VĂN THI SĨ TIỀN CHIẾN
NGUYỄN VỸ
NGUYỄN VỸ
Tựa của tác giả
Tác phẩm này không phải là một văn học Sử, cũng không phải một công trình khảo luận.
Đây là chứng dẫn một thời đại, của một người đã bước trong lịch trình hăng say của Thế hệ Văn học Cận kim, đã lăn lóc hằng ngày với các bạn đồng hành. Nó đã sống, đã thấy, đã cảm xúc giữa một thế giới mới đột nhiên xuất hiện từ một thế giới cũ. Nó đã chia xẻ những vinh nhục của số kiếp con nhà văn.
Tiếng súng đại bác lần đầu tiên nổ dưới vòm trời Âu làm rung chuyển Địa cầu, hai mươi mốt năm sau Đệ nhất Thế chiến, đã làm sụp đổ tất cả kiến trúc đồ sộ nhưng mong manh của Đô hộ Pháp trên Đất nước thiêng liêng của Tổ quốc, Chỉ độc nhất còn lại Văn hóa.
Kỉ nguyên mới đang quằn quại trong khói lửa. Cái gì còn lại vẫn nguyên vẹn, đã trở thành một kí ức vàng son.
Nó chói lọi trong quạnh quẽ huyền mơ của một dĩ vãng luôn luôn còn hiện tại. Không có người chết. Chỉ có người vắng mặt.
Nhân chứng, vai còn nặng hành trang của cuộc phiêu lưu kì thú ấy, không có một kiêu hãnh nào cả. Không vì khiêm tốn giả dối. Chỉ vì trung trực truyền thống của Văn nghệ đối với người đương thời với nó trong thế hệ qua, đối với chính lương tâm của nó trong thế hệ nay.
Vài nét chân phương thân ái trao bạn.
Tác giả
Mục lục
Chương một
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
Nguyễn Văn Vĩnh
Phạm Quỳnh
Vũ Trọng Phụng
Lê Văn Trương
Lan Khai
Lưu Trọng Lư
Vi Huyền Đắc
Khái Hưng
Nguyễn Tường Tam
Thế Lữ
Trương Tửu
Mộng Sơn
Nguyễn Tuân
Phạm Huy Thông và Nguyễn Nhược Pháp
Anh Thơ
Vũ Bằng
Từ Bộ Hứa
Thâm Tâm và sự thật về T.T.KH.
Vũ Ngọc Phan
Trần Tuấn Khải
Ưng Bình
23. Tương Phố
24. Phan Bội Châu và Huỳnh Thúc Kháng
25. Phan Khôi
26. Thiếu Sơn
27. Song Thu
28. Đông Hồ và Mộng Tuyết
29. Quách Tấn
30. TchyA Đái Đức Tuấn
31. Thanh Tịnh
32. Chế Lan Viên
33. Hàn Mặc Tử
34. Thao Thao
35. Ngân Giang
Kết thúc chương một
Chương hai
Văn sĩ Việt, văn chương Pháp
Chương ba
1. Sinh khí văn nghệ tiền chiến
2. Đời sống tinh thần vật chất của văn thi sĩ tiền chiến
Văn thi sĩ tiền chiến
- Nguyễn Vỹ -
Chương I
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
(1888-1939)
Hồi còn là một học trò. Năm thứ Nhất trường Trung học Qui Nhơn, 12 tuổi, tôi đã mê văn thơ của Thi sĩ Tản Đà, và đã ao ước được biết ông. Lúc đó ông là “Thần tượng” của tôi. Nhưng vì còn trẻ con, và mới tấp tểnh làm Thơ, tôi đã có đôi chút tự ti mặc cảm, và khi học ở Hà Nội năm 1928, tôi không dám tìm đến nhà Thi sĩ. Tôi vẫn yêu cái hình vẽ “gánh văn lên bán chợ Trời” trên các bìa sách của “Tản Đà thư cục”, bán rất chạy vào những năm 1925-1930. Tôi cắt hình đó dán trên bàn học của tôi.
Lòng cứ ước muốn gặp Thi sĩ một lần “để xem mặt mũi ông ra sao”, nên một hôm, vào khoảng 1930, đi qua phố Hàng Da, xế nhà ông Phạm Quỳnh, tôi thấy trên tường một căn nhà có treo tấm bảng “An Nam Tạp Chí”, tôi liền đánh bạo giả vờ vào mua một quyển “Giậc mộng con” để thấy mặt nhà Thi sĩ. Tôi bước vào không thấy ai. Sẵn tính tò mò, tôi ngó trên một chiếc bàn kê sát vách, một điếu hút thuốc lào bằng tre, thứ “điếu cày” bình dân, bên ạnh một cái đèn liu riu, vài que đóm bỏ bừa bãi, với một mảnh giấy trắng. Tôi lén dòm trên giấy hai câu thơ viết chữ loằng ngoằng, tôi đọc thật lẹ, và còn nhớ mãi đến bây giờ:
Đi ra rồi lại đi vào,
Vẩn vơ chỉ tốn thuốc lào mà thôi
Tôi nhịn cười không được, bật cười to lên. Bỗng từ trong nhà, bước ra một ông mái tóc lâm râm, cúp rẽ một bên, áo lương thâm dài cũ mèm, quần trắng hơi bẩn, mang đôi giày mòn mỏi. Đôi mắt ông sáng quắc, nhìn tôi. Tôi lễ phép chấp hai tay cúi đầu chào, theo lối người Bắc:
- Lạy cụ ạ.
Ông gật đầu:
- Tôi không dám, cậu hỏi gì?
- Thưa cụ, cháu muốn mua quyển… “Giấc mộng lớn”.
- “Giấc mộng lớn” hay “Giấc mộng con”? Cậu lầm đấy, chỉ có quyển “Giấc mộng con” chứ không có “Giấc mộng lớn”.
- Dạ thưa cụ, “giấc mộng” gì cũng được ạ.
- Giấc mộng gì cũng hết cả!
Tôi bỡ ngỡ hỏi thẳng cụ:
- Thưa cụ, xin lỗi cụ, cụ có phải là Thi sĩ Tản Đà không ạ?
- Phải.
Tôi mừng quá. Nhưng không hiểu sao, đứng trước Nhà Thơ bằng thịt và bằng da mà tôi hằng kính phục, tôi bối rối không biết nói gì nữa. Tôi cúi đầu chào từ biệt:
- Lạy cụ ạ!
Tôi đi ra. Ông Nguyễn Khắc Hiếu đứng yên, nhìn tôi. Chắc ông cũng không hiểu là cậu học trò này muốn gì.
Tôi sung sướng và hãnh diện, đã thấy mặt nhà thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Tôi khoe cùng các bạn học của tôi.
Năm năm qua. Sau khi tuần báo “Phụ nữ” của bà Nguyễn Thị Thảo đăng bài thơ “Gởi Trương Tửu” của tôi, một buổi chiều, tôi đến chơi ở tòa báo, ngõ Hội Vũ, đang ngồi trò chuyện với cô thư kí quen thân (Cô này hiện ở Sài Gòn, là vợ ông Hoàng Nguyên, cựu Giám đốc Báo chí Bộ Thông tin dưới thời Ngô Đình Diệm.) bỗng thi sĩ Tản Đà từ ngoài bước vào. Một chiếc khăn đóng đã mòn viền, đáng lẽ đội trên đầu ông lại đeo tòn ten trong cánh tay. Vẫn chiếc áo lương thâm cũ giống chiếc áo mà tôi đã thấy ông mặc năm năm trước. Ông hỏi cô thư kí:
- Có ông Nguyễn Vỹ ở tòa báo không?
Cô bạn liền cười, chỉ tôi:
- Thưa cụ, Nguyễn Vỹ đây ạ.
Ông ngạc nhiên ngó tôi:
- Thế hả!... Cái ông này, tôi nhớ… quen quen… Tôi có gặp ông ở đâu nhỉ?
- Dạ thưa cụ, cháu chưa được hân hạnh gặp cụ ạ.
- Ông muốn đi chơi với tôi không? Ông có rảnh không?
- Dạ thưa cụ, cháu rảnh ạ.
- Thế thì chúng ta đi?
Ông đưa tôi lên tàu điện, phố hàng Bông. Nửa giờ sau đến một gian nhà ở ấp Thái Hà, Nhà của ông. Ông lấy chai rượư ra và hai cái cốc. Tôi không biết uống rượu, bất cứ là rượu gì, dù là rượu bia. Nhưng vì xã giao tôi không tiện nói ra, và sợ phật ý nhà Thi sĩ đã có tiếng là Lưu linh Việt Nam. Tôi cứ để mặc ông rót rượu ra cốc, thầm nghĩ rằng cũng đêm năm ngoái được hân hạnh ngồi hầu chuyện với cụ Phan Bội Châu trên sông Hương, cụ thì uống liên miên mà tôi cứ phải giả vờ nâng li lên môi nhấp một chút xíu cho có lễ phép, suốt đêm chưa cạn một li.
Ông Tản Đà bảo một chú bé chạy đi mua nhanh hai gói lạc rang (đậu phụng rang) để uống rượu.
Ông bắt đầu hỏi tôi:
- Tôi thích bài thơ Gởi Trương Tửu của ông, nên mời ông uống rượu. Trương Tửu là ai?
- Thưa cụ, bạn của cháu ạ.
- Ông ấy biết uống rượu không?
- Dạ, tên anh ấy là Trương Tửu, thì cụ khỏi hỏi! Vả lại dòng dõi Trương Phi đấy ạ.
- Hôm nào ông rủ ông ấy đến uống rượu với tôi.
- Dạ.
- Nhưng tôi giận ông lắm vì một câu trong bài thơ của ông. Tôi định gặp ông thì tôi bảo.
- Thưa cụ, câu nào ạ?
- Sao ông lại bảo: Nhà văn An Nam khổ như chó?” Ông so sánh nhà văn chúng ta với kiếp chó, mà ông không hổ thẹn ư?
- Thưa cụ, nếu cháu so sánh nhà văn với chó, thì chó nó thẹn, chớ sao nhà văn lại thẹn?
Ông Tản Đà làm thinh nốc hết li rượu, rồi rót luôn một li nữa.
Mặt ông vẫn chưa đỏ. Bỗng dưng ông phì cười, tiếng cười nổ lên đột ngột và kêu to, làm tôi giật mình. Xong, ông nói, không ngó tôi:
- Ông làm tôi buồn cười! Ông Tản Đả hay nói: buồn cười.
Rồi ông rưng rưng nước mắt…
Tự nhiên tôi cũng muốn khóc như ông. Mặt Tản Đà đỏ như quả gấc.
Hôm gặp gỡ đầu tiên ấy, Tản Đà có trao tôi bài thơ “Còn Chơi”, bảo tôi họa vận:
- Chưa ai họa bài này. Ông họa chơi cho vui, mà phải theo nguyên vận nhé!
Tôi chưa dám nhận lời, vì chưa đọc bài thơ.
Vài tháng sau, có việc đi Thái Hà Ấp tôi đến thăm Tản Đà và trao ông bài thơ “Hết Chơi” của tôi họa bài “Còn Chơi” của ông. Tôi bảo:
- Rất hân hạnh, nếu được tiên sinh đáp lại.
Một thời gian, Tản Đà nghèo túng quá, xoay sang nghề thầy tướng. Thi sĩ thuê một căn nhà rẻ tiền ở Bạch Mai, (Route de Huế) mở phòng xem “Quẻ Dịch”. Chính nơi đây, nhà thơ Việt dịch một ít thơ Đường bán cho báo Phong Hóa. Tiên sinh phàn nàn rằng tiền nhuận bút của Phong Hóa không đủ để uống rượu. Nhưng tiền nhuận bút nào đủ để Tản Đà uống rượu?
Phòng xem tướng Quẻ Dịch của Tản Đà không được đông khách lắm. Lí do rất dễ hiểu. Nhà thơ say rượu suốt ngày, có thì giờ đâu xem tướng cho thân chủ? Ngày Chủ nhật nhiều ông Công chức đưa vợ đến xem một quẻ, vì mến tài Văn chương nhiều hơn là vì tin tưởng tài xem tướng của Thi sĩ. Ông say rượu, nói tầm bậy tầm bạ, thân chủ cười, gật đầu khen hay, rồi rút lui.
Bốn tháng sau, tôi đi với Lan Khai xuống Bạch Mai để thử tài bói Quẻ Dịch của Tản Đà như thế nào, hai đứa có đem theo một chai rượu và một gói đồ nhắm để biếu Thi sĩ. Nhưng phòng xem tướng của Tản Đà đóng cửa im ỉm – Gõ mãi không có ai mở. Mấy người hàng xóm bảo:
- Ông Cụ ngủ suốt ngày, có khi đến khuya mới thức dậy.
Chúng tôi gởi lại rươu và gói quà, nhờ một bà hàng xóm trao lại Tiên sinh.
Sau, Tản Đà dọn về lại Ngã Tư Sở, số nhà 71. Thi sĩ ở đây cho đến ngày tận số.
Cùng với gia quyến ông, chúng tôi, số nhà Văn không quá 10 người, tiễn Thi sĩ về “giấc mộng” cuối cùng và vĩnh viễn, một buổi sáng tháng 5-1939.
Sau khi Tản Đà chết, bà vợ góa của Thi sĩ bị ở trong tình trạng túng thiếu thật là bi đát. Một số anh em nhà Văn có quyên một món tiền nhỏ, do Nguyễn Tuân đưa lên biếu bà.
Bà Nguyễn Khắc Hiếu là chị ruột của Nguyễn Tiến Lãng, rể của Phạm Quỳnh, một nhà Văn chuyên viết Pháp văn, và lúc bấy giờ làm quan Nam Triều. Nguyễn Tiến Lãng có vận động với nhà cầm quyền Pháp để giúp cho chị của ông một phương tiện sinh nhau. Bà được lĩnh hai môn bài rượu và thuốc phiện của Nha Thương Chánh để kiếm lời độ nhật.
Nhiều người cho đó là một chuyện hài hước lí thú, ví nhớ lại lúc bình sanh, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu có làm bài thơ phản đối độc quyền Rượu của Nha Thương Chánh (rượu Ty của Pháp) và đòi cho dân được nấu rượu tự do:
Yêu cầu cho khắp Nước Nhà,
Rượu Ti bãi hết, rượu ta cất tràn,
Tránh cho dân nỗi lầm than,
Bã chôn, men giấu, nhà Đoan[1] nhạt bừa…
Tha hồ rượu sớm trà trưa,
Nghiêng chai dốc chén say sưa tối ngày.
Tuy nhiên, dư luận trong giới Văn học Hà Nội rất thông cảm cho hoàn cảnh quẫn bách của bà quả phụ Nguyễn Khắc Hiếu. Không ngờ nhờ hai môn bài đó, mà nếp sống của Bà Hiếu lại khá giả hơn lúc sinh tiền của Thi sĩ.
Nhiều bạn làng Văn biết rằng hồi em vợ của Tản Đà là Nguyễn Tiến Lãng còn làm Bí thư cho René Robin, và rất được viên Toàn quyền này tín dụng, Lãng muốn đem ông anh rể vào làm việc trong văn phòng Tu Thư của Phủ Toàn quyền, để cho ông một chức nghiệp có lương tháng sống đầy đủ đàng hoàng. Nhưng Thi sĩ Tản Đà từ chối. Theo lời Khái Hưng kể lại với tôi, khi nghe tin này, tác giả “Hồn bướm mơ tiên”, có tặng nhà Thơ một món tiền khá khá để tỏ lòng mến phục.
Nhưng Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cao hứng làm mấy chầu rượu, dốc túi sạch sành sanh!
Thơ Tản Đà
Tản Đà không phải là một nhà Nho thông thái. Ông cũng không có Tây học nhiều. Vì ông sinh ra giữa lúc giao thời, Hán học gần suy tàn, Tây học mới bắt đầu phát triển. Nhưng ông chịu ảnh hưởng của Hán học nhiều hơn về pdi thi phú, và theo lời ông nói với tôi, ảnh hưởng sâu đậm nhất là của bà thân mẫu, tên là Nghiêm, một ả đào hát nổi danh một thời về văn chương và sắc đẹp. Thi sĩ Tản Đà rất có hiếu với bà mẹ nghệ sĩ ấy. Trên chuyến tàu điện về Thái Hà Ấp, ông “tâm sự” với tôi:
- Mẹ tôi thường dạy tôi: “Mẹ đặt tên con là Hiếu, là mẹ muốn con giữ mãi mãi chữ “hiếu” đối với mẹ”. Ấy thế, lớn lên tôi nghĩ rằng có lẽ Mẹ tôi có mặc cảm là một cô đào hát, nên sợ tôi khinh thường. Nhưng tôi luôn luôn giữ tình mẫu tử chí hiếu với Mẹ tôi vì… ông biết vì sao không?
- Dạ, vì tình mẹ con.
- Đành rằng như thế, nhưng vì tôi cảm thấy rõ ràng tâm hồn thơ của tôi chính là thừa hưởng tâm hồn nghệ sĩ của mẹ tôi. Không phải mẹ tôi sinh ra Nguyễn Khắc Hiếu, mà mẹ tôi sinh ra thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu. Ông hiểu không?
- Dạ, hiểu lắm.
*
Hầu hết thơ của Nguyễn Khắc Hiếu, nhất là những câu thơ hay nhất của ông, đều tiết lộ tâm hồn lãng mạn thanh thoát, đặc biệt của miền Bắc hồi đầu tki 20, còn đượm nhiều hương vị thuần túy nông thôn Miền Bắc, chưa bị xâm nhập bởi ảnh hưởng của thơ Tây.
“Nước Non nặng một lời thế,
Nước đi mãi mãi, không về cùng non.
Nhớ lời hẹn ước thề non,
Nước đi đi mãi, non còn đứng trông…”
…
“… Đá mòn, rêu nhạt
Nước chảy, hoa trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời…”
.v. v…
Đó đúng là chất thơ Nguyễn Khắc Hiếu.
Chất thơ đặc biệt nông thôn miền Bắc đã lộ ra trong những câu ca dao như:
“Chiều chiều ra đứng bờ ao,
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ”.
Rượu, và Ngông, chỉ là yếu tố phụ thuộc, trang trí, dùng làm bối cảnh của Thơ văn Tản Đà mà thôi.
*
Vì tính chất lãng mạn thuần túy đó, mà Phạm Quỳnh đả kích Tản Đà, trong một bài giới thiệu tàn nhẫn và ngạo mạn đăng trong Nam Phong Tạp Chí. Phạm Quỳnh, bút hiệu Thượng Chi, lấy văn chương hàn lâm (littérature académique), nghĩa là văn chương trưởng giả, quí phái, để hạ giá văn chương lãng mạn của Tản Đà mà ông nhận định là dễ dãi, nông cạn, có vẻ hoa mĩ bề ngoài, không có bề sâu.
Chúng tôi, đám thanh niên yêu thơ Tản Đà, chính vì khía cạnh thuần túy thơ mộng của thơ Tản Đà, không chấp nhận lối phê bình lệch lạc và có tính cách ganh ghét, của ông Chủ Nhiệm Nam Phong Tạp Chí, một nhà văn quá đạo mạo phong kiến, không có phong độ của con nhà văn nghệ.
Nguyễn Khắc Hiếu rất hận về bài phê bình của ông Thượng Chí, và ghét Phạm Quỳnh từ đó.
Tôi có hỏi Nguyễn Khắc Hiếu:
- Tiên sinh có thưởng thức thơ Pháp không?
Ông tỏ vẻ buồn:
- Tôi tiếc không được học tiếng Pháp nhiều như các ông và không hiểu được thơ Pháp. Nhưng đọc mấy bài dịch của ông Nguyễn Văn Vĩnh, và mấy bài dịch thơ Le Lac của Lamaritine đăng trong Nam Phong, tôi thấy thơ Pháp cũng lãng mạn khiếp đi chứ!
Tôi cười vì lối nói chuyện có vẻ ngây ngô của nhà thơ duyên dáng đáng yêu.
Nguồn: Văn thi sĩ tiền chiến. “Chứng dẫn một thời đại” của Nguyễn Vỹ. NXB Văn học, 2007.
1. Đoan (tiếng Pháp: Dounae) tiếng bình dân thông dụng nói về Nha Thương Chánh
Về Thư mục
Tiêu đề: Re: Văn thi sĩ tiền chiến Sun May 20, 2012 1:55 pm
Văn thi sĩ tiền chiến
- Nguyễn Vỹ -
Chương I
Nguyễn Văn Vĩnh
(1882–1936)
Hồi hãy còn là một sinh viên bé nhỏ, tôi đã coi NGUYỄN VĂN VĨNH như bậc Đại Nhân, siêu quần bạt tụy, tài trí vô song. Chỉ vì tôi đã đọc hết của ông bản dịch bộ sách LES MISÉRABLES của VICTOR HUGO. Trước đó, tôi đã đọc vài bản dịch Chinh Phụ Ngâm ra tiếng Pháp, bài Le Lac ra tiếng Việt, tôi đã không được thỏa mãn. Từ khi đọc mấy bài Fables de La Fontaine của Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra Việt ngữ, và bộ sách dịch “Những kẻ khốn nạn” của ông rất là vĩ đại, thì mỗi lần chỉ thấy cái tên của ông tôi đã cúi đầu khâm phục rồi.
Vào khoảng năm 1930, báo L’Annam Nouveau của ông bằng Pháp văn ra đời. Tôi mua ngay từ số 1, cũng như các bạn trẻ ham học hồi đó. Dù là sinh viên nghèo, chúng tôi cũng rán mua cho được, mỗi tuần hai kì, các số báo L’Annam Nouveau cho đến khi nó tự đóng cửa, vì ông Vĩnh bị vỡ nợ.
Mê Việt văn của ông, thích cả Pháp văn của ông, tôi chỉ ao ước được gặp ông một lần, được hầu chuyện với ông, dù trong một tiếng đồng hồ. Một buổi chiều vào khoảng ba giờ, một người bạn cùng tôi đang đi trên vỉa hè phố hàng Gai, bỗng người bạn bảo tôi:
- Ông Nguyễn Văn Vĩnh kìa, mày!
- Đâu?
Người bạn chỉ tôi một ông to béo, mặc âu phục trắng đội mũ trắng bự giống như cái “mũ thuộc địa” (casque colonmial của Tây hồi đó), ngồi trên chiếc xe môtô kềnh càng, nổ bình bịch và kêu rầm rầm, từ hàng Bông chạy thẳng xuống hàng Gai. Chúng tôi đứng lại ngó ông. Lúc ông bay vụt ngang qua chúng tôi, tôi cúi đầu chào. Ông không trông thấy. Nhưng tôi vui sướng vô cùng. Tôi đã thấy mặt nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh.
Trong ba năm còn là cậu sinh viên nhỏ bé, tôi chỉ thấy ông Nguyễn Văn Vĩnh có một lần đó thôi. Nhưng hình ảnh của ông nhà văn to lớn kia đã in sâu vào trong trí nhớ của tôi, và mỗi khi tôi nghĩ đến ông, hay đọc một bài báo, một quyển sách của ông, thì, lạ quá, tôi cứ nghe tiếng xe môtô nổ bình bịch và chạy rầm rầm bên tai tôi.
Cho đến bây giờ, tôi ngồi chép lại kí ức này, tôi vẫn còn thấy bóng dáng ông Nguyễn Văn Vĩnh ngồi trên chiếc xe môtô sơn màu đỏ, chạy vụt qua trước mắt tôi thật nhanh, và kêu ầm ầm như một chiếc mô tô bay trong Hội chợ.
Trong những câu chuyện giữa sinh viên Cao đẳng Hà Nội, người ta thường nói đến ông Nguyễn Văn Vĩnh luôn. Một vài anh cho tôi biết rằng ông có một người vợ bé là cô Đầm lai rất đẹp và còn trẻ tuổi. Bà cả thì là người Bắc, rất hiền lành. Nhà ông là cái biệt thự có tường cây cao xung quanh phủ đầy hoa antigone, và có cổng sắt, trên hồ Văn chương cạnh Đền thờ Khổng Tử. Tôi đã đi ngang qua đó nhiều lần, và hằng ước mong làm sao có cơ hội may mắn được gặp ông một lần, để xem tường tận gương mặt của ông và nghe ông nói chuyện.
Cơ hội ấy đã đến. Tôi cầm tập thơ mỏng manh vừa mới xuất bản đến tòa báo L’annam Nouveau ở cạnh Bờ Hồ Hoàn Kiếm, một dãy nhà một tầng, quét vôi trắng. Buổi sáng, tôi biết ông bận nhiều việc, tôi đợi đến buổi chiều. Tôi rón rén bước vào phòng thơ kí. Bốn năm ông và cô ngồi làm sổ sách, đánh máy, không ai để ý đến cậu nhãi con ngơ ngác, như con nai đi lạc bước trong rừng chiều.
Bỗng một chàng con trai dong dỏng cao hơn tôi, nhưng trạc tuổi với tôi, từ ngoài cửa đi vào. Chàng tủm tỉm cười hỏi rất nhã nhặn:
- “Vu” hỏi gì đấy?[1]
Tôi thấy cái miệng chàng như móm, nhưng đôi mắt rất lanh lợi.
Tôi bảo:
- Tôi muốn xin vào yết kiến ông… Directeur.
Chàng nhanh nhảu trả lời:
- “Vu” chờ một tí nhé. Để tôi vào xem Thầy tôi có bận việc lắm không đã nhé… À… mà, xin lỗi, “Vu” hỏi ông cụ có việc gì?
- Dạ… tôi muốn đem tặng ông cụ tập thơ nho nhỏ đây, mới xuất bản.
Nói xong, tôi trao “Tập thơ đầu” cho chàng ta. Chàng xem qua bìa, lật qua mấy trang trong, rồi tủm tỉm cười, cười mím chặt môi, để cái miệng như móm vậy!
- “Vu” cứ vào với tôi.
Tôi đi theo chàng, trong lòng hồi hộp, không biết chàng này là ai mà coi bộ đi vào văn phòng riêng của ông Chủ nhiệm có vẻ tự nhiên như thế.
Một căn phòng rộng rãi, mát mẻ, có một dãy cửa kiếng ngó ra ngoài đường. Ông Nguyễn Văn Vĩnh to như ông Hộ pháp, mặc áo sơ mi thật trắng, tay dài, đeo cà vạt đen, ngồi chăm chú viết. Nghe tiếng giày chúng tôi vào, ông ngưng bút, ngoảnh mặt ngó ra. Chàng trẻ tuổi đến gần:
- Thưa thầy, có một chàng thi sĩ…
Ông Nguyễn Văn Vĩnh ngó tôi, thốt ra một tiếng Pháp:
- Ah!
Ông lại cười, tiếng nói rang rảng:
- Vous êtes poètè?
(Anh là thi sĩ hả)
Tôi mỉm cười đáp:
- Non, monsieur le Directeur.
(Dạ, thưa ông chủ nhiệm, không phải.)
Chàng kia bỏ tôi ở lại một mình với ông Nguyễn Văn Vĩnh, chàng đi ra ngoài.
Ông cầm quyển thơ mong manh, bé nhỏ, lật coi từng tờ. Ông chú ý đến thơ Pháp nhiều hơn là thơ Việt. Rồi ông vui vẻ nói chuyện.
Tôi cảm thấy vinh hạnh được ông Nguyễn Văn Vĩnh bảo ngồi chiếc ghế đối diện, và được ông tiếp chuyện độ vài chục phút. Ông chỉ nói tiếng Pháp, thỉnh thoảng mới châm vào vài câu tiếng Việt thôi.
Ông hứa sẽ viết bài giới thiệu quyển thơ, và khuyến khích vài lời. Tôi vô cùng cảm động.
Tôi đứng dậy chào cáo biệt. Ra ngoài, tôi lại chạm trán anh chàng lúc nãy. Anh tự giới thiệu là Nguyễn Nhược Pháp, con trai cụ Nguyễn Văn Vĩnh. Từ đó, hai đứa chúng tôi quen nhau và dần dần trở nên đôi bạn thân. Do nơi Nhược Pháp mà sau đó tôi lại quên với Huy Thông.
Hai ba lần, Nguyễn Nhược Pháp đưa tôi đến tòa soạn L’annam Nouveau, tại đây tôi thường được hân hạnh hầu chuyện ông Vĩnh. Ông thích nói về chính trị vì lúc bấy giờ ông chủ trương chế độ “Administration directe” (thực trị), đối lập với ông Phạm Quỳnh, lãnh tụ phe “Bảo Hoàng”, chủ trương củng cố uy quyền Bảo Đại. Khác hẳn với Phạm Quỳnh mà cử chỉ, thái độ, ngôn ngữ đều ra vẻ học giả quí phái, lại kiêu căng, tự đắc, Nguyễn Văn Vĩnh rất là bình dân, giản dị, không khiêm tốn một cách giả dối mà cũng không kiêu kì trịch thượng. Nói thẳng thắn điều gì cần phải nói, quan niệm thế nào thì nói ra thế ấy, không cần văn chương bóng bẩy, không dè dặt, rào trước đón sau, không quanh co khúc khuỷu, không nham hiểm. Đó là những đức tính của Nguyễn Văn Vĩnh mà người đương thời đều mến phục. Nguyễn Văn Vĩnh rất trung trực, không nịnh ai mà cũng không ưa ai nịnh mình, không tùy thời, chỉ tùy mình. Ông chủ trương lẽ phải của ông, không có lí lẽ nào khác đánh đổ được ông.
Là người rất yêu nước, yêu dân, một nhà ái quốc chân chính, Nguyễn Văn Vĩnh đã thực hiện đời sống dân chủ riêng trong phạm vi của ông giữa thời kì phong kiến thối nát của chế độ thuộc địa và quân quyền.
Ông chủ trương “trực trị” tức là chống lại quyết liệt chế độ thuộc địa và bảo hộ của Pháp. Chính sách trực trị của ông gần như chủ trương Comonwealth của Ấn Độ đối với Anh. Ông đả kích quân chủ, coi Bảo Đại như đứa con nít khờ khạo để cho Tây vò đầu sai khiến. Hầu hết các lớp sinh viên Cao đẳng và trí thức giác ngộ ở Bác Hà đều hưởng ứng Nguyễn Văn Vĩnh.
Bọn thanh niên chúng tôi thời bấy giờ – tôi nói đại đa số sinh viên cao Đẳng và Văn Thi sĩ mới ra đời – đều phục Nguyễn Văn Vĩnh như ông thầy, hơn nữa, như nhà lãnh tụ. Ông hoạt động công khai, không thích làm “Hội Kín”. Chúng tôi càng phục ông khi biết ông được chính phủ Pháp tặng Huy chương (Légion d’Honneur), một Huy chương vinh dự nhất của Pháp, nhưng ông khước từ.
*
Có lần, tôi muốn chơi nghịch, chọc ông Vĩnh mà không cho ông biết. Tôi mượn cái tên Lệ Chi của một người bạn gái thân yêu để kí một loạt bài về phụ nữ, bằng Pháp văn, trong tờ báo Pháp L’Ami du Peuple Indochinois của Giáo sư Michel. Tôi “công kích” một bài của ông Vĩnh trong L’annam Nouveau, nhan đề là “Nos enfants chantent, nos enfants jouent” (Trẻ em hát, trẻ em chơi), ông giảng nghĩa ra Pháp văn một bài hát:
“Chi chi chành chành, cái đanh thổi lửa, con ngựa đứt cương, v.v…”
Với bút hiệu Lệ Chi, tôi cãi lại, cho rằng ông Nguyễn Văn Vĩnh giảng sai. Thực tình, tôi nghịch ngợm, giả làm một nữ sinh viên để bắt bẻ ông chơi, xem ông bảo sao, chứ đâu dám cãi bướng với ông! Vì vậy mà có cuộc “bút chiến” giữa ông Nguyễn Văn Vĩnh và “Cô Lệ Chi”, khá sôi nổi hồi tháng 7-1935. Độc giả hai tờ báo chắc là tủm tỉm cười, theo dõi cuộc bút chiến lí thú kéo dài gần một tháng. “Lệ Chi” là cô gái nghịch ngợm, ranh mãnh, nhí nha nhí nhảnh, còn Nguyễn Văn Vĩnh tuy là già nhưng cái giọng châm biếm vẫn còn hăng, quyết liệt mà không đổ quạu. Rốt cuộc, ông viết như sau đây:
“Nếu cô Lệ Chi mới đỗ Tiến sĩ Vật lí học ở Pháp về[2], chắc cô cũng chưa có chồng và chưa có con. Tôi khuyên cô nên có con đi đã rồi hãy nói chuyện với tôi về cách trẻ em hát và trẻ em chơi. Tôi thì tôi đã có chút ít kinh nghiệm về trẻ con bởi tôi là một đứa trẻ con đã già”.
Tôi còn nhớ mãi câu của ông là “je suis un vieil enfant” (Tôi là một đứa trẻ con già)!
Tôi phục câu ấy quá. Sau đó Nguyễn Nhược Pháp cười bảo ông bố: “Cô Lệ Chi là N.V. đấy, thầy ạ!” Ông Vĩnh cười hà hà: “Thế mà thầy cứ tưởng là có cô Lệ Chi thật!”.
Tết năm ấy, tôi đến mừng tuổi ông Nguyễn Văn Vĩnh. Với bàn tay Hộ pháp, ông tươi cười vỗ mạnh trên vai tôi:
- Chúc cô Lệ Chi đầu năm đẻ con trai, cuối năm đẻ con gái nhé!
Tôi mắc cỡ đỏ mặt, nếu không có Nguyễn Nhược Pháp trong nhà chạy ra, tay bắt mặt mừng, thì có lẽ tôi đã té xỉu trong hai cánh tay lực lưỡng của ông già duyên dáng ấy.
*
Hôm được tin Nguyễn Văn Vĩnh chết ở bên Lào, ngày 2-5-1936, tôi ngồi nơi bàn viết ở Khâm Thiên nhớ đến cụ, bỗng dưng hai dòng nước mắt trào ra.
Tội nghiệp cụ Vĩnh! Trong lúc, kẻ biết xu thời đang ngất ngưỡng cân đai ở Huế, vênh váo bên ngai rồng, thì một bác văn hào lỗi lạc, một nhà ái quốc trung trực và liêm khiết, bị quẫn bách về tài chánh, đã vỡ nợ, theo ông Ameédèe Clémenti (Người Pháp, chủ nhiệm báo L’Argus Indochinois, thân Việt, chống Pháp, kẻ thù của chính phủ thuộc địa, bạn thân của ô. Vĩnh.) sang xứ Lào để tìm vàng, đi phiêu lưu mạo hiểm trong rừng thiêng nước độc, rồi chết trên một giường bệnh, vì bệnh sốt rét rừng, xa vợ, xa con, xa quê hương xứ sở, trong túi không có một đồng xu!
Quan tài của cụ Nguyễn Văn Vĩnh được đưa xe lửa từ Lào về đến ga Thường Tín, ở phía Nam Hà Nội, cách thủ đô khá xa. Tất cả các giới sĩ, nông, công, thương ở Hà Nội và các tỉnh lân cận đều tự động kéo nhau đi, sắp hàng tư, hàng năm, có đến mấy chục ngàn người, đi bộ gần cây số, để đón rước linh cữu của bậc Văn hào.
Linh cữu đến ga làng Cỏ Hà Nội giữa một biển người im lặng, ai nấy đều cúi đầu, rưng rưng nước mắt. Linh cữu được đưa vào đặt tại Hội quán (Hội Tam Điển) (Loge de Franmaconerie), đường Gambetta, nơi đây có ông Lê Thăng, Tiến sĩ Luật khoa, cộng sự viên Báo L’annam Nouveau ông Phạm Huy Lực, Viện trưởng Viện Dân biểu Bắc Kì, và hai người Pháp hội Viên Hội Tam Điển, đứng túc trực đêm ngày.
Hôm đám tang Nguyễn Văn Vĩnh, một số anh em làng Văn nhóm tại Tòa sọan báo Phương Đông của Lan Khai, thảo luận về việc đưa đám. Có mặt trong buổi họp: Trương Tửu, Lan Khai, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Triệu Luật, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, tôi và TchyA. Anh em muốn tôi làm bài điếu văn vì tôi chơi thân với Nguyễn Nhược Pháp, con của ông. Tôi từ chối:
- Các anh muốn làm điếu văn thì làm. Các anh muốn đọc mấy bài điếu văn để ca ngợi ông Vĩnh cũng được. Riêng tôi, tôi chỉ mong được vinh dự khiêng quan tài của Nguyễn Văn Vĩnh.
Sau cùng, chúng tôi đồng ý theo đề nghị của Lan Khai giao việc soạn bài điếu văn cho Trương Tửu. Rất tiếc, bài của Tửu thật cảm động nhưng lúc đọc xong anh bỏ vào túi áo rồi sau thất lạc đâu mất, tìm mãi không ra. Tôi nghi rằng đi đám ma về, Tửu vứt áo cho tiệm thợ giặt và bài văn điếu Nguyễn Văn Vĩnh đã tiêu tan trong bọt xà bông.
Sách dịch của Nguyễn Văn Vĩnh
Trước hết, tôi muốn nói đến sáng kiến “cải cách chữ quốc ngữ” của Nguyễn Văn Vĩnh. Ông là người đầu tiên đề xướng một cải cách hợp lí hơn cả, như chữ F thay cho dấu huyền, chữ W thay sấu sắc, v.v… Sự cải cách của ông rất tiện lợi trong thời kì mà máy đánh chữ sản xuất ở Pháp và thông dụng ở Việt Nam chưa có clavier Quốc ngữ.
Nhưng sau xem chừng ít có người hưởng ứng nên Nguyễn Văn Vĩnh bỏ trôi luôn… Ông đâu có ngờ rằng vài chục năm sau khi ông chết, Bưu điện Việt Nam áp dụng hệ thống “Quốc ngữ cải cách của Nguyễn Văn Vĩnh” trong các điện tín.
Sau ông Vĩnh, còn nhiều người khác cũng đề xướng những phương pháp cải cách chữ Quốc ngữ, khác hơn của ông, như Vi huyền Đắc và Edmond Chodzko. Ông sau này là người Tiệp Khắc nhập tịch dân Pháp, làm thông ngôn có tuyên thệ tại Tòa án Pháp ở Hải Phòng, và rất thông thạo tiếng Việt, viết cả văn Việt.
Tuy nhiên, chỉ có “Quốc ngữ cải cách” của Nguyễn Văn Vĩnh là giản dị hơn. Nhưng sở dĩ dư luận chung của quảng đại quần chúng không sẵn sàng chấp nhận và không sốt sắng hưởng ứng, là vì người ta cho rằng 5 dấu … và những âm như Ke, Kê, Ki, Qu, Ph v.v… là những đặc điểm của vần quốc ngữ, đã có từ lâu và không trở ngại gì cho việc học và viết tiếng Việt Nam.
Sau cùng, Nguyễn Văn Vĩnh cũng nhận thấy rằng mỗi ngôn ngữ và ký âm của mỗi giống dân đều có những đặc tính riêng biệt, tiêu biểu cho sắc thái ngôn ngữ của giống dân ấy, và sự sửa đổi sẽ làm cho xáo trộn vô ích, nên ông không tha thiết tuyên truyền cho “Quốc ngữ cải cách” của ông nữa. Tất cả các tác phẩm của ông đều viết theo quốc ngữ chính thức.
*
Nguyễn Văn Vĩnh viết rất nhiều trong mục xã thuyết bằng Việt văn và Pháp văn trong Đông Dương tạp chí, Trung Bắc Tân văn, L’annam Nouveau, về đủ các đề tài, chính trị, văn hóa, học thuật, kinh tế, xã hội.
Ngoài ra, ông dịch nhiều hơn là sáng tác. Sự nghiệp lớn lao nhất của ông là dịch truyện Kiều của Nguyễn Du ra Pháp văn (dịch và chú giải), và dịch bộ truyện Les Misérables của Victor Hugo ra Việt văn.
Ảnh hưởng và uy tín của Nguyễn Văn Vĩnh mạnh mẽ nhất trong giới trí thức Việt và Pháp thời bấy giờ, là do hai bộ sách dịch này. Người Pháp hiểu được truyện Kiều là nhờ bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh. Sau Nguyễn Văn Vĩnh, mới có René Crayssac, Công Sứ Pháp ở Vĩnh Yên, dịch quyển Kiều ra bằng thơ Pháp, thơ Alexadrins, 12 chữ, dựa theo bản dịch bằng văn xuôi của Nguyễn Văn Vĩnh.
Điều đó, tôi thấy ít nhà văn học sử đều để ý đến.
Bản dịch bộ truyện Les Misérables rất công phu. Nguyễn Văn Vĩnh hãnh diện với công trình này nhiều hơn với bản dịch truyện Kiều. Ông có giãi bày “tâm sự” với chúng tôi: “Dịch quốc ngữ ra tiếng Pháp dễ hơn dịch tiếng Pháp ra Quốc ngữ”. Nhiều khi ông mất hằng nửa tiếng đồng hồ để tìm ra một câu Việt diễn tả đúng với câu Pháp văn của Victor Hugo. Có những lúc dịch được, ông khoái lắm. Có những lúc ông không thỏa mãn, đành dịch gượng bằng một câu dài thòng, hoặc một câu ngắn ngủ.
Một hôm, ông ngồi uống trà với hai thằng trẻ: Nguyễn Nhược Pháp, con ông, và tôi. Trong câu chuyện về sánh dịch, tôi nửa muốn học hỏi, nửa muốn bắt bí ông chơi, tôi bảo:
- Thưa cụ, nếu bây giờ phải tái bản bộ sách dịch Les Misérables, cụ có sửa lại cái tên sách không?
- Sao lại phải sửa?
- Thưa cụ, tên sách Những kẻ khốn nạn, sợ có nhiều độc giả hiểu lầm.
Nguyễn Nhược Pháp mím môi cười, và gật đầu đồng ý với tôi. Cụ Vĩnh cũng cười, khôi hài:
- Le misérable, c’est Victor Hugo! (Kẻ khốn nạn, chính là Victor Hugo!).
Cụ cười hà hà, rồi nói tiếp, cũng bằng tiếng Pháp:
- Il a inventé ce mot misérable, qui m’a donné de bien gros fils à retordre… Oui…! J’ai été très embêté en cherchant un mot annamite éqnivalent pour le traduire. Enfin, j’ai adopté “Những Kẻ Khốn Nạn”, faute de mieux.
(Ông ta đặt ra chữ khốn nạn ấy, làm cho tôi bối rối như tơ vò… Thật thế! Tôi rất bực mình khi tìm một tiếng Việt tương đương để dịch chữ Misérables. Sau cùng tôi đành dùng chữ “Những Kẻ Khốn Nạn”, không tìm được chữ nào hay hơn).
Nguyễn Nhược Pháp mím môi bảo:
- Giá thầy (Nguyễn Nhược Pháp gọi ông Vĩnh bằng “thầy”) “Những Kẻ Khốn Khổ” thì thầy đỡ bực mình.
Cụ Vĩnh lại cười, ngó đứa con trai:
- Ah, maintenant, le misérable, c’est toi! Tu ne m’as dit ca avant!
(À, bây giờ Kẻ Khốn Nạn là mày! Sao trước kia mày không nói cái đó với tao?)
Pháp thớt tỉnh trả lời:
- Con được đọc bộ dịch Les Misérables của thầy 3 ngày sau khi xuất bản!
Sau cùng, ông Nguyễn Văn Vĩnh nhìn nhận rằng: nên để: “Những Kẻ Khốn Khổ” hay là “Những Kẻ Khốn Cùng” thì đúng hơn. Cụ cũng không hiểu tại sao cụ không dùng chữ “khốn khổ”.
Cụ muốn lấy rượu đãi cho hai thằng bé con ranh mãnh nhưng chúng tôi không biết uống rượu. Nguyễn Nhược Pháp chìa tay xin “thầy” tiền đủ mua hai vé xi nê. Cụ Vĩnh móc túi quần, không có tiền, chạy vào nhà trong, hỏi bà cụ và đem ra cho chúng tôi 20 đồng[3].
Nguồn: Văn thi sĩ tiền chiến. “Chứng dẫn một thời đại” của Nguyễn Vỹ. NXB Văn học, 2007.
1. Vu (vous) anh theo tiếng Pháp.
2. Lúc bấy giờ ở Hà Nội có một cô sinh viên đỗ bằng Tiến sĩ Vật lí học ở Pháp mới về. Ông Nguyễn Văn Vĩnh đoán chừng “Lệ Chi” là cô Tiến sĩ ấy.
3. Theo thời giá bây giờ là 2.000 đồng (Thời điểm Nguyễn Vỹ viết sách này)
Về Thư mục
Văn thi sĩ tiền chiến
- Nguyễn Vỹ -
Chương I
Phạm Quỳnh
(1882–1936)
Một hôm, bọn học sinh chúng tôi, được các giáo sư cho biết là chiều thứ bảy ông Phạm Quỳnhi sẽ diễn thuyết tại giảng đường của trường Cao đẳng, chúng tôi nô nức đợi đến chiều ấy để nghe.
Ông chủ nhiệm tạp chí Nam Phong sẽ diễn thuyết bằng tiếng Pháp, về một đề tài rất hấp dẫn:
Le Paysan Tonkinois à Travers le Parler populaire.
(Người dân quê Bắc Việt, xét qua ca dao bình dân).
Kể ra chúng tôi đọc tạp chí Nam Phong đã lâu lắm rồi. Riêng tôi, tôi đã được đọc nó thỉnh thoảng một đôi quyển, của Thầy tôi mượn ở đâu về, vì thời bấy giờ tạp chí Nam Phong ít có bán ở các tiệm sách. Hầu hết độc giả Nam Phong là những quan lại, hoặc một số “trí thức thượng lưu” và “trung lưu” mua năm. Khuynh hướng chính trị gác hẳn ra một bên, chỉ đứng về pdi văn học mà thôi thì chúng tôi, tất cả thanh niên trí thức lúc bấy giờ, đều phục cái tài cao học rộng của ông Phạm Quỳnh.
Chữ Pháp, ông viết rất trôi chảy, với một lối hành văn rất bóng bẩy văn hoa, vừa giản dị, khúc chiết, vừa dồi dào ý tưởng.
Việt văn của ông cũng thế. Câu văn rất được săn sóc, điêu luyện theo như hành văn Pháp, rất thận trọng trong việc dùng chữ. Ông đưa đẩy ngòi bút dịu dàng, chững chạc, không dây dưa rườm rà, hoặc nặng nề theo kiểu một số nhà Nho, như ông Cử Dương Bá Trạc hay ông Lê Dư, cũng không cứng rắn và đôi khi quá giản dị, thực tế, như cú pháp của ông Nguyễn Văn Vĩnh.
Văn của Phạm Quỳnh là lối văn quí phái, “lối văn hàn lâm viện” như người Pháp nói.
Không thế nào không nhìn thận rằng thời bấy giờ, ai đọc văn của Phạm Quỳnh cũng đều phải phục văn tài của ông.
Nhất là tụi thanh niên chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi cuốc bộ trên vỉa hè phố hàng Da, thấy ông Phạm Quỳnh ngồi chễm chệ trên chiếc xe kéo nhà, sơn màu gạch bóng loáng, từ trong cổng nhà ông đi ra, hoặc đi đâu về.
Đi xe kéo nhà như thế, là sang nhất lúc bấy giờ. Ông mặc quốc phục Việt, áo dài the đoạn, hoặc Satin, - Không bao giờ Phạm Quỳnh mặc Âu phục, - chân luôn luôn mang giày escarpin (một kiểu giày của những người trưởng giả thời ấy), đầu chít khăn đóng, mắt đeo kính trắng. Vì điệu bộ quí phái ra vẻ bệ vệ của ông mà đám thanh niên trí thức chế nhạo ông, đặt cho ông cái biệt hiệu là “Kính trắng tiên sinh”. Tiếng Bắc, kính tức là kiếng trong tiếng Nam.
Phạm Quỳnh rất là tự cao tự đắc. Tôi có thể nói vô tư rằng ông là nhà văn sĩ kiêu ngạo nhất thời Tiền chiến, nhưng bề ngoài ông lại làm ra vẻ rất khiêm tốn, - cái khiêm tốn giả dối, tính toán, của những người thiếu thành thật tự nhiên, của những kẻ dùng nó làm mách lời khôn khéo để tự tăng cao địa vị của mình.
Kẻ chép hồi ức này đã có dịp ngồi nói chuyện trong nửa giờ đồng hồ với ông Phạm Quỳnh, tại nơi bàn giấy của ông ở Huế, lúc ông làm Thượng Thơ bộ Học, năm 1936, dưới thời Bảo Đại. Cái làm cho nó chú ý nhất trên gương mặt của nhà học giả quan liêu ấy là cặp mắt của ông. Nó nhận thấy dưới đôi kính trắng gọng vàng kia một cặp mắt rất là ranh mãnh, quỉ quái. Tất cả cá tính của Phạm Quỳnh đều ánh ngời trong cặp mắt tinh ranh xảo quyệt ấy. Ông ít khi tự nhận là Nhà văn, mà chỉ thích người ta gọi là nhà Học giả, - chính ông tự gán cho ông cái danh hiệu là Clerc. – Tuy ông vẫn có nụ cười và giọng nói khiêm tốn, nhưng cái vẻ khiêm tốn giả tạo không sao che lấp được tư cách chân chính của ông, là tư cách của một kẻ giả dối và rất kiêu căng, muốn chưng bày cái phong độ của người “quân tử” theo “triết học Khổng giáo”.
*
Hôm chiều thứ bảy ấy, ông Phạm Quỳnh diễn thuyết bằng tiếng Pháp tại giảng đường Cao đẳng Đông Dương ở Hà Nội, đường Bobillot, sinh viên đến nghe rất đông. Ở từng dưới, là các dãy ghế danh dự, có ông Thống sứ Bắc Kỳ chủ tọa, với tất cả các nhân vật cao cấp Pháp Việt ở Hà Nội, đa số là Tây và Đầm. Còn chúng tôi là sinh viên thì chen nhau đứng chật bao lơn từng trên, - theo tiếng thông dụng các rạp hát lúc bấy giờ gọi là trên “chuồng gà” (poulailler). – tôi đứng với một đám nam sinh và nữ sinh trường Thuốc và Sư phạm, phía bên trái. Có một cô bạn cứ ho từng cơn, khiến chúng tôi rất bực mình.
Sau lời giới thiệu của viên Giám đốc Học Chánh Bắc Kỳ, ông Phạm Quỳnh từ phía sau giảng đường ung dung bước ra diễn đàn. Ông rất bình tĩnh, thong thả, bệ vệ.
Lúc bấy giờ không có Micro, nhưng Phạm Quỳnh cất tiếng nói rõ ràng, chững chạc, êm ái. Chúng tôi ở trên “chuồng gà” nghe rất rõ. Đứng nói mấy lời cảm ơn các quan khách, rồi ông thong thả ngồi xuống ghế, trước chiếc bàn gỗ gụ lớn, trải tấm khăn nhung xanh màu da trời.
Ông đủng đỉnh gỡ cặp kiếng trắng gọng bạc để xuống bàn, lấy cặp kiếng trắng gọng vàng đeo vào, và rút trong túi áo ra một xấp giấy đánh máy.
Ông cất tiếng nói. Ông không chúi mũi xuống giấy như nhiều diễn giả khác đọc như đọc bài văn tế. Ông cũng không nói lung tung lộn xộn như một số diễn giả khác không theo một dự thảo hoạch định trước. Ông đã viết sẵn bài thuyết trình, rồi theo đó mà nói, thỉnh thoảng mới ngó vào giấy, nói rất tự nhiên, rất lưu loát, văn hoa. Chúng tôi đứng trên chuồng gà im phăng phắc, nghe mê. Trừ cô bạn cứ ho sù sụ, làm át cả tiếng nói của diễn giả. Tất cả đều phục ông Phạm Quỳnh có tài hùng biện, hoạt bát, duyên dáng mà vẫn nghiêm nghị. Lần đầu tiên chúng tôi được nghe một người Việt Nam diễn thuyết trước công chúng tri thức Việt Pháp trên 500 người, bằng tiếng Pháp lưu thoát hấp dẫn như thế. Hôm ấy, ông Phạm Quỳnh đã gây được lòng khâm phục hoàn toàn của toàn thể thính giả Pháp và Việt.
Tôi ra về thỏa mãn. Từ đó về sau, cũng như hầu hết các bạn trẻ sinh viên, tôi đã đọc tất cả các sách của Phạm Quỳnh xuất bản. Tác phẩm của ông đều là những bài ông đã viết đăng trong Nam Phong, và gom góp in ra thành sách. Dù nghèo túng đến đâu, chúng tôi cũng rán để dành tiền mua sách của Phạm Quỳnh. Chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều trong các sách của ông. Chúng tôi cũng chịu ảnh hưởng nhiều trong lối hành văn và cách diễn đạt tư tưởng của bậc văn sĩ tài hoa ấy.
Bởi sách học trong nhà trường không dạy cho chúng tôi hiểu biết thêm mấy tí về các môn học thuật cao siêu của Đông Tây, nên chúng tôi đã noi theo gương của ông Phạm Quỳnh mà tìm cách tự học thêm với các sách cổ kim Âu Á. Nhận thấy ông Phạm Quỳnh đã trở nên nhà học giả hiểu rộng biết nhiều, tư tưởng và học thuật uyên thâm, nên bọn trẻ sinh viên của thế hệ chúng tôi đã say mê văn hóa, và theo vết chân của bậc tiền bối mà lo tự học, để làm giàu cho trí óc.
Về phương diện thuần túy học thuật và Văn hóa, chúng tôi đều biết ơn ông Phạm Quỳnh, cũng như ông Nguyễn Văn Vĩnh vậy.
*
Năm 1936, có dịp đi Huế, kẻ tiện sĩ này có đến thăm ông Phạm Quỳnh, Thượng Thư Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Nói đến yết kiến ông, nhưng sự thực là có mục đích hỏi ông tại sao ông lại sửa đổi chương trình giáo dục ở các lớp sơ học, làm đình trệ bước tiến của thế hệ thiếu niên mới.
Tôi đi lang thang vô thành nội, tìm đến cửa Hòa Bình. Tôi ái ngại bước vô cửa, gặp một người lính lệ, liền đưa danh thiếp. Chỉ e ông Thượng Thư kiêu hãnh không tiếp mình.
Nhưng ông cho mời vô. Ông mặc xa tanh đen, đeo thẻ ngà tòn ten trên ngực, chân vẫn mang đôi giày escarpin đen, mắt vẫn đeo đôi kính trắng gọng vàng. Và ông vẫn nói tiếng Pháp.
Nghe ông thuyết một hồi hâu, tôi có cảm tưởng rằng vị Học giả này làm Đại thần bên cạnh nhà Vua, hình như không muốn cho thanh niên Việt Nam học giỏi như ông. Ông công kích những người học giỏi, du học ở ngoại quốc về, như Nguyễn Mạnh Tường, Lê Văn Kim. Ông muốn có một nền Quốc học thu hẹp trong phạm vi Annam mà thôi. Ông muốn đem cái học Tống Nho, với mớ đạo lí Khổng Tử, Mạnh Tử, mà áp dụng theo môn học thuật đời nhà Tống, để đào tạo một lớp Tống Nho Việt Nam, dung hòa với một ít học thuyết Descartes… Ông muốn kéo thanh niên trí thức Việt Nam giật lùi lại vài ba thế kỉ, không cần tiến lên theo trào lưu Văn hóa Âu châu. Tôi hoàn toàn không đồng ý với ông về chủ trương phản tiến bộ ấy.
Tuy vậy, khi tôi nghe Phạm Quỳnh bị giết ở Huế, tôi thật bùi ngùi cho số phận của con người tài ba lỗi lạc. Tôi quen nhiều với người rể của ông là Tôn Thất Bình, chủ bút báo La Patrie Annamite và giáo sư trường Thăng Long. Tôi quen biết con trai của ông là Phạm Bích, cử nhân luật, năm 1948 khi ông làm Bí thư của Bảo Đại, ở Đà Lạt. Hai người này đáng mến, mặc dầu không biết tí gì về Văn học cả, nhưng người con trai khác của ông là Phạm Giao thì chỉ là một tay ăn chơi không được tích sự gì.
Phạm Quỳnh chính là đúng vao câu châm ngôn “Cha làm thầy mà con bán sách”.
Nếu ông Phạm Quỳnh đừng xen vào chính trị, đừng hãnh diện làm kẻ tôi tớ của chính sách thuộc địa Pháp, nếu Phạm Quỳnh đem hết trí thông minh lớn lao và tài văn nghệ rất hoạt bát của ông để phụng sự hoàn toàn cho Văn học Việt Nam, thì chắc là ông đã để lại một sự nghiệp Văn Hóa vĩ đại vô kể, và thanh danh của ông đâu còn bị một vết nhơ?
Thật đáng tiếc thay!
So sánh Nguyễn Văn Vĩnh với Phạm Quỳnh
Giới trí thức Hà Nội Tiền Chiến thường so sánh hai nhân vật này, vì họ hoàn toàn trái ngược nhau. Trên bình diện chính trị, ông Phạm Quỳnh chủ trương Bảo Hoàng, yêu cầu chính phủ thuộc địa áp dụng đúng đắn Hiệp ước Patenôtre (1884), trao trả quyền hành chánh cho Bảo Đại ở cả Trung và Bắc Kì, theo một hiến pháp do Phạm Quỳnh soạn thảo, và được các báo Pháp đương thời gọi là “Constituion PhamQuynh”.
Nguyễn Văn Vĩnh, trái lại, đòi thực hành cho Trung Bắc Kì một chính sách mà ông gọi là Administration Directe (trực trị), nghĩa là dẹp bỏ ngôi Vua, để Pháp trực tiếp cai trị với sự tham gia hành chánh trực tiếp của nhân dân do Thượng, Hạ Nghị Viện của Nhân dân bầu cử.
Dĩ nhiên, người Pháp theo Phạm Quỳnh.
Cuộc “Bắc tuần” ra Hà Nội của Bảo Đại và, kế sau đó vài năm, của Nam Phương Hoàng hậu, đồng thời sự ban chức rất lố bịch cho viên Thống Sứ Pháp làm [“Khâm sai Đại thần”,] đại diện uy quyền Bảo Đại ở Bắc Kì, chính là để khởi điểm cho chính sách Bảo hoàng của Phạm Quỳnh.
Chủ trương “Trực trị” của Nguyễn Văn Vĩnh bị Phạm Quỳnh đả kích kịch liệt trong các bài xã thuyết của ông đăng trong nhật báo Pháp France-Indochine ở Hà Nội. Để “an ủi” Nguyễn Văn Vĩnh, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút báo L’annam Nouveau, Chính phủ Pháp tặng ông Bắc Đẩu Bội Tinh (Légion D’Honneur) là huy chương cao quý nhất của Pháp, nhưng ông Vĩnh không nhận.
Vụ huy chương này hoàn toàn giữ kín, dư luận dân chúng không hay biết gì, nhưng các giới trí thức và cách mạng ở Hà Nội đều biết rõ, và sự khí khái của ông Nguyễn Văn Vĩnh cương quyết từ khước “Légion D’Honneur” của Pháp, được các giới ấy, nhất là giới trí thức thanh niên nhiệt liệt hoan nghênh.
Uy tín của Nguyễn Văn Vĩnh càng được tăng cao từ vụ này.
Về phương diện thuần túy Văn học, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh cũng hoàn toàn trái ngược nhau.
Nam Phong Tạp chí, nguyên là do tiền trợ cấp của Chính phủ thuộc địa Pháp, và người sáng lập là Giám đốc Chánh trị vụ của Phủ Toàn quyền Đông Dương, tức cũng như Tổng Giám đốc Mật thám Phủ Toàn quyền.
Phạm Quỳnh có một lối văn Hàn lâm (style académique) rất văn hoa, nhưng chững chạc, nghiêm nghị, bệ vệ, văn Pháp cũng như văn Việt, khác hẳn lối văn giản dị thiết thực hoàn toàn bình dân của Nguyễn Văn Vĩnh, văn Pháp cũng như văn Việt của ông Chủ nhiệm L’annam Nouveau và cựu Chủ bút Trung Bắc Tân văn, Đông Dương Tạp chí, thật là lưu loát, và thường châm biếm, đúng với truyền thống hài hước, của tinh thần dân tộc Việt Nam. Văn Phạm Quỳnh có rất ít điểm hài hước hóm hỉnh đó.
Thanh niên Tiền chiến ưa tìm học hỏi nơi tri thức uyên thâm và văn chương hao mĩ của Phạm Quỳnh, gác ngoài lập trường chính trị của ông, cũng như họ thích những kinh nghiệm về Văn hóa tổng hợp, khoáng đạt, cởi mở, bình dân của Nguyễn Văn Vĩnh.
Cho đến nếp sống cá nhân, gia đình, xã hội của hai người cũng cách biệt nhau xa.
Phạm Quỳnh đeo kính trắng gọng vàng, ngồi chiếc xe kéo nhà quí phái, đi đứng thong dong, nói cười mực thước, chỉ giao thiệp với hạng thượng lưu, vì vậy mà các giới thanh niên trí thức Hà Nội gọi ông là “Kính trắng Tiên sinh” và “Học phiệt”.
Trái lại, Nguyễn Văn Vĩnh thích mặc sơ mi, quần “short”, cỡi xe môtô, giao du với đủ các giới, nói to, cười lớn, ưa đánh tổ tôm, săn bắn và có óc phiêu lưu.
Ông Vĩnh có hai vợ, một bà Bắc, một bà Đầm lai, cả hai đều phải lo giúp đỡ ông, và gia đình ông tuy thuộc về giới thượng lưu nhưng luôn luôn túng thiếu.
Công việc kinh doanh của ông về sách báo, xuất bản, rất là rộng lớn mà phương diện tài chánh lại không được dồi dào.
Phạm Quỳnh, trái lại, được sung túc, ra vẻ danh gia thế phiệt, đại trưởng giả.
Kết cuộc số phận, hai ông đều là nạn nhân của hai thái cực: Phạm Quỳnh ra làm quan, lên bực Đại thần được tín dụng bên cạnh ngai vàng, quyền cao chức cả tột bực, để rồi, sau cùng, bị thủ tiêu vô cùng thê thảm, như một tên Việt gian khốn nạn.
Nguyễn Văn Vĩnh bị phá sản, vì sự nghiệp Văn chương rủ một người bạn Pháp, cũng có óc phiêu lưu văn nghệ như ông, đi qua Lào để tìm mỏ vàng! Sau cùng, ông chết ở Lào vì bệnh sốt rét rừng, xa Quê hương, gia đình, bạn hữu, như một “bô hê miên” bất cần định mạng.
1937. Đọc được 7 trang trong quyển “Lục Xì”, tôi vứt sách xuống đất, bảo anh Minh Phụng, nhà xuất bản, ở ngõ Văn Tân, phố Hàng Đẫy:
- Sao lại có cái thứ văn bẩn thỉu thế này?
Minh Phụng cười:
- Anh đã đọc hết quyển sách chưa?
- Đọc bảy trang cũng như đọc hết rồi.
- Thế là anh lầm! Sách khác đọc 7 trang có thể nói là học hết; chứ sách của Vũ Trọng Phụng, đọc hết quyển sách chưa chắc là đã đọc được trang nào! Huống chi anh mới đọc có 7 trang!
Minh Phụng vừa pha xong trà “Chính thái” vào chén nhỏ, mời tôi. Hơi bay lên, mùi trà thơm phức. Hôm ấy là ngày giỗ Bà Cụ thân mẫu của anh Minh Phụng. Cúng xong, anh bưng đỉnh trầm để trên bàn khách. Tôi ngạc nhiên sao khách không có ai nữa mà chỉ có một mình tôi. Nhà xuất bản rung đùi, cất tiếng ồ ồ ngâm Kiều:
- “Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình!...”
Tôi cắt ngang:
- Giờ phút này, ngồi với anh, tôi khẳng nhớ và cũng chẳng có tình tự với ma nào cả!
Sự thật thì hôm ấy tôi có nhiều chuyện buồn, cực chẳng đã anh Minh Phụng từ chiều hôm trước, đã bảo tôi sáng nay đến dùng cơm với anh thì tôi mới đi.
Tôi lặng lẽ đưa mũi giày đá luôn quyển Lục Xì vào trong xó tường. Quyển sách mới xuất bản, hãy còn mới tinh nằm xác xơ bên chân tủ.
Nhà xuất bản Minh Phụng là một nạn nhân. Anh cười:
- Hôm nay, tôi chỉ mời có hai người bạn tôi quý nhất, nhưng có lẽ hai anh chưa quen với nhau.
- Ai thế anh?
- Vũ Trọng Phụng, tác giả quyển sách vừa được hân hạnh nếm cái mùi đôi giày há mồm của anh đó. Hình như anh chưa gặp Phụng lần nào, phải không?
- Chưa.
- Tôi biết thế nên muốn nhân dịp hôm nay có kị cơm bà Cụ tôi, và quyển Lục Xì của anh Phụng ra đời, tôi giới thiệu anh và Vũ Trọng Phụng để xem hai người bạn khó tính nhất trong làng Văn, và lại là hai người bạn quí mến nhất của Minh Phụng, sẽ đón tiếp nhau như thế nào.
Tôi biết Minh Phụng thích khôi hài. Người anh cao ngòng, như chàng Double-Patte trong màn ảnh. Hai con mắt ốc bươu. Mỗi lần anh ngó tôi là tôi có cảm tưởng như anh sắp nuốt sống tôi trong hai con ốc bươu ấy vậy. Anh ngồi nhìn quyển sách của Vũ Trọng Phụng, do anh xuất bản, vừa mới in xong, và anh lấy về quyển đầu tiên, không dè bị tôi đá lăn cù vô xó nhà. Anh tủm tỉm cười:
- Tôi sẽ ghi trong quyển nhật kí của tôi câu chuyện xảy ra hôm nay về quyển Lục Xì để sau làm giai thoại.
Rồi anh ngó đồng hồ:
- Phụng cứ hay đến trễ, mỗi khi tôi mời ăn cơm. Tôi mời đúng 11 giờ, thì 11 giờ 30 hắn mới đến. Còn hễ khi nào hắn đòi tiền bản quyền sách, tôi hẹn đúng 11 giờ thì chín giờ hắn đã lót tót đến rồi.
Minh Phụng cười ngó tôi:
- Anh cũng thế chứ gì! Hôm nọ về tiền bản quyền Đứa con hoang, tôi hẹn anh 6 giờ chiều, 2 giờ anh đã dời gót ngọc đến gõ cửa tệ xá. Làm tôi đang ngủ trưa, phải bò dậy để đi chạy tiền trả cho anh!
- Đồng hồ của tôi lúc ấy là 6 giờ!... Tôi cười bảo:
- Thôi đi bố ơi! Đồng hồ của các bố nhà văn sao mà khôn thế? Của người ta 2 giờ, mà đồng hồ nào của các bố cũng là 6 giờ tất. Bố, hay Bố Phụng, Bố Trương Tửu, đều thế cả!
Chúng tôi cười hà hà. Ngoài sân, một chàng xô cổng sắt đi vào. Chàng mặc áo quần cũ mèm cũng như tôi, tóc chải rẽ một bên, người dong dỏng cao và gầy, mặt hình chữ nhật, hốc hác, trông tiều tụy.
- Bác định cho tôi ăn cơm trưa nay phải không?
- Vâng, hôm qua con đã mời bố ạ!
- Bác bảo với tôi là mấy giờ?
- 11 giờ. Bây giờ là 12 giờ.
- Mình đã lỡ hẹn với Lê Cường là 11 giờ mình đến lấy món tiền…
- Đã lấy chưa?
- “Moa” đến từ 9 giờ, hắn đi vắng thế nào mà mãi đến 11 giờ chưa về!
- Thì chiều hãy đến Lê Cường vậy! Thôi, mời bố ngồi đây… Bố có biết ai đây không?
Tôi đứng dậy bắt tay chàng và tự giới thiệu. Chàng nhã nhặn xưng tên:
- Thằng Vũ Trọng Phụng đây!
Chàng nói mà không cười, Vũ Trọng Phụng nghèo thì ai cũng biết, nhưng có ai biết là anh nghèo cả nụ cười không?
Minh Phượng bảo:
- Quyển Lục Xì đã in xong. “Moa” có lấy vế một quyển để “toa” xem,
- Đâu?
Minh Phượng quay ngó xó tường tít đằng xa:
- Đấy!
- Sao nó nằm đấy?
- Vỹ vừa mới bảo Văn chương Lục Xì bẩn hơn cái mũi giày há mồm của hắn. Hắn cho sách câu vào nằm đấy đấy.
Vũ Trọng Phụng điềm nhiên ngó tôi:
- Anh Vỹ nói thế thì tôi phục. Hôm nọ, tôi đưa bản thảo cho Lan Khai đọc, nó chỉ biết khen nịnh tôi, là hay, là kiệt tác. Tôi bảo với Lan Khai là hắn không biết thưởng thức Lục Xì. Bảo như Nguyễn Vỹ, là văn chương Lục Xì bẩn, thế mới là biết thưởng thức Lục Xì. Thằng Phụng viết Lục Xì để tả cái bẩn, mà đứa nào bảo Lục Xì thơm thì đứa ấy ngốc. Thế là nó chửi ngòi bút của tôi đấy. Tôi tả cái bẩn mà anh ghê tởm được cái bẩn ấy, thế mới là anh nhận chân được cái giá trị văn chương của Lục Xì.
- Tôi mới đọc có 7 trang…
- Cái xã hội này bẩn quá, Vỹ ơi! Tôi biết đem những cái bẩn đó mà dồn vào một trăm trang sách thì chưa hết được cái bẩn của xã hội hiện giờ. Nhưng với tụi mình, 7 trang như thế cũng đủ chán. Anh không cần đọc thêm nữa.
Vũ Trọng Phụng đứng dậy đi lượm quyển sách trong xó nhà. Anh hỏi Minh Phượng:
- Quyển này là quyển đầu tiên trong nhà in bác lấy ra đấy chứ?
- Vâng.
- Để tôi biên mấy chữ tặng anh Nguyễn Vỹ hôm nay. Anh cho tôi quyển khác.
*
Hai giờ chiều ra về, Phụng bảo tôi:
- Hôm nào rỗi, anh đến nhà tôi chơi.
Gần hai tháng sau, tôi mới có dịp đến thăm anh. Một căn nhà chật hẹp ở phố Hàng Bạc. Anh ở trên gác, gác còn thật hẹp hơn. Tôi leo lên cầu thang gỗ, một cửa sổ vuông có dựng song, để lọt vào một vài thước khối ánh sáng vàng khè. Phụng đang ngồi viết nơi chiếc bàn con, trên bàn để các thứ đồ dùng: một cây đèn với một cái bóng đầy khói chụp lên một đốm lửa xanh gần như hấp hối, bát, đũa, vài ba lọ thuốc Tây, thuốc Tàu, bình mực, giấy, bút, hộp đồ may, cái áo trẻ con, một trái bưởi…
Tôi ngồi trên ghế dài, mở nắp bình tích tự rót nước vối ra li để uống, khỏi làm rộn đến chị Phụng. Chị sắp sửa đi đâu với đứa con nhỏ. Phụng hỏi tôi:
- Anh có con chưa, anh Vỹ?
- Tôi là con của tôi rồi, còn có con làm gì nữa?
- Thế thì anh sướng. Tết Trung Thu sắp đến đây, anh khỏi phải sắm cái đèn con cá cho anh.
- Con của anh chưa có đèn Trung Thu à?
Phụng chỉ đưa tờ giấy đang viết dở trên bàn:
- Tôi viết bài này định đem cho Tiểu thuyết thứ bảy để lấy tiền mua đèn con cá cho con tôi. Có con phải nuôi con, thế là thường, nhưng có con lại còn phải sắm đèn con cá cho nó chơi, nếu không, Tết Trung Thu này tôi không phải là cha của nó nữa! Anh nghĩ thế có buồn không?
- Nó đòi cái đèn con cá hả?
- Nó không đòi. Con tôi chẳng bao giờ biết đòi tôi cái gì cả. Ấy thế mình mới đau lòng! Anh nghĩ xem. Chung quanh hàng phố, tất cả con nít nhà người ta đều đã có đèn chơi Trung Thu. Duy chỉ con mình là không có. Cả ngày nó cứ ngắm nghía thèm thuồng các thứ đèn giấy của lũ con trong hàng phố được cha mẹ của chúng mua sắm cho. Nó mơ ước được một cái đèn như thế, để chơi như con người ta. Nó muốn quá cho đến đỗi nó buồn bã không chịu ăn cơm. Mẹ nó hỏi nó: “Con thích chơi cái đèn gì?”. Nó vui mừng trả lời ngay: “Con thích cái đèn con cá”. Tội nghiệp cho nó, nó tưởng nó thích thế thì mẹ nó đi mua cho nó chơi. Nhưng mẹ nó làm gí có tiền! Không có tiền mua một con cá thật để ăn thì nó ăn rau với đậu phụ được, chứ một con cá bằng giấy mà cũng không có tiền để mua cho nó chơi, thì nó biết chơi cái gì trong ngày Tết Trung Thu với trẻ con hàng phố? Anh xem, có tội nghiệp cho nó không!
- Hôm nay chị Phụng dắt cháu đi mua đèn con cá phải không?
- Nếu thế thì tội gì tôi phải ngồi viết mấy trang giấy này! Tôi ốm mấy hôm nay, anh Vỹ à. Nếu anh đến lúc nãy thì anh đã thấy tôi sốt rét nằm li bì trên ván ngựa, chắc là không thể ngồi dậy để tiếp anh. nhưng chỉ còn hai ngày nữa là Tết Trung Thu, tôi thấy con tôi muốn cái đèn con cá chơi đáng giá năm hào chỉ, chứ có nhiều nhõi gì mà chúng tôi không có tiền để mua cho con chơi. Trông thấy nó buồn bã, thèm muốn cái đồ chơi ấy quá mà không dám đòi, tôi phải gượng ngồi dậy viết một bài này để lấy tiền mua cho con cái đèn con cá.
- Anh viết xong chưa?
- Vợ tôi không cho tôi viết. Nó dắt thằng nhỏ đến nhà bà chị họ ở phố hàng Cau để vay tiền… Nhưng tôi biết là không vay được, vì gia đình nhà ấy không ưa tôi.
- Thôi anh nằm nghỉ. Khỏe rồi hãy viết.
- Nếu tôi nằm xuống là chắc chắn không dậy được nữa.
- Anh nằm xuống, đọc tôi viết cho. Anh đã viết được mấy trang? Còn mấy trang nữa?
- Cảm ơn anh. Nhưng tôi không thể đọc được.
Tôi rờ tay Vũ Trọng Phụng. Nóng như lửa. Nhưng anh can đảm đứng dậy, lấy hai viên prémaline uống một lúc. Tôi ra về để cho anh viết.
Đêm Trung Thu tôi trở lại thăm Vũ Trọng Phụng. Trước cửa nhà anh, một đoàn nhi đồng vui vẻ kéo đi diễu chơi qua phố, mỗi em cầm một cái đèn giấy. Thằng con của Vũ Trọng Phụng cầm cái đèn con cá, đi hàng đầu. Nó giơ cái đèn lên thật cao, miệng cười hí hớn. Bên cạnh nó có hai đứa bé vừa đi vừa đánh trống theo sau con lân nho nhỏ, múa qua múa lại thật là cuộc vui náo nức của các em.
Tôi lên trên gác. Vũ Trọng Phụng đang nằm trùm mền, người anh nóng ran, có đến 39 độ. Chị Phụng đã chạy đi mua thuốc chưa về.
*
1938. Nhờ một người bà con giúp vốn, chị Phụng mở một cửa hàng nho nhỏ, bán sách báo ở đầu phố hàng Nón. Tôi không gặp Vũ Trọng Phụng lúc này, nhưng có lẽ dạo ấy anh đỡ khổ.
Phụng ít có bạn bè. Anh thường chơi với Nguyễn Triệu Luật, Vũ Bằng, Lan Khai, nhất là Lan Khai. Thỉnh thoảng tôi gặp anh với Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư. Anh không ưa các nhà văn nhóm Phong Hóa. Anh ghét nhất Thế Lữ và Nguyễn Tường Tam, nhưng có cảm tình với Khái Hưng.
Anh nói chuyện khẳng khái, lại ưa mỉa mai chua chát. Thỉnh thoảng, anh thích nói khôi hài, nhưng tôi chưa thấy Phụng cười lần nào. Một hôm 10 giờ sáng, anh đến nhà Minh Phượng đòi tiền bản quyền sách mà nhà xuất bản còn thiếu anh. Minh Phượng đã khất với anh ba bốn lần rồi. Lần sau cùng, anh đến gặp bà vợ Minh Phượng, Minh Phượng đi vắng, bà bảo anh đi chơi một lúc rồi độ 11 giờ trở lại. Anh tức mình viết mấy chữ trên miếng giấy để lại cho Minh Phượng:
“Tôi đến mấy lần, vợ anh đều cho tôi đi chơi”.
“Vợ anh cho tôi đi chơi”, là Phụng nói theo tiếng Pháp “Votre femme m’envoie prommener” nhưng theo lối nói mánh lới của tiếng Việt thì chữ “chơi” có nghĩa tục.
Minh Phượng đưa giấy ấy cho tôi xem, mặt anh đỏ gay, anh bảo:
- Vũ Trọng Phụng đểu giả thật!
Tôi cười:
- Tại vợ anh… cho hắn đi chơi, chứ đâu phải tại hắn.
Đám ma Vũ Trọng Phụng
1939. - Tôi đi lang thang dọc theo bờ Hồ Hoàn Kiếm. Bóng tối phớt qua chầm chậm dưới bóng rặng dương liễu buông rũ mành tơ trên mặt nước. Tâm hồn tôi cũng chầm chậm phớt qua như con chim xanh kia, trên mấy ngọn lá vương mây. Nhưng con chim đã hót lên một bài thơ ấm áp mà tâm hồn tôi sáng hôm nay không hát được một bài thơ.
Trời vẫn đẹp. Hà Nội buổi mai khoác một chiếc áo nắng màu hồng, như chiếc áo cưới Sớm mai nào tôi cũng yêu Hà Nội duyên dáng khoác chiếc áo cưới hoa lệ của nàng. Tôi yêu Hà Nội, nàng thơ lãnh đạm kiêu căng của tuổi niên hoa. Nhưng sáng nay tôi ghét Hà Nội vô cùng. Tôi lánh xa trong bóng liễu, vì tôi không muốn nàng khoác chiếc áo tơ hồng trơ trẽn trên tôi. Tâm hồn tôi u ám lạ! Tôi ngồi xuống gốc liễu.
*
- Kìa! Đứa nào ngồi kia phải hắn không?
Tôi nghe tiếng Lưu Trọng Lư rủ rỉ như tiếng gió:
- Vỹ ơi!
Chuyến tàu điện ở Cầu Gỗ hình như sắp chạy. Nguyễn Nhược Pháp trên tàu nhảy vọt xuống, băng qua đường ra đến cây liễu, nắm tay tôi, kéo tôi đứng dậy. Tôi không sao quên được nụ cười ảm đạm trên môi anh. Không nói năng một tiếng, tác giả bài thơ “Đi Chùa Hương” đưa tôi lên tàu điện. Đi đâu? Bốn người đã ngồi trên ghế, riêng một bên, có lẽ đã hẹn nhau từ hôm qua, như một âm mưu của im lặng. Lưu Trọng Lư, nét mặt xương xương, đôi mắt đục ngầu, áo quần màu xám không ủi. Lan Khai ủ rũ với cặp kiếng cận thị, hai má trắng bệch như vôi. Trương Tửu mắt đỏ, tai đỏ, tóc như chiếc bàn chải muốn quét một bóng mây đen trên vòm trán của chàng. Mộng Sơn với một con mắt có vảy, môi không son, má không phấn, mặc áo đen quần đen. Nàng đưa nét mặt buồn tuyệt đẹp, ngó tôi, nói rất nhỏ:
- Anh đã hay tin… Vũ Trọng Phụng chưa?
Tôi không muốn trả lời, ngồi xuống cạnh nàng. Nhược Pháp ngồi cạnh Lan Khai.
Từ một tuần lễ, tôi đã biết Vũ Trọng Phụng đau nặng, chỉ chờ chết. Tôi không muốn đến thăm, vì tính tôi như thế. Trông thấy cảnh tượng đau đớn, tôi chịu không được. Tôi nhìn những đau khổ riêng của tôi, rất bình tĩnh, lạnh lùng, nhưng tôi không có can đảm chứng kiến đau khổ của một người khác. Trông thấy bộ mặt âm thầm lặng lẽ của bốn người bạn này, tôi không cần trả lời câu hỏi bùi ngùi của Mộng Sơn. Tôi cúi mặt xuống, châm điếu thuốc hút. Hai dòng nước mắt tự nhiên chảy xuống đôi má tôi, rớt xuống hai giọt làm tắt điếu thuốc tôi đang cầm nơi tay. Cả năm người đều không nói.
*
Một chuyến tàu tên là Im lặng…
Tàu điện chạy qua hàng Gai… Hàng Bông. Đến vườn hoa Cửa Nam, nó đỗ một phút. Nguyễn Tuân bước lên với một nụ cười. Chỉ có một Nguyễn Tuân cười mà thôi, nhưng nụ cười “Vang bóng một thời”, xa xăm từ vạn cổ. Tuân ngồi cạnh Nguyễn Nhược Pháp, với vẻ trịnh trọng, không cười nữa.
Tôi không nhớ ai hỏi:
- Ai làm bài điếu văn bây giờ nhỉ?
Tôi cũng không nhớ ai trả lời. Một người trả lời, và tất cả đều gật đầu đồng ý. Tôi vẫn làm thinh.
Sáng nay, đi lang thang dưới bóng liễu, tôi có cái buồn riêng, chứ chưa biết là Vụ Trọng Phụng đã chết ngày hôm qua. Bây giờ anh em rủ nhau đi chuyến tàu điện buổi sáng sớm này, tôi mới biết là chúng tôi đi đưa đám ma. Nhưng ngồi trên tàu điện mà bảo tôi làm bài điếu văn, thay mặt mấy anh em bạn thân của Vũ Trọng Phụng, để chốc nữa, 8 giờ, đọc cho Phụng nghe dưới huyệt mả, thì thật là…
Tôi bảo:
- Đến giờ phút này, các cậu mới sai tôi viết bài điếu văn khóc Vũ Trọng Phụng?
Nguyễn Tuân còn trào phúng lố lăng:
- Tàu đến croisement Thái Hà ấp, cho thằng Vỹ xuống để nó lên Gò Đống Đa ngồi viết, cho kịp chuyến tàu sau nó lên, thì quan tai của thằng Phụng cũng vừa đến nghĩa địa, không trễ đâu, tụi bây.
Lan Khai bảo:
- Ngồi ngay trên tàu này viết không được sao?
Nguyễn Nhược Pháp cười tủm tỉm, nụ cười mím môi bất hủ của chàng. Anh móc cây bút máy trên túi áo đưa tôi:
- Đây viết đi, cậu.
Lưu Trọng Lư hỏi:
- Đứa nào có miếng giấy lộn nào đó không, đưa cho nó, chứ nó viết bằng gì?
Lan Khai thò tay vào túi áo, móc ra bốn tấm giấy nhầu nát trao tôi: đây là hai mảnh giấy của một bà nào đó gởi đòi nợ anh, một mảnh thứ ba không biết anh làm bài toán gì mà viết dày đặc những bài toán cộng, toán trừ, có lẽ là tính tiền nhà, tiền cơm, còn mảnh giấy thứ tư là bức thư của một cô tình nhân gửi cho chàng hôm chủ nhật trước.
Tôi khẽ đập đầu cán bút vào hai răng cửa của tôi, kêu “cóc, cóc, cóc”… Mộng Sơn mỉm cười quay lưng lại tôi.
- Để tôi cho mượn cái lưng làm mặt bàn.
Tôi đặt tờ giấy trên lưng nàng, nguệch ngoạc mấy câu trong lúc tàu đang chạy rầm rầm:
“Vũ Trọng Phụng ơi!”
Tàu chạy đảo qua đảo lại nghiến trên đường rầy. Cái lưng mặc áo hàng đen của Mộng Sơn lắc lại lắc qua. Nàng thơ cố gắng ngồi thẳng lưng, tôi bảo:
- Khòm xuống một tí…
Cái lưng khòm xuống một tí. Tôi viết tiếp:
“Chúng tôi, những nhà văn đứng xúm quanh huyệt mả của anh đây, - chúng tôi thề rằng linh hồn của anh…”
*
Đám ma của Vũ Trọng Phụng lặng lẽ đi vào nghĩa địa, ở giữa quãng đường tàu điện Hà Nội – Hà Đông. Vài hạt sương còn long lanh trong lòng cỏ hai bên vỉa đường. Tàu điện vừa đỗ, Lưu Trọng Lư muốn giựt bốn tờ giấy trong tay tôi vừa viết xong.
Cả nhóm đều dừng bước, để xem bài văn tế…
Nguyễn Tuân hỏi:
- Cậu viết xong chưa?
Tôi nhét bốn tờ giấy vào túi:
- Tao không cho đứa nào coi cả. Tao viết cho Vũ Trọng Phụng, một mình Vũ Trọng Phụng sẽ nghe trước mà thôi.
Lưu Trọng Lư bảo:
- Mày xoàng lắm, tàu chạy gần 10 cây số, mà mày mới viết được bốn trang?
Chúng tôi im lặng, không đùa được nữa. Sắp hàng hai, chúng tôi bước chậm chạp theo sau đám ma vào nghĩa địa. Đi sát cạnh quan tài, chị Phụng khóc nức nở. Mấy đứa con của Phụng, còn nhỏ quá, mặc đồ tang đi theo sau, khóc sướt mướt. Tim tôi rỉ rả, âm thầm, chậm chạp, như đám ma đi trong ấy.
Quan tài hạ huyệt, Nguyễn Tuân khẽ đẩy tôi ra để thay mặt anh em làng Văn, đọc bài vĩnh biệt.
Lần đầu tiên tôi nghe Nguyễn Tuân khóc. Anh khóc như người ta hút thuốc phiện, từng cơn, chậm rãi, đều đều…
Lưu Trọng Lư cũng thút thít bên cạnh tôi, làm tôi đọc không được. Tôi quay lại khẽ bảo:
- Yên, cho tôi đọc chứ!
Tôi chỉ nói ấm ức mấy tiếng nữa rồi nghẹn ngào. Nước mắt trào ra. Ông Vũ Đình Long, chủ nhiệm [“Tiểu thuyết thứ bảy”] lấy xấp giấy của tôi, đọc tiếp ba trang chót…
Vũ Trọng Phụng chết đêm thứ sau 13-10-1939.
Trang đầu bài điếu văn:
“Vũ Trọng Phụng ơi!
Chúng tôi, tất cả những nhà văn đứng xúm quanh mả anh đây, chúng tôi thề rằng Linh hồn của Vũ Trọng Phụng và Linh hồn của các bạn đã qua đời, Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn Văn Vĩnh… sẽ được tôn sùng xứng đáng.
Thế hệ các Văn nhân còn sống sót lại đây sẽ tạc cho các anh một pho tượng.
Chúng tôi sẽ lập tên, để thờ các anh, một ngôi đền.
Chúng tôi sẽ gây lên một phong trào cho Quốc dân được biết, và yêu, và kính trọng tất cả những người thợ có chân tài đã đắp một viên gạch xây nền Văn học Quốc gia…
…
Nguyên văn bài này. Ông Vũ Đình Long có đăng lại đầy đủ trong Tạp chí Tao Đàn của ông, số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng, số 14 trang 11, 1939.
Câu đối của Tchya khóc Vũ Trọng Phụng:
“Trời hỡi! Ông sao ác quá chi, nặng nghiệp văn nhân, chết vẫn ngậm hờn chưa đạt chí,
Phụng ơi! Anh nỡ lòng bay vội mấy, đau lòng mặc hữu, sống còn sợ nỗi khó an thân”.
Câu đối của Lan Khai chép trong nhật kí:
“Thằng Phụng chết rồi, đau nhé Lan Khai, ngồi nhớ bạn, xem hình, lòng mủi lệ!
Bọn mình sống sót, nói như Nguyễn Vỹ, muốn lập đền, xây tượng, túi không xu!”
Tác phẩm Vũ Trọng Phụng
Văn chương của Vũ Trọng Phụng phản ánh đặc biệt nếp sống và ngôn ngữ bình dân miền Bắc, lối ngôn ngữ trào lộng, mỉa mai, lúc tế nhị thì thật tế nhị, nhưng khi chát chúa thì không gì chát chúa bằng.
Con người Vũ Trọng Phụng không thể viết lối văn nào khác được. Nét mặt xương xương, đôi mắt sáng quắc, nhưng đôi môi khô khan ít khi nở được một nụ cười vui tươi chân thật. Có cười chăng, cũng chỉ là một nét cười mỉa mai chua chát.
Đôi khi cũng là một nụ cười cay cú. Cả trong những buổi tiệc mà ai nấy đều vui vẻ, Vũ Trọng Phụng vẫn trầm ngâm, ít thông cảm, không cởi mở. Cho nên anh ít chơi thân với ai, trừ Nguyễn Triệu Luật (anh này từ điệu bộ đến ngôn ngữ, giống na ná anh Lê Ngọc Trụ ở Sài Gòn) và Lan Khai, Vũ Bằng. Hôm Phụng chết, Lan Khai xúc động, sẵn bút máy, đứng vẽ chân dung tác giả “Số đỏ” nằm trên giường chết. Nét vẽ đó rất giống Vũ Trọng Phụng.
Nhà văn của giới dân nghèo, dân thợ, Phụng lại không ưa làm chính trị và không thích giao thiệp với nhóm nhà báo Cộng sản, như Chất, Kính, Trần Huy Liệu. Anh phê bình mấy người đó là “đầu cơ dân nghèo”. Một hôm trong tòa soạn báo [Tương lai] của Nguyễn Triệu Luật, Chất đi đâu ghé vào chơi, và trong một câu chuyện về thời sự, anh nhà báo Cộng sản này phê bình Phan Bội Châu là Phản Bội Châu, và chưởi cụ Phan thậm tệ. Vũ Trọng Phụng ngồi im, chỉ hút thuốc lào. Một lúc, anh đứng dậy ra đi, bắt tay mọi người, không thèm bắt tay Chất. Cậu này mắc cỡ, gọi Phụng lại và đưa tay ra, nhưng Phụng bảo:
- Cậu đưa tay lên tát cái mồm cậu ba tát, rồi thằng Phụng sẽ bắt tay cậu.
Nói xong, Vũ Trọng Phụng điềm nhiên bước ra cửa.
Vũ Trọng Phụng kể lại cho tôi nghe vụ đó một hôm ăn tiệc tại Nhà Xuất bản Minh Phượng.
Văn của Vũ Trọng Phụng không màu mè, hoa mĩ như văn của Lan Khai. Phụng viết rất giản dị, rất bình dân nhưng vô cùng thấm thía. Đọc nhiều trang tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, tôi có cảm tưởng như đọc Jack London. Trong lúc nói chuyện, Lan Khai thường nhắc lại một vài đoạn văn của “thằng Vũ Trọng Phụng”, và cười ồ ồ lên, để tỏ ý phục cái giọng văn bao biếm thấm thía của tác giả “Lục Xì”.
Vũ Trọng Phụng chết, chúng tôi thấy một trống rỗng lớn trong làng văn Việt Nam ở những ngày tàn của thời đại Tiền Chiến… Không khí chiến tranh đã bao trùm đất Thăng Long, “nghìn năm văn vật”…
Chương I
Lê Văn Trương
(1906-1964)
Mười một giờ đêm. Cả dãy phố cuối đường Khâm Thiên, gần Ô Chợ Dừa, đã đóng cửa hết. Trên gác trọ tiệm buôn nước mắm cạnh tiệm giặt ủi và trường học Thanh Niên, tôi cũng vừa tắt đèn, lên giường nằm. Bỗng có tiếng từ dưới đường gọi vọng lên, rất to:
- Vỹ ơi! Vỹ!
Tôi làm thinh, lắng nghe xem tiếng của ai. Gọi như thế, hẳn là người bạn thân lắm, mà trong đám bạn thân có ai kém lịch sự đến thế?
- Vỹ ơi! Vỹ!
Rồi lại liên tiếp:
- Vỹ!... Vỹ ơi!... Vỹ!
Tiếng gọi thật to, vang động cả dãy phố. Tôi đã ngồi dậy định ra mở cửa ngó xuống đường xem ai, thì kế tiếp vang lên một loạt văn chương chửi thề:
- D… mẹ mày, sao hôm nay mày ngủ sớm thế, hả Vỹ?... Vỹ!... Vỹ ơi! Dậy đi hát ả đào với tụi tao mày!
Thôi, đích thị là Lê Văn Trương rồi! Cái giọng chửi thề oang oác lên như thế, chẳng sợ ai cười, bất chấp cả phép lịch sự đối với bạn bè, và đối với người thiên hạ, không đếm xỉa đến hàng xóm láng giềng đang ngủ, chỉ có Lê Văn Trương mà thôi.
Đáng lẽ tôi tức giận lắm. Nhưng nhờ tập được tính bình tĩnh, tôi thong thả dậy đi mở cửa, ngó xuống đường. Vừa trông thấy tôi thò đầu ra, anh chàng lại reo lên:
- Nó kia rồi ! Gớm, ngủ gì mà giờ này đã đi ngủ hả cậu? Vào mặc quần nhanh lên đi Ngã tư sở hát ả đào chơi! Nhanh lên, tụi tao đợi xe đây!
Tôi đang mặc pi-gia-ma, sao Lê Văn Trương bảo tôi vào mặc quần?
Tôi xấu hổ quá. Ai lại nói đùa gì mà tục tỉu thế bao giờ, mà lại la to tên cho cả dãy phố đều nghe? Nhưng tôi vẫn điềm tĩnh, đứng trên bao lơn, ngó xuống. Hai chiếc xe kéo Omic (loại xe kéo tân thời nhất ở Hà Nội lúc bấy giờ) chở ba người, đang đứng chờ. Tôi hỏi khẽ:
- Lê Văn Trương đấy à?
Lê Văn Trương vẫn rống to lên, chẳng kiêng nể ai:
- Ừ, tớ đây! Có cả thằng Lan Khai, thằng Nguyễn Tuân nữa. Chúng nó đang chờ mày cả đây.
Tôi vẫn khẽ giọng:
- Xin lỗi các anh, tôi ốm không đi được. Cho phép tôi ở nhà.
Lan Khai cười khàn, nhưng không la to như chàng Trương.
- Om thì xuống Ngã tư sở có các em thoa bóp cho.
Tuân nói:
- Thôi tụi mình đi. Đừng phá nó.
Tôi đưa tay lên vẫy chào:
- Cảm ơn. Xin lỗi các anh nhé! Mình đi ngủ đây.
Tôi vào phòng đóng cửa mà cũng còn nghe tiếng Lê Văn Trương nói oang oang trên xe, khi xe đã chạy:
- Đ… mẹ cái thằng, sao hôm nay nó ngủ sớm thế?
*
Lê Văn Trương như thế đấy. Rất vui tính, rất tốt, ăn to, nói lớn, mà nói luôn mồm, chuyên môn nói phét, nói tục, nhưng thành thật, ngay thẳng, không làm hại ai cả.
Chơi với bạn, phải hiểu tánh nết của bạn, luôn luôn tha thứ những nhược điểm của bạn, lúc nào cũng mến bạn, đó là phương châm xử thế của chúng tôi. Có lẽ nhờ sự thông cảm lẫn nhau, đó mà một số nhà văn chơi được lâu với Lê Văn Trương, con người rất ồn ào, “ba hoa thiên địa”. Những người điềm đạm như Họa sĩ Nguyệt Hồ lại thường phê bình Lê Văn Truơng bằng một câu: Mửng ấy “nan du” (Khó chơi, tiếng nói đùa).
Lê Văn Trương nói chuyện thế nào, thì viết tiểu thuyết cũng y như thế. Có thể nhận xét rằng: Lê Văn Trương là một cái máy nói ra một cái máy viết. Anh sang Gia Lâm ở nhà Trương Tửu, trong một tháng viết liên tiếp 3 quyển tiểu thuyết, không ngưng tay. Đó là Trương Tửu nói lại với tôi, và tôi cũng tin là đúng. Có lần tôi ngồi với Lê Văn Trương, suốt trong hai tiếng đồng hồ chỉ nói được một câu, còn thì Lê Văn Trương nói cả. Nói liên miên, và liên miên…
Anh ta ưa dẫn chứng những câu triết lí của vài danh nhân xưa mà anh ta đã học. Câu chuyện của anh thường được tô điểm với các tư tưởng xô bồ, các danh ngôn lẫn lộn của Platon, Socrate, Vương Dương Minh, Nguyễn Du, Musset, Goethe, Byron, Hồ Thích, Đỗ Phủ, Tolstoi, v.v… gặp đâu nói đấy, nhớ gì nói nấy, nhiều khi chẳng ăn khớp vào đâu với đâu cả.
Người ít học ngồi nghe Lê Văn Trương, chẳng biết đâu mà rờ. Người có học ngồi nghe anh, cũng… chẳng biết đâu mà rờ! Vì anh nói lung tung, loạn xị xà bần, đến nỗi nhiều khi anh tự mâu thuẫn với anh mà anh không biết.
Tuy vậy, Lê Văn Trương vẫn là một “người của nguyên tắc”, ngồi vững trên nguyên tắc như ngồi trên yên ngựa, chứ không chịu phóng túng, không ưa lãng mạn, không vượt qua các thành kiến sẵn có của tập quán. Anh hào hoa, cương trực, có vẻ anh hùng mã thượng lắm, nhưng tính lại nhát như thỏ, mềm như sứa.
Hồi làm báo Ích Hữu của Vũ Đình Long, Lê Văn Trương hay phô trương “triết lí sức mạnh”.
Hình như anh có chủ trương “đánh nhau” một lần với “bọn Phong Hóa” của Nhất Linh.
Hồi đó Ích Hữu và Phong Hóa đang bút chiến với nhau kịch liệt. Lê Văn Trương định dùng “triết lí sức mạnh” để thanh toán bọn Nhất Linh. Anh muốn đấu gươm nữa kìa. Nhưng anh nói mà không làm.
1937, một buổi tối Lê Văn Trương có tiền xốc xếch trong túi, rủ Trương Tửu và tôi đi “nhà hàng Mỹ Kinh”, một tiệm ăn sang nhất Hà Nội, phố Hàng Buồm. Trong khi chờ dọn các món ăn, chúng tôi uống chút ít apéritif, và nói chuyện phiếm. Tôi để ý ngay trước mắt tôi bốn thanh niên, có vẻ sinh viên trường Cao đẳng, ngồi quanh một bàn nơi góc phòng, đang ăn và cười đùa vui vẻ, bỗng im lặng nhìn chúng tôi và nói xầm xì. Tôi có cảm tưởng là họ biết chúng tôi.
Bỗng một chàng đứng dậy, tiến đến chúng tôi và đứng ngay cạnh Lê Văn Trương, hất hàm hỏi:
- Ông là Ông Lê Văn Trương có phải không?
Tác giả “Ngựa đã thuần rồi…” đáp:
- Phải.
- Tôi yêu cầu ông, chàng trai nói tiếp, nhường chỗ này cho tôi.
- Vì lẽ gì?
- Vì lẽ tôi muốn ngồi đây.
- Không được. Bởi vì tôi đã ngồi đây rồi.
Chàng thanh niên liền đưa tay đánh Lê Văn Trương một tát nảy đom đóm.
Trương Tửu đứng dậy toan nắm lấy chàng thanh niên vũ phu, nhưng hắn lễ phép bảo:
- Xin lỗi ông, tôi chỉ áp dụng Triết lí sức mạnh của ông Lê Văn Trương. Tôi thực hiện triết lí ấy trong nhiều trường hợp ở đời, và nay rất hân hạnh được dịp áp dụng nó ngay với Lê Văn Trương tiên sinh.
Lê Văn Trương đang ngồi yên, không nói, một tay ôm cái má bị đánh đau, bỗng nổi giận la lên oang oác:
- Thế thì con đ… hiểu cái triết lí sức mạnh của bố rồi! (Lê Văn Trương rất hay dùng tiếng tục tỉu trong lúc nói chuyện). Này, bố bảo cho con nghe: triết lí sức mạnh không phải là tự nhiên đánh bố một tát tai đau thấy ông thấy cha như thế đâu, con nhé! Triết lí sức mạnh là khi con đánh bố một tát tai hỗn xược như thế, mà bố không đánh lại con. Đấy là triết lí sức mạnh. Triết lí sức mạnh không phải là thằng nhãi con tự nhiên vô sự dùng sức mạnh đánh người lớn tuổi đáng bố nó, triết lí sức mạnh không phải là người lớn tuổi ỷ mạnh đánh đứa trẻ con Triết lí sức mạnh không phải như thế. Hiểu như thế là đ… hiểu triết lí sức mạnh của Lê Văn Trương…
Trương Tửu ngồi ngả lưng ra ghế, cười ồ ồ như Trương Phi. Tôi thì điềm nhiên xem chàng thanh niên phản ứng thế nào. Chàng cười hăng hắc, trả lời ngay:
- À ra triết lí sức mạnh của Lê Văn Trương là thế đấy! Thế thì xin lỗi ông Lê Văn Trương, vì tôi đã ghi bốn chữ triết lí sức mạnh trên má của ông… Thực ra tôi chỉ thử xem chính ông có hiểu triết lí sức mạnh của ông là cái quái gì không, thế thôi. Và tôi thỏa mãn thấy ông đã hiểu sâu xa lắm. Xin chào ông.
Chàng thanh niên trở về bàn của hắn. Hôm ấy tôi thấy Lê Văn Trương nói gượng, và ăn cũng gượng. Anh chỉ uống rượu nhiều hơn mọi khi, nhiều hơn cả Trương Tửu…
*
Nghe tôi sắp cho ra tờ tuần báo Pháp văn Le Cygne, Lê Văn Trương đi xe “Omic” đến nhà tôi, trong tay cầm một quyển truyện. Anh vứt quyển sách xuống bàn hỏi tôi:
- Vỹ, cậu xem quyển này của tớ chưa?
Tôi cầm sách lên xem: “Trước cảnh điêu tàn Đế Thiên Đế Thích”. Lật trang trong có mấy dòng tác giả đề tặng bằng Pháp văn “À mon ami, le poète Nguyễn Vỹ, Hommage cordial de l’auteur”. Tôi cảm ơn anh và hứa sẽ xem.
Lê Văn Trương bảo:
- Tôi cho cậu dịch ra Pháp văn để đăng làm feuilleton trong Le Cygne đấy.
Tôi do dự vì chưa đọc sách, nên chưa biết thế nào mà dịch, Lê Văn Trương nói tiếp:
- Cậu cứ dịch đi, tôi cam đoan với cậu là truyện này hay lắm. Đây là bộ truyện mà tôi ưa nhất đấy. Cậu cứ dịch, tôi không bắt cậu phải trả tiền bản quyền tác giả đâu mà sợ. Hơn nữa, này… tôi cho cậu xem…
Lê Văn Trương thò tay vào túi quần, móc ra một gói lạc, vừa bảo:
- … Hôm nay thằng Vũ Đình Long vừa trả tao 300 đồng, tao cho mày 50 đồng để mày lấy tinh thần, dịch quyển Đế Thiên Đế Thích ra Pháp văn để đăng trong Le Cygne của mầy. Cậu dịch đêm nay độ vai ba trang đủ làm feuilleton số 1. Số 1, hôm nào ra?
- Thứ năm.
- Ừ, thế còn kịp thì giờ chán! Cậu dịch đêm nay hai trang đầu, cậu nhớ viết vài dòng giới thiệu tác giả và tác phẩm nhé. Sáng mai cậu đưa thợ sắp là vừa.
Tuần báo Le Cygne số 1 ra đời, có tiểu thuyết Devant les ruines d’Angkor của Lê Văn Trương, do N.V. dịch ra Pháp văn. Có hình của tác giả do tác giả đưa cho để làm bản kẽm, và mười dòng giới thiệu đàng hoàng.
Một tháng sau, Le Cygne mới ra được số 4. chín giờ đêm thứ bảy, tôi đang ngồi viết bài, bỗng giật mình vì tiếng la lối om xòm của Lê Văn Trương từ ngoài cửa phóng vào:
- Le Cygne của mầy bán chạy lắm. Mầy phải trả tiền bản quyền Đế Thiên Đế Thích cho tao. Hôm nay tao hết tiền rồi. Nhanh lên, đưa đây 200 đi hát Ả Đào!
- Tớ chưa thu được đồng nào của Le Cygne cả, - tôi bảo – cậu hỏi Trương Tửu thì biết. Chiều nay tụi này nhịn đói. Tửu phải về Gia Lâm ăn nhờ ông bố.
- Còn mầy?
- Cậu có tiền thì đưa đây cho mình 6 xu ăn phở?
- Thôi, tôi đ… chơi với cậu. Hôm nay tao đã cạn túi, đến mầy, mầy lại “pô xu” nữa thì còn làm cái con khỉ gì được. Thôi, vứt mẹ bút đi! Mặc áo quần vào, đi Khâm Thiêm hát một chầu rồi muốn ra sao thì ra! Nhanh lên đi, mầy!
Tôi không muốn đi, vì một lẽ là không có tiền, hai nữa là phải viêt một bài để sáng mai đưa cho thợ sắp. Nhưng Lê Văn Trương bảo:
- Ông nói đùa, chớ ông có khối tiền đây. Đi đập trống cho khoái cái rồi sáng về mặc sức viết.
Lê Văn Trương nhất định lôi tôi đi. Dọc đường anh còn rủ thêm hai người bạn nữa.
Đêm ấy hát nhà cô Đào Phúc ở Ngã tư sở. Phúc có tiếng là hát hay nhất ở đây. Phúc tiêm thuốc phiện cho Lê Văn Trương hút với hai người bạn kia. Tôi thì nằm nghe Đào Loan kể cuộc đời phiêu bạt của nàng từ một nữ sinh trường Tiểu học Nam Định đến một cô đào hát.
Sáng tôi thức dậy đã 8 giờ. Các cô ả đào đã dậy trước, đang ngồi chải tóc, hoặc ra vào uể oải. Lê Văn Trương và hai người bạn đã lẻn về từ lúc nào rồi, để tôi làm “valise” ở lại. (Có những người không có tiền mà vẫn đi hát, xong cuộc tím cách trốn, để lại đó một người làm “con tin” – otage – để chịu đựng. Thường gọi người đó là làm “valise”). Bây giờ tôi mới biết rằng Lê Văn Trương muốn “chơi khăm” tôi một keo, nhưng ác nghiệc thay, tôi đâu có xu nào để “thanh toán” chầu hát cho cô Phúc? Tôi đành nói thật cho Phúc và Loan nghe, nhưng Phúc “nhã nhặn” yêu cầu tôi cho Loan đi với tôi về nhà tôi cho biết chỗ tôi ở. Rồi từ đó, cứ cách vài ba hôm là cô Loan đến “thăm” tôi để đòi nợ chầu hát của Lê Văn Trương đêm ấy.
Hôm sau tôi kể lại chuyện đó cho Trương Tửu nghe. Tửu tức giận bảo Trương: “Sao cậu đùa dai thế?”. Trương la lên oang oang:
- Mầy bảo với N. V. là nó xoàng lắm! Nó không tán được con đào Loan để Loan trả hộ cái món ấy cho nó được sao?
*
1958. – Sài Gòn 21 năm sau. Một buổi chiều gặp Lê Văn Trương đi lang thang trên đường Bonard, tôi rủ anh vào Kim Sơn ngồi. Nói chuyện phiếm một lúc, bỗng Lê Văn Trương hỏi tôi với vẻ mặt rất là nghiêm trọng:
- À này, V., dạo ấy cậu đã trả cái món nợ chầu hát nhà con Phúc chưa nhỉ?
Tôi phì cười, làm văng xa điếu thuốc đang ngậm trong môi.
- Mình tưởng thế nào Phúc hay Loan cũng di cư vào Sài Gòn, nên cố ý tìm để trả món nợ một đêm, nhưng không gặp.
*
Tôi mến Lê Văn Trương lắm. Anh là một người bạn rất tốt và rất hiền lành. Có lần, trong một đám ma, tôi không nhớ rõ là đám ma của Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Trọng Phụng hay Nguyễn Khắc Hiếu, tôi thấy trên nét mặt đau đớn thật sự của Lê Văn Trương hai dòng nước mắt từ từ chảy xuống. Tôi cảm động quá. Tôi nhớ lại như tôi đã cảm động khóc ròng rã khi đi coi chớp phim Bạch Tuyết, thấy bảy anh Lùn khóc nàng Công chúa. Không hiểu sao Lưu Trọng Lư khóc trong hoàn cảnh ấy, hay Trương Tửu, Nguyễn Tuân, Lan Khai, Mộng Sơn khóc tôi không cảm động, mà thấy Lê Văn Truơng khóc, tôi đau xót vô cùng. Có lẽ tại vì con người hay la to hét lớn, nói cười ầm ĩ không bao giờ buồn rầu chuyện chim đến khi đứng trước một cái tang bi ai não nuột, bỗng dưng, hai dòng lệ âm thầm tuôn ra trên mí mắt, để cho ta thấy phản ảnh lòng đau thương thấm thía của anh, mà xúc động lòng ta chăng?
*
Năm 1936, Lê Văn Trương ở đường hẻm Jacquin, phố Chợ Hôm, với 2 bà vợ. Cả hai bà ở chung một nhà và cùng cưng yêu anh. Cứ tối, hai vợ vào buồng ngủ, thì Lê Văn Trương thức ngồi viết tiểu thuyết một mình ở nhà ngoài cho đến 10 giờ đêm. Đến đây, anh gác bút, vào buồng gọi vợ lớn dậy:
- Mình ra bàn, viết tiếp cái tiểu thuyết cho anh, 12 giờ vào gọi anh dậy nhé.
Thế là anh nằm ngủ với bà vợ hai. Đến 12 giờ khuya, vợ lớn viết tiếp được 4 trang rồi vào ngủ lại. Lê Văn Trương dậy ra bàn viết tiếp theo đoạn văn của vợ lớn. Đến 4 giờ sáng, anh lại vào buồng ngủ, gọi bà hai:
- Em ra viết nốt cái tiểu thuyết cho anh chút nhé!
Lê Văn Trương ngủ với vợ 1 trong lúc vợ 2 thay phiên viết tiếp đoạn văn của chồng.
Câu chuyện này được loan truyền trong anh em làng văn Bắc Hà thời bấy giờ, làm câu giai thoại để cười chơi.
Năm 1955, tôi có gặp Lê Văn Trương ở Sài Gòn. Anh ở Hà Nội di cư vào. Vẫn Lê Văn Trương thao thao bất tuyệt của thời đại hoàng kim ở Hà Nội tiền chiến. Anh có cho tôi biết rằng một nhà xuất bản Anh hay Mỹ gì đó có mua bản quyền một quyển tiểu thuyết của anh để dịch ra Anh văn. Tôi niềm nở mừng cho anh được dịp phát tài to. Nhưng tôi chờ mãi không thấy quyển tiểu thuyết ấy ra đời!...
Có điều khiến tôi ngạc nhiên, là ở Hà Nội tôi không thấy Lê Văn Trương hút thuốc phiện, nếu có thì thỉnh thoảng một vài điều xã giao với bạn bè mà thôi, nhưng ở Sài Gòn Trương lại nhập tịch vào “làng bẹn”. Không biết anh nghiện từ bao giờ, nhưng lần nào gặp anh ngoài phố, hay anh đến thăm tôi ở tòa soạn Phổ Thông, tôi cũng thấy anh diện mạo bơ phờ, áo quần xốc xếch, có lúc đôi mắt như lim dim mệt mỏi. Anh thú thật với tôi là anh đang cơn ghiền. Ở Hà Nội tiền chiến, Lê Văn Trương là một tay phong lưu hào hiệp, áo quần bảnh bao, ăn tiêu rộng rãi. Từ di cư vào Sài Gòn, anh nghèo túng, lại mang thêm bệnh ghiền. Anh không viết được một tiểu thuyết nào nữa, và cũng không cộng tác với một tờ báo hay một cơ quan văn nghệ nào được lâu. Khả năng sáng tác của anh đã hoàn toàn kiệt quệ.
Thuốc phiện và hoàn cảnh gia đình túng thiếu đã làm khô cạn nguồn cảm hứng văn nghệ của Lê Văn Trương chăng?
Lê Văn Truơng chết trong một căn nhà hẹp ở Hẻm Bùi Viện, Sài Gòn, ngày 25-2-1964, thọ 59 tuổi. Tôi có đến viếng anh lần cuối cùng vào buổi sáng ngay sau khi được ai tín. Xác anh còn nằm ngay đơ và lạnh ngắt trên giường, chưa liệm. Tôi giở tờ giấy đỏ đắp mặt anh, và đặt bàn tay trên trán anh, tôi thật bùi ngùi cảm xúc. Vợ anh, ôm lấy xác anh, khóc òa lên.
Khi Lê Văn Truơng viết tiểu thuyết
Lê Văn Truơng là một nhà văn sáng tác rất dồi dào. Anh viết rất nhanh. Đó là điều thú nhất mà tất cả những bạn quen thân với anh đều nhận thấy. Chính Trương cũng hãnh diện về điều đó. Quyển “Một người cha”, anh viết tại nhà Trương Tửu ở Gia Lâm, trong 10 ngày. Anh sáng tác tiểu thuyết hàng loạt, chú trọng về lượng hơn là về phẩm. Vì thế, anh không có thì giờ săn sóc câu văn, anh không có kiên nhẫn ngồi sửa bản thảo.
Anh viết nhiều cũng như anh nói nhiều, cho nên văn của anh bị ảnh hưởng vì cái tật đa ngôn đó: rườm rà, luộm thuộm, xô bồ. Nhiều lúc, anh bốc đồng, viết lung tung, không kiểm soát lại tư tưởng của mình, cho nên phân tích được các tiểu thuyết của anh là một việc rất khó.
Chính Lê Văn Truơng cũng tự nhận như thế trong những câu chuyện thân mật về văn nghệ.
Vài ngày sau cái chết của Nguyễn Tường Tam, Lê Văn Truơng đến thăm tôi tại tòa soạn Phổ Thông. Anh buồn bã gục đầu xuống. Tôi làm thinh, chờ xem anh muốn nói gì. Một lúc khá lâu, có vẻ trịnh trọng, Lê Văn Truơng cất tiếng:
- Thằng Nhất Linh đi rồi, bọn cũ tụi mình ở đây chỉ còn mầy, với một vài thằng nữa thôi. Tao cũng sắp đi. Nhưng tao buồn là không để lại một tác phẩm nào xứng đáng với cuộc đời của tao.
Im lặng một lúc, Lê Văn Truơng nói tiếp:
- Tớ muốn cậu tự ý chọn một quyển truyện nào của tớ mà cậu ưng ý nhất, cậu viết một bài phê bình thật đầy đủ, cho tớ xem trước khi tớ làm cuộc du lịch cuối cùng và vĩnh viễn.
Tôi hỏi:
- Trong tất cả các truyện cậu đã viết, cậu thích quyển nào nhất?
Lê Văn Truơng trả lời không do dự:
- Tớ đ… thích quyển nào.
- Ít nhất cũng có một vài quyển hay hơn các quyển khác chứ?
- Tớ viết quyển nào cũng hay cả, mà chẳng có quyển đ… nào hay cả! Thế mới chó!
Câu nói mâu thuẫn đó tiết lộ tính chất sáng tác đặc biệt của Lê Văn Truơng. Tác phẩm nào cũng hấp dẫn, nhưng không có một kiệt tác.
Tôi bảo:
- Cậu chọn một vài quyển tương đối nổi bật hơn hết, đưa đây tôi. Tôi sẽ viết một bài dài và thật khách quan.
Nhưng tôi đã chờ mãi Lê Văn Truơng cho đến ngày anh chết.
Lan Khai
(1906 – 1945)
“Nhà văn đường rừng” là biệt hiệu của anh em làng văn Bắc Hà đã tặng cho Lan Khai, vì anh chuyên viết các truyện về Mạn Ngược, nghĩa là về các vùng Thượng Du Bắc Việt.
Sinh trưởng ở Tuyên Quang, là một tỉnh ở miền ấy, học ở Tuyên Quang, sau khi đỗ bằng Cao Đẳng Tiểu học cũng về dạy học ở đấy, Lan Khai đã là một người con yêu dấu của lâm tuyền. Anh bỏ nghề giáo viên, cũng chỉ vì anh mải nghe tiếng gọi của Rừng thẳm, tiếng gọi mà anh ghi chép say sưa thành bóng vang huyền bí trong các tác phẩm văn chương và trong các nét họa của anh.
Vì Lan Khai vừa là văn sĩ, thi sĩ, và họa sĩ. Văn sĩ hay họa sĩ anh cũng đều là cái “tài tử” theo nghĩa của anh em nhà văn chúng tôi đã cho nó hồi tiền chiến, là “không cầu lợi”. Anh làm thơ, viết truyện dài, truyện ngắn, tùy bút, hồi kí, và vẽ những phong cảnh rừng núi thâm u, huyền ảo của các vùng Tuyên Quang, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, những cô Thái Trắng, Thái Đen, cô Mường, cô Thổ, với nét đẹp diễm lệ mơ hồ, như hình bóng một thế giới mộng huyền trong tưởng tượng, trong tranh, trong thơ… Nhưng Lan Khai vẽ, hay viết, chính là để thỏa mãn một say mê gần như là một ám ảnh huyền diệu, hơn là nghĩa đến việc đem bày bán những nét vẽ và câu văn của anh.
Nói đúng ra, thì một số văn sĩ, thi sĩ thời bấy giờ cũng đều bị lôi cuốn ít nhiều trong không khí say sưa Văn nghệ đang bồng bột, thịnh hành, nhưng tôi nhận thấy Lan Khai là một trong số văn nhận chịu hi sinh cho lí tưởng nhiều hơn, và thích sống đời thanh cao nho nhã hơn.
Tại vậy mà anh thay đổi chỗ luôn. Thuê một căn nhà nào để ở, chừng năm ba tháng không vừa ý là dọn đi chỗ khác. Ở đường Đỗ Hữu vị, rồi dọn đến chợ hàng Da, rồi dọn xuống ngọai ô Chợ Hôm, dọn về Bờ Hồ, ở trên một căn lầu rộng lớn, rồi dọn lên Hồ Trúc Bạch, làng Ngũ Xã… Tiền không có mà cứ dọn nhà hoài, và mỗi lần đổi chỗ là chở hằng năm sáu rương sách và một rương quần áo. Ngoài ra, không có gì nữa cả. Tôi đi tìm địa chỉ mới của anh có khi mất cả buổi. Và nhất là tốn tiền xe.
Có điều buồn cười nhất, và bí mật nhất mà lúc bấy giờ chỉ một số bạn rất thân với Lan Khai biết được mà thôi, là tác giả những truyện đường rừng lại thích đánh phấn thoa son như đàn bà. Vì Lan Khai hút thuốc phiện nặng, nên anh đánh phấn và bôi son để cho nét mặt có đôi chút hồng hào, che lấp những tàn phá của Phù dung tiên nữ. Nhưng anh điểm trang khéo tuyệt, còn khéo hơn chị Lan Khai nữa. Người ngoài nhìn vào mặt anh, không hề thấy có vét phấn son. Vì vậy nên nhiều bạn làng văn cứ bảo nhau: “Quái thật nhỉ! Lan Khai hút thuốc phiện thế mà guong mặt của nó không mốc meo chút nào!”. Anh rất diện, lúc nào cũng đẹp đẽ bảnh bao, ai mới trông thấy anh cũng tưởng đâu là một chàng nho sĩ phong lưu, một loại Kim Trọng tân thời nhưng không có Thúy Kiều, và trong túi thường không có một xu nhỏ.
Lan Khai có một người bạn tâm phúc cũng lạ thường, là Đỗ Thúc Trâm. Đỗ Thúc Trâm người thấp nhưng mập, đỗ Tú Tài rồi ở nhà đọc sách, viết văn, chứ không thèm tiếp tục học trường Cao Đẳng. Trâm viết Pháp văn thật hay. Có tư tưởng chống Pháp và kiêu căng, tự phụ, anh thường viết bài cho báo “L’annam Nouveau” của Nguyễn Văn Vĩnh. Cụ Vĩnh quí mến Trâm lắm.
Lan Khai đi đâu là Đỗ Thúc Trâm đi theo, như hình với bóng. Mỗi lần dọn nhà, là cả hai đều đồng ý dọn, và cả hai cùng lặng lẽ đi theo sau cỗ xe chở mấy hòm sách, nặng nề, chậm rãi, y như đi đưa một đám ma. Tôi có theo một lần đám dọn nhà kì quặc ấy, ôm giùm cho Lan Khai cái bình tích đựng nước trà.
Lan Khai và Đỗ Thúc Trâm đều diện, và thích ở riêng biệt, không muốn có đàn bà bên cạnh. Đỗ Thúc Trâm không có vợ và rất đố kị phụ nữ. Anh không có một người tình nhân nào cả. Còn Lan Khai có hai vợ, nhưng anh cũng không thích ở với gia đình. Thỉnh thoảng chị Lan Khai ở Tuyên Quang xuống, với anh một vài tháng rồi lại về Tuyên Quang. Chị này là vợ hai, hiền lành lắm, và đẹp, rất yêu mến Lan Khai và cũng bằng lòng để anh ở riêng tùy ý theo ý thích. Chị chiều anh lắm. Tôi sẽ kể các bạn nghe câu chuyện Hột mận của Lan Khai. Chuyện này đã xảy ra lúc Lan Khai ở căn nhà Ngũ Xã, với chị Lan Khai số 2. Anh là người rất đa tình, lại được rất đông độc giả bạn gái mến phục. Nhưng có lẽ anh không có duyên với phụ nữ nên đời anh không có cuộc tình duyên nào lâu dài và tha thiết, nên thơ, nên mộng. Cũng có lẽ tại anh thích sống cuộc đời lí tưởng quá, nên đa số bạn gái không ưa. (tôi nói: thiếu nữ lãng mạn hồi đó). Một đêm, tôi đang ngủ, Lan Khai đến đập cửa. Tôi chưa kịp mở, chỉ nghe tiếng anh:
- Vỹ ơi, Đỗ Thúc Trâm chết rồi nhé!
Tôi mở cửa ra, thì Lan Khai đã đi rồi. Tôi vội vàng mặc đồ đi đến nhà anh, người ta cho biết là Đỗ Thúc Trâm chết trong nhà thương, vì bệnh thương hàn.
Đám ma của Đỗ Thúc Trâm đi trong một buổi chiều rét buốt của mùa Đông, rất đìu hiu thê thảm. Hân hạnh cho Trâm, là có ông Nguyễn Văn Vĩnh đi theo sau quan tài. Ông Vĩnh bảo tôi: “Trâm, nó có tài lắm, nhưng đáng tiếc, nó không để lại được một tác phẩm nào cả vì chính nó lại coi rẻ cái tài của nó”.
Ông Vĩnh nói rất đúng. Đỗ Thúc Trâm có thể là một nhà triết học, hay là một nhà phê bình rất có giá trị. Học thức uyên thâm, văn bài rất điêu luyện, Trâm bị cái chứng bịnh lười biếng, chán nản, khinh đời, khinh cả mình. Hồi đó anh 25 tuổi, lớn hơn tôi vài tuổi.
Hôm nay, tôi nhắc đến Đỗ Thúc Trâm mà lòng tôi rất bùi ngùi nhớ tiếc. Từ ngày anh chết, không có một bài báo nào, hay một chương sách nào, nhắc đến tên người tài hoa bạc phận ấy. Kể ra, những bài Pháp văn anh đã viết trong L’annam Nouveau của Nguyễn Văn Vĩnh, và bằng Việt văn trong tuần báo Đông Phương của Lan Khai, có thể gom góp in lại thành một quyển sách rất có giá trị về tư tưởng. Nhưng tiếc thay, không ai làm việc đó. Lan Khai và tôi muốn làm, lại không có tiền.
Đỗ Thúc Trâm đã thành một kẻ lạc loài trong truyền tích, như Chatterton, một thi sĩ Anh xấu số. Lan Khai rất buồn chán sau khi Đỗ Thúc Trâm chết.
Tác giả những truện đường rừng cũng là bạn thân của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Triệu Luật, Lưu Trọng Lư. Anh không chơi với Thế Lữ, Nhất Linh, Đoán Phú Tứ, nhưng thỉnh thoảng đến với Khái Hưng. Anh thích Nguyễn Công Hoan, Vũ Bằng, Tchya, Nguyễn Tuân.
Một hôm được tin bằng dây thép cho hay bà vợ cả ở Tuyên Quang đau nặng gần chết, (chị này bị tật què chân). Anh đến nhà xuất bản hỏi mượn trước một món tiền để về tỉnh nhà lo thuốc men cho vợ. Anh trao điện tín cho nhà xuất bản thấy sự thật đau đớn như thế. Nhưng nhà xuất bản, chủ một nhà in lớn ở Hà Nội, trả lời không có sẵn tiền. Anh hết sức năn nỉ nhưng ông chủ nhà in, đã xuất bản ba bốn bộ sách của anh, quyển nào bán cũng rất chạy, vẫn một mực than thở: “không có sẵn tiền”.
Lan Khai rưng rưng nước mắt, ngó nhà xuất bản:
- Ông tàn nhẫn đến thế ư?
- Không phải tôi tàn nhẫn với ông, nhưng thật là vì tôi không có sẵn tiền.
Lan Khai rút trong túi ra một xấp bản thảo viết chưa xong, đưa cho nhà xuất bản:
- Tôi đang viết quyển này cho ông, ông không thể cho tôi mượn tạm trước vài ba chục đồng ư? Vợ tôi đang hấp hối chờ tôi ở Tuyên Quang, sao ông nhẫn tâm đến thế được?
- Tôi chia buồn với ông, nhưng còn việc mượn tiền thì…
- Tôi chỉ mượn vài chục đồng đủ tiền xe thôi, ông ạ.
Do dự một lúc, nhà xuất bản vào nhà lấy ra đưa cho Lan Khai hai chục đồng:
- Ông viết quyển sách ấy nhanh nhanh lên nhé. Và xin chúc ông về Tuyên Quang lo lắng cho bà nhà ta chóng bình phục.
Lan Khai về nhà, gặp tôi vừa đến hỏi thăm tin tức của chị, anh đưa dây thép cho tôi xem và vứt xuống giường mấy tờ giấy bạc, nước mắt anh chảy tràn trề trên đôi má:
- “Toa” thấy không, Vỹ? Mẹ cha cái kiếp chúng mình…!
*
Hôm tôi bị người Pháp bắt và bị còng tay đưa lên ga xe lửa Hà Nội, trong đám bạn bè quen thuộc hình như biết tin trước nên có lên chực sẵn ở cửa ga để tiễn tôi, tôi thấy có mặt anh Lan Khai. Hôm ấy anh ốm quá, mặt xanh xao gầy còm, không có đánh phấn như mọi khi. Tôi mỉm cười ngó anh. Anh đáp lại bằng một cái nhìn đăm chiêu tịch mịch.
Sau này, trong thời kì đồng bào Bắc di cư, tôi có tìm kiếm các bạn cũ Hà Thành. Một đôi bạn cho tôi biết là Lan Khai đã bị Việt Minh thủ tiêu ở Tuyên Quang. Tôi nghẹn ngào, không nói được. Tôi biết anh là người của Việt Nam Quốc Dân Đảng, bạn đồng chí rất thân của Nhượng Tống. Đó là nguyên do Việt Minh thù ghét anh. tôi không muốn tìm biết anh bị giết chết cách nào.
Tiểu thuyết Lan Khai
Lan Khai có giọng nói khàn khàn hấp dẫn đáo để. Một hôm anh hỏi tôi:
- Vỹ, hôm nọ toi (Lan Khai chuyên môn nói toi, moi trong câu chuyện thân mật với anh em.) nói toi chưa đọc quyển “Ai lên phố cát” của moi, toi nói thật hay nói bỡn đấy?
- Nói thật. Nhưng “chưa đọc” không có nghĩa là “không đọc”.
- Thôi, cậu lười đọc bỏ mẹ! Để mình kể chuyện “Ai lên phố cát” cho cậu nghe đêm nay. Như thế cậu khỏi làm cái corvée đó nữa nhé!
- Cậu kể cho tớ nghe, thì có phải cái corvée cho cậu không?
- Ô, trái lại. Chỉ sợ cậu không khoái nghe thôi.
- Khoái hay không, là do cái lối kể chuyện của cậu chứ.
- Cố nhiên là chuyện kể lại đâu bằng chuyện đã viết.
- Cậu cứ kể đi.
Thế là suốt đêm hôm đó, tôi nằm bàn đèn thuốc phiện với Lan Khai, nghe tác giả “Ai lên phố cát” kể chuyện “Ai lên phố cát”. Lan Khai vừa tự tiêm thuốc hút vừa kể chuyện. Tôi, không biết hút thuốc phiện, không hút được một điếu, nhưng nằm được bên cạnh bàn đèn, cũng như Vũ Trọng Phụng, để trò chuyện vui chơi với anh em, có khi suốt đến sáng.
Đêm ấy, có cả Đội Tứ, một cựu Đội Nhất Linh Khố Đỏ của Tây, bạn thân của Lan Khai và chuyên viết chuyện nhà binh cho các báo hằng ngày, để kiếm tiền nuôi vợ. Đội Tứ cũng không hút nha phiến, nhưng đã đọc truyện Ai lên phố cát rồi.
Lan Khai bắt đầu kể, tôi bắt đầu nghe, nhưng dần dần tôi bị anh ta thu hút với giọng kể chuyện hăng say, bay bướm, lúc thì trầm trầm, lúc lại sôi nổi, làm tôi rạo rực như chính mình đang say thuốc phiện vậy. Anh kể đến 5 giờ sáng thì hết chuyện, nhưng cuộc thưởng thức nhận xét của tôi và Đội Tứ, trao đổi với tác giả, kéo dài mãi đến 7 giờ sáng. Chúng tôi kéo nhau ra phố Hàng Buồm, ăn điểm tâm, uống một li cà phê đậm rồi mới bắt tay từ giã.
Về nhà, một tuần lễ sau, tôi đọc Ai lên phố cát. Cảm tưởng của tôi là Lan Khai kể chuyện còn hay hơn là anh viết – hay hơn nhiều. Trái lại với lời anh đã nói là viết thành văn hay hơn là kể bằng miệng.
Tôi có nói lại cuộc thí nghiệm đó cho Lan Khai nghe, anh cười bảo:
- Tại anh đã nghe tôi kể hết rồi, anh đọc lại còn gì là thích thú nữa?
- Không phải. Văn anh viết không tự nhiên bằng lời anh kể. Đọc văn, tôi không còn thấy cái nhiệt hứng dào dạt, làm tôi hồi hộp, xúc động, kích thích, như lúc tôi nghe anh nói. Anh sửa câu văn, anh gò ép, anh chải chuốt, mất cả tính chất man rợ, rừng rú trong tiếng nói trực nhiên, từ trong tim, trong máu, trong óc anh phát động ra.
- Anh nói cũng có lí. Có lẽ tại tôi viết Ai lên phố cát không hăng say bằng mấy quyển sau này…
*
Nhưng đó chỉ là nhận xét chủ quan của tôi, có lẽ hoàn cảnh nghe chuyện ban đêm, trong không khí khói thuốc phiện mờ ảo lẫn lộn với sương khói ảo huyền của truyện Ai lên phố cát của Lan Khai.
Thực ra, Lan Khai kể chuyện rất hấp dẫn, nhất là truyện đường rừng, nơi cương thổ riêng biệt của Lan Khai. Không nhà văn nào viết truyện đường rừng kích thích bằng Lan Khai, kể cả TchyA. Điều đó không có gì lạ, vì Lan Khai sinh trưởng ở Mạn Ngược, quê hương của các giống dân Thổ, Mường, Mán, Thái, đầy dẫy huyền bí, li kì, rùng rợn…
Nhỏ, Lan Khai là con đẻ của Rừng Rú Linh Thiêng. Trai tráng, Lan Khai là bạn của nguồn xanh hoa dại, của gió núi mây ngàn. Lớn lên, Lan Khai là văn sĩ, thi sĩ, họa sĩ của lâm tuyền thơ mộng, đầy huyền ảo, thâm u, phảng phất truyền tích xa mờ như những kho tàng bí ẩn.
Lan Khai có làm khá nhiều thơ, hầu hết là Thơ Rừng Núi, vang bóng của đồi sim quạnh quẽ, của dòng suối réo rắt bên nhóm nhà sàn, của tiếng cười trong veo trên đôi môi cô gái Mán… Thơ Lan Khai nhẹ nhàng, êm ái, huyền mơ như mây gió biên thùy. Nhưng rất tiếc, anh chúi trọng về tiểu thuyết nhiều hơn, làm thơ chỉ để bạn làng thơ ngâm chơi, kí tên là “Lâm Tuyền Khách” và không bao giờ in trên sách báo.
Anh vẽ đẹp, nét bút tế nhị tinh vi, cũng toàn những cảnh núi rừng thơ mộng, nhưng không bao giờ triển lãm. Tôi thành thật vô tư nhận xét rằng những tranh thủy mạc ngày nay thua những bức họa của Lan Khai nhiều lắm.
Phong trào cách mạng ngấm ngầm ở Bắc Kì từ khởi điểm chiến tranh Nhật Hoa, rồi Tây Âu, làm nổi dậy dòng máu cách mạng của Lan Khai, một đồng chí của V.N. Quốc Dân Đảng. Lan Khai viết tiểu thuyết cách mạng, rồi nhè nhẹ bước sang tình cảm, một địa hạt mà anh không bỏ rơi được. Lan Khai là một tâm hồn thuần túy thơ mộng, rất đa cảm, đa tình, nhưng luôn luôn có ý thức về số kiếp văn chương. Trên báo Đông Phương của anh, anh viết bài đăng đầy cả 8 cột trang đầu: “Tài hoa cái lụy nghìn đời”.
Tôi nhớ mãi hôm tôi và Trương Tửu đến khen anh về bài ấy, tôi không ngờ gặp Vũ Trọng Phụng cũng đến bắt tay anh: “Lan Khai, mày viết bài ấy, tao phục mày. Tao đọc thích thú lắm”.
Lan Khai rất cảm động. Anh gọi người ở pha trà tàu, mời chúng tôi.
Trong lúc uống trà, Lan Khai chỉ vào tôi, và nói với Vũ Trọng Phụng:
- Cu Vỹ vừa bảo tao: đọc bài đó, nó khóc!
Nói xong Lan Khai cười ồ ồ lên, Phụng không cười, khẽ giọng:
- Tao cũng muốn ứa nước mắt. Chú mày viết bài đó, cảm động lắm.
Văn của Lan Khai hấp dẫn như thế đó. Trương Tửu viết trong báo LOA một bài khen Lan Khai thật là xứng đáng. Đọc bài phê bình của Trương Tửu, Thế Lữ nói với Vũ Đình Liên:
- Văn Lan Khai có ra cái đếch gì mà Trương Tửu tâng bốc.
Chỉ có Thế Lữ mạt sát Lan Khai như thế thôi.
Có điều lạ, là Lan Khai rất thích độc các tiểu thuyết của Paul Bourget. Anh ta ca ngợi quyển Le Disciple lắm. Nhưng P. Bourget khô khan, quá nặng về tâm lí, không hiểu sao lại thích hợp với tâm hồn của Lan Khai được?
Lan Khai có một quyển Album mà anh để trang đầu là “Sổ Vàng”, trong đó anh lấy chữ kí của nhiều nhà văn mà anh mến, và yêu cầu mỗi người viết vài dòng thủ bút trên trang chữ kí. Tôi thấy trong đó có: Vũ Trọng Phụng, TchyA, Nguyễn Triệu Luật, Khái Hưng, Nguyễn Công Hoan, Lưu Trọng Lư, Anh Thơ và vài người nữa. Tôi không nhớ mấy anh kia viết gì, vì chỉ xem sơ qua.
Lan Khai đưa bút máy cho tôi. Tôi viết:
Người ta ghét mình là ganh mình,
Chửi mình là đề cao mình,
Nói xấu mình là sợ mình,
Nhưng phớt tỉnh, là trả lời tất cả.
Anh Thơ sửa lại câu thơ trong “Bức tranh quê” của nàng, viết vào “Sổ Vàng” của Lan Khai:
Và đây đã có một đôi bươm bướm
Bay dập dìu như muốn phải lòng nhau.
Dưới kí: Tuyết Anh Anh Thơ.
Lan Khai khoái hai câu đó, vì Anh Thơ là người yêu cũ của anh, thường đăng thơ trong báo Đông Phương kí bút hiệu là Tuyết Anh…
Hột mận của Lan Khai
Chị Lan Khai (thứ hai) bảo tôi:
- Cái ông Lan Khai nhà tôi, anh phải biết!
- Biết thế nào? Lan Khai cười hỏi lại vợ.
- Thế nào, thì cậu biết chứ! (Vợ chồng Lan Khai gọi nhau bằng cậu mợ.)
Chị Lan Khai cầm quyển sách lên xem lại. Rồi chị lại bỏ sách xuống, ngó tôi và tủm tỉm cười:
- Nhà tôi thì khoái các cô ấy lắm, anh à.
Lan Khai cười rú lên. Tiếng anh ấy cười khàn khàn mà rất lẳng. Đôi mắt anh lại còn cười nhiều hơn cái miệng nữa. Cười ra tận hai đuôi mắt, cười dài đến hai mang tai. Anh bảo tôi:
- Này, anh Vỳ à, tôi hỏi anh nhá: Mình viết truyện đường rừng cho Nữ độc giả xem. Họ xem rồi họ viết thư về khen mình, thì mình làm thế nào?
Tôi cười:
- Thì mình khen lại họ.
- Còn như họ yêu mình?
- Thì mình yêu lại họ.
Lan Khai cười ha hả, đứng dậy nghiêng mình chồm qua bàn, chìa bàn tay xương đến tôi:
- Tôi bắt tay anh một cái. Bravo!
Quay sang chị Lan Khai ngồi trên bục gỗ, nhà văn đường rừng đắc chí, bảo vợ:
- Đấy mợ nghe không? Anh Vỹ bảo thế đấy.
Tôi phải đính chánh ngay:
- Tôi bảo cho anh, chứ không phải cho tôi. Tôi thì chẳng yêu ai cả.
Chị Lan Khai cãi lại rất duyên dáng:
- Anh Vỹ thì chắc có nhiều người yêu, chứ cậu thì có ma nó yêu cậu!
Lan Khan cười rũ rượi:
- Phải đấy, trước nhất đã có ma… femme yêu tớ, rồi đến ma chère X… ma chère Y… một tá “ma”, chỉ vì họ mê tiểu thuyết đường rừng của tớ, nhất là quyển “Hột mận”.
Quay lại tôi, Lan Khai ngó tôi với đôi mắt cười ranh mãnh dưới cặp kiếng cận thị:
- Vỹ, toa đọc quyển “Hột mận” của moa chưa?
- Chưa!
- Sao toa không đọc?
- Moa đợi cho tất cả các cô nữ độc giả thân yêu của toa đọc hết, xong rồi moa mới đọc.
- Gớm! Anh nịnh đầm vừa vừa chứ! Anh lười đọc rồi anh khéo bào chữa lắm. Tôi bảo anh hôm nay hãy đọc quyển ấy nhé. Đọc xong chính anh cũng sẽ mê tôi, chứ đừng nói là các cô ấy.
- Sao anh đặt tên sách là “Hột mận?”
- Ấy thế mới hay! Thế mới có khối các cô mê Hột mận của tớ đấy, cậu à. Hôm nay về cậu phải xem nhé?
Tôi cười, không hứa.
Mãi đến nay, nằm trên giường viết bài hồi kí này, tôi vẫn chưa đọc quyển “Hột mận” của anh bạn “Đường rừng”.
*
Ba hôm sau, Lan Khai gặp tôi. Anh không bắt tay tôi như mọi lần. Anh cười, thò tay vào túi áo, lấy ra một bao thư, đưa tôi:
- Toa đọc đi!
- Thư của anh mà…
- Toa cứ đọc đi. Moa chỉ xin toa một điều là giữ kín hộ moa nhé. Đừng bảo cho ma femme biết.
Tôi xem qua nét chữ ngoài phong bì: nét chữ của một cô gái. Bao thư xanh, đóng dấu dây thép Hà Nội.
Thưa ông Lan Khai.
Tác giả quyển “Hột mận”
Em xin gửi lời thành thật hoan nghênh tất cả các quyển truyện đường rừng của ông. Riêng quyển Hột mận, ông vừa xuất bản, thật là một kiệt tác. Em ao ước được hân hạnh gặp ông để tò lòng ái mộ của em. Vậy, nếu ông không bận gì, thì 8 giờ tối thứ bảy tuần này, xin ông vui lòng quá bộ đến Hồ Trúc Bạch, khỏi chùa Trấn Quốc một tí. Em sẽ chờ ông tại đấy.
Thưa ông, ông sẽ trông thấy một thiếu nữ 18 tuổi, đang chờ ông bên gốc cây, mặc áo màu bordeaux, tay cầm quyển Hột mận. Em đấy ông ạ. Em sẽ đến đấy đúng 8 giờ, là lúc vắng người. Nếu quá 8 giờ 30 ông không lại, thì chắc là ông bận việc, em sẽ đi về.
Trời! Em ước mong sao được gặp nhà văn tài hoa mà em thường mơ tưởng!
Em xin dừng bút nơi đây với tất cả hi vọng tốt đẹp ngập tràn trề lòng em. – Bella Nhung.
Tôi trao thư lại Lan Khai. Anh ta cười khoái trá:
- Nàng có chữ kí đẹp quá nhỉ. Toa xem chữ kí giỏi lắm và xem tướng số được, toa hãy xem hộ moa chữ kí ấy đi. Rồi hôm nào moa giới thiệu nàng cho toa để nhờ toa xem tướng hộ nhé.
- Chữ kí cô này… lãng mạn.
- Thế thôi à?
- Cô này 18 tuổi.
- Trong thư nàng có nói.
- Thế thôi, hết.
- Người tính tình thế nào chứ?
- Vui vẻ, trẻ trung. Người mập chứ không gầy, (nét chữ cũng mập), đẹp chứ không xấu, nét chữ bay bướm.
- Cậu thật là…!
- Thật đấy mà. Nếu tối thứ bảy anh gặp cô mà xấu chứ không đẹp, thì chắc là không phải cô Bella Nhung. Hoặc cô nào gầy chứ không mập, cũng không phải… Gặp gỡ như thế nào, rồi nói chuyện lại cho tôi nghe với nhé.
- Toa đừng cho ma femme biết, nghe chưa?
- Khỏi dặn.
*
Lan Khai chải tóc láng mướt. Chàng đã thắt cra-vát màu đỏ, mới tinh, vừa mua lúc chiều. Quen lệ, chải tóc xong là chàng đánh phấn. Chàng có tật đánh phấn như đàn bà, vì da mặt hơi ngăm ngăm đen, và đã có vết nhăn. Tôi nhớ năm ấy chàng đã lớn tuổi hơn tôi nhiều lắm, vả lại chàng bị bịnh ghiền thuốc phiện, cho nên mau già. Người gầy còm, lại dong dỏng cao, môi thâm. Nói thật, người không đẹp. Chàng đánh phấn phớt qua một lớp mỏng thôi mà chỉ đánh ban đêm. Chàng rưới nước hoa, diện quần áo tây mới may, đi giày tây đen, bóng lộn. Xong, ngó đồng hồ 8 giờ kém 5, chàng ra gọi xe kéo.
Chàng khấp khởi mừng vì chị Lan Khai đi vắng, chàng khỏi phải nói dối vợ.
Đến trước cổng chùa Trấn Quốc, Lan Khai trả tiền xe, rồi đi bộ một quãng đường trên đê hồ Trúc Bạch. Chàng hồi hộp mừng thầm, xa xa, dưới bóng cây chàng đã thấy bóng “nàng”.
Chàng nghĩ thầm: “Ta sẽ nắm tay nàng, và nhoẻn một nụ cười duyên…”. Nàng chưa thấy chàng, vì nàng quay lưng ra đường đê, đang đứng mơ màng ngó mặt nước hồ phẳng lặng, phản chiếu một vòm trời lóng lánh muôn sao. Gió mát lạ!
Chàng cố ý đi mạnh, cho nàng nghe tiếng giày để nàng quay mặt ra. Chàng đã biết đích là nàng, vì dưới ánh đện lờ mờ Chàng đi nhè nhẹ đến gần chàng đã phân biệt màu áo bordeaux và tay nàng đang cầm quyển “Hột mận”, như đã dặn kỹ trong thư.
Chàng đi nhè nhẹ đến gần… Tuy chàng chưa thấy mặt, nhưng dưới ánh đèn điện lờ mờ, bóng nàng uyển chuyển thướt tha tuyệt đẹp.
Chàng đến sát bên cạnh, nghĩ rằng nàng mắc cỡ, nên chàng đánh bạo đặt bàn tay dịu dàng trên vai nàng, và giọng nói run run cảm động:
- Em Bella Nhung?
Nàng quay lại.
Lan Khai hoảng hốt, biến sắc mặt ngay, bỗng giận dữ hét lên:
- Mợ đứng chờ ai đây?
Nàng, chính là… vợ Lan Khai, mỉm cười ngạo nghễ:
- Thưa ông, em chờ ông Lan Khai, tác giả Hột mận ạ.
- Mợ đánh lừa tôi hả?
Lan Khai giận run cả người lên, nghẹn miệng nói không được nữa. Chàng bỏ vợ đấy, đi thật nhanh ra đường Quan Thánh gọi xe về nhà. Chị Lan Khai mỉm cười đắc chí, đủng đỉnh theo sau.
*
- Ai viết hộ thư cho mợ? Chứ nét chữ đâu phải của mợ?
- Nét chữ của con Mão đấy.
- Con Mão nào?
- Cháu của cậu, con gái của chị Phán, cậu không biết à? Tôi đọc cho nó viết đấy. Tôi phải năn nỉ mãi nó mới chịu viết đấy.
- Mợ mặc áo màu bordeaux của ai?
- Áo cũng của con Mão chớ còn của ai nữa.
- Mợ chơi xỏ tôi làm gì thế?
- Để cho cậu một bài học về Hột mận đấy, cậu à! Quả mận chua lắm phải không cậu?
Lan Khai làm thinh, mãi ba tháng không nói với vợ một tiếng.
Lưu Trọng Lư
(1911 – 1991)
Tôi không thấy một người nào có chất thi sĩ đầy đặc trong tâm hồn và trên thể xác như Lưu Trọng Lư. Mỗi lần gặp, tôi có cảm tưởng như Lư là một vong hồn vất vưởng, nay đây mai đó, như mây như gió, phiêu bạt giữa trần gian.
Một buổi sáng, tôi đến rủ Lưu Trọng Lư mặc áo quần vào. Chúng tôi đi bộ, và dọc theo đường Đồng Khánh chúng tôi thấy hình như khách qua lại đều ngó hai đứa tôi và cười khúc khích. Lư quay lại hỏi tôi:
- Tụi họ cười mi hay cười tao?
- Chắc tụi nó cười tao vì tóc tao dài quá, hai tháng nay chưa hớt. Mầy vô tiệm với tao, chờ tao hai chục phút?
Tôi hớt tóc xong, cùng Lư đi ra. Nhưng vẫn thấy bị kẻ đi đường ngó trân trân và cười khúc khích mãi. Lưu Trọng Lư lại hỏi tôi:
- Đố mi biết lần ni tụi họ cười tao hay cười mi?
Tôi ngó Lư từ đầu đến chân, rồi bảo:
- Chắc tụi nó cười mầy. Mầy mặc dư một cái quần.
Lư ngó xuống chân, mắc cỡ mặt đỏ bừng, rồi vội vàng lôi tôi lên tàu điện về nhà. Tôi cũng không ngờ rằng lúc ở nhà ra đi Lưu Trọng Lư đã mặc cái quần đen lại lơ đễnh mặc thêm chiếc quần trắng ra ngoài, quần trắng hơi cụt nên để lòi hai ống quần đen dưới chân.
Lưu Trọng Lư bước vào làng Thơ Việt Nam, gót chân lơ đễnh, cặp mắt ngơ ngác, nụ cười xa vắng, tay cầm một cuốn truyện mỏng của anh vừa in xong, nhan đề Người Sơn Nhân. Một quyển truyện? Thật ra, không hẳn là một quyển truyện. Nhan đề Người Sơn Nhân cũng không hẳn là người Sơn nhân. Có thể gọi đó là một bài thơ cũng được, và có thể đổi nhan đề là Người thi nhân cũng được.
Lưu Trọng Lư đâu có biết Lưu Trọng Lư là thi sĩ. Lưu Trọng Lư cũng không biết Lưu Trọng Lư là Lưu Trọng Lư. Anh mở quyển truyện Người sơn nhân kể cho tôi nghe. Anh kể một câu chuyện vẩn vơ, đượm màu triết lí vơ vẩn. Dễ thương làm sao! Tôi bắt đầu mến Lưu Trọng Lư từ hôm anh kể cho tôi nghe chuyện Người sơn nhân, chuyện người Thi nhân.
Nhà trọ của Lư ở Phố Hàm Long, ở chung với Lê Tràng Kiều và Nguyễn Xuân Huy. Một căn phòng hẹp, riêng biệt, bên cạnh, là của chàng họa sĩ. Trước sân là một giàn hoa ăng-ti-gôn trắng và đỏ, thật thơ mộng. Tôi thường đến đây chơi, nhiều khi ăn ngủ luôn ở đây. Một hôm Lư cao hứng ngâm lên:
Xin rước cô em bước xuống thuyền
Thuyền tôi sắp chẩy chốn thần tiên…
Tôi hỏi Lư:
- Cô em nào đấy?
Lư kéo tôi lại giường, nằm kể cho tôi nghe một chuyện tình vẩn vơ, đượm màu triết lí vơ vẩn. Chuyện tình không có, triết lí không có, mà Lưu Trọng Lư cũng không có nốt. Tất cả đều thế giới. Lưu Trọng Lư tưởng tượng ra Lưu Trọng Lư.
Người gầy, hai má cóp. Tóc không bao giờ chải. Không biết diện, và không biết yêu. Anh có người vợ bán nước mắm Đồng Hới, nhưng không sống chung. Có lẽ tại Lưu Trọng Lư không ở gần được đàn bà. Trong thời gian biết Lư, tôi không hề thấy Lư bên cạnh một thiếu nữ, hay một thiếu phụ, đẹp hay xấu, Lưu Trọng Lư chỉ có Lưu Trọng Lư một mình.
Tôi nghe người ta thường nói: Thi sĩ là giống đa tình. Có thật thế không? Sao mà Lưu Trọng Lư không có đa tình? Hà Nội hồi đó tha thướt biết bao cô gái đẹp, thi sĩ họ Lưu sao chẳng có yêu ai? Tôi hơi ngạc nhiên. Trong Tạp chí Phổ Thông số 17 ra ngày 15-8-1959, ông Nguyễn Hữu Thứ, dự thẩm Tòa sơ thẩm Huế, có kể rõ chuyện năm 1945 Lưu Trọng Lư ở Huế có yêu và lấy một cô gái Huế đã có chồng. Chồng cô, một công chức, đưa cô ra Tòa xin li dị. Ông Nguyễn Hữu Thứ có chứng kiến phiên tòa này, Lưu Trọng Lư đi qua đi lại trước sân Tòa án, chờ kết quả. Tòa xử xong, thiếu phụ bị li dị tên là Lê Mừng, ra đi với Lưu Trọng Lư. Đây là người đàn bà thứ hai trong đời Lưu Trọng Lư. Tôi không tin rằng họ ở với nhau lâu.
Lưu Trọng Lư là một ảnh tượng lơ lửng trong thời gian. Mảnh tim của anh bay vời vợi trên khung trời xanh như con diều giấy, dính vào trần gian bằng một sợi tơ mong manh, chập chờn trong gió, vi vu trong mây.
Cho nên thơ của Lưu Trọng Lư cũng phảng phất một hơi Thu, một nắng Hè dịu mát, một khói lam chiều, một thuyền mơ phiêu dạt, một hơi tiêu man mác, một tiếng bước của con nai vàng xào xạc trên lá vàng khô…
*
Lưu Trọng Lư không thích chơi với Thế Lữ, mà lại ưa ông Phan Khôi, và các anh Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật, Vũ Trọng Phụng, Lê Tràng Kiều. Với giọng nói trọ trẹ đặc biệt giọng Quảng Bình, và nụ cười đôi khi khinh miệt, đầy nét trào phúng, Lư ngạo Nguyễn Công Hoan là “văn chương gõ đầu trẻ”, cười bọn “thi sĩ” hay tâng hót Thế Lữ là lũ “chạy hiệu” và gặp giữa đường không bao giờ anh bắt tay họ.
Anh có kể cho tôi nghe anh gặp ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu một lần, ông ta đang say túy lúy. Anh không chịu được cái say của Tản Đà nhưng rất yêu thơ của Tản Đà.
Một đêm, vào cuối năm 1939, bắt đầu chiến tranh, tôi đang ngủ trên một gác trọ của một người bạn ở phố Quan Thánh. Lúc này tôi đang trốn tránh vì nghe tin mật thám Pháp muốn kiếm bắt tôi. Bỗng dưng, gần 2 giờ sáng, có tiếng gõ cửa ầm ầm. Bạn tôi ra bao lơn ngó xuống đường cái, thấy một bóng người ngồi trên xe kéo, gục đầu vào thành xe. Bạn tôi lên tiếng hỏi:
- Ai hỏi gì đấy?
Anh phu xe ngước mặt lên đáp:
- Có một ông say rượu, bạn ông muốn vào ngủ nhờ.
- Bạn tôi là ai?
Anh xe không biết tên. Người ngồi gục đầu trên xe cũng không trả lời. Bạn tôi hỏi ý kiến tôi, tôi bảo anh ấy cứ xuống mở cửa xem ai. Tôi đã đề phòng mọi bất trắc, thì một lúc lâu bạn tôi dìu lên cầu thang một xác người bèo nhèo, không cử động. Tôi đến gần xem: Lưu Trọng Lư.
Chúng tôi đỡ Lư nằm trên bục gỗ. Người anh lạnh như đá. Chúng tôi lấy chăn đắp cho anh, lấy dầu nóng xoa khắp thân thể anh. Một lúc tôi khẽ gọi:
- Lư! Cậu làm sao thế?
Lư uể oải, cố gượng trả lời từng tiếng, với giọng Quảng Bình trọ trẹ:
- Tao ăn… thịt… chó… tao hút… thuốc phiện… nhiều quá… cho tao cái chậu… để tao nôn… tao nôn… tao nôn…
Bạn tôi lật đật ra sân sau đem một cái chậu vào. Lưu Trọng Lư cố níu lấy vai tôi để ráng ngồi dậy…
Bấy giờ tôi mới ngử thấy mùi thuốc phiện. Tôi biết Lưu Trọng Lư hút thuốc phiện nhưng tôi không ngờ anh ghiền nặng thế. Một bạn làng văn thường nằm hút với Lư ở trên gác một tiệm hút ở Chợ Hôm, cho tôi biết rằng có đêm Lưu Trọng Lư hút đến 100 điếu. Tôi không biết đúng hay không, nhưng tôi tưởng tượng 100 cuộn khói phù dung mỗi đêm thấm vào tim phổi, thảo nào Lư không mỗi ngày mỗi gầy đét đi.
Tôi đã nói Lưu Trọng Lư không có hiện hữu. Chỉ thấy cái bóng của Lưu Trọng Lư trong gió bụi mà thôi. Chàng có lẽ là hiện thân của một Lý Thái Bạch, một Đào Tiềm, lạc loài xuống đất Việt chăng?
Cho nên văn thơ của Lưu Trọng Lư không có gì là thực tế cả. Lư chỉ mượn những cảnh vật trên trần ai mà chàng thấy có đượm đôi nét u hoài của Tiên giới, để làm khung cảnh cho những giấc mơ của chàng. Ngoài ra, với Lư mọi vật đều hư vô.
*
Lần đầu tiên tôi biết Lư là do bài thơ “Qua đèo ngang” của bà Huyện Thanh Quan.
Năm 1932, một tờ báo tên là Phụ nữ Thời Đàm mới mở ở đường Sông Tô Lịch. Tôi hãy còn là sinh viên, viết gởi đến báo ấy một bài phê bình Văn nghệ, phủ nhận hoàn toàn giá trị bài thơ “Qua đèo ngang”. Hôm sau, một người lạ, hình dáng ốm teo và nét mặt xương xương, tóc không chải, đến gác trọ tôi, đưa cho tôi xem bài báo đã đăng, và hỏi có phải tôi là tác giả bài báo đó không? Tôi xác nhận. Chàng xưng tên là Lưu Trọng Lư, phụ bút, đến biếu tôi tờ báo và ngỏ ý hoàn toàn tán thành những nhận xét của tôi về giá trị của bài thơ, Lưu Trọng Lư cười “như con nắc nẻ” -Câu Lư thường dùng- nói giọng Quảng Bình:
- Bài thơ dở như cứt thế này mà Dương Quảng Hàm nó khen! Thật là lọ!
Nhưng rồi chúng tôi ít gặp nhau. Tôi còn học thi, thỉnh thoảng viết văn, viết báo chơi cho vui thôi, và chưa quen với các nhà Văn.
1934, Lưu Trọng Lư đã nổi tiếng. Tiểu thuyết thứ bảy đăng thường xuyên thơ và truyện dài, truyện ngắn của Lưu Trọng Lư. Nhân vụ “Tập Thơ Đầu” của tôi ra đời, do Lưu Trọng Lư giới thiệu in ở nhà in “Tân Dân”, tôi mới rủ Trương Tửu, giáo viên trường Tiểu Học Tư thục “Thanh Niên”, (lúc bấy giờ Tửu chưa viết văn), đến thăm Lưu Trọng Lư tại một ngôi chùa ở Trại Hàng Hoa.
Vừa đến, chúng tôi thấy vợ chồng ông Vũ Đình Long, chủ nhiệm Tiểu thuyết thứ bảy và chủ nhà in Tân Dân, đi xe hơi nhà đến thăm Lư và biếu Thi sĩ hai hộp trái vải “conserve”.
Lưu Trọng Lư đang đánh cờ tướng với một ông Sư tại sân chùa, mê cờ đến nỗi không đứng dậy tiếp vợ chồng ông Chủ nhiệm.
Vũ Đình Long không muốn quấy rầy nhà thơ, mở bóp lấy tấm danh thiếp, viết mấy chữ “Kính biếu Lưu Trọng Lư Tiên sinh”, rồi hai vợ chồng rón rén trở ra xe.
Trương Tửu và tôi ngồi xem đánh cờ. Lưu Trọng Lư không biết Trương Tửu, tôi giới thiệu. Lư cười, gọi một chú tiểu trong Chùa:
- Mang cây đờn nguyệt ra đây, chú Huy, cho có đủ cầm, kỳ, thi tửu!
*
1940, Tôi bị bắt vào nhà lao Mật thám Hà Nội, thì Lưu Trọng Lư và Khái Hưng cũng đã bị bắt trước tôi. Khái Hưng bị đưa đi an trí tại Vũ Bản.
Khái Hưng bị bắt thì tôi có thể tin được, vì anh ấy đã lập ra Đảng Dân Chính, một đảng thân Nhật. Còn Lưu Trọng Lư? Nghe nói Lưu Trọng Lư được đưa về Huế, và sống tự do ở đây.
Năm 1947, một cô bạn gái tên là Thu, ngẫu nhiên gặp tôi ở Sài Gòn. Trước cô làm giáo viên tại Đồng Hới và có quen thân với Lưu Trọng Lư, và Võ Nguyên Giáp. Cô kể cho tôi nghe những ngày đau khổ của Thi sĩ họ Lưu ở Huế vào khoảng 1943-1944.
Theo cô bạn ấy thuật lại, thì Lưu Trọng Lư ở trong một túp nhà lá lụp xụp ở ngoại ô Huế. Tình cảnh của anh đói rách thật đáng thương. Mấy người bạn nào đó có cho anh một ít áo quần và tiền bạc. Nhưng anh bị đau ốm liên miên, chính cô bạn ấy phải lo săn sóc giùm. Nhưng sự giúp đỡ của người ta có hạn, dần dần Lưu Trọng Lư bị bỏ nằm chèo queo trong cảnh bần hàn bịnh hoạn. Anh không có con? (ở Hà Nội tôi không thấy có). Còn chị vợ buôn nước mắm, không nghe ai nhắc đến.
Thời kỳ Việt Minh lên nắm chính quyền, cũng theo lời cô bạn thuật lại, Lưu Trọng Lư làm cán bộ Công an đi bắt thuốc phiện lậu ở Huế! Nếu thật đúng như vậy thì đáng tức cười quá!
1949, tôi có đọc mấy bài thơ kí tên Lưu Trọng Lư trong vài tờ báo xuất bản trong chiến khu Miền Trung, tôi không tin của Lư. Mãi về sau này, tôi lại được đọc một bài thơ của anh trong một tập sách của một cơ quan Văn hóa Việt Cộng, xuất bản tại Hà Nội. Tôi không ngạc nhiên nữa nhưng hết sức buồn.
Trong bài thơ ấy, Thi sĩ mơ mộng của Mùa Thu dịu lành lại ca ngợi sự chém giết và say sưa hô hào máu, máu, máu.
Ngòi bút của anh trước kia chép vần thơ Tiên trong mây trong gió, bây giờ lại chấm vào máu viết trên đầu lâu, sọ dừa!
Than ôi! Thế cuộc đảo điên! Cho đến nỗi Lưu Trọng Lư hiền lành thân quen của tôi cũng không còn gì là Lưu Trọng Lư nữa.
Thơ Lưu Trọng Lư
Lư thích làm thơ hơn là viết truyện. Lúc viết một tiểu thuyết, Lư không hăng say như Lan Khai, không chăm chú như Vũ Trọng Phụng, không cặm cụi như Nguyễn Tuân.
Những truyện dài, truyện ngắn của Lư đều giống như những bài thơ gượng ép, phải kéo dài thành nhiều chương, phải bố trí các bối cảnh, tạo ra các nhân vật, phải sắp xếp các hành động, và tất cả các nhân vật, bối cảnh, hành động đều thêu dệt bằng thơ mộng. Nếu tiểu thuyết của Lưu Trọng Lư hấp dẫn một phần nào chính là vì mầu sắc thơ mộng bề ngoài của nó hơn là vì những tình tiết, bố cục ở nội dung.
Lưu Trọng Lư lười biếng viết Tiểu thuyết, tự bắt buộc viết để có tiền, phải viết truyện mới có tiền ăn tiêu hằng tháng. Chứ tiểu thuyết không phải là sở thích của Lưu Trọng Lư.
Chơi với Lư lâu ngày tôi biết, nếu Lư giàu có, hoặc vợ có vốn liếng buôn bán khá giả có thể lo đầy đủ cho đời sống phong lưu của anh, thì Lư không thèm viết tiểu thuyết đâu. Lư chỉ làm thơ, và lúc nào hứng mới làm. Không phải như Lan Khai, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân chẳng hạn, viết tiểu thuyết vì sở trường, vì thích thú, chứ không hẳn riêng vì sinh kế.
Lưu Trọng Lư thuộc về hạng Thi sĩ bẩm sinh, một giống người đặc biệt sống bằng mơ mộng hơn là thực tế, nhiều khi quên cả thực tế.
Cho lên Lư khổ tâm lắm, và ghét lắm, mỗi khi phải viết bài đưa cho tòa soạn”. Và luôn luôn ông Chủ nhiệm Vũ Đình Long, Tiểu thuyết thứ bảy, hay ông Chủ nhiệm Lê Cường, Tiểu thuyết thứ năm, chỉ giục thi sĩ viết tiểu thuyết chứ không bao giờ giục thi sĩ làm thơ đâu! Thơ là món hàng trang trí, không bắt buộc, và không có tiền “nhuận bút”. Ông Chủ nhiệm cũng ít khi hăng hái bỏ tiền ra xuất bản một tập thơ của thi sĩ.
Thơ của Lưu Trọng Lư đăng rải rác trên các tuần báo, các tạp chí văn nghệ khá nhiều từ 1932, mãi đến 1939 mới được nhà sách Tô Văn Đức, ở phố Cầu Gỗ, xuất bản, dưới nhan đề Tiếng Thu.
Hôm Lư đem cho tôi một bản đặc biệt, anh nói riêng cho tôi biết rằng Tô Văn Đức xuất bản tập thơ này là để trừ những món nợ lặt vặt mà Lư đã hỏi mượn trước, chứ Lư không nhận được tiền “bản quyền” bao nhiêu.
*
Có một lần ở tại nhà trọ của Lư phố Hàm Long tôi cười hỏi Lưu Trọng Lư:
- Lư ơi, bài thơ Tiếng Thu có phải thật của cậu không?
Có Nguyễn Xuân Huy ngồi đấy, Lư “cười như nắc nẻ”:
- Thằng này mơ mộng thật! Mi tưởng bài đó của Thế Lữ à?
- Thế Lữ làm gì nổi một bài thơ như thế. Nhưng tao có đọc một bài thơ của một thi sĩ Nhật Bản, giống hệt bài thơ của mày, và bài thơ Nhật cũng tựa đề là Tiếng Thu.
Lưu Trọng Lư ngó Xuân Huy:
- Huy, mầy thấy thằng Vỹ nó điên không?
Huy bảo tôi:
- Bài thơ Nhật như thế nào?
- Mày muốn chép, tao đọc cho chép. Đây là một bài Tanka nổi tiếng:
Oku yama ni
Momoji fumi wake
Naku shika no
Koe kiku toki zo
Aki wa kanashiki
Tác giả là Sarumaru, thế kỉ VIII.
Bài thơ này, Michel Revon có dịch ra Pháp văn trong quyển “Anthologie des poètes japonais” – (Ed. Hachette):
Combien triste est l’automne
Quand j’entends la voix
Du cerf qui brame
En foulant et dispersant les feuuilles des érables
Dans les profondeurs de la Montagne.
- Karl Petit, trong quyển “La poésie japonaise (Ed. Seghers) lại dịch đảo ngược lại, nhưng đúng theo nguyên văn bài thơ Nhật:
Aux profondeurs de la Montagne
Ecartant et foulant les feuilles d’érable
Le cerf brame
Et à l’entendre ainsi,
Ah! que l’automne m’est lourdement triste!
Dịch đúng nghĩa ra Việt văn:
Trong núi rừng sâu
Ta nghe tiếng xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Ôi buồn làm sao!
Bài Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư!
…
Em không nghe mùa thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
Lưu Trọng Lư cãi liền:
- Bài của tao còn đọan trên:
…
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ.
Tôi cười:
- Cậu làm bài thơ này hồi năm nào?
- Mới đây.
- Mới đây, và mấy năm nay trong nước mình làm gì có chiến tranh, có “kẻ chinh phu” có “người cô phụ”? Tôi cho rằng cậu ghép thêm ba bốn câu đó vào bài thơ của Saramaru để tương đối đôi chút, nhưng cậu lấy trọn vẹn bản chính của Saramaru.
Lưu Trọng Lư không cãi nữa, nhưng Nguyễn Xuân Huy cười:
- Kết luận: les grands esprits se rencontrent! (Những trí óc vĩ đại thường gặp nhau!)
Lưu Trọng Lư cũng biết rằng Lư nổi tiếng là nhờ bài này, nên anh lấy tựa đề bài thơ Tiếng Thu làm nhan đề cho quyển thơ của anh.
Nhân vụ này, tôi cũng cho Lưu Trọng Lư và Nguyễn Xuân Huy biết là câu thơ:
Yêu là chết trong lòng một tí
Của Xuân Diệu, là lấy nguyên vẹn câu của nhà văn Pháp Roland Dorgelès đề trên trang đầu quyển phóng sự hồi kí “Sur la route mandarine”:
Partir c’est mourir un peu
(đi, là chết trong lòng một tí).
Chỉ đổi động từ Partir thành Yêu mà thôi.
Cũng như tất cả những truyện ngắn của Đoàn Phú Tứ trong tập truyện “Những bức thư tình, đều dịch ra từ các truyện của các nhà văn Pháp: Jules Renard, Courteline, P. Benoit, Secha Guitry.
Đoàn Phú Tứ dịch hẳn ra Việt văn, chứ không phải phóng tác, hay “phỏng dịch”, mà anh ta lờ luôn “xuất xứ”, tự đề tên tác giả là Đoàn Phú Tứ?
Cũng hôm ấy, Nguyễn Xuân Huy và Lưu Trọng Lư bảo tôi viết một bài trong Hà Nội Báo, phê bình tập truyện của Đoàn Phú Tứ, với câu kết luận là “trả lại César cái gì của César”. Bài đó có đăng hai trang Hà Nội Báo của Lê Tràng Kiều.
Vi Huyền Đắc
(1899 - 1976)
Trống trường tiểu học Thanh Niên vừa đánh ba tiếng cho học trò ra chơi, thì thầy giáo Trương Tửu đi giày lốp bốp sang nhà tôi ở ngay bên cạnh. Tửu tươi cười nhanh nhẩu:
- Có một ông thầu khoán sẽ đến chơi.
Tưởng Trương Tửu nói đùa, tôi phì cười:
- Ông thầu khoán? Họ muốn bán xi măng cốt sắt cho tụi mình hả?
Trương Tửu cười sặc sụa, mặt đỏ như quả gấc:
- Một ông thầu khoán ở Hải Phòng, xây dựng nhà cửa và có dư thì giờ xây dựng những vở kịch. Kể ra, hắn cũng là một tay độc đáo đấy nhé.
- Tên là gì?
- Vi Huyền Đắc.
- Cái tên có mùi sân khấu…
- Cậu phải đọc những vở kịch của anh ta. Ở Việt Nam không có một người thứ hai như Vi Huyền Đắc đâu.
- Hắn ta đã viết những vở kịch gì?
- Nhiều lắm. Cả kịch bằng Việt văn, cả bằng Pháp văn, đến năm sáu cuốn. Cậu phải bảo nhà sách Nam Kỳ gởi cho cậu xe.
- Một Cornelle? Một Racine? Một Voltaire?
- Không, một Vi Huyền Đắc.
- Tôi không quan niệm được một ông thầu khoán mà lại là kịch sĩ. Một người cả ngày chỉ có việc làm những bài toán với mấy bao xi măng, mấy đống gạch, mấy cái bù lon, bao nhiêu thước đá và thước cây, thì làm sao có được tinh thần nghệ sĩ để viết những vở kịch nhỉ?
- Vi Huyền Đắc không phải là một nhà thầu khoán làm kịch sĩ, mà là một kịch sĩ làm thầu khoán. Anh vừa xuất bản vở kịch bằng Pháp văn “Eternels Regrets” đem lên Hà Nội biếu các bạn trong làng Văn, sáng nay có gặp tớ và có nhờ tớ cho cậu biết trước rằng trưa nay hắn sẽ đến thăm cậu và biếu cậu một quyển.
Trống trường Thanh Niên lại đánh ba tiếng, hết giờ chơi. Nhưng Trương Tửu không trở lại lớp học nữa. Anh đã nhờ một người bạn dạy thế.
Chúng tôi uống trà, nói chuyện về môn kịch sứ ta, và ở Pháp, Anh, Nhật. Ở mấy nước kia cũng như ở nhiều nước khác, môn kịch rất thịnh hành. Không những người soạn kịch mà cả đến những người đóng kịch có tài cũng đều được công chúng nhiệt liệt hoan nghênh, chính phủ trọng vọng. Còn ở xứ ta, những nhà Đại kịch sĩ của mấy thế kỉ trước đã soạn ra các tuồng hát bội danh tiếng thì ít ai biết đến tên. Văn học sử cũng không hề nói tới họ. Các người đóng kịch, thì bị mang tiếng là “xướng ca vô loại”!
Hồi đầu thế kỉ XX này, do ảnh hưởng của kịch Pháp nước ta có Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, và một đôi người nữa dịch vài ba vở bi kịch và hài kịch của Corneille và Molière, nhưng thiên về văn chương hơn là phương diện trình diễn… Tôi nhắc đến một kịch sĩ Pháp ở Sài Gòn là Claude Bourrin có thí nghiệm một bản kịch Việt Nam chuyên diễn xuất những vở kịch ngắn (seynètes) theo loại Vaudevilles, trong những năm 1935-36-37, nhưng cũng thất bại, vì số khán giả Việt Nam không có bao nhiêu người. Ban kịch này có ra Hà Nội nhưng cũng không thành công. Vả lại các kịch ngắn của Claude Bourrin tuy diễn bằng tiếng Việt, nhưng cũng chỉ mới là những hài kịch ngắn soạn bằng tiếng Pháp dịch ra tiếng Việt chưa được hay lắm. Kể về kịch chân chính, đại quy mô, thì chưa có mấy ai chuyên môn. Họa chăng bây giờ mới có Vi Huyền Đắc.
Nhưng Vi Huyền Đắc có phải thật là môt kịch sĩ tiền phong mà chúng ta mong đợi hay không? Ông có tài nghệ dồi dào về môn kịch không?
Chính với hy vọng thiết tha đó mà buổi trưa hôm ấy tôi vui mừng chờ đón Vi Huyền Đắc, tuy chưa hân hạnh biết anh.
*
Giữ Trương Tửu ở lại ăn cơm với tôi nhưng Tửu phải về Gia Lâm thăm ông cụ, tôi ngồi một mình nơi phòng khách hồi một giờ, đang xem một quyển sách, thì một người vóc cao từ ngoài sân gác bước vào, mắt to mũi lớn, miệng rộng, nở một nụ cười mênh mông, và tiếng nói rang rảng:
- Có chủ nhân ở nhà không?
Tôi cười đứng dậy:
- Thưa có.
Tôi đưa tay ra bắt tay anh. Anh vẫn nói cười tự nhiên:
- Vi Huyền Đắc đây.
- Rất hân hạnh.
Coi bộ anh đã lớn hơn tôi mười hay mười lăm tuổi là ít, và trông có vẻ nghệ sĩ nhiều hơn là thầu khoán lục lộ. Anh lấy một quyển Eternels Regrets đã viết sẵn mấy dòng chữ tặng tôi. Tôi bối rối không biết nói câu gì để cảm ơn anh, vì mới lần đầu tiên quen nhau anh đã có hảo ý biếu tôi một quyển thuộc về loại sách đẹp, in trên giấy bouffant đắt tiền và ấn loạt rất có mỹ thuật.
Chúng tôi nói chuyện rất lâu về môn kịch, và tôi cảm thấy rõ rệt là anh Vi Huyền Đắc có rất nhiều triển vọng về môn sở trường của anh.
Vở kịch Eternels Regrets đã chiếm được giải thưởng danh dự của Hàn Lâm Viện Nice, một giải thưởng xứng đáng vì với quyển ấy Vi Huyền Đắc đã tỏ ra một nhà kịch sĩ có thiên tài. Kịch này sắp trình diễn ở Paris năm 1939 thì chiến tranh bùng nổ. Đề tài là cuộc tình duyên của An Lộc Sơn với nàng Dương Quí Phi.
Sau đó, tôi có xem ba vở kịch khác của anh: Cô giáo Minh, Uyên ương, Thành Cát Tư Hãn, mà giá trị về văn chương cũng như nghệ thuật đã đạt đến một mức tinh vi hoàn hảo. Theo thiển ý của tôi, những vở kịch của Vi Huyền Đắc đều có thể dịch ra ngoại ngữ và trình diễn trên sấu khấu ngoại quốc.
Buổi gặp gỡ anh Vi Huyền Đắc gây cho tôi được rất nhiều cảm cách mến. Sau đó tôi có viết hai bài bằng Pháp văn trong báo La Patrie Annamite và Le Cygne để giới thiệu anh và quyển Eternels Regrets. Một người Tiệp Khắc có Pháp tịch và rất thông thạo Việt ngữ, - làm cả thơ chữ Việt nữa – lúc bấy giờ làm Chánh lục sự ở tòa án Hải Phòng, tên là Edmond Chodzko, quen với tôi từ ba bốn năm về trước có tỏ ý với tôi là ông muốn gặp anh Vi Huyền Đắc. Tôi có cho địa chỉ của anh, nhưng không biết về sau hai người có gặp nhau không. Ông Edmond Chodzko muốn đem các vở kịch của Vi Huyền Đắc qua trình diễn ở Paris và Prague.
*
Rất tiếc vì bận công việc riêng của mỗi người, và ở hai thành phố cách xa 100 kilômet, chúng tôi không có nhiều dịp gặp nhau. Chỉ có một lần Trương Tửu và tôi đi Hải Phòng, đến thăm anh Vi Huyền Đắc tại biệt thự của anh ở bến Hạ Lý. Anh đang bận công việc thầu khoán ở đâu gần đó, chúng tôi ngồi phòng khách chờ một lúc, người nhà đi mời anh về.
Cuộc hội kiến này rất là vui vẻ thân mật, anh Vi Huyền Đắc giữ ở lại chơi khá lâu, nhưng tiếc thay, từ đó chúng tôi lại không có cơ hội tiếp xúc với nhau nữa.
Mãi sau đình chiến và thỏa hiệp Genève, tôi mới được biết anh Vi Huyền Đắc di cư vào Sài Gòn, cuối năm 1954. Tôi chạy đi kiếm anh. Gần 20 năm xa cách, được gặp lại anh, tôi hồi hộp sung sướng muốn khóc lên. Vẫn với cặp mắt thông minh to lớn ấy, hai lỗ mũi bự ấy, cái miệng rộng ấy, anh mừng rỡ đón tôi với một tiếng cười nổ như sấm.
Anh ở một căn nhà tĩnh mịch, mà anh đặt tên là Hoàng Mai Hiên, giữa một cảnh trí nên thơ ở miệt Ngã Năm Bình Hòa, ngoại ô Gia Định, có hai vợ chồng, với một u già. Bao nhiêu cơ đồ sự nghiệp ở Hải Phòng đều bỏ lại rất Bắc hết. Anh chị vào đây với hai bàn tay trắng. Bao nhiêu sách quý của anh, và các bản thảo, cả những tác phẩm của anh đã xuất bản hồi tiền chiến, đều bị mất sạch. Bấy giờ chị đi dạy học ở trường Tiểu học Đakao, và chị là một cô giáo rất được học trò quí mến[1], còn anh thì ở nhà dịch tiểu thuyết Tàu cho vài tờ báo, sống cuộc đời nhà văn thanh cao yên tịnh.
Viết đến đây, tôi không khỏi bùi ngùi về thân thế và sự nghiệp văn chương của một nhà kịch sĩ có thiên tài.
Trong lúc ở ngoại quốc, nhất là ở các nước mà trình độ văn hóa của công chúng đi theo kịp lịch sử tiến triển mãnh liệt của văn học, các nhà kịch sĩ đang đưa lên sân khấu những sáng tác phẩm vô cùng sôi nổi, ảnh hưởng lớn lao trong quần chúng, thì ở nước Việt Nam một nhà kịch sĩ có rất nhiều khả năng, nghệ thuật điêu luyện tinh vi, đành xếp các vở kịch một bên, để dịch các tiểu thuyết Tàu bán cho vài tờ báo, cho qua ngày qua tháng.
Sản phẩm thì để dành cho một số tuồng đề tài nhảm nhí, ý tưởng nghèo nàn, nghệ thuật hổ lốn, văn chương sơ đẳng. Một Năm Châu, một Kim Cương, một Út Trà Ôn dù có đầy đủ khả năng và thiện chí, cũng đành phải chạy theo sau lớp tuồng Vọng cổ.
Một Vi Huyền Đắc có thiên tài nhưng không có phương tiện, không có hoàn cảnh, làm sao xây dựng được một kịch trường xứng đáng với dân tộc nghìn năm văn hiến, để hãnh diện với kịch trường quốc tế?
*
Tôi đã nhiều lần trình bày riêng một vài đề nghị với anh Vi Huyền Đắc và anh Đinh Xuân Hòa, nay tôi xin phép nhắ
c lại: Các anh có thể nào công tác với nhau để gây ra một phong trào Kịch trường mới mẻ, tiến bộ, phấn khởi, để xúc tiến mãnh liệt và rộng lớn nghệ thuật Kịch trường Việt Nam không? Vì giá trị và danh dự của Văn hóa Việt Nam trước Văn hóa ngoại quốc, tôi thiết tha mong mỏi có sự cộng tác ấy.
Nguồn: Văn thi sĩ tiền chiến. “Chứng dẫn một thời đại” của Nguyễn Vỹ. NXB Văn học, 2007.
1. Chị Vi Huyền Đắc đã từ trần năm 1966 tại Hoàng Mai Hiên.
Chương I
Khái Hưng: Trần Khánh Giư
(1896 - 1947)
Tác phẩm này không phải là một văn học Sử, cũng không phải một công trình khảo luận.
Đây là chứng dẫn một thời đại, của một người đã bước trong lịch trình hăng say của Thế hệ Văn học Cận kim, đã lăn lóc hằng ngày với các bạn đồng hành. Nó đã sống, đã thấy, đã cảm xúc giữa một thế giới mới đột nhiên xuất hiện từ một thế giới cũ. Nó đã chia xẻ những vinh nhục của số kiếp con nhà văn.
Tiếng súng đại bác lần đầu tiên nổ dưới vòm trời Âu làm rung chuyển Địa cầu, hai mươi mốt năm sau Đệ nhất Thế chiến, đã làm sụp đổ tất cả kiến trúc đồ sộ nhưng mong manh của Đô hộ Pháp trên Đất nước thiêng liêng của Tổ quốc, Chỉ độc nhất còn lại Văn hóa.
Kỉ nguyên mới đang quằn quại trong khói lửa. Cái gì còn lại vẫn nguyên vẹn, đã trở thành một kí ức vàng son.
Nó chói lọi trong quạnh quẽ huyền mơ của một dĩ vãng luôn luôn còn hiện tại. Không có người chết. Chỉ có người vắng mặt.
Nhân chứng, vai còn nặng hành trang của cuộc phiêu lưu kì thú ấy, không có một kiêu hãnh nào cả. Không vì khiêm tốn giả dối. Chỉ vì trung trực truyền thống của Văn nghệ đối với người đương thời với nó trong thế hệ qua, đối với chính lương tâm của nó trong thế hệ nay.
Vài nét chân phương thân ái trao bạn.
Tác giả
Mục lục
Chương một
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
Nguyễn Văn Vĩnh
Phạm Quỳnh
Vũ Trọng Phụng
Lê Văn Trương
Lan Khai
Lưu Trọng Lư
Vi Huyền Đắc
Khái Hưng
Nguyễn Tường Tam
Thế Lữ
Trương Tửu
Mộng Sơn
Nguyễn Tuân
Phạm Huy Thông và Nguyễn Nhược Pháp
Anh Thơ
Vũ Bằng
Từ Bộ Hứa
Thâm Tâm và sự thật về T.T.KH.
Vũ Ngọc Phan
Trần Tuấn Khải
Ưng Bình
23. Tương Phố
24. Phan Bội Châu và Huỳnh Thúc Kháng
25. Phan Khôi
26. Thiếu Sơn
27. Song Thu
28. Đông Hồ và Mộng Tuyết
29. Quách Tấn
30. TchyA Đái Đức Tuấn
31. Thanh Tịnh
32. Chế Lan Viên
33. Hàn Mặc Tử
34. Thao Thao
35. Ngân Giang
Kết thúc chương một
Chương hai
Văn sĩ Việt, văn chương Pháp
Chương ba
1. Sinh khí văn nghệ tiền chiến
2. Đời sống tinh thần vật chất của văn thi sĩ tiền chiến
Văn thi sĩ tiền chiến
- Nguyễn Vỹ -
Chương I
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
(1888-1939)
Hồi còn là một học trò. Năm thứ Nhất trường Trung học Qui Nhơn, 12 tuổi, tôi đã mê văn thơ của Thi sĩ Tản Đà, và đã ao ước được biết ông. Lúc đó ông là “Thần tượng” của tôi. Nhưng vì còn trẻ con, và mới tấp tểnh làm Thơ, tôi đã có đôi chút tự ti mặc cảm, và khi học ở Hà Nội năm 1928, tôi không dám tìm đến nhà Thi sĩ. Tôi vẫn yêu cái hình vẽ “gánh văn lên bán chợ Trời” trên các bìa sách của “Tản Đà thư cục”, bán rất chạy vào những năm 1925-1930. Tôi cắt hình đó dán trên bàn học của tôi.
Lòng cứ ước muốn gặp Thi sĩ một lần “để xem mặt mũi ông ra sao”, nên một hôm, vào khoảng 1930, đi qua phố Hàng Da, xế nhà ông Phạm Quỳnh, tôi thấy trên tường một căn nhà có treo tấm bảng “An Nam Tạp Chí”, tôi liền đánh bạo giả vờ vào mua một quyển “Giậc mộng con” để thấy mặt nhà Thi sĩ. Tôi bước vào không thấy ai. Sẵn tính tò mò, tôi ngó trên một chiếc bàn kê sát vách, một điếu hút thuốc lào bằng tre, thứ “điếu cày” bình dân, bên ạnh một cái đèn liu riu, vài que đóm bỏ bừa bãi, với một mảnh giấy trắng. Tôi lén dòm trên giấy hai câu thơ viết chữ loằng ngoằng, tôi đọc thật lẹ, và còn nhớ mãi đến bây giờ:
Đi ra rồi lại đi vào,
Vẩn vơ chỉ tốn thuốc lào mà thôi
Tôi nhịn cười không được, bật cười to lên. Bỗng từ trong nhà, bước ra một ông mái tóc lâm râm, cúp rẽ một bên, áo lương thâm dài cũ mèm, quần trắng hơi bẩn, mang đôi giày mòn mỏi. Đôi mắt ông sáng quắc, nhìn tôi. Tôi lễ phép chấp hai tay cúi đầu chào, theo lối người Bắc:
- Lạy cụ ạ.
Ông gật đầu:
- Tôi không dám, cậu hỏi gì?
- Thưa cụ, cháu muốn mua quyển… “Giấc mộng lớn”.
- “Giấc mộng lớn” hay “Giấc mộng con”? Cậu lầm đấy, chỉ có quyển “Giấc mộng con” chứ không có “Giấc mộng lớn”.
- Dạ thưa cụ, “giấc mộng” gì cũng được ạ.
- Giấc mộng gì cũng hết cả!
Tôi bỡ ngỡ hỏi thẳng cụ:
- Thưa cụ, xin lỗi cụ, cụ có phải là Thi sĩ Tản Đà không ạ?
- Phải.
Tôi mừng quá. Nhưng không hiểu sao, đứng trước Nhà Thơ bằng thịt và bằng da mà tôi hằng kính phục, tôi bối rối không biết nói gì nữa. Tôi cúi đầu chào từ biệt:
- Lạy cụ ạ!
Tôi đi ra. Ông Nguyễn Khắc Hiếu đứng yên, nhìn tôi. Chắc ông cũng không hiểu là cậu học trò này muốn gì.
Tôi sung sướng và hãnh diện, đã thấy mặt nhà thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Tôi khoe cùng các bạn học của tôi.
Năm năm qua. Sau khi tuần báo “Phụ nữ” của bà Nguyễn Thị Thảo đăng bài thơ “Gởi Trương Tửu” của tôi, một buổi chiều, tôi đến chơi ở tòa báo, ngõ Hội Vũ, đang ngồi trò chuyện với cô thư kí quen thân (Cô này hiện ở Sài Gòn, là vợ ông Hoàng Nguyên, cựu Giám đốc Báo chí Bộ Thông tin dưới thời Ngô Đình Diệm.) bỗng thi sĩ Tản Đà từ ngoài bước vào. Một chiếc khăn đóng đã mòn viền, đáng lẽ đội trên đầu ông lại đeo tòn ten trong cánh tay. Vẫn chiếc áo lương thâm cũ giống chiếc áo mà tôi đã thấy ông mặc năm năm trước. Ông hỏi cô thư kí:
- Có ông Nguyễn Vỹ ở tòa báo không?
Cô bạn liền cười, chỉ tôi:
- Thưa cụ, Nguyễn Vỹ đây ạ.
Ông ngạc nhiên ngó tôi:
- Thế hả!... Cái ông này, tôi nhớ… quen quen… Tôi có gặp ông ở đâu nhỉ?
- Dạ thưa cụ, cháu chưa được hân hạnh gặp cụ ạ.
- Ông muốn đi chơi với tôi không? Ông có rảnh không?
- Dạ thưa cụ, cháu rảnh ạ.
- Thế thì chúng ta đi?
Ông đưa tôi lên tàu điện, phố hàng Bông. Nửa giờ sau đến một gian nhà ở ấp Thái Hà, Nhà của ông. Ông lấy chai rượư ra và hai cái cốc. Tôi không biết uống rượu, bất cứ là rượu gì, dù là rượu bia. Nhưng vì xã giao tôi không tiện nói ra, và sợ phật ý nhà Thi sĩ đã có tiếng là Lưu linh Việt Nam. Tôi cứ để mặc ông rót rượu ra cốc, thầm nghĩ rằng cũng đêm năm ngoái được hân hạnh ngồi hầu chuyện với cụ Phan Bội Châu trên sông Hương, cụ thì uống liên miên mà tôi cứ phải giả vờ nâng li lên môi nhấp một chút xíu cho có lễ phép, suốt đêm chưa cạn một li.
Ông Tản Đà bảo một chú bé chạy đi mua nhanh hai gói lạc rang (đậu phụng rang) để uống rượu.
Ông bắt đầu hỏi tôi:
- Tôi thích bài thơ Gởi Trương Tửu của ông, nên mời ông uống rượu. Trương Tửu là ai?
- Thưa cụ, bạn của cháu ạ.
- Ông ấy biết uống rượu không?
- Dạ, tên anh ấy là Trương Tửu, thì cụ khỏi hỏi! Vả lại dòng dõi Trương Phi đấy ạ.
- Hôm nào ông rủ ông ấy đến uống rượu với tôi.
- Dạ.
- Nhưng tôi giận ông lắm vì một câu trong bài thơ của ông. Tôi định gặp ông thì tôi bảo.
- Thưa cụ, câu nào ạ?
- Sao ông lại bảo: Nhà văn An Nam khổ như chó?” Ông so sánh nhà văn chúng ta với kiếp chó, mà ông không hổ thẹn ư?
- Thưa cụ, nếu cháu so sánh nhà văn với chó, thì chó nó thẹn, chớ sao nhà văn lại thẹn?
Ông Tản Đà làm thinh nốc hết li rượu, rồi rót luôn một li nữa.
Mặt ông vẫn chưa đỏ. Bỗng dưng ông phì cười, tiếng cười nổ lên đột ngột và kêu to, làm tôi giật mình. Xong, ông nói, không ngó tôi:
- Ông làm tôi buồn cười! Ông Tản Đả hay nói: buồn cười.
Rồi ông rưng rưng nước mắt…
Tự nhiên tôi cũng muốn khóc như ông. Mặt Tản Đà đỏ như quả gấc.
Hôm gặp gỡ đầu tiên ấy, Tản Đà có trao tôi bài thơ “Còn Chơi”, bảo tôi họa vận:
- Chưa ai họa bài này. Ông họa chơi cho vui, mà phải theo nguyên vận nhé!
Tôi chưa dám nhận lời, vì chưa đọc bài thơ.
Vài tháng sau, có việc đi Thái Hà Ấp tôi đến thăm Tản Đà và trao ông bài thơ “Hết Chơi” của tôi họa bài “Còn Chơi” của ông. Tôi bảo:
- Rất hân hạnh, nếu được tiên sinh đáp lại.
Một thời gian, Tản Đà nghèo túng quá, xoay sang nghề thầy tướng. Thi sĩ thuê một căn nhà rẻ tiền ở Bạch Mai, (Route de Huế) mở phòng xem “Quẻ Dịch”. Chính nơi đây, nhà thơ Việt dịch một ít thơ Đường bán cho báo Phong Hóa. Tiên sinh phàn nàn rằng tiền nhuận bút của Phong Hóa không đủ để uống rượu. Nhưng tiền nhuận bút nào đủ để Tản Đà uống rượu?
Phòng xem tướng Quẻ Dịch của Tản Đà không được đông khách lắm. Lí do rất dễ hiểu. Nhà thơ say rượu suốt ngày, có thì giờ đâu xem tướng cho thân chủ? Ngày Chủ nhật nhiều ông Công chức đưa vợ đến xem một quẻ, vì mến tài Văn chương nhiều hơn là vì tin tưởng tài xem tướng của Thi sĩ. Ông say rượu, nói tầm bậy tầm bạ, thân chủ cười, gật đầu khen hay, rồi rút lui.
Bốn tháng sau, tôi đi với Lan Khai xuống Bạch Mai để thử tài bói Quẻ Dịch của Tản Đà như thế nào, hai đứa có đem theo một chai rượu và một gói đồ nhắm để biếu Thi sĩ. Nhưng phòng xem tướng của Tản Đà đóng cửa im ỉm – Gõ mãi không có ai mở. Mấy người hàng xóm bảo:
- Ông Cụ ngủ suốt ngày, có khi đến khuya mới thức dậy.
Chúng tôi gởi lại rươu và gói quà, nhờ một bà hàng xóm trao lại Tiên sinh.
Sau, Tản Đà dọn về lại Ngã Tư Sở, số nhà 71. Thi sĩ ở đây cho đến ngày tận số.
Cùng với gia quyến ông, chúng tôi, số nhà Văn không quá 10 người, tiễn Thi sĩ về “giấc mộng” cuối cùng và vĩnh viễn, một buổi sáng tháng 5-1939.
Sau khi Tản Đà chết, bà vợ góa của Thi sĩ bị ở trong tình trạng túng thiếu thật là bi đát. Một số anh em nhà Văn có quyên một món tiền nhỏ, do Nguyễn Tuân đưa lên biếu bà.
Bà Nguyễn Khắc Hiếu là chị ruột của Nguyễn Tiến Lãng, rể của Phạm Quỳnh, một nhà Văn chuyên viết Pháp văn, và lúc bấy giờ làm quan Nam Triều. Nguyễn Tiến Lãng có vận động với nhà cầm quyền Pháp để giúp cho chị của ông một phương tiện sinh nhau. Bà được lĩnh hai môn bài rượu và thuốc phiện của Nha Thương Chánh để kiếm lời độ nhật.
Nhiều người cho đó là một chuyện hài hước lí thú, ví nhớ lại lúc bình sanh, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu có làm bài thơ phản đối độc quyền Rượu của Nha Thương Chánh (rượu Ty của Pháp) và đòi cho dân được nấu rượu tự do:
Yêu cầu cho khắp Nước Nhà,
Rượu Ti bãi hết, rượu ta cất tràn,
Tránh cho dân nỗi lầm than,
Bã chôn, men giấu, nhà Đoan[1] nhạt bừa…
Tha hồ rượu sớm trà trưa,
Nghiêng chai dốc chén say sưa tối ngày.
Tuy nhiên, dư luận trong giới Văn học Hà Nội rất thông cảm cho hoàn cảnh quẫn bách của bà quả phụ Nguyễn Khắc Hiếu. Không ngờ nhờ hai môn bài đó, mà nếp sống của Bà Hiếu lại khá giả hơn lúc sinh tiền của Thi sĩ.
Nhiều bạn làng Văn biết rằng hồi em vợ của Tản Đà là Nguyễn Tiến Lãng còn làm Bí thư cho René Robin, và rất được viên Toàn quyền này tín dụng, Lãng muốn đem ông anh rể vào làm việc trong văn phòng Tu Thư của Phủ Toàn quyền, để cho ông một chức nghiệp có lương tháng sống đầy đủ đàng hoàng. Nhưng Thi sĩ Tản Đà từ chối. Theo lời Khái Hưng kể lại với tôi, khi nghe tin này, tác giả “Hồn bướm mơ tiên”, có tặng nhà Thơ một món tiền khá khá để tỏ lòng mến phục.
Nhưng Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cao hứng làm mấy chầu rượu, dốc túi sạch sành sanh!
Thơ Tản Đà
Tản Đà không phải là một nhà Nho thông thái. Ông cũng không có Tây học nhiều. Vì ông sinh ra giữa lúc giao thời, Hán học gần suy tàn, Tây học mới bắt đầu phát triển. Nhưng ông chịu ảnh hưởng của Hán học nhiều hơn về pdi thi phú, và theo lời ông nói với tôi, ảnh hưởng sâu đậm nhất là của bà thân mẫu, tên là Nghiêm, một ả đào hát nổi danh một thời về văn chương và sắc đẹp. Thi sĩ Tản Đà rất có hiếu với bà mẹ nghệ sĩ ấy. Trên chuyến tàu điện về Thái Hà Ấp, ông “tâm sự” với tôi:
- Mẹ tôi thường dạy tôi: “Mẹ đặt tên con là Hiếu, là mẹ muốn con giữ mãi mãi chữ “hiếu” đối với mẹ”. Ấy thế, lớn lên tôi nghĩ rằng có lẽ Mẹ tôi có mặc cảm là một cô đào hát, nên sợ tôi khinh thường. Nhưng tôi luôn luôn giữ tình mẫu tử chí hiếu với Mẹ tôi vì… ông biết vì sao không?
- Dạ, vì tình mẹ con.
- Đành rằng như thế, nhưng vì tôi cảm thấy rõ ràng tâm hồn thơ của tôi chính là thừa hưởng tâm hồn nghệ sĩ của mẹ tôi. Không phải mẹ tôi sinh ra Nguyễn Khắc Hiếu, mà mẹ tôi sinh ra thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu. Ông hiểu không?
- Dạ, hiểu lắm.
*
Hầu hết thơ của Nguyễn Khắc Hiếu, nhất là những câu thơ hay nhất của ông, đều tiết lộ tâm hồn lãng mạn thanh thoát, đặc biệt của miền Bắc hồi đầu tki 20, còn đượm nhiều hương vị thuần túy nông thôn Miền Bắc, chưa bị xâm nhập bởi ảnh hưởng của thơ Tây.
“Nước Non nặng một lời thế,
Nước đi mãi mãi, không về cùng non.
Nhớ lời hẹn ước thề non,
Nước đi đi mãi, non còn đứng trông…”
…
“… Đá mòn, rêu nhạt
Nước chảy, hoa trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời…”
.v. v…
Đó đúng là chất thơ Nguyễn Khắc Hiếu.
Chất thơ đặc biệt nông thôn miền Bắc đã lộ ra trong những câu ca dao như:
“Chiều chiều ra đứng bờ ao,
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ”.
Rượu, và Ngông, chỉ là yếu tố phụ thuộc, trang trí, dùng làm bối cảnh của Thơ văn Tản Đà mà thôi.
*
Vì tính chất lãng mạn thuần túy đó, mà Phạm Quỳnh đả kích Tản Đà, trong một bài giới thiệu tàn nhẫn và ngạo mạn đăng trong Nam Phong Tạp Chí. Phạm Quỳnh, bút hiệu Thượng Chi, lấy văn chương hàn lâm (littérature académique), nghĩa là văn chương trưởng giả, quí phái, để hạ giá văn chương lãng mạn của Tản Đà mà ông nhận định là dễ dãi, nông cạn, có vẻ hoa mĩ bề ngoài, không có bề sâu.
Chúng tôi, đám thanh niên yêu thơ Tản Đà, chính vì khía cạnh thuần túy thơ mộng của thơ Tản Đà, không chấp nhận lối phê bình lệch lạc và có tính cách ganh ghét, của ông Chủ Nhiệm Nam Phong Tạp Chí, một nhà văn quá đạo mạo phong kiến, không có phong độ của con nhà văn nghệ.
Nguyễn Khắc Hiếu rất hận về bài phê bình của ông Thượng Chí, và ghét Phạm Quỳnh từ đó.
Tôi có hỏi Nguyễn Khắc Hiếu:
- Tiên sinh có thưởng thức thơ Pháp không?
Ông tỏ vẻ buồn:
- Tôi tiếc không được học tiếng Pháp nhiều như các ông và không hiểu được thơ Pháp. Nhưng đọc mấy bài dịch của ông Nguyễn Văn Vĩnh, và mấy bài dịch thơ Le Lac của Lamaritine đăng trong Nam Phong, tôi thấy thơ Pháp cũng lãng mạn khiếp đi chứ!
Tôi cười vì lối nói chuyện có vẻ ngây ngô của nhà thơ duyên dáng đáng yêu.
Nguồn: Văn thi sĩ tiền chiến. “Chứng dẫn một thời đại” của Nguyễn Vỹ. NXB Văn học, 2007.
1. Đoan (tiếng Pháp: Dounae) tiếng bình dân thông dụng nói về Nha Thương Chánh
Về Thư mục
Tiêu đề: Re: Văn thi sĩ tiền chiến Sun May 20, 2012 1:55 pm
Văn thi sĩ tiền chiến
- Nguyễn Vỹ -
Chương I
Nguyễn Văn Vĩnh
(1882–1936)
Hồi hãy còn là một sinh viên bé nhỏ, tôi đã coi NGUYỄN VĂN VĨNH như bậc Đại Nhân, siêu quần bạt tụy, tài trí vô song. Chỉ vì tôi đã đọc hết của ông bản dịch bộ sách LES MISÉRABLES của VICTOR HUGO. Trước đó, tôi đã đọc vài bản dịch Chinh Phụ Ngâm ra tiếng Pháp, bài Le Lac ra tiếng Việt, tôi đã không được thỏa mãn. Từ khi đọc mấy bài Fables de La Fontaine của Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra Việt ngữ, và bộ sách dịch “Những kẻ khốn nạn” của ông rất là vĩ đại, thì mỗi lần chỉ thấy cái tên của ông tôi đã cúi đầu khâm phục rồi.
Vào khoảng năm 1930, báo L’Annam Nouveau của ông bằng Pháp văn ra đời. Tôi mua ngay từ số 1, cũng như các bạn trẻ ham học hồi đó. Dù là sinh viên nghèo, chúng tôi cũng rán mua cho được, mỗi tuần hai kì, các số báo L’Annam Nouveau cho đến khi nó tự đóng cửa, vì ông Vĩnh bị vỡ nợ.
Mê Việt văn của ông, thích cả Pháp văn của ông, tôi chỉ ao ước được gặp ông một lần, được hầu chuyện với ông, dù trong một tiếng đồng hồ. Một buổi chiều vào khoảng ba giờ, một người bạn cùng tôi đang đi trên vỉa hè phố hàng Gai, bỗng người bạn bảo tôi:
- Ông Nguyễn Văn Vĩnh kìa, mày!
- Đâu?
Người bạn chỉ tôi một ông to béo, mặc âu phục trắng đội mũ trắng bự giống như cái “mũ thuộc địa” (casque colonmial của Tây hồi đó), ngồi trên chiếc xe môtô kềnh càng, nổ bình bịch và kêu rầm rầm, từ hàng Bông chạy thẳng xuống hàng Gai. Chúng tôi đứng lại ngó ông. Lúc ông bay vụt ngang qua chúng tôi, tôi cúi đầu chào. Ông không trông thấy. Nhưng tôi vui sướng vô cùng. Tôi đã thấy mặt nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh.
Trong ba năm còn là cậu sinh viên nhỏ bé, tôi chỉ thấy ông Nguyễn Văn Vĩnh có một lần đó thôi. Nhưng hình ảnh của ông nhà văn to lớn kia đã in sâu vào trong trí nhớ của tôi, và mỗi khi tôi nghĩ đến ông, hay đọc một bài báo, một quyển sách của ông, thì, lạ quá, tôi cứ nghe tiếng xe môtô nổ bình bịch và chạy rầm rầm bên tai tôi.
Cho đến bây giờ, tôi ngồi chép lại kí ức này, tôi vẫn còn thấy bóng dáng ông Nguyễn Văn Vĩnh ngồi trên chiếc xe môtô sơn màu đỏ, chạy vụt qua trước mắt tôi thật nhanh, và kêu ầm ầm như một chiếc mô tô bay trong Hội chợ.
Trong những câu chuyện giữa sinh viên Cao đẳng Hà Nội, người ta thường nói đến ông Nguyễn Văn Vĩnh luôn. Một vài anh cho tôi biết rằng ông có một người vợ bé là cô Đầm lai rất đẹp và còn trẻ tuổi. Bà cả thì là người Bắc, rất hiền lành. Nhà ông là cái biệt thự có tường cây cao xung quanh phủ đầy hoa antigone, và có cổng sắt, trên hồ Văn chương cạnh Đền thờ Khổng Tử. Tôi đã đi ngang qua đó nhiều lần, và hằng ước mong làm sao có cơ hội may mắn được gặp ông một lần, để xem tường tận gương mặt của ông và nghe ông nói chuyện.
Cơ hội ấy đã đến. Tôi cầm tập thơ mỏng manh vừa mới xuất bản đến tòa báo L’annam Nouveau ở cạnh Bờ Hồ Hoàn Kiếm, một dãy nhà một tầng, quét vôi trắng. Buổi sáng, tôi biết ông bận nhiều việc, tôi đợi đến buổi chiều. Tôi rón rén bước vào phòng thơ kí. Bốn năm ông và cô ngồi làm sổ sách, đánh máy, không ai để ý đến cậu nhãi con ngơ ngác, như con nai đi lạc bước trong rừng chiều.
Bỗng một chàng con trai dong dỏng cao hơn tôi, nhưng trạc tuổi với tôi, từ ngoài cửa đi vào. Chàng tủm tỉm cười hỏi rất nhã nhặn:
- “Vu” hỏi gì đấy?[1]
Tôi thấy cái miệng chàng như móm, nhưng đôi mắt rất lanh lợi.
Tôi bảo:
- Tôi muốn xin vào yết kiến ông… Directeur.
Chàng nhanh nhảu trả lời:
- “Vu” chờ một tí nhé. Để tôi vào xem Thầy tôi có bận việc lắm không đã nhé… À… mà, xin lỗi, “Vu” hỏi ông cụ có việc gì?
- Dạ… tôi muốn đem tặng ông cụ tập thơ nho nhỏ đây, mới xuất bản.
Nói xong, tôi trao “Tập thơ đầu” cho chàng ta. Chàng xem qua bìa, lật qua mấy trang trong, rồi tủm tỉm cười, cười mím chặt môi, để cái miệng như móm vậy!
- “Vu” cứ vào với tôi.
Tôi đi theo chàng, trong lòng hồi hộp, không biết chàng này là ai mà coi bộ đi vào văn phòng riêng của ông Chủ nhiệm có vẻ tự nhiên như thế.
Một căn phòng rộng rãi, mát mẻ, có một dãy cửa kiếng ngó ra ngoài đường. Ông Nguyễn Văn Vĩnh to như ông Hộ pháp, mặc áo sơ mi thật trắng, tay dài, đeo cà vạt đen, ngồi chăm chú viết. Nghe tiếng giày chúng tôi vào, ông ngưng bút, ngoảnh mặt ngó ra. Chàng trẻ tuổi đến gần:
- Thưa thầy, có một chàng thi sĩ…
Ông Nguyễn Văn Vĩnh ngó tôi, thốt ra một tiếng Pháp:
- Ah!
Ông lại cười, tiếng nói rang rảng:
- Vous êtes poètè?
(Anh là thi sĩ hả)
Tôi mỉm cười đáp:
- Non, monsieur le Directeur.
(Dạ, thưa ông chủ nhiệm, không phải.)
Chàng kia bỏ tôi ở lại một mình với ông Nguyễn Văn Vĩnh, chàng đi ra ngoài.
Ông cầm quyển thơ mong manh, bé nhỏ, lật coi từng tờ. Ông chú ý đến thơ Pháp nhiều hơn là thơ Việt. Rồi ông vui vẻ nói chuyện.
Tôi cảm thấy vinh hạnh được ông Nguyễn Văn Vĩnh bảo ngồi chiếc ghế đối diện, và được ông tiếp chuyện độ vài chục phút. Ông chỉ nói tiếng Pháp, thỉnh thoảng mới châm vào vài câu tiếng Việt thôi.
Ông hứa sẽ viết bài giới thiệu quyển thơ, và khuyến khích vài lời. Tôi vô cùng cảm động.
Tôi đứng dậy chào cáo biệt. Ra ngoài, tôi lại chạm trán anh chàng lúc nãy. Anh tự giới thiệu là Nguyễn Nhược Pháp, con trai cụ Nguyễn Văn Vĩnh. Từ đó, hai đứa chúng tôi quen nhau và dần dần trở nên đôi bạn thân. Do nơi Nhược Pháp mà sau đó tôi lại quên với Huy Thông.
Hai ba lần, Nguyễn Nhược Pháp đưa tôi đến tòa soạn L’annam Nouveau, tại đây tôi thường được hân hạnh hầu chuyện ông Vĩnh. Ông thích nói về chính trị vì lúc bấy giờ ông chủ trương chế độ “Administration directe” (thực trị), đối lập với ông Phạm Quỳnh, lãnh tụ phe “Bảo Hoàng”, chủ trương củng cố uy quyền Bảo Đại. Khác hẳn với Phạm Quỳnh mà cử chỉ, thái độ, ngôn ngữ đều ra vẻ học giả quí phái, lại kiêu căng, tự đắc, Nguyễn Văn Vĩnh rất là bình dân, giản dị, không khiêm tốn một cách giả dối mà cũng không kiêu kì trịch thượng. Nói thẳng thắn điều gì cần phải nói, quan niệm thế nào thì nói ra thế ấy, không cần văn chương bóng bẩy, không dè dặt, rào trước đón sau, không quanh co khúc khuỷu, không nham hiểm. Đó là những đức tính của Nguyễn Văn Vĩnh mà người đương thời đều mến phục. Nguyễn Văn Vĩnh rất trung trực, không nịnh ai mà cũng không ưa ai nịnh mình, không tùy thời, chỉ tùy mình. Ông chủ trương lẽ phải của ông, không có lí lẽ nào khác đánh đổ được ông.
Là người rất yêu nước, yêu dân, một nhà ái quốc chân chính, Nguyễn Văn Vĩnh đã thực hiện đời sống dân chủ riêng trong phạm vi của ông giữa thời kì phong kiến thối nát của chế độ thuộc địa và quân quyền.
Ông chủ trương “trực trị” tức là chống lại quyết liệt chế độ thuộc địa và bảo hộ của Pháp. Chính sách trực trị của ông gần như chủ trương Comonwealth của Ấn Độ đối với Anh. Ông đả kích quân chủ, coi Bảo Đại như đứa con nít khờ khạo để cho Tây vò đầu sai khiến. Hầu hết các lớp sinh viên Cao đẳng và trí thức giác ngộ ở Bác Hà đều hưởng ứng Nguyễn Văn Vĩnh.
Bọn thanh niên chúng tôi thời bấy giờ – tôi nói đại đa số sinh viên cao Đẳng và Văn Thi sĩ mới ra đời – đều phục Nguyễn Văn Vĩnh như ông thầy, hơn nữa, như nhà lãnh tụ. Ông hoạt động công khai, không thích làm “Hội Kín”. Chúng tôi càng phục ông khi biết ông được chính phủ Pháp tặng Huy chương (Légion d’Honneur), một Huy chương vinh dự nhất của Pháp, nhưng ông khước từ.
*
Có lần, tôi muốn chơi nghịch, chọc ông Vĩnh mà không cho ông biết. Tôi mượn cái tên Lệ Chi của một người bạn gái thân yêu để kí một loạt bài về phụ nữ, bằng Pháp văn, trong tờ báo Pháp L’Ami du Peuple Indochinois của Giáo sư Michel. Tôi “công kích” một bài của ông Vĩnh trong L’annam Nouveau, nhan đề là “Nos enfants chantent, nos enfants jouent” (Trẻ em hát, trẻ em chơi), ông giảng nghĩa ra Pháp văn một bài hát:
“Chi chi chành chành, cái đanh thổi lửa, con ngựa đứt cương, v.v…”
Với bút hiệu Lệ Chi, tôi cãi lại, cho rằng ông Nguyễn Văn Vĩnh giảng sai. Thực tình, tôi nghịch ngợm, giả làm một nữ sinh viên để bắt bẻ ông chơi, xem ông bảo sao, chứ đâu dám cãi bướng với ông! Vì vậy mà có cuộc “bút chiến” giữa ông Nguyễn Văn Vĩnh và “Cô Lệ Chi”, khá sôi nổi hồi tháng 7-1935. Độc giả hai tờ báo chắc là tủm tỉm cười, theo dõi cuộc bút chiến lí thú kéo dài gần một tháng. “Lệ Chi” là cô gái nghịch ngợm, ranh mãnh, nhí nha nhí nhảnh, còn Nguyễn Văn Vĩnh tuy là già nhưng cái giọng châm biếm vẫn còn hăng, quyết liệt mà không đổ quạu. Rốt cuộc, ông viết như sau đây:
“Nếu cô Lệ Chi mới đỗ Tiến sĩ Vật lí học ở Pháp về[2], chắc cô cũng chưa có chồng và chưa có con. Tôi khuyên cô nên có con đi đã rồi hãy nói chuyện với tôi về cách trẻ em hát và trẻ em chơi. Tôi thì tôi đã có chút ít kinh nghiệm về trẻ con bởi tôi là một đứa trẻ con đã già”.
Tôi còn nhớ mãi câu của ông là “je suis un vieil enfant” (Tôi là một đứa trẻ con già)!
Tôi phục câu ấy quá. Sau đó Nguyễn Nhược Pháp cười bảo ông bố: “Cô Lệ Chi là N.V. đấy, thầy ạ!” Ông Vĩnh cười hà hà: “Thế mà thầy cứ tưởng là có cô Lệ Chi thật!”.
Tết năm ấy, tôi đến mừng tuổi ông Nguyễn Văn Vĩnh. Với bàn tay Hộ pháp, ông tươi cười vỗ mạnh trên vai tôi:
- Chúc cô Lệ Chi đầu năm đẻ con trai, cuối năm đẻ con gái nhé!
Tôi mắc cỡ đỏ mặt, nếu không có Nguyễn Nhược Pháp trong nhà chạy ra, tay bắt mặt mừng, thì có lẽ tôi đã té xỉu trong hai cánh tay lực lưỡng của ông già duyên dáng ấy.
*
Hôm được tin Nguyễn Văn Vĩnh chết ở bên Lào, ngày 2-5-1936, tôi ngồi nơi bàn viết ở Khâm Thiên nhớ đến cụ, bỗng dưng hai dòng nước mắt trào ra.
Tội nghiệp cụ Vĩnh! Trong lúc, kẻ biết xu thời đang ngất ngưỡng cân đai ở Huế, vênh váo bên ngai rồng, thì một bác văn hào lỗi lạc, một nhà ái quốc trung trực và liêm khiết, bị quẫn bách về tài chánh, đã vỡ nợ, theo ông Ameédèe Clémenti (Người Pháp, chủ nhiệm báo L’Argus Indochinois, thân Việt, chống Pháp, kẻ thù của chính phủ thuộc địa, bạn thân của ô. Vĩnh.) sang xứ Lào để tìm vàng, đi phiêu lưu mạo hiểm trong rừng thiêng nước độc, rồi chết trên một giường bệnh, vì bệnh sốt rét rừng, xa vợ, xa con, xa quê hương xứ sở, trong túi không có một đồng xu!
Quan tài của cụ Nguyễn Văn Vĩnh được đưa xe lửa từ Lào về đến ga Thường Tín, ở phía Nam Hà Nội, cách thủ đô khá xa. Tất cả các giới sĩ, nông, công, thương ở Hà Nội và các tỉnh lân cận đều tự động kéo nhau đi, sắp hàng tư, hàng năm, có đến mấy chục ngàn người, đi bộ gần cây số, để đón rước linh cữu của bậc Văn hào.
Linh cữu đến ga làng Cỏ Hà Nội giữa một biển người im lặng, ai nấy đều cúi đầu, rưng rưng nước mắt. Linh cữu được đưa vào đặt tại Hội quán (Hội Tam Điển) (Loge de Franmaconerie), đường Gambetta, nơi đây có ông Lê Thăng, Tiến sĩ Luật khoa, cộng sự viên Báo L’annam Nouveau ông Phạm Huy Lực, Viện trưởng Viện Dân biểu Bắc Kì, và hai người Pháp hội Viên Hội Tam Điển, đứng túc trực đêm ngày.
Hôm đám tang Nguyễn Văn Vĩnh, một số anh em làng Văn nhóm tại Tòa sọan báo Phương Đông của Lan Khai, thảo luận về việc đưa đám. Có mặt trong buổi họp: Trương Tửu, Lan Khai, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Triệu Luật, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, tôi và TchyA. Anh em muốn tôi làm bài điếu văn vì tôi chơi thân với Nguyễn Nhược Pháp, con của ông. Tôi từ chối:
- Các anh muốn làm điếu văn thì làm. Các anh muốn đọc mấy bài điếu văn để ca ngợi ông Vĩnh cũng được. Riêng tôi, tôi chỉ mong được vinh dự khiêng quan tài của Nguyễn Văn Vĩnh.
Sau cùng, chúng tôi đồng ý theo đề nghị của Lan Khai giao việc soạn bài điếu văn cho Trương Tửu. Rất tiếc, bài của Tửu thật cảm động nhưng lúc đọc xong anh bỏ vào túi áo rồi sau thất lạc đâu mất, tìm mãi không ra. Tôi nghi rằng đi đám ma về, Tửu vứt áo cho tiệm thợ giặt và bài văn điếu Nguyễn Văn Vĩnh đã tiêu tan trong bọt xà bông.
Sách dịch của Nguyễn Văn Vĩnh
Trước hết, tôi muốn nói đến sáng kiến “cải cách chữ quốc ngữ” của Nguyễn Văn Vĩnh. Ông là người đầu tiên đề xướng một cải cách hợp lí hơn cả, như chữ F thay cho dấu huyền, chữ W thay sấu sắc, v.v… Sự cải cách của ông rất tiện lợi trong thời kì mà máy đánh chữ sản xuất ở Pháp và thông dụng ở Việt Nam chưa có clavier Quốc ngữ.
Nhưng sau xem chừng ít có người hưởng ứng nên Nguyễn Văn Vĩnh bỏ trôi luôn… Ông đâu có ngờ rằng vài chục năm sau khi ông chết, Bưu điện Việt Nam áp dụng hệ thống “Quốc ngữ cải cách của Nguyễn Văn Vĩnh” trong các điện tín.
Sau ông Vĩnh, còn nhiều người khác cũng đề xướng những phương pháp cải cách chữ Quốc ngữ, khác hơn của ông, như Vi huyền Đắc và Edmond Chodzko. Ông sau này là người Tiệp Khắc nhập tịch dân Pháp, làm thông ngôn có tuyên thệ tại Tòa án Pháp ở Hải Phòng, và rất thông thạo tiếng Việt, viết cả văn Việt.
Tuy nhiên, chỉ có “Quốc ngữ cải cách” của Nguyễn Văn Vĩnh là giản dị hơn. Nhưng sở dĩ dư luận chung của quảng đại quần chúng không sẵn sàng chấp nhận và không sốt sắng hưởng ứng, là vì người ta cho rằng 5 dấu … và những âm như Ke, Kê, Ki, Qu, Ph v.v… là những đặc điểm của vần quốc ngữ, đã có từ lâu và không trở ngại gì cho việc học và viết tiếng Việt Nam.
Sau cùng, Nguyễn Văn Vĩnh cũng nhận thấy rằng mỗi ngôn ngữ và ký âm của mỗi giống dân đều có những đặc tính riêng biệt, tiêu biểu cho sắc thái ngôn ngữ của giống dân ấy, và sự sửa đổi sẽ làm cho xáo trộn vô ích, nên ông không tha thiết tuyên truyền cho “Quốc ngữ cải cách” của ông nữa. Tất cả các tác phẩm của ông đều viết theo quốc ngữ chính thức.
*
Nguyễn Văn Vĩnh viết rất nhiều trong mục xã thuyết bằng Việt văn và Pháp văn trong Đông Dương tạp chí, Trung Bắc Tân văn, L’annam Nouveau, về đủ các đề tài, chính trị, văn hóa, học thuật, kinh tế, xã hội.
Ngoài ra, ông dịch nhiều hơn là sáng tác. Sự nghiệp lớn lao nhất của ông là dịch truyện Kiều của Nguyễn Du ra Pháp văn (dịch và chú giải), và dịch bộ truyện Les Misérables của Victor Hugo ra Việt văn.
Ảnh hưởng và uy tín của Nguyễn Văn Vĩnh mạnh mẽ nhất trong giới trí thức Việt và Pháp thời bấy giờ, là do hai bộ sách dịch này. Người Pháp hiểu được truyện Kiều là nhờ bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh. Sau Nguyễn Văn Vĩnh, mới có René Crayssac, Công Sứ Pháp ở Vĩnh Yên, dịch quyển Kiều ra bằng thơ Pháp, thơ Alexadrins, 12 chữ, dựa theo bản dịch bằng văn xuôi của Nguyễn Văn Vĩnh.
Điều đó, tôi thấy ít nhà văn học sử đều để ý đến.
Bản dịch bộ truyện Les Misérables rất công phu. Nguyễn Văn Vĩnh hãnh diện với công trình này nhiều hơn với bản dịch truyện Kiều. Ông có giãi bày “tâm sự” với chúng tôi: “Dịch quốc ngữ ra tiếng Pháp dễ hơn dịch tiếng Pháp ra Quốc ngữ”. Nhiều khi ông mất hằng nửa tiếng đồng hồ để tìm ra một câu Việt diễn tả đúng với câu Pháp văn của Victor Hugo. Có những lúc dịch được, ông khoái lắm. Có những lúc ông không thỏa mãn, đành dịch gượng bằng một câu dài thòng, hoặc một câu ngắn ngủ.
Một hôm, ông ngồi uống trà với hai thằng trẻ: Nguyễn Nhược Pháp, con ông, và tôi. Trong câu chuyện về sánh dịch, tôi nửa muốn học hỏi, nửa muốn bắt bí ông chơi, tôi bảo:
- Thưa cụ, nếu bây giờ phải tái bản bộ sách dịch Les Misérables, cụ có sửa lại cái tên sách không?
- Sao lại phải sửa?
- Thưa cụ, tên sách Những kẻ khốn nạn, sợ có nhiều độc giả hiểu lầm.
Nguyễn Nhược Pháp mím môi cười, và gật đầu đồng ý với tôi. Cụ Vĩnh cũng cười, khôi hài:
- Le misérable, c’est Victor Hugo! (Kẻ khốn nạn, chính là Victor Hugo!).
Cụ cười hà hà, rồi nói tiếp, cũng bằng tiếng Pháp:
- Il a inventé ce mot misérable, qui m’a donné de bien gros fils à retordre… Oui…! J’ai été très embêté en cherchant un mot annamite éqnivalent pour le traduire. Enfin, j’ai adopté “Những Kẻ Khốn Nạn”, faute de mieux.
(Ông ta đặt ra chữ khốn nạn ấy, làm cho tôi bối rối như tơ vò… Thật thế! Tôi rất bực mình khi tìm một tiếng Việt tương đương để dịch chữ Misérables. Sau cùng tôi đành dùng chữ “Những Kẻ Khốn Nạn”, không tìm được chữ nào hay hơn).
Nguyễn Nhược Pháp mím môi bảo:
- Giá thầy (Nguyễn Nhược Pháp gọi ông Vĩnh bằng “thầy”) “Những Kẻ Khốn Khổ” thì thầy đỡ bực mình.
Cụ Vĩnh lại cười, ngó đứa con trai:
- Ah, maintenant, le misérable, c’est toi! Tu ne m’as dit ca avant!
(À, bây giờ Kẻ Khốn Nạn là mày! Sao trước kia mày không nói cái đó với tao?)
Pháp thớt tỉnh trả lời:
- Con được đọc bộ dịch Les Misérables của thầy 3 ngày sau khi xuất bản!
Sau cùng, ông Nguyễn Văn Vĩnh nhìn nhận rằng: nên để: “Những Kẻ Khốn Khổ” hay là “Những Kẻ Khốn Cùng” thì đúng hơn. Cụ cũng không hiểu tại sao cụ không dùng chữ “khốn khổ”.
Cụ muốn lấy rượu đãi cho hai thằng bé con ranh mãnh nhưng chúng tôi không biết uống rượu. Nguyễn Nhược Pháp chìa tay xin “thầy” tiền đủ mua hai vé xi nê. Cụ Vĩnh móc túi quần, không có tiền, chạy vào nhà trong, hỏi bà cụ và đem ra cho chúng tôi 20 đồng[3].
Nguồn: Văn thi sĩ tiền chiến. “Chứng dẫn một thời đại” của Nguyễn Vỹ. NXB Văn học, 2007.
1. Vu (vous) anh theo tiếng Pháp.
2. Lúc bấy giờ ở Hà Nội có một cô sinh viên đỗ bằng Tiến sĩ Vật lí học ở Pháp mới về. Ông Nguyễn Văn Vĩnh đoán chừng “Lệ Chi” là cô Tiến sĩ ấy.
3. Theo thời giá bây giờ là 2.000 đồng (Thời điểm Nguyễn Vỹ viết sách này)
Về Thư mục
Văn thi sĩ tiền chiến
- Nguyễn Vỹ -
Chương I
Phạm Quỳnh
(1882–1936)
Một hôm, bọn học sinh chúng tôi, được các giáo sư cho biết là chiều thứ bảy ông Phạm Quỳnhi sẽ diễn thuyết tại giảng đường của trường Cao đẳng, chúng tôi nô nức đợi đến chiều ấy để nghe.
Ông chủ nhiệm tạp chí Nam Phong sẽ diễn thuyết bằng tiếng Pháp, về một đề tài rất hấp dẫn:
Le Paysan Tonkinois à Travers le Parler populaire.
(Người dân quê Bắc Việt, xét qua ca dao bình dân).
Kể ra chúng tôi đọc tạp chí Nam Phong đã lâu lắm rồi. Riêng tôi, tôi đã được đọc nó thỉnh thoảng một đôi quyển, của Thầy tôi mượn ở đâu về, vì thời bấy giờ tạp chí Nam Phong ít có bán ở các tiệm sách. Hầu hết độc giả Nam Phong là những quan lại, hoặc một số “trí thức thượng lưu” và “trung lưu” mua năm. Khuynh hướng chính trị gác hẳn ra một bên, chỉ đứng về pdi văn học mà thôi thì chúng tôi, tất cả thanh niên trí thức lúc bấy giờ, đều phục cái tài cao học rộng của ông Phạm Quỳnh.
Chữ Pháp, ông viết rất trôi chảy, với một lối hành văn rất bóng bẩy văn hoa, vừa giản dị, khúc chiết, vừa dồi dào ý tưởng.
Việt văn của ông cũng thế. Câu văn rất được săn sóc, điêu luyện theo như hành văn Pháp, rất thận trọng trong việc dùng chữ. Ông đưa đẩy ngòi bút dịu dàng, chững chạc, không dây dưa rườm rà, hoặc nặng nề theo kiểu một số nhà Nho, như ông Cử Dương Bá Trạc hay ông Lê Dư, cũng không cứng rắn và đôi khi quá giản dị, thực tế, như cú pháp của ông Nguyễn Văn Vĩnh.
Văn của Phạm Quỳnh là lối văn quí phái, “lối văn hàn lâm viện” như người Pháp nói.
Không thế nào không nhìn thận rằng thời bấy giờ, ai đọc văn của Phạm Quỳnh cũng đều phải phục văn tài của ông.
Nhất là tụi thanh niên chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi cuốc bộ trên vỉa hè phố hàng Da, thấy ông Phạm Quỳnh ngồi chễm chệ trên chiếc xe kéo nhà, sơn màu gạch bóng loáng, từ trong cổng nhà ông đi ra, hoặc đi đâu về.
Đi xe kéo nhà như thế, là sang nhất lúc bấy giờ. Ông mặc quốc phục Việt, áo dài the đoạn, hoặc Satin, - Không bao giờ Phạm Quỳnh mặc Âu phục, - chân luôn luôn mang giày escarpin (một kiểu giày của những người trưởng giả thời ấy), đầu chít khăn đóng, mắt đeo kính trắng. Vì điệu bộ quí phái ra vẻ bệ vệ của ông mà đám thanh niên trí thức chế nhạo ông, đặt cho ông cái biệt hiệu là “Kính trắng tiên sinh”. Tiếng Bắc, kính tức là kiếng trong tiếng Nam.
Phạm Quỳnh rất là tự cao tự đắc. Tôi có thể nói vô tư rằng ông là nhà văn sĩ kiêu ngạo nhất thời Tiền chiến, nhưng bề ngoài ông lại làm ra vẻ rất khiêm tốn, - cái khiêm tốn giả dối, tính toán, của những người thiếu thành thật tự nhiên, của những kẻ dùng nó làm mách lời khôn khéo để tự tăng cao địa vị của mình.
Kẻ chép hồi ức này đã có dịp ngồi nói chuyện trong nửa giờ đồng hồ với ông Phạm Quỳnh, tại nơi bàn giấy của ông ở Huế, lúc ông làm Thượng Thơ bộ Học, năm 1936, dưới thời Bảo Đại. Cái làm cho nó chú ý nhất trên gương mặt của nhà học giả quan liêu ấy là cặp mắt của ông. Nó nhận thấy dưới đôi kính trắng gọng vàng kia một cặp mắt rất là ranh mãnh, quỉ quái. Tất cả cá tính của Phạm Quỳnh đều ánh ngời trong cặp mắt tinh ranh xảo quyệt ấy. Ông ít khi tự nhận là Nhà văn, mà chỉ thích người ta gọi là nhà Học giả, - chính ông tự gán cho ông cái danh hiệu là Clerc. – Tuy ông vẫn có nụ cười và giọng nói khiêm tốn, nhưng cái vẻ khiêm tốn giả tạo không sao che lấp được tư cách chân chính của ông, là tư cách của một kẻ giả dối và rất kiêu căng, muốn chưng bày cái phong độ của người “quân tử” theo “triết học Khổng giáo”.
*
Hôm chiều thứ bảy ấy, ông Phạm Quỳnh diễn thuyết bằng tiếng Pháp tại giảng đường Cao đẳng Đông Dương ở Hà Nội, đường Bobillot, sinh viên đến nghe rất đông. Ở từng dưới, là các dãy ghế danh dự, có ông Thống sứ Bắc Kỳ chủ tọa, với tất cả các nhân vật cao cấp Pháp Việt ở Hà Nội, đa số là Tây và Đầm. Còn chúng tôi là sinh viên thì chen nhau đứng chật bao lơn từng trên, - theo tiếng thông dụng các rạp hát lúc bấy giờ gọi là trên “chuồng gà” (poulailler). – tôi đứng với một đám nam sinh và nữ sinh trường Thuốc và Sư phạm, phía bên trái. Có một cô bạn cứ ho từng cơn, khiến chúng tôi rất bực mình.
Sau lời giới thiệu của viên Giám đốc Học Chánh Bắc Kỳ, ông Phạm Quỳnh từ phía sau giảng đường ung dung bước ra diễn đàn. Ông rất bình tĩnh, thong thả, bệ vệ.
Lúc bấy giờ không có Micro, nhưng Phạm Quỳnh cất tiếng nói rõ ràng, chững chạc, êm ái. Chúng tôi ở trên “chuồng gà” nghe rất rõ. Đứng nói mấy lời cảm ơn các quan khách, rồi ông thong thả ngồi xuống ghế, trước chiếc bàn gỗ gụ lớn, trải tấm khăn nhung xanh màu da trời.
Ông đủng đỉnh gỡ cặp kiếng trắng gọng bạc để xuống bàn, lấy cặp kiếng trắng gọng vàng đeo vào, và rút trong túi áo ra một xấp giấy đánh máy.
Ông cất tiếng nói. Ông không chúi mũi xuống giấy như nhiều diễn giả khác đọc như đọc bài văn tế. Ông cũng không nói lung tung lộn xộn như một số diễn giả khác không theo một dự thảo hoạch định trước. Ông đã viết sẵn bài thuyết trình, rồi theo đó mà nói, thỉnh thoảng mới ngó vào giấy, nói rất tự nhiên, rất lưu loát, văn hoa. Chúng tôi đứng trên chuồng gà im phăng phắc, nghe mê. Trừ cô bạn cứ ho sù sụ, làm át cả tiếng nói của diễn giả. Tất cả đều phục ông Phạm Quỳnh có tài hùng biện, hoạt bát, duyên dáng mà vẫn nghiêm nghị. Lần đầu tiên chúng tôi được nghe một người Việt Nam diễn thuyết trước công chúng tri thức Việt Pháp trên 500 người, bằng tiếng Pháp lưu thoát hấp dẫn như thế. Hôm ấy, ông Phạm Quỳnh đã gây được lòng khâm phục hoàn toàn của toàn thể thính giả Pháp và Việt.
Tôi ra về thỏa mãn. Từ đó về sau, cũng như hầu hết các bạn trẻ sinh viên, tôi đã đọc tất cả các sách của Phạm Quỳnh xuất bản. Tác phẩm của ông đều là những bài ông đã viết đăng trong Nam Phong, và gom góp in ra thành sách. Dù nghèo túng đến đâu, chúng tôi cũng rán để dành tiền mua sách của Phạm Quỳnh. Chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều trong các sách của ông. Chúng tôi cũng chịu ảnh hưởng nhiều trong lối hành văn và cách diễn đạt tư tưởng của bậc văn sĩ tài hoa ấy.
Bởi sách học trong nhà trường không dạy cho chúng tôi hiểu biết thêm mấy tí về các môn học thuật cao siêu của Đông Tây, nên chúng tôi đã noi theo gương của ông Phạm Quỳnh mà tìm cách tự học thêm với các sách cổ kim Âu Á. Nhận thấy ông Phạm Quỳnh đã trở nên nhà học giả hiểu rộng biết nhiều, tư tưởng và học thuật uyên thâm, nên bọn trẻ sinh viên của thế hệ chúng tôi đã say mê văn hóa, và theo vết chân của bậc tiền bối mà lo tự học, để làm giàu cho trí óc.
Về phương diện thuần túy học thuật và Văn hóa, chúng tôi đều biết ơn ông Phạm Quỳnh, cũng như ông Nguyễn Văn Vĩnh vậy.
*
Năm 1936, có dịp đi Huế, kẻ tiện sĩ này có đến thăm ông Phạm Quỳnh, Thượng Thư Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Nói đến yết kiến ông, nhưng sự thực là có mục đích hỏi ông tại sao ông lại sửa đổi chương trình giáo dục ở các lớp sơ học, làm đình trệ bước tiến của thế hệ thiếu niên mới.
Tôi đi lang thang vô thành nội, tìm đến cửa Hòa Bình. Tôi ái ngại bước vô cửa, gặp một người lính lệ, liền đưa danh thiếp. Chỉ e ông Thượng Thư kiêu hãnh không tiếp mình.
Nhưng ông cho mời vô. Ông mặc xa tanh đen, đeo thẻ ngà tòn ten trên ngực, chân vẫn mang đôi giày escarpin đen, mắt vẫn đeo đôi kính trắng gọng vàng. Và ông vẫn nói tiếng Pháp.
Nghe ông thuyết một hồi hâu, tôi có cảm tưởng rằng vị Học giả này làm Đại thần bên cạnh nhà Vua, hình như không muốn cho thanh niên Việt Nam học giỏi như ông. Ông công kích những người học giỏi, du học ở ngoại quốc về, như Nguyễn Mạnh Tường, Lê Văn Kim. Ông muốn có một nền Quốc học thu hẹp trong phạm vi Annam mà thôi. Ông muốn đem cái học Tống Nho, với mớ đạo lí Khổng Tử, Mạnh Tử, mà áp dụng theo môn học thuật đời nhà Tống, để đào tạo một lớp Tống Nho Việt Nam, dung hòa với một ít học thuyết Descartes… Ông muốn kéo thanh niên trí thức Việt Nam giật lùi lại vài ba thế kỉ, không cần tiến lên theo trào lưu Văn hóa Âu châu. Tôi hoàn toàn không đồng ý với ông về chủ trương phản tiến bộ ấy.
Tuy vậy, khi tôi nghe Phạm Quỳnh bị giết ở Huế, tôi thật bùi ngùi cho số phận của con người tài ba lỗi lạc. Tôi quen nhiều với người rể của ông là Tôn Thất Bình, chủ bút báo La Patrie Annamite và giáo sư trường Thăng Long. Tôi quen biết con trai của ông là Phạm Bích, cử nhân luật, năm 1948 khi ông làm Bí thư của Bảo Đại, ở Đà Lạt. Hai người này đáng mến, mặc dầu không biết tí gì về Văn học cả, nhưng người con trai khác của ông là Phạm Giao thì chỉ là một tay ăn chơi không được tích sự gì.
Phạm Quỳnh chính là đúng vao câu châm ngôn “Cha làm thầy mà con bán sách”.
Nếu ông Phạm Quỳnh đừng xen vào chính trị, đừng hãnh diện làm kẻ tôi tớ của chính sách thuộc địa Pháp, nếu Phạm Quỳnh đem hết trí thông minh lớn lao và tài văn nghệ rất hoạt bát của ông để phụng sự hoàn toàn cho Văn học Việt Nam, thì chắc là ông đã để lại một sự nghiệp Văn Hóa vĩ đại vô kể, và thanh danh của ông đâu còn bị một vết nhơ?
Thật đáng tiếc thay!
So sánh Nguyễn Văn Vĩnh với Phạm Quỳnh
Giới trí thức Hà Nội Tiền Chiến thường so sánh hai nhân vật này, vì họ hoàn toàn trái ngược nhau. Trên bình diện chính trị, ông Phạm Quỳnh chủ trương Bảo Hoàng, yêu cầu chính phủ thuộc địa áp dụng đúng đắn Hiệp ước Patenôtre (1884), trao trả quyền hành chánh cho Bảo Đại ở cả Trung và Bắc Kì, theo một hiến pháp do Phạm Quỳnh soạn thảo, và được các báo Pháp đương thời gọi là “Constituion PhamQuynh”.
Nguyễn Văn Vĩnh, trái lại, đòi thực hành cho Trung Bắc Kì một chính sách mà ông gọi là Administration Directe (trực trị), nghĩa là dẹp bỏ ngôi Vua, để Pháp trực tiếp cai trị với sự tham gia hành chánh trực tiếp của nhân dân do Thượng, Hạ Nghị Viện của Nhân dân bầu cử.
Dĩ nhiên, người Pháp theo Phạm Quỳnh.
Cuộc “Bắc tuần” ra Hà Nội của Bảo Đại và, kế sau đó vài năm, của Nam Phương Hoàng hậu, đồng thời sự ban chức rất lố bịch cho viên Thống Sứ Pháp làm [“Khâm sai Đại thần”,] đại diện uy quyền Bảo Đại ở Bắc Kì, chính là để khởi điểm cho chính sách Bảo hoàng của Phạm Quỳnh.
Chủ trương “Trực trị” của Nguyễn Văn Vĩnh bị Phạm Quỳnh đả kích kịch liệt trong các bài xã thuyết của ông đăng trong nhật báo Pháp France-Indochine ở Hà Nội. Để “an ủi” Nguyễn Văn Vĩnh, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút báo L’annam Nouveau, Chính phủ Pháp tặng ông Bắc Đẩu Bội Tinh (Légion D’Honneur) là huy chương cao quý nhất của Pháp, nhưng ông Vĩnh không nhận.
Vụ huy chương này hoàn toàn giữ kín, dư luận dân chúng không hay biết gì, nhưng các giới trí thức và cách mạng ở Hà Nội đều biết rõ, và sự khí khái của ông Nguyễn Văn Vĩnh cương quyết từ khước “Légion D’Honneur” của Pháp, được các giới ấy, nhất là giới trí thức thanh niên nhiệt liệt hoan nghênh.
Uy tín của Nguyễn Văn Vĩnh càng được tăng cao từ vụ này.
Về phương diện thuần túy Văn học, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh cũng hoàn toàn trái ngược nhau.
Nam Phong Tạp chí, nguyên là do tiền trợ cấp của Chính phủ thuộc địa Pháp, và người sáng lập là Giám đốc Chánh trị vụ của Phủ Toàn quyền Đông Dương, tức cũng như Tổng Giám đốc Mật thám Phủ Toàn quyền.
Phạm Quỳnh có một lối văn Hàn lâm (style académique) rất văn hoa, nhưng chững chạc, nghiêm nghị, bệ vệ, văn Pháp cũng như văn Việt, khác hẳn lối văn giản dị thiết thực hoàn toàn bình dân của Nguyễn Văn Vĩnh, văn Pháp cũng như văn Việt của ông Chủ nhiệm L’annam Nouveau và cựu Chủ bút Trung Bắc Tân văn, Đông Dương Tạp chí, thật là lưu loát, và thường châm biếm, đúng với truyền thống hài hước, của tinh thần dân tộc Việt Nam. Văn Phạm Quỳnh có rất ít điểm hài hước hóm hỉnh đó.
Thanh niên Tiền chiến ưa tìm học hỏi nơi tri thức uyên thâm và văn chương hao mĩ của Phạm Quỳnh, gác ngoài lập trường chính trị của ông, cũng như họ thích những kinh nghiệm về Văn hóa tổng hợp, khoáng đạt, cởi mở, bình dân của Nguyễn Văn Vĩnh.
Cho đến nếp sống cá nhân, gia đình, xã hội của hai người cũng cách biệt nhau xa.
Phạm Quỳnh đeo kính trắng gọng vàng, ngồi chiếc xe kéo nhà quí phái, đi đứng thong dong, nói cười mực thước, chỉ giao thiệp với hạng thượng lưu, vì vậy mà các giới thanh niên trí thức Hà Nội gọi ông là “Kính trắng Tiên sinh” và “Học phiệt”.
Trái lại, Nguyễn Văn Vĩnh thích mặc sơ mi, quần “short”, cỡi xe môtô, giao du với đủ các giới, nói to, cười lớn, ưa đánh tổ tôm, săn bắn và có óc phiêu lưu.
Ông Vĩnh có hai vợ, một bà Bắc, một bà Đầm lai, cả hai đều phải lo giúp đỡ ông, và gia đình ông tuy thuộc về giới thượng lưu nhưng luôn luôn túng thiếu.
Công việc kinh doanh của ông về sách báo, xuất bản, rất là rộng lớn mà phương diện tài chánh lại không được dồi dào.
Phạm Quỳnh, trái lại, được sung túc, ra vẻ danh gia thế phiệt, đại trưởng giả.
Kết cuộc số phận, hai ông đều là nạn nhân của hai thái cực: Phạm Quỳnh ra làm quan, lên bực Đại thần được tín dụng bên cạnh ngai vàng, quyền cao chức cả tột bực, để rồi, sau cùng, bị thủ tiêu vô cùng thê thảm, như một tên Việt gian khốn nạn.
Nguyễn Văn Vĩnh bị phá sản, vì sự nghiệp Văn chương rủ một người bạn Pháp, cũng có óc phiêu lưu văn nghệ như ông, đi qua Lào để tìm mỏ vàng! Sau cùng, ông chết ở Lào vì bệnh sốt rét rừng, xa Quê hương, gia đình, bạn hữu, như một “bô hê miên” bất cần định mạng.
1937. Đọc được 7 trang trong quyển “Lục Xì”, tôi vứt sách xuống đất, bảo anh Minh Phụng, nhà xuất bản, ở ngõ Văn Tân, phố Hàng Đẫy:
- Sao lại có cái thứ văn bẩn thỉu thế này?
Minh Phụng cười:
- Anh đã đọc hết quyển sách chưa?
- Đọc bảy trang cũng như đọc hết rồi.
- Thế là anh lầm! Sách khác đọc 7 trang có thể nói là học hết; chứ sách của Vũ Trọng Phụng, đọc hết quyển sách chưa chắc là đã đọc được trang nào! Huống chi anh mới đọc có 7 trang!
Minh Phụng vừa pha xong trà “Chính thái” vào chén nhỏ, mời tôi. Hơi bay lên, mùi trà thơm phức. Hôm ấy là ngày giỗ Bà Cụ thân mẫu của anh Minh Phụng. Cúng xong, anh bưng đỉnh trầm để trên bàn khách. Tôi ngạc nhiên sao khách không có ai nữa mà chỉ có một mình tôi. Nhà xuất bản rung đùi, cất tiếng ồ ồ ngâm Kiều:
- “Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình!...”
Tôi cắt ngang:
- Giờ phút này, ngồi với anh, tôi khẳng nhớ và cũng chẳng có tình tự với ma nào cả!
Sự thật thì hôm ấy tôi có nhiều chuyện buồn, cực chẳng đã anh Minh Phụng từ chiều hôm trước, đã bảo tôi sáng nay đến dùng cơm với anh thì tôi mới đi.
Tôi lặng lẽ đưa mũi giày đá luôn quyển Lục Xì vào trong xó tường. Quyển sách mới xuất bản, hãy còn mới tinh nằm xác xơ bên chân tủ.
Nhà xuất bản Minh Phụng là một nạn nhân. Anh cười:
- Hôm nay, tôi chỉ mời có hai người bạn tôi quý nhất, nhưng có lẽ hai anh chưa quen với nhau.
- Ai thế anh?
- Vũ Trọng Phụng, tác giả quyển sách vừa được hân hạnh nếm cái mùi đôi giày há mồm của anh đó. Hình như anh chưa gặp Phụng lần nào, phải không?
- Chưa.
- Tôi biết thế nên muốn nhân dịp hôm nay có kị cơm bà Cụ tôi, và quyển Lục Xì của anh Phụng ra đời, tôi giới thiệu anh và Vũ Trọng Phụng để xem hai người bạn khó tính nhất trong làng Văn, và lại là hai người bạn quí mến nhất của Minh Phụng, sẽ đón tiếp nhau như thế nào.
Tôi biết Minh Phụng thích khôi hài. Người anh cao ngòng, như chàng Double-Patte trong màn ảnh. Hai con mắt ốc bươu. Mỗi lần anh ngó tôi là tôi có cảm tưởng như anh sắp nuốt sống tôi trong hai con ốc bươu ấy vậy. Anh ngồi nhìn quyển sách của Vũ Trọng Phụng, do anh xuất bản, vừa mới in xong, và anh lấy về quyển đầu tiên, không dè bị tôi đá lăn cù vô xó nhà. Anh tủm tỉm cười:
- Tôi sẽ ghi trong quyển nhật kí của tôi câu chuyện xảy ra hôm nay về quyển Lục Xì để sau làm giai thoại.
Rồi anh ngó đồng hồ:
- Phụng cứ hay đến trễ, mỗi khi tôi mời ăn cơm. Tôi mời đúng 11 giờ, thì 11 giờ 30 hắn mới đến. Còn hễ khi nào hắn đòi tiền bản quyền sách, tôi hẹn đúng 11 giờ thì chín giờ hắn đã lót tót đến rồi.
Minh Phụng cười ngó tôi:
- Anh cũng thế chứ gì! Hôm nọ về tiền bản quyền Đứa con hoang, tôi hẹn anh 6 giờ chiều, 2 giờ anh đã dời gót ngọc đến gõ cửa tệ xá. Làm tôi đang ngủ trưa, phải bò dậy để đi chạy tiền trả cho anh!
- Đồng hồ của tôi lúc ấy là 6 giờ!... Tôi cười bảo:
- Thôi đi bố ơi! Đồng hồ của các bố nhà văn sao mà khôn thế? Của người ta 2 giờ, mà đồng hồ nào của các bố cũng là 6 giờ tất. Bố, hay Bố Phụng, Bố Trương Tửu, đều thế cả!
Chúng tôi cười hà hà. Ngoài sân, một chàng xô cổng sắt đi vào. Chàng mặc áo quần cũ mèm cũng như tôi, tóc chải rẽ một bên, người dong dỏng cao và gầy, mặt hình chữ nhật, hốc hác, trông tiều tụy.
- Bác định cho tôi ăn cơm trưa nay phải không?
- Vâng, hôm qua con đã mời bố ạ!
- Bác bảo với tôi là mấy giờ?
- 11 giờ. Bây giờ là 12 giờ.
- Mình đã lỡ hẹn với Lê Cường là 11 giờ mình đến lấy món tiền…
- Đã lấy chưa?
- “Moa” đến từ 9 giờ, hắn đi vắng thế nào mà mãi đến 11 giờ chưa về!
- Thì chiều hãy đến Lê Cường vậy! Thôi, mời bố ngồi đây… Bố có biết ai đây không?
Tôi đứng dậy bắt tay chàng và tự giới thiệu. Chàng nhã nhặn xưng tên:
- Thằng Vũ Trọng Phụng đây!
Chàng nói mà không cười, Vũ Trọng Phụng nghèo thì ai cũng biết, nhưng có ai biết là anh nghèo cả nụ cười không?
Minh Phượng bảo:
- Quyển Lục Xì đã in xong. “Moa” có lấy vế một quyển để “toa” xem,
- Đâu?
Minh Phượng quay ngó xó tường tít đằng xa:
- Đấy!
- Sao nó nằm đấy?
- Vỹ vừa mới bảo Văn chương Lục Xì bẩn hơn cái mũi giày há mồm của hắn. Hắn cho sách câu vào nằm đấy đấy.
Vũ Trọng Phụng điềm nhiên ngó tôi:
- Anh Vỹ nói thế thì tôi phục. Hôm nọ, tôi đưa bản thảo cho Lan Khai đọc, nó chỉ biết khen nịnh tôi, là hay, là kiệt tác. Tôi bảo với Lan Khai là hắn không biết thưởng thức Lục Xì. Bảo như Nguyễn Vỹ, là văn chương Lục Xì bẩn, thế mới là biết thưởng thức Lục Xì. Thằng Phụng viết Lục Xì để tả cái bẩn, mà đứa nào bảo Lục Xì thơm thì đứa ấy ngốc. Thế là nó chửi ngòi bút của tôi đấy. Tôi tả cái bẩn mà anh ghê tởm được cái bẩn ấy, thế mới là anh nhận chân được cái giá trị văn chương của Lục Xì.
- Tôi mới đọc có 7 trang…
- Cái xã hội này bẩn quá, Vỹ ơi! Tôi biết đem những cái bẩn đó mà dồn vào một trăm trang sách thì chưa hết được cái bẩn của xã hội hiện giờ. Nhưng với tụi mình, 7 trang như thế cũng đủ chán. Anh không cần đọc thêm nữa.
Vũ Trọng Phụng đứng dậy đi lượm quyển sách trong xó nhà. Anh hỏi Minh Phượng:
- Quyển này là quyển đầu tiên trong nhà in bác lấy ra đấy chứ?
- Vâng.
- Để tôi biên mấy chữ tặng anh Nguyễn Vỹ hôm nay. Anh cho tôi quyển khác.
*
Hai giờ chiều ra về, Phụng bảo tôi:
- Hôm nào rỗi, anh đến nhà tôi chơi.
Gần hai tháng sau, tôi mới có dịp đến thăm anh. Một căn nhà chật hẹp ở phố Hàng Bạc. Anh ở trên gác, gác còn thật hẹp hơn. Tôi leo lên cầu thang gỗ, một cửa sổ vuông có dựng song, để lọt vào một vài thước khối ánh sáng vàng khè. Phụng đang ngồi viết nơi chiếc bàn con, trên bàn để các thứ đồ dùng: một cây đèn với một cái bóng đầy khói chụp lên một đốm lửa xanh gần như hấp hối, bát, đũa, vài ba lọ thuốc Tây, thuốc Tàu, bình mực, giấy, bút, hộp đồ may, cái áo trẻ con, một trái bưởi…
Tôi ngồi trên ghế dài, mở nắp bình tích tự rót nước vối ra li để uống, khỏi làm rộn đến chị Phụng. Chị sắp sửa đi đâu với đứa con nhỏ. Phụng hỏi tôi:
- Anh có con chưa, anh Vỹ?
- Tôi là con của tôi rồi, còn có con làm gì nữa?
- Thế thì anh sướng. Tết Trung Thu sắp đến đây, anh khỏi phải sắm cái đèn con cá cho anh.
- Con của anh chưa có đèn Trung Thu à?
Phụng chỉ đưa tờ giấy đang viết dở trên bàn:
- Tôi viết bài này định đem cho Tiểu thuyết thứ bảy để lấy tiền mua đèn con cá cho con tôi. Có con phải nuôi con, thế là thường, nhưng có con lại còn phải sắm đèn con cá cho nó chơi, nếu không, Tết Trung Thu này tôi không phải là cha của nó nữa! Anh nghĩ thế có buồn không?
- Nó đòi cái đèn con cá hả?
- Nó không đòi. Con tôi chẳng bao giờ biết đòi tôi cái gì cả. Ấy thế mình mới đau lòng! Anh nghĩ xem. Chung quanh hàng phố, tất cả con nít nhà người ta đều đã có đèn chơi Trung Thu. Duy chỉ con mình là không có. Cả ngày nó cứ ngắm nghía thèm thuồng các thứ đèn giấy của lũ con trong hàng phố được cha mẹ của chúng mua sắm cho. Nó mơ ước được một cái đèn như thế, để chơi như con người ta. Nó muốn quá cho đến đỗi nó buồn bã không chịu ăn cơm. Mẹ nó hỏi nó: “Con thích chơi cái đèn gì?”. Nó vui mừng trả lời ngay: “Con thích cái đèn con cá”. Tội nghiệp cho nó, nó tưởng nó thích thế thì mẹ nó đi mua cho nó chơi. Nhưng mẹ nó làm gí có tiền! Không có tiền mua một con cá thật để ăn thì nó ăn rau với đậu phụ được, chứ một con cá bằng giấy mà cũng không có tiền để mua cho nó chơi, thì nó biết chơi cái gì trong ngày Tết Trung Thu với trẻ con hàng phố? Anh xem, có tội nghiệp cho nó không!
- Hôm nay chị Phụng dắt cháu đi mua đèn con cá phải không?
- Nếu thế thì tội gì tôi phải ngồi viết mấy trang giấy này! Tôi ốm mấy hôm nay, anh Vỹ à. Nếu anh đến lúc nãy thì anh đã thấy tôi sốt rét nằm li bì trên ván ngựa, chắc là không thể ngồi dậy để tiếp anh. nhưng chỉ còn hai ngày nữa là Tết Trung Thu, tôi thấy con tôi muốn cái đèn con cá chơi đáng giá năm hào chỉ, chứ có nhiều nhõi gì mà chúng tôi không có tiền để mua cho con chơi. Trông thấy nó buồn bã, thèm muốn cái đồ chơi ấy quá mà không dám đòi, tôi phải gượng ngồi dậy viết một bài này để lấy tiền mua cho con cái đèn con cá.
- Anh viết xong chưa?
- Vợ tôi không cho tôi viết. Nó dắt thằng nhỏ đến nhà bà chị họ ở phố hàng Cau để vay tiền… Nhưng tôi biết là không vay được, vì gia đình nhà ấy không ưa tôi.
- Thôi anh nằm nghỉ. Khỏe rồi hãy viết.
- Nếu tôi nằm xuống là chắc chắn không dậy được nữa.
- Anh nằm xuống, đọc tôi viết cho. Anh đã viết được mấy trang? Còn mấy trang nữa?
- Cảm ơn anh. Nhưng tôi không thể đọc được.
Tôi rờ tay Vũ Trọng Phụng. Nóng như lửa. Nhưng anh can đảm đứng dậy, lấy hai viên prémaline uống một lúc. Tôi ra về để cho anh viết.
Đêm Trung Thu tôi trở lại thăm Vũ Trọng Phụng. Trước cửa nhà anh, một đoàn nhi đồng vui vẻ kéo đi diễu chơi qua phố, mỗi em cầm một cái đèn giấy. Thằng con của Vũ Trọng Phụng cầm cái đèn con cá, đi hàng đầu. Nó giơ cái đèn lên thật cao, miệng cười hí hớn. Bên cạnh nó có hai đứa bé vừa đi vừa đánh trống theo sau con lân nho nhỏ, múa qua múa lại thật là cuộc vui náo nức của các em.
Tôi lên trên gác. Vũ Trọng Phụng đang nằm trùm mền, người anh nóng ran, có đến 39 độ. Chị Phụng đã chạy đi mua thuốc chưa về.
*
1938. Nhờ một người bà con giúp vốn, chị Phụng mở một cửa hàng nho nhỏ, bán sách báo ở đầu phố hàng Nón. Tôi không gặp Vũ Trọng Phụng lúc này, nhưng có lẽ dạo ấy anh đỡ khổ.
Phụng ít có bạn bè. Anh thường chơi với Nguyễn Triệu Luật, Vũ Bằng, Lan Khai, nhất là Lan Khai. Thỉnh thoảng tôi gặp anh với Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư. Anh không ưa các nhà văn nhóm Phong Hóa. Anh ghét nhất Thế Lữ và Nguyễn Tường Tam, nhưng có cảm tình với Khái Hưng.
Anh nói chuyện khẳng khái, lại ưa mỉa mai chua chát. Thỉnh thoảng, anh thích nói khôi hài, nhưng tôi chưa thấy Phụng cười lần nào. Một hôm 10 giờ sáng, anh đến nhà Minh Phượng đòi tiền bản quyền sách mà nhà xuất bản còn thiếu anh. Minh Phượng đã khất với anh ba bốn lần rồi. Lần sau cùng, anh đến gặp bà vợ Minh Phượng, Minh Phượng đi vắng, bà bảo anh đi chơi một lúc rồi độ 11 giờ trở lại. Anh tức mình viết mấy chữ trên miếng giấy để lại cho Minh Phượng:
“Tôi đến mấy lần, vợ anh đều cho tôi đi chơi”.
“Vợ anh cho tôi đi chơi”, là Phụng nói theo tiếng Pháp “Votre femme m’envoie prommener” nhưng theo lối nói mánh lới của tiếng Việt thì chữ “chơi” có nghĩa tục.
Minh Phượng đưa giấy ấy cho tôi xem, mặt anh đỏ gay, anh bảo:
- Vũ Trọng Phụng đểu giả thật!
Tôi cười:
- Tại vợ anh… cho hắn đi chơi, chứ đâu phải tại hắn.
Đám ma Vũ Trọng Phụng
1939. - Tôi đi lang thang dọc theo bờ Hồ Hoàn Kiếm. Bóng tối phớt qua chầm chậm dưới bóng rặng dương liễu buông rũ mành tơ trên mặt nước. Tâm hồn tôi cũng chầm chậm phớt qua như con chim xanh kia, trên mấy ngọn lá vương mây. Nhưng con chim đã hót lên một bài thơ ấm áp mà tâm hồn tôi sáng hôm nay không hát được một bài thơ.
Trời vẫn đẹp. Hà Nội buổi mai khoác một chiếc áo nắng màu hồng, như chiếc áo cưới Sớm mai nào tôi cũng yêu Hà Nội duyên dáng khoác chiếc áo cưới hoa lệ của nàng. Tôi yêu Hà Nội, nàng thơ lãnh đạm kiêu căng của tuổi niên hoa. Nhưng sáng nay tôi ghét Hà Nội vô cùng. Tôi lánh xa trong bóng liễu, vì tôi không muốn nàng khoác chiếc áo tơ hồng trơ trẽn trên tôi. Tâm hồn tôi u ám lạ! Tôi ngồi xuống gốc liễu.
*
- Kìa! Đứa nào ngồi kia phải hắn không?
Tôi nghe tiếng Lưu Trọng Lư rủ rỉ như tiếng gió:
- Vỹ ơi!
Chuyến tàu điện ở Cầu Gỗ hình như sắp chạy. Nguyễn Nhược Pháp trên tàu nhảy vọt xuống, băng qua đường ra đến cây liễu, nắm tay tôi, kéo tôi đứng dậy. Tôi không sao quên được nụ cười ảm đạm trên môi anh. Không nói năng một tiếng, tác giả bài thơ “Đi Chùa Hương” đưa tôi lên tàu điện. Đi đâu? Bốn người đã ngồi trên ghế, riêng một bên, có lẽ đã hẹn nhau từ hôm qua, như một âm mưu của im lặng. Lưu Trọng Lư, nét mặt xương xương, đôi mắt đục ngầu, áo quần màu xám không ủi. Lan Khai ủ rũ với cặp kiếng cận thị, hai má trắng bệch như vôi. Trương Tửu mắt đỏ, tai đỏ, tóc như chiếc bàn chải muốn quét một bóng mây đen trên vòm trán của chàng. Mộng Sơn với một con mắt có vảy, môi không son, má không phấn, mặc áo đen quần đen. Nàng đưa nét mặt buồn tuyệt đẹp, ngó tôi, nói rất nhỏ:
- Anh đã hay tin… Vũ Trọng Phụng chưa?
Tôi không muốn trả lời, ngồi xuống cạnh nàng. Nhược Pháp ngồi cạnh Lan Khai.
Từ một tuần lễ, tôi đã biết Vũ Trọng Phụng đau nặng, chỉ chờ chết. Tôi không muốn đến thăm, vì tính tôi như thế. Trông thấy cảnh tượng đau đớn, tôi chịu không được. Tôi nhìn những đau khổ riêng của tôi, rất bình tĩnh, lạnh lùng, nhưng tôi không có can đảm chứng kiến đau khổ của một người khác. Trông thấy bộ mặt âm thầm lặng lẽ của bốn người bạn này, tôi không cần trả lời câu hỏi bùi ngùi của Mộng Sơn. Tôi cúi mặt xuống, châm điếu thuốc hút. Hai dòng nước mắt tự nhiên chảy xuống đôi má tôi, rớt xuống hai giọt làm tắt điếu thuốc tôi đang cầm nơi tay. Cả năm người đều không nói.
*
Một chuyến tàu tên là Im lặng…
Tàu điện chạy qua hàng Gai… Hàng Bông. Đến vườn hoa Cửa Nam, nó đỗ một phút. Nguyễn Tuân bước lên với một nụ cười. Chỉ có một Nguyễn Tuân cười mà thôi, nhưng nụ cười “Vang bóng một thời”, xa xăm từ vạn cổ. Tuân ngồi cạnh Nguyễn Nhược Pháp, với vẻ trịnh trọng, không cười nữa.
Tôi không nhớ ai hỏi:
- Ai làm bài điếu văn bây giờ nhỉ?
Tôi cũng không nhớ ai trả lời. Một người trả lời, và tất cả đều gật đầu đồng ý. Tôi vẫn làm thinh.
Sáng nay, đi lang thang dưới bóng liễu, tôi có cái buồn riêng, chứ chưa biết là Vụ Trọng Phụng đã chết ngày hôm qua. Bây giờ anh em rủ nhau đi chuyến tàu điện buổi sáng sớm này, tôi mới biết là chúng tôi đi đưa đám ma. Nhưng ngồi trên tàu điện mà bảo tôi làm bài điếu văn, thay mặt mấy anh em bạn thân của Vũ Trọng Phụng, để chốc nữa, 8 giờ, đọc cho Phụng nghe dưới huyệt mả, thì thật là…
Tôi bảo:
- Đến giờ phút này, các cậu mới sai tôi viết bài điếu văn khóc Vũ Trọng Phụng?
Nguyễn Tuân còn trào phúng lố lăng:
- Tàu đến croisement Thái Hà ấp, cho thằng Vỹ xuống để nó lên Gò Đống Đa ngồi viết, cho kịp chuyến tàu sau nó lên, thì quan tai của thằng Phụng cũng vừa đến nghĩa địa, không trễ đâu, tụi bây.
Lan Khai bảo:
- Ngồi ngay trên tàu này viết không được sao?
Nguyễn Nhược Pháp cười tủm tỉm, nụ cười mím môi bất hủ của chàng. Anh móc cây bút máy trên túi áo đưa tôi:
- Đây viết đi, cậu.
Lưu Trọng Lư hỏi:
- Đứa nào có miếng giấy lộn nào đó không, đưa cho nó, chứ nó viết bằng gì?
Lan Khai thò tay vào túi áo, móc ra bốn tấm giấy nhầu nát trao tôi: đây là hai mảnh giấy của một bà nào đó gởi đòi nợ anh, một mảnh thứ ba không biết anh làm bài toán gì mà viết dày đặc những bài toán cộng, toán trừ, có lẽ là tính tiền nhà, tiền cơm, còn mảnh giấy thứ tư là bức thư của một cô tình nhân gửi cho chàng hôm chủ nhật trước.
Tôi khẽ đập đầu cán bút vào hai răng cửa của tôi, kêu “cóc, cóc, cóc”… Mộng Sơn mỉm cười quay lưng lại tôi.
- Để tôi cho mượn cái lưng làm mặt bàn.
Tôi đặt tờ giấy trên lưng nàng, nguệch ngoạc mấy câu trong lúc tàu đang chạy rầm rầm:
“Vũ Trọng Phụng ơi!”
Tàu chạy đảo qua đảo lại nghiến trên đường rầy. Cái lưng mặc áo hàng đen của Mộng Sơn lắc lại lắc qua. Nàng thơ cố gắng ngồi thẳng lưng, tôi bảo:
- Khòm xuống một tí…
Cái lưng khòm xuống một tí. Tôi viết tiếp:
“Chúng tôi, những nhà văn đứng xúm quanh huyệt mả của anh đây, - chúng tôi thề rằng linh hồn của anh…”
*
Đám ma của Vũ Trọng Phụng lặng lẽ đi vào nghĩa địa, ở giữa quãng đường tàu điện Hà Nội – Hà Đông. Vài hạt sương còn long lanh trong lòng cỏ hai bên vỉa đường. Tàu điện vừa đỗ, Lưu Trọng Lư muốn giựt bốn tờ giấy trong tay tôi vừa viết xong.
Cả nhóm đều dừng bước, để xem bài văn tế…
Nguyễn Tuân hỏi:
- Cậu viết xong chưa?
Tôi nhét bốn tờ giấy vào túi:
- Tao không cho đứa nào coi cả. Tao viết cho Vũ Trọng Phụng, một mình Vũ Trọng Phụng sẽ nghe trước mà thôi.
Lưu Trọng Lư bảo:
- Mày xoàng lắm, tàu chạy gần 10 cây số, mà mày mới viết được bốn trang?
Chúng tôi im lặng, không đùa được nữa. Sắp hàng hai, chúng tôi bước chậm chạp theo sau đám ma vào nghĩa địa. Đi sát cạnh quan tài, chị Phụng khóc nức nở. Mấy đứa con của Phụng, còn nhỏ quá, mặc đồ tang đi theo sau, khóc sướt mướt. Tim tôi rỉ rả, âm thầm, chậm chạp, như đám ma đi trong ấy.
Quan tài hạ huyệt, Nguyễn Tuân khẽ đẩy tôi ra để thay mặt anh em làng Văn, đọc bài vĩnh biệt.
Lần đầu tiên tôi nghe Nguyễn Tuân khóc. Anh khóc như người ta hút thuốc phiện, từng cơn, chậm rãi, đều đều…
Lưu Trọng Lư cũng thút thít bên cạnh tôi, làm tôi đọc không được. Tôi quay lại khẽ bảo:
- Yên, cho tôi đọc chứ!
Tôi chỉ nói ấm ức mấy tiếng nữa rồi nghẹn ngào. Nước mắt trào ra. Ông Vũ Đình Long, chủ nhiệm [“Tiểu thuyết thứ bảy”] lấy xấp giấy của tôi, đọc tiếp ba trang chót…
Vũ Trọng Phụng chết đêm thứ sau 13-10-1939.
Trang đầu bài điếu văn:
“Vũ Trọng Phụng ơi!
Chúng tôi, tất cả những nhà văn đứng xúm quanh mả anh đây, chúng tôi thề rằng Linh hồn của Vũ Trọng Phụng và Linh hồn của các bạn đã qua đời, Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn Văn Vĩnh… sẽ được tôn sùng xứng đáng.
Thế hệ các Văn nhân còn sống sót lại đây sẽ tạc cho các anh một pho tượng.
Chúng tôi sẽ lập tên, để thờ các anh, một ngôi đền.
Chúng tôi sẽ gây lên một phong trào cho Quốc dân được biết, và yêu, và kính trọng tất cả những người thợ có chân tài đã đắp một viên gạch xây nền Văn học Quốc gia…
…
Nguyên văn bài này. Ông Vũ Đình Long có đăng lại đầy đủ trong Tạp chí Tao Đàn của ông, số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng, số 14 trang 11, 1939.
Câu đối của Tchya khóc Vũ Trọng Phụng:
“Trời hỡi! Ông sao ác quá chi, nặng nghiệp văn nhân, chết vẫn ngậm hờn chưa đạt chí,
Phụng ơi! Anh nỡ lòng bay vội mấy, đau lòng mặc hữu, sống còn sợ nỗi khó an thân”.
Câu đối của Lan Khai chép trong nhật kí:
“Thằng Phụng chết rồi, đau nhé Lan Khai, ngồi nhớ bạn, xem hình, lòng mủi lệ!
Bọn mình sống sót, nói như Nguyễn Vỹ, muốn lập đền, xây tượng, túi không xu!”
Tác phẩm Vũ Trọng Phụng
Văn chương của Vũ Trọng Phụng phản ánh đặc biệt nếp sống và ngôn ngữ bình dân miền Bắc, lối ngôn ngữ trào lộng, mỉa mai, lúc tế nhị thì thật tế nhị, nhưng khi chát chúa thì không gì chát chúa bằng.
Con người Vũ Trọng Phụng không thể viết lối văn nào khác được. Nét mặt xương xương, đôi mắt sáng quắc, nhưng đôi môi khô khan ít khi nở được một nụ cười vui tươi chân thật. Có cười chăng, cũng chỉ là một nét cười mỉa mai chua chát.
Đôi khi cũng là một nụ cười cay cú. Cả trong những buổi tiệc mà ai nấy đều vui vẻ, Vũ Trọng Phụng vẫn trầm ngâm, ít thông cảm, không cởi mở. Cho nên anh ít chơi thân với ai, trừ Nguyễn Triệu Luật (anh này từ điệu bộ đến ngôn ngữ, giống na ná anh Lê Ngọc Trụ ở Sài Gòn) và Lan Khai, Vũ Bằng. Hôm Phụng chết, Lan Khai xúc động, sẵn bút máy, đứng vẽ chân dung tác giả “Số đỏ” nằm trên giường chết. Nét vẽ đó rất giống Vũ Trọng Phụng.
Nhà văn của giới dân nghèo, dân thợ, Phụng lại không ưa làm chính trị và không thích giao thiệp với nhóm nhà báo Cộng sản, như Chất, Kính, Trần Huy Liệu. Anh phê bình mấy người đó là “đầu cơ dân nghèo”. Một hôm trong tòa soạn báo [Tương lai] của Nguyễn Triệu Luật, Chất đi đâu ghé vào chơi, và trong một câu chuyện về thời sự, anh nhà báo Cộng sản này phê bình Phan Bội Châu là Phản Bội Châu, và chưởi cụ Phan thậm tệ. Vũ Trọng Phụng ngồi im, chỉ hút thuốc lào. Một lúc, anh đứng dậy ra đi, bắt tay mọi người, không thèm bắt tay Chất. Cậu này mắc cỡ, gọi Phụng lại và đưa tay ra, nhưng Phụng bảo:
- Cậu đưa tay lên tát cái mồm cậu ba tát, rồi thằng Phụng sẽ bắt tay cậu.
Nói xong, Vũ Trọng Phụng điềm nhiên bước ra cửa.
Vũ Trọng Phụng kể lại cho tôi nghe vụ đó một hôm ăn tiệc tại Nhà Xuất bản Minh Phượng.
Văn của Vũ Trọng Phụng không màu mè, hoa mĩ như văn của Lan Khai. Phụng viết rất giản dị, rất bình dân nhưng vô cùng thấm thía. Đọc nhiều trang tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, tôi có cảm tưởng như đọc Jack London. Trong lúc nói chuyện, Lan Khai thường nhắc lại một vài đoạn văn của “thằng Vũ Trọng Phụng”, và cười ồ ồ lên, để tỏ ý phục cái giọng văn bao biếm thấm thía của tác giả “Lục Xì”.
Vũ Trọng Phụng chết, chúng tôi thấy một trống rỗng lớn trong làng văn Việt Nam ở những ngày tàn của thời đại Tiền Chiến… Không khí chiến tranh đã bao trùm đất Thăng Long, “nghìn năm văn vật”…
Chương I
Lê Văn Trương
(1906-1964)
Mười một giờ đêm. Cả dãy phố cuối đường Khâm Thiên, gần Ô Chợ Dừa, đã đóng cửa hết. Trên gác trọ tiệm buôn nước mắm cạnh tiệm giặt ủi và trường học Thanh Niên, tôi cũng vừa tắt đèn, lên giường nằm. Bỗng có tiếng từ dưới đường gọi vọng lên, rất to:
- Vỹ ơi! Vỹ!
Tôi làm thinh, lắng nghe xem tiếng của ai. Gọi như thế, hẳn là người bạn thân lắm, mà trong đám bạn thân có ai kém lịch sự đến thế?
- Vỹ ơi! Vỹ!
Rồi lại liên tiếp:
- Vỹ!... Vỹ ơi!... Vỹ!
Tiếng gọi thật to, vang động cả dãy phố. Tôi đã ngồi dậy định ra mở cửa ngó xuống đường xem ai, thì kế tiếp vang lên một loạt văn chương chửi thề:
- D… mẹ mày, sao hôm nay mày ngủ sớm thế, hả Vỹ?... Vỹ!... Vỹ ơi! Dậy đi hát ả đào với tụi tao mày!
Thôi, đích thị là Lê Văn Trương rồi! Cái giọng chửi thề oang oác lên như thế, chẳng sợ ai cười, bất chấp cả phép lịch sự đối với bạn bè, và đối với người thiên hạ, không đếm xỉa đến hàng xóm láng giềng đang ngủ, chỉ có Lê Văn Trương mà thôi.
Đáng lẽ tôi tức giận lắm. Nhưng nhờ tập được tính bình tĩnh, tôi thong thả dậy đi mở cửa, ngó xuống đường. Vừa trông thấy tôi thò đầu ra, anh chàng lại reo lên:
- Nó kia rồi ! Gớm, ngủ gì mà giờ này đã đi ngủ hả cậu? Vào mặc quần nhanh lên đi Ngã tư sở hát ả đào chơi! Nhanh lên, tụi tao đợi xe đây!
Tôi đang mặc pi-gia-ma, sao Lê Văn Trương bảo tôi vào mặc quần?
Tôi xấu hổ quá. Ai lại nói đùa gì mà tục tỉu thế bao giờ, mà lại la to tên cho cả dãy phố đều nghe? Nhưng tôi vẫn điềm tĩnh, đứng trên bao lơn, ngó xuống. Hai chiếc xe kéo Omic (loại xe kéo tân thời nhất ở Hà Nội lúc bấy giờ) chở ba người, đang đứng chờ. Tôi hỏi khẽ:
- Lê Văn Trương đấy à?
Lê Văn Trương vẫn rống to lên, chẳng kiêng nể ai:
- Ừ, tớ đây! Có cả thằng Lan Khai, thằng Nguyễn Tuân nữa. Chúng nó đang chờ mày cả đây.
Tôi vẫn khẽ giọng:
- Xin lỗi các anh, tôi ốm không đi được. Cho phép tôi ở nhà.
Lan Khai cười khàn, nhưng không la to như chàng Trương.
- Om thì xuống Ngã tư sở có các em thoa bóp cho.
Tuân nói:
- Thôi tụi mình đi. Đừng phá nó.
Tôi đưa tay lên vẫy chào:
- Cảm ơn. Xin lỗi các anh nhé! Mình đi ngủ đây.
Tôi vào phòng đóng cửa mà cũng còn nghe tiếng Lê Văn Trương nói oang oang trên xe, khi xe đã chạy:
- Đ… mẹ cái thằng, sao hôm nay nó ngủ sớm thế?
*
Lê Văn Trương như thế đấy. Rất vui tính, rất tốt, ăn to, nói lớn, mà nói luôn mồm, chuyên môn nói phét, nói tục, nhưng thành thật, ngay thẳng, không làm hại ai cả.
Chơi với bạn, phải hiểu tánh nết của bạn, luôn luôn tha thứ những nhược điểm của bạn, lúc nào cũng mến bạn, đó là phương châm xử thế của chúng tôi. Có lẽ nhờ sự thông cảm lẫn nhau, đó mà một số nhà văn chơi được lâu với Lê Văn Trương, con người rất ồn ào, “ba hoa thiên địa”. Những người điềm đạm như Họa sĩ Nguyệt Hồ lại thường phê bình Lê Văn Truơng bằng một câu: Mửng ấy “nan du” (Khó chơi, tiếng nói đùa).
Lê Văn Trương nói chuyện thế nào, thì viết tiểu thuyết cũng y như thế. Có thể nhận xét rằng: Lê Văn Trương là một cái máy nói ra một cái máy viết. Anh sang Gia Lâm ở nhà Trương Tửu, trong một tháng viết liên tiếp 3 quyển tiểu thuyết, không ngưng tay. Đó là Trương Tửu nói lại với tôi, và tôi cũng tin là đúng. Có lần tôi ngồi với Lê Văn Trương, suốt trong hai tiếng đồng hồ chỉ nói được một câu, còn thì Lê Văn Trương nói cả. Nói liên miên, và liên miên…
Anh ta ưa dẫn chứng những câu triết lí của vài danh nhân xưa mà anh ta đã học. Câu chuyện của anh thường được tô điểm với các tư tưởng xô bồ, các danh ngôn lẫn lộn của Platon, Socrate, Vương Dương Minh, Nguyễn Du, Musset, Goethe, Byron, Hồ Thích, Đỗ Phủ, Tolstoi, v.v… gặp đâu nói đấy, nhớ gì nói nấy, nhiều khi chẳng ăn khớp vào đâu với đâu cả.
Người ít học ngồi nghe Lê Văn Trương, chẳng biết đâu mà rờ. Người có học ngồi nghe anh, cũng… chẳng biết đâu mà rờ! Vì anh nói lung tung, loạn xị xà bần, đến nỗi nhiều khi anh tự mâu thuẫn với anh mà anh không biết.
Tuy vậy, Lê Văn Trương vẫn là một “người của nguyên tắc”, ngồi vững trên nguyên tắc như ngồi trên yên ngựa, chứ không chịu phóng túng, không ưa lãng mạn, không vượt qua các thành kiến sẵn có của tập quán. Anh hào hoa, cương trực, có vẻ anh hùng mã thượng lắm, nhưng tính lại nhát như thỏ, mềm như sứa.
Hồi làm báo Ích Hữu của Vũ Đình Long, Lê Văn Trương hay phô trương “triết lí sức mạnh”.
Hình như anh có chủ trương “đánh nhau” một lần với “bọn Phong Hóa” của Nhất Linh.
Hồi đó Ích Hữu và Phong Hóa đang bút chiến với nhau kịch liệt. Lê Văn Trương định dùng “triết lí sức mạnh” để thanh toán bọn Nhất Linh. Anh muốn đấu gươm nữa kìa. Nhưng anh nói mà không làm.
1937, một buổi tối Lê Văn Trương có tiền xốc xếch trong túi, rủ Trương Tửu và tôi đi “nhà hàng Mỹ Kinh”, một tiệm ăn sang nhất Hà Nội, phố Hàng Buồm. Trong khi chờ dọn các món ăn, chúng tôi uống chút ít apéritif, và nói chuyện phiếm. Tôi để ý ngay trước mắt tôi bốn thanh niên, có vẻ sinh viên trường Cao đẳng, ngồi quanh một bàn nơi góc phòng, đang ăn và cười đùa vui vẻ, bỗng im lặng nhìn chúng tôi và nói xầm xì. Tôi có cảm tưởng là họ biết chúng tôi.
Bỗng một chàng đứng dậy, tiến đến chúng tôi và đứng ngay cạnh Lê Văn Trương, hất hàm hỏi:
- Ông là Ông Lê Văn Trương có phải không?
Tác giả “Ngựa đã thuần rồi…” đáp:
- Phải.
- Tôi yêu cầu ông, chàng trai nói tiếp, nhường chỗ này cho tôi.
- Vì lẽ gì?
- Vì lẽ tôi muốn ngồi đây.
- Không được. Bởi vì tôi đã ngồi đây rồi.
Chàng thanh niên liền đưa tay đánh Lê Văn Trương một tát nảy đom đóm.
Trương Tửu đứng dậy toan nắm lấy chàng thanh niên vũ phu, nhưng hắn lễ phép bảo:
- Xin lỗi ông, tôi chỉ áp dụng Triết lí sức mạnh của ông Lê Văn Trương. Tôi thực hiện triết lí ấy trong nhiều trường hợp ở đời, và nay rất hân hạnh được dịp áp dụng nó ngay với Lê Văn Trương tiên sinh.
Lê Văn Trương đang ngồi yên, không nói, một tay ôm cái má bị đánh đau, bỗng nổi giận la lên oang oác:
- Thế thì con đ… hiểu cái triết lí sức mạnh của bố rồi! (Lê Văn Trương rất hay dùng tiếng tục tỉu trong lúc nói chuyện). Này, bố bảo cho con nghe: triết lí sức mạnh không phải là tự nhiên đánh bố một tát tai đau thấy ông thấy cha như thế đâu, con nhé! Triết lí sức mạnh là khi con đánh bố một tát tai hỗn xược như thế, mà bố không đánh lại con. Đấy là triết lí sức mạnh. Triết lí sức mạnh không phải là thằng nhãi con tự nhiên vô sự dùng sức mạnh đánh người lớn tuổi đáng bố nó, triết lí sức mạnh không phải là người lớn tuổi ỷ mạnh đánh đứa trẻ con Triết lí sức mạnh không phải như thế. Hiểu như thế là đ… hiểu triết lí sức mạnh của Lê Văn Trương…
Trương Tửu ngồi ngả lưng ra ghế, cười ồ ồ như Trương Phi. Tôi thì điềm nhiên xem chàng thanh niên phản ứng thế nào. Chàng cười hăng hắc, trả lời ngay:
- À ra triết lí sức mạnh của Lê Văn Trương là thế đấy! Thế thì xin lỗi ông Lê Văn Trương, vì tôi đã ghi bốn chữ triết lí sức mạnh trên má của ông… Thực ra tôi chỉ thử xem chính ông có hiểu triết lí sức mạnh của ông là cái quái gì không, thế thôi. Và tôi thỏa mãn thấy ông đã hiểu sâu xa lắm. Xin chào ông.
Chàng thanh niên trở về bàn của hắn. Hôm ấy tôi thấy Lê Văn Trương nói gượng, và ăn cũng gượng. Anh chỉ uống rượu nhiều hơn mọi khi, nhiều hơn cả Trương Tửu…
*
Nghe tôi sắp cho ra tờ tuần báo Pháp văn Le Cygne, Lê Văn Trương đi xe “Omic” đến nhà tôi, trong tay cầm một quyển truyện. Anh vứt quyển sách xuống bàn hỏi tôi:
- Vỹ, cậu xem quyển này của tớ chưa?
Tôi cầm sách lên xem: “Trước cảnh điêu tàn Đế Thiên Đế Thích”. Lật trang trong có mấy dòng tác giả đề tặng bằng Pháp văn “À mon ami, le poète Nguyễn Vỹ, Hommage cordial de l’auteur”. Tôi cảm ơn anh và hứa sẽ xem.
Lê Văn Trương bảo:
- Tôi cho cậu dịch ra Pháp văn để đăng làm feuilleton trong Le Cygne đấy.
Tôi do dự vì chưa đọc sách, nên chưa biết thế nào mà dịch, Lê Văn Trương nói tiếp:
- Cậu cứ dịch đi, tôi cam đoan với cậu là truyện này hay lắm. Đây là bộ truyện mà tôi ưa nhất đấy. Cậu cứ dịch, tôi không bắt cậu phải trả tiền bản quyền tác giả đâu mà sợ. Hơn nữa, này… tôi cho cậu xem…
Lê Văn Trương thò tay vào túi quần, móc ra một gói lạc, vừa bảo:
- … Hôm nay thằng Vũ Đình Long vừa trả tao 300 đồng, tao cho mày 50 đồng để mày lấy tinh thần, dịch quyển Đế Thiên Đế Thích ra Pháp văn để đăng trong Le Cygne của mầy. Cậu dịch đêm nay độ vai ba trang đủ làm feuilleton số 1. Số 1, hôm nào ra?
- Thứ năm.
- Ừ, thế còn kịp thì giờ chán! Cậu dịch đêm nay hai trang đầu, cậu nhớ viết vài dòng giới thiệu tác giả và tác phẩm nhé. Sáng mai cậu đưa thợ sắp là vừa.
Tuần báo Le Cygne số 1 ra đời, có tiểu thuyết Devant les ruines d’Angkor của Lê Văn Trương, do N.V. dịch ra Pháp văn. Có hình của tác giả do tác giả đưa cho để làm bản kẽm, và mười dòng giới thiệu đàng hoàng.
Một tháng sau, Le Cygne mới ra được số 4. chín giờ đêm thứ bảy, tôi đang ngồi viết bài, bỗng giật mình vì tiếng la lối om xòm của Lê Văn Trương từ ngoài cửa phóng vào:
- Le Cygne của mầy bán chạy lắm. Mầy phải trả tiền bản quyền Đế Thiên Đế Thích cho tao. Hôm nay tao hết tiền rồi. Nhanh lên, đưa đây 200 đi hát Ả Đào!
- Tớ chưa thu được đồng nào của Le Cygne cả, - tôi bảo – cậu hỏi Trương Tửu thì biết. Chiều nay tụi này nhịn đói. Tửu phải về Gia Lâm ăn nhờ ông bố.
- Còn mầy?
- Cậu có tiền thì đưa đây cho mình 6 xu ăn phở?
- Thôi, tôi đ… chơi với cậu. Hôm nay tao đã cạn túi, đến mầy, mầy lại “pô xu” nữa thì còn làm cái con khỉ gì được. Thôi, vứt mẹ bút đi! Mặc áo quần vào, đi Khâm Thiêm hát một chầu rồi muốn ra sao thì ra! Nhanh lên đi, mầy!
Tôi không muốn đi, vì một lẽ là không có tiền, hai nữa là phải viêt một bài để sáng mai đưa cho thợ sắp. Nhưng Lê Văn Trương bảo:
- Ông nói đùa, chớ ông có khối tiền đây. Đi đập trống cho khoái cái rồi sáng về mặc sức viết.
Lê Văn Trương nhất định lôi tôi đi. Dọc đường anh còn rủ thêm hai người bạn nữa.
Đêm ấy hát nhà cô Đào Phúc ở Ngã tư sở. Phúc có tiếng là hát hay nhất ở đây. Phúc tiêm thuốc phiện cho Lê Văn Trương hút với hai người bạn kia. Tôi thì nằm nghe Đào Loan kể cuộc đời phiêu bạt của nàng từ một nữ sinh trường Tiểu học Nam Định đến một cô đào hát.
Sáng tôi thức dậy đã 8 giờ. Các cô ả đào đã dậy trước, đang ngồi chải tóc, hoặc ra vào uể oải. Lê Văn Trương và hai người bạn đã lẻn về từ lúc nào rồi, để tôi làm “valise” ở lại. (Có những người không có tiền mà vẫn đi hát, xong cuộc tím cách trốn, để lại đó một người làm “con tin” – otage – để chịu đựng. Thường gọi người đó là làm “valise”). Bây giờ tôi mới biết rằng Lê Văn Trương muốn “chơi khăm” tôi một keo, nhưng ác nghiệc thay, tôi đâu có xu nào để “thanh toán” chầu hát cho cô Phúc? Tôi đành nói thật cho Phúc và Loan nghe, nhưng Phúc “nhã nhặn” yêu cầu tôi cho Loan đi với tôi về nhà tôi cho biết chỗ tôi ở. Rồi từ đó, cứ cách vài ba hôm là cô Loan đến “thăm” tôi để đòi nợ chầu hát của Lê Văn Trương đêm ấy.
Hôm sau tôi kể lại chuyện đó cho Trương Tửu nghe. Tửu tức giận bảo Trương: “Sao cậu đùa dai thế?”. Trương la lên oang oang:
- Mầy bảo với N. V. là nó xoàng lắm! Nó không tán được con đào Loan để Loan trả hộ cái món ấy cho nó được sao?
*
1958. – Sài Gòn 21 năm sau. Một buổi chiều gặp Lê Văn Trương đi lang thang trên đường Bonard, tôi rủ anh vào Kim Sơn ngồi. Nói chuyện phiếm một lúc, bỗng Lê Văn Trương hỏi tôi với vẻ mặt rất là nghiêm trọng:
- À này, V., dạo ấy cậu đã trả cái món nợ chầu hát nhà con Phúc chưa nhỉ?
Tôi phì cười, làm văng xa điếu thuốc đang ngậm trong môi.
- Mình tưởng thế nào Phúc hay Loan cũng di cư vào Sài Gòn, nên cố ý tìm để trả món nợ một đêm, nhưng không gặp.
*
Tôi mến Lê Văn Trương lắm. Anh là một người bạn rất tốt và rất hiền lành. Có lần, trong một đám ma, tôi không nhớ rõ là đám ma của Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Trọng Phụng hay Nguyễn Khắc Hiếu, tôi thấy trên nét mặt đau đớn thật sự của Lê Văn Trương hai dòng nước mắt từ từ chảy xuống. Tôi cảm động quá. Tôi nhớ lại như tôi đã cảm động khóc ròng rã khi đi coi chớp phim Bạch Tuyết, thấy bảy anh Lùn khóc nàng Công chúa. Không hiểu sao Lưu Trọng Lư khóc trong hoàn cảnh ấy, hay Trương Tửu, Nguyễn Tuân, Lan Khai, Mộng Sơn khóc tôi không cảm động, mà thấy Lê Văn Truơng khóc, tôi đau xót vô cùng. Có lẽ tại vì con người hay la to hét lớn, nói cười ầm ĩ không bao giờ buồn rầu chuyện chim đến khi đứng trước một cái tang bi ai não nuột, bỗng dưng, hai dòng lệ âm thầm tuôn ra trên mí mắt, để cho ta thấy phản ảnh lòng đau thương thấm thía của anh, mà xúc động lòng ta chăng?
*
Năm 1936, Lê Văn Trương ở đường hẻm Jacquin, phố Chợ Hôm, với 2 bà vợ. Cả hai bà ở chung một nhà và cùng cưng yêu anh. Cứ tối, hai vợ vào buồng ngủ, thì Lê Văn Trương thức ngồi viết tiểu thuyết một mình ở nhà ngoài cho đến 10 giờ đêm. Đến đây, anh gác bút, vào buồng gọi vợ lớn dậy:
- Mình ra bàn, viết tiếp cái tiểu thuyết cho anh, 12 giờ vào gọi anh dậy nhé.
Thế là anh nằm ngủ với bà vợ hai. Đến 12 giờ khuya, vợ lớn viết tiếp được 4 trang rồi vào ngủ lại. Lê Văn Trương dậy ra bàn viết tiếp theo đoạn văn của vợ lớn. Đến 4 giờ sáng, anh lại vào buồng ngủ, gọi bà hai:
- Em ra viết nốt cái tiểu thuyết cho anh chút nhé!
Lê Văn Trương ngủ với vợ 1 trong lúc vợ 2 thay phiên viết tiếp đoạn văn của chồng.
Câu chuyện này được loan truyền trong anh em làng văn Bắc Hà thời bấy giờ, làm câu giai thoại để cười chơi.
Năm 1955, tôi có gặp Lê Văn Trương ở Sài Gòn. Anh ở Hà Nội di cư vào. Vẫn Lê Văn Trương thao thao bất tuyệt của thời đại hoàng kim ở Hà Nội tiền chiến. Anh có cho tôi biết rằng một nhà xuất bản Anh hay Mỹ gì đó có mua bản quyền một quyển tiểu thuyết của anh để dịch ra Anh văn. Tôi niềm nở mừng cho anh được dịp phát tài to. Nhưng tôi chờ mãi không thấy quyển tiểu thuyết ấy ra đời!...
Có điều khiến tôi ngạc nhiên, là ở Hà Nội tôi không thấy Lê Văn Trương hút thuốc phiện, nếu có thì thỉnh thoảng một vài điều xã giao với bạn bè mà thôi, nhưng ở Sài Gòn Trương lại nhập tịch vào “làng bẹn”. Không biết anh nghiện từ bao giờ, nhưng lần nào gặp anh ngoài phố, hay anh đến thăm tôi ở tòa soạn Phổ Thông, tôi cũng thấy anh diện mạo bơ phờ, áo quần xốc xếch, có lúc đôi mắt như lim dim mệt mỏi. Anh thú thật với tôi là anh đang cơn ghiền. Ở Hà Nội tiền chiến, Lê Văn Trương là một tay phong lưu hào hiệp, áo quần bảnh bao, ăn tiêu rộng rãi. Từ di cư vào Sài Gòn, anh nghèo túng, lại mang thêm bệnh ghiền. Anh không viết được một tiểu thuyết nào nữa, và cũng không cộng tác với một tờ báo hay một cơ quan văn nghệ nào được lâu. Khả năng sáng tác của anh đã hoàn toàn kiệt quệ.
Thuốc phiện và hoàn cảnh gia đình túng thiếu đã làm khô cạn nguồn cảm hứng văn nghệ của Lê Văn Trương chăng?
Lê Văn Truơng chết trong một căn nhà hẹp ở Hẻm Bùi Viện, Sài Gòn, ngày 25-2-1964, thọ 59 tuổi. Tôi có đến viếng anh lần cuối cùng vào buổi sáng ngay sau khi được ai tín. Xác anh còn nằm ngay đơ và lạnh ngắt trên giường, chưa liệm. Tôi giở tờ giấy đỏ đắp mặt anh, và đặt bàn tay trên trán anh, tôi thật bùi ngùi cảm xúc. Vợ anh, ôm lấy xác anh, khóc òa lên.
Khi Lê Văn Truơng viết tiểu thuyết
Lê Văn Truơng là một nhà văn sáng tác rất dồi dào. Anh viết rất nhanh. Đó là điều thú nhất mà tất cả những bạn quen thân với anh đều nhận thấy. Chính Trương cũng hãnh diện về điều đó. Quyển “Một người cha”, anh viết tại nhà Trương Tửu ở Gia Lâm, trong 10 ngày. Anh sáng tác tiểu thuyết hàng loạt, chú trọng về lượng hơn là về phẩm. Vì thế, anh không có thì giờ săn sóc câu văn, anh không có kiên nhẫn ngồi sửa bản thảo.
Anh viết nhiều cũng như anh nói nhiều, cho nên văn của anh bị ảnh hưởng vì cái tật đa ngôn đó: rườm rà, luộm thuộm, xô bồ. Nhiều lúc, anh bốc đồng, viết lung tung, không kiểm soát lại tư tưởng của mình, cho nên phân tích được các tiểu thuyết của anh là một việc rất khó.
Chính Lê Văn Truơng cũng tự nhận như thế trong những câu chuyện thân mật về văn nghệ.
Vài ngày sau cái chết của Nguyễn Tường Tam, Lê Văn Truơng đến thăm tôi tại tòa soạn Phổ Thông. Anh buồn bã gục đầu xuống. Tôi làm thinh, chờ xem anh muốn nói gì. Một lúc khá lâu, có vẻ trịnh trọng, Lê Văn Truơng cất tiếng:
- Thằng Nhất Linh đi rồi, bọn cũ tụi mình ở đây chỉ còn mầy, với một vài thằng nữa thôi. Tao cũng sắp đi. Nhưng tao buồn là không để lại một tác phẩm nào xứng đáng với cuộc đời của tao.
Im lặng một lúc, Lê Văn Truơng nói tiếp:
- Tớ muốn cậu tự ý chọn một quyển truyện nào của tớ mà cậu ưng ý nhất, cậu viết một bài phê bình thật đầy đủ, cho tớ xem trước khi tớ làm cuộc du lịch cuối cùng và vĩnh viễn.
Tôi hỏi:
- Trong tất cả các truyện cậu đã viết, cậu thích quyển nào nhất?
Lê Văn Truơng trả lời không do dự:
- Tớ đ… thích quyển nào.
- Ít nhất cũng có một vài quyển hay hơn các quyển khác chứ?
- Tớ viết quyển nào cũng hay cả, mà chẳng có quyển đ… nào hay cả! Thế mới chó!
Câu nói mâu thuẫn đó tiết lộ tính chất sáng tác đặc biệt của Lê Văn Truơng. Tác phẩm nào cũng hấp dẫn, nhưng không có một kiệt tác.
Tôi bảo:
- Cậu chọn một vài quyển tương đối nổi bật hơn hết, đưa đây tôi. Tôi sẽ viết một bài dài và thật khách quan.
Nhưng tôi đã chờ mãi Lê Văn Truơng cho đến ngày anh chết.
Lan Khai
(1906 – 1945)
“Nhà văn đường rừng” là biệt hiệu của anh em làng văn Bắc Hà đã tặng cho Lan Khai, vì anh chuyên viết các truyện về Mạn Ngược, nghĩa là về các vùng Thượng Du Bắc Việt.
Sinh trưởng ở Tuyên Quang, là một tỉnh ở miền ấy, học ở Tuyên Quang, sau khi đỗ bằng Cao Đẳng Tiểu học cũng về dạy học ở đấy, Lan Khai đã là một người con yêu dấu của lâm tuyền. Anh bỏ nghề giáo viên, cũng chỉ vì anh mải nghe tiếng gọi của Rừng thẳm, tiếng gọi mà anh ghi chép say sưa thành bóng vang huyền bí trong các tác phẩm văn chương và trong các nét họa của anh.
Vì Lan Khai vừa là văn sĩ, thi sĩ, và họa sĩ. Văn sĩ hay họa sĩ anh cũng đều là cái “tài tử” theo nghĩa của anh em nhà văn chúng tôi đã cho nó hồi tiền chiến, là “không cầu lợi”. Anh làm thơ, viết truyện dài, truyện ngắn, tùy bút, hồi kí, và vẽ những phong cảnh rừng núi thâm u, huyền ảo của các vùng Tuyên Quang, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, những cô Thái Trắng, Thái Đen, cô Mường, cô Thổ, với nét đẹp diễm lệ mơ hồ, như hình bóng một thế giới mộng huyền trong tưởng tượng, trong tranh, trong thơ… Nhưng Lan Khai vẽ, hay viết, chính là để thỏa mãn một say mê gần như là một ám ảnh huyền diệu, hơn là nghĩa đến việc đem bày bán những nét vẽ và câu văn của anh.
Nói đúng ra, thì một số văn sĩ, thi sĩ thời bấy giờ cũng đều bị lôi cuốn ít nhiều trong không khí say sưa Văn nghệ đang bồng bột, thịnh hành, nhưng tôi nhận thấy Lan Khai là một trong số văn nhận chịu hi sinh cho lí tưởng nhiều hơn, và thích sống đời thanh cao nho nhã hơn.
Tại vậy mà anh thay đổi chỗ luôn. Thuê một căn nhà nào để ở, chừng năm ba tháng không vừa ý là dọn đi chỗ khác. Ở đường Đỗ Hữu vị, rồi dọn đến chợ hàng Da, rồi dọn xuống ngọai ô Chợ Hôm, dọn về Bờ Hồ, ở trên một căn lầu rộng lớn, rồi dọn lên Hồ Trúc Bạch, làng Ngũ Xã… Tiền không có mà cứ dọn nhà hoài, và mỗi lần đổi chỗ là chở hằng năm sáu rương sách và một rương quần áo. Ngoài ra, không có gì nữa cả. Tôi đi tìm địa chỉ mới của anh có khi mất cả buổi. Và nhất là tốn tiền xe.
Có điều buồn cười nhất, và bí mật nhất mà lúc bấy giờ chỉ một số bạn rất thân với Lan Khai biết được mà thôi, là tác giả những truyện đường rừng lại thích đánh phấn thoa son như đàn bà. Vì Lan Khai hút thuốc phiện nặng, nên anh đánh phấn và bôi son để cho nét mặt có đôi chút hồng hào, che lấp những tàn phá của Phù dung tiên nữ. Nhưng anh điểm trang khéo tuyệt, còn khéo hơn chị Lan Khai nữa. Người ngoài nhìn vào mặt anh, không hề thấy có vét phấn son. Vì vậy nên nhiều bạn làng văn cứ bảo nhau: “Quái thật nhỉ! Lan Khai hút thuốc phiện thế mà guong mặt của nó không mốc meo chút nào!”. Anh rất diện, lúc nào cũng đẹp đẽ bảnh bao, ai mới trông thấy anh cũng tưởng đâu là một chàng nho sĩ phong lưu, một loại Kim Trọng tân thời nhưng không có Thúy Kiều, và trong túi thường không có một xu nhỏ.
Lan Khai có một người bạn tâm phúc cũng lạ thường, là Đỗ Thúc Trâm. Đỗ Thúc Trâm người thấp nhưng mập, đỗ Tú Tài rồi ở nhà đọc sách, viết văn, chứ không thèm tiếp tục học trường Cao Đẳng. Trâm viết Pháp văn thật hay. Có tư tưởng chống Pháp và kiêu căng, tự phụ, anh thường viết bài cho báo “L’annam Nouveau” của Nguyễn Văn Vĩnh. Cụ Vĩnh quí mến Trâm lắm.
Lan Khai đi đâu là Đỗ Thúc Trâm đi theo, như hình với bóng. Mỗi lần dọn nhà, là cả hai đều đồng ý dọn, và cả hai cùng lặng lẽ đi theo sau cỗ xe chở mấy hòm sách, nặng nề, chậm rãi, y như đi đưa một đám ma. Tôi có theo một lần đám dọn nhà kì quặc ấy, ôm giùm cho Lan Khai cái bình tích đựng nước trà.
Lan Khai và Đỗ Thúc Trâm đều diện, và thích ở riêng biệt, không muốn có đàn bà bên cạnh. Đỗ Thúc Trâm không có vợ và rất đố kị phụ nữ. Anh không có một người tình nhân nào cả. Còn Lan Khai có hai vợ, nhưng anh cũng không thích ở với gia đình. Thỉnh thoảng chị Lan Khai ở Tuyên Quang xuống, với anh một vài tháng rồi lại về Tuyên Quang. Chị này là vợ hai, hiền lành lắm, và đẹp, rất yêu mến Lan Khai và cũng bằng lòng để anh ở riêng tùy ý theo ý thích. Chị chiều anh lắm. Tôi sẽ kể các bạn nghe câu chuyện Hột mận của Lan Khai. Chuyện này đã xảy ra lúc Lan Khai ở căn nhà Ngũ Xã, với chị Lan Khai số 2. Anh là người rất đa tình, lại được rất đông độc giả bạn gái mến phục. Nhưng có lẽ anh không có duyên với phụ nữ nên đời anh không có cuộc tình duyên nào lâu dài và tha thiết, nên thơ, nên mộng. Cũng có lẽ tại anh thích sống cuộc đời lí tưởng quá, nên đa số bạn gái không ưa. (tôi nói: thiếu nữ lãng mạn hồi đó). Một đêm, tôi đang ngủ, Lan Khai đến đập cửa. Tôi chưa kịp mở, chỉ nghe tiếng anh:
- Vỹ ơi, Đỗ Thúc Trâm chết rồi nhé!
Tôi mở cửa ra, thì Lan Khai đã đi rồi. Tôi vội vàng mặc đồ đi đến nhà anh, người ta cho biết là Đỗ Thúc Trâm chết trong nhà thương, vì bệnh thương hàn.
Đám ma của Đỗ Thúc Trâm đi trong một buổi chiều rét buốt của mùa Đông, rất đìu hiu thê thảm. Hân hạnh cho Trâm, là có ông Nguyễn Văn Vĩnh đi theo sau quan tài. Ông Vĩnh bảo tôi: “Trâm, nó có tài lắm, nhưng đáng tiếc, nó không để lại được một tác phẩm nào cả vì chính nó lại coi rẻ cái tài của nó”.
Ông Vĩnh nói rất đúng. Đỗ Thúc Trâm có thể là một nhà triết học, hay là một nhà phê bình rất có giá trị. Học thức uyên thâm, văn bài rất điêu luyện, Trâm bị cái chứng bịnh lười biếng, chán nản, khinh đời, khinh cả mình. Hồi đó anh 25 tuổi, lớn hơn tôi vài tuổi.
Hôm nay, tôi nhắc đến Đỗ Thúc Trâm mà lòng tôi rất bùi ngùi nhớ tiếc. Từ ngày anh chết, không có một bài báo nào, hay một chương sách nào, nhắc đến tên người tài hoa bạc phận ấy. Kể ra, những bài Pháp văn anh đã viết trong L’annam Nouveau của Nguyễn Văn Vĩnh, và bằng Việt văn trong tuần báo Đông Phương của Lan Khai, có thể gom góp in lại thành một quyển sách rất có giá trị về tư tưởng. Nhưng tiếc thay, không ai làm việc đó. Lan Khai và tôi muốn làm, lại không có tiền.
Đỗ Thúc Trâm đã thành một kẻ lạc loài trong truyền tích, như Chatterton, một thi sĩ Anh xấu số. Lan Khai rất buồn chán sau khi Đỗ Thúc Trâm chết.
Tác giả những truện đường rừng cũng là bạn thân của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Triệu Luật, Lưu Trọng Lư. Anh không chơi với Thế Lữ, Nhất Linh, Đoán Phú Tứ, nhưng thỉnh thoảng đến với Khái Hưng. Anh thích Nguyễn Công Hoan, Vũ Bằng, Tchya, Nguyễn Tuân.
Một hôm được tin bằng dây thép cho hay bà vợ cả ở Tuyên Quang đau nặng gần chết, (chị này bị tật què chân). Anh đến nhà xuất bản hỏi mượn trước một món tiền để về tỉnh nhà lo thuốc men cho vợ. Anh trao điện tín cho nhà xuất bản thấy sự thật đau đớn như thế. Nhưng nhà xuất bản, chủ một nhà in lớn ở Hà Nội, trả lời không có sẵn tiền. Anh hết sức năn nỉ nhưng ông chủ nhà in, đã xuất bản ba bốn bộ sách của anh, quyển nào bán cũng rất chạy, vẫn một mực than thở: “không có sẵn tiền”.
Lan Khai rưng rưng nước mắt, ngó nhà xuất bản:
- Ông tàn nhẫn đến thế ư?
- Không phải tôi tàn nhẫn với ông, nhưng thật là vì tôi không có sẵn tiền.
Lan Khai rút trong túi ra một xấp bản thảo viết chưa xong, đưa cho nhà xuất bản:
- Tôi đang viết quyển này cho ông, ông không thể cho tôi mượn tạm trước vài ba chục đồng ư? Vợ tôi đang hấp hối chờ tôi ở Tuyên Quang, sao ông nhẫn tâm đến thế được?
- Tôi chia buồn với ông, nhưng còn việc mượn tiền thì…
- Tôi chỉ mượn vài chục đồng đủ tiền xe thôi, ông ạ.
Do dự một lúc, nhà xuất bản vào nhà lấy ra đưa cho Lan Khai hai chục đồng:
- Ông viết quyển sách ấy nhanh nhanh lên nhé. Và xin chúc ông về Tuyên Quang lo lắng cho bà nhà ta chóng bình phục.
Lan Khai về nhà, gặp tôi vừa đến hỏi thăm tin tức của chị, anh đưa dây thép cho tôi xem và vứt xuống giường mấy tờ giấy bạc, nước mắt anh chảy tràn trề trên đôi má:
- “Toa” thấy không, Vỹ? Mẹ cha cái kiếp chúng mình…!
*
Hôm tôi bị người Pháp bắt và bị còng tay đưa lên ga xe lửa Hà Nội, trong đám bạn bè quen thuộc hình như biết tin trước nên có lên chực sẵn ở cửa ga để tiễn tôi, tôi thấy có mặt anh Lan Khai. Hôm ấy anh ốm quá, mặt xanh xao gầy còm, không có đánh phấn như mọi khi. Tôi mỉm cười ngó anh. Anh đáp lại bằng một cái nhìn đăm chiêu tịch mịch.
Sau này, trong thời kì đồng bào Bắc di cư, tôi có tìm kiếm các bạn cũ Hà Thành. Một đôi bạn cho tôi biết là Lan Khai đã bị Việt Minh thủ tiêu ở Tuyên Quang. Tôi nghẹn ngào, không nói được. Tôi biết anh là người của Việt Nam Quốc Dân Đảng, bạn đồng chí rất thân của Nhượng Tống. Đó là nguyên do Việt Minh thù ghét anh. tôi không muốn tìm biết anh bị giết chết cách nào.
Tiểu thuyết Lan Khai
Lan Khai có giọng nói khàn khàn hấp dẫn đáo để. Một hôm anh hỏi tôi:
- Vỹ, hôm nọ toi (Lan Khai chuyên môn nói toi, moi trong câu chuyện thân mật với anh em.) nói toi chưa đọc quyển “Ai lên phố cát” của moi, toi nói thật hay nói bỡn đấy?
- Nói thật. Nhưng “chưa đọc” không có nghĩa là “không đọc”.
- Thôi, cậu lười đọc bỏ mẹ! Để mình kể chuyện “Ai lên phố cát” cho cậu nghe đêm nay. Như thế cậu khỏi làm cái corvée đó nữa nhé!
- Cậu kể cho tớ nghe, thì có phải cái corvée cho cậu không?
- Ô, trái lại. Chỉ sợ cậu không khoái nghe thôi.
- Khoái hay không, là do cái lối kể chuyện của cậu chứ.
- Cố nhiên là chuyện kể lại đâu bằng chuyện đã viết.
- Cậu cứ kể đi.
Thế là suốt đêm hôm đó, tôi nằm bàn đèn thuốc phiện với Lan Khai, nghe tác giả “Ai lên phố cát” kể chuyện “Ai lên phố cát”. Lan Khai vừa tự tiêm thuốc hút vừa kể chuyện. Tôi, không biết hút thuốc phiện, không hút được một điếu, nhưng nằm được bên cạnh bàn đèn, cũng như Vũ Trọng Phụng, để trò chuyện vui chơi với anh em, có khi suốt đến sáng.
Đêm ấy, có cả Đội Tứ, một cựu Đội Nhất Linh Khố Đỏ của Tây, bạn thân của Lan Khai và chuyên viết chuyện nhà binh cho các báo hằng ngày, để kiếm tiền nuôi vợ. Đội Tứ cũng không hút nha phiến, nhưng đã đọc truyện Ai lên phố cát rồi.
Lan Khai bắt đầu kể, tôi bắt đầu nghe, nhưng dần dần tôi bị anh ta thu hút với giọng kể chuyện hăng say, bay bướm, lúc thì trầm trầm, lúc lại sôi nổi, làm tôi rạo rực như chính mình đang say thuốc phiện vậy. Anh kể đến 5 giờ sáng thì hết chuyện, nhưng cuộc thưởng thức nhận xét của tôi và Đội Tứ, trao đổi với tác giả, kéo dài mãi đến 7 giờ sáng. Chúng tôi kéo nhau ra phố Hàng Buồm, ăn điểm tâm, uống một li cà phê đậm rồi mới bắt tay từ giã.
Về nhà, một tuần lễ sau, tôi đọc Ai lên phố cát. Cảm tưởng của tôi là Lan Khai kể chuyện còn hay hơn là anh viết – hay hơn nhiều. Trái lại với lời anh đã nói là viết thành văn hay hơn là kể bằng miệng.
Tôi có nói lại cuộc thí nghiệm đó cho Lan Khai nghe, anh cười bảo:
- Tại anh đã nghe tôi kể hết rồi, anh đọc lại còn gì là thích thú nữa?
- Không phải. Văn anh viết không tự nhiên bằng lời anh kể. Đọc văn, tôi không còn thấy cái nhiệt hứng dào dạt, làm tôi hồi hộp, xúc động, kích thích, như lúc tôi nghe anh nói. Anh sửa câu văn, anh gò ép, anh chải chuốt, mất cả tính chất man rợ, rừng rú trong tiếng nói trực nhiên, từ trong tim, trong máu, trong óc anh phát động ra.
- Anh nói cũng có lí. Có lẽ tại tôi viết Ai lên phố cát không hăng say bằng mấy quyển sau này…
*
Nhưng đó chỉ là nhận xét chủ quan của tôi, có lẽ hoàn cảnh nghe chuyện ban đêm, trong không khí khói thuốc phiện mờ ảo lẫn lộn với sương khói ảo huyền của truyện Ai lên phố cát của Lan Khai.
Thực ra, Lan Khai kể chuyện rất hấp dẫn, nhất là truyện đường rừng, nơi cương thổ riêng biệt của Lan Khai. Không nhà văn nào viết truyện đường rừng kích thích bằng Lan Khai, kể cả TchyA. Điều đó không có gì lạ, vì Lan Khai sinh trưởng ở Mạn Ngược, quê hương của các giống dân Thổ, Mường, Mán, Thái, đầy dẫy huyền bí, li kì, rùng rợn…
Nhỏ, Lan Khai là con đẻ của Rừng Rú Linh Thiêng. Trai tráng, Lan Khai là bạn của nguồn xanh hoa dại, của gió núi mây ngàn. Lớn lên, Lan Khai là văn sĩ, thi sĩ, họa sĩ của lâm tuyền thơ mộng, đầy huyền ảo, thâm u, phảng phất truyền tích xa mờ như những kho tàng bí ẩn.
Lan Khai có làm khá nhiều thơ, hầu hết là Thơ Rừng Núi, vang bóng của đồi sim quạnh quẽ, của dòng suối réo rắt bên nhóm nhà sàn, của tiếng cười trong veo trên đôi môi cô gái Mán… Thơ Lan Khai nhẹ nhàng, êm ái, huyền mơ như mây gió biên thùy. Nhưng rất tiếc, anh chúi trọng về tiểu thuyết nhiều hơn, làm thơ chỉ để bạn làng thơ ngâm chơi, kí tên là “Lâm Tuyền Khách” và không bao giờ in trên sách báo.
Anh vẽ đẹp, nét bút tế nhị tinh vi, cũng toàn những cảnh núi rừng thơ mộng, nhưng không bao giờ triển lãm. Tôi thành thật vô tư nhận xét rằng những tranh thủy mạc ngày nay thua những bức họa của Lan Khai nhiều lắm.
Phong trào cách mạng ngấm ngầm ở Bắc Kì từ khởi điểm chiến tranh Nhật Hoa, rồi Tây Âu, làm nổi dậy dòng máu cách mạng của Lan Khai, một đồng chí của V.N. Quốc Dân Đảng. Lan Khai viết tiểu thuyết cách mạng, rồi nhè nhẹ bước sang tình cảm, một địa hạt mà anh không bỏ rơi được. Lan Khai là một tâm hồn thuần túy thơ mộng, rất đa cảm, đa tình, nhưng luôn luôn có ý thức về số kiếp văn chương. Trên báo Đông Phương của anh, anh viết bài đăng đầy cả 8 cột trang đầu: “Tài hoa cái lụy nghìn đời”.
Tôi nhớ mãi hôm tôi và Trương Tửu đến khen anh về bài ấy, tôi không ngờ gặp Vũ Trọng Phụng cũng đến bắt tay anh: “Lan Khai, mày viết bài ấy, tao phục mày. Tao đọc thích thú lắm”.
Lan Khai rất cảm động. Anh gọi người ở pha trà tàu, mời chúng tôi.
Trong lúc uống trà, Lan Khai chỉ vào tôi, và nói với Vũ Trọng Phụng:
- Cu Vỹ vừa bảo tao: đọc bài đó, nó khóc!
Nói xong Lan Khai cười ồ ồ lên, Phụng không cười, khẽ giọng:
- Tao cũng muốn ứa nước mắt. Chú mày viết bài đó, cảm động lắm.
Văn của Lan Khai hấp dẫn như thế đó. Trương Tửu viết trong báo LOA một bài khen Lan Khai thật là xứng đáng. Đọc bài phê bình của Trương Tửu, Thế Lữ nói với Vũ Đình Liên:
- Văn Lan Khai có ra cái đếch gì mà Trương Tửu tâng bốc.
Chỉ có Thế Lữ mạt sát Lan Khai như thế thôi.
Có điều lạ, là Lan Khai rất thích độc các tiểu thuyết của Paul Bourget. Anh ta ca ngợi quyển Le Disciple lắm. Nhưng P. Bourget khô khan, quá nặng về tâm lí, không hiểu sao lại thích hợp với tâm hồn của Lan Khai được?
Lan Khai có một quyển Album mà anh để trang đầu là “Sổ Vàng”, trong đó anh lấy chữ kí của nhiều nhà văn mà anh mến, và yêu cầu mỗi người viết vài dòng thủ bút trên trang chữ kí. Tôi thấy trong đó có: Vũ Trọng Phụng, TchyA, Nguyễn Triệu Luật, Khái Hưng, Nguyễn Công Hoan, Lưu Trọng Lư, Anh Thơ và vài người nữa. Tôi không nhớ mấy anh kia viết gì, vì chỉ xem sơ qua.
Lan Khai đưa bút máy cho tôi. Tôi viết:
Người ta ghét mình là ganh mình,
Chửi mình là đề cao mình,
Nói xấu mình là sợ mình,
Nhưng phớt tỉnh, là trả lời tất cả.
Anh Thơ sửa lại câu thơ trong “Bức tranh quê” của nàng, viết vào “Sổ Vàng” của Lan Khai:
Và đây đã có một đôi bươm bướm
Bay dập dìu như muốn phải lòng nhau.
Dưới kí: Tuyết Anh Anh Thơ.
Lan Khai khoái hai câu đó, vì Anh Thơ là người yêu cũ của anh, thường đăng thơ trong báo Đông Phương kí bút hiệu là Tuyết Anh…
Hột mận của Lan Khai
Chị Lan Khai (thứ hai) bảo tôi:
- Cái ông Lan Khai nhà tôi, anh phải biết!
- Biết thế nào? Lan Khai cười hỏi lại vợ.
- Thế nào, thì cậu biết chứ! (Vợ chồng Lan Khai gọi nhau bằng cậu mợ.)
Chị Lan Khai cầm quyển sách lên xem lại. Rồi chị lại bỏ sách xuống, ngó tôi và tủm tỉm cười:
- Nhà tôi thì khoái các cô ấy lắm, anh à.
Lan Khai cười rú lên. Tiếng anh ấy cười khàn khàn mà rất lẳng. Đôi mắt anh lại còn cười nhiều hơn cái miệng nữa. Cười ra tận hai đuôi mắt, cười dài đến hai mang tai. Anh bảo tôi:
- Này, anh Vỳ à, tôi hỏi anh nhá: Mình viết truyện đường rừng cho Nữ độc giả xem. Họ xem rồi họ viết thư về khen mình, thì mình làm thế nào?
Tôi cười:
- Thì mình khen lại họ.
- Còn như họ yêu mình?
- Thì mình yêu lại họ.
Lan Khai cười ha hả, đứng dậy nghiêng mình chồm qua bàn, chìa bàn tay xương đến tôi:
- Tôi bắt tay anh một cái. Bravo!
Quay sang chị Lan Khai ngồi trên bục gỗ, nhà văn đường rừng đắc chí, bảo vợ:
- Đấy mợ nghe không? Anh Vỹ bảo thế đấy.
Tôi phải đính chánh ngay:
- Tôi bảo cho anh, chứ không phải cho tôi. Tôi thì chẳng yêu ai cả.
Chị Lan Khai cãi lại rất duyên dáng:
- Anh Vỹ thì chắc có nhiều người yêu, chứ cậu thì có ma nó yêu cậu!
Lan Khan cười rũ rượi:
- Phải đấy, trước nhất đã có ma… femme yêu tớ, rồi đến ma chère X… ma chère Y… một tá “ma”, chỉ vì họ mê tiểu thuyết đường rừng của tớ, nhất là quyển “Hột mận”.
Quay lại tôi, Lan Khai ngó tôi với đôi mắt cười ranh mãnh dưới cặp kiếng cận thị:
- Vỹ, toa đọc quyển “Hột mận” của moa chưa?
- Chưa!
- Sao toa không đọc?
- Moa đợi cho tất cả các cô nữ độc giả thân yêu của toa đọc hết, xong rồi moa mới đọc.
- Gớm! Anh nịnh đầm vừa vừa chứ! Anh lười đọc rồi anh khéo bào chữa lắm. Tôi bảo anh hôm nay hãy đọc quyển ấy nhé. Đọc xong chính anh cũng sẽ mê tôi, chứ đừng nói là các cô ấy.
- Sao anh đặt tên sách là “Hột mận?”
- Ấy thế mới hay! Thế mới có khối các cô mê Hột mận của tớ đấy, cậu à. Hôm nay về cậu phải xem nhé?
Tôi cười, không hứa.
Mãi đến nay, nằm trên giường viết bài hồi kí này, tôi vẫn chưa đọc quyển “Hột mận” của anh bạn “Đường rừng”.
*
Ba hôm sau, Lan Khai gặp tôi. Anh không bắt tay tôi như mọi lần. Anh cười, thò tay vào túi áo, lấy ra một bao thư, đưa tôi:
- Toa đọc đi!
- Thư của anh mà…
- Toa cứ đọc đi. Moa chỉ xin toa một điều là giữ kín hộ moa nhé. Đừng bảo cho ma femme biết.
Tôi xem qua nét chữ ngoài phong bì: nét chữ của một cô gái. Bao thư xanh, đóng dấu dây thép Hà Nội.
Thưa ông Lan Khai.
Tác giả quyển “Hột mận”
Em xin gửi lời thành thật hoan nghênh tất cả các quyển truyện đường rừng của ông. Riêng quyển Hột mận, ông vừa xuất bản, thật là một kiệt tác. Em ao ước được hân hạnh gặp ông để tò lòng ái mộ của em. Vậy, nếu ông không bận gì, thì 8 giờ tối thứ bảy tuần này, xin ông vui lòng quá bộ đến Hồ Trúc Bạch, khỏi chùa Trấn Quốc một tí. Em sẽ chờ ông tại đấy.
Thưa ông, ông sẽ trông thấy một thiếu nữ 18 tuổi, đang chờ ông bên gốc cây, mặc áo màu bordeaux, tay cầm quyển Hột mận. Em đấy ông ạ. Em sẽ đến đấy đúng 8 giờ, là lúc vắng người. Nếu quá 8 giờ 30 ông không lại, thì chắc là ông bận việc, em sẽ đi về.
Trời! Em ước mong sao được gặp nhà văn tài hoa mà em thường mơ tưởng!
Em xin dừng bút nơi đây với tất cả hi vọng tốt đẹp ngập tràn trề lòng em. – Bella Nhung.
Tôi trao thư lại Lan Khai. Anh ta cười khoái trá:
- Nàng có chữ kí đẹp quá nhỉ. Toa xem chữ kí giỏi lắm và xem tướng số được, toa hãy xem hộ moa chữ kí ấy đi. Rồi hôm nào moa giới thiệu nàng cho toa để nhờ toa xem tướng hộ nhé.
- Chữ kí cô này… lãng mạn.
- Thế thôi à?
- Cô này 18 tuổi.
- Trong thư nàng có nói.
- Thế thôi, hết.
- Người tính tình thế nào chứ?
- Vui vẻ, trẻ trung. Người mập chứ không gầy, (nét chữ cũng mập), đẹp chứ không xấu, nét chữ bay bướm.
- Cậu thật là…!
- Thật đấy mà. Nếu tối thứ bảy anh gặp cô mà xấu chứ không đẹp, thì chắc là không phải cô Bella Nhung. Hoặc cô nào gầy chứ không mập, cũng không phải… Gặp gỡ như thế nào, rồi nói chuyện lại cho tôi nghe với nhé.
- Toa đừng cho ma femme biết, nghe chưa?
- Khỏi dặn.
*
Lan Khai chải tóc láng mướt. Chàng đã thắt cra-vát màu đỏ, mới tinh, vừa mua lúc chiều. Quen lệ, chải tóc xong là chàng đánh phấn. Chàng có tật đánh phấn như đàn bà, vì da mặt hơi ngăm ngăm đen, và đã có vết nhăn. Tôi nhớ năm ấy chàng đã lớn tuổi hơn tôi nhiều lắm, vả lại chàng bị bịnh ghiền thuốc phiện, cho nên mau già. Người gầy còm, lại dong dỏng cao, môi thâm. Nói thật, người không đẹp. Chàng đánh phấn phớt qua một lớp mỏng thôi mà chỉ đánh ban đêm. Chàng rưới nước hoa, diện quần áo tây mới may, đi giày tây đen, bóng lộn. Xong, ngó đồng hồ 8 giờ kém 5, chàng ra gọi xe kéo.
Chàng khấp khởi mừng vì chị Lan Khai đi vắng, chàng khỏi phải nói dối vợ.
Đến trước cổng chùa Trấn Quốc, Lan Khai trả tiền xe, rồi đi bộ một quãng đường trên đê hồ Trúc Bạch. Chàng hồi hộp mừng thầm, xa xa, dưới bóng cây chàng đã thấy bóng “nàng”.
Chàng nghĩ thầm: “Ta sẽ nắm tay nàng, và nhoẻn một nụ cười duyên…”. Nàng chưa thấy chàng, vì nàng quay lưng ra đường đê, đang đứng mơ màng ngó mặt nước hồ phẳng lặng, phản chiếu một vòm trời lóng lánh muôn sao. Gió mát lạ!
Chàng cố ý đi mạnh, cho nàng nghe tiếng giày để nàng quay mặt ra. Chàng đã biết đích là nàng, vì dưới ánh đện lờ mờ Chàng đi nhè nhẹ đến gần chàng đã phân biệt màu áo bordeaux và tay nàng đang cầm quyển “Hột mận”, như đã dặn kỹ trong thư.
Chàng đi nhè nhẹ đến gần… Tuy chàng chưa thấy mặt, nhưng dưới ánh đèn điện lờ mờ, bóng nàng uyển chuyển thướt tha tuyệt đẹp.
Chàng đến sát bên cạnh, nghĩ rằng nàng mắc cỡ, nên chàng đánh bạo đặt bàn tay dịu dàng trên vai nàng, và giọng nói run run cảm động:
- Em Bella Nhung?
Nàng quay lại.
Lan Khai hoảng hốt, biến sắc mặt ngay, bỗng giận dữ hét lên:
- Mợ đứng chờ ai đây?
Nàng, chính là… vợ Lan Khai, mỉm cười ngạo nghễ:
- Thưa ông, em chờ ông Lan Khai, tác giả Hột mận ạ.
- Mợ đánh lừa tôi hả?
Lan Khai giận run cả người lên, nghẹn miệng nói không được nữa. Chàng bỏ vợ đấy, đi thật nhanh ra đường Quan Thánh gọi xe về nhà. Chị Lan Khai mỉm cười đắc chí, đủng đỉnh theo sau.
*
- Ai viết hộ thư cho mợ? Chứ nét chữ đâu phải của mợ?
- Nét chữ của con Mão đấy.
- Con Mão nào?
- Cháu của cậu, con gái của chị Phán, cậu không biết à? Tôi đọc cho nó viết đấy. Tôi phải năn nỉ mãi nó mới chịu viết đấy.
- Mợ mặc áo màu bordeaux của ai?
- Áo cũng của con Mão chớ còn của ai nữa.
- Mợ chơi xỏ tôi làm gì thế?
- Để cho cậu một bài học về Hột mận đấy, cậu à! Quả mận chua lắm phải không cậu?
Lan Khai làm thinh, mãi ba tháng không nói với vợ một tiếng.
Lưu Trọng Lư
(1911 – 1991)
Tôi không thấy một người nào có chất thi sĩ đầy đặc trong tâm hồn và trên thể xác như Lưu Trọng Lư. Mỗi lần gặp, tôi có cảm tưởng như Lư là một vong hồn vất vưởng, nay đây mai đó, như mây như gió, phiêu bạt giữa trần gian.
Một buổi sáng, tôi đến rủ Lưu Trọng Lư mặc áo quần vào. Chúng tôi đi bộ, và dọc theo đường Đồng Khánh chúng tôi thấy hình như khách qua lại đều ngó hai đứa tôi và cười khúc khích. Lư quay lại hỏi tôi:
- Tụi họ cười mi hay cười tao?
- Chắc tụi nó cười tao vì tóc tao dài quá, hai tháng nay chưa hớt. Mầy vô tiệm với tao, chờ tao hai chục phút?
Tôi hớt tóc xong, cùng Lư đi ra. Nhưng vẫn thấy bị kẻ đi đường ngó trân trân và cười khúc khích mãi. Lưu Trọng Lư lại hỏi tôi:
- Đố mi biết lần ni tụi họ cười tao hay cười mi?
Tôi ngó Lư từ đầu đến chân, rồi bảo:
- Chắc tụi nó cười mầy. Mầy mặc dư một cái quần.
Lư ngó xuống chân, mắc cỡ mặt đỏ bừng, rồi vội vàng lôi tôi lên tàu điện về nhà. Tôi cũng không ngờ rằng lúc ở nhà ra đi Lưu Trọng Lư đã mặc cái quần đen lại lơ đễnh mặc thêm chiếc quần trắng ra ngoài, quần trắng hơi cụt nên để lòi hai ống quần đen dưới chân.
Lưu Trọng Lư bước vào làng Thơ Việt Nam, gót chân lơ đễnh, cặp mắt ngơ ngác, nụ cười xa vắng, tay cầm một cuốn truyện mỏng của anh vừa in xong, nhan đề Người Sơn Nhân. Một quyển truyện? Thật ra, không hẳn là một quyển truyện. Nhan đề Người Sơn Nhân cũng không hẳn là người Sơn nhân. Có thể gọi đó là một bài thơ cũng được, và có thể đổi nhan đề là Người thi nhân cũng được.
Lưu Trọng Lư đâu có biết Lưu Trọng Lư là thi sĩ. Lưu Trọng Lư cũng không biết Lưu Trọng Lư là Lưu Trọng Lư. Anh mở quyển truyện Người sơn nhân kể cho tôi nghe. Anh kể một câu chuyện vẩn vơ, đượm màu triết lí vơ vẩn. Dễ thương làm sao! Tôi bắt đầu mến Lưu Trọng Lư từ hôm anh kể cho tôi nghe chuyện Người sơn nhân, chuyện người Thi nhân.
Nhà trọ của Lư ở Phố Hàm Long, ở chung với Lê Tràng Kiều và Nguyễn Xuân Huy. Một căn phòng hẹp, riêng biệt, bên cạnh, là của chàng họa sĩ. Trước sân là một giàn hoa ăng-ti-gôn trắng và đỏ, thật thơ mộng. Tôi thường đến đây chơi, nhiều khi ăn ngủ luôn ở đây. Một hôm Lư cao hứng ngâm lên:
Xin rước cô em bước xuống thuyền
Thuyền tôi sắp chẩy chốn thần tiên…
Tôi hỏi Lư:
- Cô em nào đấy?
Lư kéo tôi lại giường, nằm kể cho tôi nghe một chuyện tình vẩn vơ, đượm màu triết lí vơ vẩn. Chuyện tình không có, triết lí không có, mà Lưu Trọng Lư cũng không có nốt. Tất cả đều thế giới. Lưu Trọng Lư tưởng tượng ra Lưu Trọng Lư.
Người gầy, hai má cóp. Tóc không bao giờ chải. Không biết diện, và không biết yêu. Anh có người vợ bán nước mắm Đồng Hới, nhưng không sống chung. Có lẽ tại Lưu Trọng Lư không ở gần được đàn bà. Trong thời gian biết Lư, tôi không hề thấy Lư bên cạnh một thiếu nữ, hay một thiếu phụ, đẹp hay xấu, Lưu Trọng Lư chỉ có Lưu Trọng Lư một mình.
Tôi nghe người ta thường nói: Thi sĩ là giống đa tình. Có thật thế không? Sao mà Lưu Trọng Lư không có đa tình? Hà Nội hồi đó tha thướt biết bao cô gái đẹp, thi sĩ họ Lưu sao chẳng có yêu ai? Tôi hơi ngạc nhiên. Trong Tạp chí Phổ Thông số 17 ra ngày 15-8-1959, ông Nguyễn Hữu Thứ, dự thẩm Tòa sơ thẩm Huế, có kể rõ chuyện năm 1945 Lưu Trọng Lư ở Huế có yêu và lấy một cô gái Huế đã có chồng. Chồng cô, một công chức, đưa cô ra Tòa xin li dị. Ông Nguyễn Hữu Thứ có chứng kiến phiên tòa này, Lưu Trọng Lư đi qua đi lại trước sân Tòa án, chờ kết quả. Tòa xử xong, thiếu phụ bị li dị tên là Lê Mừng, ra đi với Lưu Trọng Lư. Đây là người đàn bà thứ hai trong đời Lưu Trọng Lư. Tôi không tin rằng họ ở với nhau lâu.
Lưu Trọng Lư là một ảnh tượng lơ lửng trong thời gian. Mảnh tim của anh bay vời vợi trên khung trời xanh như con diều giấy, dính vào trần gian bằng một sợi tơ mong manh, chập chờn trong gió, vi vu trong mây.
Cho nên thơ của Lưu Trọng Lư cũng phảng phất một hơi Thu, một nắng Hè dịu mát, một khói lam chiều, một thuyền mơ phiêu dạt, một hơi tiêu man mác, một tiếng bước của con nai vàng xào xạc trên lá vàng khô…
*
Lưu Trọng Lư không thích chơi với Thế Lữ, mà lại ưa ông Phan Khôi, và các anh Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật, Vũ Trọng Phụng, Lê Tràng Kiều. Với giọng nói trọ trẹ đặc biệt giọng Quảng Bình, và nụ cười đôi khi khinh miệt, đầy nét trào phúng, Lư ngạo Nguyễn Công Hoan là “văn chương gõ đầu trẻ”, cười bọn “thi sĩ” hay tâng hót Thế Lữ là lũ “chạy hiệu” và gặp giữa đường không bao giờ anh bắt tay họ.
Anh có kể cho tôi nghe anh gặp ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu một lần, ông ta đang say túy lúy. Anh không chịu được cái say của Tản Đà nhưng rất yêu thơ của Tản Đà.
Một đêm, vào cuối năm 1939, bắt đầu chiến tranh, tôi đang ngủ trên một gác trọ của một người bạn ở phố Quan Thánh. Lúc này tôi đang trốn tránh vì nghe tin mật thám Pháp muốn kiếm bắt tôi. Bỗng dưng, gần 2 giờ sáng, có tiếng gõ cửa ầm ầm. Bạn tôi ra bao lơn ngó xuống đường cái, thấy một bóng người ngồi trên xe kéo, gục đầu vào thành xe. Bạn tôi lên tiếng hỏi:
- Ai hỏi gì đấy?
Anh phu xe ngước mặt lên đáp:
- Có một ông say rượu, bạn ông muốn vào ngủ nhờ.
- Bạn tôi là ai?
Anh xe không biết tên. Người ngồi gục đầu trên xe cũng không trả lời. Bạn tôi hỏi ý kiến tôi, tôi bảo anh ấy cứ xuống mở cửa xem ai. Tôi đã đề phòng mọi bất trắc, thì một lúc lâu bạn tôi dìu lên cầu thang một xác người bèo nhèo, không cử động. Tôi đến gần xem: Lưu Trọng Lư.
Chúng tôi đỡ Lư nằm trên bục gỗ. Người anh lạnh như đá. Chúng tôi lấy chăn đắp cho anh, lấy dầu nóng xoa khắp thân thể anh. Một lúc tôi khẽ gọi:
- Lư! Cậu làm sao thế?
Lư uể oải, cố gượng trả lời từng tiếng, với giọng Quảng Bình trọ trẹ:
- Tao ăn… thịt… chó… tao hút… thuốc phiện… nhiều quá… cho tao cái chậu… để tao nôn… tao nôn… tao nôn…
Bạn tôi lật đật ra sân sau đem một cái chậu vào. Lưu Trọng Lư cố níu lấy vai tôi để ráng ngồi dậy…
Bấy giờ tôi mới ngử thấy mùi thuốc phiện. Tôi biết Lưu Trọng Lư hút thuốc phiện nhưng tôi không ngờ anh ghiền nặng thế. Một bạn làng văn thường nằm hút với Lư ở trên gác một tiệm hút ở Chợ Hôm, cho tôi biết rằng có đêm Lưu Trọng Lư hút đến 100 điếu. Tôi không biết đúng hay không, nhưng tôi tưởng tượng 100 cuộn khói phù dung mỗi đêm thấm vào tim phổi, thảo nào Lư không mỗi ngày mỗi gầy đét đi.
Tôi đã nói Lưu Trọng Lư không có hiện hữu. Chỉ thấy cái bóng của Lưu Trọng Lư trong gió bụi mà thôi. Chàng có lẽ là hiện thân của một Lý Thái Bạch, một Đào Tiềm, lạc loài xuống đất Việt chăng?
Cho nên văn thơ của Lưu Trọng Lư không có gì là thực tế cả. Lư chỉ mượn những cảnh vật trên trần ai mà chàng thấy có đượm đôi nét u hoài của Tiên giới, để làm khung cảnh cho những giấc mơ của chàng. Ngoài ra, với Lư mọi vật đều hư vô.
*
Lần đầu tiên tôi biết Lư là do bài thơ “Qua đèo ngang” của bà Huyện Thanh Quan.
Năm 1932, một tờ báo tên là Phụ nữ Thời Đàm mới mở ở đường Sông Tô Lịch. Tôi hãy còn là sinh viên, viết gởi đến báo ấy một bài phê bình Văn nghệ, phủ nhận hoàn toàn giá trị bài thơ “Qua đèo ngang”. Hôm sau, một người lạ, hình dáng ốm teo và nét mặt xương xương, tóc không chải, đến gác trọ tôi, đưa cho tôi xem bài báo đã đăng, và hỏi có phải tôi là tác giả bài báo đó không? Tôi xác nhận. Chàng xưng tên là Lưu Trọng Lư, phụ bút, đến biếu tôi tờ báo và ngỏ ý hoàn toàn tán thành những nhận xét của tôi về giá trị của bài thơ, Lưu Trọng Lư cười “như con nắc nẻ” -Câu Lư thường dùng- nói giọng Quảng Bình:
- Bài thơ dở như cứt thế này mà Dương Quảng Hàm nó khen! Thật là lọ!
Nhưng rồi chúng tôi ít gặp nhau. Tôi còn học thi, thỉnh thoảng viết văn, viết báo chơi cho vui thôi, và chưa quen với các nhà Văn.
1934, Lưu Trọng Lư đã nổi tiếng. Tiểu thuyết thứ bảy đăng thường xuyên thơ và truyện dài, truyện ngắn của Lưu Trọng Lư. Nhân vụ “Tập Thơ Đầu” của tôi ra đời, do Lưu Trọng Lư giới thiệu in ở nhà in “Tân Dân”, tôi mới rủ Trương Tửu, giáo viên trường Tiểu Học Tư thục “Thanh Niên”, (lúc bấy giờ Tửu chưa viết văn), đến thăm Lưu Trọng Lư tại một ngôi chùa ở Trại Hàng Hoa.
Vừa đến, chúng tôi thấy vợ chồng ông Vũ Đình Long, chủ nhiệm Tiểu thuyết thứ bảy và chủ nhà in Tân Dân, đi xe hơi nhà đến thăm Lư và biếu Thi sĩ hai hộp trái vải “conserve”.
Lưu Trọng Lư đang đánh cờ tướng với một ông Sư tại sân chùa, mê cờ đến nỗi không đứng dậy tiếp vợ chồng ông Chủ nhiệm.
Vũ Đình Long không muốn quấy rầy nhà thơ, mở bóp lấy tấm danh thiếp, viết mấy chữ “Kính biếu Lưu Trọng Lư Tiên sinh”, rồi hai vợ chồng rón rén trở ra xe.
Trương Tửu và tôi ngồi xem đánh cờ. Lưu Trọng Lư không biết Trương Tửu, tôi giới thiệu. Lư cười, gọi một chú tiểu trong Chùa:
- Mang cây đờn nguyệt ra đây, chú Huy, cho có đủ cầm, kỳ, thi tửu!
*
1940, Tôi bị bắt vào nhà lao Mật thám Hà Nội, thì Lưu Trọng Lư và Khái Hưng cũng đã bị bắt trước tôi. Khái Hưng bị đưa đi an trí tại Vũ Bản.
Khái Hưng bị bắt thì tôi có thể tin được, vì anh ấy đã lập ra Đảng Dân Chính, một đảng thân Nhật. Còn Lưu Trọng Lư? Nghe nói Lưu Trọng Lư được đưa về Huế, và sống tự do ở đây.
Năm 1947, một cô bạn gái tên là Thu, ngẫu nhiên gặp tôi ở Sài Gòn. Trước cô làm giáo viên tại Đồng Hới và có quen thân với Lưu Trọng Lư, và Võ Nguyên Giáp. Cô kể cho tôi nghe những ngày đau khổ của Thi sĩ họ Lưu ở Huế vào khoảng 1943-1944.
Theo cô bạn ấy thuật lại, thì Lưu Trọng Lư ở trong một túp nhà lá lụp xụp ở ngoại ô Huế. Tình cảnh của anh đói rách thật đáng thương. Mấy người bạn nào đó có cho anh một ít áo quần và tiền bạc. Nhưng anh bị đau ốm liên miên, chính cô bạn ấy phải lo săn sóc giùm. Nhưng sự giúp đỡ của người ta có hạn, dần dần Lưu Trọng Lư bị bỏ nằm chèo queo trong cảnh bần hàn bịnh hoạn. Anh không có con? (ở Hà Nội tôi không thấy có). Còn chị vợ buôn nước mắm, không nghe ai nhắc đến.
Thời kỳ Việt Minh lên nắm chính quyền, cũng theo lời cô bạn thuật lại, Lưu Trọng Lư làm cán bộ Công an đi bắt thuốc phiện lậu ở Huế! Nếu thật đúng như vậy thì đáng tức cười quá!
1949, tôi có đọc mấy bài thơ kí tên Lưu Trọng Lư trong vài tờ báo xuất bản trong chiến khu Miền Trung, tôi không tin của Lư. Mãi về sau này, tôi lại được đọc một bài thơ của anh trong một tập sách của một cơ quan Văn hóa Việt Cộng, xuất bản tại Hà Nội. Tôi không ngạc nhiên nữa nhưng hết sức buồn.
Trong bài thơ ấy, Thi sĩ mơ mộng của Mùa Thu dịu lành lại ca ngợi sự chém giết và say sưa hô hào máu, máu, máu.
Ngòi bút của anh trước kia chép vần thơ Tiên trong mây trong gió, bây giờ lại chấm vào máu viết trên đầu lâu, sọ dừa!
Than ôi! Thế cuộc đảo điên! Cho đến nỗi Lưu Trọng Lư hiền lành thân quen của tôi cũng không còn gì là Lưu Trọng Lư nữa.
Thơ Lưu Trọng Lư
Lư thích làm thơ hơn là viết truyện. Lúc viết một tiểu thuyết, Lư không hăng say như Lan Khai, không chăm chú như Vũ Trọng Phụng, không cặm cụi như Nguyễn Tuân.
Những truyện dài, truyện ngắn của Lư đều giống như những bài thơ gượng ép, phải kéo dài thành nhiều chương, phải bố trí các bối cảnh, tạo ra các nhân vật, phải sắp xếp các hành động, và tất cả các nhân vật, bối cảnh, hành động đều thêu dệt bằng thơ mộng. Nếu tiểu thuyết của Lưu Trọng Lư hấp dẫn một phần nào chính là vì mầu sắc thơ mộng bề ngoài của nó hơn là vì những tình tiết, bố cục ở nội dung.
Lưu Trọng Lư lười biếng viết Tiểu thuyết, tự bắt buộc viết để có tiền, phải viết truyện mới có tiền ăn tiêu hằng tháng. Chứ tiểu thuyết không phải là sở thích của Lưu Trọng Lư.
Chơi với Lư lâu ngày tôi biết, nếu Lư giàu có, hoặc vợ có vốn liếng buôn bán khá giả có thể lo đầy đủ cho đời sống phong lưu của anh, thì Lư không thèm viết tiểu thuyết đâu. Lư chỉ làm thơ, và lúc nào hứng mới làm. Không phải như Lan Khai, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân chẳng hạn, viết tiểu thuyết vì sở trường, vì thích thú, chứ không hẳn riêng vì sinh kế.
Lưu Trọng Lư thuộc về hạng Thi sĩ bẩm sinh, một giống người đặc biệt sống bằng mơ mộng hơn là thực tế, nhiều khi quên cả thực tế.
Cho lên Lư khổ tâm lắm, và ghét lắm, mỗi khi phải viết bài đưa cho tòa soạn”. Và luôn luôn ông Chủ nhiệm Vũ Đình Long, Tiểu thuyết thứ bảy, hay ông Chủ nhiệm Lê Cường, Tiểu thuyết thứ năm, chỉ giục thi sĩ viết tiểu thuyết chứ không bao giờ giục thi sĩ làm thơ đâu! Thơ là món hàng trang trí, không bắt buộc, và không có tiền “nhuận bút”. Ông Chủ nhiệm cũng ít khi hăng hái bỏ tiền ra xuất bản một tập thơ của thi sĩ.
Thơ của Lưu Trọng Lư đăng rải rác trên các tuần báo, các tạp chí văn nghệ khá nhiều từ 1932, mãi đến 1939 mới được nhà sách Tô Văn Đức, ở phố Cầu Gỗ, xuất bản, dưới nhan đề Tiếng Thu.
Hôm Lư đem cho tôi một bản đặc biệt, anh nói riêng cho tôi biết rằng Tô Văn Đức xuất bản tập thơ này là để trừ những món nợ lặt vặt mà Lư đã hỏi mượn trước, chứ Lư không nhận được tiền “bản quyền” bao nhiêu.
*
Có một lần ở tại nhà trọ của Lư phố Hàm Long tôi cười hỏi Lưu Trọng Lư:
- Lư ơi, bài thơ Tiếng Thu có phải thật của cậu không?
Có Nguyễn Xuân Huy ngồi đấy, Lư “cười như nắc nẻ”:
- Thằng này mơ mộng thật! Mi tưởng bài đó của Thế Lữ à?
- Thế Lữ làm gì nổi một bài thơ như thế. Nhưng tao có đọc một bài thơ của một thi sĩ Nhật Bản, giống hệt bài thơ của mày, và bài thơ Nhật cũng tựa đề là Tiếng Thu.
Lưu Trọng Lư ngó Xuân Huy:
- Huy, mầy thấy thằng Vỹ nó điên không?
Huy bảo tôi:
- Bài thơ Nhật như thế nào?
- Mày muốn chép, tao đọc cho chép. Đây là một bài Tanka nổi tiếng:
Oku yama ni
Momoji fumi wake
Naku shika no
Koe kiku toki zo
Aki wa kanashiki
Tác giả là Sarumaru, thế kỉ VIII.
Bài thơ này, Michel Revon có dịch ra Pháp văn trong quyển “Anthologie des poètes japonais” – (Ed. Hachette):
Combien triste est l’automne
Quand j’entends la voix
Du cerf qui brame
En foulant et dispersant les feuuilles des érables
Dans les profondeurs de la Montagne.
- Karl Petit, trong quyển “La poésie japonaise (Ed. Seghers) lại dịch đảo ngược lại, nhưng đúng theo nguyên văn bài thơ Nhật:
Aux profondeurs de la Montagne
Ecartant et foulant les feuilles d’érable
Le cerf brame
Et à l’entendre ainsi,
Ah! que l’automne m’est lourdement triste!
Dịch đúng nghĩa ra Việt văn:
Trong núi rừng sâu
Ta nghe tiếng xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Ôi buồn làm sao!
Bài Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư!
…
Em không nghe mùa thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
Lưu Trọng Lư cãi liền:
- Bài của tao còn đọan trên:
…
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ.
Tôi cười:
- Cậu làm bài thơ này hồi năm nào?
- Mới đây.
- Mới đây, và mấy năm nay trong nước mình làm gì có chiến tranh, có “kẻ chinh phu” có “người cô phụ”? Tôi cho rằng cậu ghép thêm ba bốn câu đó vào bài thơ của Saramaru để tương đối đôi chút, nhưng cậu lấy trọn vẹn bản chính của Saramaru.
Lưu Trọng Lư không cãi nữa, nhưng Nguyễn Xuân Huy cười:
- Kết luận: les grands esprits se rencontrent! (Những trí óc vĩ đại thường gặp nhau!)
Lưu Trọng Lư cũng biết rằng Lư nổi tiếng là nhờ bài này, nên anh lấy tựa đề bài thơ Tiếng Thu làm nhan đề cho quyển thơ của anh.
Nhân vụ này, tôi cũng cho Lưu Trọng Lư và Nguyễn Xuân Huy biết là câu thơ:
Yêu là chết trong lòng một tí
Của Xuân Diệu, là lấy nguyên vẹn câu của nhà văn Pháp Roland Dorgelès đề trên trang đầu quyển phóng sự hồi kí “Sur la route mandarine”:
Partir c’est mourir un peu
(đi, là chết trong lòng một tí).
Chỉ đổi động từ Partir thành Yêu mà thôi.
Cũng như tất cả những truyện ngắn của Đoàn Phú Tứ trong tập truyện “Những bức thư tình, đều dịch ra từ các truyện của các nhà văn Pháp: Jules Renard, Courteline, P. Benoit, Secha Guitry.
Đoàn Phú Tứ dịch hẳn ra Việt văn, chứ không phải phóng tác, hay “phỏng dịch”, mà anh ta lờ luôn “xuất xứ”, tự đề tên tác giả là Đoàn Phú Tứ?
Cũng hôm ấy, Nguyễn Xuân Huy và Lưu Trọng Lư bảo tôi viết một bài trong Hà Nội Báo, phê bình tập truyện của Đoàn Phú Tứ, với câu kết luận là “trả lại César cái gì của César”. Bài đó có đăng hai trang Hà Nội Báo của Lê Tràng Kiều.
Vi Huyền Đắc
(1899 - 1976)
Trống trường tiểu học Thanh Niên vừa đánh ba tiếng cho học trò ra chơi, thì thầy giáo Trương Tửu đi giày lốp bốp sang nhà tôi ở ngay bên cạnh. Tửu tươi cười nhanh nhẩu:
- Có một ông thầu khoán sẽ đến chơi.
Tưởng Trương Tửu nói đùa, tôi phì cười:
- Ông thầu khoán? Họ muốn bán xi măng cốt sắt cho tụi mình hả?
Trương Tửu cười sặc sụa, mặt đỏ như quả gấc:
- Một ông thầu khoán ở Hải Phòng, xây dựng nhà cửa và có dư thì giờ xây dựng những vở kịch. Kể ra, hắn cũng là một tay độc đáo đấy nhé.
- Tên là gì?
- Vi Huyền Đắc.
- Cái tên có mùi sân khấu…
- Cậu phải đọc những vở kịch của anh ta. Ở Việt Nam không có một người thứ hai như Vi Huyền Đắc đâu.
- Hắn ta đã viết những vở kịch gì?
- Nhiều lắm. Cả kịch bằng Việt văn, cả bằng Pháp văn, đến năm sáu cuốn. Cậu phải bảo nhà sách Nam Kỳ gởi cho cậu xe.
- Một Cornelle? Một Racine? Một Voltaire?
- Không, một Vi Huyền Đắc.
- Tôi không quan niệm được một ông thầu khoán mà lại là kịch sĩ. Một người cả ngày chỉ có việc làm những bài toán với mấy bao xi măng, mấy đống gạch, mấy cái bù lon, bao nhiêu thước đá và thước cây, thì làm sao có được tinh thần nghệ sĩ để viết những vở kịch nhỉ?
- Vi Huyền Đắc không phải là một nhà thầu khoán làm kịch sĩ, mà là một kịch sĩ làm thầu khoán. Anh vừa xuất bản vở kịch bằng Pháp văn “Eternels Regrets” đem lên Hà Nội biếu các bạn trong làng Văn, sáng nay có gặp tớ và có nhờ tớ cho cậu biết trước rằng trưa nay hắn sẽ đến thăm cậu và biếu cậu một quyển.
Trống trường Thanh Niên lại đánh ba tiếng, hết giờ chơi. Nhưng Trương Tửu không trở lại lớp học nữa. Anh đã nhờ một người bạn dạy thế.
Chúng tôi uống trà, nói chuyện về môn kịch sứ ta, và ở Pháp, Anh, Nhật. Ở mấy nước kia cũng như ở nhiều nước khác, môn kịch rất thịnh hành. Không những người soạn kịch mà cả đến những người đóng kịch có tài cũng đều được công chúng nhiệt liệt hoan nghênh, chính phủ trọng vọng. Còn ở xứ ta, những nhà Đại kịch sĩ của mấy thế kỉ trước đã soạn ra các tuồng hát bội danh tiếng thì ít ai biết đến tên. Văn học sử cũng không hề nói tới họ. Các người đóng kịch, thì bị mang tiếng là “xướng ca vô loại”!
Hồi đầu thế kỉ XX này, do ảnh hưởng của kịch Pháp nước ta có Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, và một đôi người nữa dịch vài ba vở bi kịch và hài kịch của Corneille và Molière, nhưng thiên về văn chương hơn là phương diện trình diễn… Tôi nhắc đến một kịch sĩ Pháp ở Sài Gòn là Claude Bourrin có thí nghiệm một bản kịch Việt Nam chuyên diễn xuất những vở kịch ngắn (seynètes) theo loại Vaudevilles, trong những năm 1935-36-37, nhưng cũng thất bại, vì số khán giả Việt Nam không có bao nhiêu người. Ban kịch này có ra Hà Nội nhưng cũng không thành công. Vả lại các kịch ngắn của Claude Bourrin tuy diễn bằng tiếng Việt, nhưng cũng chỉ mới là những hài kịch ngắn soạn bằng tiếng Pháp dịch ra tiếng Việt chưa được hay lắm. Kể về kịch chân chính, đại quy mô, thì chưa có mấy ai chuyên môn. Họa chăng bây giờ mới có Vi Huyền Đắc.
Nhưng Vi Huyền Đắc có phải thật là môt kịch sĩ tiền phong mà chúng ta mong đợi hay không? Ông có tài nghệ dồi dào về môn kịch không?
Chính với hy vọng thiết tha đó mà buổi trưa hôm ấy tôi vui mừng chờ đón Vi Huyền Đắc, tuy chưa hân hạnh biết anh.
*
Giữ Trương Tửu ở lại ăn cơm với tôi nhưng Tửu phải về Gia Lâm thăm ông cụ, tôi ngồi một mình nơi phòng khách hồi một giờ, đang xem một quyển sách, thì một người vóc cao từ ngoài sân gác bước vào, mắt to mũi lớn, miệng rộng, nở một nụ cười mênh mông, và tiếng nói rang rảng:
- Có chủ nhân ở nhà không?
Tôi cười đứng dậy:
- Thưa có.
Tôi đưa tay ra bắt tay anh. Anh vẫn nói cười tự nhiên:
- Vi Huyền Đắc đây.
- Rất hân hạnh.
Coi bộ anh đã lớn hơn tôi mười hay mười lăm tuổi là ít, và trông có vẻ nghệ sĩ nhiều hơn là thầu khoán lục lộ. Anh lấy một quyển Eternels Regrets đã viết sẵn mấy dòng chữ tặng tôi. Tôi bối rối không biết nói câu gì để cảm ơn anh, vì mới lần đầu tiên quen nhau anh đã có hảo ý biếu tôi một quyển thuộc về loại sách đẹp, in trên giấy bouffant đắt tiền và ấn loạt rất có mỹ thuật.
Chúng tôi nói chuyện rất lâu về môn kịch, và tôi cảm thấy rõ rệt là anh Vi Huyền Đắc có rất nhiều triển vọng về môn sở trường của anh.
Vở kịch Eternels Regrets đã chiếm được giải thưởng danh dự của Hàn Lâm Viện Nice, một giải thưởng xứng đáng vì với quyển ấy Vi Huyền Đắc đã tỏ ra một nhà kịch sĩ có thiên tài. Kịch này sắp trình diễn ở Paris năm 1939 thì chiến tranh bùng nổ. Đề tài là cuộc tình duyên của An Lộc Sơn với nàng Dương Quí Phi.
Sau đó, tôi có xem ba vở kịch khác của anh: Cô giáo Minh, Uyên ương, Thành Cát Tư Hãn, mà giá trị về văn chương cũng như nghệ thuật đã đạt đến một mức tinh vi hoàn hảo. Theo thiển ý của tôi, những vở kịch của Vi Huyền Đắc đều có thể dịch ra ngoại ngữ và trình diễn trên sấu khấu ngoại quốc.
Buổi gặp gỡ anh Vi Huyền Đắc gây cho tôi được rất nhiều cảm cách mến. Sau đó tôi có viết hai bài bằng Pháp văn trong báo La Patrie Annamite và Le Cygne để giới thiệu anh và quyển Eternels Regrets. Một người Tiệp Khắc có Pháp tịch và rất thông thạo Việt ngữ, - làm cả thơ chữ Việt nữa – lúc bấy giờ làm Chánh lục sự ở tòa án Hải Phòng, tên là Edmond Chodzko, quen với tôi từ ba bốn năm về trước có tỏ ý với tôi là ông muốn gặp anh Vi Huyền Đắc. Tôi có cho địa chỉ của anh, nhưng không biết về sau hai người có gặp nhau không. Ông Edmond Chodzko muốn đem các vở kịch của Vi Huyền Đắc qua trình diễn ở Paris và Prague.
*
Rất tiếc vì bận công việc riêng của mỗi người, và ở hai thành phố cách xa 100 kilômet, chúng tôi không có nhiều dịp gặp nhau. Chỉ có một lần Trương Tửu và tôi đi Hải Phòng, đến thăm anh Vi Huyền Đắc tại biệt thự của anh ở bến Hạ Lý. Anh đang bận công việc thầu khoán ở đâu gần đó, chúng tôi ngồi phòng khách chờ một lúc, người nhà đi mời anh về.
Cuộc hội kiến này rất là vui vẻ thân mật, anh Vi Huyền Đắc giữ ở lại chơi khá lâu, nhưng tiếc thay, từ đó chúng tôi lại không có cơ hội tiếp xúc với nhau nữa.
Mãi sau đình chiến và thỏa hiệp Genève, tôi mới được biết anh Vi Huyền Đắc di cư vào Sài Gòn, cuối năm 1954. Tôi chạy đi kiếm anh. Gần 20 năm xa cách, được gặp lại anh, tôi hồi hộp sung sướng muốn khóc lên. Vẫn với cặp mắt thông minh to lớn ấy, hai lỗ mũi bự ấy, cái miệng rộng ấy, anh mừng rỡ đón tôi với một tiếng cười nổ như sấm.
Anh ở một căn nhà tĩnh mịch, mà anh đặt tên là Hoàng Mai Hiên, giữa một cảnh trí nên thơ ở miệt Ngã Năm Bình Hòa, ngoại ô Gia Định, có hai vợ chồng, với một u già. Bao nhiêu cơ đồ sự nghiệp ở Hải Phòng đều bỏ lại rất Bắc hết. Anh chị vào đây với hai bàn tay trắng. Bao nhiêu sách quý của anh, và các bản thảo, cả những tác phẩm của anh đã xuất bản hồi tiền chiến, đều bị mất sạch. Bấy giờ chị đi dạy học ở trường Tiểu học Đakao, và chị là một cô giáo rất được học trò quí mến[1], còn anh thì ở nhà dịch tiểu thuyết Tàu cho vài tờ báo, sống cuộc đời nhà văn thanh cao yên tịnh.
Viết đến đây, tôi không khỏi bùi ngùi về thân thế và sự nghiệp văn chương của một nhà kịch sĩ có thiên tài.
Trong lúc ở ngoại quốc, nhất là ở các nước mà trình độ văn hóa của công chúng đi theo kịp lịch sử tiến triển mãnh liệt của văn học, các nhà kịch sĩ đang đưa lên sân khấu những sáng tác phẩm vô cùng sôi nổi, ảnh hưởng lớn lao trong quần chúng, thì ở nước Việt Nam một nhà kịch sĩ có rất nhiều khả năng, nghệ thuật điêu luyện tinh vi, đành xếp các vở kịch một bên, để dịch các tiểu thuyết Tàu bán cho vài tờ báo, cho qua ngày qua tháng.
Sản phẩm thì để dành cho một số tuồng đề tài nhảm nhí, ý tưởng nghèo nàn, nghệ thuật hổ lốn, văn chương sơ đẳng. Một Năm Châu, một Kim Cương, một Út Trà Ôn dù có đầy đủ khả năng và thiện chí, cũng đành phải chạy theo sau lớp tuồng Vọng cổ.
Một Vi Huyền Đắc có thiên tài nhưng không có phương tiện, không có hoàn cảnh, làm sao xây dựng được một kịch trường xứng đáng với dân tộc nghìn năm văn hiến, để hãnh diện với kịch trường quốc tế?
*
Tôi đã nhiều lần trình bày riêng một vài đề nghị với anh Vi Huyền Đắc và anh Đinh Xuân Hòa, nay tôi xin phép nhắ
c lại: Các anh có thể nào công tác với nhau để gây ra một phong trào Kịch trường mới mẻ, tiến bộ, phấn khởi, để xúc tiến mãnh liệt và rộng lớn nghệ thuật Kịch trường Việt Nam không? Vì giá trị và danh dự của Văn hóa Việt Nam trước Văn hóa ngoại quốc, tôi thiết tha mong mỏi có sự cộng tác ấy.
Nguồn: Văn thi sĩ tiền chiến. “Chứng dẫn một thời đại” của Nguyễn Vỹ. NXB Văn học, 2007.
1. Chị Vi Huyền Đắc đã từ trần năm 1966 tại Hoàng Mai Hiên.
Chương I
Khái Hưng: Trần Khánh Giư
(1896 - 1947)
Tôi chỉ gặp Khái Hưng vài lần. Một buổi sáng cùng đi với Từ Bộ Hứa, nhà Thi sĩ ho lao, tác giả tập thơ bằng Pháp văn “Poésies Grises” mà báo Phong Hóa ngạo là “Thơ xám xịt”.
Tôi muốn đến thăm Khái Hưng để nói chuyện chơi và cảm ơn anh đã gởi cho mấy quyển tiểu thuyết “Lá mạ” của anh vừa xuất bản. Trong nhóm văn sĩ của Phong Hóa, thành thật tôi chỉ có cảm tình với Khái Hưng mà thôi, mặc dù trước đó chưa gặp anh lần nào.
Tòa báo Phong Hóa ở góc đường Quang Thánh và đường hàng Bún, một biệt thự thì đúng hơn, và có vẻ sang trọng.
Qua một sân trồng các thứ hoa, chúng tôi vào phòng khách. Nơi đây cách bài trí cũng có vẻ trưởng giả. Giữa salon, có đặt một cái kệ thấp, trên để một chiếc mâm đồng lớn, chạm trổ theo lối mỹ thuật Bắc. Chúng tôi đưa danh thiếp cho một người Tùy phái, thì vài phút sau, một người đã lớn tuổi ra niềm nở bắt tay chúng tôi. Đó là Khái Hưng.
Người gầy ốm, đôi má hơi cóp và nước da hơi tái, nhưng nụ cười rất tươi. Nụ cười ngụ nét hóm hỉnh, nhưng hiền lành khả ái, chứ không hời hợt đãi bôi như Thế Lữ và không trào lộng như Nguyễn Trường Tam.
Khái Hưng cũng không tự kiêu tự đắc, tính điềm và tao nhã, câu chuyện có vẻ thành thật và lịch sự. Tôi không đồng ý về một vài quan niệm của anh đối với tiểu thuyết, nhưng cuộc thảo luận vẫn thân thiện, vui vẻ. Có điều tôi phục anh, là anh thẳng thắn nhìn nhận rằng anh viết tiểu thuyết tùy theo nhu cầu và điều kiện văn nghệ của một thời đại mà thôi. Anh bảo:
- Những Romans à thèse Tiểu thuyết có chứa đựng một luận đề của tôi (câu này, anh dùng tiếng Pháp) chỉ có mục đích cải cách một vài tập tục trong xã hội Việt Nam hiện nay, những tập tục mà ta thấy rõ ảnh hưởng không tốt cho xã hội. Một ngày sau những tập tục đó sẽ không còn trong một xã hội tiến bộ hơn thì tiểu thuyết của tôi sẽ mất giá trị của nó.
Tôi bảo:
- Có lẽ vì anh chủ trương cải tạo xã hội nhất thời nên tôi có cảm tưởng hình như anh không đi sâu vào tâm lí các nhân vật trong truyện. Tôi nghĩ rằng tâm lí không bao giờ thay đổi.
- Tôi không có ý định viết một quyển “Le Disciple” như P. Bourget. Trái lại, tôi thấy trong quyển “Đứa Con Hoang” của anh, anh muốn phân tách tâm lí của người trong truyện, cho nên anh gạt bỏ ra nhiều thực tế quá.
- Quyển Đứa Con Hoang của tôi chỉ là một thí nghiệm sơ khởi. Dù sao, tôi rất thích quyển Hồn bướm mơ tiên của anh hơn cả các quyển khác.
Khái Hưng lấy hai quyển Hồn bướm mơ tiên tặng Từ Bộ Hứa và tôi, để làm kỉ niệm buổi gặp gỡ lần đầu. Anh viết lời tặng bằng Pháp văn.
Au Poète N.V.
Hommage Cordial de l;auteur.
Tên kí của anh giản dị rõ ràng, gần như tên viết thường.
Tôi có hỏi tại sao anh lấy bút hiệu Khái Hưng, anh bảo:
- Tên thật của tôi là Trần Khánh Giư, hai chữ Khánh Giư, sắp xếp theo lối anagramme thành ra Khái Hưng, chứ không có gì lạ. Còn bút hiệu của anh là Lệ Chi, có nghĩa gì?
Anh hỏi lại tôi. Tôi cười không đáp, Khái Hưng nói tiếp:
- Lê Tràng Kiều bảo Lệ Chi là Chị Lê, nhưng không nói rõ chị Lê là ai.
- Kiều nói đùa đấy. Không đúng… À, có người bảo anh có đi dạy học, phải không anh?
- Vâng, trước tôi có làm instituteur. Hồn bướm mơ tiên, chính tôi đã viết bản thảo từ hồi còn dạy học. Sau này tôi mới sửa chữa lại để đăng báo Phong Hóa.
Chương I
Trương Tửu
( 1913 - 1999)
Mười hai giờ trưa, trên gác trọ của tôi ở đường Général Bichot, vào khoảng tháng 8-1928, một người bạn quen, anh Trương Lâm, đưa đến tôi một người bạn không quen tên là Trương Tửu. Chàng mặc áo dài thâm, tóc bàn chải, đi guốc, cũng trạc tuổi với tôi, và cũng thấp như tôi. Cái tên của chàng đối với tôi lúc đầu tiên gặp nhau ấy, có lẽ không có nghĩa lí gì. Nhưng nụ cười của chàng cứng rắn, trung trực, nụ cười của một thanh niên tự tin nơi một sứ mạng huyền bí nào đó mà tự mình nhận thấy số kiếp đã gán cho đời mình.
Một người bạn khác, đã nói chuyện nhiều về Trương Tửu cho tôi nghe trước khi tôi quen biết chàng, là anh Nguyễn Ngọc Lễ. Anh này, người Quảng Nam, là đồng hương và đồng nghiệp với Trương Lâm, lúc bấy giờ hai anh đều làm lính Thủy trên chiếc tàu S/S Canton chạy đường Hải Phòng – Hong-Kong. Nguyễn Ngọc Lễ là người đã lén đưa tôi xuống tàu trốn sang Quảng Châu năm 1927-1928 để gặp vài nhà Cách mạng V.N. ở bên đó. Sau, anh Lễ trở về làm lính Khố đỏ cho Pháp đến bậc Trung tá, rồi năm 1948 làm Đại tá Chỉ huy trưởng Vệ binh Đoàn cho Bảo Đại, và sau cùng làm Trung tướng của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Sau ngày đảo chính đạp đổ chế độ Ngô Đình Diệm, Nguyễn Ngọc Lễ và Trương Lâm là hai bạn cố cựu nhất của Trương Tửu, và cũng là hai người đã cho tôi biết Trương Tửu lần đầu tiên, lúc Tửu hãy còn là một cậu thư sinh xuất sắc, đang nghiên cứu về Học thuật Âu Tây. Và tôi là một cậu thư sinh miền Trung mới ra ở Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Lễ bảo tôi:
- Trương Tửu là một thiên tài. Tôi có nói về anh cho Trương Tửu nghe. Tửu muốn làm quen với anh. anh muốn gặp Tửu không?
- Ồ, muốn lắm chứ. Một bạn trẻ có thiên tài mà không gặp thì uổng biết mấy!
- Nếu anh muốn gặp thì tháng sau, tụi tui đi Hồng Kông về, Lâm sẽ đưa Trương Tửu đến nhà anh.
Mãi ba tháng sau, Trương Lâm mới đưa Trương Tửu đến gặp tôi.
Quen nhau chưa đầy 15 phút, anh chàng mặc áo dài thâm với gương mặt gân guốc, cặp mắt sáng quắc đầy vẻ thôi miên, tiếng nói khàn khàn, nhưng rất lôi cuốn, đã xổ cho tôi nghe một trang triết lí lẫn lộn siêu hình học, thần kinh học, tâm lí học, sặc một mùi Paul Janel, pha trộn với Nietzche và Freud. Tôi mỉm cười ngồi nghe… Tiếng của chàng vang nhịp nhàng trong tai tôi… “Voir, pour prévoir pour pourvoir…” Chàng chêm thêm câu tiếng Pháp.
Tôi còn giữ trọn vẹn hình ảnh của Trương Tửu như thế, hôm mới bắt đầu quen nhau, trong tiếng đồng hồ đầu tiên của cuộc thâm giao gắn bó hai tâm hồn một phần tư Thế kỉ. Gần hai giờ, anh ra về. Tôi đưa anh xuống cầu thang đến cửa. Hai nắm tay siết chặt nhau, bốn mắt nhìn nhau, hai nụ cười im lặng.
Cuộc gặp gỡ đầu tiên này đã in ngay trong trí óc của chúng tôi mối cảm giác rõ rệt là hai người thông cảm nhau bằng hai thái cực. Cảm giác ấy được xác nhận không sai lầm suốt những năm về sau, trên quan điểm Văn học cũng như chính trị, tôn giáo, triết học, xã hội. Hai tâm hồn và hai tính chất khác hẳn nhau, nhưng lại hòa hợp với nhau rất dễ dàng, rất tự nhiên, rất trực nhiên.
Trương Tửu có khiếu ngôn ngữ và lí luận. Lời nói của anh là một sản phẩm của máy móc, lí luận của anh là một dây chuyền ngôn ngữ phối trí chặt chẽ, liên kết mạch lạc, và rèn giũa với một nghệ thuật tinh vi tế nhị. Anh là một nhà hùng biện bẩm sinh. Không do một học đường nào đào tạo cả.
Với rất ít, anh xây dựng rất nhiều. Với một chấm nhỏ nẩy ra từ hình thức của sự vật, anh kéo một đường thẳng tới tư tưởng vô cực. Anh là một nhà toán học chống giáo lí, đi tìm một bài toán cho nhân sinh, với những công thức do tự anh chế biến ra; không theo công thức điển hình nào cả. Và không bao giờ anh làm đúng, ít khi anh nói phải, nhưng luôn luôn anh có lí, Trương Tửu không phải là một hiện tượng. Nhưng anh là một trí óc thông minh đặc biệt. Với anh, sai lầm chống chân lí, và luôn luôn sai lầm thắng chân lí. Đôi khi tôi có cảm tưởng như anh đã ngẫu nhiên lạc hướng theo Emmanuel Kant, anh cũng chống lại Lí trí Thuần túy. Anh cũng bình phẩm nghiêm khắc Lí trí thực tế. Anh luôn luôn tự mâu thuẫn với anh một cách rất là hợp lí. Tôi tiếc quá, giả sử Trương Tửu mơ mộng một tí, thì những ý tưởng của anh sẽ đượm đôi chút tinh hoa của Lí trí thiêng liêng. Thì sẽ đẹp biết bao!
Nhưng không! Trương Tửu chống mơ mộng, chống cả Thiêng liêng.
*
Trương Tửu sinh trưởng trong một gia đình trung lưu ở ngoại ô Gia Lâm, trong một thôn nằm dài theo con sông Hồng Hà, bên kia Hà Nội. Nhà anh ở cách phi trường Gia Lâm chừng một kilômet. Tôi có đến đấy bốn năm lần Lê Văn Trương có khi ở đấy cả tháng để viết tiểu thuyết. Xuất thân từ trường Bách Nghệ Hải Phòng, - một loại trường Kĩ thuật Cao thắng ở Sài Gòn hiện nay, - và nơi đây anh học nghề thợ tiện (tourneur), tiện cây sắt. Nhưng anh bỏ học, và không làm thợ bao giờ.
Trương Tửu thuộc về loại nhà văn tự học, nhờ đọc sách nhiều. Có lẽ một phần nhờ trường Bách Nghệ huấn luyện mà Trương Tửu có sẵn thiên tài Văn nghệ lại tự đào tạo được một tinh thần máy móc cứng rắn. Lí luận của anh rất đanh thép, câu Văn của anh cũng như búa, như kềm. Lời nói của anh vang ra như tiếng đập sắt trên đe. Lúc nào cũng nẩy lửa, nghe lâu chát cả tai, có khi rùng rợn như tiếng cười trong địa ngục của Dante, có khi xôn xao kinh khủng như lửa cháy thành Roma.
Mẹ chết sớm, Trương Tửu còng ông Thân sinh, một nhà Nho thủ cựu. Tửu không có anh em trai, chỉ có một người chị đã có chồng, làm nghề thợ Bạc. Ông Thân sinh không hiền lành, nét mặt nghiêm khắc nhưng ông để Trương Tửu muốn làm gì thì làm, không bó buộc. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi: Ông Cụ có linh tính gì về nghiệp chướng của con trai mà đặt tên cho chàng như thế? Đã là họ Trương cùng họ với Trương Phi mà lại tên Tửu, cho nên chàng rất nóng tính và rượu “một cây”!
Lúc nào cũng như say: cười đỏ mặt, nhiều khi suy nghĩ một việc gì cũng tự nhiên mặt đỏ bừng bừng. Tửu chơi thân với Lê Văn Siêu ở phố Tientsin, vì anh này cũng ở trường Bách Nghệ Hải Phòng ra cùng một khóa với Tửu. Hồi đó, Lê Văn Siêu buôn bán các đồ thêu, dentelles, và không viết văn. Suốt thời kì tôi ở Hà Nội 1928-1941, tôi không hề thấy Lê Văn Siêu viết văn.
Trương Tửu có thương một cô gái may, con gái ông chủ tiệm may ở đường Tientsin, gần nhà Lê Văn Siêu và sau Tửu cưới làm vợ. Nhưng Tửu không có tình yêu tha thiết: ái tình đối với anh cũng là một hình thức của lí luận, một bài toán mà anh tìm giải đáp, thế thôi. Đến khi cưới vợ rồi, anh không còn biết yêu là gì nữa. Khi giải đáp đã tìm được, dĩ nhiên là bài toán không còn.
Có lần, nhân lễ Trung Thu, trường Thanh Niên tổ chức tiệc thưởng Trăng rất thơ mộng trên sân thượng. Trương Tửu cho biết Tửu sẽ đưa vị hôn thê đến dự tiệc. Nhưng sự thật thì 9 giờ, cặp uyên ương dắt nhau đến ngồi trong lớp học ở lầu hai để “thảo luận về Lễ cưới sắp cử hành”. Thảo luận xong, Tửu đưa cô ả về nhà, rồi một lát sau, chàng trở lại dự tiệc một mình. Tôi bảo thật với Tửu rằng tôi không thể quan niệm tình yêu khô khan như thế được. Tửu cười đỏ mặt:
- Tình yêu là cái quái gì?
Trong suốt thời gian tôi quen thân với Tửu, tôi chưa hề biết Tửu có một người yêu nào. Chỉ có một lần, xảy ra một “Scandale” làm xôn xao dư luận trong giới nhà văn Hà Nội.
Chúng tôi quen thân với một chàng làm nghề xem chỉ tay khá nổi tiếng thời bấy giờ. Tây Đầm đến xem đông. Chàng làm được nhiều tiền. Chàng có một cô vợ đẹp. Trương Tửu và tôi thường được vợ chồng anh thầy tướng mời đến ăn cơm. Bỗng dưng một hôm, cô vợ bỏ nhà đi mất. Anh thầy tướng hoảng hốt chạy đi tìm rối rít khắp nơi. Anh đến nhà tôi, báo tin cho tôi biết và hỏi Trương Tửu. Tửu cũng đi vắng từ đêm hôm trước, chưa về. Tôi nghĩ rằng Tửu về Gia Lâm thăm ông Cụ.
Cô vợ anh thầy tướng đi nửa tháng biệt vô âm tín. Tôi cũng không có tin tức gì của Trương Tửu trong nửa tháng ấy! Bỗng một hôm anh thầy tướng gặp tôi, bảo: “Anh ơi, có người cho tôi biết vợ tôi với Trương Tửu đang ở ngoài Đồ Sơn…”
Tôi cười:
- Thật à?
Hôm sau tôi đi xe đò xuống Hải Phòng, tìm đến nhà anh Vi Huyền Đắc. Tôi nghĩ rằng nếu Trương Tửu đi bãi biển Đồ Sơn thế nào cũng có ghé chơi nhà Vi Huyền Đắc. Quả nhiên đến đấy, tôi gặp Tửu. Tôi giấu mục đích đi Hải Phòng của tôi. Sau khi trò chuyện với Vi Huyền Đắc một lúc lâu, tôi rủ Trương Tửu đi dạo phố chơi. Ra đường tôi hỏi thật, và Tửu cũng nói thật hết cho tôi nghe: Chính vợ của anh thầy tướng rủ Tửu đi Đồ Sơn, và nàng bỏ tiền ra để hai người sống một tuần “phiêu lưu tình cảm” trên bãi biển. Tửu bảo tôi:
- Chứ moa làm gì có tiền để đi chơi lang bang như thế? Toa biết chứ, moa làm gì có tiền?
- Cậu có yêu nó không?
Tửu đỏ mặt, cười:
- Yêu là quái gì?
- Dù sao nó cũng là vợ của thằng bạn, cậu làm thế không thấy kì sao?
Tửu cười, mặt càng đỏ bừng lên:
- Moa tưởng Y-S. nó biết vợ nó đi Đồ Sơn chứ? Nếu nó không biết thì nó ngốc!
Chúng tôi ra ga mua vé xe lửa về Hà Nội. Sau một tuần lễ được thỏa mãn, cô vợ của anh thầy tướng cũng đã trở về căn nhà nhỏ hẹp của anh, ở đường Văn Thánh, bên cạnh đền thờ Khổng Tử!
Anh thầy tướng “ngốc” thấy vợ về mừng quá, ôm vợ khóc nức nở. Cô vợ phớt tỉnh hỏi:
- Anh nhớ em lắm hả?
Trương Tửu và tôi vẫn đến chơi nhà anh thầy tướng một đôi lần nữa. Anh ta vẫn sốt sắng niềm nở mời chúng tôi dùng cơm, như không có chuyện gì xảy ra. Anh không bao giờ dám nhắc lại chuyện vợ anh với Trương Tửu đi Đồ Sơn, sợ vợ giận. Nhưng chính Trương Tửu không muốn đến nhà đó nữa, và không muốn gặp người đàn bà ấy nữa. Tôi bảo với anh thầy tướng:
- Anh nên dẹp cái nghề tướng bói của anh cho rồi?
Y-S. dắt vợ vô Sài Gòn, mở phòng xem chỉ tay ở xóm Nancy.
Một thời gian, Trương Tửu sống với tôi và một người bạn thôi miên mê thơ Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị, tên là Vũ Trang. Thời gian này, Tửu và tôi cùng dạy học ở trường “Thanh Niên”, bên cạnh nhà tôi ở Ô Chợ Dừa. Vũ Trang thì đi chữa bịnh các cô gái điên bằng phép thôi miên.
Vũ Trang, con một ông danh y ở đường Alexandre de Rhodes, hiện nay là đường Lục Tỉnh, Chợ Lớn, gần đồn Cây Mai. Nho học khá, anh nổi tiếng về khoa thôi miên từ khi anh chữa bịnh cho một cô gái điên, con của một gia đình giàu sang ở Đà Nẵng. Anh ra Hà Nội ở trên gác trọ Khâm Thiên với Trương Tửu và tôi. Mỗi sáng về mùa đông, anh thường dậy sớm, đun nước pha trà tàu, rồi gọi chúng tôi dậy. Ba đứa ngồi trùm ba cái chăn bông, trên ba ghế ở phòng khách, uống trà, nói chuyện văn chương, Trương Tửu và tôi nghe Vũ Trang ngâm thơ Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị. Anh ngồi rung đùi, ngâm say mê, và tụi tui phê bình mỗi bài, so sánh với các thơ Đông Tây, Kim Cổ.
Nhiều tháng chúng tôi không có tiền, Vũ Trang đi biểu diễn thôi miên, ở các tỉnh, đem tiền về tiếp tế cho chúng tôi. Có lần tôi được tiền nhuật bút 10 đồng, Trương Tửu lấy 4 đồng đi uống rượu đế và ăn thịt chó ở hàng thịt cầy bên cạnh. Vũ Trang lấy 4 đồng đi Nam Định để biểu diễn thôi miên.
Trương Tửu thôi dạy học và bắt đầu viết bài phê bình Văn nghệ. Bài đầu tiên phê bình Lan Khai, đăng trên báo Loa. Lan Khai đọc bài này, cảm động quá, vui sướng quá. Anh không ngờ Trương Tửu khen anh bằng một bài đặc biệt như thế. Lan Khai bảo tôi giới thiệu anh với Trương Tửu. Hôm ấy Trương Tửu về chơi ở nhà bà chị làm nghề thợ bạc ở phố Hàng Buồm. Tôi đưa Lan Khai đến đấy. Tửu tiếp Lan Khai niềm nở, nhưng sau câu chuyện xã giao thân mật nhà Văn đường rừng rủ Tửu và tôi đi nằm tiệm thuốc phiện. Chúng tôi cười và từ chối, vì chúng tôi không phải “dân làng Bẹp”. Từ đó về sau, Tửu ít thân thiện với Lan Khai. Tôi hơi ngạc nhiên vì Tửu không phải là con người câu nệ.
Sau Lan Khai, Trương Tửu phê bình Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương… cũng trong tuần báo Loa. Làng Văn bắt đầu chú ý đến Trương Tửu vì loạt bài phê bình văn nghệ ấy. Lần đầu tiên người ta phục giọng văn cứng cỏi, khúc chiết, cô đọng, tư tưởng thâm trầm và sáng sủa của một nhà văn hoàn toàn mới lạ. Sau đó, Trương Tửu cộng tác với tôi trong tờ tuần báo Le Cygne – Bạch Nga. Để trả lời dư luận chống báng trường thơ Bạch Nga, do Thế Lữ gây ra trong tuần báo Phong Hóa, một nhóm bạn nhà văn và trí thức Hà Nội đề nghị chúng tôi lên diễn đàn hội quán Khai trí Tiến Đức (AFIMA) ở Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Tôi nhường vinh hạnh ấy cho Trương Tửu.
Đề tài diễn thuyết là “Thơ Bạch Nga” thu hút một số rất đông công chúng trí thức, văn nghệ sĩ và sinh viên học sinh, đến nỗi chật ních cả Hội quán. Lần đầu tiên một số rất đông phụ nữ và thanh niên đi dự thính tại Hội quán AFIMA là hội trường cổ kính và phong kiến mà họ ít thích lui tới. Buổi diễn thuyết của Trương Tửu khởi đầu từ 9 giờ tối kéo dài đến 10 giờ 30, được thính giả nhiệt liệt hoan nghênh. Trương Tửu càng nổi tiếng về tài hùng biện của anh.
Tôi không đi dự, nằm nhà trùm chăn tán gẫu chuyện Văn Thơ Đường Tống với Vũ Trang. 11 giờ Trương Tửu về, tường thuật lại cho chúng tôi nghe.
Trương Tửu không làm thơ, không bao giờ làm thử một bài, chỉ nghiên cứu và nhận xét, phê bình chặt chẽ, và ngâm thơ rất hay. Anh có giọng ngâm trong trẻo và đầm ấm, khiến nhiều thiếu nữ nghe mê.
Dĩ nhiên là mấy anh bên tuần báo Phong Hóa nhất là Thế Lữ (Khái Hưng và Tú Mỡ không bao giờ hùa theo) luôn luôn tìm cơ hội để nhạo báng tôi và Trương Tửu. Nhưng chúng tôi không phản ứng.
Sau đấy, Trương Tửu viết nhiều báo Văn Hóa, Ích Hữu, Tao Đàn… nhưng anh cũng tránh những cuộc bút chiến với nhóm Phong Hóa.
Trương Tửu không có một thú giải trí nào, không thích đánh cờ, không thích du lịch, không ưa xem phong cảnh. Anh cũng không uống rượu lu bù, say túy lúy như kiểu Nguyễn Khắc Hiếu.
Anh chỉ có một dục tính: ham mê đọc sách. Anh sung sướng mỗi khi đọc được một quyển sách hay, và để hằng giờ nói chuyện về quyển sách ấy. Anh nghiên cứu rất kỹ về Truyện Thúy Kiều và thi sĩ Nguyễn Du. Anh rất khách quan, và có nhiều khám phá tài tình về nghệ thuật thơ của các Thi sĩ đời hậu Lê. Anh nghiền ngẫm các sách văn học, triết học, và lịch sử của Nguyễn Văn Tố, Đào Duy Anh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh.
1937, Tửu vào Sài Gòn, diễn thuyết ở nhà hội Samipic cũng được hoan nghênh. Vào đây, anh có tìm gặp Phan Văn Hùm, Năm Châu, và Phùng Há. Về Hà Nội, nói chuyện lại với tôi, anh tỏ ra không có cảm tình nhiều với giới trí thức và văn nghệ ở miền Nam.
Ngoài những khảo cứu văn nghệ và triết học, Tửu cũng viết truyện. Truyện dài đầu tiên của Trương Tửu nhan đề “Thanh niên S.O.S” (1938) là tiếng kêu cứu của một thế hệ thanh niên đang suy sụp vì phong trào lãng mạn. Kế tiếp là “Một Chiến Sĩ” và “Khi chiếc yếm rơi xuống” (1939). Cả ba đều do nhà Minh Phương xuất bản, 15A cư xá Văn Tân, phố hàng Dẫy.
Bắt đầu đệ nhị thế chiến, ba quyển này đều bị nha Thông Tin và Báo chí Pháp (I.P.P.) cấm, vì đả kích xã hội An Nam thối nát dưới chế độ thực dân.
*
Nhờ người vợ có vốn liếng, mở tiệm Tạp hóa ở đầu phố hàng Điếu, gần tiệm thợ may của cha vợ, Trương Tửu mở nhà xuất bản Hàn Thuyên và suốt ngày ở trên gác xép viết văn khảo luận về Văn học và triết học. Tửu vẫn say mê triết lí, chăm chỉ nghiên cứu các học thuyết Hi Lạp, La Mã và Pháp. Từ học thuyết này qua học thuyết khác, Tửu rơi vào triết lí Mác-xít, nhưng không thiên hẳn về một chủ nghĩa quốc tế nào vì nguyên tắc của Trương Tửu là chống giáo lí. Tửu không phải là một người trung kiên với một tín điều. Đúng hơn, anh là một người tự do tư tưởng, trước hết, là một nhà hùng biện hoàn toàn độc lập.
Một đêm trong kì Hội nghị Đông Dương do các nhà Báo ở Hà Nội và Sài Gòn tổ chức tại câu lạc bộ Thể thao của Pháp ở Hà Nội, dưới thời Mặt trận Bình dân năm 1936, trong danh sách các diễn giả đêm ấy có ba người kế tiếp nhau, Tửu, tôi và Amédée Clémenti, người Pháp chống chính sách Thực dân, chủ báo Argus Indochinois, chủ trương Việt Nam độc lập. Theo thể lệ của Ban Tổ chức, mỗi diễn giả chỉ được phép nói 15 phút thôi, thời gian quá ít ỏi, nhưng Ban Tổ chức hạn chế vì diễn giả đông. Trước khi lên diễn đàn, Tửu thông đồng riêng với tôi.
- Anh cho tôi 15 phút của anh nhé? Tối mai anh nói được không?
Tôi không do dự:
- Ừ!
Khi Trương Tửu nói được 14 phút, chủ tịch ngó đồng hồ rồi ngó anh:
- Còn một phút thôi nhé!
Tửu giả vờ không nghe, cứ nói mãi, nói mãi. Giọng hùng hồn của anh làm cho thính giả rạo rực say mê. 15 phút, chủ tịch rung chuông và gọi tôi.
Tôi ngồi dưới ghế, làm thinh không trả lời. Tửu vẫn thao thao bất tuyệt. Chuông lại rung, lại có tiếng gọi:
- Anh Vỹ đâu? Mời anh Vỹ lên!
Tôi vẫn làm thinh ngồi yên lặng để cho Trương Tửu nói… Anh chủ tịch níu áo anh, anh vẫn không nhúc nhích cứ nói hoài, nói mãi, càng nói càng hăng, càng hăng càng nói, mặc kệ người níu áo. Trương Tửu nói hết 30 phút rồi mà vẫn còn nói nữa…
Nhưng Clémenti sợ mất phần, chạy lên diễn đàn bảo Trương Tửu:
- Et alors?
Tửu mỉm cười quay lại ông:
- Une minute seulement, s’il vous plait! (Xin anh một phút nữa thôi).
Trương Tửu nói vừa đúng thêm một phút nữa, đi xuống. Cả phòng vỗ tay như sấm dậy. Anh và tôi cười khúc khích, dắt nhau ra về. Tôi gọi Trương Tửu là Mirabeau.
*
1938-1939, Trương Tửu chuyển hướng nhiều về chính trị và xã hội. Anh có tư tưởng tiến bộ, nhưng không chấp nhận Cộng sản Đệ Tam Quốc Tế.
Từ ngày tôi bị bắt lần thứ hai, vì lập trường chống Phát xít Nhật và Thực dân Pháp, thì tôi không còn cơ hội gặp lại Trương Tửu. 1954, tôi ngạc nhiên nghe tin anh dạy ở Đại học Văn Khoa Hà Nội (?), nhưng không ngạc nhiên sau đó khi nghe anh bị chính quyền Hà Nội khủng bố. Anh không phải là một con chiên ngoan trong chuồng cừu cộng sản. - Nguyễn Vỹ -
Chương I
Mộng Sơn
(1916-1992)
Bước chân vào làng văn một lượt với Anh Thơ, nàng lớn hơn tác giả Bức tranh quê vài ba tuổi.
Con gái thứ hai của một ông quản lí đồn điền ở Chũ (Phủ Lạng Thương), và có một căn bản học thức tạm đầy đủ, Vũ Thị Mai tuy còn là một cô gái trẻ trung nhưng thích ở miền rừng núi hoang dã hơn là ở thành thị, thích văn thơ và tư tưởng triết lí hơn là trang điểm và các thú vui vật chất nơi phồn hoa. Lúc đầu lấy bút hiệu là Sơn Tiên, Vũ Thị Mai đổi tên lại là Mộng Sơn sau khi đã đăng vài ba bài thơ khả ái trên báo Đông Phương của Lan Khai.
Nàng có vẻ đẹp rắn rỏi, ưa những cử chỉ và hành dộng tinh nghịch và cương quyết hơn là điệu bộ tha thướt ẻo lả của phần đông thiếu nữ “lãng mạn” thời bấy giờ. Nàng rất mê đọc sách, và tuy ở giữa miền rừng núi Phủ Lạng Thương nhưng sách gì mới xuất bản ở Hà Nội Mộng Sơn đều có nhờ người mua về đọc hết cả.
Rất thông minh, - một thông minh thấu triệt được nhiều trạng thái thâm thúy của sự vật, - và một khiếu nhận xét tế nhị mọi khía cạnh khúc chiết của tư tưởng, Mộng Sơn hai chục xuân xanh mà tinh thần đã cứng rắn và bao quát rộng tầm suy cứu hơn một phụ nữ trên ba mươi tuổi đã đỗ vài ba văn bằng.
Mộng Sơn không lãng mạn phóng túng, không giản dị ngây thơ như Anh Thơ. Mộng Sơn không đùa cợt với ái tình và không để tình cảm làm chủ lí trí. Lí tưởng của nàng là đem nữ tính đa cảm phụng sự cho tình yêu nhân loại. Văn chương của nàng cũng thấm nhần tình thương ấy. Mộng Sơn có những sở thích kì lạ hơn các thiếu nữ khác. Nửa đêm, nàng phi ngựa trên các núi đồi, dưới một trời ngập sương mù rét buốt, cho đến sáng mới về. Tắm biển, nàng bơi ra xa, để cho sóng đập xuýt chết chìm nếu cậu nàng, một Luật sư ở Pháp về, không bơi ra kịp để cứu nàng. Gia đình theo Đạo Thiên Chúa, riêng nàng đêm Noel không đi lễ nhà thờ, ở nhà làm thơ và đọc sách. Nàng biết khiêu vũ, nhưng không ham mê. Mộng Sơn khác hẳn các thiếu nữ “lãng mạn” của thế hệ Tiền chiến là ở chỗ đó.
*
Hai bài liên tiếp của Thế Lữ công kích thơ của tôi trong hai số báo Phong Hóa vừa ra được hai tuần lễ, gây một dư luận xôn xao trong Thi đàn Bắc Việt, thì Mộng Sơn là cô gái đầu tiên và xa lạ từ trên rừng núi Phủ Lạng Thương gởi bài về công kích Thế Lữ và binh vực tập thơ của tôi. Từ đó tôi quen với Mộng Sơn, nhưng chỉ giao thiệp cùng nhau bằng thơ từ gần một năm trời mà chưa biết mặt. Và cũng từ đấy, người ta trông thấy rải rác trong các tờ báo văn học ở Hà Nội những bài thơ của Mộng Sơn làm theo lối thơ Bạch Nga. Không cần đếm xỉa đến những lời công kích và mạt sát, Mộng Sơn ngồi ở trên núi rừng xanh của Chũ, hăng hái diễn tả những tư tưởng dồi dào của nàng trong các bài thơ Bạch Nga gởi về đăng trong các báo Hà Thành.
Một năm sau, Mộng Sơn về ở luôn Hà Nội, và làm chủ bút tờ tuần báo Việt Nữ. Về đây, do sự tiếp xúc với các giới cách mạng, Mộng Sơn dần dần từ bỏ làng Thơ, bước sang lĩnh vực học thuyết chính trị. Nàng khao khát cách mạng vô sản và hình như khuynh hướng theo Đệ Tứ Quốc Tế (trotskysme). Vào khoảng 1939-1940, Mộng Sơn không còn là con Bạch Nga duyên dáng kêu vang dưới ánh nắng hồng trên Hồ Hoàn Kiếm nữa. Nàng đã trở thành một nữ sĩ rất hăng hái của một nhóm chính trị.
Từ đó, trên đường tranh đấu cách mạng, Mộng Sơn dần dần xa tôi, vì tôi chủ trương cách mạng Dân tộc, chống Đế quốc và phát xít; đoàn kết tất cả các lực lượng không chia rẽ giai cấp và không đấu tranh giai cấp, còn Mộng Sơn thì theo chủ trương tranh đấu giai cấp nhưng lại cũng không theo đúng đường lối của Đệ tam Quốc tế của nhóm “Staliniens”.
Tuy vậy, mối thông cảm văn nghệ giữa chúng tôi vẫn còn. Khi được tin của Trương Tửu cho hay rằng tôi bị bắt và bị giam ở Lao, thì Mộng Sơn đến thăm và đem cho tôi một chiếc bánh mì và một kí chả lụa… Tôi không sao quên được nét mặt cứng cỏi nhưng buồn bã đau đớn của cô gái 22 tuổi, Nữ sĩ Cách mạng, đứng yên lặng nhìn tôi.
Rồi tôi bị đi an trí Trà Khê, không được tin Mộng Sơn nữa.
Mãi đến 1952, ở Sài Gòn, tôi đột nhiên vui mừng được đọc một quyển sách mới xuất bản từ Hà Nội gửi vào tặng tôi. Quyển sách nhan đề là Vượt cạn với tên tác giả là Bà Mộng Sơn.
Tôi chưa thấy một Nữ sĩ Việt Nam nào viết được một quyển sách về phụ nữ mà cảm động thấm thía và sâu sắc như quyển Vượt cạn của Mộng Sơn.
Đây là một tiếng kêu vừa não nuột, vừa mỉa mai chua chát, và đầy uất hận cho số phận của người đàn bà phải sinh đẻ trong các trường hợp đau thương. Mộng Sơn diễn tả cũng cảm động không kém Pearl Buck.
Năm 1953, chị Thụy An, tác giả quyển Đôi vợ chồng và Hai mớ tóc đi Hà Nội về, có cho tôi hay rằng Mộng Sơn viết rất nhiều và sắp xuất bản mấy quyển sách khảo luận về triết học và văn học sử.
Nhưng, tháng 8-1959, tôi được đọc tạp chí Việt Nam tranh ảnh Việt Nam xuất bản ở Hà Nội hồi đầu năm 1959, thấy có một bức hình Mộng Sơn đang làm lao công trong nhà máy sợi Nam Định.
Thế là đời sống Văn nghệ và tư tưởng của một nữ sĩ tài hoa đã bị nghiến nát trong guồng máy của chế độ.
Tôi ngắm tấm hình của Mộng Sơn, - vẫn diện mạo của Mộng Sơn hồi nào, mà ngẫm nghĩ buồn bã lan man…
Chương I
Nguyễn Tuân
(1910-1987)
Hồi tôi chưa gặp Nguyễn Tuân, tôi đã biết vài ba người bạn chơi thân với anh đều có cảm tưởng chung về anh như thế này:
- Nguyễn Tuân gàn lắm!
Cho đến Lưu Trọng Lư, là anh chàng mơ mộng nhất trong làng thơ làng văn lúc bấy giờ, - mơ mộng cũng gần như là gàn rồi còn gì! – mà cũng phê bình Nguyễn Tuân:
- Thằng ấy gàn thật.
Một buổi tối, Lư hỏi tôi:
- Mầy muốn gặp Nguyễn Tuân không? Đi đến nhà nó chơi đi!
Tôi hỏi Lư:
- Có phải nó gàn lắm không?
Lư cười ranh mãnh:
- Nó bảo nó không gàn. Nó bảo mầy gàn.
- Nếu thế thì đến xem đứa nào gàn.
Lư đi với tôi. Hai người đi tàu điện từ chợ Hôm lên đến giữa phố Hàng Bông, xuống ngay đầu phố Nhà Thờ.
Lư bảo:
- Nó ở nhà thằng Nguyễn Đàm là em ruột của nó, ở con đường này đây.
- Đàm là ai?
- Đã bảo Nguyễn Đàm là em ruột của Nguyễn Tuân, mà còn hỏi! Thế là đích thị mầy gàn rồi.
- Nhưng Nguyễn Đàm làm nghề gì chứ?
- Nó là con rể của Vũ Đình Long, chủ nhiệm Tiểu thuyết thứ bảy. Nếu không phải là con rể thì là em rể. Nếu không phải em rể là cháu rể… Nếu không phải cháu rể nữa thì thôi, tao chịu!
- Chính chú mầy mới thật là gàn đấy! Làm rể ông Vũ Đình Long mà cũng là một cái nghề à?
Lư cười sặc sụa, chỉ ngón tay ốm teo vào mặt tôi:
- Mi gàn mà mi bảo tao gàn! Làm rể ông Vũ Đình Long thì mới được làm quản lí nhà in và nhà báo của Vũ Đình Long chứ!
Hai đứa tôi vừa đi vừa cãi đùa chưa hết câu chuyện thì đã đến trước một căn nhà thắp đèn “manchon” chiếu một màu sáng xanh xanh.
Lư vào trước, nắm tay một chàng đang đứng trong nhà và cười ngó ra tôi. Tôi vừa bước vào. Lư nắm cả tay tôi, bảo chàng kia:
- Nó bảo mầy gàn, mầy bảo nó gàn, thế là đứa nào gàn? Tôi chưa biết chàng ấy là ai, chỉ nhận thấy một điều ngay trước mắt, là chàng có một đầu tóc bờm xờm kinh khủng. Giống hệt cái đầu của Jean Cocteau, thì si Pháp. Chàng mập mạp, coi bộ to lớn rềnh rang hơn tôi nhiều, và chắc chắn là nhiều tuổi hơn tôi. Chàng có một nét cười chúm chím rất hóm hỉnh, và đôi mắt ranh mãnh lạ thường, nhưng nụ cười và đôi mắt vô cùng khả ái. Tôi có cảm tình ngay khi chàng nhìn tôi:
- Cho mình biết tên, thì mình sẽ biết ngay là đứa nào gàn!
Tôi cười:
- Tụi mình cứ chơi với nhau mà không cần biết tên có được không?
- Được lắm. Mình cũng thích như thế đấy.
Lưu Trọng Lư cười ha hả:
- Đích thị hai đứa bây đều gàn bát sách cả hai!
Thế là Nguyễn Tuân và tôi quen nhau và mến nhau từ tối hôm ấy trong một trận cười rổn rảng, mà chưa đứa nào được giới thiệu cho biết tên đứa nào.
*
Nửa giờ sau, Nguyễn Tuân mặc áo đen, đeo càvạt, đi chơi với chúng tôi, lang thang trên phố hàng Gai rồi rẽ ra hồ Hoàn Kiếm. Chúng tôi ngồi chung quanh bàn nhỏ ăn kem bên một mành liễu từ trên cung trăng buông xuống. Chàng kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện kì thú hồi đời xửa đời xưa… Câu chuyện tình duyên trắc trở giữa một nghệ sĩ mù và một nàng công chúa. Tiếng nói trầm trầm như mặt nước hồ thu, thỉnh thoảng nổi dậy một đợt cười xao xác như làn sóng chập chờn khẽ tạt vào bờ.
Khuya rồi, khách thừa lương đã tản mác, ba đứa tôi còn ngồi dưới gốc liễu, duỗi chân trên cỏ, nhìn xuống mặt hồ. Nguyễn Tuân bảo:
- Tiếc rằng tớ không biết làm thơ như hai cậu. Nhưng cần gì biết làm thơ nhỉ? Mình cho rằng thưởng thức được trọn vẹn những ý thơ của gió trăng, hòa mình vào với hồn thơ của cây cỏ, ấy là biết làm thơ rồi… Người đời xưa, đã mấy ai làm thơ, nhưng họ toàn sống trong cảnh thơ và cảnh mộng. Mình tiếc không làm được người nghệ sĩ mù. Mình tiếc không gặp được nàng Công chúa, nhưng mình biết chuyện họ, mình sống lại với họ, thế là mình tạo chàng nghệ sĩ cho mình và nàng Công chúa cho mình… Hai anh chắc đã có hai nàng công chúa, còn tôi, tôi chỉ sống trong vang bóng một thời… Tôi chỉ yêu những nàng công chúa ở tận đời xửa đời xưa…
Lưu Trọng Lư bỗng phá tan giấc mộng của anh chàng có đầu óc bờm xờm:
- Đi lên Khâm Thiên ăn thịt chó chơi, tụi bây!
Nguyễn Tuân cười chúm chím (Nụ cười quen của chàng):
- Ừ, đi!
Tôi bảo:
- Hai anh đi, tôi về.
- Không ăn được thịt chó à?
- Tớ không có duyên với thịt chó.
Tuân bảo:
- Khỏi lo. Gắp một miếng chả chó bỏ vào miệng, nhai thong thả để thưởng thức cho hết mùi thơm của nó, rồi hớp một ngụm rượu, nuốt cái ực vào là có duyên với thịt chó ngay.
- Nhưng tớ cũng không uống rượu.
Lư ngó tôi:
- Cứ đi, rồi mình dạy cho cách uống rượu.
- Thì… đi!
Đêm ấy, ở quán thịt cầy nơi góc Ô Chợ Dừa, Lưu Trọng Lư và Nguyễn Tuân ra về say khướt. Mặc dầu Nguyễn Tuân bảo “Mùi thịt chó rất nên thơ”, tôi cũng không làm sao chịu nổi mùi thơ thịt chó.
*
Sau đó, tôi có gặp Nguyễn Tuân bốn năm lần. Nguyễn Tuân uống rượu thật nhiều, nhưng tôi chưa thấy Nguyễn Tuân nói bậy bạ như Lưu Trọng Lư lúc say mèm. Tuân, người Thanh Hóa, tính nết hay nghiêm nghị, và làm gì cũng đắn đo nhưng rút cuộc không làm được theo ý mình. Chất nghệ sĩ của Nguyễn Tuân là mơ, nhưng không phải cái mơ huyền ảo bông lông, mà chỉ là cái mơ ước thực tế, giản dị, gần gũi nhưng vẫn ít khi thực hiện được. Mơ một cuộc du lịch, mà không có tiền, rồi xách va li ra ga xe lửa để tưởng tượng là đi du lịch. Mơ có một nàng công chúa để yêu, nhưng không có nàng công chúa, rồi lấy bút vẽ ra một mĩ nhân để tưởng tượng đó là nàng công chúa. Những quyển tùy bút của Nguyễn Tuân hầu như là những trang giấy ghi chép các giấc mơ không thành của con người văn nghệ ưa phiêu lưu ấy. Cần nên nói nhiều một chút về tính ưa phiêu lưu của Nguyễn Tuân. Anh thường nói câu tiếng Pháp này với bạn bè: “J’aime la vie des Bohêmiens”, (tôi thích đời sống của những người Bô-hê-miêng). Anh cũng đã viết trong một tác phẩm của anh, đại khái: “Bàn viết của tôi đặt ở giữa thiên nhiên, giữa trời mây non nước không nhất định nơi nào cả”. Tôi chỉ nhớ đại ý như vậy, mà đó là đúng với sở thích của Nguyễn Tuân. Dù anh theo Đàm Quang Thiện sang Hồng Kông để đóng phim “Cánh Đồng Ma” hay anh xách vali đi nơi này nơi khác, mục đích vẫn là thỏa mãn óc phiêu lưu của Nguyễn Tuân, chứ không chú trọng đặc biệt về một công tác nào.
Nguyễn Tuân còn có một tính khác nữa, là bao biếm. Anh ưa công kích với giọng khôi hài nhưng không có ác ý hiểm độc như Thế Lữ hay Nhất Linh, mà khôi hài công kích để cười chơi thế thôi. Vì thấy đời không làm anh thoải mái nên anh thường chán đời. Anh có rất nhiều giờ phút chán nản, muốn buông trôi hết để đi biến mất một nơi nào vắng vẻ. Anh thích “tu tiên”, và khoái nghe những chuyện thần tiên. Anh có khá nhiều khuynh hướng về Lão Tử, và có lần muốn nghiên cứu Kinh Dịch. Trong quyển Chiếc lư đồng mắt cua loại giấy tốt của anh gởi tặng tôi, anh có đề một câu sau đây, mà tôi vẫn chưa quên được:
“Chúng ta là những con người ta của người ta
Chỉ có giấc mơ của mình là của mình.
Phải không Nguyễn Vỹ?”
- Phải lắm, Nguyễn Tuân ơi!
Ngày nay, tôi biết anh còn sống ở đất Bắc nhưng tôi biết anh đã chết rồi. Vì cái “con người” của anh, anh đã biết là không phải của anh, cũng như “giấc mơ của mình” đâu còn là “của mình” nữa?
Than ôi! Nguyễn Tuân! Tôi thương Lưu Trọng Lư ít, mà tôi thương anh nhiều. Vì Lư vẫn không bao giờ tin tưởng nơi cái gì cả và cả nơi Lư, chứ Nguyễn Tuân… Xưa kia… Chàng còn tin tưởng nơi giấc mơ xinh đẹp của con người Văn nghệ.
Có gì thê thảm bằng sự tan rã của một giấc mơ xinh đẹp?
Tác phẩm của Nguyễn Tuân
Muốn hiểu những đặc tính của văn chương Nguyễn Tuân, nên so sánh Nguyễn Tuân với Lê Văn Trương, hai người hoàn toàn trái ngược nhau, từ cử chỉ, điệu bộ, ngôn ngữ đến lối hành văn và tinh thần văn nghệ.
Lê Văn Trương nói năng thô lỗ, cục mịch, ồn ào nóng nẩy, đôi lúc nghênh nghênh có vẻ “cao bồi”. Nguyễn Tuân, ngôn ngữ nhỏ nhẻ, đàng hoàng, từ tốn như một chàng thư sinh Nho giáo, chậm rãi và điềm nhiên.
Lê Văn Trương hay khoác lác, ba hoa thiên địa, biết ít mà làm như biết nhiều. Ngyuễn Tuân dè dặt đến mức độ ngờ nghệch ngây thơ, biết mà làm như không biết.
Cho đến cách y phục, đi đưng cũng thế, Lê Văn Trương vội vàng, cẩu thả bao nhiêu, thì Nguyễn Tuân đủng đỉnh cẩn thận bấy nhiêu. Từ cái lối thắt cravát, chải mái tóc, mang đôi giày, đến lúc ra đi, bước đi, một mình hay trong đám đông người, Nguyễn Tuân cũng mực thước.
Trong văn chương cũng thế. Văn Lê Văn Trương có những đoạn dài như rau muống, những trang rườm rà lẫn lộn triết lí, luân lí, không đầu không đuôi, đôi khi mâu thuẫn lẫn nhau. Viết một mạch rồi đưa in, không bao giờ sửa lại. Nhiều khi không coi lại.
Văn Nguyễn Tuân, trái lại, thuần thục, điều hòa, mạch lạc. Như các nhà văn có ý thức về giá trị văn chương của mình, Nguyễn Tuân sửa bản thảo thật kĩ, nhiều trang sửa đi sửa lại ba bốn lần.
Nhưng, dù thêm bớt thế nào đi nữa, giọng văn của Nguyễn Tuân vẫn còn y nguyên đặc chất trầm tĩnh của nó. Cho nên đọc Nguyễn Tuân, người ta bị lôi cuốn dịu dàng, êm ái, bởi câu chuyện của Tuân kể, nhưng không bị cảm xúc mạnh. Văn của Nguyễn Tuân y như lời của Nguyễn Tuân trong lúc nói chuyện: người nghe thích thú nhưng không cảm động.
Vì thế mà Nguyễn Tuân đã đôi ba lần làm thơ, nhưng không đăng lên báo: thơ Nguyễn Tuân không cảm xúc tâm hồn người đọc, không thấm thía vào tim gan người ta.
Một hôm, Tuân đọc cho tôi nghe một bài thơ anh mới làm, theo Đường luật thất ngôn bát cú. Anh hỏi:
- Cậu thấy thế nào, nói thật mình nghe.
Tôi cười:
- Đạo mạo cộng với hài hước, trừ bớt nụ cười, nhân với 7, chia ra 8.
Nguyễn Tuân cười tủm tỉm:
- Nghĩa là một bài toán thất ngôn bát cú?
- Đúng luật, đúng điệu, thế cũng được.
- Mình đọc cho thằng Lưu Trọng Lư nghe, nó biểu: “Con chim boon boon nó chạy về hòn núi Thái Sơn”!
- Cậu đọc cho ai nghe nữa?
- Lan Khai.
- Nó bảo sao?
- Nó cười ồ ồ rồi khen mình: “Thơ Nguyễn Tuân hay hơn thơ Nguyễn Tuân!”.
Đúng ra, Nguyễn Tuân có tâm hồn thơ mộng, có ý thơ, nhưng anh diễn tả ra thì nó không phải là thơ nữa.
Tại anh lí luận nhiều quá, cái lãng mạn của Tuân chỉ nẩy nở trong một khuôn khổ công thức nào đó, không vượt ra ngoài, không vút lên cao.
Nhưng Nguyễn Tuân phê bình thơ: anh không ưa thơ Nguyễn Bính, bảo là “vè học trò”. Anh bảo thơ Thế Lữ là “chỉ có bài Con hổ, nhưng bài đó hoàn toàn ăn cắp ý thơ trong bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine”, còn mấy bài kia ăn cắp ý thơ Tàu.
Nguyễn Tuân không tha thiết với tình yêu. Anh cho rằng: “Tình yêu phải lãng mạn mới đẹp, nhưng lãng mạn thì mất thời giờ, rồi rốt cuộc phải có một người khóc, một người cười, hay là cả hai người cùng khóc. Chẳng bao giờ hai người cùng cười”.
Nguyễn Tuân có nhiều nhận xét tế nhị, như trong các tác phẩm của anh.
Phạm Huy Thông[1] và Nguyễn Nhược Pháp[2]
Tôi muốn để hai anh Thi sĩ này vào chung một bài, vì họ là một đôi bạn rất thân mà tôi thường gặp đi chung với nhau luôn hoặc khi vắng mặt người nọ thì người kia cũng thường nhắc đến tên người này.
Đó là một điều hơi lạ, vì Nhược Pháp và Huy Thông không có những điểm gì tương đồng với nhau cho lắm: đôi bạn Thi sĩ này có nhiều điểm dị đồng thì đúng hơn Huy Thông ít nói, có vẻ kiêu kì, mắt đeo đôi kiếng cận thị rất nặng (3 diopteries), càng tăng vẻ mặt lạnh lùng, như kiêu hãnh. Không hiểu sao, về sau này cứ mỗi khi tôi tr6ng thấy ảnh của nhà văn Mĩ Arthur Miller, với đôi kiếng dày mo của chàng, là tôi sực nhớ tới Huy Thông. Hai khuôn mặt cũng dài dài và gầy ốm như nhau, hai đầu tóc cũng bờm xờm như thế. Chỉ khác Arthur Miller cao, mà Huy Thông thấp, thế thôi. Lúc bấy giờ, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, Trương Tửu và tôi đều cùng xuýt xoát một lứa cả, đã đo thử đều cùng cao 1m52, không ai hơn ai kém.
Nhược Pháp không cận thị, và trái với Huy Thông, anh ta hay nói, hay cười, tuy chỉ cười mỉm, và rất ưa nói khôi hài, giọng nói rủ rỉ dịu dàng như cô gái bẽn lẽn trên đường đi chùa Hương.
Còn Huy Thông thì tôi chưa thấy anh cười lần nào. Anh nhếch mép một tí thôi khi mà những người khác cười nổ vang lên.
Nhiều người bảo rằng Huy Thông kiêu căng, vì tự phụ mình là Thi sĩ, lại là một nhà kim hoàn giàu có nhất ở phố Hàng Bạc lúc bấy giờ. Nhưng tôi không tin lời phê bình ấy là đúng. Quen với Huy Thông nhiều và hiểu anh nhiều, tôi chỉ thấy anh ta rất nhã nhặn, lịch sự, và rất tốt đối với bạn. Có điều không chối cãi được là khi anh khinh một kẻ nào bất tài, hạng thi sĩ ba lăng nhăng thích làm ra vẻ “ta đây” thì anh ta tỏ vẻ khinh ra mặt, trông thấy không thèm chào, không thèm hỏi. Nhược Pháp theo pháp xã giao, bề ngoài lịch thiệp hơn, với tất cả mọi người.
Tôi mến Huy Thông từ khi xảy ra giai thoại sau đây:
Năm 1933, một năm sau khi Bảo Đại vừa ở Pháp về lên ngôi Hoàng Đế, ông được người pháp đưa ra Hà Nội với mục đích tuyên truyền. Cuộc Bắc tuần này được chính phủ thuộc địa sắp đặt tỉ mỉ và đã gây ra được một không khí tưng bừng náo nhiệt vô cùng.
Đám thanh niên học sinh còn ngây thơ và nhất là Nữ sinh lãng mạn, đại đa số độc giả những tiểu thuyết “ba xu”, đã bị quyến rủ đê mê bởi hình ảnh “một vị hoàng tử trẻ đẹp trai” chưa có vợ, được người Pháp quàng cho một bào quang rực rỡ, huyền ảo, uy nghi. Theo chương trình viếng thăm Hà Nội, Hoàng đế Bảo Đại đi viếng các đường phố giữa một buổi chiều tưng bừng hoa lệ. Lúc ba giờ, xe Bảo Đại ngừng trước cửa nhà buôn Chấn Hưng là tiệm kim hoàn lớn nhất ở phố Hàng Bạc, để xem các đồ thủ công nghệ vàng bạc Việt Nam. Gia đình ông Chấn Hưng, thân sinh của Huy Thông, rất vinh hạnh được “Ngài Ngự” chiếu cố đến tiệm vàng bạc của mình. Mọi người đều y phục chỉnh tề, cung kính đón vái long nhan. Riêng Huy Thông ở trên lầu mặc bộ pyjama sọc xanh ngồi bàn làm thơ. Chàng thi sĩ trẻ tuổi, sinh viên trường Luật, không thèm xuống đón vua Bảo Đại.
Mấy hôm sau, Nhược Pháp và tôi đến chơi trên căn lầu ấy. Huy Thông không hề đá động đến chuyện Bảo Đại có vào xem các đồ kim hoàn trong tiệm. Chàng chỉ đọc cho chúng tôi nghe bài thơ dài sáu bảy chục câu mà chàng đã làm xong hôm ấy.
Tôi siết chặt tay Huy Thông, trong lúc Nhược Pháp cười hóm hỉnh nói một câu tiếng Pháp khôi hài.
Lúc bấy giờ Nhược Pháp cũng đang học năm thứ Nhất Cử nhân luật, cùng lớp với Huy Thông.
Hôm Huy Thông sang Pháp để tiếp tục học ở Đại học Luật khoa Paris, anh có đãi một tiệc trà long trọng ở nhà Thủy tạ Bờ Hồ, mời các bạn thân. Mặc dầu hôm ấy tôi đang bị bệnh, đã viết giấy đến xin lỗi và chúc Huy Thông hôm sau thượng lộ bình an, Nhược Pháp cũng đến nhà tôi kéo đi cho được.
Rồi từ đó, chúng tôi biệt tin. Mãi đến 1953, Huy Thông đã đỗ Thạc sĩ Văn chương ở Pháp bị trục xuất về Sài Gòn với người vợ đầm. Vợ chồng anh bị chính quyền Pháp ở đây bắt giam lỏng tại một căn nhà ở đường Paul Blanchy (Bây giờ la đường Hai Bà Trưng). Tôi đang làm chủ nhiệm nhật báo Dân ta. Một hôm, tôi ngạc nhiên nhận được một bức thư của Huy Thông gởi đến tôi tại tòa báo, bức thư viết tay, đúng nét chữ của anh. Tôi biết lúc bấy giờ Huy Thông đã theo Cộng sản và tôi không thể nào tưởng tượng được sự biến đổi ấy.
Bức thư anh nhờ một người cầm tay đem đến tôi, có mấy lời thăm tôi và nhờ tôi viết bài trên các báo phản đối việc giam lỏng anh ở Sài Gòn, và yêu cầu Pháp cho anh được tự do về Hà Nội. Tôi rất tiếc chế độ kiểm duyệt báo chí thời bấy giờ không cho phép tôi làm được công việc mà Huy Thông đã nhờ tôi.
*
Huy Thông ngày nay không còn là Thi sĩ Huy Thông nữa. Tôi viết bài này cũng chỉ là nhắc đến Huy Thông một Thi sĩ rất đáng mến, một người bạn thơ rất dễ thương của hồi tiền chiến mà thôi.
Tiếc thay! Bao giờ tôi gặp lại được Huy Thông hiền lành, mơ mộng của thuở xưa, Huy Thông lãng mạn của làng thơ Việt, Huy Thông đáng yêu của Tần Ngọc say mê?...
*
Nguyễn Nhược Pháp tính ưa khôi hài, ham mê tự do, độc lập, cũng như cụ Nguyễn Văn Vĩnh là thân sinh của anh vậy. Tuy tính nết thực thà, và bặt thiệp, nhưng anh rất trọng những tư tưởng tự do của anh, không chịu để ai nắn bóp được cả.
Tôi không quên được tập thơ “Ngày xưa” của anh xuất bản trong trường hợp hơi lí thú. Nhược Pháp không có thi cảm nồng nhiệt và thấm thía như Huy Thông, cũng không có thi tứ dồi dào bao quát như Huy Thông. Anh chỉ ưa cái gì phảng phất nhẹ nhàng thôi. Cho nên anh chỉ làm những bài thơ phơn phớt bề ngoài. Chính anh cũng đã bảo với tôi: Thơ của moa “superficielle” (Có bề mặt, không có bề sâu).
Bài thơ Chùa Hương là bài khá nhất trong tập thơ Ngày Xưa, có một lai lịch kì thú không ngờ. Chuyến đi chùa Hương ấy, Nhược Pháp đi với tôi và hai cô gái nữa, đều là nữ sinh cả. Hai cô có mang theo hai máy chụp hình, còn Nhược Pháp và tôi đều đi tay không. Trèo lên đến Rừng Mơ bỗng chúng tôi gặp một bà cụ vừa bước lê đèo, đường đá gồ ghề lởm chởm, vừa niệm: “Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát…”. Cô gái quê có lẽ là con của cụ, cũng đang niệm câu ấy nhưng nửa chừng trông thấy chúng tôi là hai chàng trai nhìn cô trân trân thì cô bẽn lẽn làm thinh không niệm Phật nữa. Cô đang đọc: “Nam Mô cứu khổ cứu nạn…” rồi cô im. Đôi má đỏ bừng, cô cúi mặt xuống. Hai đứa tôi hỏi cô: Tại sao trông thấy chúng tôi, cô không niệm Phật nữa? Cô gái quê có vẻ đẹp ngây thơ bỗng tỏ vẻ bối rối muốn khóc.
Không ngờ hai cô bạn nữ sinh lén chụp được tấm hình hai đứa tôi đang hỏi chuyện cô gái quê, rồi có lẽ không bằng lòng chúng tôi nên hai cô lén đi trước, và đi lúc nào chúng tôi không hay biết, cũng chẳng nói năng gì với chúng tôi cả, bỏ chúng tôi ở lại với cô gái quê. Chúng tôi mê nói chuyện với cô này, một lúc sực nhớ lại hai cô bạn chúng tôi vội vàng đi theo nhưng không kịp. Hai cô đã lên đến Chùa Ngoài, rồi lên đến Chùa Tiên Sơn, lẫn trong đám đông người, biến mất dạng. Đêm ấy ngủ trong Chùa Hương, sáng hôm sau ra về, chúng tôi mới gặp lại hai cô bạn đồng hành. Tôi phải xin lỗi mãi, nhưng Nhược Pháp cứ tủm tỉm cười không nói. Về Hà Nội, hai hôm sau, Nhược Pháp đem đến tôi bài thơ Chùa Hương, mà trong bản chép ra đầu tiên Nhược Pháp đề là “Cô gái chùa Hương”. Nhược Pháp lấy cuộc gặp gỡ lí thú của chúng tôi với cô gái quê để làm đề tài và tưởng tượng thêm ra, thành bài thơ đẹp, giọng thơ ngây, y như cô gái chùa Hương hôm ấy…
Trong tuần ấy, anh góp nhóp các bài thơ của anh, thành một quyển. Anh đưa tôi và hỏi:
- Có nên xuất bản không?
- Nên.
- Nhưng tiền đâu? Nhược Pháp cười móm mém.
- Xin ông Cụ.
- Thôi, tôi mà đưa ông Cụ xem cái của nợ này, thì chắc chắn là ông Cụ sẽ vứt nó vào sọt rác.
- Đưa bà Cụ vậy.
- Ừ, phải đấy!
Một tháng sau, quyển thơ Ngày Xưa ra đời. Sách in xong mà Nguyễn Nhược Pháp vẫn rụt rè, chưa dám đưa cụ Nguyễn Văn Vĩnh xem vội, chị sợ Cụ vứt vào sọt rác.
Nguyễn Nhược Pháp và Nàng tiên áo đen
Trên chuyến xe lửa Hà Nội – Yên Bái, Mộng Sơn đưa ra một lời nhận xét mà nàng tưởng là đúng:
- Bọn mình đi có hai chàng thi sĩ, một chàng thì muốn cười mà không cười, một chàng thì muốn nói mà không nói. Chỉ có ba đứa mình là cười nói lung tung thiên!
“Ba đứa mình” của Sơn Tiên là nàng, cô Thanh Tú, và một cô… gì nữa, tôi quên tên. Cả ba đều ở bộ Biên tập tuần báo Việt Nữ.
Lúc ở ga xe lửa Hà Nội, chúng tôi đã đồng ý lên Yên Bái chơi ba ngày. Ai có chuyện riêng thì cứ đi riêng. Sơn Tiên nhứt định tận hưởng cuộc du lịch trong ba ngày, tôi thì muốn tách riêng ra một ngày có chuyện riêng của tôi. Nguyễn Nhược Pháp thì làm kị mã hầu cạnh cô Thanh Tú và cô gái gì tôi quên tên. Chương trình đi chơi là trèo lên mấy ngọn núi Yên Bái, bơi thuyền trên bến Âu Lâu, dạo chơi xem các ngoại ô thành phố, và một vài di tích lịch sử…
Lúc mới ngồi trên xe lửa, đứa nào cũng vui vẻ cả, chuyện trò ríu rít như một đoàn học sinh được đi nghỉ Pâques ở xa.
Nhưng qua khỏi Việt Trì, nghe Sơn Tiên phê bình, Nguyễn Nhược Pháp kề tai tôi khẽ hỏi:
- Cậu suy tính gì mà bộ mặt trầm ngâm thế?
- Tôi đang có một ý nghĩ ở trong đầu.
Nhược Pháp mỉm cười:
- Tôi thì đang có một ý nghĩ trong con mắt.
Tôi ngước lên ngó vào mắt hắn. Hắn bảo:
- Cậu ngó ngay nơi dãy ghế đối diện kìa.
Tôi ngó sang dãy ghế đối diện:
- Cô áo xanh?
- Không.
- Cô áo trắng?
- Không.
- Cô áo đen?
Nguyễn Nhược Pháp mím chặt môi… Mặt cậu đỏ bừng. Rõ thật một chàng trai nhút nhát.
Hai đứa tôi nói rất khẽ, rồi bỗng nhiên im bẵng.
Mộng Sơn vỗ vai tôi:
- Anh với anh Nhược Pháp nói gì mà bí mật thế?
Tôi mỉm cười quay lại nàng:
- Đã biết là chuyện bí mật sao em còn hỏi?
- Em hỏi cho hết bí mật.
- Không có gì bí mật cả.
- Thì em không hỏi gì cả.
Hai đứa nhìn nhau cười. Chiều tối tàu đến Yên Bái, Nguyễn Nhược Pháp khẽ bấm tay tôi. Tôi ngó cô Áo Đen vừa bước xuống sân ga. Anh chàng nhìn theo, mím chặt môi.
Cô Áo Đen đã ngồi xe kéo chạy xa, thật xa, biến trong sương hôm tỏa khắp các nẻo đường.
Chúng tôi đi bộ về nhà thầy me cô Thanh Tú.
*
Hai đứa tôi nằm riêng một phòng, chắc giấc ngủ sẽ ngon lắm sau một ngày đi xe lửa. Tôi thì buồn ngủ quá rồi. Vừa đặt lưng xuống nệm nhắm mắt ngủ liền. Nguyễn Nhược Pháp còn rầm rì bên tai tôi:
- Cậu có thấy Cô áo Đen đẹp không? Cậu nói thật đi.
Tôi nghe văng vẳng câu hỏi, rán trả lời:
- Đẹp.
- Đẹp lắm chứ?
- Hả?... Ừ… đẹp lắm.
- Đẹp lắm như thế nào? Cậu tả hình dung lại cho tôi xem có đúng không nào?
- Hả?... Đẹp lắm hả?
- Cậu đã ngủ rồi à?
- Chưa.
- Chưa, thì cậu cho tôi biết cậu thấy cô Áo Đen đẹp như thế nào?
- Cô… Ao Đen… hả?
- Ừ.
- Ừ… thì… tôi đã bảo là cô ấy đẹp lắm rồi… cậu còn hỏi mãi.
- Đôi mắt nàng như hai ngôi sao ấy nhỉ!... Nước da trắng mịn… như ngà… Cái mũi Ai Cập như mũi Cléopâtre… Khuôn mặt Tây Thi… Cái thân hình… Ồ, cái thân hình…. Vỳ à!... Vỹ!... Vỹ ơi!...
- Hả?
- Cậu ngủ rồi ư?
- Hả?
- Có phải không, cậu? Cái thân hình uyển chuyển của nàng… với những đường cong… diễm tuyệt nhỉ! Còn bộ ngực… Ô… là… là! Moa chưa thấy cô thiếu nữ nào có bộ ngực đẹp lạ đẹp lùng đến thế:… Vỹ ơi!... Vỹ!... Cậu có thấy cô nào có bộ ngực đặc biệt như thế không?... Vỹ!... Vỹ ơi!... toa ngủ rồi ư?
- Hả? Cái gì?
- Cái bộ ngực của nàng…
- Bộ ngực của ai?
- Của nàng tiên Ao Đen ấy mà! Toa thấy cô thiếu nữ nào có bộ ngực… thiêng liêng và… và…
- Coi chừng kẻo bộ ngực giả đấy nhé! Thôi ngủ với chứ!
- Bộ ngực vĩ đại… vĩ đại…
- Hả? Sao cậu cứ gọi tên tôi mãi thế?
- Moa bảo bộ ngực vĩ đại…
- Ồ, cậu cứ lấy cái tên của tôi dán lên bộ ngực của người ta! Cậu có cho tôi ngủ không thì cậu bảo?
- Ồ, Đức Thượng đế thật là tài tình!... Làm sao mà bàn tay của ngài nắn được cái bộ ngực… cái bộ ngực vĩ đại đến thế! Vĩ đại kinh khủng!
*
Tôi biết từ lâu rằng Nguyễn Nhược Pháp không yêu cô Thanh Tú, Thanh Tú thì yêu Nguyễn Nhược Pháp gần như say mê. Chính Thanh Tú tổ chức cuộc du hành này để được mời Nhược Pháp lên nhà cô. Vả lại ông cụ của cô với ông Nguyễn Văn Vĩnh lại là đôi bạn thân, và ông cụ cũng muốn gả Thanh Tú cho con trai ông Nguyễn Văn Vĩnh. Nhưng Nhược Pháp đã bảo khẽ với tôi nhiều lần:
- Thanh Tú không có ngực, làm sao tôi yêu được, hở giời?
- Thế ra tình yêu ở trên ngực à? Tôi hỏi.
- Nhưng chính ở trên bộ ngực ấy ta mới rờ được tình yêu chứ, không đúng ư?
Tôi kính trọng quan điểm của Nguyễn Nhược Pháp về ái tình, và làm thinh, không cãi lại. Hôm nay đi Yên Bái, tôi hiểu rõ vì lẽ gì Nguyễn Nhược Pháp tình cờ trông thấy cô Áo Đen không quen biết, đã say như điếu đổ.
Đêm nay chàng hùng biện khác thường chung quanh đề tài “Bộ ngực vĩ đại” của “Nàng Tiên Áo Đen”. Và cả đêm chàng cứ mơ tưởng đến bộ ngực vĩ đại của Nàng Tiên Áo Đen.
Ba ngày ở Yên Bái, không gặp Nàng Tiên Áo Đen. Nguyễn Nhược Pháp nhìn thấy mọi vật đều đen tối. Tôi hái một bông chuối đỏ tươi đẹp mọc ở sườn núi, đưa chàng. Chàng vứt xuống rãnh sâu.
Sơn Tiên kéo tôi đi riêng, khẽ hỏi:
- Sao Nhược Pháp cáu kỉnh thế, anh?
- Tại Thanh Tú sáng nay mặc áo đen quần đen.
- Em không hiểu.
- Nếu được gặp một cô khác mặc áo đen quần đen, hắn sẽ tưng bừng rực rỡ ngay!
- Ai thế?
- Cái bí mật mà em hỏi anh hôm kia trên tàu lửa.
- Thế mà hôm kia anh bảo không có gì bí mật cả.
- Hôm nay cái bí mật ấy mới thật là bí mật.
- Bí mật gì, hả anh?
- Nàng Tiên Áo Đen.
- Là ai?
- Bí mật.
- Ở đâu?
- Bí mật.
- Mà sao? Có gì lạ?
- Bí mật.
*
Trên chuyến xe lửa Yên Bái – Hà Nội hôm trở về, Nguyễn Nhược Pháp mím chặt môi, mặt đỏ hơn bông chuối rừmg. Chàng chợt thấy ở toa bên kia không ngờ có cô Áo Đen hôm nọ. Cô ngồi với chiếc vali con để bên cạnh, mặc áo đen quần đen.
Từ Yên Bái đến Hà Nội, cô chỉ liếc ngó Nguyễn Nhược Pháp một lần. Nhược Pháp đứng đắn và rụt rè, vẫn ngồi yên một chỗ. Chàng chỉ lẩm bẩm bên tai tôi: - Vỹ đại! Xuống ga Hà Nội, bỗng dưng Nhược Pháp biến đi đàng nào mất.
Một tháng sau, tôi gặp cậu trước cửa trường Cao đẳng. Cậu mím môi để cười, rồi ấp úng hỏi:
- Toa còn nhớ Nàng Tiên Áo Đen trên chuyến tàu Yên Bái?
- Quên rồi.
- Không thể tưởng tượng được?
- Cái gì không thể tưởng tượng được? Bộ ngực của Nàng Tiên Áo Đen?
Nhược Pháp mím chặt môi cười, rồi nhảy lên xe máy phóng đi. Tôi còn nhớ gương mặt của anh chàng rực rỡ, có vẻ yêu đời lắm.
Nguyễn Nhược Pháp đeo đuổi Nàng Tiên Áo Đen hơn một năm. Hắn thú thật hết với tôi tất cả, những khó nhọc, kiên nhẫn, say sưa, tìm cho được chỗ ở của nàng và làm quen với nàng, rồi thân với nàng. Con một của một gia đình trưởng giả, giàu sang ở Hà Nội. Năm ấy nàng 22 tuổi, nét mặt rất hiền lành, cử chỉ ngôn ngữ rất dịu dàng thùy mị.
Nhưng cũng rất lạnh lùng, nàng cương quyết từ chối tình yêu nồng nàn của Thi sĩ. Tuy nhiên, nàng vẫn thích thơ và phục tư cách cao thượng của chàng. Trừ Nguyễn Nhược Pháp ra mà lòng nhẫn nại trung kiên phi thường và tình yêu chân thật, say mê, đã rung cảm được trái tim của nàng, nàng không còn muốn quen biết một người đàn ông nào khác nữa. Với tất cả các bạn trai trẻ ngắm nghé nàng, nàng tỏ vẻ hờ hững kiêu căng. Trên gương mặt kiều diễm vô cùng phúc hậu của nàng, lạ thay, không bao giờ có một nụ cười đon đả. Gương mặt hoàn toàn bí mật mà chính Nguyễn Nhược Pháp cũng không khám phá được một phần nào. Tuy là người duy nhất được quen thân với nàng, nhưng mối tình của chàng cũng gần như tuyệt vọng.
Hai hăm qua, một hôm chàng Thi sĩ mới biết yêu lần đầu tiên, và yêu say mê đắm đuối làm sao, quì bên chân nàng để van xin một lời hứa hẹn. Nàng lặng lẽ nhìn chàng, rồi gục đầu xuống vai chàng, thổn thức khóc:
- Anh tha lỗi cho em… Em không thể yêu anh được.
- Tại sao thế? Tôi không xứng đáng với cô ư?
- Không phải thế, anh ạ… Anh tha lỗi cho em…
- Thế thì tại sao?... Tại sao…?
Nàng nấc lên một tiếng, ngã xỉu vào tay chàng, và khóc nức nở…
Chàng rầm rì như người mất trí:
- Tôi sẽ tự tử mất thôi! Tôi không thể sống được trong tình trạng này.
Cô gái Áo Đen ngẩng mặt nhìn chàng. Cả hai người đều ràn rụa nước mắt:
- Em van lạy anh!... Chúng ta không nên gặp nhau nữa.
Nàng bỏ chạy vào buồng, đóng cửa lại.
*
Giao chìa khóa cửa phòng tôi cho Nguyễn Nhược Pháp, tôi bảo:
- Cậu đừng làm chuyện gì dại dột nhé.
Nguyễn Nhược Pháp mím môi, cười:
- Cậu cứ tin tôi.
Tôi hơi ngạc nhiên. Nguyễn Nhược Pháp là người con trai nhút nhát nhất ở Hà Nội, e lệ như con gái mười tám, nhưng tình yêu đã biến đổi hẳn con người cô đơn ấy. Anh đã viết thư mời Nàng Tiên Áo Đen đến nơi căn phòng riêng của tôi mà hôm nay tôi nhường cho anh làm nơi hẹn hò.
Nhà thi sĩ đau khổ quyết định một lần cuối cùng xin cưới mĩ nữ Áo Đen làm vợ. Trái lại với sự lo ngại ngày trước, nay Nguyễn Nhược Pháp vui mừng tin tưởng sẽ thành công.
Ngồi ghế, nàng bảo:
- Em nhận lời đến đây, để cảm tạ anh đã yêu em, đã thành thật yêu em… Anh là tình yêu đầu tiên của em, và tình yêu duy nhứt, vô cùng cảm động… Nhưng anh ạ, em van anh… em khẩn khoản anh một lần cuối cùng… anh đừng yêu em nữa…
- Tại sao thế?
- Em lạy anh… đừng hỏi em tại sao.
- Anh muốn hiểu lí do…
- Không bao giờ em nói được.
- Em có tâm sự gì khuất khúc… sao không cho anh biết?
- Anh chỉ nên biết rằng chúng ta không thể yêu nhau được. Và từ nay chúng ta không thể gặp nhau nữa. Em đến đây hôm nay… để vĩnh biệt anh.
Nàng đứng dậy. Nguyễn Nhược Pháp vẫn ngồi lặng lẽ cúi mặt xuống bàn lẩm bẩm một mình:
- Anh không thể nào sống được nữa… nếu không có em…
- Em cũng thế, anh ạ…
- Nếu thế thì tại sao…
- Tại vì không thể được, anh ạ… Thôi, em chào anh… Vĩnh biệt anh!
Nàng Áo Đen chạy vụt ra ngoài đường, nước mắt chảy ràn rụa…
*
Đọc báo thấy một thiếu nữ mặc áo đen quần đen tự tử trên Hồ Trúc Bạch, xác được vớt chở vào nhà thương Phủ Doãn, Nguyễn Nhược Pháp chạy đến tôi, mặt mày xanh nhợt. Anh kéo tôi đến bịnh viện, tại đây tôi có quen thân với một nữ y tá.
Cô bạn đưa Nhược Pháp vào nhà xác để nhận mặt. Lúc ra, chàng khóc:
- Chính nàng… Nàng đẹp hơn bao giờ… Tội nghiệp nàng tiên Áo Đen… Nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao nàng từ chối hạnh phúc và đời sống…? Tại sao nàng tự tử?... Tại sao?
Cô y tá khẽ bảo:
- Lúc mới đem vào đây, chúng tôi đã khám nghiệm thi thể. Chính cô ấy đã nhảy xuống nước tự tử, không bị thương tích gì khả nghi. Nhưng có điều khác thường… là… cô không phải hoàn toàn một… người phụ nữ.
Nguyễn Nhược Pháp mím chặt môi, trố đôi mắt kinh ngạc ngó nữ y tá. Chàng càng không hiểu. Cô bạn kéo riêng tôi ra xa, bỏ nhỏ:
- Trường hợp người con gái như thế danh từ thông thường gọi là ái nam ái nữ… Cái chỗ mà đáng lẽ tự nhiên phải là… cơ quan của giống cái, thì cô ấy chỉ có… một cái lỗ tròn, to bằng đầu chiếc đũa…
Tôi kéo Nguyễn Nhược Pháp ra về.
Đi đường tôi nói lại cho anh nghe sự khám phá kì dị của cô nữ y tá.
Nguyễn Nhược Pháp mím môi, im lặng. Nét mặt cậu ngơ ngác như bị tiếng sét đánh bên tai.
Mấy tháng sau, anh chết. Nguyễn Nhược Pháp chết vì bịnh thương hàn.
Buổi chiều hôm trước, tôi có đến thăm anh trên giường bịnh. Trong phòng chỉ có anh với tôi. Nhược Pháp nóng nực, đôi mắt đỏ ngầu. Anh nắm bàn tay tôi, khẽ bảo:
- Vĩnh biệt anh… anh Vỹ… Anh đừng buồn… Tôi vui vẻ… đi về thế giới bên kia… để gặp… Nàng Tiên… Áo Đen…
Nguyễn Nhược Pháp mím chặt môi lần cuối cùng.
Đám ma Nguyễn Nhược Pháp đi âm thầm, lặng lẽ, một buổi chiều mưa phùn, lạnh thấu xương. Tôi khóc thật nhiều.
Nguồn: Văn thi sĩ tiền chiến. “Chứng dẫn một thời đại” của Nguyễn Vỹ. NXB Văn học, 2007.
1. Phạm Huy Thông (1916–1988) là nhà thơ, nhà giáo, và nhà khoa học xã hội Việt Nam.
2. Nguyễn Nhược Pháp, (sinh ngày 12 tháng 12 năm 1914, mất ngày 19 tháng 11 năm 1938), là một nhà thơ Việt nam.
Anh Thơ
(1921 – 2005)
Một cô nữ sinh mới có 15, 16 tuổi, học trường Sơ Đẳng Tiểu học Pháp Việt Thái Bình gởi cho nhà văn Lan Khai một bài thơ mới tập làm, kí tên là Tuyết Anh. bài thơ đó Lan Khai sửa chữa vài ba chữ, rồi đăng lên một tờ báo để khuyến khích “cô em”.
Một thời gian sau, người ta lại đọc trên một vài tờ báo một vài bài thơ kí tên là Hồng Anh. Thơ còn hơi vụng về, tỏ ra người học thức còn kém, ý tứ không dồi dào, tình cảm không sâu đậm, nhưng có những nhận xét đặc biệt, phô diễn một trí óc tưởng tượng tuy giản dị nhưng rất tế nhị và rất dễ thương.
Lan Khai đưa một bài cho tôi coi, và bảo:
- Hồng Anh với Tuyết Anh là một. Con bé mới có mười mấy tuổi.
- Học đến đâu?
- Thi “primaire” (tiểu học) hỏng.
Tôi bảo với Lan Khai:
- Cô bé này có tài, phải không anh?
Rồi tôi quên mất câu chuyện đó, quên mất luôn cả cái tên của “cô bé có tài”.
*
Tôi đang ngủ. Trưa mùa Hè nắng gắt, mà cái gác xép của tôi ở đường Tientsin lại thấp và chật, tôi ở trần nằm lăn trên chiếu trải trên sàn ván, ngủ như chết. Cửa cầu thang tôi đã khép kín. Có một mình tôi. Không biết mấy giờ và không biết tại sao, bỗng dưng tôi quẫy cựa vài cái rồi tỉnh giấc, mở mắt ngó chung quanh. Một tiếng cười rang rảng ngay bên cạnh. Tôi quay lại, thấy một thiếu nữ lạ. Tôi ngạc nhiên:
- Ủa!
Thiếu nữ cười nghiêng ngả, cô ngồi dựa vào lan can, nét mặt hóm hỉnh rất tự nhiên. Cô cười ngặt nghẹo, không nói gì cả. Tôi cũng vẫn nằm yên, vẫn ở trần, nhìn cô, và điềm nhiên hỏi:
- Cô là ai?
Thiếu nữ lại cười, không trả lời. Tôi cũng tức cười, không hỏi nữa. Tôi ngắm cô: Trạc mười tám tuổi, không đẹp nhưng có duyên, mặt nhiều mụn. Cô mặc áo màu hồng, mang đôi giày cườm, ngồi cắn hạt dẻ, tự nhiên. Tôi cứ nằm như thế mà ngó cô. Cô cũng cứ ngồi dựa vào lan can, trong tay cầm một quyển tập. Cô cười để lộ hai hàm răng trắng nõn:
- Đố anh biết tên tôi?
- Tôi biết.
- Tên gì nào?
- Hồ Xuân Hương.
Thiếu nữ cười hăng hắc:
- Chả phải. Hồ Xuân Hương mặt rỗ cơ mà!
- Mặt Hồ Xuân Hương cũng có mụn.
Cô thò tay vào túi áo trong, hốt ra một nắm hạt dẻ cắn vỏ rồi ăn. Cô hỏi tôi, vẫn tự nhiên như quen từ lâu:
- Anh cắn hạt dẻ không?
- Cắn.
Cô đứng dậy, đến gần tôi, cúi xuống để nắm hạt dẻ trên chiếu, trước mặt tôi. Tôi lấy một hột, cắn vỏ, vừa nhai vừa hỏi:
- Cô có lầm nhà không?
Thiếu nữ ngồi xuống chiếu, cạnh tôi:
- Lầm thế nào được.
- Cô muốn gặp ai?
- Gặp anh.
- Ai bảo cô đến đây?
- Tôi bảo.
- Ai chỉ cái gác này cho cô?
- Anh Lan Khai, bạn của anh.
Tôi làm thinh. Tôi đã quên mất cái tên của “cô bé” rồi.
*
Tay tôi cầm quyển tập, nhưng tôi lăn trên chiếu, cười ha hả:
- Hay tuyệt!
Thiếu nữ vẫn ngồi, hai chân co lại dưới tà áo hồng, hai tay ôm hai đầu gối:
- Câu nào hay hả anh?
- …
Và lại có cả một đôi đom đóm,
Bay dập dìu như muốn phải lòng nhau.
Tôi lật sang trang bên kia.
- Câu này cũng hay lắm:
… hai cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Cúi, cuốc, cào, cỏ: parfait!
- Parfait là gì hả anh?
- Là tuyệt! Là hay tuyệt! Khéo tuyệt!
- Anh coi có câu nào chưa được gọn, anh sửa hộ em.
- Chẳng có một câu nào là chưa được gọn. Câu nào cũng đẹp như bức tranh quê.
- Anh liệu xem em có nên xuất bản nó không?
- Rất nên.
- Cái nhan đề “Bức tranh quê” có được không anh?
- Được lắm.
- “Bức tranh quê” hay “Những bức tranh quê” anh nhỉ?
- Khỏi phải “những”.
Tôi đã xem hết tập thơ viết tay của thiếu nữ mà tôi chưa biết rõ tên, nét chữ cứng rắn, gọn gàng. Tôi rất thỏa mãn, rất thích thú. Nhưng tôi xem lại ngoài bìa, hỏi:
- Sao không đề tên tác giả?
Thiếu nữ cười:
- Đố anh biết tên em?
- Tên có là Thơ.
Thiếu nữ nhìn tôi chăm chăm, cô ngó vào mắt tôi, cô ngó vào mũi tôi, cô ngó vào môi tôi. Bỗng cô rú lên một tiếng cười. Rồi cô bảo:
- Em có hai tên: Tuyết Anh và Hồng Anh. em còn do dự, chưa quyết định để tên nào trên bìa tập thơ. Bây giờ em quyết định rồi. Em sẽ lấy tên là Anh Thơ.
*
Anh Thơ rủ tôi ra phố. Tôi ngồi dậy đi rửa mặt:
- Tôi xin lỗi Anh Thơ nhé. Từ nãy giờ tôi rất là vô lễ, tiếp Anh Thơ mà nằm, và không mặc áo.
- Bây giờ anh mặc áo, thì anh hết vô lễ với em.
Chúng tôi ra đi. Ra đến hàng Ngang, thấy một cụ ngồi bán bắp nướng, Nữ sĩ dừng bước mua hai trái, đưa tôi một. Tôi không quen ăn quà ngoài đường phố, nên tôi đút trái bắp còn nóng hổi vào túi quần. Nhưng một lúc thấy Anh Thơ ăn ngon lành, vừa đi vừa ăn, vừa nói chuyện, tôi cũng thò tay vào túi quần, lôi trái bắp ra đưa lên mồm, gặp ngon lành.
- Tên thật của em là gì?
- Tên em là Thơ, anh đặt ra, anh còn hỏi?
Thiếu nữ luôn luôn cười nói vui vẻ. Tôi lại hỏi:
- Em học đến đâu?
- Em vừa thi trượt xéc-phi-ca. Em bị thầy em đánh một mẻ vì tội lười.
“Thầy” tức là ba của cô, làm Thừa lại tỉnh đường Thái Bình.
- Em mấy tuổi?
- Đố anh biết!
- Mười tuổi.
- Em còn bé thế cơ? Thế mà em cứ tưởng em lớn tướng rồi đấy!
- Nhưng thơ em đã lớn rồi.
- Lớn được mấy tuổi hả anh?
- Không có tuổi. Thơ em sẽ sống mãi mãi. Em làm thơ từ hồi nào?
- Từ hồi em biết làm thơ.
*
Bức tranh quê ra đời. Các báo đều giới thiệu với rất nhiều cảm tình. Tất cả làng văn Hà Nội đều khen ngợi. Nhưng chưa mấy ai biết Anh Thơ là một cô bé 18, thi “trượt xéc phi ca”.
Một buổi chiều Thu, Anh Thơ lại đến thăm tôi. Mặt nàng vẫn đầy mụn. Nàng lại đưa tôi coi một tập thơ, bản thảo thứ hai, tựa đề là “Mê mải”. Bài thơ đầu cũng nhan đề là Mê mải, tả một cuộc khiêu vũ mà mỗi câu là một màu đèn xanh đỏ, mỗi chữ là một tiếng nhạc rung rinh, mỗi dòng là một vòng quay cuồng nhiệt trên vũ đàn. Cả bài thơ xôn xao rạo rực đê mê.
Nhưng rồi sau đó tôi đi ở tù. Suốt mấy năm mê mải trong nhà lao, tôi không quên được những dòng thơ khiêu vũ rất tài tình dưới ngòi bút mê mải của Tuyết Anh, Hồng Anh, Anh Thơ…
Và Anh Thơ hiện nay ở đâu, làm gì tôi không nghe ai nói nữa. Tôi chỉ còn nghe thơ của nàng thỉnh thoảng réo bên tai:
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình hai cô nàng yếm thắm,
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
…
Mấy cánh bướm chập chờn trôi trước gió
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
…
Và lại có cả một đôi đom đóm
Bay dập dìu như muốn phải lòng nhau…
Chương I
Vũ Bằng
(1913 – 1984)
Anh chàng mập tròn quay ấy, nước da ngăm ngăm đen, đôi mắt hí hì thật ranh mãnh, nụ cười mỉa mai và trào lộng nở trên đôi môi thâm xì, là người tinh nghịch nhất của làng văn Bắc Hà thời Tiền chiến.
Tôi không hiểu tại sao Vũ Bằng viết thật nhiều mà lại được ít người nhắc đến? Anh viết truyện ngắn, truyện dài, văn trào phúng, đã xuất bản ba bốn quyển sách, làm chủ bút Tiểu thuyết Thứ bảy, thư kí tòa soạn Trung Bắc Chủ nhật, tổng thơ kí ở Truyền Bá, chủ nhiệm tờ Vịt Đực, tác giả những phóng sự rất vui, như Hội Lim, những truyện ngắn rất hấp dẫn, những quyển hồi kí vô cùng lí thú như Tôi cai thuốc phiện, v.v… Anh có lối văn tả chân đặc biệt và trào phúng chuyên môn, có khi rất nhẹ nhàng khả ái như Alphonse Daudet, có khi cầu kì lí thú như Courteline.
Tôi không nói Vũ Bằng là một văn hào, nhưng chắc chắn anh là một nhà văn Việt Nam độc đáo trên lĩnh vực tả chân trào phúng, trước kia và bây giờ.
Con trai của một nhà xuất bản ở phố Hàng Gai (nhà sách Quảng Thịnh, chuyên môn ấn hành những quyển truyện cũ về Tú Xuất, Ba Giai, Tấm Cám, v.v...), Vũ Bằng có học ở Lycée Albert Sarraut, trường Trung học Pháp lớn nhất ở Hà Nội vào thời ấy và đã xuất bản đầu tiên một tập văn trào phúng nhan đề là Lọ văn lúc anh chưa được 18 tuổi.
Hơn hai mươi tuổi, Vũ Bằng ghiền thuốc phiện. Ở Hà Nội rét, anh mặc một lúc hai chiếc áo “ba đờ xuy” dày mo, tay cầm can, khệ nệ như ông cụ, đi đến tiệm thuốc phiện nằm hút sáng đêm. Đi hát cô đào, anh ở luôn nhà cô đào, ăn cơm, nghỉ, viết, có khi liền một tháng không về nhà. Chơi thân với Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Triệu Luật, Ngô Tất Tố, Nguyễn Doãn Vượng, anh vẫn là người bạn “khó chịu” nhất vì ưa châm biếm và chọc ghẹo các bạn, đến đỗi Ngô Tất Tố đã phải bảo: “Vũ Bằng là đồ vô lại”, và tuyệt giao với anh một thời gian khá lâu.
Một hôm Nguyễn Tuân hỏi tôi:
- Sao toa có thể chơi với Vũ Bằng được?
Tôi cười đáp:
- Tôi thì chơi với ai chả được!
Tôi không ngạc nhiên nhiều vì câu hỏi của Nguyễn Tuân bởi Nguyễn Tuân tuy cũng là một cây bút trào lộng, nhưng Nguyễn Tuân châm biếm theo lối nhà Nho, kín đáo hơn và có vẻ hiền lành hơn, (Nguyễn Tuân chịu ảnh hưởng Nho học rất nhiều) còn Vũ Bằng thì châm biếm theo lối Tây, khúc khuỷu và tàn nhẫn. Lưu Trọng Lư cũng không ưa Vũ Bằng, nhưng Vũ Trọng Phụng lại thích người bạn mà anh thường gọi là “con quỉ” ấy.
Lan Khai cũng gọi Vũ Bằng là đồ “tiểu yêu”. Hễ Vũ Bằng xen vào đâu, là cãi nhau ở đó. Tính bướng bỉnh, hay châm chọc, anh ta ít khi biểu đồng tình với ai về một việc gì, và không bao giờ nhượng bộ dù là đuối lí. Sự thực như tôi đã chứng kiến nhiều cuộc đấu lí của Vũ Bằng với mấy bạn khác trong làng văn, ít khi Vũ Bằng đuối lí lắm. Vì anh ta có cái lí mạnh nhất, là cái lí trào lộng của anh. Tôi đã nói: Vũ Bằng là một nhà văn châm biếm (un écrivain satirique) gần như độc đáo từ Tiền chiến đến nay.
Có lần, Vũ Bằng đến nhà tôi ở Ô Chợ Dừa, rủ tôi đi coi bói. Lúc bấy giờ tại đây có một ông thầy bói danh tiếng lừng lẫy, trước nhà ông có dựng một bia đá, cho nên người ta thường gọi là Ông thầy Bia Đá, cách ngã ba Khâm Thiên – Hàng Bột chừng năm mươi thước.
Vũ Bằng đang hết sức lo lắng về một cuộc tình duyên ngang trái giữa anh với một thiếu phụ nào đó… Tôi biết rõ chuyện ấy. Cho nên khi Vũ Bằng rủ tôi đi xem bói, tôi nhận lời ngay. Cũng một dịp để coi ông thầy Bia Đá có quả thật xứng đáng với uy danh lừng lẫy của ông không?
Ông thầy ngự trên sàn gác cao, như một tiên ông, giữa trầm hương, hoa lá. Hai đứa tôi bò lên một cầu thang chật hẹp mới đến ông. Sau khi gieo quẻ và lẩm bẩm một hồi, ông bảo Vũ Bằng:
- Cậu đang vướng một mối tình ngang trái… Gia đình không bằng lòng, nhưng rồi hai người cũng sẽ lén lút ăn ở với nhau…
Vũ Bằng cố cãi lại nhưng ông thầy Bia Đá quả quyết:
- Tôi bảo thế đấy. Cậu không tin quẻ thánh dạy thì thôi, mặc cậu.
Nói về tôi, thì ông thầy Bia Đá bảo:
- Nội trong năm nay cậu sẽ bị bắt giam, nhưng không hề gì.
Phần tôi, tôi không biết đâu mà tin vì chuyện chưa xảy ra nhưng tôi rất khâm phục ông Thầy bói mù lòa, đã thấy rõ nỗi thắc mắc trong lòng một nhà văn sĩ. Cuộc tình duyên của Vũ Bằng về sau cũng xảy ra đúng ý như lời Thầy Bia Đá. Còn phần tôi thì quả nhiên gần cuối năm ấy tôi bị bắt, và bị đày đi Trà Khê.
Ở nhà thầy bói ra, Vũ Bằng bảo tôi:
- Ông thầy bói nói hay quá, tớ phục sát đất.
Chỉ có một lần đó là tôi nghe Vũ Bằng “phục sát đất” một người, và anh chàng không dám cãi bướng lại.
*
Hồi mới quen nhau, một buổi tối, Vũ Bằng rủ tôi với nụ cười bí mật của anh:
- Tớ dắt cậu đến một nơi thần tiên mơ mộng lắm, cậu sẽ say mê tha hồ làm thơ… Cậu ở đấy với tớ đến sáng nhé!
Tôi thực thà đi theo anh, đến một đường phố chật hẹp, bên cạnh chợ Hàng Da, hình như phố Bourret. Anh đưa tôi lên lầu, một căn lầu dài và rộng thênh thang, tối mù tối mịt, chỉ leo lét mấy ngọn đèn dầu lạc, và năm ba bóng người. Té ra đây là tiệm thuốc phiện, nơi “đi mây về gió” của anh chàng họ Vũ. Mặc dầu anh cố giữ, tôi cũng nhất định ra về, vì tôi chịu không được mùi thuốc phiện. Tôi bảo Vũ Bằng: “Toa lại hỏng mất rồi”. Nhưng năm sau tôi rất ngạc nhiên thấy Vũ Bằng bỏ hẳn thuốc phiện và người béo tốt hẳn ra. Từ 39 kí, anh cân nặng lên gần 60 kí. Nhiều bạn cho rằng quyển hồi kí Tôi cai thuốc phiện của Vũ Bằng là bịa đặt, nhưng tôi có thể tin rằng câu chuyện “cai” cai Vũ Bằng chín phần mười là sự thật hoàn toàn. Quyển sách ấy viết có nhiệt hứng, khiến người đọc “say mê” và được các báo ở Hà Nội nói đến nhiều nhất.
Vũ Bằng chơi những cái rất lẩm cẩm đối với tuổi trẻ: Chơi đồ cổ, chơi núi Non Bộ, chơi cây thế (arbres nains), ưa thân với chó, mèo và rùa.
Có một lần anh ta nuôi một con mèo con từ lúc nó mới mở mắt. Đến khi con mèo lớn lên, nó có mang rồi đẻ khó. Con mèo kêu la thảm thiết và cố rặn mãi nhưng đứa con không ra. Vũ Bằng chạy cuống lên, mời một ông bác sĩ Việt đến cứu con mèo. Bác sĩ bảo:
- Tôi khuyên ông về bắt con mèo làm thịt là xong chuyện.
Vũ Bằng tức mình, đi mời một cô đỡ đến đỡ đẻ cho mèo.
Tôi có kể lại cho Mộng Sơn nghe câu chuyện con mèo của Vũ Bằng. Mộng Sơn cảm động có viết một chuyện ngắn rất hay về đề tài ấy, tôi không nhớ là đã đăng trong báo Việt Nữ hay báo nào…
Vũ Bằng thích viết văn khôi hài, nhưng về “miếng ăn” anh ta không khôi hài chút nào cả. Anh thích ăn ngon và rất háu ăn. Vừa rồi, tại Sài Gòn đây, anh có xuất bản quyển Miếng ngon Hà Nội, được nhiều báo khen ngợi. Có thể nói rằng cuốn sách ấy là kết quả của mấy chục năm ăn của Vũ Bằng.
Tiện đây, tôi muốn hỏi Vũ Bằng: Cả một đời Văn nghệ của anh, có lẽ nào sẽ kết cục bằng một quyển sách về “miếng ăn” thôi ư?
Vũ Bằng trong văn học sử Việt Nam
Người ta phải nói đến Vũ Bằng. Trong Văn học sử Việt Nam thế kỉ XX, Vũ Bằng phải có một địa vị xứng đáng. Cứ đọc hết các tác phẩm của Vũ Bằng, thì ai cũng phải công nhận rằng Vũ Bằng để lại cả một sự nghiệp văn học nếu không nói là thật lớn lao, thì cũng là nổi bật thời Tiền chiến.
Tôi hết sức ngạc nhiên: trong “3 chàng họ Vũ” ở Hà Nội thời bấy giờ, người ta chỉ nhắc mãi đến Vũ Trọng Phụng, người ta còn nói đến Vũ Đình Chí (tức Tam Lang, tác giả quyển phóng sự Tôi kéo xe), mà ít ai nhớ đến Vũ Bằng. Tại sao? So về tài thì Vũ Bằng còn hơn Tam Lang Vũ Đình Chí về nhiều phương diện. So về văn nghiệp thì Vũ Bằng trước tác cũng nhiều hơn. “Tôi kéo xe” của Tam Lang là một phóng sự giả tạo, không có một căn bản thực tế nào cả. Sáng tác phẩm của Vũ Bằng, trái lại, rất dồi dào, phong phú, chú trọng rất nhiều đến những khía cạnh phong hóa xã hội, và đôi khi thuần túy văn nghệ.
Tôi chơi thân với Vũ Bằng cũng như với Tam Lang Vũ Đình Chí, tôi không có một cảm tình thiên vị nào riêng đối với Vũ Bằng cả. Trái lại, trong tờ báo Vịt đực, Vũ Bằng thường chế giễu tôi. Nhưng đứng trên lĩnh vực văn nghệ, tôi rất khó chịu thấy các nhà phê bình cố ý hay vô tình bỏ rơi Vũ Bằng. Đó là một sự bất công đáng phàn nàn.
Tôi mong rằng sẽ có một nhà văn học sử nào đó ở thế hệ Văn học Hậu chiến sẽ tìm đọc hết những tác phẩm của Vũ Bằng và nhận xét khách quan về anh.
Đến nay, tôi chưa thấy một nhà văn trào phúng nào có biệt tài, và phong phú như Vũ Bằng.[/i]
Nguồn: Văn thi sĩ tiền chiến. “Chứng dẫn một thời đại” của Nguyễn Vỹ. NXB Văn học, 2007.
V
Văn thi sĩ tiền chiến
- Nguyễn Vỹ -
Chương I
Từ Bộ Hứa
Tôi nói tới Từ Bộ Hứa, mặc dầu không ai nói tới anh, và chính vì không ai nói tới anh. Tôi nói tới Từ Bộ Hứa, bởi vì anh là một thiên tài hiếm có. Tôi nói tới chàng thi sĩ đau khổ ấy bởi vì chàng là một nạn nhân của những kẻ tàn ác đã hãm hại một cuộc đời tài hoa.
Thế kỉ XVIII, ở Anh Quốc, có một thi sĩ tên là Thomas Chatterton. Chàng mới có 18 tuổi, xuất bản được một tập thơ rồi vì nghèo đói mà uống thuốc độc nằm chết giẫy giụa ở một xó đường trong kinh thành London. Chàng chết, khiến cho cả dân chúng Luân Đôn đều rơi lệ.
Sáu mươi lăm năm sau, thi sĩ Pháp Alfred de Vigny, cảm thương số kiếp thê thảm của chàng, có soạn một vở bi kịch “Chalterton”, lấy tên chàng làm nhan đề, và một quyển tiểu thuyết lãng mạn Stello, để ca ngợi một thiên tài còn son trẻ đã sớm chán cảnh đời bội bạc, lìa cõi phong trần.
Nước Pháp cũng có một thi sĩ, André Chénier, mới 32 tuổi, đã bị chết trên đoạn đầu đài. Chàng cũng là một thiên tài chớm nở, lúc chết có nhiều bài viết chưa xong. Lăn xả vào các cuộc hoạt động cách mạng giữa lúc lịch sử Pháp quốc đang chìm ngập trong máu lửa oán thù, chàng đã bị chết oan, dưới lưỡi đao độc ác của một bọn người khát máu. Tuy nhiên, chàng chưa để lại tác phẩm nào hoàn thành, nhưng Văn học sử Pháp đã ghi tên chàng chói lọi trên Thi Đàn Thế kỉ XIX, và đôi bài thơ còn để dở dang đến ngày nay, như La Jeune Tarentine, L’Aveugle, ta đọc lại càng bùi ngùi xúc động.
Thi sĩ Từ Bộ Hứa của Việt Nam cũng chung số kiếp não nùng bi thương ấy.
*
Trường Luật khoa Hà Nội, lúc bấy giờ ở trong hệ thống “Trường Cao đẳng Đông Dương”, là một nơi đào tạo nhiều nhân tài, và cũng như trường Đại học Sư phạm, là nơi qui tụ nhiều phần tử trí thức thanh niên lãng mạn nhất, thích đời sống tự do, độc lập, ham mê sách báo, văn chương, và cũng chơi bời phóng túng không ai bằng. Phần đông là những bạn trẻ tài hoa, có tâm hồn nghệ sĩ, gần như lang bạt giang hồ, sẵn sàng tự đeo vào mình chiêu bài “Bohémiens”. Cả giáo sư cũng thế. Giáo sư toàn là người Pháp, các Thạc sĩ và Tiến sĩ lừng danh, nhưng mang nặng tâm hồn của Thế kỉ, triết học theo kiểu Jean Sartre, thi sĩ theo kiểu Paul Eluard[1], vượt ngoài lề lối mô phạm cổ điển, ôm ấp những chân trời phóng đãng, đầy nhựa sống hoan mê và đầy cả nhựa thuốc phiện!
Chính trong thế giới thần ảo say sưa đó mà một chàng thi sĩ hoa niên nẩy nở, âu sầu hiu hắt, như một ánh hào quang nhạt mờ.
Những bạn thân của chàng cũng như các vị giáo sư trường Luật đã thấy nơi chàng một thiên tài, nhưng sẽ chỉ là một thiên tài yểu mệnh.
Tên chàng là Từ Bộ Hứa, con trai của ông Từ Bộ Thực, Bố Chánh ở một tỉnh Bắc Việt. Chàng bị ho lao ngay từ hồi còn đi học ở trường Trung học. Vào Cao đẳng Luật khoa, Từ Bộ Hứa đã mang bịnh rất trầm trọng, nhưng chàng ham sống quá, ham mơ mộng quá, nên chàng đã đem hết hồn thơ mãnh liệt của chàng để chống chọi kiếp đời đen tối.
Mới 21 tuổi, chàng không được hưởng một lạc thú nào của cuộc đời huyên náo, dù là một lạc thú ngây thơ vô tội. Căn bịnh tàn ác, độc địa, hiểm nghèo, không cho phép chàng hái những cảm giác tươi xanh hoặc ửng chín trên cành đời, những cảm giác chứa đựng đầy vị ngọt tê nồng nơi đây đáng lẽ chàng được nếm đầy đủ nguồn sống say sưa của tuổi trẻ.
Rồi những đêm lặng lẽ cô độc, trong một căn phòng lạnh lẽo của một biệt thự tối ngày đóng kín cửa ở đường Général Bicho (phố Cửa Đông), Từ Bộ Hứa ca ngợi cái Buồn và cái Chết! Chàng ca tụng những đôi mắt âm u, những nụ cười ớn lạnh. Chàng ca tụng màu sắc không men, ánh sáng không hồn. Chàng trỗi lên tiếng nhạc thiêng liêng của U sầu, của “Spleen”, để chào những bình minh loang máu, những ngôi sao thất thểu đi lạc hướng trong trời Mơ.
*
Tập thơ Poésies Grises bằng Pháp văn của Từ Bộ Hứa ra đời, khiến cho cả làng thơ chú ý. Các giáo sư trường Đại học Luật khoa rất ngạc nhiên, không ngờ chàng sinh viên ho lao kia yếu như cây sậy, lại là một thi sĩ tuyệt vời. Chàng viết bằng Pháp văn vì đã tìm thấy trong Pháp ngữ đang thịnh hành lúc ấy những chữ và những ý thích hợp với tâm hồn chàng.
Với tập thơ này, Thi sĩ họ Từ đã hiển hiện ra trên Thi đàn Việt Nam như một lời hứa hẹn cao xa và đột ngột. Chàng còn viết những bài thơ Việt – chưa xuất bản – với nguồn rung cảm cuồn cuộn trong tâm hồn lở lói đau thương nhưng lúc nào cũng mãnh liệt.
Chàng đang say sưa với nàng Thơ thì một hôm chàng đọc được một bài “phê bình” của Thế Lữ trên báo Phong Hóa. Thế Lữ chế nhạo là “Thơ xám xịt” và “phê bình” với một giọng chanh chua ganh ghét. Từ Bộ Hứa không trả lời, nhưng khinh bỉ, chàng không thèm làm thơ nữa.
Mấy tháng sau, bỗng dưng các báo Hà Nội đăng một cái tin mà ai đọc cũng động lòng thương xót: Thi sĩ Từ Bộ Hứa uống 15 viên thuốc ngủ để trút nợ trần.
Người ta liên tưởng ngay đến thi sĩ Chatterton tự tử với 10 viên độc dược.
Nhưng Từ Bộ Hứa chưa kịp chết. Người ta đã đem chàng đi bệnh viện và cứu sống lại.
Phần thì bịnh lao đã ăn sâu vào xương vào tủy, phần thị bị đời đen bạc cướp hết những phấn khởi cuối cùng. Từ Bộ Hứa chỉ còn sống những ngày úa héo, để cho quên lãng được phần nào trong công việc hằng ngày, chàng vào làm sở Thương chánh Hải Phòng. Chàng làm Tham tá và không còn trở lại làng thơ nữa.
*
Tình cờ tôi gặp Từ Bộ Hứa, một buổi chiều tàn. Hai đứa ngồi dựa vào một bức tường rêu của chùa Láng, giữa cánh đồng tịch mịch. Đàn cò trắng độ năm con bay xa xa về phía sương mù. Chàng ngó tôi với đôi mắt đục ngầu, đọc cho tôi nghe gần chục bài thơ chàng làm ở Hải Phòng mà không gởi đăng báo nào cả. Mấy dòng thơ Việt đau thương lạ lùng, mà chàng làm trong các chuyến đò bơi ngao du trên dòng sông Cấm, những “con thuyền say” của chàng.
Tôi hỏi chàng:
- Chừng nào anh xuất bản mấy bài thơ đó?
Từ Bộ Hứa lắc đầu:
- Không bao giờ, anh ơi!
Chàng thêm bằng tiếng Pháp:
- J’en suis dégouté! (Tôi chán ghét lắm rồi!).
Tôi hỏi:
- Anh chán ghét cái gì?
- Tôi sắp chết anh ạ. Tôi không còn nhiều nhựa sống như anh, như Huy Thông, Nhược Pháp… Con đường của các anh là tương lai, con đường của tôi là Chết. Và tôi muốn chết yên tĩnh, không muốn nghe văng vẳng bên tai tiếng khóc của những người thương xót và tiếng cười ngạo nghễ của những kẻ bất lương. Tôi còn làm Thơ, không phải để tặng cho đời Sống, mà để tặng cho đời Chết. Tôi làm thơ cho mau về với đời Chết, vì tôi cảm thấy chỉ có cái Chết là nên thơ hơn cả.
Trên đường bộ về Hà Nội, màn đêm đã bao phủ. Sao Bắc Đẩu đã lóng lánh trên vòm trời.
Hai bóng người bước âm thầm trong bóng tối. Hai tiếng nói rì rầm trong tiếng gió. Từ Bộ Hứa khẽ cười:
- Bác sĩ đã bảo cho tôi biết chỉ còn sống được hai ba tháng nữa thôi. Lâu quá! Lâu quá!...
Tôi nghĩ đến Ánh sáng của sao Bắc Đẩu để bốn mươi sáu năm rưỡi mới chiếu xuống đến cõi Trần. Đêm nay thi sĩ là một ngôi sao của thiên tài, sắp tắt, nhưng sẽ tắt luôn trong đêm tối âm u mù thẳm của thời gian, ánh sáng của chàng sẽ không bao giờ chiếu về ta nữa…
Đêm ấy, ngẫu nhiên tôi được tiễn Từ Bộ Hứa đi cuộc du lịch cuối cùng trên cõi thế!...
*
Tôi có giữ nguyên vẹn tập thơ Poésies Grises của Từ Bộ Hứa đã xuất bản. Tôi định sẽ dịch ra thơ Việt. Tập thơ có chữ kí run run của anh trong lúc anh ho khàn vài tiếng, rồi dừng bút. Tôi cố giữ những bài thơ Việt của anh viết trên những mảnh giấy rời rạc.
Nhưng năm 1941 tôi bị Nhật bắt, xét nhà, lấy hết hồ sơ và sách báo của tôi, trong đó có cả những bản thơ của Từ Bộ Hứa. Tôi không làm sao tìm lại được những kho châu báu vô giá ấy, mặc dầu tôi có nhờ nhiều người vận động để lấy lại giữ hồ sơ văn nghệ của tôi bị nằm trong tay Kampétai Nhật.
Nhiều bản thảo thơ và tiểu thuyết, phê bình của tôi cũng mất luôn trong lúc tôi ở tù.
Nguồn: Văn thi sĩ tiền chiến. “Chứng dẫn một thời đại” của Nguyễn Vỹ. NXB Văn học, 2007.
1. Sinh viên, và thanh niên trí thức Hà Nội đã đọc Paul Eluard và Jean Paul Sartre từ thời Tiền Chiến.
Văn thi sĩ tiền chiến
- Nguyễn Vỹ -
Chương I
Thâm Tâm và sự thật về T.T.KH.
Thâm Tâm (1917-1950), tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, sinh ngày 12-5-1917, quê ở thị xã Hải Dương.
Nhà nghèo, học hết bậc tiểu học, ông bỏ học đi làm để mưu sinh. Từ năm 1938 ông cùng gia đình sống ở Hà Nội, vẽ tranh và sáng tác văn học. Ông viết nhiều nhất ở các báo Tiểu thuyết thứ bảy, Truyền bá, Phổ thông bán nguyệt san.
Sau CMT8, ông tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc, Toàn quốc kháng chiến ông vào bộ đội, làm thư kí tòa soạn báo Vệ quốc quân.
Năm 1950, ông tham dự chiến dịch Cao Bắc Lạng, trên đường hành quân ông mất ngày 18-8-1950 hưởng dương 33 tuổi.
Thơ ông được tán thưởng nhiều qua các thi đề: Thanh ca, Vọng nhân hành, Tống biệt hành, Chiều mưa đường số 5…
Thuốc mê là truyện dài đầu tay của ông được độc giả toàn quốc hoan nghênh từ trước năm 1945.
Tống biệt hành là một thi đề đầy nữ tính của nghệ thuật thi ca với những câu vượt thời gian:
Đưa người, ta không đưa qua sông.
Sao có tiếng sóng ở trong lòng!
Bóng chiều không sóng, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong!
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng.
Năm 1936-1937, có xuất hiện ở phố Chợ Hôm, ngoại ô Hà Nội, một nhóm văn sĩ trẻ với bút hiệu là Trần Huyền Trân, Thâm Tâm và một vài người khác nữa. Ít ai để ý đến họ. Có lẽ vì họ là những người còn quá trẻ: Huyền Trân và Thâm Tâm đều mới 18, 19 tuổi, và mới bắt đầu viết văn, chưa có gì đặc sắc. Lớp văn sĩ đi trước không chú ý đến họ.
Nhưng họ dễ thương, vui vẻ, hồn nhiên, an phận ở một vị trí khiêm tốn, chẳng thân với ai, cũng chẳng làm phiền lòng ai. Họ sống một thế giới riêng của họ, không chung đụng với những nhóm đã nổi tiếng ít nhiều trong làng Văn làng Báo lúc bấy giờ.
Họ có một tờ tuần báo nhỏ, tên là Bắc Hà ở phố Chợ Hôm, nơi đây họ làm văn nghệ với nhau, với lối tài tử hơn là chuyên nghiệp. Tờ báo Bắc Hà bán không chạy lắm tuy có vài mục hài hước vui nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình và nhiều cố gắng hứa hẹn trên bình diện văn chương. Hăng hái nhất và đóng vai chủ động trong tuần báo Bắc Hà là Trần Huyền Trân. Thâm Tâm, biệt hiệu của Tuấn Trình, vẽ nhiều hơn là viết, thỉnh thoảng đăng một vài bài thơ, vài mẩu chuyện ngắn. Đôi khi thấy xuất hiện trên mặt báo vài ba bài thơ có tính cách ca dao ái tình của Nguyễn Bính, học sinh lớp Nhất, trường tiểu học Hà Đông. Nguyễn Bính thi rớt, nghỉ học luôn.
Tuy không chơi thân, tôi quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều, vì anh ta ở trọ một căn nhà trong ngõ Khâm Thiên, phía sau chợ. Tôi ở một gác trọ cuối đường Khâm Thiên, gần Ô Chợ Dừa. Thường đi một con đường nên chúng tôi thường gặp nhau và quen nhau. Đôi khi Trần Huyền Trân nhờ tôi viết bài cho tuần báo Bắc Hà “cho vui” vì không có tiền nhuật bút. Để tỏ tình thông cảm văn nghệ, tôi có viết một chuyện ngắn khôi hài và chỉ có một lần. Trong một số báo đặc biệt Mùa Hè, Tuấn Trình có vẽ một cặp Bạch Nga bơi trên hồ Hoàn Kiếm và ghi ở dưới:
“Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn”
Tôi quen biết Tuấn Trình là do Trần Huyền Trân giới thiệu. Nhà anh ở Chợ Hôm, cách chợ độ ba bốn trăm thước. Anh đẹp trai, y phục lúc nào cũng bảnh bao, người có phong độ hào hoa, lịch thiệp. Tôi thấy ở Sài Gòn có Anh Hoàng Trúc Ly, nhà văn, giống na ná Tuấn Trình về dáng điệu cũng như tính tình, tư cách. Nhiều khi gặp Hoàng Trúc Ly trên đường Bô Na, Sài Gòn, tôi quên lửng, cứ tưởng gặp Tuấn Trình trên phố Chợ Hôm, Hà Nội.
Một buổi chiều gần tối, Tuấn Trình đi lang thang gần chợ Khâm Thiên. Tôi từ Hà Nội về nhà, tưởng anh ta đến Trần Huyền Trân, nhưng anh bảo: “Thằng Huyền Trân nó đi đâu, không có nhà”. Tôi rủ anh về gác trọ của tôi ở cuối phố. Hôm ấy tôi có vài chục bạc trong túi, có thể làm một tiệc bánh giò chả lụa với Tuấn Trình. Tôi bảo anh ở lại ngủ với tôi cho vui.
Đêm ấy cao hứng. Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn điển, kể chuyện tình của anh với cô Khánh cho tôi nghe.
Trần Thị Khánh là một cô học trò lớp Nhất trường tiểu học Sinh Từ. Thi hỏng, cô ở nhà giúp mẹ làm việc nội trợ. Nhà cô cũng ở đường Sinh Từ, ngay cạnh Thanh giám, nơi đền thờ Khổng Tử. Thanh giám là một thắng cảnh Hà Nội, đã liệt vào cổ tích Việt Nam, xây cất từ đời nhà Lý, tu bổ dưới đời nhà Lê, hình chữ nhật, chung quanh xây tường đá ong, cao độ hai thước. Đền thờ ở trong cùng, trước đền có Hồ Tròn, hai bên hồ có dựng nhiều tấm bia ghi tên các Tiến sĩ đời nhà Lê. Vào Thanh giám, có cổng Tam quan lớn, trước cổng có tấm bia đề hai chữ Hán: “Hạ mã”, và hai trụ cao. Trong vườn trồng rất nhiều cây cổ thụ và các cây kiểng, nơi đây rất yên tĩnh và mát mẻ, cũng là nơi các cặp trai gái hẹn hò tâm sự. Trước kia có một bầy quạ chiều tối bay về đây ngủ, cho nên người Pháp cũng gọi là “Pagode des Corbeaux” (chùa Quạ) ngoài danh từ lịch sử “Temple de Confucius”.
Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ đẹp, nét đẹp mơn mởn của cô gái dậy thì, thùy mị, nết na, nhưng không có gì đặc biệt. Tuấn Trình có người cô, nhà ở phố chợ Cửa Nam, gần Sinh Từ. Anh thường đến đây và thường trông thấy cô Khánh đi chợ mỗi buổi sáng. Lúc ấy vào khoảng tháng 2, năm 1936, họa sĩ Tuấn Trình (tên gọi hồi đó) mới 19 tuổi, và cô Khánh 17 tuổi, thi rớt Tiểu học và đã nghỉ học từ mùa Hè năm trước. Tuấn Trình cũng mới bắt đầu vẽ và viết chút ít trong tờ tuần báo Bắc Hà của Trần Huyền Trân vừa xuất bản.
Sau một vài tháng theo dõi, Tuấn Trình làm quen được với cô Khánh và gởi báo Bắc Hà tặng cô. Cô gái 17 tuổi, cảm mến người nghệ sĩ tài hoa, tình yêu chớm nở như cành hoa Antigone trắng cũng vừa chớm nở trong tháng đầu Hè trước sân cô.
Antigone là loại hoa của người Pháp đem qua hồi đầu thế kỉ, không thơm nhưng đẹp. Nó là loại hoa dây, lá giống như lá nho, cho nên ở miền Nam, nhiều người gọi là hoa nho. Nó có hai loại, loại hoa trắng và hoa hồng. Hoa nở vào đầu mùa Hè, thành những chùm rất dễ thương, nụ hoa giống hình trái tim nho nhỏ. Ở Hà Nội người ta trồng rất nhiều và bán cũng rất nhiều trong chợ Đồng Xuân, cũng như ở chợ Hoa, bờ hồ Hoàn Kiếm. Cắm nó vào lọ để phòng khách, nó buông ra một vẻ đẹp lãng mạn, khả ái lắm. Người Bắc gọi tắt là hoa Ti Gôn. Ở phố Sinh Từ, Antigone mọc rất nhiều, như trước sân nhà ông Nguyễn Văn Vĩnh và Nguyễn Nhược Pháp. Nhà trọ của Lưu Trọng Lư và Lê Tràng Kiều ở phố Hàm Long có cả một giàn hoa trắng và hồng. Nhưng mùa đông lá rụng, hoa tàn, thì không cảnh nào tiêu sơ quạnh quẽ bằng.
Tình yêu của Tuấn Trình và Trần Thị Khánh chớm nở ngay lúc những chùm Antigone vừa hé nụ, và chết trong những ngày giữa mùa Đông năm đó, trong lúc giàn hoa Ti-gôn úa tàn, rụng ngập đầy sân.
Thời kì mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng Hè, sang hết mùa Thu, không đem lại chút thỏa mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình. Chính lúc này Tuấn Trình lấy bút hiệu là Thâm Tâm và cho cô Khánh biết: “Hình ảnh của em, anh ghi sâu vào thâm tâm anh”. Trong bài “Màu máu ti-gôn”, cũng có câu:
Quên làm sao được thuở ban đầu,
Một cánh ti-gôn Dạ khắc Sâu!
Một vài bài thơ tình thức đêm làm tặng cô Khánh, những bài thơ đầu tiên đăng tuần báo Bắc Hà, đều kí là Thâm Tâm, nhưng các tranh vẽ trong báo vẫn kí Tuấn Trình. Nhưng cô gái 17 tuổi, dè dặt theo lễ giáo nghiêm khắc của gia đình, chưa thật bao giờ đáp ứng đúng với tình yêu tha thiết của Tuấn Trình Thâm Tâm. Đó là điều đau khổ triền miên của chàng nghệ sĩ 19 tuổi. Trong lúc những cặp tình nhân trẻ trung dắt nhau đi du ngoạn khắp nơi thơ mộng ở Hà Nội và ngoại ô: Hồ Tây Chùa Láng, Bạch Mai, Phúc Trang, Đền Voi Phục… thì Trần Thị Khánh cứ phải từ chối những lời mời của Thâm Tâm. Cô thường nói: “Thầy mẹ con nghiêm lắm, gia đình em nghiêm lắm…”. Lần nào cô Khánh cũng lặp lại chữ Nghiêm gia giáo ấy để trả lời kì vọng khát khao của người yêu.
Chỉ được hai lần Khánh đến nơi hẹn, nhưng không được lâu. Lần thứ nhất, một đêm trăng, Khánh lẻn băng qua đường, vào vườn Thanh giám. Tuấn Trình đã chờ người yêu nơi đây, dưới bóng cổ thụ. Nhưng cô Khánh run cả người (theo lời Tuấn Trình kể lại) cậu cũng lính quýnh, tất cả những câu bay bướm cậu sắp sẵn để nói với nàng, bấy giờ cậu quên mất hết. Một lúc lâu, Tuấn Trình mới nói được mấy lời tình tứ, nhưng lại trách móc, nghi ngờ, nàng không yêu mình. Nàng bảo: “Em không yêu anh sao dám ra đây gặp anh? Nhưng vì Thầy Me em nghiêm lắm, anh ạ”.
Tuấn Trình hỏi chua chát: “Giờ phút này chỉ có thơ và mộng, chỉ có anh với em, ánh trăng đẹp của hai đứa mình có nghiêm không nhỉ?”. Có lẽ vì bất bình câu nói mỉa mai của người yêu, Khánh lặng yên một phút rồi đáp: “Ánh trăng đẹp, nhưng vẫn nghiêm đấy, anh ạ”.
Cuộc gặp gỡ đêm đấy, chỉ lâu không đầy một tiếng đồng hồ, Tuấn Trình đặt một chiếc hôn âu yếm trên bàn tay của Khánh trước lúc nàng vội vã chạy về nhà.
Lần thứ hai, hai cô cậu cũng gặp nhau trong vườn Thanh (nhiều người sau này nói Thanh là Thanh Hóa, là hoàn toàn sai sự thật). Vườn Thanh Giám đêm ấy cũng ngập ánh trăng Thu. Nhưng thái độ của Khánh lạ lùng khó hiểu. Hình như Khánh muốn nói với Tuấn Trình một điều gì, nhưng ngại ngùng không nói. Chàng lặng lẽ vuốt mái tóc huyền của Khánh rồi khẽ bảo: “Ước gì anh được yêu em như thế này mãi mãi…”.
Nàng buồn bã hỏi: “Anh định bao giờ đến xin Thầy Me cho chúng mình…”. Chàng họa sĩ bối rối trước câu hỏi bất ngờ. Chàng lơ đễnh bảo: “Anh chưa nghĩ đến việc ấy, vì…”.
Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây. Khánh không hỏi gì hơn nữa. Chàng nắm tay nàng đi dạo quanh hồ nước xanh rì lăn tăn gợn sóng. Chàng đứng lại, khẽ kéo Khánh vào lòng, nhưng nàng khẽ buông ra. Tuấn Trình âu yếm nhìn nàng: “Em!” Khánh mỉm cười: “Anh bảo gì?”
- Hình ảnh của em, nụ cười của em, sẽ mãi mãi ghi sâu vào lòng dạ của anh, vào thâm tâm anh.
Trần Thị Khánh bẽn lẽn cười như để tạ ơn và xin từ giã.
Tuấn Trình trằn trọc suốt đêm. Khánh muốn giấu chàng một điều gì quan trọng chăng? Tình yêu giữa hai người vẫn nguyên vẹn, thư từ qua lại vẫn âu yếm, nhưng Tuấn Trình bắt đầu thấy lòng buồn bã băn khoăn khi giàn hoa ti-gôn bắt đầu héo rụng trong nắng úa tàn Thu.
Thế rồi một hôm, chàng họa sĩ đa tình nhận được một bức thư của người yêu, - không, của người hết yêu, - báo tin nàng sắp lấy chồng.
Thư viết bằng mực tím, trên bốn trang giấy học trò, xé trong một quyển vở Nam Phương Hoàng hậu (loại vở học trò rất thông dụng lúc bấy giờ). Thư do một cô bạn gái của Khánh đem đến tòa báo Bắc Hà trao tận tay Tuấn Trình. Cô bạn gái hỏi “ông Tuấn Trình” chứ không gọi Thâm Tâm.
Ngoài bao thư cũng đề: Monsieur Tuấn Trình (chữ Mr bằng tiếng Pháp), nét chữ quen thuộc của T.T. Khánh. Đại khái Khánh nhắc lại tình yêu “thơ mộng” của cô với người “nghệ sĩ tài hoa son trẻ” (những chữ cô dùng trong thư), tình yêu rất đẹp, nhưng vì Thầy Me của cô rất “nghiêm”, theo lễ giáo, nên dù người vị hôn phu của cô là một người chỉ mới biết sơ thôi, nhưng cô vẫn có bổn phận “giữ tròn chữ hiếu, không dám cãi lời Thầy Me đặt đâu ngồi đấy, v.v…”. Cô nói cô buồn lắm vì tình yêu dang dở, “em vẫn yêu anh mãi mãi! Không bao giờ quên anh, nhưng “van” anh đừng giận em, thương hại em, chứ đừng trách móc em v.v..”. Cô than thở đời cô khổ nên tình duyên ngang trái, cô khóc suốt đêm, v.v…
Khánh không nói một câu nào về người vị hôn phu không cho biết ngày cưới, và cuối thư kí tắt: KH.
Bức thư của KH. chấm dứt một cách đột ngột cuộc tình duyên thật sự không mấy “thơ mộng” của Họa sĩ Tuấn Trình và cô Trần Thị Khánh.
*
Sau do sự dọ hỏi vài người quen ở phố Sinh Từ, Tuấn Trình được biết chồng cô Khánh là một nhà buôn giàu có ở phố Hàng Ngang, 39 tuổi, góa vợ và không có con. Trong câu thơ “- Bên cạnh chồng Nghiêm luống tuổi rồi” chỉ sự cách biệt tương đối giữa tuổi 39 của người chồng với tuổi hãy còn vị thành niên của cô Khánh. Đó chỉ là nhận xét chủ quan và mỉa mai của Thâm Tâm, so sánh tuổi mình 20 với người đàn ông được diễm phúc làm chồng cô Khánh, nhưng trên thực tế và theo lời những người hàng xóm ở phố Sinh Từ nói với Tuấn Trình thì người chồng cô Khánh “giàu sang và trẻ đẹp” chứ không phải một ông già. Tuấn Trình cũng nhìn nhận rằng một người nhà giàu 40 tuổi, đẹp trai, không thể là một ông già.
Đám cưới đã nhờ mối lái qua lại từ lâu, và đồ sính lễ có kiềng vàng, xuyến, nhẫn, vòng, kim cương, quần áo hàng lụa quí giá cả. Rước dâu bằng 10 chiếc xe Citroen mới, cô dâu đeo nữ trang rực rỡ, mặc chiếc áo cưới màu đỏ tươi, lộng lẫy ngồi trong xe hoa như nàng công chúa ngồi cạnh người chồng mặc áo gấm xanh. Đêm trước hôm cô Khánh lên xe hoa, Thâm Tâm có tổ chức tại tòa báo Bắc Hà một tiệc thịt chó, uống Mai Quế Lộ, mời Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can tham dự. Họ say sưa, ngâm thơ, làm thơ, cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất.
Người đau khổ trong cuộc tình duyên dang dở này không phải là cô Khánh. Trái lại, cô có đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất chiều chuộng cô. Trần Huyền Trân đã gặp cô đi hí hởn với chồng vào ăn kem ở tiệm Blanche-Neige (kem Bạch Tuyết), Bờ Hồ, hai lần. Hai ông bà nhìn nhau và cười với nhau ra vẻ âu yếm lắm. Khánh đã có thai, được chồng săn sóc nâng đỡ lên chiếc xe nhà Citroen, lúc ra về, còn đi một vòng quanh Hồ Hoàn Kiếm. Trần Huyền Trân kể lại cảnh âu yếm đó cho Tuấn Trình nghe và kết luận: “Con Khánh nó cho cậu leo cây, cậu còn si nó làm gì nữa, thêm tủi nhục”.
Người đau khổ dĩ nhiên là Tuấn Trình Thâm Tâm.
Chàng yêu nhớ đơn phương với mặc cảm của một nghệ sĩ nghèo bị người yêu bỏ rơi, lại còn bị mấy thằng bạn trẻ chế nhạo đùa bỡn, nhất là Vũ Trọng Can.
Vì một chút tự ái văn nghệ, đối với mấy người bạn kia, Tuấn Trình đã phải thức một đêm, theo lời anh, làm một bài thơ đề là “Hai sắc hoa Ti-gôn” kí T.T.KH. với thâm ý để Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm, để thương tiếc mối tình tan vỡ. Muốn giữ tính cách bí mật, Tuấn Trình dán kín bao thư rồi nhờ cô em họ, con gái của người cô ở phố Cửa Nam, mang thư đến tòa báo. Cũng chính cô em họ đã chép giùm bài thơ với nét chữ con gái dịu dàng của cô, để khỏi bị nghi ngờ. Cho nên giọng thơ hoàn toàn là giọng thơ lãng mạn của Tuấn Trình, và lời thơ khác hẳn những lời tâm sự trong bức thư cuối cùng của KH. báo tin sắp lấy chồng. Cô Khánh không biết làm thơ. Cô chưa bao giờ làm thơ cả! Và cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm nữa là khác. Tuấn Trình đã nói quả quyết với tôi như vậy, sau khi nhận được một bức thư của Khánh, bức thư cuối cùng, tỏ ý không bằng lòng anh mượn tên cô để làm thơ kể chuyện tình duyên cũ, có thể làm hại đến cuộc đời của cô. Trong thư phản đối đó, Khánh xưng Tôi chứ không xưng Em như những thư trước, để chấm dứt trò chơi vô ích ấy. Thâm Tâm lấy những lời nghiêm khắc giận dữ của người yêu cũ để làm ra “Bài thơ cuối cùng”.
Trách Ai mang cánh ti-gôn ấy,
Mà viết tình xưa Được Ích Gì?
…
Bài Thơ đan áo nay Rao Bán,
Cho Khắp Người đời thóc mách xem.
Là Giết Đời nhau đấy, Biết Không?
Dưới giàn hoa máu, tiếng mưa rung,
Giận anh tôi viết dư giòng lệ,
Là chút dư hương điệu cuối cùng.
Từ nay anh hãy Bán Thơ Anh,
Và Để Yên Tôi với một mình.
Những cánh hoa lòng, Hừ Đã Bỏ,
Còn đem mà Đổi Lấy Hư Vinh.
Cô Khánh “Trách” người cũ không những đem chuyện tình xưa ra viết chẳng “Được Ích Gì” lại còn làm Bài Thơ đi “Rao Bán” cho người đời “Thóc Mách’ mua xem. Như thế là Anh “Giết Đời Tôi, anh Có Biết Không?”. Anh đem Bán Thơ để kiếm chút “Hư Vinh”, nhưng chuyện xưa Đã Bỏ rồi, anh hãy Để Tôi Yên!...
Thâm Tâm lấy gần hết chữ và nghĩa trong bức thư đoạn tuyệt tàn nhẫn của Trần Thị Khánh làm bài thơ Cuối cùng đó mà vẫn kí T.T.KH., với lần cuối cùng. Rồi, để đáp lại, chàng làm một bài kí tên Thâm Tâm và cũng là bài cuối cùng, mỉa mai, chua chát:
…
Đây bài thơ chót Kính Dâng Tặng Bạn.
Và thành chúc đời em luôn tươi sáng,
Như mộng kiều đầm ấm tuổi xuân xanh,
Như hương trinh bát ngát ý dịu dàng,
Hoa nhạc mới triều dâng tơ Hạnh phúc.
…
Trên phương diện văn thơ cũng như tình cảm, ta chỉ thương hại Thâm Tâm, nhà thơ trẻ, hãy còn ngây thơ với tuổi 19, đầy thơ mộng, cứ tưởng rằng cô Khánh vẫn thành thật yêu chàng, rằng cô bị cha mẹ ép gả cho một “ông già”, nhưng cô vẫn giữ mối tình thiêng liêng chung thủy với người nghệ sĩ tài hoa. Cho nên tưởng làm vui lòng người yêu, chàng lấy tên nàng để kí dưới bài thơ thương tiếc, với những câu tình tứ như:
Từ đấy thu rồi thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ,
Người ấy cho nên vẫn hững hờ.
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?
…
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ,
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.…
Nhưng chàng thi sĩ si tình có ngờ đâu không những cô Khánh không hề tỏ chút gì cảm động vì mối tình đau khổ, thủy chung của chàng, hoặc cảm ơn những bài thơ an ủi của chàng, mà trái lại cô còn gởi một bức thư vô cùng tàn nhẫn hằn học, nào là: “Anh giết đời tôi, anh biết không?” nào là anh mang chuyện cũ ra viết “chẳng ích gì”, cô lại còn tỏ ý khinh rẻ: “từ này anh cứ đem thơ anh đi bán rao để kiếm chút hư vinh, nhưng anh hãy để tôi yên”, v.v…
Bấy giờ Thâm Tâm mới thức tỉnh, tìm lời bào chữa cho mình! Nào là:
… Anh biết cái gì xưa đã chết,
Anh càng buồn, càng muốn viết thành thơ.
Nhưng thôi,
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ,
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.
Thâm Tâm tự hạ mình viết “kính dâng tặng bạn” có ý xin lỗi chua chát người không phải là người yêu của mình nữa, và chàng đã viết:
Chim muốn bay, cũng giữ chẳng được nào!
(Nàng đã không muốn yêu nữa, thì giữ làm sao được?)
Và:
Có gì đâu, khi bướm muốn xa cành!
Thâm Tâm không những đã tỉnh ngộ, mà lại còn uất hận vì thái độ khinh bạc của cô Khánh:
Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá,
Nhưng lòng Anh đã Bình Thản lại rồi,
Hết đau buồn và cảm thấy sục sôi,
Niềm Uất Hận của một thời lạc lối.
Lấy nghệ thuật làm trò hề múa rối.
Đem tài hoa cung phụng sóng mắt huyền,
Để khẩn cầu xin một nụ cười duyên.
Thâm Tâm tự thú nhận: Lấy Nghệ thuật Văn Thơ để làm trò hề múa rối, (vì sự thật chẳng có gì cả) trong mấy bài thơ kí tên T.T.KH., với mục đích “Đem tài hoa cung phụng sóng mắt huyền, để khẩn cầu xin một nụ cười duyên”.
Để rồi, mỉa mai thay, nhận những lời khinh khi ngạo mạn, và hằn học của nàng. Đó là “Niềm uất hận” của Tuấn Trình trong một thời “lạc lối” (lầm đường lạc lối).
Nhưng:
“Thôi, em nhé, từ đây anh cất bước,
Em yên lòng vui hưởng cuộc đời vui…”
Chàng hứa chấm dứt “trò hề múa rối” về văn thơ. Và nàng không mong gì hơn.
Để tôn trọng thực tế của những sự kiện đã qua trong Lịch sử hay trong Văn học, để đừng xuyên tạc những chuyện không có, phải nói ngay rằng tên T.T.KH., không hề gợi một dự luận nào “xôn xao” ở thời Tiền chiến, và cuộc tình duyên của Tuấn Trình (Thâm Tâm) với cô Trần Thị Khánh không hề gây một xúc động nào về tâm lí cũng như về Văn chương trong giới Văn nghệ và giới Trẻ thời bấy giờ.
Tôi chắc rằng những nhà Văn Thơ Tiền chiến ở Hà Nội hiện còn sống tại Sài Gòn, như các anh Vi Huyền Đắc, Lê Tràng Kiều, Tchya, Vũ Bằng, v.v… (cả các anh Nhất Linh và Lê Văn Trương vừa tạ thế mấy năm trước) đều phải hết sức ngạc nhiên thấy một vài người của thế hệ Hậu chiến ở Sài Gòn bỗng dưng tôn sùng ba tên T.T.KH. thành một thần tượng, và biến mối tình rất tầm thường, có thể nói là quá tầm thường, của cô học trò cũ trường Tiểu học Sinh Từ, thành một thảm kịch của tình yêu!
Nguyễn Nhược Pháp, nhà ở gần nhà cô Khánh, chỉ cách 5, 6 căn mà cũng không hề nghe nói đến cô này, và cũng không biết một tí gì về mối tình của một Họa sĩ kiêm Thi sĩ, Tuấn Trình hay Thâm Tâm, xảy ra cùng dãy phố với anh.
Cũng như người đàn bà tên Mộng Cầm, hiện là vợ một Giáo chức ở Phan Rang, đã phủ nhận những chuyện người ta thêu dệt về mối tình bạn của Bà, lúc còn là nữ y tá, với Thi sĩ Hàn Mạc Tử (Phổ Thông Tạp chí, số 63, ngày 15-8-1961).
“Tôi không thể yêu được một người bị bịnh cùi!” Bà Mộng Cầm đã thẳng thắn nói thế, không thể trách bà được.
Nguồn: Văn thi sĩ tiền chiến. “Chứng dẫn một thời đại” của Nguyễn Vỹ. NXB Văn học, 2007.
1. Sinh viên, và thanh niên trí thức Hà Nội đã đọc Paul Eluard và Jean Paul Sartre từ thời Tiền Chiến.
- Nguyễn Vỹ -
Chương I
Vũ Ngọc Phan
(1902-1987)
Vũ Ngọc Phan thuộc về một nhóm thiểu số mà các giới văn nghệ Tiền chiến thường gọi là “Nhà văn trưởng giả”, và chính nhóm ấy cũng không phải không hãnh diện tự nhận mình là “Nhà văn trưởng giả”.
Thi đỗ Tú Tài toàn phần xong, anh cưới con gái ông Lê Dư, ở phố Hàng Bông, Lê Dư là một nhà Nho học Quảng Nam, theo cụ Phan Bội Châu xuất dương sang Tàu để làm cách mạng. Nhưng không bao lâu, Lê Dư phản bội các đồng chí, trở về nước đầu thú với chính phủ thuộc địa, và được cho vào làm việc ở trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội. Ông Lê Dư có cô con gái lớn, tên là Lê Thị Hằng Phương, được ông dạy chút ít chữ Hán ở nhà, rồi đi học chữ Pháp tới lớp Nhứt, thi Tiểu học rớt ở nhà luôn. Vũ Ngọc Phan quen với cô này hồi còn đi học. Khi cưới xong, hai vợ chồng dọn về ở một biệt thự xinh xắn tại Huyện lị Hoàng Long, phía sau dinh Hoàng Cao Khải, gần ấp Thái Hà. Những người quen biết Vũ Ngọc Phan đều không ai ngờ rằng anh trở thành nhà văn, vì ngay từ lúc còn đi học anh không tỏ ra sốt sắng ham chuộng nghề ấy tí nào. Nhưng vì sức khỏe kém lắm, người anh ốm teo, và hình như có triệu chứng ho lao, cho nên thi đỗ Tú Tài xong, anh không vào làm việc các công sở. Ông Lê Dư xin cho anh vào giúp việc trong tạp chí “Revue Franco-Annamite” của ông Ernest Babut “Tạp chí Pháp Việt” mỗi tháng ra một kì, ở phố Hàng Bông.
Ông Babut là một người Pháp ở đảng Xã hội, bạn thân với ông Marius Moutet, và cụ Phan Châu Trinh. Chính ông đã vận động cho cụ Phan Châu Trinh khỏi bị tội xử tử theo bản án của triều đình Huế, và sau khi cụ Phan bị đày đi Côn Đảo, chính ông đã vận động cho cụ được trả tự do và sang ở bên Pháp. Ông Babut cũng là bạn của cụ Phan Bội Châu và tất cả các nhà chí sĩ xuất dương sang Tàu và Nhựt. Do đó mà ông cũng chơi thân với ông Lê Dư, mặc dầu ông này đã về qui thuận và hợp tác với chính phủ Bảo hộ.
Nhờ nhạc phụ tiến dẫn, cậu Tú Tài ốm yếu mảnh khảnh Vũ Ngọc Phan được ông Ernest Babut nhận vào làm việc trong tòa soạn của ông. “Revue Franco-Annamite, - Pháp Việt tạp chí” là một nguyệt san chính trị, xã hội, kinh tế và văn học, viết một nửa bằng Pháp ngữ, một nửa bằng Việt ngữ. Vũ Ngọc Phan coi về phần Việt ngữ, dịch bài luận thuyết của ông Babut ra Việt văn, dịch một tiểu thuyết của Tolstoi Anna Karénine, phê bình sách, và viết tin tức trong tháng. Ngoài ra, anh không sáng tác gì nữa.
Ngày hai buổi, anh ngồi trên chiếc xe kéo nhà sơn đen, do một anh phu xe kéo từ huyện Hoàng Long xuống Hà Nội, xa chừng 16 cây số. Anh vào tòa báo ngồi làm việc như một ông Tham, ông Phán. Đến giờ, xe kéo anh về. Do đó, các giới văn nghệ Hà Thành gán cho anh cái chiêu bài “Nhà văn quan liêu”. Trương Tửu phê bình sách Vũ Ngọc Phan một câu lí thú là “Ecrivain malgré lui”, cũng như thời nay gọi là Nhà văn “Nhảy dù”. Tuy vậy, tôi thấy anh “nhảy dù” đúng địa điểm.
Ít nói, tánh tình điềm đạm, tư cách nho nhã, tư tưởng hoàn toàn bảo thủ, anh ít giao thiệp với các bạn làng văn, ít đi chơi bời với họ. Ngoài giờ làm “công chức” ở tòa báo ông Babut, anh về nhà với vợ, sống cuộc đời bình thản, an phận, ít đọc sách, không viết văn. Chị Hằng Phương, vợ anh, hồi còn con gái, có làm vài ba bài thơ tình, tặng Vũ Ngọc Phan. Từ khi thành hôn với “cậu”, - chị không làm thơ nữa và cũng không bao giờ viết văn.
Thỉnh thoảng đến nói chuyện chút ít về chính trị với ông Ernest Babut tại tòa báo, tôi gặp Vũ Ngọc Phan, nói chuyện qua loa thế thôi. Có một lần, anh ở tòa soạn về buổi trưa, đỗ xe kéo trước cổng nhà tôi ở Nam Đồng. Anh ghé vào hỏi tôi quyển tiểu thuyết “Đứa Con Hoang” tôi vừa xuất bản, để anh giới thiệu trong Pháp Việt Tạp chí. Một lần khác, Anh Thơ vừa xuất bản Bức tranh quê, có đưa tôi một quyển để trao tặng Vũ Ngọc Phan và muốn tôi nhờ anh viết bài phê bình hộ. Hôm ấy nhằm ngày chủ nhật, tôi rủ Anh Thơ đi với tôi vào nhà anh. Nhưng Anh Thơ nhút nhát, không dám gặp họ Vũ. Chiều mát, tôi một mình vào nhà anh, gặp cả hai vợ chồng. Chị Vũ Ngọc Phan xem vài bài trong tập Bức tranh quê, rồi hỏi tôi:
- Sao không có thơ lục bát nhỉ?
Thấy tôi cười tủm tỉm, Vũ Ngọc Phan bảo vợ:
- Đây là thơ mới.
Tôi có cảm tưởng cặp vợ chồng trẻ này đã già hơn thời đại.
Vũ Ngọc Phan phê bình tập thơ của Anh Thơ như thế nào, tôi không thường xem Pháp Việt Tạp chí, nên không được biết.
Vũ Ngọc Phan càng ngày càng ốm. Ở Hà Nội lúc bấy giờ tôi thấy Nguyễn Tiến Lãng đã ốm teo, mà Vũ Ngọc Phan lại còn ốm hơn tác giả Indochine La Douce. Nhiều bạn bảo rằng Vũ Ngọc Phan đã gầy còm như thế mà còn hút thuốc phiện nữa. Tôi không tin, vì anh ta coi bộ ho lao chắc không dám làm bạn với nàng Tiên Nâu.
Theo tôi, có lẽ chính tại vì anh viết báo, trong Pháp Việt Tạp chí, mỗi kì anh phải dịch một bài luận thuyết về chính trị của ông Babut ra Việt văn, và một hai bài thời sự. Ngoài ra, anh còn phải dịch đăng sáu bảy trang bộ truyện Anna Karénine, rồi còn “phê bình” sách, viết tin tức, v.v… Một mình anh phụ trách cả phần Việt ngữ, chắc là không lợi cho sức khỏe của anh.
Sau này, nghe nói anh có gom góp các bài phê bình đã đăng trong Pháp Việt Tạp chí, xuất bản thành sách. Theo những bài mà tôi đã đọc trong báo thì tôi nhận thấy anh phân tách các Văn phẩm theo phương pháp máy móc quá. Điều đó, không có chi lạ, nếu biết rằng anh đã đỗ Tú Tài Toán. Anh không có tinh thần văn nghệ. Mặc dầu anh có thiện chí và vô tư. Vũ Ngọc Phan có lương tâm nghề nghiệp (Conscience professionnelle) nhưng ông thiếu lương năng nghệ thuật (Conscience artistique).
Về tài năng phê bình, anh thua Trương Tửu rất xa, cho nên anh không muốn nói đến Trương Tửu trong những bài “phê bình” của anh.
Vũ Ngọc Phan dịch bộ truyện Anna Karénine của Léon Tolstoi (anh dịch là Kha Lệ Ninh) hết sức công phu. Nhưng anh làm công việc ấy không có hứng thú, theo như lời anh nói. Vì anh chăm chỉ dịch cho sát nghĩa, nhiều đoạn theo đúng như văn Pháp, chú trọng đến cốt chuyện mà không diễn tả hết tư tưởng sâu đậm của tác giả. Tolstoi viết văn rất duyên dáng, dù là những giải phẫu tâm lí, triết lí, cũng vẫn phơn phớt màu sắc văn hoa, tế nhị, êm đềm. Vũ Ngọc Phan không sao lột hết những màu sắc ấy được.
Cho nên, theo nhận xét riêng của tôi, dù anh có dịch hết bộ truyện Anna Karénine, anh cũng chỉ dịch được một nửa mà thôi.
Cả đến bộ sách “phê bình” của anh cũng thế.
Danh từ tổng quát “Nhà văn hiện đại” anh dùng làm tên sách của anh, đã là một sai lầm quá lớn lao. Sách anh chỉ “phê bình” một số nhà văn Tiền chiến từ 1920 đến 1940 mà thôi. Vả lại, anh chỉ “phê bình” nhà văn theo một vài khía cạnh nào đó, theo nhận xét của anh, mà không nghiên cứu toàn diện.
“Nhà văn hiện đại” phải bao gồm văn học sử của cả Thế kỉ XX, chứ không phải một phần năm Thế kỉ. Cho nên giá trị phê bình của anh cũng chỉ tương xứng với một phần nhỏ trong Văn học Hiện Đại.
Sự nghiệp “phê bình” của Vũ Ngọc Phan giống như một bài luận làm dở dang của một cậu học trò vội nộp cho thầy giáo vì thiếu khả năng và thiếu thì giờ.
Nguồn: Văn thi sĩ tiền chiến. “Chứng dẫn một thời đại” của Nguyễn Vỹ. NXB Văn học, 2007.
Chương I Trần Tuấn Khải
(1895-1983)
Tôi đọc “Bút Quan Hoài” của Trần Tuấn Khải từ lúc còn nhỏ, thuộc lòng hai bài:
Hỡi cô bán Nước kia ơi,
Dừng chân đứng lại cho tôi nhủ cùng.
Trời hè đương lúc nấu nung,
Nước đâu cô nỡ dứt lòng bán rao?
Bây giờ thiên hạ khát khao,
Khô gan ráo cổ kêu gào Nước luôn.
Thế mà cô cậy có khôn,
Thừa cơ đem Nước bán buôn kiếm lời.
Nước là của quí, cô ơi,
Xưa nay không Nước, dễ đời còn cô?
Một mai cỏ cháy Nước khô,
Thân cô chết héo thì cô bán gì?
…
Và bài:
Em bước chân ra, con đường xa tít,
Con sông mù mịt,
Hai vai kĩu kịt,
Nặng gánh em trở ra về.
Em ngoảnh cổ trông,
Sông rộng trời khuya,
Vì chưng Nước cạn, nặng nề, em có dám kêu ai.
Em nghĩ tiếc công cho bà Nữ Oa đội đá vá trời,
Con Dã Tràng lấp bể, biết đời nào xong.
Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng,
Nước Non gánh nặng, cái đức ông chồng hay hỡi có hay?
Em trở vai này…
*
Đầu óc con nít học trò, cảm thấy hai bài thơ chứa đựng tư tưởng thâm trầm và bi thương về Nước, của người dân mất Nước, tự nhiên chiêm ngưỡng tác giả như một thần tượng.
Rồi lớn lên, lúc ở Hà Nội, cứ muốn gặp mặt thi sĩ Á Nam Trần Tuấn Khải để tỏ lòng kính phục. Nhưng trong các bạn làng văn lúc bấy giờ ít người giao du với Trần Tuấn Khải. Tôi không bao giờ gặp ông ở nhà một người bạn nào trong làng Văn, hay làng báo, hoặc ở tòa soạn một báo nào. Ông thuộc về thế hệ Đàn Anh, không quen nhiều với bọn nhà văn trẻ mới ra đời từ khoảng 1930. Có thể nói rằng giữa thi sĩ Trần Tuấn Khải với hầu hết anh em văn nhân thi sĩ Hà Thành thời Tiền Chiến, không có một liên lạc nào cả. Ông như ở ẩn một nơi nào đó. Đến đỗi Phong Hóa là tờ báo của Nhất Linh chuyên moi móc các giới văn nghệ và trí thức, chế nhạo Tản Đà luôn, cả đến nhà học giả Nguyễn Văn Tố, nhà khoa học Nguyễn Công Tiễn họ cũng không trừ, thế mà họ không hề đá động đến Thi sĩ Á Nam Trần Tuấn Khải.
Riêng tôi, đọc thuộc lòng thơ ông từ lúc bé, nhớ đến ông và kính mến ông vô cùng suốt thời gian ở Hà Nội mà mãi đến năm 1958, nghĩa là trên ba mươi năm sau, tôi mới gặp ông ở Sài Gòn! Tôi không biết ông di cư vào miền Nam năm 1954. Các bạn nhà văn di cư: Vi Huyền Đắc, Tam Lang, Vũ Bằng, Nhất Linh, Lê Văn Trương… không ai nhắc đến Trần Tuấn Khải. Bỗng một hôm, một ông cụ già, tóc bạc lưa thưa, da đồi mồi, thân hình ốm yếu, đến Tòa báo Phổ Thông trao tôi một bài viết về Lương Khải Siêu. Tôi rất vui mừng được ông cụ cho biết ông là Á Nam Trần Tuấn Khải. Từ đó, mỗi ngày tôi mỗi quen thân với cụ. Cụ tặng tôi hai tập thơ “Bút Quan Hoài”, tôi cảm động vô cùng khi thấy lại trong đó hai bài thơ “Cô bán nước” và “Đêm khuya thân gái…” mà tôi đã đọc say mê lúc mới 10 tuổi. Cụ ngồi cười tủm tỉm rất khả ái, nghe tôi ngâm thuộc lòng hai bài thơ ấy mà không xem trong sách.
Khi bộ tiểu thuyết “Hai Thiêng Liêng” của tôi xuất bản gặp lúc ông Tổng thống Ngô Đình Diệm đặt ra Giải thưởng Văn chương Toàn quốc lần đầu tiên, một hôm cụ Trần Tuấn Khải ghé đến tòa soạn bảo tôi:
- Bộ truyện Hai Thiên Liêng của ông, được ban giám khảo đề nghị giải nhất, tặng 60.000$.
Tôi ngạc nhiên vì không hề tự tôi tham gia Giải thưởng Văn chương. Tôi từ chối, mặc dầu đang nghèo, hằng tháng cứ phải đi vay tiền để in báo Phổ Thông.
Cụ Trần Tuấn Khải, nhân viên ban giám khảo, bảo tôi:
- Ông cứ nhận đi, 60.000$ đâu phải ít.
Nhưng tôi từ chối, và gọi điện thoại cho ông chủ tịch ban giám khảo biết tôi không tham gia, và không nhận giải thưởng, của Ông Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Từ đó, cảm tình giữa thi sĩ lão thành và tôi càng khắng khít hơn. Cụ tiếp tục hợp tác với Phổ Thông tạp chí một thời gian rất lâu.
Năm 1960, tôi lại ngẫu nhiên được quen biết con gái của cụ là nữ sĩ Trần Thị Tuệ Mai, tác giả một vài tập thơ. sự giao thiệp giữa Tuệ Mai và tôi cũng tốt đẹp trong phạm vi Văn nghệ. Tuệ Mai cho tôi biết là ông cụ năm nay (1966) đã 75 tuổi và ở Bình Thới với bà thứ nhất, bà này nguyên là một danh ca từng nổi tiếng ở Bắc Hà. Tuệ Mai là con bà cả. Tôi hỏi lúc ở Hà Nội, ông cụ ở đâu, Tuệ Mai cho biết cụ ở Thái Hà ấp. Thì ra cùng một ấp với thi sĩ Tản Đà. Hai nhà thơ, đồng thời, đồng lứa ấy tuy ở gần nhau nhưng không chơi với nhau. Văn thơ và tính tình của hai ông cũng khác nhau xa.
Từ lúc di cư vào Sài Gòn, thi sĩ Á Nam không làm thơ nữa. Đời sống của cụ cũng không lấy gì làm sung túc lắm. Cụ vẫn giữ nền nếp nho phong, và rất được các bạn làng Văn kính phục.
Thằng học trò 15 tuổi ở Qui Nhơn năm 1925 vẫn hãnh diện được trở thành người bạn nhỏ của thi lão “Bút Quan Hoài”.
Ưng Bình
(1877-1961)
Năm 1958, một hôm hình như khoảng tháng 3 d.l., nhà bác học Bửu Hội ở Paris về, ngẫu nhiên gặp tôi, có đưa tôi xem một bài thơ nhan đề: “Xuân Mậu Tuất tự thuật” và tác giả kí tên là Ưng Bình Thúc Giạ Thị. Bài thơ như sau đây:
Phước của trời cho, lộc của trời,
Lần lên tuổi thọ tám mươi hai,
Coi con bướm liệng từng quen mắt,
Nghe tiếng oanh chào chẳng lạ tai,
Son phấn trò hề, năng kể lại.
Bút nghiên nghề mọn, vẫn khoe chơi.
Cứ ngâm nga mãi quên đầu bạc,
Quên cuộc tang thương trải mấy đời.
Tôi đọc thơ ấy làm thích thú vô cùng. Thơ của một ông cụ già 82 tuổi mà vẫn còn nhẹ nhàng bay bướm, thi tứ sâu đậm, thi cảm dồi dào, thật là hiếm có. Và thật là đẹp.
Tôi đọc thơ của cụ Ưng Bình đã lâu rồi, do một ông bạn người Huế cho coi từ hồi tôi còn học ở Hà Nội. Nhưng tôi không ngờ rằng tác giả là cháu nội của thi sĩ Tuy Lý Vương, và bác của nhà bác học Bửu Hội.
Cụ Sinh ở Vỹ Dạ, Huế, năm 1877, con cụ Hồng Thiết, có cả Tây học (cụ tốt nghiệp trường Quốc Học Huế, đỗ đầu kì thi kí lục năm 1904) và Hán học (cụ đã đỗ Cử nhân Hán học năm 1909).
Làm quan ở Triều Nguyễn, cụ đã trải qua các cấp bực từ Tri huyện lên tri phủ, Viên Ngoại, Thị Lang, Bố Chánh, Tuần Vũ, Phủ Doãn Thừa Thiên, và được thăng Thượng Thư năm 57 tuổi, Hiệp tá Đại học sĩ năm 67 tuổi.
Về hưu, cụ được lòng yêu kính và cảm mến của nhân dân Huế, và được bầu làm Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ Trung Kì, Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kì năm 1940.
*
Nhưng trước hết, cụ Ưng Bình là một thi nhân và một nhạc sĩ tài ba lỗi lạc. Cụ có phong độ thanh cao của một nhà Thơ quí phái, theo nề nếp phong lưu của giòng dõi thi sĩ Nho gia: Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, và chính Tuy Lý Vương, nội tổ của cụ. Yêu cảnh nước biếc non xanh, cụ cũng là một hình bóng những thi sĩ truyền thống của đời Đường, những Lý Bạch, Tô Đông Pha, Đỗ Phủ, hóa mình trong gió mát trăng thanh, thả thuyền theo hồn thơ sóng mộng. Cụ tả cảnh Thu thì tuyệt:
Xa xa bóng nhạn giữa trời thu,
Nước biết non xanh lẫn một màu.
Quốc quốc tìm sâu trên vạc cỏ.
Le le nhỏn sóng cạnh bờ lau.
Lẹ làng nốt ruổi bơi qua đó,
Êm thắm thuyền tình đậu ở đâu?
Lưu thủy, hành vân thành điệu cổ,
Trên sông nghe vắng đã từ lâu!
Nhưng hay hơn hết là những bài thơ tâm sự của cụ, những bài tự thuật, hoặc mượn cảnh mà ám chỉ việc đời, với một nhận xét mỉa mai rất tế nhị:
Cảm thương danh lợi cả hai thằng,
Kẻ chống, người chèo, bộ xí xằng
Ghét cụm bèo trôi che bóng nước,
Giận chòm mây nổi khuất vành trăng.
Chim khôn nhát bẫy nhìn không đậu,
Cá dại ham mồi thấy phải ăn.
Câu hát bên sông thêm chạnh nỗi,
Ông chài lo lửng có nghe chăng?
Cu làm bài thơ này hồi năm 1932, tức là năm Bảo Đại vừa ở Pháp về, lên ngôi Hoàng đế, và chung quanh nhà vua bù nhìn trẻ tuổi ấy, có bao nhiêu kẻ “chầu rìa” hám danh vụ lợi, và cũng có những người chán ghét phường tục tử, lũ nịnh thần.
Phong độ quân tử và thi nhân của cụ Ưng Bình cũng phảng phất dịu dàng trong mấy vần thơ sau đây:
Khuyên học Phật
Đường danh nẻo lợi ngó đông đông,
Chen chúc nhau chỉ đám bụi hồng.
Kìa bóng bạch câu qua chẳng lại,
Nọ tranh thương cẩu có rồi không.
Dở cười dở khóc bao sân khấu,
Khi nở khi tàn mấy cụm bông.
Sao kiếp phù sinh cho khỏi lụy,
Quyển kinh câu kệ chớ nài công!
(1934 – 58 tuổi)
Việc đời
Kể từ năm Dậu đến năm nay,
Xuân lại Xuân qua cũng thế này.
Trắng đỏ cuộc cờ đi đủ nước,
Xanh vàng mối chỉ nhuộm nhiều tay,
Hoa vườn Thượng uyển không ai ngắm.
Rượu chốn sa trường có kẻ say,
Hàng lệ non sông rơi đã khắp,
Tấm lòng trời đất rõ chăng đây!
(Kỉ Sửu 1949 – 73 tuổi)
Thân thế của nhà thi sĩ lão thành chứng kiến bao nhiêu cảnh vật tang thương, nhân tình điên đảo, kể cũng đã chứa chan biết bao rung động, biết bao cảm sầu, cô đọng trong mấy vần thơ!
Chỉ đọc đôi ba bài tuyệt diệu, cũng thông cảm được hết nỗi lòng hồi hộp băn khoăn của thi sĩ, dù là một tiếng thở, một lời than, kí thác trong âm điệu của mỗi dòng, mỗi chữ.
Thơ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị vừa nhẹ nhàng, trang nhã, vừa hàm súc bao ý nghĩa. Cụ kế tiếp được những truyền thống thi cảm Tuy Lý Vương, truyền thống nho phong mà chúng ta cảm thấy như không còn ai tiếp nối nữa.
Một bài thơ như bài sau đây của cụ Ưng Bình viết năm 1946, có thể nói là một kiệt tác:
Bảy mươi tuổi tự thuật
Ngưỡng mong ơn Phật với ơn Trời,
Tuổi thọ nay đà đến bảy mươi.
Rượu có mùi hương nên uống mãi,
Thi là thuốc bổ cứ ngâm chơi.
Thuở ra sân khấu không làm rộn,
Khi hạ vai tuồng ít hổ người.
Giở tấm gương vàng soi tóc bạc,
Sương pha tuyết điểm lại càng tươi.
Thơ Đường luật điêu luyện đến mức nghệ thuật toàn thiện toàn mĩ như thế, xin hỏi cả một thế kỉ có được bao nhiêu bài?
Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một thi nhân cổ điển tóc bạc thơ vàng, khó kiếm được nữa trên mảnh đất Việt Nam ở thời đại này.
*
Trong mấy năm gần đất xa trời, cụ Ưng Bình thường gửi thơ đăng trong tạp chí Phổ Thông. Đọc thơ cụ và ngắm bức ảnh của cụ gửi biếu, tôi nhớ ngay đến hình ảnh cụ Nguyễn Khuyến, nhà thơ Bắc Hà ở làng Yên Đổ. Lạ thật, hai bức hình giống nhau quá, cũng chòm râu lưa thưa, cũng đôi mắt mơ sầu dĩ vãng, cũng ly rượu kề môi. Và cũng giọng thơ vừa chải chuốt, vừa mai mỉa nhẹ nhàng cuộc thế.
Nhiều lần tôi dự định đi Huế thăm thi sĩ Thúc Giạ, nhưng vì bận rộn nhiêu công việc, chưa đi được, bỗng vào đầu năm 1961, tôi được tin cụ đau nặng rồi cụ mệnh chung vào ngày 4-4-1961, hưởng thọ 85 tuổi.
Năm 1964, nhân dịp đi Huế, tôi có đến viếng nhà cụ ở Vỹ Dạ. Một dinh thự cổ kính của vị quan cựu thần, nhưng vắng bóng thi ông chỉ còn lại cảnh tiêu sơ quạnh quẽ, như một bức tranh hoang dã dưới bóng trời chiều. Thế kỷ đã đi qua trên khu vườn tịch mịch ấy.
No comments:
Post a Comment