráng lệ bằng túp lều ba gian của cụ Phan ở Bến Ngự.
Tuấn muốn trở lại nhiều lần để được hầu chuyện cụ Pahn, nhưng Quỳnh và Tố bảo :
- Mầy đến đây thường sẽ bị bọn Mật thám và lính mã tà để ý theo dõi có ngày ở tù đấy.
Tuấn ngại không dám đến nữa, nhưng mỗi buổi chiều mát thường rủ vài ba đứa lên Bến Ngự, đi ngang qua trước cổng nhà cụ để nhìn vào.
Nhớ hôm đầu tiên đến viếng cụ, cụ bảo :
- Người Tây không mở nhiều trường để dạy dỗ con dân nước Nam cho nên quốc dân còn thất học nhiều quá. Như thế bảo nước ta tiến bộ văn minh sao cho kịp với các quốc gia trên thế giới ?
Do ý kiến ấy, về nhà trọ, tối Tuấn thử viết một bài luận thuyết nha đề là :" Ở Trung Kỳ, nên cưỡng bách giáo dục ". Trong bài Tuấn đòi hỏi người Pháp bảo hộ phải mở rộng nền giáo dục cho toàn thể quốc dân, cho tất cả mọi người An nam đều phải được đi học. Tuấn đổi một chữ trong câu của chính trị gia Pháp : Après le pain, l'instruction est le premier besoin de people " mà viết lại :" Sau cơm áo, giáo dục là như cầu thứ nhất của dân ". Viết rồi sửa đi sửa lại bốn tiến gđồng hồ mới xong. Tuấn đưa cho mấy đứa bạn ở cùng nhà trọ xem. Ðứa nào cũng khuyến khích Tuấn, và bảo Tuấn chép lại sạch sẽ để sáng hôm sau đem đến toà báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng, thử coi có được đăng không.
Sáng hôm sau, Tuấn đi với bốn thằng bạn đến toà báo Tiếng Dân, ở đường Ðông Ba. Trước khi đến đây, Tuấn tưởng tượng tòa báo đồ sộ, oai nghiêm, có lính gác, có kẻ chầu người chực, cũng như Toà Sứ, Toà Án vậy.
Nhưng khi đến nơi, Tuấn ngạc nhiên, vì là lần đầu tiên Tuấn mới thấy một " Toà Báo "
Tòa báo Tiếng Dân là một căn phố chật giống như các căn phố cùng một giãy ở trên lề đường Ðông Ba, ngó xuống sông Ðông Ba, một con sông đào, chi nhánh của sông Hương.
Ðây là một căn phố hai từng trên gác có một cửa sổ mở rộng, từng dưới có một cửa lớn, chật hẹp, phía trên có treo một tấm bảng kẽ chữ in :
TIẾNG DÂN
Hai bên có hai chữ nho : Dân Thanh ( nghĩa là TIẾNG DÂN )
Và một dòng ở trên " Huỳnh thúc Kháng công ty "
Tuấn sợ, không dám vào. Nhưng mấy đứa bạn cũng chẳng đứa nào dám vào. Năm đứa đi lại trước cửa Toà báo vài ba lần, thằng này xúi thằng kia, rồi cùng cả năm đứa đều vào. Tưởng là gặp ngay cụ Huỳnh thúc Kháng, chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhưng năm cậu học trò thấy một ông mặc y phục An nam, áo dài đen, còn trẻ. Trên tường có tấm bảng đề : Ty Quản Lý. Năm trò không hiểu ty Quản Lý là gì, nhưng Quỳnh cầm bài của Tuấn, đưa bản thảo cho ông ngồi ở đấy. Ông kia lấy xem qua rồi hỏi :
- Bài của cậu muốn gởi đăng báo phải không à ?
Quỳnh chỉ vào mặt Tuấn :
- Dạ, thưa ông, bài của anh này viết, chớ không phải của tôi.
Ông quản lý gật đầu :
- Ðược, để tôi đưa lên gác cho cụ Huỳnh coi, nếu cụ bảo đăng được thì mới đăng, còn không thì bỏ. Các cậu không được đòi lại bản thảo nghe.
- Dạ.
Quỳnh lanh lợi nhất trong đám, chấp hai tay chào :
- Xin chào ông.
Mấy đứa khác cũng bắt chước chào ông "quản lý " như thế rồi kéo nhau ra. Tuấn chào cuối cùng và lo chạy ra trước.
Ði đường năm cậu học trò bàn tán, không biết cụ Huỳnh thúc Kháng sẽ cho đăng bài đó hay là cụ bỏ vào sọt rác ? Tuấn hồi hộp suốt ngày đó, ăn không được, và cũng không làm được gì cả. Ði đâu, ngồi đâu, nằm đâu, Tuấn cũng suy nghĩ vẩn vơ, nửa lo sợ, nửa hy vọng. Lo sợ là nếu bài đó sẽ bị cụ Huỳnh bỏ vào sọt rác, thì Tuấn sẽ mắc cỡ với mấy đứa bạn, hai là nếu đăng được thì sợ mật thám tây sẽ theo dõi. Tuấn viết hơi hăng, công kích người Pháp ở Annam bắt dân nộp thuế mà không chịu mở nhiều trường học để mở mang giáo dục cho dân. Nhưng hy vọng rằng cụ Huỳnh coi bài đó, nếu có câu nào viết hăng quá, cụ sẽ bỏ đi... Ồ, nếu bài của Tuấn được đăng nhỉ ! Ðó sẽ là bài đầu tiên của Tuấn được hân hạnh đăng trên mặt báo mà lại là báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Có lẻ hay lắm thì được đăng trong mục "Ðộc Giả Diễn Ðàn " là cùng. Tuấn tưởng tượng nếu được đăng thì người bạn đã giúp Tuấn ở Qui Nhơn, là anh Phạm đào Nguyên sẽ được đọc và sẽ viết thư khen Tuấn. Và mấy người ở tỉnh nhà cũng sẽ đọc bài đó, thật là một vinh dự lớn lao vô cùng đối với cậu học sinh 17 tuổi lần đầu tiên tập viết báo.
Mấy đêm liên tiếp hồi hộp không ngủ.
Nhất là đêm thứ năm sau đấy, Quỳnh bảo Tuấn :
- Chiều mai thứ sáu, là ngày Tiếng Dân phát hành. Nếu bài của mầy được đăng thì may ra được đăng trong mục "độc giả diễn đàn " trong số đó. Nếu không thì nó cũng sẽ hân hạnh được cụ Huỳnh xé chùi đít !
Các bạn của Tuấn nửa đùa nửa thật, nhưng chính Tuấn cũng áy náy lo bài của mình không được cụ Huỳnh chấp nhận.
Bốn giờ chiều thứ sáu, Tuấn đi ra phố một mình đón mua tờ Tiếng Dân. Ðây là tờ báo duy nhất ở Huế thời bấy giờ, mỗi tuần xuất bản hai lần,. Uy tín của nó rất lớn, do uy tín cá nhân của cụ Huỳnh Thúc Kháng, một đại Nho, một chí sĩ cách mạng đã bị đày đi Côn Lôn cùng một lượt với cụ Tây Hồ Phan chu Trinh, và đã hồi hương sau khi mãn hạn tù.
Uy tín của tờ Tiếng Dân không những riêng ở Ðế Ðô Huế, mà vang lừng khắp trong nước, và là tờ báo đầu tiên được phổ biến sâu rộng từ thành thị đến thôn quê. Riêng ở Trung Kỳ, mỗi làng có vài nhà Nho gọi là " Tân Nho " – danh từ dùng để phân biệt với những " Hủ Nho " – Tân Nho là những ông Tú, ông Cử, hoặc các thanh niên Nho học có óc " mới ", khuynh hướng về văn minh tiến bộ. Họ đều là những người có đóng cổ phần trong Công Ty Huỳnh Thúc Kháng và được biếu Báo Tiếng Dân, hoặc có đóng tiền mua năm Báo Tiếng Dân.
Tuy hầu hết các giớ trí thức " có đầu óc quốc gia " ở khắp nước và riêng ở Huế đều mua báo TIếng Dân, nơi đây họ thích đọc nhất những bài xã thuyết của cụ Minh Viên Huỳnh thúc Kháng, và những bài của cụ Sào Nam Phan bội Châu, nhưng hình như cũng có một số đông người không chịu bỏ tiền ra mua ( giá mỗi số 5 xu ) và chỉ mướn đọc. Có lẽ để tránh cái nạn mướn báo về xem báo cọp, cụ Huỳnh thúc Kháng đã dùng một biện pháp đặc biệt. Những số báo phát hành ở ngay thành phố Huế, giao cho vài chú em ôm báo đi bán dạo, đều được gấp 6 theo chiều ngang rồi gấp đôi theo chiêù dọc, và dán một giấy trắng bịt hai đầu, có dấu xanh của Toà Báo đóng một nửa trên rẻo giấy, một nửa trên mặt báo.
Như thế, tờ báo bị dán lại, chỉ những người nào trả tiền mua báo, mới xé rẻo giấy kia ra và mở tờ báo ra xem. Biện pháp này tránh được những độc giả xem báo cọp vì mọi khi rẻo giấy bị xé ra rồi, người lãnh báo bán dạo trả lại nhà báo không nhận.
Tuấn trao 5 đồng xu cho đứa bé bán báo dạo và lấy một tờ. Ðó là tờ TIếng Dân số 100. Hồi hộp vội vàng, Tuấn xé rẻo giấy có con dâú của ty quản lý tờ báo, và mở ra xem. Tuấn rất đỗi ngạc nhiên và mừng thấy ngay nơi mục xã thuyết ở trang nhất, bài của Tuấn với cái đầu đề in chữ đậm sắp đầy hai cột :" Ỡ Trung Kỳ nên cưỡng bách giáo dục ", Tuấn ngó liên xuống cuối bài, thấy rõ ràng tên của mình, và một bên có giòng chữ " còn nữa ".Tuấn mừng rỡ, không kịp đọc, lật đật cầm tờ báo chạy về nhà. Tụi bạn đi học trường Pellerin chưa về. Tuấn nằm dài xuống bộ ván ngực trãi nguyên tờ báo ra trước mặt và xem bài của mình. Tuấn vô cùng thích thú đọc lại những câu văn chính mình đã viết, nhà báo không thêm bớt một chữ. Những câu văn mình đã nguệch ngoạc bằng mực tím trên trang giấy học trò, bây giờ thành chữ in, đậm đà và sắc sảo trêng trang giấy báo Tiếng Dân ! Tuấn vô cùng sung sướng cảm động vì đây là bài báo đầu tiên của mình.
Cũng y nguyên những câu văn đó, mà lúc còn viết tay trước khi đem đến toà báo, không thấy hay, không thấy đẹp, không thấy thâm thúy bằng khi đã in trong mục xã thuyết hai cột báo Tiếng Dân.
Tuấn đọc đi đọc lại từng đoạn, cả bài, xem lại đầu đề in hai giòng chữ đậm, rồi ngó lại cái tên ký của mình cũng in bằng chữ lớn. Tuấn mĩm cười thỏa mãn, nằm ngữa trên bộ ván bóng mướt, mát lạnh, để tờ báo Tiếng Dân trên ngực, nhắm mắt tưởng tượng tất cả sự sung sướng lần đầu tiên có một bài của mình được đặng trên mặt báo, lại là tờ báo có uy tín nhất của Trung Kỳ, của cả xứ An nam tờ báo của cụ Huỳnh thúc Kháng.
Bài của TUấn được đăng trong mục xã thuyết, là nơi dành riêng cho cụ Huỳnh thúc Kháng mà thôi. Tuấn không ngờ bài của Tuấn được đăng thành hai kỳ, kỳ này trong tờ báo số 100, kỳ sau trong số 101. Tuấn lại tưởng tượng vài hôm nữa số báo Tiếng Dân nầy sẽ được gửi đi khắp nơi trong nước và tất cả những người quen Tuấn ở Qui Nhơn Quảng Ngãi v.v... sẽ đọc bài của Tuấn. Phạm đào Nguyên sẽ đọc bài ngay sau khi cầm tờ báo ở sở về.
Và cha của Tuấn, mẹ của Tuấn ở Quảng Ngãi, các thầy giáo của Tuấn, sẽ ngạc nhiên thấy nới mục xã thuyết của tờ báo cụ Huỳnh một bài của Tuấn ký tên Tuấn.
Tuấn đang thưởng thức một mình sự khoái chí mênh mông không kể xiết, thì các đứa bạn đi học đã về, Quỳnh thấy tờ báo Tiếng Dân nằm trên ngực Tuấn, cất tiếng hỏi Tuấn :
- Báo mới đó phải không Tuấn ?
- Ừ.
- Có đăng bài của bày không ?
- Có.
- Ðâu ?
Quỳnh vội lấy tớ báo tìm mục "Ðọc giả Diễn đàn " nhưng Tuấn hãnh diện bảo :
- Ngay ở mục xã thuyết
Quỳnh ngồi xuống ván gỗ, đọc một mạch hết bài báo, trong lúc ba đứa bạn khác đều chụm đầu vào xem bài báo của Tuấn. Ðọc xong, Quỳnh cười vui vẻ :
- Sướng quá hỉ ! Tuấn mầy viết báo được rồi đấy. Ðược đăng trênTiếng Dân, lại đăng ngay nơi mục xã thuyết của cụ Huỳnh, vinh dự nào bằng.
Xong rồi mấy đứa bạn xúi Tuấn đến toà báo " xin tiền nhuận bút "
Tuấn không muốn đi :
- Tao không dám đến cụ Huỳnh để xin tiền nhuận bút. Miễn cụ đăng cho được là khoái rồi.
Quỳnh bảo :
- Cụ đăng là một chuyện, mà mình lấy tiền nhuận bút là một chuyện chớ.
- Nhưng bài đăngđã hết đâu. " Còn nữa " mà !
- Vậy đợi xem kỳ số 101 đăng hết bài của mầy, thì đến xin cụ trả tiền nhuận bút. Lấy tiền về ăn chè hột sen, mầy phải đãi mỗi đứa tao một chén, chớ tội gì không lấy, mày !
Số 101 ra, Tuấn cũng vội vàng mua một số xem. Bài của Tuấn vẩn giữ y nguyên đầu đề, với hai chữ " tiếp theo " và kỳ này đăng hết, dài hai cột xã thuyết và cũng ký tên của Tuấn.
Gặp lúc túng tiền, chưa có trò nào nhận " mandat" của gia đình gởi cho, bốn đứa bạn nhất định xúi Tuấn đến toà báo Tiếng Dân. Tuấn cùng đi, nhưng đến toà báo Tuấn đứng lấp ló ở ngoài, không dám vào. Quỳnh và ba đứa bạn đánh liều bước vào toà báo.
Tuấn đứng ngoài cửa ngó vào thấy bốn đứa bạn nói gì với ông quản lý tên là Trần đình Phiên.
Một lúc khá lâu, hình như ông Phiên đi lên gác thưa với cụ Huỳnh thúc Kháng, rồi trở xuống một cầu thang chật hẹp, kế phòng quản lý, ông hỏi :
- Tuấn là ai ?
Quỳnh vội chạy ra cửa gọi Tuấn vào. Nhưng Tuấn mắc cỡ và nhút nhát, khẽ bảo Quỳnh :
- Mày cứ lấy tiền đi. Tao không vào đâu.
Một lát sau, bốn đứa bạn đi ra. Quỳnh cười bảo :
- Tao phải ký cái biên lai nhận dùm mầY đó.
- Cũng được chứ sao.
Quỳnh đếm bạc trao lại cho Tuấn 4 đồng, và bảo :
- Ông Trần đình Phiên nói cụ Huỳnh thúc Kháng khen bài mầy viết hay và biểu trà tiền nhuận bút bấy nhiêu đó.
Tuấn vui mừng quá chừng, nở mũi cười hí hởn, 4 đồng bạc ! Ồ chu choa ! Sao nhiều quá vậy ? Tuấn ước độ 4,5 giác thôi ( 1 giác ( tiếng Trung ), một cắc ( tiếng Nam ), một hào ( tiếng bắc ) ) chớ, ngờ đâu được 4 đồng, món tiền to như thế ! Sẳn dịp đi ngang qua phố Ðông Ba, Quỳnh mượnhai xu để mua một quyển vở, ba đứa bạn kia cũng mượn tiền mua viết chì, mực v.v...Tuấn còn 3 đồng 4 giác.
Tối hôm đó cơm xong, nghe thấy cô hàng bán chè hột sen rao trước cổng, mâý đứa bạn chạy ra gọi.Tuấn vui vẻ đãi mỗi đứa hai chén chè hột sen, mỗi chén một xu.
Nghe nhiều đứa bạn bảo cho biết ở Hà nội, thanh niên sinh viên tham gia các cuộc hoạt động " Hội Kín" rất đông. Tuấn muốn đi Hà nội. Chàng viết thư ra hỏi ý kiến một người bạn học cũ ở Qui Nhơn bây giờ học trường Thăng Long, Hà nội. và ở trọ nhà một công chức ở đường Général Bichot.
Trong khi chờ thư trả lời, Tuấn đi thăm các thắng cảnh Ðế Ðô, và xem tình hình sinh hoạt ở đây, với mấy đứa bạn học trường Pellerin. Nhóm học sinh này đưa Tuấn đến thăm Nữ công học hội do bà Ðạm Phương điều khiển.
Ðạm Phương nữ sử là một vị phụ nữ quí phái tiếng tăm lừng lẫy ở Huế. Bà rất thông giỏi chữ Hán và thường viết bài bằng Quốc Ngữ, và Hán Ngữ đăng trong Nam Phong Tạp Chí của Phạm Quỳnh ở Hà nội. Bà là vợ góa của một vị cựu thượng thư Triều đình Huế, giòng họ thế phiệt Nguyễn Khoa. Bà là mẹ của nhà văn trẻ tuổi Hải Triều, cậu con trai quý tộc này lại chịu ảnh hưởng học thuyết mác-xít, và có khuynh hướng đệ tứ quốc tế. Bà, thì trái lại, vẫn là một môn đồ trung thành của Khổng giáo, nhưng vẫn theo trào lưu mới. Bà rất tôn sùng cụ Phan bội CHâu, và tiêm nhiễm tư tưởng ái quốc của cụ. Bà rất được giới nữ trợ giáo và nữ sinh trường Trung học Ðồng Khánh khâm phục lắm. Biệt thự cổ kính của bà là nơi gặp gỡ của các giới nữ lưu " tân tiên " cả nam giới trí thức của đất thần kinh.
Do theo lời hô hào trong quyển " Nữ quốc dân tu tri " của cụ Phan bội Châu, bà có đứng ra lập " Nữ công học hội "để dậy các thiêú nữ ở Ðế Ðô về các môn nữ công, và dạy cả khoa luân lý " tứ đức tam tòng " của Khổng giáo. Bà có mời cụ Phan bội Châu đến khánh thành Hội trong một buổi lễ rất giản dị nhưng rất long trọng với sự hiện diện của hầu hết các giới thượng lưu trí thức và nữ sinh Huế.
Tuấn thắc mắc mãi về hai chữ " nữ sử " kèm theo tên Ðạm Phương của bà, Tuấn hỏi một vị giáo sư giỏi chữ Hán, vị ấy giảng nghĩa " nữ sử " là chức vị của một quan phụ nữ trong Triều đình, chuyên lo về các nghi lễ của Hoàng Hậu.
Bà cũng viết trong Phụ Nữ Tân văn.tuần báo nổi tiếng ở Saigon và đôi khi trong báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh. Ðạm Phương nữ sử có viết một cuốn sách về giáo dục phụ nữ, được các giới nữ lưu Huế hoan nghênh lắm
Nhân tiện nói về báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh thúc Kháng, là tờ báo" cách mạng " ( nhưng chủ trương rất ôn hòa ) của các giới Lão Nho và thanh niên cách mạng ở Trung Kỳ, ở Huế lúc bấy giờ còn có hai tờ báo khác : tờ Thần Kinh tạp chí, của giới quan lại, và tờ Phụ Nữ tân tiến của bà Lê thanh Tường, vợ ông bí thư của quan Khâm Sứ Trung Kỳ, Yves Châtel. Tờ phụ nữ tân tiến trình bày và khuôn khổ cũng na ná như tờ Phụ nữ tân văn ở Saigon, nhưng bán không chạy. Ngay ở Huế cũng chỉ các bà mệnh phụ và một số phụ nữ trí thức mua mà thôi.
Bà Lê Thanh Tường, người Nam Kỳ, cũng là một nữ sĩ hay làm thơ Ðường Luật có danh tiếng ở Huế thời bấy giờ. Sẵn nói đến nữ giới ở Trung Kỳ, Tuấn còn nghe phương danh một nữ sĩ rất có danh tiếng ở Tourane. Tên bà là bà Vương khả Lãm, tác giả một bộ tiểu thuyết khá hấp dẫn, nhan đề là " Tây Phương Mỹ Nhân " thuật chuyện có thật của một cô Ðầm ở Pháp theo chồng An nam về sống cuộc đời thôn quê trong một làng tỉnh Quảng Nam. Người đàn bà đẹp Tây phương ấy rất sung sướng với người chồng An nam quê mùa, nghèo khổ, mặc dầu bà bị các quan Tây ở Tourane hăm dọa và xúi dục bà bỏ thằng chồng An-na-mít vì danh dự và lòng kiêu căng của người Pháp.
Theo gương Ðạm Phương nữ sử, bà Vương khả Lãm cũng có mở một hội nữ công tại thành phố Tourane, và cũng có mời cụ Phan bội Châu ở Huế vào khánh thành. Lễ khánh thành này vì sự có mặt của nhà chí sĩ Bến Ngự và do sự tuyên truyền rầm rộ của bà hội truởng và các hôị viên toàn là các cô gái tân thời, là một biến cố rất long trọng và xôn xao náo nhiệt.
Bà Vương khả Lãm là người tân tiến nhất ở Tourane thời bâý giờ. Bà rất hăng hái chủ trương " Nam nữ bình quyền " do cụ Phan bội Châu đề xướng theo phong trào Âu Mỹ. Bà là người phụ nữ An nam đầu tiên ở Tourane đi xe máy đầm. Bị dư luận dân chúng xầm xì bàn tán quá bà phải để chiếc xe máy đầm của bà cho ông chồng ngày hai buổi cỡi đi đến sở, và cỡi về. Phu quân là ông Vương khả Lãm làm tham tá nhà Douane ( thương chánh ) Tourane. Sau này, vì quá tân tiến, giao du rộng, bà hút thuốc phiện và trở thành người nghiền. Những buổi tối nóng bức, người ta thấy bà nằm bên bàn đèn tự tiêm thuốc phiện lấy va quan tham, chồng bà, cầm chiếc quạt ngồi cạnh quạt cho bà mát. Bà ghiền nặng lắm, có khi nằm hút đến 12 giờ khuya, và ông chồng cũng còn ngôì quạt hầu bà cho đến khi bà dẹp bàn đèn đi ngủ. Bà sẵn sang tuyên bố với mọi người rằng bà cụ thể hoá học thuyết " nam nữ bình quyền".
Về nữ giới, phái trẻ tuổi nhất lúc bấy giờ, có hai cô trợ giáo mới tốt nghiệp bằng Thành Chung ( diplôme d'Études primaires-supérieures franco-indigène) cựu nữ sinh trường Trung học Ðồng Khánh : cô Trần thị Như-Mân và cô Nguyễn thị Du. Hai cô này đều có công lớn trong vụ bãi khóa năm 1927 ở Huế. Sau đỗ tốt nghiệp xong, cô trợ giáo Như-Mân kết hôn với thầy trợ giáo Ðào duy Anh, ông này đã xin nghỉ dạy để làm trợ bút ( nay gọi là ký giả ) báo Tiếng Dân. Ông Ðào duy Anh và cô Như Mân, họp tác dịch các sách về chính trị, kinh tế và tự xuất bản, thành lập " Quan Hải Tùng Thư". Các sách của Quan Haỉ tùng thư hồi đó được các giới trí thức và thanh niên học sinh rất hoan nghênh, và bán rất chạy
No comments:
Post a Comment