Nguyễn Vỹ
Tuấn Chàng Trai Nước Việt
BẠN ĐỌC THÂN MẾN!
Bộ sách này không phải một tiểu thuyết.
Cũng không phải là một ký ức cá nhân.
TUẤN là một nhân vật điển hình, tiêu biểu những chàng trai Việt Nam sinh trưởng trên Đất Nước từ đầu thế kỷ. Chàng lớn lên giữa một bối cảnh lịch sử và xã hội cổ kính đang bắt đầu biến chuyển dần dần theo định mệnh do sự xâm nhập của người Pháp hoàn toàn xa lạ từ Tây phương đến đô hộ xứ ta. Họ đã đương nhiên để lại những dấu tích sâu đậm của một Văn minh mới, và tạo ra một vận mệnh mới cho Dân Tộc Việt Nam. Với tư cách một nhân chứng vô tư của Thời Đại, TUẤN thuật lại rất khách quan và chân thật, không màu mè chải-chuốt, tất cả những biển đổi phi thường ấy, về lịch sử, xã hội, phong hóa, tập tục, kinh tế, trong đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân Việt Nam từ 1900 đến nay. Một đời sống dồi dào sinh lực, đầy thử thách và kinh nghiệm. Những người Việt sinh trưởng vào đầu Thế kỷ có thể chứng nhận rằng những sự kiện, thấy, nghe, sống, những phong trào, nhân vật, biến cố lớn hay nhỏ, ghi lại trong tác phẩm này đều hoàn toàn xác thực. Ở đây, không có chỗ cho tưởng tượng, cũng như cho chủ quan, thành kiến. Những thế hệ hôm nay và hậu lai sẽ tìm nơi đây những yếu tố để suy nghiệm về Lịch Sử Dân ta.
Saigòn,11-12-1969
Nguyễn Vỹ.
Nguyễn Vỹ.
CHƯƠNG 1
1900-1910
- Chữ Hán còn rất thịnh hành, và được gọi là " chữ ta ".
- Chữ "quốc ngữ" được rất ít người học.
- Vì sợ Tây bỏ tù, thằng Chuột phải đi học.
- Cậu nho sĩ 19 tuổi mới bắt đầu xin vào lớp Năm, học ABC, và 24 tuổi mới đậu bằng Tiểu Học.
- Lần đầu tiên một người Việt Nam bỏ búi tóc cổ truyền, để "cúp tóc" theo như Tây. Làm lễ tạ tội với Ông Bà trước khi hớt tóc.
- Một đám rước học sinh đậu bằng Tiểu Học "Vinh Quy Bái Tổ".
- Chữ "quốc ngữ" được rất ít người học.
- Vì sợ Tây bỏ tù, thằng Chuột phải đi học.
- Cậu nho sĩ 19 tuổi mới bắt đầu xin vào lớp Năm, học ABC, và 24 tuổi mới đậu bằng Tiểu Học.
- Lần đầu tiên một người Việt Nam bỏ búi tóc cổ truyền, để "cúp tóc" theo như Tây. Làm lễ tạ tội với Ông Bà trước khi hớt tóc.
- Một đám rước học sinh đậu bằng Tiểu Học "Vinh Quy Bái Tổ".
Một đám cưới Việt Nam.
Anh Bốn nhát quá!
Ảnh lớn rồi mà thấy mấy ông Tây bà Đầm là chạy trốn vô nhà làm tụi mình cũng sợ chạy ba chân bốn cẳng trốn không kịp!
Thằng Chuột và thằng Đít, hai đứa trẻ nít 9 và 10 tuổi xúm nhau ngạo cậu Bốn, 18 tuổi, chàng thanh niên đẹp trai nhất ở phố Cửa Bắc.
Sự thật thì hai đứa nó còn sợ hơn cậu Bốn nữa, cũng như hầu hết các thanh niên và thiếu niên Việt Nam thời bây giờ, hễ trông thấy "Ông Tây Bà Đầm" là thất kinh hồn vía. Hai đứa núp sau Miếu Cây Da, đợi ông Tây bà Đầm đi qua khỏi rồi mới thò đầu ra. Còn cậu Bốn thì ở luôn trong nhà. Thằng Chuột cười, nói với bạn nó:
- Ảnh sợ Tây vậy, chớ hôm trước gặp cô Ba Hợi con gái ông Bá Hộ đi chợ về, ảnh cứ đeo theo chọc hoài, không sợ đâu mầy ơi! Cô Ba không thèm nói gì hết, để cho ảnh cứ đi theo cho tới gần ngõ cổ mới quay lại bảo ảnh: "Nhà tôi có con chó dữ lắm, cậu đừng xớ rớ đây, tôi xịt nó ra cắn thì chịu đấy". Vậy mà anh Bốn cũng không sợ con chó Vện của cô Ba Hợi, mầy ơi!
- Ảnh cứ đứng ngoài ngõ hả?
- Ừ, mầy biết ảnh mê cô Ba Hợi lắm. Mẹ tao nói thế đó. Tại cô Ba Hợi có nhan sắc hơn hết thẩy ở đây.
- Cô Ba Hợi có xịt chó ra cắn ảnh không?
- Không. Nhưng không biết cổ có méc với ông Bá Hộ làm sao mà ông cầm cây roi mây chạy ra ngõ... Anh Bốn thấy cái roi của ổng, sợ quýnh cắm đầu cắm cổ chạy thẳng một mạch về nhà, mầy ơi.
Thằng Đít cười như nắc nẻ.
Lúc bấy giờ là năm 1910. Cậu Bốn, tên thật là Lê văn Thanh, là con ông Xã Quý, ở làng Chánh Lộ, ngay tỉnh lỵ. Ông Xã có ngôi nhà tranh ở Cửa Bắc, không giàu cũng không nghèo. Cậu là học trò của ông Tú Phong, một nhà nho học có tiếng tăm ở tỉnh. Tuy là sinh trưởng ở thành thị và đã 18 tuổi đầu, mà chàng thanh niên Lê Văn Thanh như hầu hết các bạn trai trẻ khác đều rủ nhau đi học chữ Hán ở nhà ông Tú, chứ ít có cậu nào chịu đi học "trường Nhà Nước Bảo Hộ"
Ở xóm Cửa Bắc, chỉ có thằng Chuột là đi học trường Nhà Nước. Vì thầy giáo cứ đến nhà năn nỉ mãi với cha mẹ nó cố xin cho nó đi học. Mỗi lần thầy có đem cho nó một xấp "giấy tây" thật trắng, một quyển vở ngoài bìa có in "bà Đầm xoè" thật đẹp, một cây bút, một ngòi bút, một bình mực, một cây thước, một cây bút chì, một cục "gôm".
Tuy vậy thầy giáo Năng đã dụ dỗ nó ba lần bảy lượt, mà thằng Chuột nhất định không đi học "Trường Nhà Nước", nó muốn học "chữ ta" tức là chữ Hán, - như cậu Bốn con trai ông Xã Quý.
Sau cùng, một hôm thầy giáo đến hăm doa cha mẹ nó: "Chú thím không cho thằng Chuột đi học thì Quan Tây bỏ tù, đừng có trách tôi, nghe không?". Vì sợ Quan Tây bỏ tù, mà rồi cha mẹ thằng Chuột phải đành lòng cho Thằng Chuột đi học "Trường Nhà Nước" vậy. Thầy giáo cũng nói thật rằng thầy được lịnh Quan Đốc và Quan Sứ bảo phải đi kiếm con nít tới học cho đông, vì Trường Nhà Nước chưa có học trò. Thầy giáo bảo thằng Chuột đổi tên khác. Cha mẹ nó không biết đặt tên gì, nên nhờ thầy giáo. Thầy đặt tên nó là TRẦN ANH TUẤN. Nhưng mấy ngày đầu Trần Anh Tuấn chỉ muốn trốn học, vì thầy giáo bắt học "chữ Quốc Ngữ" A.B.C. nó thấy kỳ cục quá không giống những chữ "Thiên trời, Địa đất, Thất mất, Tồn còn, Tử con, Tôn cháu, Lục sáu, Tam ba..." như thằng Đít học ở nhà ông Tú nghe dễ hơn, và hay hơn. Thầy giáo bắt nó học Ba, Bă, Bâ, Bi, nó vừa học vừa tức cười. Nó mắc cở, nhưng vì nó sợ ba mẹ nó bị bắt bỏ tù nên nó phải đi học Ba, Bă, Bâ, Bi... đó thôi. Vả lại, trường tỉnh mà vẫn ít học trò quá. Lớp Năm mà chỉ có 7 đứa, lớp Tư cũng 7 đứa, lớp Ba 6 đứa. Lớp Nhì, lớp Nhất chưa có trò nào. Thầy giáo bảo thằng Chuột về nhà dụ dỗ những đứa trẻ khác đi học, Nhà Nước phát cho giấy bút, mực, khỏi phải mua, lại còn phát cho nó một cái mũ trắng nữa. Nó rủ thằng Đít, con chú thợ mộc. Nhưng thằng Đít không chịu đi. Thằng Đít nhất định ở nhà học chữ "Thánh Hiền". Cha nó, chú thợ mộc, muốn thế.
Trong tháng đầu, mỗi lần thằng Chuột đi học là nó cứ khóc thút-tha thút-thít, tuy nó đã 9 tuổi rồi, cái chởm tóc trên đỉnh đầu đã dài xuống đến ót.
Nhưng học được một năm, nó biết chút ít "tiếng Tây". Nó lại hãnh diện, làm phách quá xá. Nó khoe với cậu bốn Thanh, với thằng Đít, với tất cả bà con cô bác, rằng nó là "Lắc-léo-mê-dòng-lô". Cậu Bốn hỏi nó:
- Lắc léo mê dòng lô là cái gì,mầy?
- Là chữ Tây: l'élève maison l'eau.
- Là cái gì chớ?
- Là "Học Trò Nhà Nước " chớ cái gì!
Nó cười xoà, có vẻ chê mấy người không biết chữ Tây.
Từ hôm nó nói được câu tiếng Tây đầu tiên ấy, ở Cửa Bắc ai cũng phục nó sát đất. Họ đồn rùm lên là thằng Chuột giỏi tiếng Tây lắm, mới học một năm mà đã nói được chữ Tây "Lắc léo mê dòng lô". Nó vô tình quảng cáo chữ Tây và Trường Nhà Nước cho cả dãy phố Cửa Bắc. Nhờ nó, mà tháng 9 năm 1910, sau kỳ nghỉ hè trường Nhà Nước có thêm học trò khá đông.
Nhưng mà cậu Bốn nhất định chê chữ Tây không có nghĩa lý cao thâm bằng "chữ ta", tức là chữ Hán. Vả lại, cậu đã 18 tuổi rồi, chữ Hán cậu đã giỏi, cậu đã thuộc hết Tứ Thư Ngũ Kinh, còn học chữ Quốc Ngữ và chữ Tây làm chi nữa?
Không dè rốt cuộc cậu cũng phải học chữ Quốc Ngữ. Nguyên do là tại cô Ba Hợi, con gái ông Bá Hộ ở bến Tam Thương. Không biết ai bày vẽ cho cổ từ hồi nào, mà cô ở nhà đã học chữ Quốc Ngữ, thuộc vần xuôi, vần ngược, bắt đầu đánh vần và viết được rồi. Cô đi chợ, mua một đồng tiền bột phẩm tím về nhà bỏ trong một cái ve, đổ nước sôi vào, hoà thành ra mực. Cô đến một tiệm lớn của khách trú mua một "manh giấy Tây" giá là một tiền, cô bọc lá chuối thật kỹ, cho khỏi nhớp. Cô cũng mua một cán bút, một ngòi bút. Những lúc rảnh, cô tập viết chữ Quốc Ngữ một mình. Kể ra ở tỉnh cô Ba Hợi là một cô gái "tân tiến" nhất lúc bấy giờ trong giới phụ nữ, nghĩa là chỉ có mình cô là con gái học chữ Quốc Ngữ mà thôi. Cô học lén ở nhà, sợ chúng bạn ngạo. Cái bí mật là ai dạy cô Ba Hợi học chữ Quốc Ngữ, và học hồi nào? Mãi về sau trong xóm người ta biết được, mới xầm xì là cô học thầy giáo Năng. Ông Bá Hộ chỉ có 2 người con, mà cô Ba Hợi là con gái độc nhất, và cô đã lớn, nên ông chiều cô lắm. Theo ý cô muốn, ông có mời thầy giáo Năng đến nhà dạy lén cho cô học chữ Quốc Ngữ đã ba tháng từ sau ngày hạ cây nêu Tết.
Một hôm, cô Ba đi chợ tình cờ gặp lại cậu Bốn Thanh, khăn đeo áo dài (cậu còn giữ nguyên cái búi tóc trên đầu, cũng như hầu hết các thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ và đi chưn không). Đến chỗ vắng, chàng thanh niên chận cô Ba Hợi giữa đường, để tán tỉnh. Đây là cách tán gái của chàng thanh niên Nho học:
- Cô Ba ơi! cô nỡ lòng nào chê bai kẻ tiện sĩ này sao? Tôi không thấy mặt cô một ngày thì nhớ cô lòng thắt ruột đau. Sách có chữ "Nhất nhật bất kiến như tam thu hề", mà cô không thương xót tôi sao đành! Cô ơi, sách lại có chữ "Xuân bất tái lai", thì giờ chạy mau như bạch câu quá khích, hay là cô còn chọn đá thử vàng mới kết duyên Tần Tấn?
Cô Ba đội nón, còn cúi mặt xụp xuống nữa, không dám ngó cậu Bốn, nhưng cô la lớn:
- Cậu không để tui đi, tui la làng la xóm bây giờ đây.
Câu Bốn sợ cô Ba la làng, nên phải đứng né qua một bên để cô Ba đi, nhưng cậu cứ lẽo-đẽo theo sau nói lải-nhải hoài. Cô Ba làm thinh không trả lời một tiếng. Tối hôm ấy, dọn dẹp bếp núc xong, cô lấy một tờ giấy Tây, bình mực tím và cây viết, cổ vừa đánh vần Quốc Ngữ, vừa viết thật kỹ:
CẬU BỐN
Chừng nào cậu đọc được bức thư này,thì tôi mới nói chuyện với cậu. Còn cậu không đọc được thư này, thì cậu đừng có nói chuyện với tui mất công. Thư bất tận ngôn.
Nguyễn Thị Hợi
Hôm sau, cô Ba đi chợ dắt thằng em trai 6 tuổi đi theo. Đi khỏi nhà được một quãng, gần chỗ ngã tư rẽ ra Cửa Bắc, cô gặp cậu Bốn Thanh đứng câu cá nơi mương. Cậu giả vờ câu cá mà thực ra là mong được gặp cô Ba đi chợ như mọi ngày. Chàng thanh niên chấp tay chào cô Ba, theo lễ phép hồi bấy giờ:
- Thưa cô Ba đi chợ.
Cô cũng lễ phép trả lời rất khẽ:
- Dạ
Chàng cầm cần câu lẽo-đẽo theo sau:
- Cô Ba ơi. Thầy Mạnh Tử nói: "Sĩ vi khả di ngôn nhi ngôn..." tôi biết là tôi...
Nhưng cô Ba không muốn nghe. Cô thò tay trong yếm (năm 1910, cô Ba mặc yếm cũng như các bạn gái ta đời nay mặc coóc-xê vậy) cô rút ra phong thư bằng giấy Tây, mà cô đã viết đêm qua, và đã gấp lại thật nhỏ. Cô đút thư trong bàn tay bé xíu của đứa em trai và nói thầm gì với nó. Cô bước đi thật nhanh, để em bé đứng lại sau, đưa thư cho cậu Bốn Thanh. Nó sợ sệt nói ấp úng:
- Chị tui đưa cho chú cái này nè.
Chàng trai vui mừng và ngạc nhiên cầm giấy thì đứa bé đã chạy thật lẹ để theo kịp chị nó gần đến Cửa Bắc.
Chàng mở thư ra coi, đứng tần ngần một lát, mắc cở đỏ mặt tía tai. Vì chàng không biết chữ Quốc Ngữ. Chàng không đọc được bức thư của cô Ba Hợi, tức quá, không biết là cổ viết gì?
Chàng thanh niên về nhà xấu hổ, cuốn tờ thư đút trong một ống tre, dấu kín trên mái tranh. Rồi chàng nhất định phải tìm người dạy chữ Quốc Ngữ.
Thầy giáo chỉ cho chàng học A,B,C, Ba, Bă, Bâ...không ai xa lạ: chính là thằng Chuột "lắc léo mê dòng lô".
Thằng Chuột thật là quái ác. Thanh đã dặn nó đừng tiết lộ cho ai biết câu chuyện "bức thư quốc ngữ " của cô Ba Hợi gửi cho chàng, thế mà thằng nhỏ "lắc léo mê dòng lô" cứ quen tính bép-xép, đi mách lẻo cùng cả dãy phố, làm cho ai nấy ôm bụng cười.
Bỗng dưng cô Ba Hợi nổi danh khắp Cửa Bắc,rồi dần dần khắp tỉnh lỵ, vì mấy dòng "thơ bất tận ngôn" của cô viết bằng chữ Quốc Ngữ để thách đố cậu Bốn Thanh. Chàng thanh niên Nho sĩ đã nổi tiếng thuộc làu kinh sử của Khổng Mạnh không dè lại bị con gái của ông Bá Hộ chế nhạo là không được vần A.B.C.
Từ hôm đó, cả ngày Thanh không dám bước chân ra phố. Chàng lén đưa tiền bảo thằng Chuột mua dùm cho chàng một "manh giấy tây", "một cán bút sắt", một viên phẩm tím để hoà thành mực, và nhờ thằng Chuột cứ tối tối đến dạy cho chàng học "chữ Quốc Ngữ". Thằng Chuột đâu phải giáo sư. Nhưng năm 1910, tìm đâu cho ra cả xóm Cửa Bắc một ông thầy giáo dạy chữ Quốc Ngữ! Hầu hết thanh niên trong vùng cũng như khắp nơi còn trung thành với Khổng Học, và không dám từ bỏ nề nếp Nho phong. Chỉ có mỗi một mình thằng Chuột, con chú thợ nề là "lắc léo mê dòng lô" mà thôi. Cả xóm đều biết rằng vì vợ chồng chú nghe thầy giáo hăm doạ nếu không cho thằng Chuột đi học Trường Nhà Nước thì sẽ bị Quan Sứ bỏ tù nên cực chẳng đã chú thím phải cho thằng con trai đi học "chữ Quốc Ngữ" và "chữ Tây" đó thôi.
Thằng Chuột học hết vần xuôi vần ngược, và đã tập viết, tập đọc, ba tháng sau khi đến trường. Bây giờ nó dạy lại cậu Bốn Thanh ABC.
Nhưng thân sinh của chàng là ông Xã không bằng lòng. Một hôm ông rầy với giọng bực tức:
- Mầy đã 18 tuổi, thằng Chuột 9 tuổi mà nó làm Thầy mầy, thiệt ốt nhột quá.
Chàng trả lời:
- Thưa cha, ở xóm mình không ai biết chữ Quốc Ngữ, con phải học nó.
Ông Xã ngồi trong nhà nhai trầu, đôi mắt rầu-rĩ ngó ra ngoài trời, ông than thở:
- Sách Thánh Hiền có dạy: Quân, Sư, Phụ. Trên hết là Vua, rồi đến Thầy, dưới hết mới đến Cha. Mầy để cho thằng Chuột làm Thầy, chẳng khác nào mầy để nó ngồi trên đầu tao.
Chàng thanh niên Nho học nghe cha nói có lý, không dám cãi. Chàng rưng-rưng nước mắt:
- Thưa cha, hôm nay con đã thuộc hết vần xuôi, vần ngược. Con đánh vần được rồi. Vậy con vâng lời cha, từ nay con không học thằng Chuột nữa.
- Ừ, thôi con à. Người "An Nam" học chữ "An Nam", chứ học chữ Tây làm gì.
- Thưa cha, chữ Quốc Ngữ không phải là chữ Tây.
- Tao nghe mày học A.B.C., đó là chữ Tây chứ đâu phải "chữ Ta".
- Thưa cha, chữ Tây nhưng đánh vần thành ra chữ Ta. Thí dụ như con muốn viết chữ "cha", thì con đánh vần ch.a.cha.. Chữ "mẹ" thì đánh vần M-e-me-nặng-mẹ.
Ông Xã lại hỏi:
- Còn "lắc léo mê dòng lô" là gì?
- Thưa cha, đó mới là chữ Tây, như thằng Chuột học trong trường tỉnh.
Tối hôm ấy, thằng Chuột đến như mấy đêm trước. Nhưng lần này cậu Bốn Thanh bảo nó:
- Tao đánh vần chữ Quốc Ngữ được rồi. Vậy từ nay mầy đừng đến nữa.
Thằng Chuột cười hóm-hỉnh:
- Anh đánh vần chữ... Chuột cho tôi nghe có trúng không đã nào?
- Chuột, thì: ch.u.chu.u.o.t.uốt là chuốt nặng chuột.
- Chữ Mèo?
- Mèo thì M.e.me.o.meo, huyền mèo.
- Bây giờ tôi đố anh ba chữ, anh đánh vần được hết ba chữ, thì anh giỏi.
- Ba chữ gì, đố đi.
- Ba chữ: cô Ba Hợi.
Thanh cười ha hả, đỏ cả mặt, tía cả tai:
- Ba chữ đó dễ ợt: C.ô.cô, B.a.ba, H.o,hơ,ơ.i.ơi., là hơi nặng Hợi.
Thằng Chuột khoái chí, cười sặc-sụa:
- Tui cho anh đỗ Cử nhân đó.
Thanh vào nhà giữa xin cha một quan tiền, để trả ơn cho thằng Chuột. Ông Xã bảo:
- Tiền, cha cất ở dưới rương, con vô lấy.
Thanh cầm một quan tiền ra để trên bàn trước mặt thằng Chuột:
- Tao trả ơn mày dậy chữ Quốc Ngữ cho tao đó.
- Thôi, tui không lấy tiền đâu.
- Sao vậy?
- Tui đây chơi cho vui mà anh Bốn.
- Tao đọc, tao viết được chữ Quốc Ngữ, cũng nhờ ơn mày. Tao đền ơn mày.
- Ơn với nghĩa gì, anh Bốn nói kỳ quá.
- Bậy nà! Nhất tự vi sư, bán tự vi sư, dù sao mày cũng là thầy tao.
- Nhất tự vi sư bán tự vi sư là gì, anh Bốn?
- Một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy, huống chi mầy dạy tao hết vần xuôi, vần ngược, rồi đánh vần, tập viết, tập đọc. Tao phải biết ơn mầy chứ.
- Thôi anh Bốn, tui không lấy tiền đâu. Tui mà lấy tiền, về cha tui ổng đánh chết.
Thằng Chuột nói xong, bỏ chạy một mạch ra về.
Thanh ăn cơm tối xong, pha trà cho cha, rồi lấy sách Mạnh Tử ra đọc chương Lương Huệ Vương. Hết canh một, ông Xã ngủ, chàng mới xếp sách Mạnh Tử để trên đầu giường, và len lén lấy tờ "giấy tây", "cán bút sắt" và bình mực tím ra ngồi bàn. Dưới ngọn đèn dầu phọng, chàng vừa đánh vần vừa viết sau đây:
CÔ BA HỢI
Sách Thánh hiền có dạy : Quân tử chi học dã, dĩ vi kỳ thân, tiểu nhân chi học dã, dĩ vi cầm độc 1 Tôi phải học chữ Quốc Ngữ cũng vì cô, nói thật ra cũng nhờ cô khích lệ mà nay tôi mới khỏi thua sút một người yểu điệu thục nữ, tôi mới được dĩ vi kỳ thân, chứ không đến nổi dĩ vi cầm độc. Thật là muốn tạ ơn cô,vạn bội, vạn bội.
Sách Thánh hiền có dạy : Quân tử chi học dã, dĩ vi kỳ thân, tiểu nhân chi học dã, dĩ vi cầm độc 1 Tôi phải học chữ Quốc Ngữ cũng vì cô, nói thật ra cũng nhờ cô khích lệ mà nay tôi mới khỏi thua sút một người yểu điệu thục nữ, tôi mới được dĩ vi kỳ thân, chứ không đến nổi dĩ vi cầm độc. Thật là muốn tạ ơn cô,vạn bội, vạn bội.
Ba tháng trước đây, khi cô trao cho tôi lá thư đầu tiên bằng chữ Quốc Ngữ, nếu là người con trai nào khác thì chắc có lẽ họ giận cô lắm. Nhưng kẻ tiện sĩ này thật không dám giận cô, vì tôi trộm nghĩ : huyết khí chi nộ bất năng hữu, nghĩa lý chi nộ bất năng vô 2 nhưng tôi không có cái huyết khí chi nộ mà cũng không có cái nghĩa lý chi nộ. Tôi cho rằng lá thư khinh thị của cô chính là một lời khích lệ, cô đã khuyến khích tôi học chữ Quốc Ngữ đó chăng !
Cho nên tôi đã không giận cô, mà còn tuân theo tôn ý của cô nữa. Phù chí, khí chí suý giã, khí thể chi sung giã 3.Thưa cô Ba, có phải vậy không ? Chính nhờ cô, mà tôi rèn luyện được chí khí vậy.
Nay tôi tự viết thư Quốc Ngữ này, trước là để xin đền đáp ơn cô, sau là để xin hồi âm những lời vàng ngọc của cô đã dạy cho ba tháng trước đây.
Lê Văn Thanh
Chàng thanh niên viết bức thư dài hai trang giấy tây, chữ thật to (vì mới tập viết) từ đầu canh hai cho đến đầu canh ba mới rồi (tức khoảng 9 giờ đến 12 giờ khuya).
Suốt ba tháng trời cậu Lê văn Thanh không dám gặp mặt cô Nguyễn thị Hợi. Chàng xấu hổ vì một thanh niên Nho học thuộc lòng chữ nghĩa của Thánh Hiền, đầu óc đầy những câu sách của Khổng Tử, Mạnh Tử, mà phải chịu thua một cô gái học A.B.C. Chàng lại tức giận vì cô Ba mới viết được chữ Quốc Ngữ mà đã "làm phách" khoe chữ Quốc Ngữ với chàng, và còn thách đố chàng nữa.
Nhưng bây giờ chàng sắp trả được mối hận, quyết cưới cho được cô Ba Hợi. Nếu không lấy được cô, thì chàng sẽ "ở vậy" suốt đời. Chàng thanh niên Nho sĩ thật không dè chữ Quốc Ngữ học dễ quá, chỉ ba tháng là đọc được, viết được, trả lời được bức thư của cô con gái đẹp "chim sa cá lặn" kia.
Nhưng bức thư viết rồi mà chàng không biết làm sao gửi đến tận tay người phụ nữ.
Mãi nữa tháng sau, nhằm có lễ tế Thần hôm Rằm tháng Bảy rất long trọng ở Đình làng, và ban đêm có đốt pháo bông, chàng mới có cơ hội gặp cô Nguyễn Thị Hợi.
Trước sân đình đông nghẹt những thanh niên thiếu nữ kéo đến coi "Múa Đèn" tưng bừng rộn-rịp. Tất cả thanh niên ở hàng phố ngay tại tỉnh lỵ, cũng như ở các xóm thôn quê lân cận, đều mặc áo dài đen, đầu để búi tóc và chít khăn đen, trông chàng nào cũng đạo mạo, nho nhã. Ai nấy đều lễ phép, dạ dạ, thưa thưa. Có nghịch ngợm chăng nữa thì cũng chỉ lén lút nô đùa với nhau, dỡn cợt kín đáo, không dám cười to nói lớn.
Lê Văn Thanh được cử vào đoàn "Lễ Sanh", là đoàn thanh niên được chọn lưa độ 12 người, mặc áo rộng xanh, đầu đội mão, chân mang hia, được hân hạnh tham gia nghi lễ tế Thần. Cô Nguyễn thị Hợi đứng chen trong đám các cô gái chưa chồng hoặc có chồng, và các bà già, trẻ con, say mê coi múa đèn, 12 chàng "Lễ Sanh" tay cầm đèn "bánh ú" và đèn "hoa sen" phất bằng giấy mỏng đủ màu, vừa múa vừa bước đi chậm rãi, nhẹ nhàng, theo nhịp kèn nhịp trống, với những bộ điệu ly kỳ, huyền bí, học tập từ lâu, trông rất đẹp mắt.
Hết canh một (vào khoảng 8 giờ) thì xong lễ Múa Đèn, đến lượt đốt pháo bông. Lê văn Thanh đã cởi lễ phực trao trả lại làng, và được thảnh thơi ra ngoài đường, trước cổng đình, coi đốt pháo bông. Chàng len lỏi trong các đám phụ nữ đứng hoặc ngồi từng nhóm, tụm năm tụm ba chung quanh đám đất trống. Chàng cố tìm cho được cô Ba Hợi. Cô đứng một mình bên gốc cây sầu đâu trên lề đường, tay dắt đứa em trai của cô, 6 tuổi. Lê văn Thanh nhận được bóng dáng của cô, chàng mừng quá đỗi, nhưng chưa dám đến gần. Cô Hợi vừa liếc thấy chàng, liền ngoảnh mặt ngó chỗ khác, vờ như không đễ ý đến "Cậu Bốn Thanh".
Nhờ có bóng tối,và cô Hợi đứng tựa vào gốc cây sầu đâu, xa chỗ không người, nên không ai trông thấy rõ. Lê văn Thanh bạo dạn, nhưng vẫn rụt rè, bước... bước... bước nhè nhẹ... còn xa cách cô Hợi độ một khoảng dài, chàng không dám tiến tới nữa. Chàng chỉ sợ cô Ba Hợi la làng hoặc cất tiếng chửi "ông bà ông vải" thì mắc cỡ cho chàng biết bao nhiêu.
Thiếu nữ thời bấy giờ, đối với bọn con trai lân la chọc ghẹo, nhất là các cậu lì lợm, nếu được nàng ưa nàng ưa thì nàng lặng lẽ nghe lời ong bướm, hoặc đối đáp dịu dàng, tình tứ. Còn nếu cô gái không ưa mà chàng cứ đeo theo gạ gẩm thì thế nào chàng cũng bị cô ấy chửi ngay cho một trận, hoặc la làng la xóm rùm lên. Chàng trai xấu hổ, chỉ có nước cút đi một mạch.
Lê văn Thanh do dự, biết cô Hợi chưa bao giờ tỏ vẻ thương yêu chàng. Nhưng chàng lấy cớ là trả lời bức thư Quốc ngữ của nàng gửi ba tháng trước, nên chàng tiến đến bóng cây sầu đâu.
Chàng lễ phép chấp hai tay, khẽ cúi đầu chào theo tục lệ xưa:
- Thưa cô Ba đứng chơi.
Nàng quay lại cũng chấp hai tay, cúi đầu đáp lễ:
- Dạ thưa cậu Bốn.
Chàng liền moi trong túi áo cụt mặc dưới chiếc áo dài đen, bức thư mà chàng định trao nàng. Đó là một "tờ giấy tây" gấp lại làm tám, không có phong bì, chỉ được cột lại bằng một rẻo lá chuối xanh. Chàng cầm thư trong tay nói:
- Thưa cô Ba hồi tháng tư cô Ba có gởi tôi một lá thư bằng chữ Quốc ngữ. Ngày tháng như thoi đưa, tính đi tính lại thế mà nay đã bốn tháng rồi, sẵn hôm nay tôi gặp cô đây, đó cũng là cái duyên tao ngộ, xin gửi lại cô lá thư hồi âm, dám mong được cô để cặp mắt xanh đến, thì thật là vạn hạnh.
- Thưa cô Ba hồi tháng tư cô Ba có gởi tôi một lá thư bằng chữ Quốc ngữ. Ngày tháng như thoi đưa, tính đi tính lại thế mà nay đã bốn tháng rồi, sẵn hôm nay tôi gặp cô đây, đó cũng là cái duyên tao ngộ, xin gửi lại cô lá thư hồi âm, dám mong được cô để cặp mắt xanh đến, thì thật là vạn hạnh.
Cô Nguyễn Thị Hợi mỉm cười, làm thinh. Cô mắc cở, cúi đầu, không dám ngó chàng trai. Lê văn Thanh chìa thư ra:
- Xin quý nương nhận cho, tôi rất lấy làm thâm-cảm.
Cô Ba Hợi vẫn cúi mặt, bảo:
- Cậu muốn đưa cái gì thì đưa cho em tui.
Lê văn Thanh nhét gói thư vào bàn tay cậu em, tên là Tý, nhưng Tý ngó chị:
- Cái bánh hay cái gì đây, chị Ba!
Cô Hợi cười không đáp. Lê văn Thanh nói tiếp:
- Thưa cô Ba, thầy Tử Tư có nói rằng "Tự thành minh vị chí tình, tự minh thành vị chi giáo, thành tắc minh hỷ, minh tắc thành hỷ" là nhờ thành thực mà sáng tỏ, ấy là tính, nhờ sáng tỏ mà thành thực, ấy là học. Hễ thành thực là sáng tỏ, hễ sáng tỏ là thành thực. Thưa cô, tôi xin thề với thần thánh, ma quỷ, là tôi giữ một tấm lòng thành thật, tôi cũng mong cô được một niềm sáng tỏ.
Cô Nguyễn Thị Hợi chưa muốn trả lời vội, và cũng chưa muốn nói chuyện gì với cậu Bốn Thanh. Vì trước hết cô muốn xem chàng nói gì trong bức thư của chàng. Cô bảo:
- Cậu Bốn để tui về nhà coi thư thì tui trả lời cậu Bốn.
-Chừng nào cô Ba trả lời?
- Hổng biết. Tui rảnh thì tui trả lời.
- Vậy thì mỗi ngày đi chợ buổi sớm mai, có tôi chờ cô ở bụi tre thổi kèn.
Cô Hợi làm thinh. Cậu Thanh cũng không dám đứng đó lâu.
Cây pháo bông "Bát Tiên" vừa nở sáng rực nửa lưng trời, giữa tiếng reo mừng của trẻ con. Công chúng đàn ông cũng như đàn bà, đều trầm trồ khen ngợi, nhưng không vỗ tay ầm ỹ, không hoan hô náo nhiệt như công chúng ngày nay.
Cả khu phố Cửa Bắc, và cả làng Chánh Lộ, ở ngay tỉnh lỵ, không ai ngờ cậu Bốn Thanh học trò chữ Nho của ông Tú Phong, bây giờ lại cắp vở đến trường Nhà Nước học chữ Tây. Ai hỏi: tại sao? Thì cậu trả lời: Tại Nhà Nước Đại Pháp bắt buộc, không đi học thì bị tù.
Nhưng không đúng thế đâu. Trước đây, trong tỉnh ai cũng biết rằng cậu học chữ Quốc Ngữ (học lén) là tại cô Ba Hợi. Nhưng bây giờ không ai biết rằng cậu đi học chữ Tây - học công khai, làm "lắc léo mê dòng lô" cũng là tại cô Ba Hợi.
Cho cuộc tình duyên âm thầm lén lút của nàng và chàng đã khắn khít bởi một lời thề "Thệ Hải Minh Sơn" ở bụi tre "thổi kèn", cách Cửa Bắc ba trăm thước, không biết từ hồi nào. Nhưng có điều chắc chắn, là cô Ba Hợi, 16 tuổi, con gái ông Bá Hộ, một nhà giàu nhất ở Phố Cửa Bắc, không muốn cậu Bốn học chữ Nho nữa. Cô thấy thời thế đã đổi thay, có mấy người trong tỉnh đã bỏ bút lông, cầm bút sắt, mới học trường Nhà Nước không bao lâu, nay đã làm thầy giáo, làm thông ngôn, thầy Ký lục, được ăn lương Nhà Nước, được địa vị sang trọng, được chức Bát phẩm, Thất phẩm của vua ban. Cô yêu cậu Bốn Thanh, nhưng cô chỉ bằng lòng làm vợ của cậu với một điều kiện nhất định, là người yêu của cô phải đi học chữ Tây ở trường Nhà Nước, phải thi đậu làm thầy Thông, thầy Ký. Đôi trai gái thề thốt với nhau trong lúc trường Nhà Nước - gọi là trường Sơ Học Pháp Việt - đang lúc nghỉ hè niên khoá 1911-1912.
Thằng Chuột, từ nay tên chánh thức là Trần anh Tuấn, hết kỳ nghỉ hè, đã được lên lớp ba. Nó đi khoe với mọi người là nó học cua "ê lê măng te" và cuối niên khoá nó sẽ đi thi bằng cấp "tuyển sanh". Nó đã 11 tuổi, nói tiếng Tây "bông bốc".
Ngày nhập học, chàng thanh niên Lê văn Thanh, vẫn để búi tóc trên đầu, vẫn bịt khăn đen, mặc áo dài đen, chân mang guốc, cặp hai quyển vở và cây bút sắt, cây bút chì, thước gạch, bình mực tím, bẽn-lẽn đến trường. Đây là một mái trường lợp tranh, vách tường bằng phên tre quét vôi, nền tô xi-măng. Ông Đốc, người Việt Nam, đã già, nói tiếng Hà Tĩnh bảo cậu:
- Trưa nay về nhà, cậu phải cúp tóc ca-rê, bỏ cái búi tóc kia đi và đừng bịt khăn... Chiều nay cậu cúp tóc rồi Nhà Nước sẽ cho cậu một cái mũ trắng để đội.
Chàng khúm núm, chắp hai tay cúi đầu:
- Dạ, bẩm Quan lớn, con xin tuân lệnh Quan lớn.
Quan Đốc dắt cậu xuống Lớp Năm, giao cậu cho thầy giáo. Quan Đốc và các thầy giáo đều mặc áo dài Việt Nam nhưng đầu cúp rê, chân mang giầy Hạ.
Tất cả các thầy công chức làm việc cho Nhà Nước ở trong tỉnh đều mặc áo quần Việt Nam, đầu cúp ca-rê, hoặc rẽ một bên. Không có ai mặc áo Tây cả.
Trưa hôm ấy, chàng thanh niên Lê văn Thanh về nhà thưa với cha, là ông xã Quý, về việc cúp tóc. Ông Xã không chịu. Ông đập bàn, đập ghế, la hét om sòm:
- Con có cha, như cái đầu có tóc. Theo phong tục nước An-Nam, con phải để tóc, ấy là để thờ Cha Mẹ, ấy là có hiếu. Cắt tóc đi cũng như là từ bỏ cha mạ. Tao theo sách Thánh hiền dạy lễ giáo từ xưa đến nay của nước An Nam như thế. Tao đây đã 50 tuổi, ông Nội bà Nội mầy đã quá vãn rồi, mà tao còn búi tóc, để giữ đạo làm con cho trọn chữ Hiếu. Huống chi ngày nay tao còn sống mà mầy lại cắt cái búi tóc bỏ đi sao được! Chiều nay vô trường thưa với Quan đốc như thế.
Nói xong, ông Xã ngồi khóc ròng rã. Chàng con trai Lê văn Thanh, cũng khóc nức nở. Bà Xã, ở dưới bếp chạy lên nghe câu chuyện của chồng vừa nói, cũng ngồi xuống ngạch cửa khóc hu hu. Ông Xã nói tiếp, với giọng tức tối:
- Làm con, có cái búi tóc ở trên đầu để thờ Cha kính Mẹ mà cắt bỏ đi, thì còn gì là Cha con, Mẹ con nữa!... Mầy mà nghe lời người ta cắt bỏ cái búi tóc, thì là tao nhẩy xuống giếng tao tự tử!
Ông lại khóc to lên, hu! hu! hu!
Ông Xã khóc, bà Xã khóc, chàng thanh niên Lê văn Thanh cũng khóc, nhưng rốt cuộc rồi cái búi tóc trên đầu chàng cũng phải cắt bỏ đi, tóc phải cúp "carré", và Quan Đốc học trường Nhà Nước đã truyền lịnh như thế. Nhưng năm 1910, tận nơi tỉnh lỵ mà ta nói đây - cũng như các tỉnh khác ở Trung Việt, chỉ mới có một vài người làm nghề hớt tóc mà thôi. Chú Bảy theo ghe nước mắm vào Đồng Nai học nghề cúp tóc trước đó một vài năm. (Lúc bấy giờ, cho đến khoảng 1920, ở các tỉnh Trung Việt, người ta vẫn gọi Saigon là Đồng Nai. Danh từ "Saigon"chưa được thông dụng). Chú mua kéo, toon-đơ, dao cạo, cũng ở tại Đồng Nai, đem về mở tiệm cúp tóc ở tỉnh lỵ. Nói là mở tiệm, nhưng chú chỉ thuê một xó hè của một tiệm buôn khách trú, đặt một cái bàn con, một chiếc ghế đẩu, và treo một tấm kiếng trên vách tường, thế là đủ cho chú hành nghề. Chú treo tấm vải trắng phía ngoài đường, trên vải chú viết bằng mực Tàu, một chữ Tây "COIFFEUR", và chua ở dưới hai chữ Hán (Thế Phát: Cắt Tóc). Chữ Quốc Ngữ vì chưa được truyền bá, ít người biết, nên chú thợ hớt tóc chỉ viết quảng cáo bằng chữ Hán và chữ Tây, mặc dầu chữ Tây cũng chưa mấy người học đến. Chú để chữ Tây cho oai, bắt chước chữ Tàu học lỏm trong Đồng Nai, và thỉnh thoảng chú nói với vài bác lính tập: "Tui làm cốp phơ cho quan Công Sứ".
Vì vây mà trong tỉnh, người ta gọi chú là "chú Bẩy cốp phơ".
Chiều hôm ấy, chàng thanh niên Lê văn Thanh đến tiệm hớt tóc, nét mặt rầu rĩ, nói với chú Bẩy cốp phơ:
- Chú Bẩy đem đồ qua nhà tôi, cúp tóc cho tôi được không chú? Vì ông già tôi còn phải cúng Ông Bà để cho tôi cắt tóc.
Chú Bẩy cốp phơ gật đầu lia lịa:
- Thầy Xã nói phải. Cái búi tóc trên đầu mình là của Ông Bà cha mẹ. Cắt nó đi là có tội, cho nên phải cúng Ông Bà. Cúng một lần rồi sau khỏi cúng chớ sao.
- Quan Đốc học bắt học trò phải hớt tóc, tôi tuân lệnh Quan, chớ nói thiệt với chú, người An Nam mình có cái búi tóc để thờ Ông Bà cha mẹ, cắt đi phạm tội bất hiếu.
- Phải, cậu Bốn có học sách Thánh Hiền cậu nói tôi nghe được.
Cậu Bốn cốp phơ gói dao, toon đơ, gương, lược vào trong một gói vải đỏ rồi xách tòn-ten đi theo cậu Bốn Thanh đến nhà ông Xã. Trên bàn thờ Ông Bà, có bầy một hộp trầu cau, một nải chuối chín và một con gà luộc. Một mâm gỗ lớn đựng mười chén cháo và mười đôi đũa, đặt trên bộ ván kê trước bàn thờ. Ông Xã thắp đèn hương, đứng khấn vái hồi lâu. Ông khấn như sau đây:
"Bữa nay, thằng con bất hiếu Lê văn Thanh, tuân lệnh Quan, phải cắt tóc để đi học trường Nhà Nước, nên có lễ vật để cáo với liệt vị tiền nhân, các bậc Cao tằng Tổ khảo với Tổ phụ, Tổ mẫu, chứng giám. Xin vong linh liệt vị phù hộ cho con cháu, để nó học hành, công danh hiển đạt"
Khấn xong, ông lạy ba lạy. Đến lượt Lê văn Thanh áo dài, khăn đen với cái búi tóc trên đầu, cũng lạy ba lạy. Xong nghi lễ cáo với ông bà, ông Xã đưa tay vẫy gọi chú Bẩy cốp phơ đứng khúm núm ngoài hè. Chú vào kéo một chiếc ghế để ngay trước bàn thờ, bảo Lê văn Thanh ngồi. Thanh gỡ cái khăn đen trên đầu ra, cung kính đặt nó trên chiếc khay bên cạnh mâm cháo gà, vái thêm ba vái nữa rồi mới ngồi ghế. Chú Bẩy bảo chàng xổ búi tóc ra. Một lọn tóc đen mượt chảy lòng thòng xuống đến nửa lưng. Chú Bẩy cốp phơ tự thấy mình đang đóng một vai trò trọng đại, nên chú làm ra vẻ oai vệ, lấy vạt áo lau lại hai lưỡi kéo trước khi lùa lọn tóc nắm vừa vặn trong bàn tay, rồi tay kia cầm kéo cắt sát trên đỉnh đầu. Tóc dài quá, kéo thì lụt, chú Bẩy phải xáp đến bốn năm lượt búi tóc mới rơi hết xuống đất thành một đống đen ngòm.
Bà Xã đứng gần đấy, oà lên khóc, thê thảm, quay lưng đủng đỉnh vào nhà trong. Ông Xã rưng rưng hai ngấn lệ. Trên bàn thờ, ba que nhang cùng toả ra một làn khói thơm nồng, cuồn cuộn lên cao. Ngọn đèn dầu phọng cháy tỏ như thể có vong hồn các đấng tiền nhân đang chứng minh nghi lễ "thế phát" của đứa con trưởng nam trong gia đình.
Chú Bẩy cầm "toon-đơ" ủi một đường từ ót lên tới đỉnh đầu. Một luống tóc theo lưỡi toon-đơ bị hất ra hai bên, rụng tơi bời xuống ghế. Nhiều mớ tóc còn muốn bám chặt vào cổ áo của Lê văn Thanh, chưa chịu rời xa.
Thanh cúi đầu ngồi yên lặng, không quảy cựa. Chàng có cảm tưởng đang cam chịu một thay đổi lớn lao trong đời chàng, và mỗi mớ tóc xác xơ rơi xuống đất là một chút dĩ vãng đang rơi khỏi đầu óc của chàng trai nước Việt đương buổi giao thời.
Nén nhang trên bàn thờ vừa tắt, thì tóc của Lê văn Thanh cũng vừa hớt xong, theo kiểu ca-rê (vuông). Chú Bẩy lấy dao, cạo tém xung quanh gọn gàng, sạch sẽ, xong đưa tấm kiếng cho Thanh coi, và cười đắc chí, bảo:
- Cậu Bốn thấy không, cái đầu của cậu cúp ca-rê như vậy có khác gì cái đầu của thầy Thông, thầy Ký đâu nè.
Lê văn Thanh soi gương, tủm tỉm cười. Nghe chú Bẩy cốp phơ khen cái đầu giống thầy Thông, thầy Ký, chàng khoái lắm, nhưng không dám nói ra. Chàng chỉ nghĩ rằng, mai hay mốt cô Ba Hợi trông thấy đầu chàng chắc sẽ mê chàng ngay.
Lê văn Thanh đã cúp tóc, nhưng vẫn còn bịt khăn đen, cắp sách đi học. Đến trường, quan Đốc bảo chàng bỏ khăn ra, và quăng cho chàng chiếc mũ trắng, để đội lúc đi ngoài đường. Quan Đốc còn căn dặn cẩn thận:
- Ngồi trong lớp học hay trong nhà, không được đội mũ. Đi ngoài đường, khi gặp Quan Đốc hay thầy giáo phải dở mũ ra để chào.
Chàng đã 18 tuổi, mới vào học lớp Năm. Nhưng chàng không ngượng, vì thời bấy giờ theo học chữ Hán học trò toàn là 17, 18 sắp lên. Cho đến 40, 50 tuổi vẫn còn có thể là học trò. Tụi con nít như thằng Chuột chưa phải là học trò chánh hiệu. Vả lại, trường Nhà Nước mới mở, học trò còn hiếm lắm. Ngay ở trong tỉnh nầy, trong niên khoá 1911-1912, lớp Năm được mười trò, trong số có 4 trò từ 8 đến 10 tuổi, còn 6 trò trai tráng từ 18 đến 20.
Bỏ chữ Hán qua học chữ Quốc Ngữ và chữ Tây. Lê văn Thanh vẫn tỏ ra một thanh niên cần mẩn, rất thông minh và chăm học, 20 tuổi học hết lớp Ba, có một kỳ thi gọi là "Thi Tuyển Sanh". Các môn thi gồm có một bài "ám tả" Pháp ngữ, mấy bài luận Pháp văn và một bài luận Quốc Ngữ. Vào "khẩu vấn" chỉ hỏi về cửu chương. Riêng về cửu chương, thầy giáo lại cho học chữ Hán để cho dễ nhớ. Mấy ngày trước hôm thi, đêm nào Lê văn Thanh cũng đọc to bản cửu chương đại khái như sau đây:
Cửu cửu bát nhất (9,9,81)
Bát cửu thất nhị (8,9,72)
Thất cửu lục tam,
Lục cửu ngũ tứ
Ngũ cửu tứ ngũ
Tứ cửu tam lục
Tam cửu nhị thất
Nhị cửu nhất bát
Nhất cửu như cửu
v.v...
Bát cửu thất nhị (8,9,72)
Thất cửu lục tam,
Lục cửu ngũ tứ
Ngũ cửu tứ ngũ
Tứ cửu tam lục
Tam cửu nhị thất
Nhị cửu nhất bát
Nhất cửu như cửu
v.v...
Cho đến khi nào chàng nhắm mắt đọc trôi chảy, thật nhanh và không vấp một chữ, từ số 9 đến số 1 chàng mới đi ngủ. Kỳ thi Tuyển Sanh, Lê văn Thanh đậu thứ nhì. Về nhà, ông Xã bà Xã vui mừng giết một con gà nấu cháo, cúng tạ Ông Bà.
Mỗi năm mỗi lên lớp, đến năm 22 tuổi Lê văn Thanh học hết lớp Nhất, được đi thi "Khoá Sanh", nói theo tiếng Pháp là thi "Ri me" 4. Thi Ri me rất khó khăn, vì có "ông Tây" chấm thi, và hầu hết các môn thi bằng chữ Tây. Lê văn Thanh bây giờ đã hoàn toàn là một cậu học trò "Trường Pháp Việt", học chữ Tây, nói tiếng Tây, tuy chưa phải là thứ tiếng Tây đứng đắn, nhưng cũng cứ nói được hiểu được khá nhiều, và có thể bập bẹ đối đáp với: "Ông Tây bà Đầm" được lắm.
Thí sinh vỏn vẹn có 10 người, cả 10 đều thi đậu. Thí sinh trúng tuyển bằng cấp "Ri me" được gọi là "Cậu Khoá".
Để khuyến khích học trò các khoá sau đi học cho đông, "Nhà Nước Bảo Hộ" truyền lịnh các làng sở tại phải rước các "Cậu Khoá" về làng một cách long trọng, như rước các ông Nghè, ông Cống của Nho học vậy.
Một tuần lễ sau khi tuyên bố kết quả kỳ thi Ri me năm 1915 là ngày cậu Khoá Lê văn Thanh được rước về làng, 8 giờ sáng, cậu mặc áo dài đen mới may bằng "vải trăng đầm" mang đôi guốc cùn, đội mũ trắng, được quan Đốc học dẫn đến chào "Quan Công Sứ" Pháp và Quan Tuần Vũ. Trước cổng dinh Quan Tuần, chức sắc và dân làng sở tại, quê quán của cậu Khoá đã về tựu rất đông với cờ quạt, trống chiêng, và một chiếc xe kéo gỗ, bánh bọc bằng niền sắt. Lúc bấy giờ, từ khoảng năm 1910 đến 1920, chưa có bánh cao su.
Từ trong dinh Quan Tuần Vũ, cậu Khoá Lê văn Thanh được ông Hương Cả trong làng mời lên ngồi trong xe. Trống và chiêng đánh ba hồi, thêm ba tiếng. Đám rước bắt đầu đi. Trống và chiêng đi trước, vừa đi vừa đánh ba tiếng đều đều, kế đến một người dân cầm một bức trướng thêu bốn chữ Hán "Tân Học Khoá Sanh", rồi hai dẫy cờ đuôi phụng, đủ các màu rực rỡ xanh đỏ tím vàng, phất phơ trong gió. Chiếc xe "cậu Khoá" đi giữa, do một người phu kéo bước thong thả, theo một nhịp với mấy người dân cầm cờ. Niền sắt của bánh xe lăn chầm chậm từng vòng kêu kẽo cà kẽo kẹt trên con đường tỉnh mới nện đá còn gồ ghề, chưa tráng nhựa.
Dân thành phố đứng hai bên để coi đám rước cậu Khoá nhất là đàn bà, con gái và trẻ con, đông nghẹt. Lê văn Thanh đội mũ trắng trên đầu, chân vẫn mang đôi guốc cũ đã mòn, bộ mặt hơi mắc cỡ hơn là hãnh diện. Đám rước đưa thẳng về đình làng để cậu Khoá vào tế Thần, cũng như làm lễ trình diện với vị Thành Hoàng sở tại.
Ông Xã phải giết một con bò và một con heo để đãi làng, đãi dân và từ đây, chàng thanh niên Lê văn Thanh được lên địa vị "khoá sanh" khỏi xâu, khỏi thuế, lại được đứng vào hàng chức sắc Hương Cả.
Sáng hôm sau, Lê văn Thanh dậy thật sớm ra chỗ bụi tre Thổi Kèn 5, đón cô Ba Hợi.
Từ ngày chàng nghe lời cô Ba, bỏ học chữ Hán, học chữ Tây, hy vọng sẽ làm thầy Thông, thầy Ký để được cưới cô về làm vợ, chàng vẫn ít gặp mặt cô. Con gái ông Bá Hộ, ỷ mình có nhan sắc "chim sa cá lặn", lại con nhà giàu, cô tính làm cao, nhất định đóng cửa kén chồng. Đã bao chàng trai rấp ranh bắn sẻ, nào ai đã được lọt vào cặp mắt xanh của cô đâu. Lê văn Thanh đã nhẫn nại may mắn trao đổi cùng cô mấy bức thư tâm tình, nhưng cô đã nói trước:" Khi nào chàng làm thầy Thông thầy Ký, thiếp sẽ xin gá nghĩa cùng chàng."
Gặp nơi hẹn hò cũ, chàng nhắc lại lời hẹn hò cũ năm xưa. Cô Ba Hợi rất duyên dáng nhưng vẫn bẽn-lẽn như ngày nào. Khẽ hỏi :
- Anh thi đỗ Ri me, chừng nào mới làm thầy Thông thầy Ký ?
- Quan Sứ có lòng thương tôi, nói với tôi rằng nếu tôi không muốn đi Huế học Collège de Koccoc thì Quan Sứ cho tôi làm xê-cờ-rê-te ở Toà, khỏi đi đâu xa.
Cô Ba Hợi cười ngặt ngoẹo, hỏi:
- Cô le Cồn cốc là cái gì! Sao nghe tức cười quá vậy!
Lê văn Thanh hãnh diện muốn khoe một mớ chữ Tây với cô Ba :
- Collège de Quốc Học, Tây đọc là Collège de Koccoc, học thi Diploma.
- Thi gì mà lại đít lom!
- Là đặng Diploma, ta làm thầy Trợ Giáo, hay là thầy Thông thầy Ký, được ăn lương nhiều.
- Còn bằng Ri me!
- Bằng Ri me cũng được làm trợ giáo, hay là làm chức secretaire, nhưng ăn lương ít hơn.
- xê rê te là gì!
- Là thầy Thông thầy Ký.
Cô Ba Hợi suy nghĩ một lúc, rồi nói:
- Làm xê rê te ở tỉnh mình cũng sang trọng rồi, chớ đi Huế chi nữa!
- Tôi đi học trường Nhà Nước, cũng là chìu theo ý cô Ba, nay cô Ba muốn sao, tôi cũng chìu theo, miễn là cô ưng làm ma femme thì cô biểu gì tôi cũng nghe hết.
Cô Ba lại cười, giọng cười của cô lần này đã có vẻ lả lơi:
- Ma phăm là ma gì. Tui sợ ma lắm, làm ma tui không chịu đâu.
- Ma femme là... nội trợ của tôi.
Cô Ba ửng đôi má, nhoẻn một nụ cười tình tứ, liếc chàng thanh niên. Nhưng hai người vẫn đứng cách xa hai ba thước, không dám lại gần. Lê văn Thanh nói :
- Sách Tây có nói vouloir c'est pouvoir...
Cô Ba làm bộ ngạo chàng :
- Hồi học chữ Nho anh ưa nói chữ Nho, bây giờ anh lại ưa xổ chữ Tây không nghe anh nhắc tới chữ Thánh Hiền nữa.
- Chữ Nho nghe quê mùa lắm.
- Anh mới nói câu chữ tây gì loa loa gì đó!
- Vouloir, c'est pouvoir, nghĩa là muốn thì được.
- Muốn gì?
Thanh yên lặng nhìn say mê khuôn mặt kiều diễm của con gái ông Bá Hộ... Nhưng tình yêu bồng bột ngây ngất của chàng thanh niên thời bấy giờ chỉ đến thế thôi, không dám táo bạo hơn nữa.
Cô Nguyễn Thị Hợi cũng đã hiểu Thanh muốn gì. Cô hiểu từ lâu rồi. Cô hỏi chơi thế thôi, vì lần này cô đã tỏ ý ưng thuận. Vâng, muốn thì được. Cô muốn làm cô Thông cô Ký, thì rồi đây cô sẽ làm cô Thông cô Ký...
Hai hôm sau, vào buổi chiều chủ nhật, ông Xã đi với Lê văn Thanh, và một người dân làng gánh theo một quả nếp thật trắng và đầy vun, một thúng đựng 20 trứng gà tươi, một quả đường phèn, một thúng đường bông, hai chai mật ong, bốn chai rượu Mai-quế-lộ và hai lọ lộc bình xưa, đến dinh thự riêng của Quan Công Sứ.
Chàng thanh niên kia đi với cha đến đằng "quan sứ" mấy món lễ vật kia là để xin Quan một chức thông ngôn ở Toà.
Quan Sứ xuýt xoa, vui vẻ cảm động:
- Oh! C'est trop cà! Vous êtes beaucoup gentil! Tốt! Tốt! Thanh! Viens demain à mon bureau! Tu seras secrétaire à la Résidence! Dis à ton père, Monsieur le Residence merci! Si ton père veut du cuu-pham. il l'aura...
Ông Xã quay lại hỏi Thanh:
- Cụ lớn nói sao con?
- Cụ lớn nói cho nhiều quá. Cụ lớn khen tốt lắm. Cụ biểu con sớm mai tới Toà, cụ sẽ cho con làm thầy thông ngôn. Cụ lớn cám ơn đồ lễ vật. Nếu cha muốn được chức Cửu-phẩm, thì sẽ có.
Ông Xã cụp xương sống cúi đầu vái ông Quan Tây ba bốn vái:
- Dạ, con xin tạ ơn cụ Lớn.
Ông Sứ bắt tay:
- Tốt! Tốt! Beaucoup tôtt!
Thì giờ thoáng qua rất nhanh chóng. Nhất là trong giai đoạn giao thời, bao nhiêu cái văn minh do "Nhà Nước Đại Pháp" mang sang truyền bá trong xã hội Việt Nam đang dần dần thay đổi mới, mọi sự biến chuyển xẩy ra rất mau lẹ, và đa số dân chúng mặc nhiên "công nhận" và hùa theo tán thưởng. Trừ ra một số Nhân sĩ Cựu học, có đầu óc ái quốc nồng nhiệt, gọi là Văn Thân, ngấm ngầm phản đối, và tuyên truyền chống Pháp về phương diện chính trị, còn thì đa số dân chúng gần như thụ động "sợ Tây" và dần dần làm quen với tình trạng mới, ưa chuộng những thay đổi mới của "ông Tây".
Nhất là giới thanh niên. Một lẽ dễ hiểu, là lớp người trai trẻ vừa mới lớn lên chưa kịp thâm nhiễm cựu học đã tiếp xúc ngay với hoàn cảnh mới và sự hiện diện chính thức của người Pháp, đại diện "Nhà Nước Bảo Hộ".
Cho nên các lớp thanh niên Việt Nam từ 1910 đến 1925 đều hùa theo phong trào "bỏ chữ Hán, học chữ Tây" để theo đòi nếp sống "văn minh tiến bộ" do người Pháp tạo ra.
Cho đến một số các ông Tú, ông Cử nhà Nho "cựu học" cũng bắt đầu nhảy qua "tân học", và "Nhà Nước Bảo Hộ" mở rộng cửa trường Quốc học Huế, trường Hậu Bổ (Collège des Interprètes) Saigon, Hanoi, để tiếp đón niềm nở các nhà Nho học trẻ tuổi ấy, cùng với các thanh niên Tây học, khởi điểm của giới "trí thức thượng lưu" sau này.
Ở các tỉnh, trừ một số rất ít thanh niên được ưu đãi, con các quan, thi đỗ bằng "ri me" rồi được ra Huế học trường Quốc Học, còn hầu hết được bổ dụng ra làm việc ngay ở các sở, làm "thầy Thông","thầy Ký".
Lê văn Thanh, chàng thanh niên của chúng ta, con nhà bình dân, ở vào lớp này. Sau khi thi đỗ bằng "Sơ Học Pháp Việt", bằng "Ri me", và được quan Công Sứ cho vào làm Thầy Ký ở Toà Sứ, lương tháng 10 đồng, chàng đã nghiễm nhiên được một địa vị sang trọng ở tỉnh nhà. Thân sinh của chàng là ông Xã Quý, bây giờ được lên chức "Hương Cả" liền giết hai con bò và 5 con heo để làm tiệc ăn mừng.
Tiệc khao này kéo dài suốt ba ngày đêm, toàn thể dân phố ở Cửa Bắc và Cửa Tây, tức là dân làng sở tại ở tỉnh lỵ đều nô nức vui mừng, và khen ngợi nhà "ông Hương cả có phước". Bây giờ không ai dám gọi cậu Bốn Thanh nữa, mà cung kính cúi đầu, xá: "Thầy Ký Thanh".
Hôm đầu cuộc lễ ăn mừng, ông Hương Cả làm lễ "Tế Thần", có các hương chức trong làng tham dự, tức là lễ tạ ơn vị Thành Hoàng ở đình làng. Trong đình, có trống lớn, trống nhỏ, chiêng, phèn la, có nhạc bát âm, ngoài sân có cờ, có lọng, có dân chúng, đàn ông, đàn bà, con trai, con gái, bà già, con nít, tụ hợp đông đủ để coi.
Thầy Ký Thanh bây giờ không còn mang đôi quốc cùn như hồi đi học nữa. Thầy được mang đôi "giầy Hạ", thứ giầy bằng da đen bóng, chỉ có các quan và các thầy Thông thầy Ký, thầy giáo, mới được mang mà thôi. Giầy này do người Bắc làm ở Bắc, đem vào bán tại các tỉnh. Lúc bấy giờ, giầy tây chưa có ai mang.
Tính ra, từ hồi cậu Bốn Thanh còn để cái búi tóc trên đầu, trông thấy ông Tây bà Đầm đã vội chạy trốn, hoặc giả vờ đứng câu cá ở đường mương, ngoài Cửa Bắc để đợi cô Ba Hợi đi chợ mà lẽo-đẽo theo sau tán tỉnh bằng một câu chữ Nho "nhất nhựt bất kiến như tam thu hề..." cho đến bây giờ là thầy Ký Thanh chân mang giầy Hạ, đầu đội mũ trắng, đi làm việc trên "Toà Sứ" với chức "Thông ngôn Ký lục" cả sự biến đổi lớn lao àv mới mẻ ấy chỉ xẩy ra trong khoảng 5 năm, từ 1910 đến 1915. Thực ra, sức hiểu biết chữ Pháp trong 5 năm sơ học ấy có là bao, nhưng thầy Ký Thanh bây giờ hãnh diện được "nói tiếng Tây" với tất cả mọi người. Thầy không còn xổ những câu trong sách "Thánh Hiền" của Đức Khổng, Đức Mạnh nữa. Ở nhà thầy khoe tiếng Tây với bà con hàng xóm, thiên hạ lại ùa nghe đông nghẹt. Ai cũng tò mò muốn hỏi thầy cái nầy cái nọ gọi bằng tiếng tây như thế nào. Nhiều chữ dễ, thầy trả lời thông suốt cả. Gặp những chữ khó, thầy chưa học tới, thì thầy nói bậy bạ, thì họ cũng nghe mê.
- Cái chén, chữ tây gọi là gì thầy Ký?
- La tách-xờ.
- Cái bình điếu?
- La píp-pờ.
- Cái áo?
- La rốp-bờ.
- Cái quần?
- Lơ Pang ta lông.
Đó là những cái dễ. Đến lượt bà Xã hỏi:
- Cái yếm, tây nói sao?
Thầy Ký chưa học chữ "cái yếm" liền trả lời:
- Ông Tây bà Đầm có đeo yếm đâu mà thím Xã hỏi kỳ vậy?
Cả đám thính giả cười rộ lên. Thầy Ký được thể, phê bình:
- Thím Xã hỏi nhà quê quá!
Cô Hai Nghĩa, con bà Hương Kiểm em họ của thầy Ký Thanh hỏi:
- Anh Ký ơi, tây họ gọi cơm là gì?
- Lơ ri.
- Rau muống?
Chữ này thầy Ký chưa học tới, nhưng không lẽ thầy chịu dốt nên thầy bịa đặt, nói bố láo:
- Rau muống, tây gọi là legume ramper dans l'eau.
- Chữ rau muống sao mà dài thượt vậy?
- Tại rau muống nó dài, nó bò tràn lan, cho nên Tây đặt cho nó cái tên vậy chớ sao!
- Con... con bò?
- Bớp.
- Con heo?
- Cô son.
- Con heo sao gọi bằng "cô"?
- Cô son là con heo cái.
- Con heo đực?
- Heo đực là... cu son.
Cô Hai Nghĩa và mấy người đàn bà mắc cở, đỏ mặt.
Bọn đàn ông con trai thì cười ầm ỹ ả lên. Ông Hương Bổn nói:
- Tiếng Tây cũng có chữ "cu" he. Giống tiếng ta quá há!
Thằng Đít, con chú thợ mộc hỏi:
- Con heo kêu ụt ịt, tây nó nói sao thầy Ký!
- Le cu son út xờ, ít xờ.
Thầy Ký Thanh sợ người ta hỏi nhiều chữ khó quá, trả lời không được, thầy đứng dậy bảo:
- Thôi, đừng hỏi nữa. Muốn biết chữ Tây thì đi học trường nhà nước, đừng học sách Khổng Tử, Mạnh Tử nữa.
Ông Hương Cả quý cưng cậu con trai "Ký Lục", cũng bảo bà con hàng xóm:
- Để anh Ký nó đi nghỉ cho khoẻ, sáng mai còn đi làm việc trên Toà.
Thầy Ký Thanh vào nhà, đi ngủ. Ông Hương Cả còn nói với bà con:
- Nó giỏi chữ Tây, cho nên quan Sứ ngài thương nó lắm...
Sự thật, thì cái tiếng Tây của thầy Ký Thanh là loại "tiếng bồi", nhưng trong buổi sơ giao, người Pháp cần gấp một số thông ngôn tạm hiểu chút ít tiếng của họ, một cậu "lắc léo mê dòng lô" nói tiếng Tây "ba xí ba tú" như thầy Ký Thanh vẫn được nhà nước Bảo Hộ trọng dụng.
Nhưng Ký Thanh vào sở, chạm trán phải một "quan Phán đầu Toà" rất khó chịu. Ông này, cũng là thanh niên, chỉ lớn hơn Thanh độ 6, 7 tuổi, nhưng nguyên là con một Quan Án Sát ở Hà Tĩnh, và tốt nghiệp trường Quốc Học Huế, học giỏi hơn và được bổ làm "Thông Phán", chức vị cao nhất ở Toà Sứ.
"Quan Phán Đầu Toà" biết thầy Ký Thanh mới có bằng sơ học, tiếng Tây còn kém, nên thường tỏ vẻ khinh khi thầy. Chỉ tại thầy Ký được "cụ Sứ" thương vì thầy giỏi khoa nịnh bợ - nên Quan Phán phải nể đôi chút đó thôi. Có điều phân biệt hẳn, là Quan Phán đến sở thì đi bằng xe kéo, loại xe kéo bánh sắt do Quan Phán mua riêng một chiếc làm "xe nhà", và do một người "cu li" kéo ngày hai buổi đưa quan đi đến Toà và rước quan về. Còn thầy Ký Thanh vẫn phải đi bộ. Xe máy (xe đạp) lúc bấy giờ cũng chưa có. Bắt đầu từ 1919, mới có lưa thưa vài chiếc xe máy bánh sắt, những nhà giàu mới mua nổi. Sự thù ghét và ganh tỵ nhỏ nhen giữa hai chàng thanh niên công chức địa vị khác nhau. Quan Phán Đầu Toà và thầy Ký Thanh, chỉ ngấm ngầm mà thôi. Nhưng luôn luôn, Ký Thanh vẫn hãnh diện được "Cụ Sứ" tin cậy hơn. Quan Phán ỷ mình là con Quan Án và tốt nghiệp trường Quốc Học Huế, và chút lòng tự ái không thể bắt chước nịnh nọt như thầy Ký Thanh, con nhà bình dân, mới đỗ bằng "bờ ri me".
Vì thế mà "cụ Sứ" đi đâu cũng bảo Thanh đi theo để làm thông ngôn.
Biết bao nhiêu lần Thanh thông ngôn sai lạc hẳn những lời nói của viên Công Sứ Pháp, và dịch ra tiếng Pháp sai lầm những lời của đồng bào Việt.
Có lần, vào khoảng giữa mùa hè, trời nắng bức oi ả, ông sợ có hoả hoạn vì hầu hết các nhà quanh tỉnh đều lợp tranh, nên ông cho gọi hương chức làng sở tại đến, căn dặn phải coi chừng củi lửa để phòng nạn cháy nhà. Ông còn bảo 8 giờ sáng mai ông sẽ thân hành đi thăm các xóm để xem xét về vấn đề thiếu vệ sinh. Nhưng không rõ thầy Ký Lê văn Thanh hiểu tiếng Pháp như thế nào, mà thầy thông ngôn lại cho các vị hương chức như thế này:
- Cụ lớn bảo trời nóng nực mà các nhà An Nam không có vệ sinh nên 8 giờ sáng mai cụ Sứ sẽ thân hành đến đốt các nhà tranh trong làng cho cháy hết.
Các vị hương chức sợ hoảng, run cầm cập. Ông Xã khúm núm thưa:
- Dạ thưa thầy Ký, nhờ thầy bẩm lại với cụ Lớn, cụ Lớn dạy vệ sinh như thế nào thì dân làng xin tuân lệnh làm theo, chứ cụ Lớn đốt nhà chúng tôi thì tội nghiệp quá.
Lê văn Thanh thông ngôn lại cho viên Công Sứ Pháp bằng tiếng tây đại khái ý nghĩa như thế này:
- Thưa cụ Sứ, dân làng xin tuân lệnh cụ Sứ nếu cụ Sứ biểu họ đốt nhà cho có vệ sinh họ cũng chịu.
Ông Sứ cười ha hả, rồi bảo:
- Tôi không biểu họ đốt nhà. Tôi chỉ biểu họ đề phòng mùa nắng, kẻo cháy nhà. Tôi sẽ thân hành đến thăm từng xóm, và sẽ tự tôi bày cho cách thức vệ sinh.
Lê văn Thanh thông ngôn lại cho các vị hương chức như sau đây:
- Cụ Sứ nói cụ Sứ sẽ thân hành đến tận tay cụ châm lửa đốt từng xóm rồi cụ bày cho cách thức làm nhà có vệ sinh.
Sợ nói nhiều, khó thông ngôn, Lê văn Thanh liền đuổi các công làng:
- Thôi, các ông đi về, đừng xin xỏ gì nữa, cụ Lớn bỏ tù đấy.
Các ông Hương chức về làng, lập tức nổi mõ nổi trống lên vang động cả xóm, gọi dân làng đến báo tin cho biết rằng 8 giờ sáng mai, cụ Sứ về đốt hết nhà cửa cho có vệ sinh. Dân lành không hiểu rõ lý do, nhưng ai nấy đều hoảng hốt, chạy về dọn hết đồ đạc trong nhà ra ngoài vườn, ngoài sân, ngoài đường cái. Suốt buổi chiều và đêm hôm ấy, cả làng đều rối loạn, đàn ông,đàn bà, người già, trẻ nít đều lo sợ, kêu khóc ầm ĩ cả lên, bên cạnh những đống giường, phản, nồi niêu, bàn ghế, chum, vại chất đống lổn ngổn ngoài các đồng ruộng mía, chung quanh tỉnh thành... Suốt đêm đều có tiếng kêu la thảm thiết. Nhiều người bàn rằng: "Có lẽ quan Sứ đốt nhà tranh, rồi cho tiền cất nhà ngói cho có vệ sinh."
Nhưng một số khác lại quá sợ sệt nghĩ rằng: "Nhà Nước đốt nhà dân, chắc là phạt dân chuyện gì đây". Và họ với nhau sáng ngày mai cụ Sứ đến thì họ sẽ sụp xuống lạy cụ Sứ và kêu khóc xin cụ tha tội...
8 giờ sáng mai, Quan Sứ và Quan Tuần Vũ đi bộ đến làng có thầy Ký Lê văn Thanh và Quan Phán Đầu Toà đi theo. Viên Công Sứ Pháp và cả Quan Tuần Vũ đều hết sức ngạc nhiên thấy một đám đông dân làng, cả đàn bà con nít sụp xuống lạy và kêu khóc rất thê thảm, bên cạnh những đồ đạc trong nhà dọn ra ngổn ngang ngoài đường. Nhờ Quan Phán Đầu Tỉnh hỏi kỹ mới biết có sự hiểu lầm. Ông Sứ phì cười rồi ông lắc đầu tỏ vẻ thất vọng, truyền lệnh cho mọi người dọn đồ đạc vào nhà, rồi ông buồn bực trở về toà Sứ.
Ông gọi Lê văn Thanh vào văn phòng của ông, đập bàn đập ghế, mắng một trận nên thân.
Hai hôm sau, dân làng hùn tiền mua một con bò và một con heo, cúng tạ Thành Hoàng để ăn mừng vụ "khỏi bị cụ Sứ đốt nhà"
Thầy Ký Lê văn Thanh lại nói với làng rằng:
- Cụ Sứ có lòng nhơn đức, thấy làng khóc xin, nên cụ tha cho không đốt nhà của dân.
Dân làng biết ơn thầy Ký Lê văn Thanh nhiều lắm.
Một tháng sau. Lê văn Thanh cưới cô Nguyễn thị Hợi, con gái ông Bá Hộ.
Lê văn Thanh muốn đám cưới của chàng với cô Ba Hợi phải được long trọng vì ba lý do: thứ nhất, vì cô Nguyễn thị Hợi là cô gái đẹp nhất trong tỉnh - ai ai cũng công nhận như thế - và chàng hãnh diện được cưới cô làm vợ. Cô Ba vừa đẹp, lại vừa là con một ông Bá Hộ, nhà giàu. Chàng được cả tình lẫn tiền. Thứ hai, chàng không quên rằng chính cô Ba đã xúi chàng bỏ chữ Nho, học chữ Tây, và bắt buộc chàng phải thi đỗ làm chức thầy Ký, cô mới chịu làm vợ chàng, cho nên bây giờ chàng mới thành đạt được "công danh" chàng làm một thầy Ký "văn minh", chứ không còn là anh Nho sĩ "quê mùa" nữa. Lý do thứ ba - là từ hôm làm thông ngôn dịch sai lầm cái lịnh của cụ Sứ truyền cho làng xã về việc đề phòng hoả hoạn, chàng bị cụ Sứ tức giận la mắng, không tin cậy chàng nữa, và lại bị ông Phán đầu Toà càng chê cười, khinh bỉ, chàng muốn thừa dịp chàng cưới vợ, mời cụ Sứ dự tiệc lấy lại chút cảm tình của Quan Thầy "Đại Pháp", dể làm oai với làng xã, và để rửa cái nhục với bạn đồng nghiệp "quan Phán đầu toà".
Đám cưới đã sắp đặt từ lâu. Việc chọn "ngày lành tháng tốt" và mọi thủ tục về hôn lễ, đã có ông Hương Cả lo. Lê văn Thanh nghĩ đến việc mời các quan khách. Lúc bấy giờ, trừ ở Hà Nội và Saigon mới có 3, 4 cái nhà in - và giá in rất đắt - còn ở Huế và các tỉnh khác của Việt Nam chưa đâu có một "ấn quán".
Những đồ in, không nhiều, hầu hết là của Nhà Nước - tư nhân chưa biết xử dụng các tiện nghi của ấn loát. Như in thiệp mời, hoá đơn, danh thiếp, v.v... Lê văn Thanh ghi số quan khách phải mời dự tiệc, trên một tờ giấy sau đây:
- Quan Công Sứ và bà Đầm.
- Quan Phó Sứ và bà Đầm.
- Quan Thầy Thuốc (Bác sĩ Pháp giám đốc nhà thương tỉnh).
- Quan Tuần Vũ (Tỉnh trưởng Việt Nam).
- Quan Án Sát (Chánh Án Việt Nam).
- Quan Đốc Học.
- Bốn thầy Trợ giáo (thầy học cũ của chàng).
- Phán Bích, đầu toà.
Những thầy Thông thầy Ký làm việc tại các sở khác, tất cả chỉ độ 5 thầy. Lê văn Thanh chưa quen biết, nhưng cũng cứ mời.
Vì không có lệ gửi thiệp mời, Lê văn Thanh phải thân hành đến mời miệng từng vị quan khách một. Riêng đến "Quan Sứ" và "Quan Phó Sứ", hai vị chủ tỉnh Pháp Lang Sa thì một buổi sáng chủ nhật, được nghỉ, Lê văn Thanh đi với ông Hương Cả. Hai cha con đem theo hai chai rượu tây và hai gói trà tàu, đặt trong chiếc khay nạm xà cừ. Viên đại diện "nhà nước bảo hộ" rất đỗi ngạc nhiên, hỏi Lê văn Thanh bằng tiếng Pháp, ý nghĩa như sau đây:
- À, mày hả Thanh! Mầy đến có việc gì!
Thanh cũng trả lời bập bẹ bằng tiếng tây, thứ tiếng tây trật mẹo luật và người Pháp thường ngạo là "tiếng tây của thằng mọi da đen con". Dịch ra như sau:
- Bẩm Quan Sứ, thân phụ của con đến trình quan lớn hay rằng con sắp cưới vợ.
Ông Sứ cười đưa tay bắt tay ông Hương Cả:
- Tôi mừng cho anh và cho con trai anh. Nhưng tại sao có rượu và trà như thế này?
Ông Hương Cả khúm núm:
- Bẩm quan lớn, ngày 14 tháng chín An Nam, tôi định cưới vợ cho thằng Ký, nên xin có cặp rượu và cặp trà tới để trình cho quan lớn biết, và cúi xin quan lớn và bà lớn bữa đó dời gót ngọc tới tệ xá uống rượu lạt mừng cho hai cha con chúng tôi.
Nói xong ông Hương Cả xá ba xá. Ông Công Sứ gật đầu hỏi Thanh:
- Cha mày nói gì?
Lê văn Thanh thông ngôn lại, bằng mấy "câu tiếng tây ba rọi":
- Mon père, il dit que le 14 ème jour du 9 ème mois annamite, il marie une femme pour moi. Il vous offer en cadeaux deux bouteilles d' alcool et deux... thé pour vous faire connaitre respectueusement. Il vous prie de venir assister le festin, avec Madam la Residence ce jour là pour feliciter puor nous.
Ông Sứ vẫn hiểu được và niềm nở, nói bập bẹ vài tiếng Việt mới học, chêm với tiếng Pháp:
- Tốt lam! Tốt lam! Je viendrai. Dis à ton père, quan su cam on (tốt lắm! tốt lắm! Ta sẽ đến, nói với cha mầy rằng quan Sứ cám ơn).
Đến Viên Phó Sứ Pháp, hai cha con Lê văn Thanh cũng đóng trò lố lăng ấy...
Ngày 14 tháng 9 âm lịch là ngày Thanh cưới vợ, trúng chủ nhật. Lúc bấy giờ đồng hồ chưa được thông dụng, chính Thanh đi làm việc nhà nước mà cũng không có đồng hồ. Người Việt Nam hãy còn theo giờ "Ta" Tý, Sửu, Dần, Mẹo... Giờ lành đã được ông Hương Cả chọn để xuất hành rước dâu là giờ Thìn "mặt trời đã lên cao một chân đòn gánh", nghĩa là vào khoảng 9 giờ sáng.
Từ sớm, Lê văn Thanh đã thuê hết tất cả các xe kéo ở tỉnh, toàn xe bánh sắt, chỉ vỏn vẹn có 5 chiếc. Thành thử, hôm ấy tại tỉnh lỵ không còn một chiếc xe nào nữa cả. 5 chiếc xe kéo đã chờ trước cổng nhà ông Hương Cả. Ông Hương, bà Hương ngồi chung một chiếc đi đầu tiên. Anh phu mặc áo cụt vá vai, quần rách ống, đầu đội chiếc nón cời (nón rách), khom lưng kéo ì à ì ạch, vì ông Hương quá mập lại đèo thêm bà Hương ngồi trên một bắp vế của ông. Chiếc xe thứ hai chở ông mai-dong, chiếc thứ ba chở ông chú và bà thím. Chiếc thứ tư, thứ năm chở hai ông cậu và hai bà mợ. Trai chưa vợ, gái chưa chồng, dù là anh em chị em ruột cũng không được đi trong đám rước dâu. Không có tục lệ phù dâu, phù rể. Lê văn Thanh thì cưỡi ngựa đi sau cùng, con ngựa hoe, mượn của ông Chánh tổng sở tại, cậu ruột của chàng. Chàng mặc quần lụa trắng, áo gấm xanh, ở trong còn mặc lót một áo dài trắng nữa, và mang giầy Hạ. Đáng lẽ chàng phải bịt khăn đen - khăn đóng - nhưng chàng muốn làm oai, nên đội mũ trắng, vì lúc bấy giờ chỉ có mấy thầy làm việc nhà nước mới đội mũ trắng mà thôi - trừ ra học trò - toàn thể dân chúng hãy còn đội nón lá hoặc che dù đen.
Từ nhà Lê văn Thanh ở xóm Cửa Bắc đến nhà cô Ba Hợi, chỉ xa chừng một cây số. Nhờ mùa thu mát trời, năm anh "cu li kéo xe" cũng không mệt lắm, nhưng vì xe nào cũng chở hai người nên mấy anh kéo đi chậm rì chậm rịt. Phần thì đường cái gồ ghề, đầp đất chỗ trồi chỗ lũng, bánh xe niền sắt dồng lên thụt xuống, nghiêng qua ngả lại, thật hết sức nhọc nhằn. Một lần xe qua là một làn bụi bay tung mù mịt, mấy người ngồi trong xe phải đưa vạt áo lên che mặt. Gặp chỗ có đá sỏi hoặc đất cục còn cứng, hai bánh xe sắt đè nghiến xuống, kêu kẽo cà kẽo kẹt. Dân chúng ở các nhà hai bên đường kéo nhau ra đầy sân chật ngõ để xem. Vì các đám cưới thường dân thường đi bộ, đây là lần đầu tiên có đám cưới sang, nhà trai đi rước dâu toàn là ngồi xe kéo. Chú rể cưỡi ngựa, đội mũ, mang giầy Hạ, mặc áo gấm sang trọng là thầy Ký làm việc trên toà Sứ. Từ trước đến giờ họ chưa thấy đám cưới nào sang trọng như thế. Họ trầm trồ khen ngợi và chờ chốc nữa rước cô dâu về xem cô dâu đi bằng gì. Ai cũng biết cô dâu là cô Ba Hợi có nhan sắc nhất ở tỉnh là con gái trưởng của ông Bá Hộ Thành, giàu nhất ở đây. Người ta đồn rằng cô có học chữ Quốc Ngữ thật là một chuyện hiếm hoi, mới lạ.
Một lũ trẻ con đông chừng vài ba chục đứa, quần áo bẩn thỉu, nhiều đứa đã 7, 8 tuổi mà chưa mặc quần, rủ nhau đi coi đám cưới. Cha mẹ các em cũng cho chúng đi, chứ không rầy la ngăn cản. Sẵn dịp, mấy anh "cu li xe kéo" nhờ các em giúp sức đẩy xe dùm. Các em nô nức, cười đùa, chia ra từng đoàn theo sau hăng hái đẩy 5 chiếc xe.
Cha mẹ các em và bà con cô bác đứng đông nghẹt ngoài đường, nhìn theo cũng vui cười hoan hỉ. Duy có thầy Ký ngồi yên trên ngựa, làm nghiêm không cười. Lê văn Thanh, chàng thanh niên 22 tuổi, đã làm bực thầy, làm thông ngôn Ký lục cho "Quan Công Sứ" trong tỉnh, tuy lúc làm việc ở toà bị Quan Sứ gọi luôn luôn bằng "mầy", và bị quan la mắng hoài, nhưng chàng vẫn được dân chúng sợ hãi, kính trọng, cho nên trước mặt đồng bào Việt Nam mà chàng cho là "quê mùa", chàng rất tự cao tự đại.
Hôm nay đi cưới vợ, được sánh duyên với cô Ba Hợi, chàng thanh niên Lê văn Thanh lại càng kiêu hãnh hơn.
Họ nhà trai đã đến trước ngõ nhà gái. Năm chiếc xe ba gọng, để khách bước xuống. Lê văn Thanh cũng xuống ngựa. Trong sân ông Bá Hộ nổ liền ba tiếng pháo tre kêu chát chúa "Ầm!..Ầm!.." y như ba tiếng súng đại bác. Thời bấy giờ các phong pháo bọc bằng giấy chưa được lưu hành và thông dụng như ngày nay. Ba tiếng pháo tre chào mừng vừa dứt thì họ nhà trai bước vào ngõ. Đàn ông đi trước, đàn bà đi sau, hàng một, theo thứ tự như đây: trước hết là ba người dân làng gánh đôi xiểng đựng các lễ vật, gọi là sính lễ, rồi đến ông mai-dong, ông Hương Cả, thân sinh thầy Ký, ông chú, hai ông cậu, bà Hương Cả, bà thím, hai bà mợ. Sau cùng là Lê văn Thanh.
Họ nhà gái ra sân đến mừng và mời vô nhà. Sính lễ được bầy ra trên phản chiếu lác, trước bàn thờ ông bà, một cái đầu heo luộc (ngoài Bắc nhiều nơi để nguyên một con heo quay), trên hai tai heo có dán hai miếng giấy hồng đơn, đỏ tươi và vuông vức, một quả đựng gạo nếp trắng tinh, một quả đựng 200 trứng vịt, 4 chai rượu tây (rượu chát đỏ), 4 chai rượu "an nam", một chục gói trà tàu, một quả đựng đậu xanh, một quả đựng 4 cục đường bông trắng mịn, một quả đựng 200 lá trầu tươi, một buồng cau tươi độ 60 trái, bốn quả bánh gồm đủ các thứ bánh in, bánh dẻo, bánh đậu xanh, bánh khảo, bánh hột sen, bánh thuẩn, bánh da lợn, bánh bò, bánh ít.
Đồ nữ trang thì đã trao trước, theo sự đòi hỏi của nhà gái, một chiếc kiềng, một đôi hoa tai, một đôi xuyến, tất cả đều bằng vàng y, một chuỗi ngọc và một chiếc trâm bằng bạc nạm vàng. Lúc bấy giờ phụ nữ Việt Nam chưa đeo nhẫn. Mốt đeo "cà rá" và nhẫn bắt chước theo Tây, mới thịnh hành từ khoảng năm 1920 - 22, trong giới trưởng giả, từ 1930 - 31, trong các giới bình dân. Từ 1935 - 1936 nhiều người bắt đầu đeo plaque (chiếc lắc) vàng hay bạc.
Một người trong họ nhà gái đã thắp đèn, hương, trên bàn thờ ông bà. Xong, ông Bá Hộ Nguyễn Văn Thành mặc áo rộng xanh, trịnh trọng ra trước bàn thờ khấn vái. Ông khấn lẩm nhẩm trong miệng như sau đây:
- "Bữa nay là ngày lành tháng tốt, con là Nguyễn văn Thành, xin dâng lễ mọn, cáo với vong linh Ông Bà cha mẹ, cho tiện nữ là Nguyễn thị Hợi, gá nghĩa trăm năm với Lê văn Thanh, thông ngôn ở toà Quan Công Sứ, xin lạy Ông Bà cho hai đứa nó tác thành gia thất. Xin vong linh hiền thê cũng chứng giám cho và phù hộ cho vợ chồng nó được thuận thảo, vui vầy duyên cầm sắt".
Ông bá hộ lạy bốn lạy. Xong, ông gọi con gái ở trong buồng nhà giữa:
- Con Ba đâu, ra đây con.
Trong buồng the có tiếng đáp run run, và nhỏ nhẹ:
- Dạ.
Tất cả những cặp mắt đều đổ dồn ra cửa giữa ngó cô dâu. Cô từ trong buồng bước ra, chậm rãi và "e lệ". Cô đẹp lộng lẫy, tuy đẹp rất tự nhiên, không má phấn môi son, không kẻ lông mày, vì phụ nữ 1910 - 1920 chưa dùng son phấn và bút chì than. Cô mặc ba lớp áo lụa, dài không quá đầu gối, ngoài lá hàng áo xanh lục, trong là áo màu hồng, trong hết là áo hàng màu xanh da trời. Toàn là hàng trơn, không có dệt hoa như ngày nay. Mầu vàng của Vua, ở thời đại Quân Chủ, bị cấm hẳn quan cũng như dân, đàn ông như đàn bà, không ai được dùng trong y phục. Cô mặc quần hãng vải "trăng đầm". Quần trắng lúc bấy giờ đàn bà con gái đứng đắn không được mặc. Trên búi tóc xức dầu dừa, láng mướt và thoảng một mùi thơm mát dịu, cô Ba cài chiếc trâm bạc nạm vàng. Cô đeo chiếc kiềng vàng (các cô nhà nghèo đeo kiềng đồng hoặc bàng bạc) quanh cổ, chuỗi ngọc thòng xuống đến ngực, hai cổ tay đeo hai chiếc xuyến vàng. Ngực của cô vì mang chiếc yếm bó chặt vào mình nên không phồng lên như ngực các cô thời nay. Cô nhuộm hàm răng đen nhánh như những hột mãng cầu. Cô đi chân không. Thời bấy giờ, phụ nữ ít mang giầy. Năm 1924 - 1925, đa số nữ sinh đã lớn tuổi, học lớp nhất, đến trường vẫn còn đi chân không.
Nhưng cô Ba Nguyễn thị Hợi "đẹp chim sa cá lặn" "đẹp đổ nước nghiêng thành" theo lời khen ngợi của mọi người trong tỉnh. Cô thẹn thùng e lệ thong thả bước gót sen vào. Lê văn Thanh đứng vòng tay cạnh hương án, cúi đầu, không dám ngước đầu lên nhìn vợ. Ông bá hộ bảo cô chào ông cha chồng, bà mẹ chồng và hết thảy mọi người bên họ nhà chồng hiện diện. Cô cúi gục đầu xuống, chấp hai tay trước ngực, nói rất nhỏ:
- Thưa Cha... thưa Mẹ... thưa Chú...
Xong, ông bảo:
- Bây giờ con với chồng con lạy Ông Bà.
Lê văn Thanh và Nguyễn thị Hợi, cả hai đều cúi đầu, không ai dám ngó ai, cùng bẽn-lẽn, bước đến trước hương án, và cùng lạy. Trong lúc chàng phủ phục, bình thân, bốn lần như vậy, thì nàng ngồi xuống chiếu, hai chân co lại để một bên, cúi mình xuống lạy bốn lạy, đứng dậy vái bốn vái.
Rồi lễ Ông Bà, hai vợ chồng mới còn phải lạy cha mẹ vợ và cha mẹ chồng. Ông Bá Hộ, ông Hương Cả, và bà Hương Cả, ngồi trên ba chiếc ghế kê hai bên hương án. Cô dâu và chú rể cùng lạy mỗi vị phụ mẫu ba lạy.
Lễ rước đã xong, họ nhà trai chỉ ăn bánh uống nước rồi xin rước dâu đúng giờ Mùi, lúc mặt trời vừa xế bóng.
Trong buồng, cô Ba thút-thít khóc trên chiếc phản gỗ của cô nằm từ nhỏ đến giờ, cô khóc vì cô sắp từ giã nhà cô. Thằng em trai độc nhất của cô, cũng ôm chân cô khóc nức nở. Nó còn bé lắm, chẳng hiểu chuyện gì, nhưng thấy chị của nó khóc, nó cũng mủi lòng khóc theo thế thôi. Cô Ba Hợi lấy cho nó một nắm xôi vò cho nó ăn, và vuốt ve đầu nó. Nó ăn xôi ngon quá, hết khóc nhưng mũi dãi còn chảy lòng thòng...
Ngoài sân có tiếng ông Bá Hộ gọi to:
- Con Ba đâu, ra đi con.
Một bà thím chạy vào buồng, thúc giục cô:
- Ra đi con, người ta chờ ngoài ấy.
Bà dìu dắt cô đi giữa đám đông, đàn bà con gái đứng chật ních trong nhà, ngoài cửa, nói cười vui vẻ trầm trồ khen cô đẹp.
Cô vẫn mặc ba lớp hàng dài, quần "trăng đầm" đen, đi chân không, ngập ngừng mỗi bước... Ra sân,cô tiến đến trước mặt ông bá hộ. Cô vòng tay cúi đầu, nói lẩm nhẩm:
- Thưa cha... con đi...
Bỗng cô oà ra khóc. Tất cả mọi người, nhà trai lẫn nhà gái đứng xúm xít chung quanh, đều cười rồ lên. Cô bẽn-lẽn nâng vạt áo dài lên chùi nước mắt. Đôi ngấn lệ vui buồn lẫn lộn càng tô điểm thêm gương mặt kiều diễm lệ của giai nhân.
Thành thật mà nói, cô Nguyễn thị Hợi hôm nay có duyên làm sao! Mỹ miều làm sao! Cô Bốn Hiếu, con bà Hương Bộ Mẫn, nói với mấy bạn gái đứng gần:
- Cha, cô Ba xinh đẹp như vậy, lấy chồng làm thầy Ký mới xứng.
Bà Hương Chánh Bốn nối lời:
- Chớ sao! "Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công trang điểm má hồng răng đen".Tụi bay làm sao cũng lấy chồng được như nó, thì có phước.
Chị Hai Lợi, vợ anh Lợi thợ rèn, xen vô:
- Thầy Ký Thanh nhờ đi học trường Nhà Nước từ năm kia năm kìa rồi thi đỗ ri me làm được thầy Ký. Chớ bốn năm về trước, hồi còn học "chữ ta", còn để búi tóc, thầy đeo đuổi cô Ba hoài, cô có thèm đâu.
Cô Bốn Hiếu nói rất khẽ:
- Ông bá hộ còn xịt chó ra cắn thầy nữa đó.
Cả đám phụ nữ cười rồ lên, nhưng cô Ba đã ra đến cổng, không nghe câu chuyện bông đùa lén lút sau lưng cô.
Ðám rước dâu đi về nhà trai lẽ phải đi theo thứ tự họ hàng, và cô dâu phải đi bộ cùng với những người khác, vì phải nhường 5 chiếc xe kéo cho các bậc lớn tuổi của hai họ. Nhưng nhà trai đã có lời xin bên nhà gái cho phép để cô dâu đi một chiếc xe kéo.
Toàn thể họ nhà gái cũng đã bằng lòng. Vì vậy, cả hai họ đều thoả thuận sắp đặt trong số 5 chiếc xe kéo, hai chiếc chở hai ông kỳ-lão họ nhà trai, 2 chiếc chở hai ông kỳ-lão họ nhà gái, 1 chiếc chở cô dâu.
Còn hết thảy đều đi bộ. Chàng rể một mình một ngựa, thong dong đi sau cùng. Về nhà chồng, cô dâu và chú rể cũng phải lạy trước bàn thờ Ông Bà, xong rồi lạy các ông bác bà bác, ông chú bà thím, và vái chào tất cả những người khác trong họ nhà chồng. Có một lễ riêng biệt để trình diện với làng. Trên một chiếc bàn, họ nhà trai đã đặt một mâm trầu độ 200 lá trầu tươi, sắp từng xấp để quay tròn một mâm, và giữa mâm để một buồng cau. Bên cạnh là một bình vôi, một khay đựng 4 chai rượu, một khay đựng 4 gói trà. Toàn thể hương chức kỳ cựu trong làng đều có mặt. Ông Hương Cả đứng trước, sau lưng là cô dâu chú rể. Ông Hương thưa cho làng biết, chính thức là ngày hôm nay ông cưới vợ cho con trai. Ông nói dứt lời, ông Xã đứng dậy đáp : - Anh em hương chức xin chúc cho hai họ, và lại chúc thầy Ký, cô Ký được bách niên giai lão. Ông Hương Cả đứng né ra một bên để thầy Ký và cô Ký vòng tay cúi đầu vái ba vái tạ ơn làng. Lễ hôn thú như thế là xong xuôi mỹ mãn. Bây giờ hương chức trong làng và hai cha con thầy Ký Thanh vội vàng sửa soạn đón tiếp " cụ Sứ ". Tại vì Lê văn Thanh đã mời " Quan Công Sứ " đến dụ tiệc, và " quan lớn " cùng với "bà lớn " đã nhận lời, cho nên không những gia đình Lê văn Thanh hãnh diện được đón tiếp vị thượng khách chủ tỉnh, mà cả làng xã cũng phải có bổn phận tiếp rước trọng thể "quan Cai Trị Đại Pháp " dời gót ngọc đến làng. Nào ai dám phàn nàn việc ấy ? Trái lại, các ông hương chức trên dưới đều lo lắng tổ chức cuộc tiếp rước thế nào cho khỏi bị " Quan Lớn " khiển trách. Nếu lỡ sơ sót điều gì, sợ "Quan Lớn Đại Pháp " la mắng, hoặc bỏ tù thì chết cha. Lại nghe thầy Ký cho biết rằng tối nay " Quan Lớn Công Sứ " sẽ đến với " Bà Lớn Sứ " và " Quan Lớn Phó Sứ, Bà Lớn Phó Sứ, Quan Tuần Vũ và Bà Lớn Tuần Vũ ". Quả là một biến cố thật to lớn trong làng, từ xưa đến nay chưa từng có, và cũng chưa làng nào có được " hân hạnh " to lớn ấy ! Ôi thôi, làng xã ai nấy đều lăng-xăng lít-xít, trên từ ông Hương, ông Xã, qua chú Trùm, chú Thập, dưới đến mấy " thằng dân ngu khu đen " ( danh từ thông dụng trong giới Quan lại Việt Nam chỉ người dân dưới thờ Quân chủ ) rộn rịp lo xanh mặt xanh mày. Riên Lê văn Thanh rất là hãnh diện. Mảnh bằng " bờ ri me " và chức vị " thông ngôn, ký lục " của chàng kể đã vinh quang lắm rồi, còn oai hơn cả các ông Đồ Nho thi đỗ Cử nhân, Tiến Sĩ lúc bấy giờ đã không còn được trọng dụng nữa. Nhưng đối với Thanh, sự chàng mời được " Quan Công Sứ Đại Pháp " mà chàng gọi bằng tiếng Tây là " Mơ-sừ Lơ Rề-si-đăng đờ Phờ răng xờ " đến dự tiệc của chàng đó mới là một vinh dự quý báu tuyệt trần. Ai mà dám mời quan Công Sứ ? ông Tiến sĩ, ông Phó bảng, dù có được ăn yến tiệc của nhà Vua chăng nữa, cũng đâu có dám mời " Quan Công Sứ " ở tỉnh. Chỉ có chnàg. Phải, cả tỉnh này chỉ có chàng, là Lê văn Thanh thông ngôn của "cụ Sứ ", là dám mời cụ sứ đến tận nhà chàng để ăn tiệc cưới của chàng mà thôi ! " Mơ-sừ-Lơ-rê-si-đăng " đã hoan hỉ nhận lời. Cả Bà Đầm nũa ! Cả Quan Phó Sứ và bà Đầm Phó Sứ nữa ! Hãnh diện xiết bao ! Vẻ vang xiết bao ! Cho nên chàng thông ngôn trẻ tuổi Lê văn Thanh đã gọi dân làng từ năm hôm trước, dựng lên một nhà khách, ngay trước mái hiên nhà chàng, để làm nơi tiếp đón " Quan Công Sứ Đại Pháp ", và " Quan Phó Sứ, Quan Tuần, với quý bà Đầm, quý phu nhân, quý cụ, quý quan, quý thầy... Chàng mua chiếu hoa trải kín mặt đất nhà khách, và mua vải xanh, vải trắng, vải đỏ về mượn người may hai chục lá cờ tam tài của nước "Đại Pháp ", để cắm từ ngoài cổng vào đến khắp nhà. Vì lúc bấy giờ không có máy may (cả tỉnh không có một bàn máy may nào ) cho nên chàng phải mượn năm người đàn bà trong xóm may bằng tay trong ba ngày mới xong. Làng, thì sai dân đào lổ đóng cờ đuôi phượng loè loẹt đủ mầu, hai bên lề đường từ ngoài phố vào đến cổng nhà thầy Ký Thanh.Theo lời thầy Ký Thanh cho biết thì " Quan sứ " có nói với thầy là " Quan " sẽ đến hồi 20 giờ. Các ông làng hỏi thầy để cho rõ : - 20 giờ là mấy giờ, thầy ký ? Chính Lê van7 Thanh cũng không biết 20 giờ là mấy giờ. Từ lúc đi học đến khi đi làm việc ở toà sứ, chàng chỉ biết theo kiến thức thông thường là mặt trời mọc vào khoảng 6 giờ sáng, đúng ngọ là 12 giờ trưa, mặt trời lặn khoảng 6 giờ chiều. Lần đầu tiên chàng nghe quan công sứ bảo quan sẽ đến dự tiệc lúc 20 giờ, chàng cũng " uỷ, uỷ, mơ-xừ " mà chàng mù tịt, chẳng hiểu : 20 giờ là mấy giờ. Nhưng không lẽ chàng tỏ cho các ông làng thấy rằng chàng không hiểu "giờ tây ", nên chàng cứ trả lời ẩu, ra vẻ thông thạo : - 20 giờ là vanh-tờ-rờ. - Vanh-tờ-rờ là mấy giờ an nam ? Giờ Dậu, giờ Tuất hay giờ Hợi ? thầy làm ơn cho làng chúng tôi biết để đón rước " Quan Công Sứ ". Lê văn Thanh nổi quạu : - Vanh-tờ-rờ là giờ Dậu.
Khổ nổi không ai có đồng hồ để coi "giờ tây ".
Thầy Ký Thanh làm việc nhà Nước mà còn không có đồng hồ nữa là. Đồng hồ là một vật quý chỉ các quan Tây có mà thôi. Mấy phố lớn của khách trú ở tỉnh cũng không có bán. Thầy Ký Thanh nói ẩu 20 giờ là giờ Dậu, rồi ông Tú Phong, nhà Nho thông thái nhất trong làng, chỉ tính ra giờ Dậu, là lúc mặt trời vừa lặn. Cho nên từ giờ Thân, vào khoảng 4 giờ chiều, toàn thể các ông hương chức trong làng đã lo khăn đen áo dài ( riêng ông xã mặc áo rộng xanh ) đã đứng chực từ ngoài đường phố. Dân đinh thì kẻ khiâng trống, khiêng chuông, người cầm hèo, cầm lọng. Có hai cây hèo và sáu cây lọng hết thẩy.
Nhưng mặt trời lặn đã từ lâu, trời đã tối, mà các Quan chưa đến. Ông Xã hết sức lo lắng, lật đật sai dân phải đi kiếm xác mía, hoăc rơm, bó làm hai chục cây đuốc, để thắp lên cho sáng. Hôm ấy là ngày 18 âm lịch. Các ông hương chức tính theo phong dao Việt Nam, để biết chừng nào có trăng :
17, nẩy lửa
18, nám đống trấu
19, nín một canh
20, tuất rốt
21, nửa đêm
18, nám đống trấu
19, nín một canh
20, tuất rốt
21, nửa đêm
(đêm 17,vừa nẩy lửa, nghĩa là vừa đốt đèn thì có trăng.
đêm 18, đốt đống trấu vừa nám thì có trăng.
đêm 19, nín một canh qua canh hai có trăng,
đêm 20, thì cuối giờ Tuất có trăng,
đêm 21, đến nửa đếm có trăng. )
đêm 18, đốt đống trấu vừa nám thì có trăng.
đêm 19, nín một canh qua canh hai có trăng,
đêm 20, thì cuối giờ Tuất có trăng,
đêm 21, đến nửa đếm có trăng. )
Đêm nay 18 ư, "nám đống trấu ". Mấy ông làng căn cứ theo câu phong dao rất thông dụng ấy mà đoán chừng rằng vừa đốt đống trấu vừa cháy nám thì sẽ có trăng. Có lẽ quan Công Sứ đợi có trăng lên thì quan sẽ tới chăng ? Nhưng quan Công Sứ bảo với thầy Ký rằng quan sẽ đến lúc 20 giờ. Thầy Ký Thanh nói lại với làng rằng 20 giờ là giờ Dậu, ông Tú Phong cho biết giờ Dậu là lúc mặt trời lặn. Thế mà bây giờ trời đã tối đen, tối thui, ông Xã lật đật chạy đi hỏi ông Tú Phong, ông bảo giờ này là giờ Tuất.
Hay là quan Công Sứ không đến ? Lê văn Thanh cũng bồn chồn lo ngại. Chàng cứ sợ rằng " Mơ-sừ-lơ-Rê-di-đăng " không đến thì... chàng mắc cỡ với làng xóm biết bao.
Nhưng sự thật 20 giờ là mấy giờ ? Chàng băn khoăn suy nghĩ mãi. Trong nhà khách, đèn bánh ú phất bằng giấy ngũ sắc và các ngọn đèn " toạ đăng ", đèn " huyền đăng " cái thì thắp bằng dầu phọng, cái thì thắp bằng dầu dừa, có đến hai chục ngọn, toả ra ánh sáng vàng hoe, lúc tỏ lúc mờ. Người ta kẻ ra người vào đông nghẹt, ai nấy đều nóng ruột đợi chờ, bàn tán thì thầm -- không ai dám cười to nói lớn. Bỗng từ ngoài ngõ, có tiếng xôn xao :
"Cụ lớn tới ! Cụ lớn tới !"
Rồi tiếng trống, tiếng chiêng nổi dậy : "Thùng !..thùng !...thùng !.. Boong..boong...boong ".Trên hai chục bó đuốc thắp lên sáng rực cả một gốc trời.
Những đám người đông nghẹt ngoài hè, ngoài sân, ngoài hàng rào, đều thấy ahi ông Tây, hai bà Đầm và một ông quan An Nam đeo thẻ ngà tòn-ten trước ngực. Ông Xã và các hương chức đều sụp xuống đất lạy " "Quý Quan ". Chàng thanh niên Lê văn Thanh với ông Hương Cả đã chạy ra đến nơi, cúi đầu cung kính vái chào. Ông Sứ gật gật đầu... bà Đầm cũng gật đầu... Lê văn Thanh mời quí vị quan khách vào nhà. Tuy trời tối và gió mát, nhưng dân làng cũng phải theo nghi lễ, cầm sáu cây lọng che sáu vị thượng quan : " Quan Sứ và bà đầm " đi trước, kế đến là Quan Phó Sứ và bà đầm phó sứ ", rồi mới đến Quan Tuần và bà lớn ". Tất cả các quan khách khác đi theo sau không có lọng. Tiếng trống tiếng chiêng Thùng ! Thùng ! Thùng ! Boong ! Boong ! Boong ! còn vang rền, cho đến khi " Quý Quan " đã an toạ trong nhà khách.
Phía sau nhà, mặt trăng sáng rực từ từ trồi trên mấy ngọn tre xao xác gió, dội ánh sáng mát dịu tràn ngập trên vườn cau. Mọi người đều nô nức hân hoan, nhưng vì sợ "Quý Quan " nên ai nấy đều im lặng...đi nhón gót, và nói thì thầm. Chỉ nghe tiếng nói tiếng cười xí lô xí la của "quý Quan Tây " và " quý bà đầm "...Lê văn Thanh đứng hầu, thỉnh thoảng trả lời câu tiếng Tây " Uỷ, Mơ sừ lơ rê si đăng ".
Quan Công Sứ vui cười bảo Lê văn Thanh :
- Vợ mày đâu ? Mầy không giới thiệu với chúng tao à !
Bà đầm cũng hỏi Thanh :
- Chắc vợ mầy đẹp lắm hả ?
Thanh không biết khiêm tốn, thật thà khoe với bà đầm bằng thứ tiếng "bồi ba rọi " :
- Oui, madame,ma femme est plus jolie, elle est la première plus jolie que dans cette province.
(Dạ, thưa bà, vợ tôi là đẹp hơn, đẹp thứ nhất trong tỉnh nầy ).
Các ông tây bà đầm đều cười rộ lên. Họ cười vì chàng nói chữ tây trật bậy, trật bạ, vì câu trả lời khoe khoang ngớ ngẩn. Nhưng Lê văn Thanh tưởng là họ khen, nên chàng tỏ vẻ hãnh diện. Chàng quay ra đám bà con, họ hàng, làng xã, dân chúng, đứng xúm xít chung quanh, đông nghẹt cả sân, cả hè, để coi ông tây bà đầm.
Chàng nói lớn với họ :
- Vô biểu vợ tôi ra đây để ra mắt cụ Sứ, các quan lớn bà lớn.
Tức thì có hai ba người chạy vào trong nhà, nói to :
- Cô Ký đâu ? Cụ Sứ và cụ lớn, bà lớn kêu cô ra để chào các quan ! Ra mau ! ra mau !
Tò mò nhất là bà đầm vợ viên công sứ, một thiếu phụ Pháp, trẻ đẹp, chạc 30 tuổi, bà muốn thấy lần đầu tiên một cô thiếu nữ Việt Nam con gái một nhà giàu nhất tỉnh mà bà nghe nói có học chữ Quốc Ngữ, lại là vợ một ciên thư ký, nghĩa là vào hạng "văn minh " nhất thời bấy giờ, xem nhan sắc, lối ăn mặc, điểm trang, cử chỉ, ngôn ngữ của cô như thế nào.
Cô Ba Hợi từ trong nhà bước ra, cô vòng tay trước ngực, có vẻ thẹn thùng và rất sợ sệt. Cô ăn mặc ba lớp áo mầu dài đến đầu gối, quần đen, đi chân không, đầu búi tóc sức dầu dừa mặt đẹp tự nhiên không son phấn.
Trình diện với các quan khách, cô vòng tay trước ngực, luôn luôn cúi mặt xuống và không cử động nảo. Cô đứng yên như pho tượng. Viên Công Sứ cười bảo Thanh :
- Mầy bảo nó ngước mặt lên xem nào. Nó có vẻ đẹp lắm.
Thanh quen mồm đáp cụ Sứ :
- Uỷ mơ-sừ Lơ-rê si-đăng
Rồi chàng khẽ bảo vợ :
- Cụ Sứ bảo ngước mặt lên.
( Thời bấy giờ thanh niên nói với vợ mới cưới hay là nói với người yêu chưa biết gọi bằng "em " thường gọi trống không )
Cô Nguyễn thị Hợi ngượng nghịu, bẽn-lẽn, khẽ ngước mặt lên một tý thôi. Bà đầm gật đầu, nói nhỏ với chồng :
- Nó đẹp đấy nhỉ
- Nó đẹp đấy nhỉ
Ông Tây cũng gật đầu :
- Không xấu.
Viên Công Sứ theo lễ độ của người Pháp, đứng dậy, nghiêm nghị nói với vợ chồng Lê văn Thanh :
- Chúng tôi thành thật cám ơn cha mẹ anh và anh đã có lòng tốt mời chúng tôi đến dự buổi tiệc rất đẹp hôm nay, để mừng đám cưới của anh, và nhân dịp vui nầy chúng tôi có lời chúc anh và vợ anh một hạnh phúc lâu dài một trăm năm.
Lê văn Thanh tại vì không thông thạo chữ tây lắm, nên chỉ biêt đáp lại một câu cám ơn cụt ngủn :
- Mẹc xì, Mơ-sừ Lơ-rê-si-đăng.
Xong, chàng bảo vợ vái chào "cụ Sứ " và các quan. Nàng làm theo lời của thầy Ký Thanh.
Khi cô Nguyễn thị Hợi đi rồi, bà đầm hỏi Lê văn Thanh:
- Sao coi bộ nó buồn thế? Không có một tý nụ cười nào cả.
- Dạ thưa bà nó sợ lắm.
Bà đầm hỏi "tại sao?", Thanh không biết trả lời.
Các quan đều phì cười, nhưng cũng khen Thanh cưới được vợ đẹp lắm và có vẻ hiền lành.
Buổi tiệc vui vẻ, kéo dài đến lúc trăng lên trên nóc nhà, vào buổi giờ Hợi (11 giờ khuya). Lê văn Thanh không ngồi bàn, luôn luôn vòng tay đứng bên cạnh "ông Sứ" để "hầu hạ" và đối đáp những lúc các ông tây bà đầm hỏi chuyện về phong tục Việt Nam.
Làng xã và dân đều chầu chực ngoài sân, ngoài vườn, ngoài ngõ, đông như buổi chợ. Họ phải đợi khi quan Sứ về, họ lại đánh trống, đánh chuông, và đốt ba chục bó đuốc, tiển các quan ra đến ngoài đường. Quan Sứ, quan phó Sứ, và hai bà đầm, lên ngồi xe hơi, chiếc xe hơi độc nhất hiệu Delahaye, cao ngồng, và kêu rầm rầm, mà dân chúng không dám đến gần, sợ nó "hút chết". Quan Tuần vũ lên xe song mã, bánh sắt, hai con ngựa kéo. Các quan tây khác đều cưỡi ngựa, mỗi con ngựa đều có đeo lục lạc quanh cổ, kêu leng keng... leng keng khi ngựa chạy. Quan Phán Bích đầu Tòa ngồi trên chiếc xe kéo nhà của ông, do một người "cu-li" kéo, và một người dân làng đẩy phía sau, cho xe chạy êm. Còn các quan khác đều đi bộ về tỉnh, nhưng có dân làng cầm đuốc hộ tống về đến Cửa Bắc.
Tính ra tiệc cưới của Lê văn Thanh tốn hơn 300 quan tiền kẽm. Ðám cưới, và nhất là bữa tiệc, vì bữa tiệc này quan trọng hơn đám cưới, được dân làng, dân tỉnh, và bà con cô bác xa gần, bình phẫm cả tháng chưa hết chuyện. Ðại khái họ nói về cô Nguyễn thị Hợi và Lê văn Thanh:
- Cô Ký được bà Sứ khen là Xinh.
Cô Hai Nghĩa, em họ của Thanh:
- Chị Ký mặc áo đẹp quá, răng đen bóng cũng đẹp quá.
Chú Trùm Trương tắc lưỡi:
- Thầy Ký nói tiếng tây hay ghê! Mình biết vậy, hồi đó mình học tiếng tây chơi, bây giờ cũng làm thầy Ký rồi.
- Thầy xổ tiếng tây đóp-đóp, quan Sứ, bà Sứ hỏi gì thầy cũng trả lời trôi chảy hết. Thiệt là giỏi!
Mấy bà già và mấy cô gái ưa phê bình bà Sứ không ngớt:
- Nè bà đầm có hai cái vú to bằng trái bưỡi lận, bà con ơi.
Cả đám đông phụ nử cười sặc sụa. Bà Hương Bộ nói chêm vào:
- To hơn trái bưỡi đó! To hơn cái đầu thằng Tý đây nè.
Bà chỉ cái đầu thằng Tý bà ẵm trong tay, con bà vừa mới thôi nôi. Mấy bà mấy cô cười nghiêng ngả.
Cô Bốn Định, con gái bà xã Bảy, hỏi :
Sao đầm họ để vú tròn vo vậy mà họ không mắc cỡ thím Hương he !
- Ờ sao họ không mắc cỡ ! Người An Nam mình thì lo ép cái vú cho nhỏ bớt, đầm họ cứ để vậy, vậy mà văn minh gì đâu ?
- Họ để răng trắng nhờn, không nhuộm, coi cái miệng trơ quá há ?
Bà Xã Bảy khám phá một điều ghê gớm hơn nữa, nhưng bà nói nho nhỏ, sợ đàn ông nghe :
- Nè, đầm họ không mặc quần !
Cả đám phụ nữ cười lăn lộn, cô Hai Bình té ho sù sụ và cười sặc sụa. Thím Hương Kiểm vừa nhai trầu vừa hỏi :
- Sao chị biết họ không mặc quần ?
Câu hỏi không có câu trả lời, chỉ toàn là tiếng cười ồn ào, ầm ỹ cả nhà. Thím Hương Kiểm nhổ một bãi nước trầu đỏ ngòm trên hè, lấy tay chùi miệng rồi nói tiếp :
- Tui, thì tui thấy họ không biết ăn trầu. Hồi anh Ký nó bưng khay trầu ra mời, bà đầm hỏi gì đó rồi bả lắc đầu. Chỉ có Quan Tuần Vũ và các quuan khách An Nam ăn thôi. Tây với Đầm không ai ăn cả.
Cô Bốn Định hỏi :
- Thím xã có thấy đôi giày của bà Đầm không ? Giầy gì mà cái gót cao nghệu, vậy mà họ đi không té, tài thật !
Bà Xã làm ra vẻ thông thạo :
- Tại đầm họ bước đi thì hai cái mông đít lắc qua lắc lại, họ không té chớ sao !
Trong lúc phụ nữ phê bình bông lơn về y phục của bà đầm, thì đàn ông cũng phê bình ông tây. Hầu hết dư luận dân chúng, từ lão thành đến thanh thiếu niên đều có tính cách vừa sợ sệt, vừa khôi hài. Họ sợ sệt vì ông tây to lớn, lưc lưỡng "oằm xừ " và " Nhà Nước Đại Pháp văn minh ". Nhưng họ vẫn khôi hài, chề nhạo vì những cử chỉ phong tục của người tây phương không giống với người mình. Họ vẫn mỉa mai, đặt lên những câu ca dao và những bài vè trào phúng để ngạo ông tây. Nhưng đó là lén lút. Chứ giữa đời sống mới của nước nhà công khai đặt dưới quyền ông tây, thì Lê văn Thanh được dịp "oai " vớ làng xã, và bà con cô bác. Bây giờ ai cũng sợ chàng. Cô Ba Hợi cũng được dân làng kính nể. Cô đi ra phố, ai gặp mặt cũng cúi đầu, chấp tay chào " thưa cô Ký "..." thưa chị Ký "..."thưa dì Ký ". Cho đến ông Tú Phong, nhà Nho học lão thành, và được dân chùng kính phục, thầy học cũ của Lê văn Thanh, gặp hai vợ chồng Ký Thanh cũng chào hỏi niềm nở : " Thầy Ký ở tên toà về đấy à ? "..." thầy Ký lên toà đấy hả ? "..." cô Ký đi chợ hay đi đâu đó ? ".
Nhất là từ năm 1915, thì tất cả kỳ thi Hương, thi Hội và Nho học ở Trung Kỳ đều bị bãi bỏ hẳn, do sắc lệnh của " Hoàng Đế An Nam " tuân theo chính sách của Nhà Nước Bảo Hộ, ông Tú Phong coi bộ buồn bã, tức giận, nhưng không thốt ra một lời.
Từ khi có sắc lệnh mới của Vua năm 1915, bãi bỏ khoa cử theo lối xưa, học trò ít đi học ông Tú Phong nữa. Một số đông thanh thiếu niên trong tỉnh bắt đầu nộp đơn xin học trường " Nhà Nước ", gọi theo danh từ là " Trường Pháp Việt "---Ecole Franco - Annamite, hay là Ecole Franco Indigène ".
Nhưng chúng ta hãy tạm gác lại những sự kiện lịch sử này, trong một chương sau tôi sẽ nói tiếp. Bây giờ chúng ta trở lại đêm tân hôn của Lê văn Thanh, chàng thanh niên mới cưới vợ, năm 1915.
Sau khi các quan khách ra về rồi. Ông Hương Cả, thân sinh của chàng, gọi chàng vào nhà trong để nói nhỏ với chàng một giọng rất nghiêm nghị :
- Cha đã chọn giờ tốt cho con " động phòng " trong đêm tân hôn của con. Con phải đợi đúng giờ Tý, ước chừng mặt trăng lên đến giữa sân, con mới được vô buồng làm lễ " hoa chúc " với vợ con.
Lê văn Thanh hí hởn sung sướng lắm. Chàng chạy ra sân ngó lên trời, thấy trăng lơ lửng trên nóc nhà còn một xí nữa mới lên đến giữa sân. Chàng vào nhà khách chờ đợi rất ngoan ngoãn.
Một lát sau trăng lên gần giữa sân. Thanh không kịp hỏi cha, mùng quýnh, len lén chạy trước cửa buồng của chàng và đẩy cửa bước vào. Chàng cài then lại. Cô Nguyễn thị Hợi bẽn-lẽn, đang ngồi trên một góc giường. Cô vẫn mặc y nguyên cả ba chiếc áo lụa dài, không cởi ra. Thanh thấy một chiếc bàn mà ai đã kê sẵn nơi đầu giường lúc nào chàng không được biết. Trên bàn đã để một dĩa trầu cau têm rồi, một bình rượu với hai cái chén nhỏ. Hai cây đèn bạch lạp cháy hiu hiu... Thanh đến trước mặt cô Hợi, nhưng không đứng gần. Với một giọng run run, gần như không ra tiếng, chàng nói ấp úng, nàng ngồi cúi mặt xuống nghe :
-....Ơ....Ơ...làm lễ động phòng...hoa chúc....
Nói mấy lời đó, chàng cũng rụt rè e lệ. Nàng khẽ đáp :
- Thầy 6....ông lạy trước Nguyệt...hai...đứa...mình phải lậy một lượt chớ.
Nàng đứng dậy. Chàng bước đến bàn thờ Nguyệt lão 7, lấy bình rượu rót ra hai chén, rồi thắp hai que nhang, đưa cô Hợi một que, chàng cầm một, Hai người đồng lạy. Xong chàng lấy một chén rượu đưa cô Hợi :
-...Ơ...Ơ...uống rượu...
Nàng đưa hai tay lễ phép nhận chén rượu, và nâng lên uống cạn một lượt với chàng. Chén rượu nhỏ thôi, chắc là uống không say lắm.
Chàng lại lấy một miếng trầu cau, trao nàng :
- Ơ...Ơ...ăn trầu....
Nàng cũng đưa hai tay lễ phép nhận miếng trầu tươi cau tươi và đưa vô miệng nhai. Nàng nhai nhò nhẹ chầm rãi, rất có duyên. Chàng vừa ăn trầu, vừa cởi chiếc áo gấm và áo dài trắng treo trên tường, chỉ còn mặc chiếc áo cụt. Chàng lên giường nằm, miệng còn nhai trầu mỏm mẻm. Cô Nguyễn thị Hợi vẫn cứ mặc nguyên ba áo hàng mầu, ngồi ghé một bên mép giường, cúi mặt xuống ra chiều bối rối, hai tay mân mê tà áo.
Tuy đã lên giường, nhưng Lê văn Thanh còn mắc cỡ nằm quay mặt vào vách đất, làm thinh, miệng cứ nhai trầu không ngớt. Một lát khá lâu, chàng cất tiếng nói, nhưng không dám ngoảnh mặt ra ngó cô vợ mới cưới :
- Cô Ba không cởi áo đi nằm, kẻo mệt ! Khuya rồi...bây giờ là giờ...Tý...
Nàng khẽ đáp : " dạ " nhưng không dám cởi áo, cứ để nguyên ba lớp áo hàng mầu, nằm ghé xuống bên lề giường.
Rồi mạnh ai nấy ngủ.
Gà gáy hết canh năm ( vào khoảng 5 giờ sáng ), chàng chợt tỉnh dậy, thấy vợ nằm sát cạnh giường sắp té xuống đất, mới nằm lại gần nàng, nắm tay lung lay :
- Cô Ba...cô Ba...nằm xít vô, kẻo té...nằm xít vô....
Nàng vẫn nhắm mắt như ngủ mê, nhưng cũng nghe lời chàng, nằm xít vào một tý, một tý thôi. Chàng hồi hộp sung sướng, khẽ đặt bàn tay lên cánh tay cô vợ trẻ mà chàng nhìn thấy xinh đẹp như nàng Tiên giáng thế...
Lê văn Thanh hồi hộp khẽ đặt bàn tay lên cánh tay áo hàng mầu lục của cô vợ trẻ...cô Ba để yên, không nói gì nhưng khi chàng bạo tay hơn một tý, khẽ đưa bàn tay dần dần lên ngực cô, thì cô Ba hất tay ra, rồi co cánh tay của cô lên để che ngực, mặc dầu cô đã mặc ba lớp áo hàng mầu, chưa kể áo cụt trắng ở trong cùng chiếc yếm đen của cô cột chặt vào cổ à lưng.
THấy cô vợ mới cưới còn giữ gìn e lệ, Lê văn Thanh không dám làm ẩu, vội vàng rút bàn tay, nằm im phăng phắc.
Gà gáy lần thứ hai... rồi lần thứ ba, àvo khoảng 6 giờ sáng. Trong cảnh vật còn mơ màng lặng lẽ, mọi vật như còn ngái ngủ, tuy trời đã hừng sáng, tiếng kèn rạng đông ở trại lính khố xanh bổng vang lên thánh thót, cả tỉnh thành đều nghe :
tò te tí tò tí te
tí tò tí te, tí tò te tí
te tò te tí, tò tí te
tí tò tí te, tí tò tò te...
tò te tí tò tí te
tí tò tí te, tí tò te tí
te tò te tí, tò tí te
tí tò tí te, tí tò tò te...
Cô Nguyễn thị Hợi vội vàng ngồi dậy, không nói năng một lời, ra mờ cửa buồng, đi thẳng xuống bếp. Cô đến chum nước lạnh, lấy gáo dừa múc một gáo nước, trút nước ra bàn tay đưa lên rửa mặt. Rửa xong, cô đưa vạt áo dài lên lau. Cô hớp một hớp nước để súc miệng. Lúc bấy giờ không có thuốc đánh răng. Vả lại, răng các bà, các cô đã nhuộm đen ( cả một số đàn ông theo Nho giáo cũng nhuộm răng đen ) thì làm sao đánh răng được ?
Trái lại, lâu lâu cách năm bảy tháng, cô Nguyễn thị Hợi còn phải nhuộm lại hàm răng cho đen thêm, đen ánh như hột mãng cầu ( tiếng bắc : hạt na ). Trong mấy ngày nhuộm răng, để cho thuốc nhuộm thật khô, cô Ba Hợi phải nhịn ăn các đồ nóng và các đồ cứng rắn, chỉ ăn cơm nguội hoặc cháo nguội, và các món ăn mềm.
Cô Ba Hợi -- từ nay người ta gọi là cô Ký Thanh -- vào nhúm bếp nấu nước sôi để pha trà. Thầy Ký đã thức dậy, ngồi ghế tràngh kỷ ở nhà trên, uống trà với ông Hương Cả, thân phụ của chàng.
Tội nghiệp cho chàng thanh niên mới cưới vợ ! Đêm tân hôn đáng lẽ là đêm thơ mộng xiết bao, là đêm tràn trề hạnh phúc của tình yêu son trẻ, mà sau khi làm lễ hợp cẩn với vợ, chàng vẫn chưa được gần vợ, bởi cô còn quá thẹn thuồng chua dám gần chàng ! Cho đến đêm thứ hai, nàng vẫn còn xa cách...chàng phải rủ rĩ bên tai nàng vài câu chuyện bâng quơ,gợi nói chuyện sao cho nàng mỉm cười, nàng vui vẻ, bạo dạn, hết còn bẽn-lẽn, sợ sệt như đêm đầu. Ký Thanh không quên xử dụng vài câu chữ Nho trong các sách Khổng giáo để quyên dụ người đẹp đêm tân hôn. Chống tay trên chiếc gối gỗ, nửa nằm nửa ngồi khép nép bên lề giường, chàng run đùi khẻ nói, cố gắng giọng hùng hồ như Thầy Đồ dạy học :
- Đức Thánh, Ngài nói rằng : "Thiên hạ chi đạt đạo ngũ viết quân thần giã, phụ tử giã, phu phụ giã, môn đệ giã, bằng hữu chi giao giã, ngũ giã, thiên hạ chi đạt đạo gãi..." ( ở đời có 5 đạo : đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè giao hảo : ấy là 5 đạo thiên hạ phải thực hành ). Tôi tự xét tôi đi làm việc Nhà Nước, ấy là tôi đạt được quân thần chi đạo. Tôi ăn ở có hiếu với cha, ấy là tôi đạt được ọhu tử chi đạo...Nay tôi đã gá nhgiã cùng cô Ba, thì tôi trộm xét cái thân bảy thước này không đến nổi vô ích với đời, tôi đã thành đạt cái nam nhi chi khí. Tôi thương cô Ba bao nhiêu, tôi lại nhớ câu trong Kinh Thi bấy nhiêu: "Thê tử hảo hợp, như cổ sắt sắc cầm, nghi nhĩ thất gia lạc nhĩ thê noa...Phụ mẫu kỷ thuận hỹ hồ..." (Vợ con hoà hợp, như tiếng đàn sắt đàn cầm, nhà của đoàn tụ vợ con vui vẻ...cha mẹ được hoan hỹ lắm thay...)
Ký Thanh ngâm mấy câu sách Nho, khoái chí gật đầu, rồi cao hứng xổ một mớ tiếng tây ba rọi :
- Tục ngữ An Nam mình nói : "Thuận vợ thuân chồng, tát biển đông cũng cạn". Tây thì nói "Unis la femme et le mari, puisserde l'eau...dans le mer de l'Est...est vidé aussi..."
Thanh vừa nói vừa nhai trầu mỏm mẻm, vừa cười tủm tỉm. Chàng nuốt nước trầu một cách ngon lành trong lúc cô Ba ngồi nghe như vịt nghe sấm, thầm phục ông chồng tài hoa cùa cô. Chàng khẻ bảo :
- Cô Ba nằm xuống nghỉ, kẻo khuya rồi, cô Ba. Đã quáu giờ Tý rồi đó.
- Dạ thầy ngũ trước đi.
Lê văn Thanh nằm xuống giả vờ ngủ và ngáy khò khò... Chàng chỉ giả vờ thôi, sự thực thì chàng vẫn thức, để rình lúc cô Ba ngủ.
Một lúc sau, cô Ba đứng dậy nhẹ nhàng, cởi áo dài ra, chỉ còn mặc áo cụt trắng. Cô nằm xuống, nhưng vẫn nằm riêng bên lề giường. Cô không dám đụng chạm vào da thịt người đàn ông, chồng của cô. Một lúc khá lâu, cô nghe ở nhà trên, nhà cầu, nhà bếp, ngoài hè toàn những tiếng ngáy của những người đã ngủ say, mệt mỏi. Trên đất, tiếng thằn lằn chặc lưởi. Tiếng ếch nhái kêu ột...uệch...ngoài sân..Cô nằm lim dim một lúc, không cựa quậy. Thanh tưởng cô đã ngủ rồi, mới len lén nằm kề bên cô.
Một lúc sau, cô Ba đứng dậy nhẹ nhàng, cởi áo dài ra, chỉ còn mặc áo cụt trắng. Cô nằm xuống, nhưng vẫn nằm riêng bên lề giường. Cô không dám đụng chạm vào da thịt người đàn ông, chồng của cô. Một lúc khá lâu, cô nghe ở nhà trên, nhà cầu, nhà bếp, ngoài hè toàn những tiếng ngáy của những người đã ngủ say, mệt mỏi. Trên đất, tiếng thằn lằn chặc lưởi. Tiếng ếch nhái kêu ột...uệch...ngoài sân..Cô nằm lim dim một lúc, không cựa quậy. Thanh tưởng cô đã ngủ rồi, mới len lén nằm kề bên cô.
Chàng khẻ đặt mủi lên đôi má âm ấm của nàng mịn và thơm như hai cánh hoa đào, chàng say sưa hít liên tiếp hai ba hơi. Đó là những nụ hôn đầu tiên của cặp thanh niên âu yếm hồi đầu thế kỷ này. Nàng làm bộ ngủ mê để chàng muốn làm gì thì làm. Đêm nay, nàng không chống cự, từ chối một tí gì cả.
Một buổi sáng, trong lúc Ký Thanh ngồi uống nước trà trên tràng kỷ với ông Hương Cả, ông bảo chàng :
- Tiệc cưới của con, tất cả bà con cô bác trong tỉnh ai cũng có tới dự vui vẻ. Nhưng cha không thấy mặt chú thợ Ba, cha thằng Chuột. Tại sao vậy kìa ?
- Chú thợ mộc ấy không ưa nhà mình.
- Cha nghĩ chắc rằng có lẽ thằng Chuột được Nhà Nước cho học bổng đi học trường Quốc Học ở Huế, nên chi chú thợ Ba làm phách, không thèm tới dự tiệc cưới của con đó.
Ký Thanh nổi giận :
- Tiệc cưới của con, trên có cụ Sứ, cụ Phó Sứ, cụ Tuần, dưới có làng xã đông đủ hết, như vậy đã danh giá biết bao. Chú thợ Ba làm phách với ai, chớ làm phách với nhà mình sao được ?
- Chắc có lẽ chú ỷ thằng Chuột học giỏi hơn con ?
Ký Thanh làm thinh, ganh ghét thằng Chuột nhưng không làm sao được.
Ông Hương Cả đoán như có phần đúng hẳn. Thằng Chuột -- từ nay chúng ta gọi tên chính thức của chính nó là Trần Anh Tuấn -- đã cắp vờ đi học trường Nhà Nước sớm hơn Lê văn Thanh hai năm. Các bạn còn nhớ hồi đó nó mới 8 tuổi chưa biết mặc áo quần, vì thầy giáo quen với cha nó, doa nạt nếu nó không đi học trường Nhà Nước thì cha mẹ nó sẽ bị quan tây bỏ tù, cho nên nó phải cắp vở đi học A, B,C...
Hai năm sau, Lê văn Thanh nhờ thằng Chuột dạy lại A, B, C... cho chàng, rồi chàng xin vào học lớp Năm "trường Nhà Nước ", thì giờ bà con trong tỉnh và ở cửa Bắc, không gọi nó là thằng Chuột nữa, mà gọi nó đỗ bằng "ri-me", vì Trần Anh Tuấn là người học trò đầu tiên ở cửa Bắc học chữ tây đã thi đổ cấp bằng ấy. Đáng lý ra, Tuấn được danh vị mới là " Tân Học Khoá Sanh ". Nhưng theo lệ làng đã có từ thời Nho học, người nào thi đỗ một cấp bằng mới, được chức mới, phải giết bò giết heo " khao làng " ( đãi làng ) thì dân chúng trong làng cũng như trong tỉnh, mới chính thức gọi kẻ tân khoa bảng chúc vị mới. Không phải thi đỗ Tú Tài, Cử Nhân là được người ta gọi " ông Tú ", " ông Cử " đâu. Phải làm tiệc khao làng, đãi toàn thể dân làng ăn uống rồi mới được dân làng gọi " ông Tú ", "ông Cử ". Tục lệ " xôi thịt " ấy có từ thời khoa cử cựu học, thời đại phong kiến của chế độ quân chủ, vẫn cứ duy trì với trào lưu tân học.
Vì Tuấn con nhà nghèo, gia đình chú thợ mộc không có tiền để khao làng xã, cho nên Trần Anh Tuấn thi đỗ "ri-me ", vẫn bị dân làng gọi là " trò Chuột ", chớ không ai gọi là "cậu Khoá ". Vả lại, Tuấn, mới 12 tuổi, nên bị coi như là con nít, không được người ta trọng vọng.
Trái lại, hai năm sau Tuấn, Lê văn Thanh thi đỗ bằng "ri-me ", nhờ nhà nước hạ lệnh "đón rước tân khoa " và nhờ ông Xã Quý giết bò, giết heo, để đãi làng ăn uống phủ phê suốt hai ba ngày, cho nên Thanh được dân làng tâng bốc. Kế đó, Thanh được bổ làm thông ngôn ký lục ở toà Sứ, lại khao lần nữa, mới được làng gọi là thầy " Ký ".
Trần anh Tuấn, con chú thợ mộc, nghèo, không có ruộng đất, tuy học giỏi hơn Thanh, thi đỗ sớm hơn Thanh hai năm, àv được nhà nước bảo hộ cấp học bổng cho đi học trường Quốc Học ở Huế, vẫn cứ bị làng xã gọi là " trò Chuột ", cái tên ấy không vinh dự tí nào.
Chính ông Hương Cả cũng khinh miệt thằng Chuột là con nít và coi rẻ chú thợ mộc là dân nghèo. Tức giận vì sự cách biệt khinh khi ấy, nhưng hãnh diện vì con mình được đi học ở Huế, sẽ đỗ đạt cao hơn và sẽ làm chức tước lớn hơn, nên cha "trò Chuột" không thèm đến dự tiệc cưới, chú thợ Ba cũng đến mừng xã giao ông Hương Cả và " thầy Ký ". Chú mặc bộ quần áo vải ta, thứ vải thô sơ rẽ tiền nhất do người trong xóm dệt bán, mà chú thường mặc thường ngày, một chiếc khăn vắt vai, chú đi lửng thửng đến nhà ông Hương Cả. Trong câu chuyện bãi buôi, ông Hương Cả mời chú Ba thợ mộc ăn trầu, rồi hỏi :
- Thằng Chuột bây giờ học lên lớp mấy, chú Ba ?
- Dạ, thưa ông Cả, nó mới học lớp đệ nhị niên.
- Mấy năm nữa mới thi lận ?
- Dạ thưa, nó nói còn hai năm, đệ tam niên, đệ tứ niên, rồi thi đít-lôm.
- Tôi cũng muốn cho thằng Ký ra Huế học đít-lôm, nhưng cụ Sứ thương nó, biểu nó đi làm việc ở toà, nên nó vâng lệnh cụ Sứ...Thiệt cụ Sứ thương thằng Ký lắm...Cụ khen nó giỏi chữ Tây.
- Dạ, thưa ông Hương Cả, bửa trước tôi cũng tính đến mừng thầy Ký, nhưng tôi nghe nói cụ Sứ tới, tôi sợ cụ Sứ, nên tôi không dám đến.
- Cụ Sứ thương thằng Ký, cụ mới tới dự tiệc cưới của nó, chớ đời nào cụ tới nhà An Nam. Có bà lớn Sứ nữa. Cụ lớn ông và cụ lớn bà đều có bắt tay "bỏ sua " tôi.
- Dạ, tôi có nghe nói
-Sao chú không cho thằng Chuột đi làm việc như thằng Ký của tôi, có phải danh giá không ! Nhà chú nghèo mà cho nó đi học Quốc Học ở Huế làm chi vậy ? Chữ tây khó lắm, thằng Chuột nó còn nhỏ nó học sao nổi ?
- Dạ thưa ông Cả, cũng vì con tôi còn nhỏ tuổi, nên ra làm việc sao được. Với lại, nó có học bổng của Nhà Nước, chớ tôi làm gì có tiền cho nó đi Huế...Ôi, thưa ông, tôi để thây kệ nó, nó muốn học gì thì nó học. Phận tôi nghèo hèn dốt nát, tôi đâu dám nghĩ chuyện cao xa...
- Ừ, chú nói phải, châu chấu đá voi sao nổi.
Chú thợ mộc nói qua loa vài câu chuyện nữa, rồi đứng dậy lễ phép xin cáo từ. Bề ngoài, cha " trò Chuột " làm ra vẻ khiêm nhường, ty tiện trước mặt ông Hương Cả nhưng trong thâm tâm chú cười thầm, tự bảo : " Hai năm nữa, thằng Chuột thi đậu bằng đít lôm. rồi hai cha con ông sẽ biết hai cha con tôi.
--------------------------------1 | Người quân tử học là để làm cho thân mình. Kẻ tiểu nhân học là để làm trâu ngựa. | |||||||
2 | Cái giận vì nóng nảy không nên có, cái giận vì nghĩa lý không nên không. | |||||||
3 | Mình phải có chí, cái chí khí là đưa đường cho mình đi, có chí khí thì thể phách của mình mới nẩy nở đầy đủ vậy. | |||||||
4 | Certificat d' Primaires France-Indigènes (Bằng Sơ Học Pháp Việt). | |||||||
5 | Nơi bụi tre mát mẻ, lính Khố Xanh thường ra đây tập thổi kèn cho nên dân chúng gọi là bụi tre thổi kèn. | |||||||
6 | Chồng làm quan có chức tước như Ký Thanh thì vợ gọi chồng bằng "thầy". | |||||||
7 | Bàn thờ này chỉ để tạm trong phòng hoa chúc trong đêm tân hôn mà thôi.Tuấn Chàng Trai Nước ViệtCHƯƠNG 21910-1916
- Những kẻ nịnh Tây, tâng bốc "Quan Lớn Đại Pháp".
- Trường Quốc Học Huế đến năm 1907 mới có kỳ thi Tiểu-học đầu tiên. - Trường Nữ-học Đồng Khánh Huế mở năm 1917. - Năm 1910, toàn xứ Trung-kỳ tổng cộng chỉ có 1595 học sinh. - Chiếc xe hơi đầu tiên. Dân chúng hoảng sợ. - Saigòn năm 1910 tổng cộng dân số : 70.000 người, trong đó chỉ có 40.000 người Việt. - Có chiếc "xe máy " (xe đạp ) là "văn minh " nhất. - Saigòn năm 1910, chỉ có tất cả là 5 chiếc ôtô của Pháp. - Thanh niên Saigòn mang giầy "ma mị". - Vụ Vua Duy-tân, tháng 5 năm 1916, Huế. - Ảnh hưởng của Vua Duy-tân (16 tuổi) đối với thanh niên Việt Nam hồi đó. - Vụ giặc Đồng Bào năm 1908.
Một đám cưới Việt Nam.
Thanh niên Việt Nam theo tân trào tây học,vào khoảng 1910-1916, không phải tất cả đều như Lê văn Thanh. Nhưng Thanh là một nhân vật điển hình của một lớp trẻ mới tiếp xúc lần đầu tiên với uy quyền của nước Pháp bảo hộ, khiếp sợ trước binh lưc hùng cường của người Pháp, và khâm phục văn minh cơ khí của Pháp, cho nên họ hùa theo đám quan lại nịnh tây mà tôn kẻ chiến thắng bằng những danh từ tâng bốc thông dụng từ Bắc đến Nam : "Quan Thầy Đại Pháp" "Nhà Nước Đại Pháp"..."Mẫu Quốc Bảo Hộ" v.v... Mà chính người Pháp cũng không ngờ. Những khẩu hiệu chính thức ấy không phải do người Pháp đặt ra. Phải nhìn nhận một sự thật rõ ràng là ngay từ Pháp mới sang đô hộ xứ ta, họ chỉ tuyên truyền và đề cao văn minh của họ mà thôi, chớ không khi nào họ bắt buộc ngừoi Việt Nam phải suy tôn họ bằng những câu nịnh bợ như trên kia. Họ chỉ gọi xứ họ là "nước Pháp" La France chớ không bao giờ tự đề cao là "Đại Pháp", là "quan thầy Đại Pháp" v.v... cũng như họ gọi Viên Toàn Quyền hoặc viên Khâm Sứ của họ là "Ông Toàn Quyền" "Ông Khâm Sứ" v.v...như người Việt Nam suy tôn họ. Cái lối tâng bốc phong kiến tạo nên là do các quan lại " An Nam " xướng ra đầu tiên, rồi các quan Pháp, các thầy Thông, thầy Ký hùa theo xưng hô thành ra thông lệ. Hạng thanh niên "An Nam" làm việc cho Nhà Nước Bảo Hộ thời bấy giờ, hầu hết là hãnh diện được làm tôi tớ cho "Quan Thầy Đại Pháp" và tranh đua nhau nịnh bợ "quan thầy" để được ban bố ân huệ, tước vị, phẩm hàm, "thăng quan tiến chúc".
Đa số lớp thanh niên tây học thời bấy giờ chỉ có một mục đích duy nhất là thi đậu dể làm việc cho Nhà Nước tức là "làm Quan" :bên Nam-triều từ Quan Huyện, quan Phủ, đến quan Tuần Vũ, quan Tổng Đốc, quan Thương Thư, bên chính phủ Bảo Hộ thì quan Tham, quan Phán, quan "còm mi ", quan Đốc. Dưới một bực là thầy Trợ giáo, thầy Thông, thầy Ký cũng ao ước được làm ông quan nho nhỏ. Cho nên lúc bấy giờ người Pháp nhận xét mỉa mai rằng : " TRONG ĐẦU ÓC MỔI NGƯỜI VIỆT NAM ĐỀU CÓ MỘT ÔNG QUAN " nghĩa là người An Nam nào cũng có tham vọng " làm Quan " cả. Sự nhận xét tổng quát ấy kể ra cũng đúng một phần nào. Vả lại lúc ban sơ người Pháp cần đào tạo cấp tốc một số công chức để giúp việc cho họ trong các cơ sở mới thiết lập : Tòa Sứ, Kho Bạc, nhà Giây Thép, sở Lục Lộ, nhà Thương, nha Thương Chánh,v.v... Mà số thanh niên theo học " chữ Tây " tại các trường Pháp - Việt mới mở còn rất ít oi, cho nên sự học rất được khuyến khích, thi cử rất dễ dàng và học sinh đỗ bằng " tiểu học " đã được bổ dụng ngay trong các công sở, làm " thông ngôn ký lục".
Riêng ở Trung Việt chẳng hạn, (từ 1900 đến 1945, gọi là Trung Kỳ, trường Quốc Học, ở Kinh thành Huế, được mở từ năm 1896, nhưng mãi đến năm 1909 mới bắt đầu mở kỳ thi " Certificat d' Etudes Primaires Franco-Indigenes ". Lúc bấy giờ bằng cấp này còn gọi là bằng Sơ Học, trong dân chúng gọi là bằng "ri-me ". Trong làng dạy hai lớp Đồng Ấu và Dự Bị ( lớp Năm, lớp Tư ), trường Huyện, Phủ có lớp Sơ Đẳng (lớp Ba ), trường Tỉnh có thêm lớp Nhì, lớp Nhất. Sau, từ 1917, các trường tỉnh đều đặt thêm lớp Nhì đệ nhị niên, và đổi là Tiểu Học Pháp Việt ( École de Plein Exercise ), trường Quốc Học đổi thảnh trường Cao Đẳng Tiểu Học ( Primaires Supérieures ) Cũng năm 1917 mở thêm trường Cao Đẳng Tiểu Học Đồng Khánh, riêng cho con gái. Năm 1920, trường Cao Đẳng Tiểu Học Vinh, năm 1921, trường Cao Đẳng Tiểu Học Qui Nhơn.
Năm 1910, các "trường Nhà Nước " cả Trung Kỳ, tổng cộng chỉ có 1595 học sinh.
1915 có 2.442 học sinh.
1920 có 30.349 học sinh.
1925 có 41.062 học sinh.
1930 có 62.558 học sinh.
Năm 1930, sự học đã phát triển mạnh mẽ khắp xứ, mà số nữ sinh toàn xứ Trung-kỳ cũng mới chỉ có 1986 người, trong số đó có 47 cô ở các lớp Sư phạm và 494 cô ở các lờp Cao đẳng tiểu học ( thi bằng diplôme), tức là bằng Thành Chung., gần như Trung Học Đệ Nhất Cấp ngày nay.
Lê văn Thanh bắt đầu học ABC hồi 19 tuổi. Năm 1911, 20 tuổi cậu xin vào trường Nhà Nước, học lớp Năm, 24 tuổi chàng thi đỗ bằng " ri-me ", hai tháng sau được vào làm "thầy Ký " ngay trong tòa Sứ và làm thông ngôn cho ông Công Sứ, tuy sự hiểu biết vể tiếng Tây trong bốn năm sơ học chưa bao nhiêu.
Trong lúc đó, Trần anh Tuấn thằng Chuột nhỏ hơn Thanh 10 tuổi, lại học trước hơn Thanh 2 năm. Năm 12 tuổi nó đã đỗ bằng ri-me và được Ông Công Sứ ở tỉnh cho học bổng đi Huế học trường Quốc Học.
Trần anh Tuấn đi Huế bằng cách nào ?
"Đường Cái Quan" đã có rồi, mới đồ đá, nền đất bằng phẳng. Hai bên đường đã bắt đầu dựng cột giây thép. Tuy đến mùa mưa, nhiều đoạn đường bị nước mưa làm trôi cả đất lẩn đá, và cầu cống chỉ được bắt qua các con sông nhỏ, các con sông lớn còn phải dùng đò, nhưng " đường cái quan " mà người Pháp gọi là " đường thuộc địa số 1 " để nối liền các tỉnh, từ Saigòn ra Huế, ra đến Hà Nội. Riêng ở các tỉnh Trung Việt, đường sá đã có nhưng xe cộ chưa có. Xe ô tô (ở Nam kỳ gọi là xe hơi, ở Trung kỳ gọi là xe điện), ở ngay tại tỉnh lỵ chỉ có ông Công Sứ Pháp có một chiếc mà thôi, xe hiệu Delahaye, cao ngồng, máy nổ kêu rầm rầm, xịt khói phía sau, dân chúng sợ hãi không dám lại gần.
Người ta đồn rằng đứng gần" xe điện " sẽ bị nó hít vào trong bụng máy, chết liền không kịp thở. Chính thầy ký Thanh cũng chưa dám đến gần xe "cụ Sứ ". Các ông tây khác, hoặc đi ngựa, hoặc ngồi trên xe kéo bánh sắt, do một người " cu li An nam" kéo. Xe kéo chạy xa nhất chỉ trong khoảng 30 h0ặc 40 cây số ( kí-lô-mét ) một ngày, và chỉ chạy trong giới hạn một tỉnh. Các "quan An Nam " và các bà vợ quan, đi đâu đều đi cáng và đi từng trạm, lính thay phiên nhau mỗi trạm là hai người khiêng chiếc cáng. Ông quan hay bà quan (bà lớn ) nằm trong cáng như nằm trong võng có màn thêu che phủ hai bên.
Dân chúng, đi buôn bán, từ tỉnh này qua tỉnh nọ dỉ nhiên là phải đi bộ rồi. Phần nhiều, họ rũ nhau 5,10 người đi cho có bạn, hàng mấy trăm cây số, mất nửa tháng hoặc 20 ngày, có khi hàng tháng. Họ đi bộ như thế từ Quảng Ngãi ra " Tou-Ranh " ( Tourane, Đà Nẳng ) hoặc từ Hội An vô Nha Trang, Phan Thiết, Đồng Nai,( Gia Định - Saigòn ).
Vì đường sá xa xôi, xe cộ rất hiếm hoi, lại thiếu thốn tất cả những tiện nghi trong cuộc viễn hành, vượt núi băng sông dầm mưa, dãi nắng, cho nên một số người đi buôn bị đau chết dọc đường, một số khác vào đến Đồng Nai rồi ở luôn đấy sinh cơ lập nghiệp, không muốn trở về. Thỉnh thoảng đôi người đi Đồng Nai về, khoe rùm lên rằng ở Saigòn nhà cửa phố xá đông nghẹt, có nhà lầu cao ba tầng, có đường đi rộng ba thước, trên bộ xe hơi chạy "boong boong ", dưới nước tàu thủy chạy " vù vù ", tối đến đèn điện thắp sáng choang như ban ngày, ông Tây bà Đầm ôm nhau " đăng xê " coi vui mắt quá chừng. !
Thật là văn minh quá sức tưởng tượng của người An Nam ta !
Vì thế ở các tỉnh miền Trung, dân chúng thường ao ước được đi Đồng Nai một chuyến." Đi Đồng Nai ", đó là cả một giấc mộng phiêu lưu, như thể đến một thiên đường xa lạ....
Một số đông phụ nữ trẻ đẹp, nhưng buồn duyên tủi phận, giân mẹ chồng hiếp đáp, hoặc bị chồng hất hủi, thường "cuốn gói " đi " Đồng Nai - Gia Định ", mặc dầu phải đi bộ. Rồi năm bảy năm sau trở về thăm bà con cô bác, họ đeo đầy vòng vàng, hột, xuyến, chói lọi trên tay trên ngực, má phấn môi son, đầu tóc thơm ngát mùi nước hoa. Thường thường cô Hai hay cô Ba thích dắt theo về một người chồng Đồng Nai, bận quần áo bằng lãnh đen, chân đi giày Tây, đầu đội mũ Tây, miệng bịt răng vàng, và hút thuốc lá Tây...
Đàn ông đàn bà ở đất " Hòn Ngọc Viễn Đông " đi về đây trông oai như ông Hoàng bà Chúa.
Cho nên hầu hết những thanh niên buôn bán ở các tỉnh miền Trung đều đi bộ theo đường cái quan, hoặc đi ghe bầu theo đường biển, kéo nhau vào Đồng Nai Lục Tỉnh. Nhưng còn đám thanh niên học sinh, sau khi đỗ bằng Tiểu học ở tỉnh nhà, thì lại rũ nhau đi Huế, tiếp tục học trường Quốc Học ở Kinh Đô. Số học sinh đi học trong Saigòn rất ít.
Trần anh Tuấn được học bổng mỗi tháng 2 đồng bạc ( cũng gần 2.000 đồng bây giờ ). Tuấn có đến chào quan Công Sứ ở tỉnh. Ông cho Tuấn đi làm tiền lộ phí. Đổi ra tiền An Nam được 6 quan tiền kẽm. Tuấn xuống bến Thu Xà, chờ ba ngày có " ghe bầu " chở nước mắm và đường bông Quảng Ngãi đi Fai-Foo ( Hội An ). Cha của Tuấn, chú thợ Ba, có quen với ông chủ ghe, gởi Tuấn đi nhờ ghe ông.
Trước ngày Tuấn ra đi, cha mẹ Tuấn có nhờ thầy phù thủy trong tỉnh chọn được ngày lành tháng tốt, là ngày 2 tháng 8 ta xuất hành vào giờ Mẹo. Chú thợ Ba cũng có làm thịt môt con gà nấu cháo cúng Ông Bà, xin phù hộ cho thằng con trai thượng lộ bình yên. Cúng xong chú Ba chặt hai cái giò gà đưa thầy phù thủy xem.
Thầy sáu Chính lật qua lật lại cặp giò, xem xét kỷ lưỡng rồi gật đầu hai ba cái :
- Tốt lắm đây, chú Ba à. Trò Chuột đi Huế học chắc chắn sẽ đỗ đạt thành tài.
Chú Ba vui mừng rót rượu mời thầy sáu Chánh phù thủy. Bà con cô bác trong thân quyến chú thợ mộc, nghe tin " thằng Chuột " đi học tận ngoài Huế, đều có đến chúc mừng. Kẻ cho nó một quan tiền, người cho vài thước vải quyến trắng để may quần, vài thước vải trăng đầm để may áo đen. Có người cho cả một cân đường bông, hoặc một xấp giấy tây, một vài gói bánh ít, bánh thuẩn, bánh bò. Tuấn cảm động nhận lãnh tất cả, nhét tất cả trong một khăn gói nặng trìu trỉu ( lúc bấy giờ ở tỉnh chưa có tiệm nào bán va-li ).
Sáng sớm hôm sau, mặt trời rạng đông, hai cha con chú Ba cột khăn gói vào một đòn gánh, rồi cha một đầu, con một đầu, lặng lẽ khiêng gói ra đi. Họ đi chưn không và đi bộ xuống tận Thu Xà để Tuấn lên " ghe bầu " theo đường biển ra Fai-Foo ( Hội An ). Từ Fai-Foo, Tuấn sẽ đi xe kéo ra Tu Ranh ( Đà Nẳng ), rồi lên xe lửa đi Huế.
Còn hai tháng nữa mới tựu trường, niên khóa 1915-16, Tuấn mới 12 tuổi.
Trong lúc Tuấn đi ghe bầu ra Huế tiếp tục học tại trường "Quốc Học ", thì các lớp thanh niên các tỉnh ở " Bắc Kỳ " và " Nam Kỳ ", cùng lứa với Tuấn, cũng lục tục lên Hà Nội và Saigòn, học để thi bằng " đít-lôm ". Song song với trường Quốc Học Huế, ở Hà Nội có trường Trung Học Bảo Hộ ( collège du Protectorat ) ở làng Bưởi nên thường gọi là trường Bưởi. Ở Saigòn có trường trung học Chasseloup-Laubat.
Chế độ cai trị của người Pháp ở Bắc Kỳ không khác ở Trung Kỳ. Bắc kỳ vẫn là đất của"Đại Nam Hoàng Đế " ( Empereur d'Annam) mà kinh đô chính thức là Huế, lại vừa là xứ Bảo Hộ ( Protectorat du Tonkin ) thuộc đại của Pháp mà thủ đô là Hà Nội. Còn Nam Kỳ thì bị tách hẳn ra làm nhượng địa của Pháp, không còn dính líu gì với ông Vua An Nam nữa, từ thời Tự Đức năm thứ 20 ( 1867 ). Tuy nhiên, về chính trị và hành chính, có sự chia xẻ ba kỳ riêng biệt như thế, nhưng đời sống xã hội, gia đình à luân lý của toàn thể nhân dân Việt Nam, từ Bắc đến Nam, xét về tổng quát vẫn không khác nhau bao nhiêu.
Riêng thành phố Saigòn tiếp nhận văn minh của Pháp trước tiên. Người Pháp chiếm đóng, xây dựng thành phố, và củng cố vị trí nơi đây đã trên 40 năm về trước,và ảnh hưởng trực tiếp của họ đến các từng lớp dân chúng được sậu rộng hơn, và đã tràn lan khắp " Đồng Nai Lục Tỉnh "
Thanh niên Việt Nam ở "Nam Kỳ " đã quen nếp sống mới của văn minh Pháp cũng sớm hơn và bồng bột hơn, kể cả hai phương diện vật chất và tinh thần.
Tuy thế, trong giai đoạn thiết lập cơ sở Đông Dương, từ đầu thế kỷ đến Đệ nhất thế chiến 1914-18, trạng thái "văn minh tiến bộ " của Pháp ở ngay Saigòn cũng chua có gì đặc sắc lắm, hãy còn sơ sài, tạm bợ, không hơn bao nhiêu đối với Bắc kỳ và Trung kỳ.
Mặc dầu người Pháp hết sức khoe khoang và quảng cáo cho Saigon " Hòn Ngọc Viễn Đông " của họ Perle d' Extreme-Orient nhưng xét kỷ lại thì Saigon cũng chỉ có đôi phần hào nhoáng lộng lẫy ngoài mặt mà thôi, với một dân số không quá 70.000 người ( 43.000 Việt nam, 20.000 ngoại kiều: Hoa, Ấn, Xiêm và 10.000 Pháp ) trong năm 1910.
Thanh niên Việt Nam ở Saigon hầu hết còn mặc đồ bà ba đen và đi chưn không, xe máy chưa có nhiều. Gọi là xe máy, vì lần đầu tiên vào khoảng 1908-1909 dân chúng Saigon ngạc nhiên trông thấy một chiếc xe mảnh khảnh, không có ngựa kéo, không có người đẩy, chỉ có hai bánh bánh bằng cao su đặc mà người ngồi trên xe đạp chạy vo vo. Các nhả thi sĩ thời bấy giờ thấy vậy liền đặt tên cho nó là " con ngựa sắt ", danh từ mà ngày nay thỉnh thoảng còn nhiều người dùng khôi hài.
Xe máy năm 1910 là loại xe sang trọng đắt tiền, của các hạng thanh niên giầu có, phong lưu. Một cậu công tử đạp chiếc xe máy đi ngang qua chợ Bến Thành, bai nhiêu người đứng ngó, thèm thuồng, ngơ ngác. Cậu ngừng xe nơi " bồn binh " ( cũng gọi là bồn kèn ), người ta xúm lại coi với cặp mắt tò mò, trầm trồ khen ngợi. Xe hơi ( ô tô ) thì là một sản phẩm bí mât của máy móc tân kỳ, tuyệt xảo. Năm 1910 cả thành phố Saigon mới có 5 chiếc xe hơi của các "quan Tây ". Năm 1920, được 100 chiếc. " Quan Thống Soái Nam Kỳ " từ trong dinh bước ra sân, lên ngồi chiếc xe hiệu Peugeot, một người lính An Nam lật đật cầm " ma-ni-ven" đút vô đầu máy, khom lưng quây ba bốn vòng liên tiếp. Máy nổ ầm ầm xịt khói ra sau đít. Bác lính sốp phơ bóp cái kèn đồng kêu "toe ! toe ! " rồi chiếc xe có cặp mắt kiếng tròn vo phía trước, lù lù chạy tới. Người đi đường lo tránh ra hai bên nhưng bao nhiêu chó, heo, gà, vịt, đi lang thang trên đường Saigon, bị xe hơi cán chết ! Hôm sau, vài tờ báo tây ở Saigon đăng tai nạn ấy trên trang nhất, hai cột.
Xe kéo bánh sắt à bánh cao su đặc mới bắt đầu xuất hiện trong lúc này, do một hảng doanh nghiệp của nước Pháp chế tạo ra.
Đại đa số dân chúng đi xe ngựa, cũng gọi là "xe thổ mộ " bánh sắt, người Pháp gọi là xe hộp quẹt ( boite d' allumettes ) hoặc là tac-à-tac. Các hạng thượng lưu và trung lưu đi xe song mã hoặc xe kiếng, sang hơn xe thổ mộ.
Đồng hồ chưa được thông dụng, nhất là đồng hồ đeo tay. Mới có một số ít các ông, các thầy, và các người giàu sang có đồng hồ trái quít ( montre ) bỏ vào túi áo. Thanh niên chưa được hân hạnh dùng các món quý giá ấy.
Khoảng năm 1920-25, trong số 100 thanh niên, An-nam chỉ có độ một vài người có đồng hồ mà thôi. Nhưng thanh niên Saigon, và nói chung cả Nam kỳ đã cúp tóc sớm hơn thanh niên Trung, Bắc. Khoảng năm 1920, có thể nói rằng hầu hết thanh niên Nam kỳ đã cùp tóc rồi. Trong lúc ấy ở Trung kỳ còn đang lưu hành một câu ca dao bẩn thỉu chế nhạo và "chửi " những chàng trai trẻ bắt đầu hớt tóc :
Cái đầu trọc lóc bình vôi
Tao ngồi tao ỉa, mày ngồi mày ăn.
Cái "đầu trọc lóc bình vôi" vì lúc bấy giờ các học sinh trường Nhà Nước thường hớt tóc theo kiểu "carré " trọc hết hao phần ba cái đầu, chỉ còn để một mái tóc ngắn vuông vức, ở phía trước.
Cùng lứa và "cùng làm việc nhà nước" như chàng Ký Thanh ở Trung Kỳ, các thầy thanh niên làm việc ờ các sở tại Saigon, Lục tỉnh, thường mặc áo xuyến đen dài không quá đầu gối, quần lụa bông, mang giầy "ma mị" (loại giầy của khách trú Chợ Lớn, cũng như giầy Hạ ở Trung - Bắc, nhưng đế lót lông đuôi ngựa), quấn khăn nhiễu đen, tay cầm dù đen.
Một số khá đông các công chức lương tháng 6 đồng hoăc 4 đồng, đã đua nhau diện âu phục : "áo bành tô " (Paletot 0 theo kiểu áo thuộc địa tây, bằng vải bố trắng, cổ đứng, một hàng nút lớn bằng xà cừ kết ở giữa, đội mũ trắng, mang dép da. Các bậc " ông " như commis, thì mang giầy tây do từ bên Tây gởi sang với giá đắt, thường thường là loại giầy bottine da đen, cao cổ.
Hầu hết thanh niên học sinh đều mặc áo quần bà ba, đi chưn không, hoặc đi dép da.
Học sinh các trường lớn của nhà nước, Chasseloup Laubat, hoặc trường công giáo, như Adran, mặc âu phục do nhà trường sắm cho, mỗi cậu ba bộ.
Phụ nữ bình dân và trung lưu, các lớp nữ sinh, cũng mặc quen đồ bà ba. Chỉ có các bà nhà giàu sang mới mặc áo hàng dài, và đeo vòng xuyến, chuổi vàng, đầy tay đầy cổ. Mãi đến khoảng 1930-35, đa số nữ sinh 19-20 tuổi ở Saigon và Lục tỉnh đi học, hoặc đi dạo chơi ngoài phố, đi xem hát, vẫn còn mặc áo bà ba che dù, mang quốc rất tự nhiên.
Sự giao thiệp của phụ nữ Nam kỳ với người Pháp được tự do hơn phụ nữ Trung kỳ và Bắc kỳ. Các gia đình gọi là thượng lưu ở Saigon và Lục tỉnh tự cho là hân hạnh được gả con gái cho tây, và đồng thời cũng có rất nhiều gia đình trong giới " thượng lưu trí thức " An Nam nhập tịch vào dân Pháp.
Trái lại, ở Trung và Bắc, con gái Việt Nam lấy chồng Tây bị coi như là một cái nhục, dù là ở các giới quan lại triệt để thân Pháp. Danh từ "me Tây " ở Bắc và Trung có ý nghĩa xấu xa, khinh bỉ, không thể áp dụng cho các bà vợ tây ở Saigon vì không đúng với hoàn cảnh thực tế, trong suốt thời kỳ Pháp đô hộ.
Hơi khác với thanh niên nam nữ ở Nam Kỳ, thanh niên ở Bắc và Trung còn chịu rất nhiều ảnh hưởng của Khổng giáo. Học sinh thiếu niên từ lớp Đồng Ấu, đã mặc áo dài đi học, con trai cũng như con gái, bất luận giàu hay nghèo. Đối với các thầy giáo, các cô giáo, học trò rất lễ phép, sợ thầy nếu thầy nghiêm khắc, quý mến và quyến luyến thầy nếu thầy hiền lành. Tại các làng, các phủ, huyện, các tỉnh, gặp những ngày kỵ, giỗ, thường thường cha mẹ học trò hay mời thầy giáo "ăn giỗ " để tỏ tình kính mến.
Đến ngày Tết, học trò các lớp lớn, mỗi lớp vui vẻ tự động hùn tiền với nhau mua các món lễ vật, trà, rượu, đường, đậu xanh, hột gà, nếp, bưng đến nhà riêng của thầy để "Tết " thầy và đọc chúc từ tạ ơn thầy đã hết lòng dạy dỗ quanh năm. Thầy giáo cũng cám ơn học trò, và tặng quà bánh, với sự ân cần niềm nở. Tình quyến luyến chân thật giữa thầy trò vô cùng cảm động.
Cho đến đổi học trò ở các lớp Cao đẳng tiểu học ( trung học ) đến ngày " tết Tây ", cũng vui vẻ kéo đến từng đoàn đông đảo tại nhà riêng các giáo sư Pháp mà họ quý mến, để chúc mừng năm mới. Dĩ nhiên, đối với các giáo sư hung dữ, kieucăng, và các giáo sư Pháp hay c" chửi người An Nam ", nói xấu nước Việt Nam, thì học trò tức giận và oán ghét, không bao giờ bước chân tới nhà. Hoặc đau nằm nhà thương họ cũng không bao giờ đi thăm.
Thanh niên Hà Nội, từ 1900 đến 1925, còn chịu ảnh hưởng Khổng giáo rất nhiều.
Trừ ra học sinh phải cắt tóc theo sự bắt buộc của nhà trường, còn số đông các giới khác, nông nghiệp, thủ công, thương mãi v.v... Vẫn chưa muốn cắt tóc, vì để tóc là tượng trưng cho lòng hiếu thảo với Cha Mẹ. Ngay trong đám trí thức thời bấy giờ có ông Nguyễn Văn Tố, phó giám đốc viện bác cổ Viễn Đông, một nhà Nho giả uyên thâm cả Hán học lẫn Tây học, vẫn giữ cái búi tóc, mãi cho đến năm 1939, bị các báo chế nhạo quá ông mới đành lòng cắt bỏ. Cắt bỏ, nhưng ông vẫn không hết thương tiếc nó.
Nhiều nhà trí thức tây học tuy đã cắt bỏ cái búi tóc, và sống theo nếp sống mới, nhưng vẫn nhất định không chịu mặc "đồ Tây" và giữ mãi quốc phục suốt đời họ, như các ông Nguyễn văn Tố, Phạm Quỳnh, Nguyễn đổ Mục, Nguyễn triệu Luật, Nguyễn văn Ngọc, Nguyễn khắc Hiếu, v.v... Và một số đông các thầy giáo ở Trung và Bắc việt mãi đến năm 1945.
Trong các lớp thanh niên học sinh ở Trung kỳ và Bắc kỳ đại đa số còn mặc áo dài, quần vải quyến, đội mũ, mang quốc cho đến năm 1925, sau khi cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh ở Hải ngoại về nước. Nhất là sau các phong trào bãi khóa rầm rộ khắp các trường trung học trong khoảng 1925-1927 do trào lưu cách mạng bồng bột nổi dậy trong các lớp thanh niên học sinh ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định,Vinh, Qui Nhơn, Huế.
Huế, nơi đế đô phong kiến nhất và thủ cựu nhất Việt Nam, lại chính là trung tâm điểm của các phong trào cách mạng sôi nổi nhất của thanh niên.
Trần anh Tuấn, cậu học trò con nít từ tỉnh ra học trường Quốc Học Huế, niên khóa 1915-16, mấy tháng đầu còn ngơ ngác giữa cảnh hoa lệ hùng vĩ của đế đô, không nhè rơi nhằm vào một địa điểm bí mật nhất của lịch sử. Vị chúa thượng, ngự trị trên đất này, chính là một chàng thanh niên mảnh khảnh chỉ hơn Tuấn 4 tuổi, là DUY-TÂN hoàng đế.
Ông chủ chiếc ghe bầu đưa Tuấn từ Thu Xà ra Hội An, có lòng thương mến Tuấn và viết thư gửi gấm Tuấn cho thầy thông Vinh, một người cháu gọi ông bằng cậu, làm việc ở ga xe lửa Huế.
Sự thực, với ông chủ ghe có đứa con gái 10 tuổi, vẫn đi theo ghe với. Trông thấy Tuấn là cậu học trò tuy con nhà nghèo mặt mũi khôi ngô, tính nết hiền lành, mới 12 tuổi mà học giỏi, chỉ học mấy năm nữa là đỗ đạt thành tài. Ông mong sẽ gả con gái ông cho Tuấn sau này. Ông cho Tuấn tiền và quần áo và viết một bức thư bằng chữ Nho dăn Tuấn ra đến Ga xe lửa thì tìm thầy Thông Vinh ở tại Ga trao thư cho thầy.
Vì lời giới thiệu ấy mà thầy Thông Vinh ân cần đón tiếp Tuấn và đưa Tuấn về ở trọ nhà thầy, tại Bến Ngự, gần Ga. Tuấn có học bổng của ông Công Sứ tỉnh nhà đáng lẽ được ở nội trú, nhưng thầy Thông Vinh xin với ông Đốc học cho Tuấn ở nhà thầy để được gần gụi săn sóc cậu học trò còn niên thiếu, lại xa nhà, xa cha mẹ.
Tuấn ở nhà thầy Vinh ngày hai buổi đi bộ đến trường Quốc học, cách đấy không xa. Những ngày chủ nhật, nghỉ học, Tuấn được thầy Vinh cho nghe nhiều chuyện rất hay ở Huế, nhất là những chuyện thông minh phi thường của Vua Duy Tân 16 tuổi. Thây Vinh, cũng như hầu hết những người ở Huế, đều kính phục Vua Duy Tân như một bậc thần đồng, lại đăng ngôi Thiên tử. Mỗi lần nói chuyện là thầy thích nói chuyện vua Duy Tân, những mẩu chuyện lặt vặt trong thâm cung của Hoàng Đế, không biết do ai lén lút truyền khẩu ra ngoài, àm hầu hết người ngoài đều biết rõ, nhất là trong đám học sinh. Tất cả thanh niên ở Huế, hồi đó, đều khâm phục vị Hoàng đế trẻ tuổi, vị Hoàng đế của thanh niên.
Nghe thét chuyện vua Duy Tân, rồi cậu học sinh Trần anh Tuấn đâm ra mê vua Duy Tân, ngày đêm cứ ao ước làm sao trông thấy long nhan của Ngài....
Một đêm vào khoảng 7 giờ, cung điện vua Duy Tân và tất cả Thành Nội Huế đang thắp đèn điện sáng choang, bổng nhiên bị chìm trong bóng tối đen mò. Các ông Hoàng bà Chúa trong Cung, Thượng thơ các Bộ, binh lính khố vàng, khố xanh đều hoảng hốt, lật đật thi hành những biện pháp đề phòng chuyện bất trắc. Ngoài thành phố dân chúng xôn xao lo ngại mhưn chỉ một lúc thôi, rồi khoảng 8 giờ, đèn điện trong Nội lại bật lên sáng trưng như mọi đêm. Ai nấy đều vui mừng, yên ổn. Hai hôm sau, dư luận trong thành phố đồn đải về vụ đèn điện tắt như sau đây. Trong Thành Nội có một nhà máy điện nhỏ và riêng biệt để lấy điện thắp riêng trong cung cấm và hoàng thành. Nhà máy điện do kỹ sư Pháp trông nom, tên là Paul Eberhart, ông này cũng là thầy dạy Pháp văn và cách trí cho Vua Duy Tân. Vua Duy Tân lúc bấy giờ chỉ có 16 tuổi, mà tỏ ra một chàng thanh niên rấtham học, và một trí óc thông minh phi thường, lại ưa chơi nghịch.
Bảy giờ tối hôm ấy, ông Eberhart đã về nhà. Vua Duy Tân ngự xuống nhà máy đèn xem chơi, rồi thừa lúc không ai để ý, Ngài lén lấy kềm tháo một chiếc bù-lon nho nhỏ trong guồng máy, và bỏ nó vào một thùng nước kê gần đấy. Ngài làm công việc " phá hoại " ấy rất nhẹ nhàng và mau lẹ, vài ba người lính gác và thợ thuyền không ai trông thấy. Bổng dưng máy điện ngưng chạy và đèn điện tắt hết. Vua Duy Tân cười tủm tỉm thong thả trở về Cung. Ngài truyền gọi ông Eberhart đền gấp, để thử tài ông này một phen. Viên kỷ sư Pháp, cử nhân khoa học, vừa là thẩy học của Ngài, cuống quít, lo sợ, không hiều vì sao máy điện trong hoàng thành đang chạy ngon trớn bổng dưng lại hư.
Vua Duy Tân bảo : "Ông phải sửa máy gấp rút lên nhé ! Đừng để cung điện của Trẩm không có ánh sáng như thế này!" Ông Eberhart chạy xuống nhà máy điện, cầm đèn bạch lạp đi rọi xem hết các máy móc. Ông rất thắc mắc không hiểu nguyên do vì sao máy không chạy. Ông lui cui gần một tiếng đồng hồ, xem xét từng bộ phận không tìm ra máy hư chổ nào. Bổng nghe tiếng Vua Duy-Tân đến. Bốn tên lính cận vệ cầm bốn đèn lồng theo hầu Ngài. Vị Hoàng đế thiếu niên hỏi : "Ông Eberhart, ông không làm sao cho máy chạy được ư ?"...Giáo sư lính quýnh đáp : "Tâu Bệ Hạ...tôi chưa tìm ra...chổ máy hỏng." Vua Duy-Tân mỉm cười : "Ông cho phép Trẩm tìm giúp với ông nhé ?" Giáo sư Eberhart kính cẩn kêu lên : "Ơ, tâu bệ hạ, ngài sẽ bị dầu mỡ dính nhớp tay Ngài..." "Không hề chi" vua Duy-Tân đáp. Thế rồi, trước cặp mắt kinh ngạc của ông giáo sư cử nhân khoa học, cậu học trò hoàng đế 16 tuổi thò tay vào thùng nước, lấy ra một cái bù-lon, đem gắn vào buồng máy, lấy kềm vặn chặt lại. Ngài tủm tỉm cười : "Trẩm tưởng bây giờ máy có thể chạy được rồi." Quả nhiên máy chạy... Và đèn điện sáng rực trở lại.
Giai thoại trên kia, có chổ đáng ngờ, thực hư thế nào chúng ta không thể nào minh xác được.Nhưng chắc chắn là đúng một phần nào, vì hai hôm sau đêm đèn điện vụt tắt trong dân chúng, khắp kinh đô Huế ai mà không biết, và không ai là không tin.
Trần anh Tuấn ở trường Quốc học đã được các bạn cùng lớp kể chuyện ấy trong giờ chơi ngoài sân trường, về nhà lại được thầy thông Vinh cũng thuật lại đầu đuôi đúng y như thế, và còn...hay hơn thế nữa. Thầy kết luận : Vua Duy-Tân thông minh lạ thường. Vua Duy-Tân học một biết mười, Ngài thông hiểu cả máy điện, Ngài hiểu còn hơn Tây nữa ! Vua Duy-Tân có kém gì Tây đâu !
Trần anh Tuấn lại lấy ra một quyển vở đưa thầy thông Vinh xem. Lần này, chính tiấn hãnh diện là đã chép được một bài thơ bằng chữ Pháp, mà một thầy trợ giáo ở lớp Nhất có cho học trò học, bảo tác giả chính là Vua Duy-Tân.
Bài thơ nhan đề :
"Nocturne, sur la Rivière des Parfums". Có thể dịch là Hương Giang dạ khúc.
Bài thơ có 20 câu, chép vừa một trang vở, tuyệt hay, tuyệt đẹp, đọc lên nghe rất du dương, rất buồn, thích hợp với tâm hồn một thanh niên mơ mộng ở xứ Huế.
Thầy Vinh và cậu Trần anh Tuấn cùng nhau ngâm nga nhịp nhàng say sưa :
La barque obéit, endormie
Aux coups réguliers du rameur, Mon âme tressaille, meurtrie Au coup de la vie dans mon coeur, Et mon âme vogue, alanguie Au rythme alenti de mon coeur, Et la barque vogue, alentie Au rythme alangui du rameur
( Etc.. )
Dịch :
Thuyền to thiu thiu ngủ, lênh đênh
Theo nhịp mái chèo bơi êm ái Tâm hồn ta rên rỉ, buồn tênh, Theo cơn sóng trần duyên tê tái Hồn ta bơi lướt qua, buồn tênh Trên lớp sóng trần, duyên tê tái Thuyền ta bơi lướt qua, lênh đênh Theo nhịp mái chèo bơi êm ái. ..........v.v...
Bài thơ diểm tuyệt đó, có phải thật của vua Duy-Tân làm ra không ? 16 tuổi, tâm hồn của nhà vua đã tế nhị đến thế ư ? 16 tuổi nhà vua đã giỏi Pháp văn đến thế ư ?
Tác giả bài thơ chỉ ký có ba mẫu tự F.G.H. Nhưng hầu hết các thầy trợ giáo ở trường Quốc Học Huế, và các thầy làm việc các sở nhà nước đều đồng thanh nói F.G.H chính là vua Duy-Tân. Ai nghi ngờ là không phải của vua Duy-Tân thì các thầy tức lắm, nhất định cãi lại cho kỳ được. Bởi vì vua Duy-Tân không phải là môt thanh niên tầm thường như các thanh niên khác. Ngài là một vì Thiên Tử, Ngài là một vị Thần Thánh. Ngài là khí thiêng nung đúc cả giòng dõi Tiên Rồng.
Trần anh Tuấn, cậu thiếu niên 12 tuổi, năm 1915, được may mắn học tiếng Pháp từ thuở bé, đã bắt đầu ưa chuộng văn chương Pháp, thích lịch sử Pháp, phục khoa học Pháp nhưng sống giữa cố đô Huế trong không khí sùng bái vua Duy Tân, một vị Hoàng Đế thanh niên chỉ lớn hơn cậu 4 tuổi, là cậu nhiệt liệt hoan hô vua Duy-Tân, mê vua Duy-Tân, chỉ thích nghe chuyện và nói chuyện về vua Duy-Tân...cũng như hầu hết thanh niên lúc bấy giờ, nhất là ở Trung Kỳ...Cho đến tháng năm 1916, sắp sửa được nghỉ hè thì ngay kình đô Huế xẩy ra vụ vua Duy-Tân bỏ cung điện một đêm tối trời, thoát ly ra ngoại thành để chỉ huy cuộc khởi nghĩa đánh Tây. Trần anh Tuấn, cũng như toàn thể thanh niên học sinh trường Quốc học nghe tin ấy như một tiếng sét đánh bên tai.
Mấy ngày đầu, người Pháp ở tại Huế muốn dấu kín vụ này không cho dân chúng trong thành phố và học sinh biết. Tuy số lính khố xanh và lính sơn đá ( lính sơn đá là soldat, lính Tây, phân biệt với lính Tập -khố xanh - của An Nam ) được tăng cường canh gác nhiều nơi, nhưng cuộc sống hàng ngày của đế đô Huế vẫn không thay đổi, như không có gì xảy ra.Học trò vẫn đi học, và đến trường các vị giáo sư Pháp cũng như các thầy trợ giáo An Nam, vẫn dạy học như thường lệ, không ai nói gì chạm tới " quốc sự ".
Nhưng ngoài các giờ học, sau khi mãn lớp học, học trò về nhà lại được người nhà hoặc bà con hàng xóm, thầm thì về việc vua Duy-Tân khởi nghĩa đã bị tây bắt, giam ở đồn Mang Cá.
Thầy thông Vinh, trong lúc ngồi ăn cơm với Trần anh Tuấn trên bộ ván ngựa tong nhà, lặng lẽ trở đầu đũa viết trên chiếu " Cậu có nghe gì lạ không ? " Tuấn cũng trở đầu đũa viết đáp :" Dạ có ". Chỉ có thế thôi, rồi cả hai người ngó ra ngoài đườn im lặng. Tự hôm đó, không những trong nhà thầy Vinh mà cả thành phố Huế không còn ai dám nói đến những giai thoại về vua Duy-Tân nữa. Cho đến bài thơ chữ Pháp Nocturne ( Hương Giang Dạ Khúc ) mà ai cũng nói là của vua Duy-Tân, bài thơ hoàn toàn mơ mộng, cũng không còn ai dám ngâm nga nữa.
Một hôm, gần ngày bãi trường nghỉ hè, chương trình niên khoá đã dạy hết rồi, một giáo sư Pháp lớp đệ Nhất niên của Tuấn lần đầu tiên đem vụ vua Duy-Tân ra nói cho học trò nghe. Ông mạt sát vị hoàng đế cách mạng, và chửi rủa Ngài :" Thằng con nít ấy nó tự cho mình là một Đại Hoàng Đế ! Nó dám chống lại nước Pháp, thì đấy, bây giờ nó đi ở tù ! " Trần anh Tuấn hầm hầm nét mặt, ngồi nghe, tức giận lắm. Đến giờ ra chơi, giáo sư và học sinh ra sân. Tuấn lén ở lại trong lớp, lấy phấn viết trên bảng đen hai câu thơ của Corneille trong kịch La Cid mà cả lớp đã học :
Je suis jeune, il est vrai, mais aux âmes bien nées,
La valeur n'attend pas le nombre des années.
Tuổi ta trẻ nhưng hồn ta khảng khái
Giá trị người không đợi phải nhiều năm !
Ở dưới ký : " Empereur Duy Tân ( Hoàng Đế Duy-Tân )
Hết giờ ra chơi, học trò vào lớp đông đủ. Viên giáo sư ban nảy cũng trở vào bàn của ông. Nhưng ơng đỏ mặt, giận dử, đọc hai câu thơ trên bảng đen, rồi hỏi :
- Ai viết đây !
Trần anh Tuấn ngồi bàn dưới, can đảm giơ ngón tay lên. Giáo sư hằn học nhìn Tuấn :
- Mầy ngu như con lừa, mầy học trong sách nào đó rằng hai câu thơ kia của vua Duy-Tân?
Tuấn làm thinh. Viên giáo sư mắng tiếp :
- Tu es un mauvais esprit....Tu es partisan de Duy-Tân ? Attention à toi !
( Mầy là một đầu óc xấu xa...Mầy theo phe đảng của Duy-Tân hả ? Mầy liệu hồn nhé ! )
Cả lớp im lặng. Giáo sư Dubois đút tay trong túi quần đi qua đi lại trên kệ gỗ trước bảng đen. Ông đứng lại đột ngột, trừng mắt ngó Tuấn :
- Tao đi " xi-nha-lê" với ông Đốc học.
Ông chạy vụt ra cửa.
Trong giờ Sử ký Pháp, và là giờ chót của niên khoá 1915-16, chương trình học đã hết rồi, còn hai hôm nữa là nghỉ hè, học trò lớp đệ Nhất niên đang ngồi nghe một giáo sư Pháp kể chuyện Pháp-Đức chiến tranh... Ông công kích nước Đức thậm tệ, chửi nước Đức là một nước thù địch của cả Âu châu và thề giới, dân Đức là một giống người dã man, tàn bạo, cho nên các nước văn minh không gọi là Allemands, mà gọi là Boches, một danh từ khinh miệt, nguyền rủa... Rồi ông chê quân lính Boches đánh giặc thua Pháp, bị quân đội Pháp giết chết vô số. Ông khoe dân tộc Pháp anh hùng, ái quốc, nhưng vẫn bác ai, nhân đạo v.v...
Bổng có tiếng giày tây đi đọp đọp gần đến lớp Đệ Nhất niên... Giáo sư và cả học trò đã quen tiếng giầy của ông Đốc học Pháp. Đúng là của ông. Nét mặt hầm hầm, ông bước vào lớp. Giáo sư và toàn thể học trò đều đứng dậy. Ông bảo ngồi xuống. Bổng ông lớn tiếng hỏi :
- Đứa nào là Tra-an-Tu-an ?
Trần anh Tuấn tái mặt, đứng dậy. Ông đưa một ngón tay ngoắc Tuấn lên :
- Viens ! (lên đây)
Cả lớp im phăng phắc, ai nấy đều sợ run, cúi mặt xuống bàn, không dám ngó nét mặt sắc đá của ông Directeur ( Đốc học ). Tuấn rụt rè dưới bàn bước lên đứng trước mặt ông. Ông trợn trắng đôi mắt dữ tợn nhìn Tuấn :
- Mày là phe đảng của Duy Tân phải không ? Hả ?
Tuấn bối rối không kịp trả lời thì bị ông đưa bàn tay đầy lông đen xì đánh vào má Tuấn một cái tát nẩy lửa. Tuấn xiểng liểng muốn ngã.
Ông directeur chỉ vào mặt Tuấn :
- Mầy coi chừng ! Nếu mầy nghe lời dụ dỗ của tụi côn đồ, tao sẽ cho mầy đi ở nhà pha ( ở tù ), mầy nghe không ? Tao sẽ viết thư cho ông Công Sứ tỉnh mầy để báo cho ông ấy biết rằng mầy là một cái đầu óc xấu xa ( un mauvais esprit ( có tư tưởng chống Pháp).
Ông đuổi Trần anh Tuấn xuống chổ ngồi. Xong ông diễn thuyết một hồi cho cả lớp nghe :
- Tụi mầy biết Duy-Tân là ai không ? Nó là một thằng con nít ranh, một nhải con kém giáo dục. Nó nhờ nước Pháp đặt nó lên chiếc Ngai vàng của ông bà nó, thế mà nó không biết ơn nước Pháp, nó toan làm giặc đánh lại nước Pháp....
Ông đuổi Trần anh Tuấn xuống chổ ngồi. Xong ông diễn thuyết một hồi cho cả lớp nghe :
- Tụi mầy biết Duy-Tân là ai không ? Nó là một thằng con nít ranh, một nhải con kém giáo dục. Nó nhờ nước Pháp đặt nó lên chiếc Ngai vàng của ông bà nó, thế mà nó không biết ơn nước Pháp, nó toan làm giặc đánh lại nước Pháp....
Ông nói nhiều lắm, nhiều lắm. Ông chửi hoàng đế Duy-Tân rồi kể công ơn nước Pháp, ông khoe nước Pháp là nhân đạo, là bác ái, là bình đẵng là một trong những nước văn minh bực nhất trên hoàn cầu v.v...
Học trò ngồi im lặng, cúi đầu nghe. Vừa có trống trường đánh một hồi " Thùng thùng thùng thùng...", mãn buổi học sáng,11 giờ. Ông còn dừng lại, nói ráng thêm mấy câu hùng hổ, rồi bước ra đi. Cả lớp đứng dậy chào ông.
Ông giáo sư chỉ mặt Trần anh Tuấn :
- Mầy đã hiểu bài học ấy chưa ?
Tuấn làm thinh. Ra về, có năm bảy trò cùng lớp đi theo bên cạnh Tuấn, nói nhỏ bên tai như an ủi Tuấn một phần nào :
- Mầy đừng sợ. Ông directeur doạ mày đó, chứ ông không gửi thư cho ông Công sứ tỉnh mày đâu. Ông không bỏ tù mày đâu.
Nhưng đa số học sinh khác trong lớp Đệ Nhất Niên, bạn thân hay không thân của Tuấn, đều lánh xa, sợ đến nổi không dám đi gần Tuấn, sợ ông directeur để ý, sợ nói chuyện với Tuấn sẽ bị liên can, sợ sẽ đi ở tù, sợ, sợ.... không biết sợ cái gì nữa.
Xét ra tinh thần thanh niên Việt Nam - lấy thanh niên học sinh và trí thức làm điển hình, vì thời bấy giờ, chỉ có lớp thanh niên học sinh và trí thức là đáng chú ý hơn cả, - thì có thể chia làm ba hạng, ở Trung Kỳ, cũng như ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ.
Một hạng, thiểu số như Trần anh Tuấn, cũng học chữ Pháp, hấp thụ say mê văn hoá Pháp, khâm phục văn minh khoa học rất kỳ tài của Pháp, nhưng lòng ham mến và kính phục ấy không bao giờ đè át được tinh thần bất khuất truyền thống của giống nòi. Tuấn, con trai một anh dân nghèo, làm thợ mộc, được theo đòi văn hoá Pháp, nói tiếng Tây đã thông thạo, viết chữ Tây đã trôi chảy, đọc sách Tây đã nghiền ngấm say sưa, thế mà chỉ một hình ảnh của vua Duy-Tân đã in sâu vào đầu óc, chí khí quật cường của vị hoàng đế còn nhỏ tuổi, đủ gợi dậy truyền thống Dân Tộc trong dòng máu, trong tư tưởng, thế cũng đủ thấy rằng tinh thần dân tộc là yếu tố bất diệt của Lịch sử, bất cứ ở thời đại nào.
Nhưng trong thời kỳ người Pháp mới đô hộ xứ ta, nói rõ hơn là từ năm 1900 đến 1924-25, hạng thanh niên ái quốc có tinh thần dân tộc, học sinh như Trần anh Tuấn, công chức như thầy thông Vinh ở sở Hoả Xa, hãy còn ít lắm, ít lắm... Trái lại, đông nhất là hạng thanh niên ham danh vọng, ham chức tước, thích phẫm hàm, theo Tây, lạy Tây, bợ đỡ Tây, " liếm gót giầy cho Tây ", suy tôn Tây là bậc " thầy Đại Pháp ", là bậc "Quí Quan ", " Quí Mẫu Quốc " -- Nước Mẹ -- Hoặc là hạng thanh niên nhút nhát, sợ chuyện " Quốc Sự ", sợ bỏ tù, chỉ lo sống yên thân, ngày hai buổi đi học hay " làm việc nhà nước " sáng xách ô đi, tối xách về. Hai hạng thanh niên trên chiếm đại đa số trong nhân dân.
Cho nên, vụ vua DuyTân hồi tháng 5 năm 1916, ngay thời bấy giờ không có một tiếng vang sâu rộng. Cũng như các vụ Phan đình Phùng, Hàm Nghi v.v.... ngay sau thời gian đã trôi qua. Lịch sử đã lắng xuống, các nhà viết sử mới bắt đầu tham khảo biên chép, chúng ta mới đọc lại được những đoạn sử oanh liệt trước đây năm sáu chục năm. Chờ ngay hồi đó, lúc xảy ra các vụ quan trọng của Lịch Sử nào ai dám viết công khai ? Dám in thành sách ? Dám nói ? Dám bàn tán, phê bình ? Tất cả đều ngậm câm, kín mồm kín miệng, nào ai dám hỡ môi ? Từ trên xuống dưới, từ Triều Đình đến Hương Thôn, đều im lặng. Không khác gì dưới thời Neron của La Mã, một nhà thơ chỉ thở ra ba tiếng :" Roma Vasta Silentio ! " ( La Mã mênh mông im lặng ).Họ sợ gì dữ vậy ?Thì đây, vua Duy-Tân bị tây bắt, bị giam trong đồn Mang Cá, rồi bị đưa xuống tàu thủy của Pháp đi Ô Cấp ( Vũng Tàu ) để gặp vua Thành Thái đang bị giam lỏng tạm tại đây, rồi vua Duy-Tân bị đảy ra đảo La Réunion, thuộc đia Pháp ở gần Madagascar, Phi Châu.
Ông Vua mà còn bị Tây bắt, Tây đày đi xa, huống hồ là Dân. Họ sợ là sợ như thế đó. Đồng thời, như Lịch sử đã chép, các đảng viên trong phong trào Duy-Tân khởi nghĩa đều bị bắt, bị chém, bị đày đi Côn Lôn, bị tù ở các khám đường Quảng trị, Thừa thiên, Quảng nam, Quảng ngãi... Nhưng Lịch sử không chép tên tuổi một số thanh niên, hầu hết là các công chức, tư chức, các Thầy giáo các trường Pháp-Việt, bị liên can vào phong trào này. Một số đông bị tù, trong đó có thầy thông Vinh làm ga xe lửa Huế, chủ nhà trọ của Trần anh Tuấn. Hình như thầy có bí mật giao thiệp với một đảng viên quan trọng ở ngay Đế Đô.
Trần anh Tuấn về quê nghỉ hè, trong lòng không yên vì những biến cố kinh khủng ấy. Tuấn đi xe lửa vào Tu-Ranh, thuê xe kéo vào Faifoo rồi theo ghe bầu đi đường biển về tỉnh nhà. Tuấn lo ngại cho thân phận mình, không dám ghé thăm ông chủ chiếc ghe bầu ở Thu Xà, quen với thân phụ Tuấn, và có con gái muốn để dành gả cho Tuấn sau này. Xuống bến Thu Xà, công việc đầu tiên của Tuấn là kiếm đi mua một chiếc đòn gánh, cột nơi hai đầu hai gói lớn đựng quần áo và các sách vở học ở trường mà Tuấn đem hết về nhà để định học ôn lại trong ba tháng nghỉ hè.
Ngủ tạm tại nhà người chủ ghe vừa đưa Tuấn từ Hội an về, sáng hôm sau, trời vừa hừng đông. Tuấn đã thức dậy đặt đòn gánh lên vai, khởi hành đi chưn không về tỉnh. Cậu học trò đê nhất niên, 13 tuổi, học ở Huế về, gánh hai gói hành lý nặng trĩu, đi đủng đỉnh trên con đường cái quan mới đắp, quanh co, gồ ghề, xa mười mấy cây số dưới ánh nắng oi ả của mùa hè. Trên quan lộ từ Thu Xà lên tỉnh, xe kéo bánh sắt cũng không có. Không có một loại xe nào cả. Tất cả mọi người đều đi bộ, nhưng họ chỉ đi từng chặng, chỉ có một vài người " các chú " đi lên tỉnh buôn hàng mà thôi.
Trời chạng vạng, Trần anh Tuấn mới về tới nhà. Chú Ba thợ mộc đang ngồi ăn cơm với thiếm Ba, mẹ Tuấn và đứa em trai của Tuấn, 5 tuổi, ở trần trùng trục, mũi dãi lòng thòng, bổng thấy Tuân gánh hai gói hành lý trên vai đủng đỉnh bước vào sân. Đứa em trai thấy trước reo to lên :
- Ồ anh Hai về kìa, mẹ !
Tức thì thím Ba, chú Ba, và cả đứ nhỏ đều quăng đũa bỏ cơm, chạy lẹ ra sân đón Tuấn. Trong lúc chú Ba mừng rỡ đở gánh cho Tuấn, thì thím nhào vô ôm lấy thằng con trai, khóc nức nở...Thím mừng quýnh lên, chỉ biết ôm đầu Tuấn và khóc, không nói được một tiếng. Tuấn cảm đông quá cũng rưng rưng nước mắt. Đứa em trai 5 tuổi nắm vạt áo dài của Tuấn, âu yếm ngó Tuấn :
- Anh Hai ơi ! Anh Hai...Mẹ có để dành trái mít chín để anh về ăn.
Một vài người thân thuộc đã gặp Tuấn ban chiều gánh hành lý trên vai, uể oải đi vào tỉnh, họ đều mừng rỡ, săn đón hỏi han. Rồi truyền miệng từ người này qua người khác, chỉ trong buổi tối ấy cả hàng phố đều biết tin Trần anh Tuấn đi học ở Huế đã về. Gặp nhau ngoài đường, người ta bảo nhau :" Thằng hai Tuấn, con chú Ba, đã về nghỉ hè. Coi nó bây giờ trắng và mập quá chừng ! " Mấy ông già bà cả bảo : " Thằng Chuột con chú Ba thợ mộc đã về, đem về một mớ sách Tây ". Bà con cô bác kéo nhau đến thăm Tuấn, vui mừng náo nhiệt, chật ních căn nhà lá lụp xụp của chú Ba.
Vợ chồng chú Ba sung sướng quá, rối rít đi nấu nước, pha trà, têm trầu, bổ cau, mời khách. Dưới ánh sáng vàng hoe của ngọn đèn dầu phọng, chong trên chiếc bàn cũ kỹ kê giữa nhà, ai nấy đều chen chúc ngồi trên bộ ván và chõng tre chung quanh trò Tuấn, đua nhau hỏi những chuyện ở " Đế Đô ". Họ tưởng tượng Huế như một cảnh ở Thiên Đình, rực rỡ oai nghiêm, xinh đẹp như ở xứ thần tiên hoa lệ. Ngồi nghe Tuấn kể chuyện, say mê nhất là đám thanh thiếu niên trong tỉnh. Vì Trần anh Tuấn là người học trò đầu tiên và duy nhất ở tỉnh nhà được đi trường Quốc Học ở Huế. Đối với các thanh niên và dân chúng ở tỉnh lúc bấy giờ, được đi học ở Huế là một vinh hạnh có lẽ còn hãnh diện hơn là sinh viên ta ngày nay được đi du học bên Anh, bên Pháp.
Tuy nhiên, đại đa số thanh niên vẫn còn theo Nho học. Họ còn do dự chưa dám hớt tóc, và chỉ một số ít mới " bắt chước " khởi sự học chữ Quốc ngữ. Những người học chữ Tây dĩ nhiên là còn ít hơn nữa. Vã lại, họ làm sao quên được phong trào lộn xộn vì vụ cắt tóc đã làm bao nhiêu người bị bắt,, bị chém, bị tù, hồi năm Mậu Thân 1908 cách đó mới 8 năm ? Đó là một cuộc hoạt động chính trị mà người Việt gọi là " Giặt Đồng Bào ", tức là vụ " xin xâu "
Đề xướng và hăng hái cổ-võ phong trào lịch sử này là một nhóm thanh niên Nho học có tư tưởng trung quân ái quốc, trung thành với Hoàng Đế, và chống lại nước Pháp bảo hộ. Hầu hết nhóm thanh niên cách mạng này đều là những Nho sĩ đã thi đỗ Cử Nhân, Tú Tài. Người ta không được biết khẩu hiệu cách mạng từ đâu đưa ra, nhưng người ta thấy người vị tân khoa, đầu tóc cắt ngắn, chia hai nhóm đi rảo khắp cả làng. Một nhóm chuyên việc làm thơ và chép thơ trên những tấm giấy nhỏ đễ đi dán các nơi đình chùa, am miếu, hoặc các cửa ngõ tư gia. Toàn là những bài thơ cách mạng hô hào " đồng bào " rủ nhau, do đám thanh niên khoa cử nho học chỉ huy, đi ra tỉnh biểu tình xin bỏ các thứ xâu thuế, vì đồng bào nghèo khổ không có tiền nộp thuế.
Một nhóm khác cũng đi khắp cả làng, chuyên việc cầm kéo cắt tóc những đồng bào tình nguyện theo phong trào. Cuộc vận động cắt tóc trong toàn tỉnh này, đa số dân chúng không dám theo, nhung vẫn có kết quả lớn lao và kinh khủng. Một số " đồng bào " -- cũng có nghĩa là " đồng chí " -- hầu hết là thanh niên Nho học, tụ họp tại tỉnh, có trên năm trăm người, tóc cắt ngắn sát da đầu, ngồi chòm hỏm chật đường từ Cửa Tây tỉnh thành đến trước cổng Toà Sứ. Lúc bấy giờ vào khoãng giờ Thìn (8 giờ sáng ) một buổi sáng đẹp trời, ánh nắng chiếu trên hai hàng cây sầu-đâu và cây dầu-lai-tây ngả rợp bóng xuống đường. Hai vị quan An nam đầu tỉnh -- Tuần vũ và Án sát -- lật đật sang hội thương với " Quan Công Sứ ", để tìm cach đối phó. Một lát sau, Quan Sứ, Quan Phó Sứ, Quan Giám Binh ( chỉ huy đội lính khố xanh ) và mười người lính tập ( lính khố xanh ) cùng với hai vị quan An Nam ra trước cổng. Viên Công Sứ truyền lịnh cho lính nạp đạn sẵn sàng và chĩa mũi súng ngay vào đám dân biểu tình ngồi lặng lẽ. Viên Công Sứ bảo Quan Tuần hỏi :
- Các chú tụ hộp nơi đây để làm chi ?
Mấy người người ngồi hàng đầu dõng-dạc trả lời :
- Bẩm quan lớn, đồng bào nghèo đói không có tiền nộp thuế, xin quan lớn bẩm lại với quan Pháp-lang-sa tha bớt thuế cho đồng bào.
Viên Tuần vũ dịch lại tiếng Tây cho công sứ Pháp nghe. Người ta không biết quan An Nam dịch tiếng Tây có đúng hay không, nhung người thấy viên Công Sứ truyền lịnh cho lính khố xanh bắn ào đám biểu tình.
Một loạt súng nổ. Một số người ngã lăn ra chết, máu chảy lai láng. Tất cả những người còn sống đều hốt hoảng đứng dậy chạy tán loạn thoát ra ngoài Cửa Tây, bỏ lại trên đường gần ba chục xác chết. Quan An Nam còn muốn bảo lính đuổi theo bọn " đồng bào " và bắn nữa...bắn nữa...nhưng viên Công Sứ Pháp khoát tay, không cho. Sau đó mấy hôm, các quan Huyện, quan Phủ, được lính bắt đem nộp về tỉnh một số đông bào các ông Cử, ông Tú, và các đồng bào có đầu tóc ngắn. Hầu hết đều bị ở tù tai nhà lao tỉnh. Một số bị đày đi Côn Lôn. Một số đông khác nhờ vợ ở nhà bán ruộng đất đem tiền ra chuộc tội và lo lót các quan được khỏi tù.
Sự thực, đây chỉ là một cuộc biểu tình " xin xâu " của những " đồng bào " không có khí giới, không bạo động, nhưng quan An Nam gọi là " giặc đồng bào " và trong Sử do người Pháp viết cũng gọi là " Giặt cắt tóc " (Guerre des Tondeux ).
Biến cố xẩy ra từ năm Mậu Thân,1908, cách đấy đã 8 năm rồi. Nhưng đám thanh niên Nho học kế tiếp từ 1910 đến 1918 vẫn còn ghê sợ chuyện" cắt tóc bị tù " đến nổi họ vẫn không dám bắt chước bọn " học trò Nhà Nước " đã hớt tóc " carré " theo kiểu Tây.
Trần anh Tuấn, mới hồi nào là thằng Chuột để một chỏm tóc trên đầu, ở truồng cả ngày đi chơi rong ngoài dường phố, và sợ ông Tây bà Đầm như sợ cọp, mà nay đi học ở Huế và nghỉ hè, đem về một cái đầu tóc " cúp rẽ giữa " " văn minh " quá, mới lạ quá, được bà con trong tỉnh trầm trồ ngắm nghía...
Đám học trò của thầy Tú Phong, luôn luôn giữ đúng theo nề nếp nhà Nho, và trung thành với Khổng giáo. Nhưng ông Tú cũng đã bị bắt và bị tù, nên họ phải đi học một ông thầy khác, ông này nhát gan, không dám theo phe " đồng bào " mà cũng không muốn theo phe Tây. Học trò của ông, những thanh niên từ 11,12,đến 24,25 tuổi -- thường đến chơi với Tuấn, và cứ chê cái học của Tuấn không cao thâm như Khổng học. Nhưng, dù sao nghe Tuấn đọc bài récitation, thuộc lòng những bài thơ chữ Pháp và làm toán Géometrie, toán Algèbre, học bài Physique, Chimie, chưng bày những bản đồ châu Âu, châu Á, châu Mỹ vẽ đủ các màu, bà con cô bác và ngay trong đám học trò chữ Nho, vẫn có nhiều người thèm thuồng, và phục trò Tuấn "sát đất ". Tuấn hãnh diện một phần nào. Tuấn vui vẻ tự thấy mình tuy còn nhỏ tuổi nhưng đã đóng một vai trò khá đặc biệt trong đám thanh niên và được nhiều người trong tỉnh khen ngợi.
Nhưng Tuấn vẫn áy náy trong lòng. Tuấn rất lo ngại vụ ông Đốc trường Quốc Học hăm viết thư mét với ông Sứ ở tỉnh nhà về chuyện Tuấn bị tình nghi là theo đảng Vua Duy-Tân ở Huế. Tuấn thầm mong ông Sứ không biết gì về chuyện ấy để Tuấn được tiếp tục học ở Huế. Tuấn mới có 13 " tuổi Tây ", 14 " tuổi Ta ", hãy còn bé quá, cho nên có lúc bồng bột hăng hái, nhưng cũng có lúc lo sợ tù tội.
Theo lời nhiều người bà con khuyên bảo, Tuấn phải đến chào ông Công Sứ. Tuấn mặc áo dài bằng vải trang đầm, mang quốc đội mũ, đến toà Sứ một buồi sáng ngày thứ hai, sau khi về nhà được hơn nửa tháng. Tuấn nghỉ rằng đến đây chắc sẽ gặp thầy Ký Thanh, và sẽ truyện trò thích thú lắm. Tuấn sực nhớ chính mình đã dạy thầy Ký Thanh học ABC, hồi Thanh còn là Nho sĩ...chưa đọc được bức thư chữ Quốc ngữ của cô Ba Hợi... Nhưng bây giờ Thanh đã làm thầy Ký Toà Sứ, Tuấn còn là học trò, mặc dầu là học trò trường Quốc Học Huế. Vả lại, Thanh đã 23 tuổi, Tuấn mới có 14 tuổi, hãy còn con nít quá. Tuấn thấy mình hãy còn là thằng Chuột...Tuấn thập thò ngoài cổng Toà Sứ một lúc rồi bạo dạn bước vô. Trông thấy rõ thầy Ký Thanh đang ngồi bàn giấy làm việc. Tuấn cất mũ chào và tươi cười đến gần. Nhưng Tuân mắc cỡ và ngạc nhiên hết sức : thầy Ký Thanh trừng mắt ngó Tuấn, với nét mặt khinh khỉnh, không thèm chào lại, không hỏi một tiếng. Lạ hơn nữa là Thanh nguýt Tuấn một cái rồi đứng dậy quay lưng đến gõ cửa văn phòng " Quan Công Sứ " có vẻ bí mật...lạ lùng. Tuấn tần ngần đứng đấy một lúc thì Thanh từ trong phòng Quan Sứ mở cửa bước ra, đi thẳng tới Tuấn, nghiêm trang bảo :
- Trò Tuấn, trò về nghỉ hè mấy bửa rồi, sao bửa nay trò mới tới chào cụ Sứ ?
Tuấn hơi luýnh quýnh trả lời đại cho êm xuôi :
- Tôi mới về mấy bửa rày anh Thanh à.
Thanh trố mằt bảo :
- Kêu tôi bằng thầy Ký chứ không được kêu tôi bằng " anh ", nghe chưa ? Cụ lớn truyền lịnh trò phải vô hầu cụ lớn để cụ lớn hỏi, lần này trò đi ở tù !
Tuấn hồi hộp lo sợ, đi theo sau Tuấn, Tuấn tự hỏi thầm :
- Sao lại đi ở tù ? Có điều gì nguy hiểm dữ vậy ?
Đến cửa văn phòng trước khi đẩy cửa vào, Thanh đứng lại lấy ngón tay chỉ đôi quốc Tuấn, và truyền lịnh :
- Bỏ quốc ra! Vô hầu cụ lớn Sứ mà trò dám mang quốc à ?
Tuấn nghe lời, bỏ quốc đi chân không. Thanh lại chỉ cái mũ :
- Bỏ mũ xuống đất không được cầm trong tay.
Tuấn cũng nghe lời, đặt mũ xuống một bên cánh cửa gần xó tường.
Thanh lại cho lịnh :
- Trò đứng đây, chừng nào cụ Lớn Sứ cho phép vô mới được vô.
Tuấn làm thinh đứng yên một chỗ.
Thanh khẽ gõ cửa, Tuấn nghe rõ tiếng ông Sứ nói trong văn phòng :
- Fais-l'entrer ( cho nó vào )
Thanh khẽ mở cửa, và dặn Tuấn :
- Đi sau tôi, nghe không ?
Thanh mang giầy Hạ, nhưng đi nhón gót, sợ sệt,từng bước một. Tuấn đi theo sau, Thanh làm cho Tuấn hoảng sợ làm Tuấn cứ tưởng ông Sứ sẽ ăn thịt Tuấn, nếu không thì cũng sẽ đánh Tuấn mấy bạt tai nẩy lửa như ông Đốc học Huế, rồi gọi lính còng tay Tuấn, bắt Tuấn đem đi bỏ tù.
Bàn giấy ông Sứ kê gần cửa sổ sơn xanh, có ánh sáng vàng và các chậu hoa tươi nở rất đẹp. Ông Sứ đang soạn hồ sơ gì trên bàn, Tuấn mới đi vào đến giữa phòng, cách bàn giấy năm sáu bước nữa thì Thanh bảo Tuấn đứng lại. Tuấn hồi hộp quá đứng vòng tay trước ngực như sắp sửa chịu tội.
Nhưng ông Sứ ngước mặt ngó Tuấn và cười nói :
- Ah ! Le voìla, mon mouton...de...Panurge. Appoche-toi ! ( A, nó kìa ! con cừu của Panurge. Lại gần đây ! )
Tuấn khúm núm bước đến gần. Nhưng Tuấn rất không ngờ ông Sứ đưa tay ra :
- Bonjour, mon petit ! ( chào cậu bé của tôi )
Tuấn cúi đầu lễ phép đưa tay để bắt tay " ông Sứ " và lẩm bẩm tiếng Pháp :
- Bonjour, Monsieur le Résident, ! ( xin chào quan Sứ )
Thầy Ký Thanh thấy Tuấn được "cụ lớn " bắt tay chào, thầy càng tỏ vẻ thù ghét Tuấn lắm. Thầy hầm hầm nét mặt nhưng chỉ đứng vòng tay sau lưng " cụ lớn sứ " vì Tuấn có thể đối đáp bằng tiếng tây với ông Sứ, không cần phải thầy ký Thanh thông ngôn, Tuấn nói tiếng Pháp còn trôi chảy hơn Thanh nữa.
Với một giọng dịu dàng gần như thân thiết, ông Sứ hỏi Tuấn về sự học hành ở trường Quốc Học và các giáo sư như thế nào. Tuấn bình tỉnh trả lời từng câu, suông sẻ trong khi ông Sứ ngó hồ sơ trên bàn, và bảo Tuấn :
- Tao biết mầy học giỏi. Tao được ông Đốc học trường mầy gửi về tao các bản báo cáo tam cá nguyệt về các môn học của mầy trong năm. Tao bằng lòng lắm. Mầy xứng đáng với học bổng của tao cho. Nhưng có một điều tao rất không bằng lòng, là cuối niên học, mầy đã bị ông Đốc học cho nốt xấu trong học bạ... Theo công văn của ông Đốc vừa gởi cho tao thì mầy là một " đầu óc xấu ", mầy nghe lời người ta dụ dỗ theo đảng vua Duy-Tân...phải không ?
Nghe đến đây, Tuấn tái mặt, nhưng ông Sứ nhìn Tuấn với cặp mắt khoan hồng :
- Mầy dự vào chuyện đó làm chi thế, hả Trần anh Tuấn ? Mầy còn bé quá...Mầy phải chăm học. Mầy không thể bắt chước vua Duy-Tân được. Ông Đốc học cho tao biết về trường hợp của mầy, nên tiếp tục cho mầy học bổng, hay bắt bỏ tù mầy ? Nhưng tao thương mầy là con nít, vì mầy học giỏi. Và mầy là đứa học trò đầu tiên của tỉnh nầy được học trường Quốc Học. Tao muốn giữ danh dự cho tỉnh nhà. Vậy mầy phải hứa danh dự với tao rằng từ nay mầy đừng làm chuyện bậy bạ nữa thì tao không bỏ tù mầy, và tao tiếp tục cho mầy học bổng để mầy học cho đến thi đỗ bằng Thành Chung. Mầy có hứa với tao không ?
- Dạ, thưa quan lớn, con xin hứa.
- Chắc không ?
- Thưa chắc.
-Được rồi, nếu mầy không giữ lời hứa, thì không những mầy không được học nữa mà mầy còn sẽ bị...bỏ vào nhà pha !
Ông Sứ nói tiếp :
- Thôi bây giờ chúc mầy nghỉ hè vui vẻ, và nhất là không được dự vào những việc quốc sự. Mầy nghe không ?
- Dạ nghe.
Ông Sứ đưa tay bắt tay Tuấn. Tuấn cúi đầu lễ phép bắt tay từ giã ông tỉnh trưởng Pháp.
Thanh đưa Tuấn ra cửa, rồi khép cửa trở vào bàn giấy, ông Sứ bảo Thanh :
- Mầy thấy không ! thằng học trò trẻ tuổi ấy biết nghe những lời khuyên bảo khôn ngoan của tao. Sao hôm nọ mầy lại xin tao bỏ tù một đứa con nít ngây thơ hiền lành ?
- Bẩm cụ Sứ, nó là một đầu óc xấu xa. Nó dám chống lại nước Đại Pháp.
- Chưa chắc. Dù nó có đầu óc xấu xa như ông đốc trường Quốc Học đã phê trong học bạ và viết trong công văn, nó cũng có thể hối cải được nếu người ta biết khuyên răn nó. Như tao đã làm lúc nãy.
- Bẩm cụ Sứ, cha thằng Tuấn là chú thợ mộc dốt nát mà có con học ở Huế...Nó không đáng được học bổng của cụ lớn...
- Mầy ganh ghét với nó hả ? Thế sao mầy không đi Huế học như nó ? Cha mầy làm lý trưởng có nhiều tiền bạc cơ mà !
Ký Thanh ngậm câm. Ông Sứ cầm xấp hồ sơ của Trần anh Tuấn, bảo chàng đem cất lại trong tủ.
Tuấn ngồi bàn, coi theo sách Địa Dư bằng chữ Pháp, vẽ một bản đồ Ngũ đại châu, trên một tờ giấy tây lớn, rồi tô mầu. Một đám thanh niên Nho học năm sáu anh đứng chung quanh coi. Dụng cụ học sinh chưa có đâu bán nhiều, nhất là bút chì mầu mực mầu, chưa có. Tuấn mài củ nghệ làm màu vàng, hái một nắm lá ớt xanh đâm thật nhuyễn trong chén rồi nhỏ vào vài ba giọt nước lạnh để làm mầu xanh lục, lấy năm sáu bao nhang ngâm nước rồi vắt ra làm mầu đỏ. Tuấn đã biết trông mầu xanh và mầu đỏ làm mầu tím và mài son làm mầu gạch. Tuấn lấy bút nho tô lên bản đồ Thế giới có đủ châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ, châu Úc, thành ngũ đại dương rực rỡ năm mầu.
Nhiều người trông thấy đẹp, tuy không hiểu gì cả, nhưng cũng bảo Tuấn vẻ cho mổi người một bản, tô mầu, đề chữ Quốc ngữ, và họ ghi chữ Hán một bên, đem về nhà dán trên vách tường để coi chơi. Như một thầy giáo, trò Tuấn giảng cho mọi người nghe : trên hoàn cầu có năm châu, và nước " An Nam " ở về châu Á... Ai nấy nghe mê.
Mực viết, mà mọi người gọi là "mực tây " cũng rất hiếm. Chỉ có vài nhà hàng " các chú " bán nhưng giá rất mắc, và chỉ có mỗi một thứ mực tím mà thôi. Không hiểu tại sao mưc xanh và mực đỏ không có. Mực tím nước mỗi ve ( mỗi bình ) vuông vức và nhỏ, một bề độ ba phân, giá bán 3 tiền một ve, mực bột, (chưa có mực viên ) thì 1 tiền một gói nhỏ đủ hoà ra được một bình.
Nhà Tuấn nghèo, không có tiền mua mực, Tuấn đi dạo khắp trong tỉnh thành, xem những nhà nào có trồng bông bụt ( tiếng Bắc gọi là hoa dâm-bụt ), lén hái hoặc xin, đầy một thúng. Về nhà, Tuấn ngắt cuống, bỏ bông vào một nồi nước đun trên bếp lửa.
Mẹ Tuấn hỏi :
- Nấu bông bụt làm chi vậy con ?
- Dạ, thưa mẹ, con bắt chước học trò ở Huế nấu mực tím, khỏi tốn tiền mua mực tây.
Tội nghiệp Tuấn. Mùa nắng nực, buổi trưa oi ả mà Tuấn cứ phải ngồi chụm lửa, và cầm ống dang thổi mãi cho lửa cháy phừng phực để nước mau sôi. Tuấn mình mẩy ướt đẫm mồ hôi như tắm mà cứ ngồi lì bên bếp lửa, tay cầm đôi đũa xáo trộn không ngớt những cánh bông bụt cho chín đều, cho thật nhuyễn...Nước sôi sùng-sục, khói toả nghi ngút làm cay mắt Tuấn, nước mắt nước mũi chảy lòng thòng. Một lúc lâu, nước cạn còn độ một tô TUấn mới bằt nồi xuống, đem ra ngoài cửa có gió mát, ngồi chờ cho nước nguội. Tuấn lấy đũa vớt xác bông bụt bỏ đi, rồi nghiêng nồi nước đổ ra tô. Tuấn vui mừng, reo lên :
- Mẹ ơi, mẹ. Ra coi con nấu được mực rồi đây nè !
Thím Ba ở nhà trên đang gọt khoai lang, liền bỏ dao trong thúng chạy xuống cửa bếp để mà coi. Thím cũng vui sướng và ngạc nhiên thấy một tô mực tím, mầu tím-rịm đẹp quá ! Một hơi khói nhẹ còn bay lên từ tô mực phảng phất một mùi thơm. Tuấn cười bảo :
- Mẹ ơi, mầu tím này giống như màu áo của các cô gái Huế !
Thím Ba cười, nhổ một phẹt nước trầu ngoài sân rồi co ngón tay chọi trên đầu thằng con trai một cú, nói đùa với nó :
- M...C...mầy ! Coi chừng chớ làm như câu hát hò :" Học trò trong Quảng ra thi, thấy cô gái Huế mà đi không đành ", thì chết đó, không nghe con !
Tuấn tủm tỉm cười, đưa bàn tay lên xoa trên đầu chỗ mẹ mới cú chơi mà đau điếng. Rồi Tuấn bảo :
- Mẹ ợi, con gái Huế, họ mê con chớ con không mê họ đâu.
- Thiệt không !
- Dạ thiệt.
- Ừ, được đó. Con học sao cho đỗ Trạng Nguyên, Tiến Sĩ, rồi cưới con gái Vua. Chớ ở tỉnh mình đây, thằng Ký Thanh đỗ bằng ri-me lên làm được chức thầy Ký ở Toà Ông Sứ, rồi lấy cô Ba Hợi, con ông Bá Hộ, mà hai vợ chồng nó làm phách quá, nội cả tỉnh với làng phố này ai cũng sợ, mà ai cũng ghét ! Mầy cưới công chúa ở Huế về đây thì nó mới hết hồn.
Tuấn khẽ trút tô mực tím vào một chai không, độ một lít, còn dư một chút đủ rót vào bình mực nhỏ. Tuấn vừa làm vừa nói với mẹ :
- Mẹ muốn con cưới công chúa, thì con sẽ cưới con gái vua Duy-Tân.
Thím Ba hốt hoảng, liền bỏ nhỏ trong tai con :
- Con đừng nói tới vua Duy-Tân, bị bò tù chết cha !
Mẹ Tuấn trở lên nhà trên. Tuấn ngồi ngạch cửa bếp lặng lẽ nhìn mây gió, và nghĩ đến vụ Hoàng Đế Duy-Tân...Mặt Tuấn bổng xầm lại, Tuấn hãy còn nhỏ tuổi, thế mà đa cảm, đa sầu. Nhớ vua Duy-Tân bị bắt đi đày. Tuấn rưng rưng hai ngấn lệ...
Tuấn Chàng Trai Nước ViệtCHƯƠNG 31916
- Người Pháp mộ lính sang Pháp đánh giặc Đức.
- Áp-phích " Rồng Nam phun bạc " của Phạm Quỳnh - Một vụ ăn hối lộ đầu tiên của công chức làm việc cho Tây - Có người ăn hối lộ và người bị hối lộ đều làm tiệc ăn mừng - Ba chàng trai tráng tình nguyện đi lính qua Tây, kỳ Đệ Nhất Thế Chiến 1914-1918 - Ông Ách đi Tây về - Đồng tiền kẻm của Vua An Nam. Đồng xu và đồng bạc của Bảo Hộ Pháp - Lính " Phú lít " An Nam. (Cảnh sát)
Tuấn đang học lại bài, nằm trên chiếc chiếu trải ngoài vườn, bên gốc cây mít. Lá mít rụng đầy chung quanh, lá úa đỏ. Trời vừa chạng vạng. Một con chim chìa vôi bay đậu trên sân, nhẩy hai ba bước, đuôi dựng lên, y như chiếc chìa vôi cắm trong miệng bình vôi. Gió mát. Tuy là cảnh phố phường, ở ngay tỉnh lỵ, mhưng yên lặng, vì không có tiếng xe, ít có tiếng người, không ồn ào náo nhiệt. Bổng con chó Vện nằm cạnh chân Tuấn sủa lên mấy tiếng. Tuấn ngó ra cổng. Chú Thập Điều từ ngoài bước vào, vừa đi vừa hỏi to :
- Có cậu Khoá ở nhà hông ?
Tuấn ngồi dậy lên tiếng :
- Gì đó chú Thập ?
- Chú với dượng gì ! Làng mời cậu ra đình, coi dùm tờ giấy của cụ Lớn trên tỉnh gởi về, bằng chữ Quốc ngữ. Không ai đọc được hết trọi hết trơn...Thầy Xã nói hoạ may có trò Chuột hiểu được cái thứ chữ đó, chớ ai mà hiểu. Thầy Xã sai tui vô mời trò ra coi giùm, gấp gấp !
Thím Ba từ trong nhà, bước ra sân, hỏi :
- Gì đó chú Thập ? Sao hổng vô nhà uống nước, ăn trầu đã ?
- Dạ thôi, thím Ba...Có việc gấp, thầy Xã biểu mời cậu Chuột ra đình coi giùm cái tờ giấy gì đó của tỉnh gởi về. Một tời giấy in chữ Quốc ngữ thiệt lớn, có vẽ con Rồng...
Thím Ba gọi Tuấn :
- Con vô mặc áo dài, đi con.
- Dạ.
Đến đình làng, Tuấn đước mấy ông Hương chức niềm nở mời ngồi trên ghế tràng kỷ, và đưa " cậu Khoá " xem hai tờ giấy in to tướng. Một tờ in chữ quốc ngữ dầy đặc, có một tựa thật lớn và một giòng chữ Hán bên cạnh, nhan đề :
" Trung Kỳ Bảo Hộ công báo "
Một tờ in hình một con Rồng vàng phun những đồng bạc trắng, trên đầu bức vẽ có in hai giòng chữ quốc ngữ nét đậm màu đỏ :
" Rồng Nam phun bạc,
Đánh đuổi Đức tặc " ( hai câu này của Phạm Quỳnh ở Hà Nội đặt ra.)
Tuấn đọc to lên cho cả làng nghe. Tờ " Trung Kỳ Bảo Hộ công báo " là một tờ báo của Toà Khâm Sứ ở Huế gởi đi các tỉnh, tỉnh gởi về Huyện, Huyện gởi về các làng. Tờ báo đăng tin Nhà nước bảo hộ Pháp-lang-sa đang đánh giặc với Đức, tức là nước Phổ-lô-si ( phiên âm chữ Prusse, Đức phiên âm chữ Deutsch ). Đức là một nước " dã man, tàn bạo ", bị Pháp-lang-sa đánh thua liểng-xiểng, binh lính Đức chết vô số, có cả hàng ngàn, hàng vạn, v.v... Nhưng trận giặc còn lâu dài, cho nên " dân An Nam nhờ nước Phap-lang-sa bảo hộ, phải quyên tiền và đem binh lính sang Pháp để đánh lũ giặc Đức mọi rợ...v.v... Quyên tiền bạc bằng cách mua " Phiếu Quốc Trái ", nghĩa là dân bỏ tiền ra mua Phiếu quốc trái, cũng như cho Nhà Nước Bảo Hộ vay, mỗi năm tính lời vv... Bức vẽ " Rồng Nam phun bạc " cổ động cho phiếu quốc trái, con Rồng " An Nam " phun bạc ra như thế để " đánh đuổi giặc Đức. Lúc bấy giờ Đức chiếm cứ cả miền Đông nước Pháp, gồm hai tỉnh Alsace - Lorraine, và hăm doạ tiến vào kinh đô Paris.
Dân làng, bất luận giàu, nghèo, đều phải góp tiền để mua Phiếu Quốc Trái. Hơn nữa, làng phải mộ dân tình nguyện đi lính sang Pháp để " đánh đuổi giặc Đức ".
Sự thật, không có dân nào tình nguyện cả. Sau cùng làng xã phải bắt ép hai cậu thanh niên khoẻ mạnh, gọi là tráng đinh. Một người tên là Năm Xin, con Bà Trác goá chồng, nhà nghèo xác nghèo xơ. " không có miếng đất để cắm dùi ". Người nữa là chàng nho sĩ, học trò cũ của ông Tú Phong, bấy giờ thôi học, lo làm ruộng.
Hầu hết lớp " lính tình nguyện " nầy ở khắp xứ Trung Kỳ, cũng như ở Bắc Kỳ, Nam Kỳ đều là thanh niên nho học từ 21,22 đến 24,25 tuổi.
Phong trào mộ thanh niên đi tùng chinh sang " Mẫu Quốc " là một dịp cho các quan An Nam từ quan tỉnh xuống quan huyện, cho đến các ông hương, ông xã trong làng, đòi ăn hối lộ. Một số đông các ông này chơi ác, cứ nhè bắt bọn thanh niên trai tráng con nhà giàu, đi tùng chinh. Thế là các bậc cha mẹ phú hộ phải đem của tiền lo lót, cho con khỏi đi. Phải lo lót Xã một phần, lên lo lót Huyện một phần, rồi lo lót các cụ lớn trên tỉnh nữa. Về thực tế, phải nhìn nhận rằng các quan lại người Pháp không bao giờ ăn hối lộ trong vụ này, và họ hoàn toàn không biết một tí gì về cái thói hối lộ của quan An Nam.
Hối lộ gần như công khai. Nhà giàu đua nhau nhờ cậy chổ này chổ nọ, chạy chọt ông này ông kia, bán cả ruộng đất, nhất là con trai trưởng trong gia đình, khỏi bị bắt " tình nguyện " đi lính sang Pháp.
Thầy Ký Thanh nhờ làm thư ký Toà Sứ, cũng biết chụp cơ hội để làm giàu một vố lớn. Thầy biết trong xóm Cửa Bắc, có một ông nhà giàu, chủ một chiếc ghe bầu thường đậu ở bến Tàm Thương, và tháng nào cũng đi buôn nước mắm và muối ở miệt Phan Thiết. Ông này có ba con trai, mà người con trưởng đã có vợ, lại đỡ đần hết mọi việc gia đình cho ông, vì ông đã già yếu. Ký Thanh cho người mời ông đến nhà, để bảo với ông :
- Cụ Lớn Công Sứ biết ông có ba người con, nên cụ lớn biểu tôi làm giầy bắt cậu Hai đi lính sang Mẫu Quốc đánh giặc.
Chỉ một câu thế thôi. Thế là ông chủ ghe bầu thì-thầm, thì-thụt, khóc lóc năn nỉ thầy Ký, " tay chưn của cụ Sứ ". Suốt nửa tháng trời, hai cha con điều đình, vận động với thầy Ký. Rốt cuộc có kết quả mỹ-mãn : sẽ không có giấy của " cụ Sứ " bắt cậu Hai đi lính. Một buổi tối ông chủ ghe bầu và con trai của ông, khăn đen áo dài, bưng đến nhà thầy con gà mái tơ, một con gà chai rượu, một cặp trà, hai chục trứng vịt, một quả nếp, một trăm quan tiền, và một nén vàng !
Ký Thanh khoe với vợ --Ba Hợi phu nhân, -- vợ nhoẻn miệng cười duyên :
- Đó là Thầy làm ơn làm phước cho người ta. Người ta đền ơn Thầy như vầy là ít đó.
Hôm chủ nhật, hai vợ chồng làm tiệc mời các bạn đồng liêu trong Toà Sứ đến ăn một bửa no say, nói là ngày giổ ông Nội.
Hai cha con ông chủ ghe bầu hú hồn hú vía ! Cha khỏi bị lìa con, con khỏi bị xa nhà, xa vợ, cũng lật đật làm bửa tiệc cúng Ông Bà và cúng cô hồn. Làng xã được mời đến dự tiệc, được một bửa say tuý-luý. Rốt cuộc ai cũng vui vẻ cả ! Chỉ có ông Sứ - cụ Lớn Sứ - hoàn toàn không biết một tý gì về vụ này, và không được ai mời uống rượu !
Trong làng sở tại của Trần anh Tuấn, lúc đầu tiên có hai người thanh niên khoẻ mạnh, gọi là tráng đinh, bị bắt " tình nguyện " tùng chinh sang Pháp. Sau, quan binh buộc làng phải bắt thêm một người nữa. Cả thảy là 3 người :
- Năm Xin, con bà Trác.
- Hai Ngoạn, con chú Đẹp.
- Hai Tạ, con ông Bằng.
Cả ba đều là nhà nghèo, nghèo rớt mồng tơi, nghèo sát đất, nghèo mạt tệ. Vì lớp thanh niên nhà giàu, hoặc nhà khá giả, hoặc con trai các vị hương chức, đều nhờ hối lộ, và nhờ có quyền thế, đã được miễn tùng chinh. Sót lại ba anh chàng này không có miếng đất cắm dùi, cho nên phải đi lính " tình nguyện " qua " mẫu quốc " đánh giặc " Phổ Lổ Sĩ ".
Nói là qua " mẫu quốc " đánh giặc, nhưng sự thật thì qua bên đó nhập vào một đơn vị gọi là " đoàn quân thuộc địa " chỉ dùng riêng vào việc vận tải lương thực ở hậu tuyến mà thôi. Một số bị bắt ra mặt trận, nhưng cũng chỉ là khiêng vác các khẩu súng lớn, đẩy các cổ đại bác và đào hầm trú ẩn. Chẳng có một người " lính thuộc địa " nào, nhất là lính " Tirailleurs Annamites " được cầm súng đánh giặc cả.
Gia đình của ba chàng thanh niên trong làng sở tại của Tuấn bị bắt đi tùng chinh bên Pháp đều có làm cơm cúng ông bà, và cúng ông Thần làng, trước hôm họ từ giã ra đi. Tội nghiệp nhứt là bà Trác. Bà khóc nức nở vì bà đã goá bụa, mà Năm Xin lại là con một của bà, " như hũ mắm treo giàn bí ". Mấy ông hương chức bắt cậu đi tùng chinh qua Tây kể cũng thật là ác ! Họ chẳng thương hại cho hoàn cảnh của bà Trác một chút nào ! Nhưng Năm Xin nói với mẹ : " Mẹ đừng có lo, Nhờ Trời che chở cho con được bình an vô sự, con đi lính sẽ đóng lon Cai, lon Đội, con được hàm Bát Phẩm, Cửu Phẩm, rồi con về làng con được ăn trên ngồi trước, con sẽ bỏ tù hết cả làng cho mẹ coi ! "
Năm Xin không có học chữ Nho, dốt đặc như cán cuốc, cho nên chàng nói nôm na mánh qué như thế, vậy mà mấy ông làng nghe cũng hơi ơn ớn.
Hôm bà Trác mua một con gà giò về làm thịt nấu cháo để cúng ông bà, cậu Năm Xin có nằn -nì mẹ mua cho cậu một tiền rượu, trước là để cúng sau là để cậu uống một bửa cho thoả thích. Uống rượu say, cậu la hét một mình, cả làng xóm đều nghe : " Rồi coi chừng thằng Năm này, nghe không. Tao đi đánh giặc cho Vua nước Đại Pháp, biết đâu chừng Vua Đại Pháp thăng cho tao chức Lãnh binh, Thống chế, rồi tao sẽ cho bà con giòng họ tụi bay đi ở tù hết ! Nghe chưa tụi bay ? Đó là tao nhơn đức đó, không thì tao giết hết không còn một mạng à ! ".
Năm Xin mượn hơi rượu để hăm doạ các ông Hương Xã, trước hôm y ra đi tùng chinh, thế mà đã có kết quả ngay ngày hôm sau : Lúc giờ Mẹo, chàng xách gói ra đi, cả làng cả xóm đều đến vuốt ve, dua nịnh, sốt sắng chúc chàng : " thượng lộ bình an ". Ai nấy cũng nghĩ thầm : biết đâu chừng sau này hết giặc, nó sẽ trở về làm tới Lãnh binh, Thống chế !.
Hai vợ chồng ông Bằng, thì bà khóc nhưng ông không khóc. Vì Hai Tạ tuy cũng là con một trong gia đình, nhưng cậu ngỗ nghịch quá xá, lại cờ bạc rượu chè, bỏ nhà đi chơi luôn. Ông ghét nó lắm. Ông muốn thằng con ông đi lính qua Tây cho khuất mắt ông. Qua bên đó đánh giặc thế nào nó cũng chết, ông nghĩ thế. Ông sẽ cưới bà vợ bé, sanh thằng con trai khác để nối giòng nối dõi.
Trong ba chàng thanh niên tùng chinh, chỉ có Hai Ngoạn là có chút ít học thức. Chàng là học trò của ông Tú Phong, dồi mài kinh sử đã lâu, nhưng số phận hẩm hiu, đi thi kỳ nào cũng hỏng, hoặc phạm trường quy bị đánh rớt. Sức học của cậu có kém gì mấy ông Tú Tài, Cử Nhân, nhưng lều chõng mấy phen mà bạch thủ vẫn hoàn bạch thủ, đành cu rú ở nhà, vô tích sự. Chàng có hơi thất chí, nhưng vẫn kiêu căng tự đắc, lúc nào cũng cho mình là một sĩ phu chưa gặp thời đó thôi. Bị làng bắt đi lính sang Pháp-lang-sa, Hai Ngoạn nghĩ rằng thời của chàng đã đến. Đây là cơ hội đễ chàng tiến thân. Chàng xổ một mớ chữ Nho, nhớ câu trong sách :
" Đại trượng phu xử thế đương tảo trừ thiên hạ, an sự nhất thất ? " (Người trai ở đời phải quét sạch cả thiên hạ, há lẽ chỉ quét một cái nhà thôi ư ?)
Kể ra chàng cũng có cái khí khái của con nhà Nho dở mùa, nhưng chàng rêu rao có hơi sớm.
Ba nhân vật trên đây có thể nói là điển hình. Họ tiêu biểu ba hiện tượng tâm lý của lớp thanh niên An Nam tùng chinh sang Pháp trong trận Đệ nhứt Thế chiến,1914-1918.
Một hạng có mộng làm lớn để trở về hách dịch với đồng bào, và một hạng ưa phiêu lưu, cả hai đều là những kẻ ít học. Hạng thứ ba nuôi đầy triết lý Nho giáo nhưng áp dụng không đúng với tư tưởng, làm nô lệ cho người mà vẫn hãnh diện tưởng đóng vai trò anh hùng của thời thế.
Tất cả thanh niên tùng chinh ở Trung Kỳ, 21 đến 24 tuổi, đều được lịnh đến trình diện tại đồn lính Khố xanh ở các tỉnh, rồi từ tỉnh họ được chở đi tập trung tại Huế, đợi tầu sang Pháp. Đã có một lớp lính mới được đưa ra Huế đầu tiên, mấy tháng trước, và được huấn luyện rồi. Nhưng phần đông số lính này lại được nhà cách mạng Trần cao Vân tuyên truyền bí mật theo phong trào khởi nghĩa của Vua Duy-Tân, và đã sẵn sàng làm nội ứng. Cuộc khởi nghĩa DuyTân thất bại, các đoàn lính tình nguyện kế tiếp đều bị kiểm soát thật chặc chẽ, và bị đề phòng gắt gao.
Sau bốn năm liên tục học ở Huế, và thi đỗ bằng Thành Chung, tháng 6 năm 1918, Trần anh Tuấn về tỉnh nhà được đặc biệt bổ làm thông ngôn ở Toà Sứ. Năm sau, 1919, ba chàng thanh niên đi tùng chinh kia cũng được từ Pháp hồi hương, bình yên vô sự.
Cả ba đều vui mừng và hãnh diện. Tính tình cử chỉ ngôn ngữ của họ đều có nhiều sự thay đổi. Nhưng ba giấc mộng tang bồng hồ thĩ đều không thành đạt như sỡ nguyện.
Năm Xin không được làm quan Lãnh binh, quan Thống Chế, mà chỉ là chú lính binh nhì. Đàn bà con nít trong xóm làng và trong thành phố nghe chú nói tiếng Tây rằng chú là lính " đơ-dèm cờ-lát " (2è classe ) họ cười rộ lên, và gọi ngạo chú là " đơ-dèm cùi bắp". Bọn con nít gọi chú là " đơ-dèm cù-léc ". Nhưng chú vẫn khoe khoang suốt ngày mang " đôi giầy lính tây " đi vênh vang ngoài phố nện gót giầy độp độp... Ba tháng sau, chú xin vô làm " bồi " cho ông Giám binh và nói rặc " tiếng bồi ". Bà đầm sai chú ra chợ mua đồ, chú cũng nói " tiêng Tây " với mấy bà bán ngoài chợ :
- Bán cho tui cách ớp-đờ-cà -na ( 4 trứng vịt ). Tiếng Pháp canard là con vịt đực, cane là con vịt cái, nhưng chú bồi Năm Xin chỉ biết ca-na là con vịt, thành ra chú vẫn quen miệng nói :" ớp-đờ-cà-na, 4 cái trứng vịt.
Mấy ông làng sở tại thấy Năm Xin đi lính bên Tây chỉ là tên lính " đơ-dèm cùi-bắp " nên họ vững lòng khỏi sợ y thù oán. Nhưng Năm Xin vẫn hách dịch như thường. Mỗi khi làng có cúng tế ở Đình, Năm Xin diện bộ đồ " Sơn đá "cũ mèm, đến Đình ngồi ngang hàng với các vị hương chức. Họ vẫn sợ chú, vì chú là " bồi " của quan Giám binh. Chú có thể dựa thế quan Tây để bắt nạt làng xóm.
Hai Tạ, con ông Bằng, thì đước đóng lon cai. Chàng đã 23 tuổi và được ông Công Sứ cho làm cai " Phú-lít " ( Police) lính cảnh sát. Cả ngày chàng cầm cái roi mây đi các đường phố trong tỉnh, ghé vô chợ, vô các tiệm, nạt nộ người nầy, hăm doạ người kia, và mua hàng hoá không trả tiền. Nhưng không một chủ tiệm nào dám đòi, kể các tiệm " các chú " và tiệm An Nam ". Thường dân trong thanh phố hay bị chàng đánh hoài, ít người dám kêu-rêu.
Chàng sả roi mây vào đầu người ta, quất vào vai, vào mông đít, ít người dám kêu-rêu. Vì tội người ta không dở nón chào " thầy Cai " hoặc lỡ miệng gọi chàng là "chú Cai"
Hai Ngoạn, bậc " đại trương phu " môn đệ của Khổng giáo, đi lính cho Tây được đóng lon Ông Ách (Adjudant ), tức là ông Quản. Nhưng chàng ta bị điên, vì có lần chỉ huy một đoàn quân An-Nam-mít vận tải ra mặt trận bị một trái phá đại bác của Đức rơi nổ bên cạnh, chàng xiêu hồn lạc phách rồi từ đó trở thành điên luôn. Về tỉnh nhà, chàng vẫn còn loạn óc, tuy trai trẻ, mạnh khoẻ, và khá đẹp trai. Chàng mới có 24 tuổi. Người ta thường gặp ông Ách vác một cây gậy trên vai, giả làm như cây súng, đi lang thang trong tỉnh, trong làng,vừa đi vừa hô lên một mình :" Ấc, đơ... Ấc, đơ !... Ấc, đơ !...(một, hai ! một, hai ! ). Có khi chàng cột một tấm giẻ rách, màu xanh, hoặc màu đỏ trên đầu cây gậy, làm như lá cờ. Tụi con nít sợ " ông Ách " lắm. Chàng đi tới đâu, tụi nó trốn tới đó, không một đứa nào dám ló mặt ra. Ông Ách không hề sợ một ai hết thẩy. Ông chỉ sợ mỗi một thứ mà thôi : ông sợ tiếng nổ. Mấy ngày Tết, nhiều nhà đốt pháo, Ông Ách nghe tiếng pháo nổ, vội vàng chạy trốn, tìm chổ chui núp, bất cứ đang ở đâu.
Ông Ách thường ưa gặp Trần anh Tuấn, bấy giờ đã thành ra thầy Phán Tuấn. Hể gặp, là ông Ách xổ tiếng bồi :
- Me xừ Phán Tuấn ơi, nè luỷ, tồm-bê côm xà : Bùm ! Bùm !
Tuấn cười hỏi :
- Cái gì bùm, bùm ?
- Cái ô-buýt đại cà-nông luỹ kêu Bùm ! Bùm ! Chớ cái phuy-di thì luỹ kêu : pầng ! pầng !
Rồi ông Ách cười :
- Vậy mà moã ya-na-pa-pơ ! ( tui không sợ ! )
Ông Ách lại cười ha hả, đưa tay lên chào Phán Tuấn theo kiểu nhà binh, rồi đi. Chàng thanh niên loạn óc nầy cứ đi lang thang như thế suốt ngày, ban đêm bạ đâu ngủ đó...
Ông Ách tuy vậy vẫn không làm hại ai. Chỉ có tụi trẻ nít là sợ ông, sợ ông ghê lắm, nhưng sợ vì thấy ông điên điên khùng khùng chứ sự thật ông đâu có doạ nạt con nít. Ông chỉ cầm gậy đuổi đánh đứa nào chọc ghẹo ông.
Chúng nó sợ ông Ách đến nỗi mỗi một khi có đứa nhỏ nào khóc, người lớn chỉ doạ nó một câu : " Nín đi, ông Ách đến kia-kìa ! " là nó nín ngay tức khắc, mắt ngơ ngác nhìn xem ông Ách ở đâu...Hoặc chúng nó đang chơi ngoài đường, vui vẻ, bổng có đứa nào nói gạt :" Ông Ách kìa, tụi bay ơi ! " thế là cả bọn chạy biến đi mất tiêu, đứa vụt vào nhà đóng cửa lại, đứa trốn ngoài bụi, đứa chui xuống gầm giường, đứa nấp sau gốc cây.
Người lớn thì trái kại, thích gặp ông Ách để gợi chuyện cho ông nói nghe chơi. Ông nói cả chữ Tây lẩn chữ Nho. Vì ông xuất thân là con nhà Nho, lại sang Pháp học lỏm được một mớ tiếng Tây ba-rọi đem về làm quà cho bà con trong tỉnh. Điên thì điên, nhưng mỗi tháng đúng ngày, ông Ách vẫn nhớ lên Toà Kho Bạc để lãnh tiền cấp dưỡng của Nhà nước, hình như được đâu một đồng bạc. Thời bấy giờ, trong nước ta thông dụng hai thứ tiền tệ : của " chính phủ bảo hộ ", thì bạc đồng, bạc cắc, và xu ( chưa có giấy bạc ). Vua ta thì có tiền.
Đồng bạc tròn, dầy độ 1 millimètre, đúc bằng bạc thật 9 phần 10, nặng trên 27 grammes, ở giữa có hình nổi một bà Đầm Marianne, tượng trưng cho nước Pháp, trên đầu bà có một vòng tủa ra nhiều tia nhọn. Không hiểu sao dân chúng thường gọi " Đồng Bạc Bà Đầm Xoè ".
Đồng xu thì bằng đồng, ở giữa có lổ nhỏ để xâu, chung quanh cũng có in chữ nổi :" Indochine Francaise " ( Đông Dương của Pháp ) như đồng bạc.
Tiền của Vua có hai loại :" Tiền ăn sáu " và " Tiền ăn ba". Một đồng tiền ăn ba cũng được gọi là " đồng điếu " là đơn vị tối thiểu của đơn vị tiền tệ thời bấy giờ. ( Nghèo không có đồng điếu, nghĩa là nghèo xơ nghèo xác, nghèo mạt tệ ). Mười đồng tiền ăn sáu hay là 20 đồng tiền ăn ba, tức là một tiền. 10 tiền ăn sáu hay là 20 tiền ăn ba cột lại với một lật tre, thành một quan tiền. Hầu hết trong dân chúng đều dùng : Loại Tiền ấy. Tiền đúc niên hiệu Gia Long thông bảo, Minh Mạng thông bảo, Thiệu Trị thông bảo, Tự Đức thông bảo v.v....
Chỉ có một số ít nhà giàu, hoặc khá giả, mới có bạc đồng. Buôn bán tại các chợ, hoặc trong các tiệm, hầu hết là bằng tiền.
Ông Ách lãnh lương của Nhà nước Bảo-hộ cấp dưỡng bằng bạc đồng. Ông đem bạc ra tiệm " các chú " đổi thành tiền. Ông cất tiền trong một cái gói vải nhuộm màu đỏ, mà ông thường đeo lủng lẳng trên vai. Không ai biết số tiền ấy ông đem cho ai, hay ông làm gì, mà tháng nào cũng vậy, cứ vài ba ngày sau hôm lãnh tiền là ông không còn một đồng điếu. Rồi ông cứ đi ăn xin của người ta.
Thầy cai phú-lít Hai Tạ, con ông Bằng, ăn lương cũng một đồng, nhưng chàng ta nhờ tiền hối lộ, và các của phi nghĩa giành giựt của thường dân, nhất là của những người buôn bán nên chàng có rầt nhiều tiền.
Cả tỉnh chỉ có hai thầy cai phú-lít. Gọi là thầy cai cho oai, chớ sự thực là lính, tức là lính cảnh sát. Chân đi đất, mặc áo cụt trắng hoặc đen, quần vải ta, thắt dây lưng đỏ tòn-ten dưới bụng. Y-phục của người lính phú-lít An Nam năm 1900-1924 cũng y như của thường dân. Chỉ khác hai món đề phân biệt : người lính có nón gù đội trên đầu và chiếc roi mây luôn luôn cầm nơi tay. Không có súng lục. Cũng không có dùi-cui. Chỉ có cây roi bổn mạng, dùng để đánh đập người ta. Chú nông dân nghèo và không có học, trước đó hai năm chỉ đi vác cờ, đánh trống, chạy hiệu cho làng, bầy giờ đi " tùng chinh" bên nước Đại Pháp trở về được " quan thầy Dại Pháp " cho làm lính " phú-lít ",cả làng cả tỉnh đều sợ hắn như sợ cọp. Ông Làng, ông Xã đều gọi hắn bằng "Thầy Đội ", "Thầy Cai ". Hắn vào nhà ai, chủ nhân phải mời hắn ngồi trên ghế tràng kỷ, mời trầu, mời nước, dạ dạ, thưa thưa. Hắn, cũng như chàng Năm Xin " đơ-dèm-cùi-bắp " đi lính bên Tây về làm bồi cho ông Giám binh, đều hách dịch như nhau cả. Hai người đều nói tiếng bồi để loè với dân chúng à các cô thôn nữ. Họ chưng " địa vị " bồi Tây và lính Cò để hiếp đáp bà con hàng phố, nạt nộ dân làng dân tỉnh.
Ở trong đồn Lính Tập, bà Đầm và ông Giám binh sai Năm Xin giặt quần, giặt váy ; ở Sở Cò thì ông Cò Tây chửi Hai Tạ là cu-son, con heo,mẹc, xà-lù, con bò...Thế mà về làng, hai chàng thanh niên này nịt bộ đồ lính Tây rách vá, mang đôi giày lính Tây há mồm, ung dung đến Đình làng vẫn muốn ăn trên ngồi trước, ngang hàng với các cụ bô lão, rồi uống rượu say sưa, xổ tiếng bồi làm ngơ ngác cả làng...
Đấy là thành tích của số đông các chàng trai " An Nam " đã tùng chinh bên Pháp được trở về quê nhà sau trận giặc Pháp - Đức 1914-1918.
Nguyễn VỹTuấn Chàng Trai Nước ViệtCHƯƠNG 41916-1920
- Học trò các trường Nhà Nước đã đông.
- Chữ Quốc-ngữ đã thông dụng. Chữ Hán đã bắt đầu bị chữ Quốc-ngữ và chữ Pháp thay thế. - 1919, Sắc chỉ của Vua bãi bỏ các kỳ Thi Hương, Thi Hội (Hán-học). - " Đèn Huê-kỳ ". - Đèn đá ngoài đường. - Xe kéo của Quan Tuần-Vũ. - Học trò đi dự lễ tế Đức Khổng-Tử. - Dân chúng rủ nhau đi xem chiếc máy bay đầu tiên của Pháp xuất hiện trên vòm trời Việt-Nam.
Trần anh Tuấn đỗ bằng Thành Chung trường Quốc Học Huế tháng sáu năm 1918. Chàng mới có 16 tuổi. Kể từ lúc 8 tuổi cặp sách đến trường tỉnh học lớp Năm, cho đến bây giờ thi đỗ "diplÔme", chàng đã học được chín năm,và sức học Pháp ngữ của chàng cũng đã khá vững rồi. Tuấn chưa đến tuổi trưởng thành, nhưng lúc bấy giờ Tuấn thuộc vào lớp " trí thức " do học trường Pháp mới đào tạo để làm việc cho Nhà nước Bảo-hộ. Riêng ở tỉnh nhà, Tuấn là người đầu tiên thi đỗ bằng " Diplôme" ở trường Quốc học Huế. Cho nên Tuấn được tiếng tăm là một tay " học thức cừ khôi " nhất trong tỉnh, và được ông Công Sứ Pháp, chủ tỉnh, rất thương mến.
Bạn học cũ của Tuấn ở trường tỉnh, thi đỗ bằng sơ học đều được bổ dụng làm việc ngay tại các Sở : Lục lộ, Kiểm lâm, Giây thép, nhà thương, kho bạc, v.v... Với sức học còn ít oi, tiếng Pháp viết chưa đúng mẹo, nói chưa đúng câu, hiểu chưa hết lời, các bạn thiếu niên ấy vẫn được tạm bổ dụng tại các cơ sở mới vừa thiết lập, và vẫn làm được những công việc thường, do các "quan tây " chỉ bảo lần hồi. Riêng Trần anh Tuấn được ưu đãi, nhờ học lực của chàng. Chàng được ông Sứ tin dùng, cho lên ngay địa vị " Thông Phán hạng nhứt ", còn Ký Thanh trước kia là người thân tín của " cụ Lớn Công Sứ ", bây giờ chỉ còn làm thơ ký thường thôi.
Tuấn và Thanh, tiêu biểu cho hai hạng thanh niên " trí thức " Việt Nam thời bấy giờ, tuy cũng là những phần tử trước tiên do học đường Pháp đào tạo,cũng bỏ Hán-học nhẩy qua Tây-học, cũng ra làm việc cho " nhà nước bảo hộ ", cũng dần dần theo nếp sống của " văn minh Pháp ", nhưng " đầu óc " của hai người vẫn khác nhau như mặt trời mặt trăng. Lê văn Thanh, thì các bạn đã biết rồi. Từ tư cách, cử chỉ, hành vi,, ngôn ngữ, chàng đã tỏ ra là một kẻ hoàn toàn xu phụ theo Tây, dựa vào thế lực của Tây để hiếp đáp đồng bào, để ăn hối lộ và hách dịch với mọi người. Cả thành phố, và cả tỉnh, ai cũng sợ, nhưng ai cũng ghét.
Trần anh Tuấn thì khác hẳn. Tuy là con nhà nghèo - cha làm nghề thợ mộc - và tuy được" quan Sứ " tin cậy và thương mến vì học lực của chàng tương đối khá hơn cả trong tỉnh, thông thạo tiếng Pháp hơn, và có nhiều khả năng hơn, nhưng chàng không vì thế mà hãnh diện. Trái lại, Trần anh Tuấn luôn luôn vui vẻ, nhả nhặn với mọi người, làm việc rất thanh liêm, hành vi và ngôn ngữ lúc nào cũng trung thực và sẵn sàng chỉ bảo, giúp đỡ, bao bọc cho dân chúng mỗi khi họ có việc phải đến " hầu Toà ".
Về bề ngoài, ai cũng phải công nhận " thầy thông Phán Tuấn " là một người rất hiền lành, tử tế. Từ " quan Công Sứ ", quan Phó Sứ, các quan An Nam cho đến cả ông Hương, ông Xã khắp các phủ huyện trong tỉnh, và những anh " dân quê ", tất cả đều có cảm tình với Trần anh Tuấn. Được người trên thương, kẻ dưới trọng. Thấy Phán Tuấn vẫn không bao giờ lấy đó làm hiêu-hiêu tự đắc đối với các bạn đồng nghiệp trong Toà, hay là bất cứ với ai.
Hơn nữa, trong đầu óc Trần anh Tuấn, có những ý nghĩ thầm kín mà không mấy khi Tuấn muốn thố lộ ra ngoài. Nhờ có đi học ở Huế, và nghe biết rõ nhiều chuyện về Vua Hàm-Nghi, và Vua Duy-Tân, cả hai bậc Minh quân còn trẻ tuổi, hai đấng thanh niên anh dũng của nước nhà, Trần anh Tuấn được thấm nhuần tư tưởng " ái quốc " của hai nhà Vua ấy. Có những đêm vắng vẻ, một mình một bóng, dưới túp nhà tranh của chàng ở Cửa Bắc, Tuấn nhớ đến vụ Hoàng đế Duy-Tân và nghe người ta kể lại vụ Hoàng đế Thành Thái, Hoàng đế Hàm Nghi, cả ba đều chống lại Tây, rồi bị bắt, bị đày xa Quê hương. Tuấn suy nghĩ, xúc cảm, buồn rầu rồi tự nhiên nằm khóc âm thầm trong đêm tối...
Lúc bấy giờ không ai hiểu được Tuấn. Chung quanh toàn là thế lực và uy quyền của người Pháp, nịnh Pháp sợ Pháp, đa số coi người Pháp như thần thánh, Tuấn vẫn lặng yên, âm thầm nhẫn nại, ngày hai buổi đi làm việc của mình, không tỏ ra một dấu hiệu gì bất mãn cả. Chàng được các quan tin cậy lắm, và các quan " An Nam " kính nể, tuy chàng còn trẻ tuổi quá, mới 17 tuổi, một thiếu niên vừa tốt nghiệp trường Quốc Học ở Kinh đô. Thời kỳ Trần anh Tuấn là một "quan Phán đầu toà " ngoan ngoãn hiền lành, chính là thời kỳ chàng im lặng, âm thầm, chưa tiết lộ tâm chí của chàng còn bao nhiêu bí ẩn...
Nói đúng ra, từ ngày Trần anh Tuấn vào làm việc trong toà Sứ, hoàn cảnh của gia đình Tuấn đã thay đổi khá nhiều. Dĩ nhiên, hoàn cảnh mới cần phải thích hợp với địa vị mới của chàng và chàng đã được công nhận là một thanh niên trí thức Tây học, đứng đầu trong toà Sứ, cũng như đứng đầu trong cả tỉnh, chưa ai so sánh kịp. Chiều theo lời cầu khẩn của Tuấn, chú Ba thân sinh của chàng, không làm nghề thợ mộc nữa.
Không phải Tuấn chê cái nghề ấy là hèn hạ. Tuấn không bao giờ có ý nghĩ trưởng giả như thế. Trái lại, sinh trưởng trong gia đình bình dân. Tuấn luôn luôn có tư tưởng bình dân, và thích thân cận với giới bình dân hơn là giới thượng lưu phong kiến. Nhưng số lương bỗng mỗi tháng của Tuấn có thể cung cấp đầy đủ cho gia đình mức sống hàng ngày có thể tăng lên phần nào, khỏi cần phải ra sức làm việc lao động của người cha già như trước nữa. Tuy đã được thấm nhuần sớm hơn và sâu đậm hơn cái phong trào văn minh tinh thần và vật chất của người Pháp đang lan tràn các từng lớp xã hội Việt Nam, Tuấn vẫn giữ được căn bản tinh hoa của giống nòi mà lúc bấy giờ người ta thường gọi là " Quốc Hồn Quốc Tuý " của dân tộc Việt Nam.
Tuấn thường bảo cha : " Thưa cha, hồi con còn nhỏ dại, cha phải làm việc cực nhọc để nuôi sống gia đình, nay con đã đi làm có tiền, con có thể phụng dưỡng Cha Mẹ và nuôi em con. Cha mẹ cứ nghỉ chơi cho khoẻ, để dưỡng tuổi già ".
Bà con hàng xóm và trong làng, trong tỉnh, đều khen Tuấn là có hiếu. Họ rất tán thưởng ý nghĩ của Tuấn, và cũng khuyên chú Ba nên nghỉ nghề thợ mộc. Chú Ba nể lời ( anh Phán nó ) - chú thường gọi Tuấn như thế - và cũng nghe lời bà con lối xóm làng, không còn xách cái giõ đựng cưa, bào, chàng, đục, ống mực, cây thước, đi làm thuê và cưa cây đóng bàncho thiên hạ, để kiếm vài trăm quan tiền như trước nữa.
Nhưng bây giờ, nhờ lương bổng của Tuấn , có dư dả ít nhiều, và tiện tặn góp-nhóp được và i ba chục đồng bạc, chú Ba đem khả năng nghề nghiệp của mình điều khiển một số thợ mộc em út để xây cất một căn nhà mới cho gia đình của chú, và tự chú đóng thêm bàn, ghế, tủ, giường, toàn mới cả.
Nhà mới vẫn phải lợp tranh, vì giá gạch, ngói còn đắt, nhưng gian nhà mới bằng gỗ đã được rộng lớn hơn túp nhà lụp-xụp thuở trước, sáng sủa hơn, sang trọng hơn.
Và đôi liển thiên hạ đi mừng tân gia, mừng thầy Thông Phán đầu toà, toàn bằng chữ Nho, treo la liệt kín hết các vách tường bằng ván.
Chú Ba và thím Ba chỉ có hai con trai, Tuấn và đứa em của Tuấn. Cậu bé này từ khi sinh ra vẫn chưa có tên.
Thời bấy giờ không có Hộ-tịch, lấy chồng lấy vợ khỏi cần làm giấy hôn thú, miễn có mời làng xã đến ăn uống, chứng nhận cho thế là được rồi. Sinh con cũng khỏi có giấy khai sinh. Chính tên " Trần anh Tuấn " cũng do thầy giáo đặt cho thằng Chuột hồi nó bắt đầu bị nhà nước bắt phải đi học.
Vì chú Ba thím Ba hiếm con, sợ đặt tên tốt đẹp cho con sẽ bị ma quỷ bắt mất, nên chú thím theo tục lệ thông thường lúc bấy giờ, tục lệ này được áp dụng không phải riêng trong giới dân nghèo, mà cả trong gia đình quan lại, quí phái nữa -- cứ tìm những tên rất xấu-xí, để ma chê quỷ hờn, không thèm đụng chạm tới đứa nhỏ.
Em của Tuấn, được đặt tên lúc ra đời là thằng (bọ Hung ). Nhưng bây giờ nó đã được 9 tuổi. Tuấn muốn cho nó đi học trường Nhà nước ở tỉnh, và bàn với cha mẹ, đặt tên chữ cho nó. Chú Ba bảo Tuấn :" Hai anh em mầy mặt mũi giống nhau như đúc. Vậy tên mầy là Tuấn, thì tao cũng đặt cho nó tên Tuấn.
Thím Ba cũng gật đầu. Thím vừa nhai trầu bỏm bẻm vừa cười : " Ừ, sao mà thằng Bọ Hung nó giống mày như hai cái bánh in chung một khuông vậy đó ! Nó giống từ cái mặt, cái tay, cái chưn, cho tới bộ đi, bộ đứng, giọng nói, giọng cười, giống hệt vậy hè ! Nhờ thầy giáo đã đặt tên cho mầy là Trần anh Tuấn, mầy mới làm nên danh giá, vậy thì cũng đặt tên cho em mầy là Trần anh Tuấn, để nó hưỡng cái lộc của mầy."
Tuấn cười bảo :" Thưa mẹ, như thế trùng tên sao được ? "
Chú Ba bảo :" Sợ trùng tên, thì mầy là Trần anh Tuấn, nó là Trần em Tuấn ".
Thím Ba lại vồn vã tán thành ngay :
- Mầy là anh, thì tên mầy là Anh-Tuấn, nó là em thì tên nó là Em-Tuấn, phải đó.
Bọ Hung ngồi ngạch cửa, ở truồng trùng trục, với chỏm tóc trên đầu, cũng nhe răng cười :
- Con cũng muốn tên của con giống như tên anh Hai. Cái gì của con cũng giống anh Hai con mới chịu.
Cả nhà cười rộ lên. Trần anh Tuấn thấy thế, đành chìu theo ý muốn chung của cha mẹ và em.
Thế là thằng Bọ Hung từ đây được đặt tên chữ là Trần Tuấn. Nhưng về thực tế, người ta gọi nó là Tuấn-em.
Sáng hôm sau là ngày nhập học khởi đầu niên khoá 1919-1920, Phán Tuấn giắt Tuấn-em đến trường Pháp-Việt ( Ecole de Plein Exercice ) xin cho Tuấn-em vào lớp Năm.
Cũng kỳ nhận học này thầy ký Lê văn Thanh xin cho đứa em út của thầy vào học cùng lớp với Tuấn-em. Tên nó là Lê văn Lục, 7 tuổi, nhỏ hơn Tuấn em hai tuổi.
Trường Nhà Nước bây giờ đã đông học trò hơn mấy năm trước nhiều. Dân thành phố ở tỉnh, cũng như dân quê ở các phủ, huyện, các làng, đã lần lượt cho con đi học chữ Quốc ngữ và chữ Tây. Lý do thực tế là họ thấy uy quyền của chính phủ Bảo-hộ đã vững, cho con đi học, thi đỗ, làm việc ở các Toà, các sở, như Ký Thanh, Phán Tuấn,v.v...vừa được tiền lương nhiều, lại vừa được danh vọng. Trái lại, họ cũng thấy rằng cựu-học đã tàn, chữ Hán đã bắt đầu bị chữ quốc ngữ và chữ Pháp thay thế.
Các ông Tú, ông Cử, ông Nghè, không được trọng dụng nữa.
Cùng năm 1919, nhà Vua đã ban sắc-chỉ bãi bỏ các kỳ thi Hương, thi Hội ( Hán-học ) trong toàn cõi Trung Bắc kỳ. Hán học đã chính thức bị đào thải. Chính các quan Phủ, quan Huyện của cựu trào trước kia vẫn phản đối chữ Quốc-ngữ, chê nó không phải là chữ của Thánh-hiền, bây giờ cũng phải kiếm mời thầy giáo về nhà dạy cho các quan học A.B.C. Quan Huyện không những tự mình đi tỉnh mua bút, mực, giấy tây, để về nhà học và tập việt chữ quốc ngữ, mà quan còn bắt bà Huyện và các cậu con trai, các cô con gái của nhà Quan cũng phải học vần xuôi, vần ngược. Buổi sáng và buổi chiều, các Quan làm việc ở công đường, còn tiếp tục phê các đơn trương, giấy tờ bằng chữ Hán, nhưng buổi trưa, buổi tối, trong tư thất các quan phủ, quan huyện, vang lên tiếng bập bẹ đồng thanh, ồn ào, vui vẻ của các Quan và cả gia đình những chữ " dị kỳ " : Ba, bã, bâ,be, bê...ác, át, an, ang, áp,am...
Quan ông, quan bà, các cô,các cậu, vừa tập đọc vừa cười rần-rộ. Các chú lính lệ đứng quạt hầu cho Quan Lớn và Bà Lớn, hoặc vòng tay đứng chờ lịnh Quan sai nhưng công việc lặt-vặt, đều cười khúc-khích với nhau, ngơ ngơ ngác ngác chẳng hiểu chi cả.
Trong thời gian ấy, học trò lớp Năm các trường nhà nước đã thuộc vần chữ Quốc ngữ trong môt tháng khai giảng đầu tiên, rồi tiếp đến học cửu chương bằng chữ Hán, để làm toán cộng, toán trừ, và học...vocabulaire tiếng Pháp !
Lên lớp Tư ( lớp Dự Bị ) đã học chữ Pháp nhiều hơn, ở lớp Ba ( Sơ Đẳng ), học chữ Pháp nhiều hơn nữa, lên đến lớp Nhì và lớp Nhứt thì các môn học hoàn toàn bằng Pháp ngữ.
Song-song với phong trào học chữ quốc ngữ và chữ tây được thịnh hành và truyền bá rất nhanh chóng trong các từng lớp dân chúng, đời sống vật chất của xã hội Việt Nam, từ năm 1919 cũng đã thay đổi rất nhiều và rất mau lẹ.
Tuy ở các tỉnh đèn điện chưa có, nhưng dầu hoả đã được bán khắp các phố, các chợ, trong những thùng thiết lớn từ Huê-Kỳ chở qua. " Đèn Huê-Kỳ ", một loại đèn bằng thuỷ tinh, để thắp với dầu hoả, cũng được bán trong các tiệm buôn Tầu và AnNam từ tỉnh đến thôn quê. Chỉ nhà nghèo mới tiếp tục thắp đèn dầu phọng, hoặc dầu dừa, mở heo.
Tại tỉnh, hai bên đường phố, ban đêm chưa có đèn. Nhưng ở các ngã tư đã có những trụ đèn bằng sắt, đúc và chạm rất đẹp, ở bên Tây đem qua, trên ngọn có một thứ đèn chung quanh lồng kiếng, và thắp bằng hơi acétylène. Người ta thường gọi là đèn hơi đá, hay là đèn carbure. Cứ vào khoảng 7 giờ chiều, có một người lính vác chiếc thang trên vai, tay xách một cái đèn carbure, đi đến từng ngã tư thành phố, nơi có trụ đèn. Anh dựng thang vào trụ, rồi cầm một chiếc đèn leo lên thang. Gần đến ngọn, anh đưa tay lên mở một cửa kiếng, đặt đèn vào trong. Trong đèn đã có sẵn bốn năm cục đá carbure và nước. Anh đánh một que diêm ( loại diêm Hoa-Sen rất thông dụng, do một hãng Pháp sản xuất tại Hàm Rồng - Thanh Hoá ).Anh châm lửa kề miệng vòi của chiếc đèn, tự nhiên lửa phực cháy, do hơi acetylène trong đèn phực ra.
Đèn carbure chiếu một ánh sáng xanh dịu, mát mẻ và soi xa một vùng chu-vi bốn năm thước. Xong rồi, anh lính trèo xuống, vác thang lên vai, tay còn xách năm, sáu chiếc đèn nữa, đi lần lượt đến những trụ đèn khác. Cứ cách bốn năm chục thước, nơi các con đường lớn, mới có một trụ đèn carbure.
Tất cả các đường khác đều tối om-om.
Thường thường một chiếc đèn carbure ngoài đường cho cháy lâu được 4 tiếng đồng hồ thôi. Thành thử, chú lính coi về việc thắp đèn phải đi thay carbure mỗi đêm 3 lần, bất kể mưa gió, vào khoảng 7 giờ tối, 11 giờ khuya và 3 giờ sáng. Mỗi lần, anh phải vác cái thang đi và xách theo một thùng đá carbure, và một thùng nước lã. Lương của anh mỗi tháng 2 đồng bạc.
Riêng trong vườn Toà Sứ và chung quanh dinh thự ông Sứ, treo các loại đèn bằng đồng, bóng đèn thắp gọi là đèn tempête giống như loại đèn của thợ mỏ.
Các nhà giàu sang, đều thắp đèn dầu hoả. Nhưng thắp rất là hà tiện, vì giá dầu đắt lắm : nó gần như là xa xí phẩm hồi 1910. Trong các gia đình người Pháp cũng thắp đèn dầu hoả.
Xe máy ( xe đạp ) chưa có ở các tỉnh. Nhưng xe kéo đã có nhiều hơn trước, hầu hết là xe bánh sắt. Đầu năm 1920, mới bắt đầu xuất hiện vài ba chiếc xe kéo bánh cao su. Người dùng xe này trước nhất là Quan Tuần-Vũ, rồi đến các " Quan Tây ". Chỉ có mỗi một mình quan Công Sứ là có chiếc xe hơi (auto) mà thôi, xe kiểu Delahaye. Xe kéo của Quan Tuần-Vũ do một chú lính kéo, chú mặc áo " kẹp nẹp ", đội "nón gù ", đi chưn không. Mỗi lần ông Tuần đi đâu, chú lính kéo xe coi bộ cũng hãnh diện, không kém gì Quan, ra vẻ " ta đây là người tay chưn của cụ Lớn ".
Lê văn Thanh đã sắm được chiếc xe bánh sắt. Kể ra, thầy Ký có dư tiền sắm được chiếc xe bánh cao su, nhưng lúc đầu chàng còn e-dè vì ngồi xe bánh cao su, giống như quan Tuần-Vũ, sợ vô lễ với quan Tuần, chăng ? Nhưng đi làm việc ở Toà Sứ, ngồi trên xe kéo bánh sắt cũng đã được hãnh diện lắm rồi. Chàng vẫn muốn làm cao hơn Trần anh Tuấn, thầy Phán đầu toà mà ngày hai buổi vẫn lóc-cóc đi bộ, mang đôi giầy Hạ xập-xệ cũ mèm.
Ngoài xe kéo ra, không còn phương tiện lưu thông hoặc chuyên chở nào khác. Thường dân đi xe kéo bánh sắt, các Quan Lớn đi xe kéo bánh cao su. Tuy nói là thường dân, nhưng cũng chỉ có hạng thường dân khá giả, nhà giàu hoặc các thầy Thông, thầy Ký, mới có tiền đi xe kéo bánh sắt. Còn hầu hết nhân dân đại chúng đều đi bộ. Họ đi bộ từ làng này sang làng khác, từ huyện này sang huyện kia, từ tỉnh này sang tỉnh nọ. Họ leo đèo vượt núi, lội bến băng sông, đầu đội nón lá chưn đi không, dưới trời nắng chang-chang, hoặc trong đêm khuya mờ-mịt.
Mỗi kỳ nghỉ hè, người ta thấy những đám thanh thiếu niên học sinh trọ học ở tỉnh trở về quê nhà cách xa hàng 40,50 cây số.
Vài ba ngày sau buổi học cuối cùng, thường là những đêm rằm, trăng sáng vằng-vặc, các em rủ nhau từng đám độ 5,10 trò từ chín mười đến mười hai, mười ba tuổi quê quán cùng một huyện hay một phủ. Chúng hẹn gặp nhau tại một nhà trọ nào đó, sau khi cơm nước no-nê, và khởi hành lúc thành phố bắt đầu " đỏ đèn ". Mỗi trò xách một va ly áo quần sách vở. Muốn tiện lợi, đỡ mỏi tay xách, vài ba trò rủ nhau mượn một đòn gánh khá dài, cột chung " va ly " thành một chùm đeo lủng lẳng ở giữa, và vài trò thay phiên nhau khiêng trên vai, đi từng chặng đường. Dưới ánh trăng xanh, trên đường cái quan dài thăm thẳm, hai bên là đồng ruộng mênh-mông nhái kêu ột-ệch, các em thiếu niên vừa đùa nghịch, chuyện trò cười rỡn để quên bớt nỗi đường xa vạn dặm.
Đường quan-lộ vắng tanh vắng teo, không một bóng người lai vãng. Đêm đã gần khuya, các em đi hơn mười cây số, đã mệt mỏi, tiếng cười tiếng nói thưa lần, và bắt đầu hoang mang sợ sệt...Tất cả đều lặng lẽ, âm thầm...
Một vài trò mang quốc, cũng sợ cả tiếng quốc, nên xách quốc trên tay.
Theo lời các bậc cha mẹ đã từng căn dặn trước, mỗi trò đều có đem theo trong mình một con dao bằng sắt, hoặc cầm một nhánh dâu ( loại dâu cho tầm ăn ), để tự vệ trong lúc đi ngang qua nhiều nơi có " ma ". Những khu rừng rậm, những khóm cây, những gò hoang có nhiều mồ mả, những cầu cống... đã nổi tiếng là có nhiều " ma quái ", " yêu tinh ". Cha mẹ thường dặn các trò :" Hễ gặp ma hiện hình ra, thì con lấy "roi dâu " quất nó, nó sẽ chạy mất ! Không, thì con đái ra quần, lấy nước đái lau trên mặt, thì Ma, Yêu, không dám hớp hồn con...Con có dao bằng sắt, Ma không dám tới gần con...".
Đó là những phương pháp trừ ma rất thông dụng mà em bé học trò nào cũng biết, và cũng phòng thủ sẵn sàng trong khi đi học xa, hoặc đi về nghỉ hè, và toàn là đi bộ.
Thời kỳ ấy, "ma quỷ " nhiều lắm. Ở khắp các nẻo đường, các gốc cây, các nghĩa địa, các bến sông, các am miếu, ở ngay trong tỉnh thành đều có vô số những chổ có ma. Nhưng sự thực, nghe đồn đải về ma thì nhiều, mà chưa ai gặp một con ma, hay trông thấy một con ma lần nào.
Các em học sinh đi bộ suốt đêm như thế, cho nên lúc " gà gáy sáng ", hoặc hừng đông thì vừa đến huyện, rồi chia tay ai về nhà nấy. Có kẻ còn đi năm, bảy cây số nữa.
Học trò nhà nước từ khoảng 1910 đến 1920, là con cháu các ông Hương, ông Xã, một số ít nhà giàu, và các quan ở Phủ Huyện và ở tỉnh. Thanh niên nhà nghèo hầu hết đều lo làm ruộng, hoặc các nghề thợ thuyền, chài lưới.
Ngay ở trường làng, học hành không tốn kém chi cả, cũng thường chỉ là con các nhà khá giả mới cập vở đến trường học ABC. Con nhà giàu và con cháu các ông Tú, ông Cử, ông Nghè, còn trung thành với đạo lý Khổng-Mạnh, vẫn chưa theo phong trào Tây-học. Phần đông ở nhà hưỡng thú "điền viên " đá gà, uống rượu, đi bẫy chim, câu cá, đánh cờ... Một số xoay sang học nghề thuốc Bắc và số Tử Vi.
Ban ngày đường quan lộ cũng rất vắng người. Vì xe cộ không có, trừ thỉnh thoảng một vài chiếc xe kéo bánh sắt uể-oải, chậm chạp còn tệ hơn xe ngựa ngày nay. Xe hơi thì mỗi ngày chỉ có một chiếc từ trong Nam chạy ra, một chiếc từ " miệt ngoài " chạy vào : đó là hai chiếc "xe thơ " của một hãng Pháp, tên là S.T.A.C.A, chở hành khách sang, và chở thư bưu điện. Chiếc xe hơi chạy vùn cụt trên quan lộ, kêu như sấm dậy, mỗi ngày một lần, là cả một biến cố quan trọng hàng ngày. Hai bên đường dân chúng sợ sệt, lật đật tránh xa, hai bên đồng ruộng trâu bò hoảng kinh chạy tán loạn.
Ông Tuần Vũ ( tỉnh nhỏ ) hay là ông Thống Đốc ( tỉnh lớn ) là vị "Quan Lớn An Nam " đầu tỉnh, mỗi lần ngồi trên chiếc xe kéo bánh cao su, đi đâu xa ngoài tỉnh, cũng là cả một biến cố lớn lao vậy. Có lính lệ ( lính hầu trong dinh quan ) đi trước dẹp đường. Tay luôn luôn cầm chiếc roi mây, và thái độ hung hăng, hắn rất hách dịch, đối với hết thẩy mọi người hai bên hàng phố.
Nhừng người đi đường đều phải né tránh ra hai bên đường, để trống cả một quãng đường dài trước mặt Quan Lớn, không được có một người qua lại. Người lính kéo xe quan, bước chậm chậm ; như chở Quan đi dạo mát. Một người lính theo sau, dương cao một cái lọng che trên đầu Quan, mặc dầu trời đã gần tối.
Năm 1920, nhân dịp ngày giổ đức Khổng-tử, Quan Tuần có gửi giấy mời Quan Đốc học trường tỉnh và lần đầu tiên Quan yêu cầu cho học trò trường Nhà Nước đi dự lễ.
Tuấn-em về nhà thưa lại với anh Hai và cha mẹ, để được tụ họp với học trò cùng lớp tại nhà thầy giáo lớp Năm, đúng 7 giờ tối, theo lịnh của quan Dốc học. Học trò lớp nào phải tụ họp tại nhà thầy giáo lớp ấy. Tuấn-em ăn cơm vội vàng,rồi được mẹ thay cho quần trắng mới, áo dài đen mới, để đi dự lễ Đức Thánh Khổng.
Đến nhà thầy Trợ giáo, gặp đông đủ bạn bè, đợi thầy giáo ăn cơm xong rồi thầy dẫn học trò đi bộ đến Văn Miếu ( đền thờ đức Khổng Tử ), cách tỉnh lỵ 3 cây số. Phải đi đò qua con sông lớn. Sông thì rộng, nước chảy mạnh, trời thì tối, con đò thì nhỏ, mà học trò thì đông, phải qua đò một lượt với thầy, nên các em sợ té la khóc om sòm ! Thầy giáo rầy la bằng tiếng Tây :" Silence". (im ) ! Qua bên kia sông, còn phải đi bộ hơn hai cây số nữa mới tới Đền thờ Đức Khổng- Tử. Đến đây, toàn thể học trò Nhà nước tụ họp lại 200 cậu và năm thầy Trợ giáo..Không có chỗ ngủ, tất cả phải nằm hai bên lề đường, và trong các đám mía kế cận, đợi đến 5 giờ sáng mới bắt đầu tế lễ.
Gà lối xóm mới gáy một hồi, trời còn tối mù tối mịt, nhưng nghe chuông trống nổi lên, các thầy giáo vội vàng thức dậy gọi học trò tụ họp trước cổng Đền. Lớp nào đứng sắp hàng riêng lớp ấy, dưới sự chỉ dẩn của giáo viên. Hầu hết học sinh còn buồn ngủ, vì không có nước rửa mặt nên nhiều cậu chưa tỉnh hẵn, vừa đứng vừa ngủ gật.
Riêng lớp của Tuấn em, thầy giáo cầm cây đèn bạch lạp nhìn vào tờ giấy danh sách để gọi tên, thì thiếu mất bốn trò. Bốn em này còn ngủ trong đám mía, thầy bảo Tuấn em và hai trò nữa kiếm nhưng trời tối quá, không tìm thấy. Vừa có lịnh quan Đốc học truyền cho các thầy dẫn học trò sắp hàng hai đi vào trước đền. Chiêng trống lại nổi dậy, đèn đuốc sáng trưng. Cuộc tế lễ bắt đầu.
Các quan Tỉnh, quan Phủ, quan Huyện, các thầy Đề lại, tất cả các công chức Nam triều mặc triều phục đứng cúng, kẻ hàng trước, người hàng sau, tùy theo trật tự phẩm hàm của mỗi quan. Sau cùng đến các thầy giáo và học trò. Theo lời thầy dặn, hễ nghe tiếng hô :" Cúc cung hưng...bái " và tiếng chuông trống đệm theo, các quan đứng trước lạy, thì học trò cũng phải bắt chước sụp xuống lạy. Nghe tiếng hô :" Hưng " thì đứng dậy, "Bái " thì sụp xuống lạy v.v... đến khi " Hưng bình thân " thì đứng thẳng người hết lạy.
Tuấn em còn đang giấc ngủ, chưa tỉnh hẳn, khi xụp xuống lạy lần đầu, Tuấn ngủ luôn. Mãi đến khi tế xong, thầy giáo lấy chân đá mạnh vào mông đít Tuấn, Tuấn mới giật mình, lóp ngóp bò dậy, theo đám đông ra về.
Thầy giáo và học trò lại kéo nhau đi bộ 3 cây số về tỉnh và đi đò sang sông.
Đến ngã tư cửa Tây, mặt trời đã lên cao" nữa chặn đòn gánh " ( 7 giờ sáng ).Học trò nghe phía sau lưng có tiếng lính la hét dẹp đường và tiếng chuông, tiếng trống, tiếng kèn bát âm, liền đứng lại để coi "quan Tuần-Vũ ".
" Quan Lớn " chủ tế lễ Đức Khổng Tử, trở về tỉnh, cũng đã gần đến ngã tư. Đường cái quan đã được hai chú " lính lệ " tiền phong xua đuổi, dọn dẹp trống rỗng, không có một người dân qua lại. Vài ba chú cu li xe kéo bánh sắt đã lật đật kéo xe chạy sang các ngả đường khác. Những người đàn bà đi chợ, đàn ông làm thợ, đi buôn bán, đi " làm việc " các sở, đều phải tránh sang một bên, để đường cho " Quan Lớn " đi.
Trước tiên là sáu người lính bận áo kẹp nẹp, cầm cờ đuôi nheo đi hai bên, rồi đến lính khiêng chuông, lính khiêng trống lớn, lính cầm trống nhỏ, tám người lính thổi nhạc bát âm... Quan lớn ngồi trên chiếc xe kéo bánh cao su, có lính che lọng, lính che tàn, lính cầm cờ, lính bưng hộp trầu ( vì quan lớn nhuôm răng đen và ăn trầu ), lính bưng điếu thuốc trà v.v...( thuốc lào -tiếng Bắc, ở Huế và Trung gọi là thuốc trà ).
Thỉnh thoảng quan lớn truyền lịnh đem hộp trầu cau đã tiêm sẳn, hoặc đem bình điếu trà đến, để quan lớn ăn trầu hút thuốc, thì cả đoàn lính hầu hạ tuỳ tùng đều phải đứng lại mộ lát. Quan lớn ăn hút xong truyền lịnh đi, mới lại tiếp tục đi.
Xe kéo quan lớn đi qua các đường phố, hai dãy tiệm buôn " các chú " ở hai bên đường đều thi nhau đốt pháo mừng quan, và mặc áo rộng đứng trước cửa cúi đầu cung kính chào quan. Quan lớn ngồi trong xe kéo, làm nghiêm không chào lại.
Lúc xe quan Tuần vũ đi ngang qua mặt Tuấn em và một lũ học trò đứng xem trên lề đường. Tuấn chỉ vào mặt quan và nói to với mấy đứa bạn nó :
- Mặt ông lớn cũng có ghèn, tụi bây ơi !
Ông lớn quay lại trừng mắt ngó Tuấn, Tuấn và mấy đứa bạn sợ Ông Lớn sai lính bắt, lật đật chạy biến mất trong đám đông người đứng coi chật ních trước các hè phố...
Chúng chạy về nhà lấy sách vở đến trường... Hôm ấy học trò đi trể khỏi bị phạt.
Một buổi sáng thứ ba, Tuấn-em đang ngồi chăm chỉ nghe thầy giáo lớp Năm giảng bài Địa dư, bổng có tiếng giầy tây của quan Đốc học đi lộp độp ngoài hiên rồi bước vội vàng vào lớp, học trò đứng dậy. Quan Đốc ( người tỉnh Nghệ-an ) nói tiếng tây trọ-trẹ với thầy giáo vài ba câu gì đó, rồi quay lại nói tiếng Việt với học trò :
- 5 giờ chiều nay có máy bay tới tỉnh, vậy chiều nay cho nghỉ học để các trò đi coi máy bay. Tất cá học trò đều phải đến trường hồi 3 giờ để thầy giáo dẫn đi. Nghe không ?
Cả lớp đều đồng thanh dạ rân một itếng. Quan Đốc lại nói tiếng Tây với thầy giáo vài ba câu rồi ra đi. Thầy bảo học trò :
- Asseyez-vous ! ( các trò, hãy ngồi xuống )
Học trò ngồi xuống, rồi thầy tiếp tục giảng bài. Dạy xong, gần mãn giờ, thầy mới bảo :
- Các trò nghe quan Đốc dặn lúc nãy, phải nhớ đấy ! Chiều nay nghỉ học nhưng 3 giờ các trò phải đến trường để thầy dẫn đi coi máy bay... Các trò có biết máy bay là cái gì không ?
Cả lớp đồng thanh trả lời :
- Thưa thầy, các con không biết.
Thầy giáo giảng :
- Máy bay là cái máy biết bay. Nó bay như con chim bay vậy, nhưng nó là con chim thật to, trong ruột nó có cái máy, nó ở ngoài Tourane bay vô, nó sẽ đậu gần chợ Ông Bố, cách xa tỉnh 4 cây số.
Tuấn-em ngồi bàn đầu, dơ ngón tay lên. Thầy hỏi :
- Trò Tuấn hỏi gì ?
Tuấn đứng dậy, vòng tay lễ phép :
- Thưa thầy, máy bay nó đậu trên ngọn cây hay nó đậu trên nóc chợ ?
Thầy cười :
- Nó đậu trên đám đất trống phía sau chợ.
Một trò khác dơ ngón tay lên hỏi :
- Thưa thầy, máy bay nó đậu trên đám đất, nhưng chiều nay nó thấy mình tới coi đông quá, nó sợ nó bay mất thì làm sao coi được ?
Thầy trả lời :
- Máy bay có ông quan Ba Tây lái ổng cho nó đậu đấy để người ta tới xem. Sáng mai nó mới bay vô Qui-nhơn.
Tuấn-em lại dơ tay lên hỏi :
- Thưa thầy, thầy đã thấy cái máy bay chưa ? Mình đứng coi, nó có hít mình vô trong bụng nó như xe điên không ?
- Thầy thấy hình vẽ cái máy bay trong tự điển Larousse chớ chưa thấy cái máy bay ở ngoài. Chiều nay thầy dắt các trò đi coi, thầy cũng coi. Từ trước tới giờ, đâu có máy bay mà coi. Bây giờ nhà nước bảo hộ mới đem một chiếc máy bay từ bên nước Pháp qua cho người An Nam xem.Quan Công Sứ tư giấy cho quan Đốc học, để cho học trò đi coi. Vậy chiều nay tới chỗ nó đậu, các trò phải đứng với tôi, tôi đi đâu các trò đi theo đấy, chớ đừng chạy bậy bạ, đừng có lại gần nó mà chết đấy, nghe không ?
- Dạ ( cả lớp đều dạ một cách hồi hộp lo sợ )
Tuấn em về nhà thưa lại với anh Hai nó và cha mẹ nó..Cứ mỗi lần thằng con trai út sắp đi lễ hay đi đâu như thế,là thím Ba, mẹ Tuấn, lo cho Tuấn rất tươm tất, không để thiếu sót một tý gì. Thím mặc áo quần sạch sẽ cho nó ( áo dài đen bằng vải trang đầm, quần vải quyến trắng ), thím lấy chổi lông gà quét bụi trên chiếc mũ trắng của nó, cho nó một tiền ( 60 đồng tiền ăn ba ) để nó đi xa có tiền ăn bánh uống nước. Luôn luôn thím căn dặn nó " Con nắm áo thầy giáo đi theo sát bên cạnh thầy, chớ đừng nô dỡn với bạn bè chạy nhảy tung tăng, cái máy bay nó hít chết nghe không con ! ".
Tuấn-em ngoan ngoãn dạ.
4 giờ chiều, 5 ông thầy giáo dẩn 5 lớp học trò đến đám đất trống sau chợ Ông Bố, thì thiên hạ đã tụ tập nơi đây như một buổi chợ. Nghe đồn có máy bay đến, hầu hết người lớn trẻ nhỏ trong thành phố đều nao nức đến xem. Người ta kéo nhau lũ la lũ lượt đi chật đường chật xá, dân chúng khắp nơi đổ dồn về đông nghẹt. Tất cả sở nhà nước đều nghỉ việc, để cho các thầy Thông thầy Ký, dắt vợ dắt con đi xem máy bay. Con đường hương lộ từ tỉnh lên chợ Ông Bố, ngày thường chỉ lưa thưa vài ba bóng người, nông dân đi cày bừa, thôn nữ đi chợ, hôm nay có hàng muôn nghìn người chen chúc nhau đi, như một ngày đại hội. Đường đấp đất ruộng, bụi bay lên mù mịt...Trừ ra những người giàu sang có tiền đi xe kéo, còn toàn thể đều đi bộ trên đường quanh co giữa thôn quê dài trên bốn cây số. Xe kéo có đeo trái lạc, chiếc xe chở hai ba người, anh phu xe khom lưng kéo, tay rung chiếc lạc kêu leng-keng...leng-keng...người bộ hành phải bước xuống ruộng để cho xe đi vì con đường chật hẹp. Nhiều người bực mình, cứ đi giữa đường, không chịu né một bên, anh phu xe phải năn nỉ :" Bà con làm phước tránh chổ cho xe đi chớ, bà con. ! " Tránh chỗ thì tránh, nhưng không tránh khỏi cãi nhau vì tranh giành nhau đi trước, vì ai cũng sợ tới trễ. Rốt cuộc, tất cả mọi người đều vui vẻ, đến đám đất chợ Ông Bố, mà chờ máy bay chưa tới.
Nếu đếm số người đi đón xem máy bay hôm ấy có lẽ hơn vài ngàn người. Đây là lần đầu tiên người ta nói đến máy bay.
4giờ rưỡi, ai nấy xôn xao. Quan Sứ đi " xe điện "đến. Lính tập đã sắp hàng đứng đón, thổi kèn lên và bồng súng chào. Dưới ánh nắng chiều, hai dẫy lưởi lê cắm trên miệng súng, sáng quắt nom thật là oai hùng...
Các quan tây cũng lục tục kéo tới, người đi ngựa, kẻ đi xe kéo bánh sắt, hay bánh cao su. Một lúc sau, quan Tuần phủ mới đến, có lính lệ cầm trống tiêu-cổ đi trước báo hiệu, đánh trống tum ! tum ! Nhưng quan Tuần có vẻ sợ sệt khi thấy Quan Sứ đã đến trước rồi, quan Tuần vội-vàng xuống xe kéo cao su, đi thẳng đến Quan Sứ, cúi đầu vái...vái...
Người ta thấy Quan Sứ vui vẻ nhã nhặn bắt tay Quan Tuần. Quan tây nói chuyện với quan ta, có thầy phán Tuấn đứng bên cạnh làm thông ngôn.
Quan Tây móc " đồng hồ trái quít " ở trong túi ra xem " đã 5 giờ kém 15 ".Ông liền truyền lịnh đốt rơm và bã mía đã chất sẳn thành một đống to tướng nơi góc ruộng kế đấy. Tuấn-em không hiểu đốt rơm làm gì, hỏi thầy giáo, thầy giáo không hiểu chạy đi hỏi quan Đốc, quan Đốc cũng không hiểu chạy đến hỏi Phán Tuấn. Tuấn bảo : " Dạ thưa quan lớn, đốt để khói lên làm dấu hiệu cho máy bay thấy chỗ đáp xuống, vì máy bay sắp đến ".
Tiềng xì xầm truyền từ miệng này sang miệng khác : " Máy bay sắp đến ! Máy bay sắp đến ! ".
Và không ai bảo ai, muôn nghìn cái đầu ngước lên vòm trời xanh thẳm...Muôn nghìn cặp mắt lục lọi, nhìn đăm đăm tận các làn mây xa...xa tít ngoài hướng Bắc...tìm kiếm bóng dáng chiếc máy bay mà chưa ai biết như thế nào.
Làn khói trắng từ nơi đống rơm và bã mía ngùn-ngụt cháy, vươn mình lên không trung như một nàng Tiên uốn lượn thân hình ảnh khảnh, như say sưa một vũ điệu mê ly, đón chờ con ChimThần của Khoa Học Tây Phương.
5 giờ...5 giờ 15, 5 giờ 30... Nhiều người bắt đầu nói bông lơn. Nói bông lơn, vẫn là đặc tính của người dân quê ta. Kẻ thì tủm tỉm cười, bảo : " Chắc chim bay xa, gãy cánh rớt xuống biễn rồi ! ". Kẻ đáp lại với giọng mỉa mai khác :" Chú mày nói bá láp nè ! Chim Thần Điểu của nước Đại Pháp thì có phép lớn, đâu như chim sẻ của An Nam ! ".
Các Quan Tây coi bộ sốt ruột lắm. Trời đã chạng vạng. Nắng chiều đã tắt sau các luỹ tre xanh xào-xạc gió. Làn khói rơm duyên-dáng cũng đã mỏi mệt, chỉ còn như một hơi thở yếu dần... Một con quạ bay tít nơi xa...hàng trăm ngón tay chỉ chỏ...và bao nhiêu người reo lên :" Máy bay tới kìa ". Các quan Tây, quan An Nam cũng tưởng thật, tất cả những con mắt đều ngó theo con quạ đen...Rốt cuộc con quạ đáp xuống một cành tre. Có lẽ nó mắc cỡ, không dám bay xuống phi trường. Thiên hạ chăm chú ngó con quạ, trong lúc một người lính Tây và một ông tập phi ngựa từ dưới tỉnh lên, lính cỡi ngưa ô chạy trước, ông Tây cỡi ngưa kim chạy theo sau, tức tốc đến " phi trường " mà không ai trông thấy...
Ông Tây phi ngưa thẳng tới chổ quan Sứ rồi hai người bắt tay nhau nói chuyện xí lô xí la, xem giấy tờ nhau, rồi cười ầm ầm.
Thiên hạ không ai chờ đón máy bay nữa, nhưng lại tò mò muốn biết ông Tây nào lạ mới đến đây vội vã bất ngờ như thế, có chuyện chi ? Người ta xôn xao, hay có biến loạn ở đâu ? Bổng từ chổ ông Sứ đứng, quan Đốc học đi nhanh đến các thầy giáo, vừa nói vừa cười :
- Sáng nay Quan Sứ ở Tourane đánh giây thép vào cho Quan Sứ ta, bảo là :" Commandant avion arrivera ce soir ( Quan Ba máy bay sẽ đến chiều nay ).
Ông Tây lạ mới đến kia chính là quan Ba phi công ở ngoài Tourane vào để quan sát phi trường đã, xem diện tích có rộng lớn và bằng phẳng cho máy bay đáp xuống được không, nếu được thì sáng mai ông trở ra Tourane rồi ba hôm sau máy bay mới đến.
Nên kể thêm rằng, ba hôm sau, cũng khoảng 5 giờ chiều máy bay có đến. Một chiếc máy bay lớn sơn màu trắng, bốn cánh hình chữ nhật cũng mầu trắng, hai cánh trên, hai cánh dưới. Phi cơ bay lượn ba vòng trên đám đất trống khá rộng và đã được dọn dẹp sạch sẽ không có một bụi cỏ. Nhưng nó bay tít vào hướng Nam, một cái chấm đen rồi biến mất làm cho khán giả lại thất vọng, tưởng nó bay luôn. Nhưng một lát sau, nghe tiếng ầm ầm trên trời, mà không thấy nó đâu...bổng từ trong làn mây trên rặng tre xanh, nó xuất hiện ra đột ngột, to lớn như một con chim kỳ quặc kinh khủng, bay lượn mấy vòng nữa, tiếng nó vang động cả vòm trời. Rồi nó lù lù hạ thấp xuống tận nơi xa và chạy thẳng đến giữa phi trường, ngừng lại. Một cái chong chóng còn quay tít, gây ra môt làn gió mạnh, làm bay nón,bay khăn của đám khán giả ngơ ngác. Ai nấy hoảng sợ, cả đám học trò, chạy lui xa năm, sáu bước. Người ta thấy rõ mặt ông Quan Ba hôm trước từ trong phi cơ bước ra tươi cười bắt tay Quan Sứ...
Đó là năm 1920. Cũng như tất cả mọi người trong tỉnh, hai anh em Tuấn được trông thấy chiếc máy bay lần đầu tiên.
Nguyễn VỹTuấn Chàng Trai Nước ViệtCHƯƠNG 51921
- Ông Tú nhà Nho bị tù đày ở Côn-lôn lúc được trả tự do về nhà mở trường dạy chữ Quốc Ngữ, chữ Tây và Toán.
- Sữa hộp con chim ( Nestlé ) là món xa xỉ phẩm chỉ để các quan dùng. - Học trò " đi Tết " Thầy, và đọc " đít cua " mừng tuổi Thầy. - Tình hình các trường Nhà Nước khắp ba kỳ Trung Nam Bắc. - Một bộ đồ Tây gởi vô Saigòn may. - Một ông Đốc học nịnh " Mẫu quốc ". - Một ngày lễ Quốc Khánh Pháp. Và những trò giải trí nhục nhả cho người An-Nam.
Chiếc máy bay lần đầu tiên kiểu Farman 1915, đáp xuống một khu đất hoang gần tỉnh lỵ, một buổi chiều thứ Sáu năm 1920, trước một công chúng vài ngàn người đã gây được một uy tín lớn lao cho người Pháp và thêm được một yếu tố tâm lý vũng chắc cho chính sách chinh phục mà họ gọi là "Bảo Hộ ".Thời kỳ này các nhà Văn Thân có đầu óc ái quốc đã hoạt động chống Pháp từ 1906-1908, theo phong trào Duy-Tân, phong trào xin xâu " giặc đồng bào ", hầu hết đã bị đày đi Côn Lôn, Lao Bảo đều đã lần lượt trở về, và sống yên thường thủ phận. Các ông không hoạt đông chính trị nữa, chỉ mơ trường tư tại nhà dạy học trò. Ông Tú Phong thầy học cũ của Ký Thanh và của Phán Tuấn, sau khi bị đi tù ở Côn Lôn về, liền mở trường dạy chữ quốc ngữ và bỏ hẳn chữ Nho. Người ta ngạc nhiên thấy ông Tú sau chín năm đi tù về, đã cúp tóc carré và cách thức ăn ở đã tiêm nhiễm " văn minh Âu Tây ". Ông viết chữ quốc ngữ rất thạo, và có đem về một quyển tập dầy khoảng 200 trang chép bằng mực tím tất cả những gì ông học được trong nhà lao Côn Lôn. Ông đem quyển tập ấy dạy lại cho đám học trò của ông, độ vài ba chục thanh thiếu niên, con những nhà khá giả nhưng không thích đi học " trường nhà nước ". Nhiều cậu đã lớn tuôi sắp làm ông Hương, ông Xã. Đại khái về Toán thì ông Tú dạy cách đo bóng cây để biết cây cao mấy thước, đo ngọn núi cao, và diện tích hình vuông, hình chử nhật, hình tam giác, hình chữ nhật lệch, hình thoi, v.v...
Ông cho học trò làm những bài toán bằng thơ, thí dụ như sau :
Vừa gà vừa chó
Bó một bó cho tròn 36 con 100 cái cẳng
Hỏi mấy gà, mấy chó ?
v.v..
Về địa dư, ông dạy vẽ địa đồ " ngũ đại châu " và bôi đủ các thứ mầu, vẽ bậy bạ không trúng vào đâu cả, nhưng đại khái cũng phân biệt châu Âu, châu Á, châu Mỹ, vv... Về Lịch sử, ông viết ra một quyển sách quốc ngữ nhan đề " Nam Quốc Sử diễn ca " bằng thơ lục bát. Ông cho học trò học thuộc lòng quyển sử của ông, một bản duy nhất, chép bằng tay, thay vì học " Tứ Thư Ngũ kinh " như ông đã dạy trước kia. Quyển " Nam Quốc Sử diễn ca " của ông Tú mở đầu như sau đây :
Nước ta đã bốn ngàn niên
Hồng Bàng lập quốc con Tiên cháu Rồng Âu Cơ kết với Lạc Long Sanh ra trăm trứng, chuyện không hoang đường Mới nghe thì khó tỏ tường Nhưng dòng Lạc Việt hùng cường biết bao ! Đất nhiều, sông rộng, núi cao, Dân hăm lăm triệu, dễ đâu thua người ! v.v...
Tuy thế, ông Tú cũng thích chữ Tây lắm. Thỉnh thoảng ông dạy học trò của ông học chơi cho vui vài ba câu tiếng Pháp mà ông đã học lỏm được ở Côn Lôn, thí dụ như Bông-xua Bà Đầm, Bông-xua Mông xừ, v.v...
Mồng một Tết, ông Tú đến nhà ông Cử Phạm, chúc mừng bằng một câu tiếng Tây : " Bon-an-nê ! " điểm theo một nụ cười bông đùa rất có duyên. Đó là triệu chứng chữ Pháp đã bắt đầu thịnh hành vào khoảng năm 1920 trong dân gian vậy.
Ông Tú cũng dạy học trò của ông học chữ số của Tây theo giọng ta :
- On. đơ, toa, cách, xanh, xít, nớp, đít, ông, đui..." Hơn nữa, ông Tú đặt tên cho đứa cháu ngoại đầu lòng của ông là Lê văn On ( theo chữ Un của Pháp ), và đứa cháu nội thứ ba là Trần văn Toa ( theo chữ Trois ).
Ông Tú dạy cả khoa vệ sinh nữa, một môn học mà trước kia chính ông cũng chưa biết. Thí dụ ông dạy rằng sáng dậy phải lấy cục than đen trong bếp, chà trên răng rồi súc miệng, cho sạch miệng và sạch răng. Tất cả học trò ông đều làm đúng theo lời ông dạy.
Ký Thanh là học trò cũ của ông Tú, trước kia rất kính trọng thầy, nhưng từ ngày ông bị bắt vì quốc sự và bị đày đi Côn Lôn, chàng không dám nhắc đến tên thầy nữa. Hôm ông Tú ở tù về, bà con trông phố và trong tỉnh mừng rỡ đến thăm tấp nập, chất nhà cửa, và tỏ lòng quyến luyến cảm phục ông Tú. Duy có Ký Thanh là không dám bước chân đến hỏi thăm thầy một câu. Chàng sợ " liên luỵ " đến bổn thân, tìm cách tránh thầy cũ như tránh người cùi.
Phán Tuấn, trái lại, thường đến thăm thầy luôn, tuy rằng hồi nhỏ " thằng Chuột " mới được ông Tú dạy cho học bập bẽ vài chữ " thiên trời, địa đất " mà thôi, vì nhà nghèo nó đâu có đi học được thường xuyên. Nhớ tình thầy trò cũ, Trần anh Tuấn thường đem " kỉnh " ông Tú một gói trà hoặc một cân đường, một chai rượu hổ cốt, một hộp sữa bò. Thời buổi ấy chỉ có một htứ sữa hộp duy nhất là sữa con chim và là một món xa xỉ. Ai có tiền mới mau được một hộp về nhà để dành pha uống cả nửa tháng mới hết. Trong tỉnh chỉ có các nhà quan và các thầy làm việc Nhà-nước, có lương bổng nhiều mới dám uống sữa bò. Cho nên lâu lâu Phán Tuấn đem biếu ông Tú một hộp sữa Nestlé, ông quý lắm, vui mừng cám ơn " thầy Phán ". Mỗi lần Tuấn đến thăm, chàng thích hỏi ông Tú về đời sống của tù ở Côn Lôn. Chàng thích nghe ông Tú kể chuyện các bạn đồng lao của ông như ông Nghè Huỳnh thúc Kháng, ông Nghè Ngô đức Kế, ông Tây Hồ Phan châu Trinh, ông Tú Tân Hội, vv...
Tuấn nghe say mê. Có lần Tuấn khẽ hỏi :
- Thưa thầy, vua Duy-Tân có ở Côn Nôn không ?
- Không. Nghe nói Tây đày Ngài qua đâu tận bên Phi châu lận.
- Thưa thầy còn vua Thành Thái ?
- Ngài, thì hình như cũng bị lưu đồ qua bên đó.
- Vua Hàm Nghi ?
- Vua Hàm Nghi cũng bị đày qua Phi châu.
Tuấn hỏi cho biết thôi, chứ Tuấn không dám thổ lộ tâm sự riêng tư gì của chàng. Chàng biết chàng đang bị Ký Thanh " dòm ngó " và tìm đủ các cách để làm hại chàng. Tuấn đến thăm ông Tú Phong, đã là một hành động táo bạo và liều lĩnh lắm rồi.
Gần Tết, Tuấn-em xin mẹ một đồng bạc, góp với học trò trong lớp mua các món lễ vật để " Tết " thầy lớp Năm. Lớp nào và trường nào học trò cũng tự đông làm việc ấy, để tỏ lòng biết ơn thầy dạy dỗ. Chính cha mẹ học trò cũng rất sốt sắng về việc ấy nữa. Thầy giáo lúc bấy giờ được học sinh kính mến và trọng vọng lắm.
Vì học giỏi nhất lớp, lại hạnh kiểm tốt, nên Tuấn được bạn bè trao tiền nhờ nẹ mua các đồ vật tết thầy : một quả nếp, hai chai rượu, một cân đường bông, và một cân đường phèn. Mấy lớp lớn ( lớp Ba, lớp Nhì, lớp Nhất ), học trò còn đọc " đít cua " để "mừng tuổi " thầy giáo. Học trò lớp Năm còn nhỏ tuổi quá, chưa làm đước " đít cua ", nhưng cha mẹ cũng dạy cho một vài câu lễ phép mà các em học thuộc lòng ở nhà rồi đến đọc cho thầy nghe. Chiều 27 hay 28 tháng chạp, thầy giáo vừa ăn cơm xong, thấy cả lớp học trò của mình toàn tụi con nít 9,10 tuổi, mặc áo đen dài, quần trắng, đi chưn không, rụt rè tiến vô nhà. Mấy em đi đầu bưng mấy quả " lễ vật " tức là quà Tết, cung kính đặt giữa bàn nơi thầy ngồi uống nước trà. Tất cả đều khúm núm, sợ sệt. Thầy giáo đang mặc áo cụt, cũng vội vàng vào buồng mặc áo xuyến dài ra tiếp học trò.
Các em đứng vòng tay rất lễ phép, rồi một đứa được các em đề cử trước - chính là Tuấn-em - cúi đầu xá thầy ba xá, bập bẹ nói một câu mà em đã đước cha mẹ ở nhà dạy học thuộc lòng :
- Dạ bẩm Thầy, năm hết Tết đến, chúng con xin kính lời mừng tuổi Thầy Cô cùng quý quyến và chúng em kính chúc Thầy Cô sang Năm Mới được Phật Trời phò hộ an khương.
Tuấn nói trôi chảy gọn gàng không vấp một chữ, xong cúi đầu xá thầy ba xá. Toàn thể các em đều cung kính cúi đầu xá thầy ba xá.
Thầy giáo ngồi bàn, rưng rưng nước mắt. Thầy cảm động quá không nói sao được, liền đưa tay kéo Tuấn vào lòng thầy và kéo hết cả ba chục em vào đứng lại hết cạnh thầy. Thầy lấy tay âu yếm vuốt đầu tóc các em.
Thầy giáo hồi xưa nghèo lắm. Lương tháng chỉ được 5 đồng bạc chứ đâu có nhiều. Thầy không có gì đãi các em, chỉ bưng trên bàn thờ xuống một quả bánh in của cô giáo vừa làm để cúng. Thầy gọi cô lấy thêm ra ít bánh cúng cho đủ 30 cái bánh để làm quà cho 30 em học trò.
Mỗi em đưa hai bàn tay non nớt ra lễ phép nhận lãnh quà của thầy.
Nhưng tội nghiệp không em nào ăn cả, bỏ túi để đem về khoe với cha mẹ. Các em học trò năm 1920 đã biết quí cái bánh của thầy giáo cho Tết, không phải bởi nó là cái bánh, mà bởi nó là món quà Tết của thầy. Thầy nói mấy lời cám ơn các em, cảm ơn cha mẹ các em, và gởi lời về " mừng tuổi " các bậc cha mẹ. Cô Giáo cũng vui vẻ tươi cười, âu yêm hỏi chuyện từng em.
Cũng buổi tối ấy, học trò lớp nào cũng đi Tết thầy giáo của mình.
Riêng ở lớp Nhất, trò Hường được toàn thể các bạn cùng lớp cử ra đọc bài " đít cua " bằng chữ Pháp để chúc mừng thầy. Bài tự trò làm lấy, vì trò giỏi chữ Pháp nhất lớp. Trò đã làm xong trước đó mười ngày, và chuyền tay nhau cả lớp cùng xem. Xong, trò Liên, con thầy Thông Lễ làm y tá ở tỉnh, nhờ cha đem vào nhà thương đánh máy giùm trên một tờ giấy thật trắng. Trò Quít, đứng đầu về môn vẽ, được các bạn giao cho công việc vẽ một bó hoa thật đẹp, đủ màu, trên đầu tờ " đít cua ".
Tối hôm ấy, cơm nước xong, vào khoảng 7 giờ, 40 học trò lớp Nhất quần áo tề chỉnh, tụ họp tại nhà cậu Hường. Nơi đây, với tiền đóng góp của tất cả lớp, mẹ cậu Hường đã mua sẵn các món lễ vật đựng trong 5 quả lớn. Năm cậu tình nguyện bưng 5 quả, rồi tất cả cùng đi đến nhà thầy ở một đường hẻm tối om trong thành. Chó sủa vang dậy cả xóm. Thầy giáo lớp Nhất đang nằm võng ru con ngủ, nghiêng mình ngó ra sân thấy lố nhố những bóng đen. Cô giáo cầm chiếc đèn Huê-kỳ đứng cửa rọi ra, quay vào nói với chồng " Học Trò ! ". Cô ôm con ra để cho Thầy được rảnh. Thầy vào nhà trong, mặc áo lương dài kết nút xương, ra ngồi ghế tràng kỷ để tiếp học trò của thầy.
Sau khi 5 cậu đặt 5 quả lễ vật trên bàn, ai nấy đều im lặng vòng tay đứng sau Hường. Cậu Hường cầm tờ giấy đánh máy có vẽ bó hoa vạn thọ, xá thầy ba xá, rồi cung kính đọc. Giọng cậu run run như sợ sệt. Xin chép nguyên văn một bài Pháp-ngữ của học trò lớp Nhất tự làm ra để chúc mừng năm mới thầy giáo, ngày Tết năm 1921 : ( tài liệu của ông Trần văn Tính, thân phụ một học sinh trường Pháp-Việt, năm 1921)
Monsieur et Cher Maître
A l'occasion du Nouvel An qui va venir, nous, vos petits élèves respectueux et obéissants, avons l'honneur de vous adresser, ainsi qu'à votre honorable famille, nos voeux les plus fervents de Bonheur, de Richesse et de Longevité.
Monsieur et Cher Maître,
Vos bienfaits sont comparables à la montagne Thái Sơn, vos Vertus sont immenses comme la Mer de l'Est. Vous êtes au-dessous du Roi mais au-dessus de nos parents que nous aimons et respectons également. C'est pourquoi nous ne pouvons pas vous exprimer toute l'instruction que vous nons donnez.
Nous vous prions de vouloir bien pardonner notre language maladroit. Mais notre respect est grand à votre égard, notre gratitude est profonde. Dans notre vie nous ne pourrons jamais oublier notre Maître bien-aimé.
Veuillez agréer, Monsieur et Cher Maître, l'expression de notre très humble reconnaissance.
Vos élèves très dévoués du Cours Supérieur.
Tết, 1921.
Lời văn quả thật còn ngây ngô, nhung cách đặt câu đã khá vững, văn phạm đã đúng đắn, diễn tả không đến nổi vụng về lắm.
Xin dịch nguyên văn :
Thưa thầy kính yêu,
Nhân dịp năm mới sắp đến, chúng con, bọn học trò của Thầy, cung kính và biết nghe lời, hân hạnh dâng lên Thầy cùng tôn quyến, những lời nồng nhiệt kính chúc Thầy : Phước, Lộc, Thọ.
Thưa thầy kính yêu,
Ơn của Thầy như núi Thái Sơn, đức của Thầy rộng mênh mông như biển Đông. Thầy ở bậc dưới Vua, nhưng ở bậc trên cha mẹ chúng con, mà chúng con cũng yêu kính vậy. Cho nên chúng con không thể nào diễn tả hết được tất cả những sự biết ơn mà chúng con cảm từ trong đáy lòng vì nền giáo dục mà Thầy đã ban cho chúng con. Chúng con xin thầy tha thứ cho lời vụng về. Nhưng sự kính trọng của chúng con rất là sâu xa. Trong đời chúng con sẽ không thể nào quên được bậc Hiền sư yêu dấu.
Kính xin Thầy nhận nơi đây lòng tri-ân hèn mọn của chúng con.
Học trò rất tận tâm trung thành với Thầy ở lớp Nhất.
Tết 1921
Lúc bấy giờ các trường nghỉ Tết được nửa tháng, từ 22 tháng chạp ta đến mồng tám, hoặc mồng mười tháng Giêng. Trong mấy ngày nghỉ Tết, đa số học trò bị nhiễm một tật thông thường của đa số các bậc phụ huynh, là cờ bạc. Ở tỉnh nào và Phủ, Huyện nào cũng thế cả.
Có năm loại cờ bạc trong mấy ngày xuân :
1) giới quý phái, quan liêu, các quan lớn, quan nhỏ, thì đánh tổ tôm, tài bàn ( nhất văn, nhị văn, tam văn...chi chi, cửu vạn, bát sách ) v.v...
2) giới bình dân phong lưu thì đánh Kiệu ( thất kiệu, tam kiệu ).
3) giới bình dân đại chúng, nhất là phụ nữ, thì đánh Tứ sắc ( tướng xanh, tướng đỏ, tướng vàng, tướng trắng, tốt xanh, tốt vàng v.v...) hoặc bài Tam cúc ( ông Ẩm, ba Tiền, tám Tiền, v.v...).
4) giới cờ bạc chuyên môn thì Hốt Me, Xóc đĩa, Bài cào, Xì lác, các tê.
5) sau cùng là học trò và con nít thì đánh lú : Tam Túc Lượng Yêu ( tam là ba đồng tiền, túc bốn đồng, lượng hai đồng, yêu một đồng ).
Trong mấy ngày Tết, hầu hết các gia đình đều tổ chức đánh bài như thế, tuy là để " tiêu khiển " trong mấy ngày Xuân, nhưng cũng ăn thua tiền bạc quá nhiều và rất ham mê.
Cờ bạc công cộng thì có bài chòi, do làng xóm tổ chức. Lối chơi bài chòi công cộng này rất vui, rất dễ quyến rũ ngưởi ta. Thường thường một nơi xa kéo đến, có khi từ Huyện nọ sang Huyện kia, đến vài chục cây số. Hội Bài Chòi thường khai mạc sáng Mồng Một Tết và kéo dài đến Rằm tháng Giêng. Lối chơi này riêng biệt ở Trung Kỳ, rất thông dụng. Ở miền Bắc và miền Nam không có.
Đám thanh niên và học sinh vùi đầu vùi cổ trong các canh bài, đêm nào cũng thức thật khuya, có đêm thức tới sáng. Vì học trò có ít tiền nên mãn canh bạc, ăn thua chỉ trong vòng năm bảy tiền, hay một quan là nhiều.
Phải nhận xét vô tư và xác thực rằng tất cả những cuộc cờ bạc trên kia chỉ thịnh hành trong mấy ngày xuân thôi. Trừ ra một vài gia đình tiếp tục chơi đến hết tháng Giêng, còn hầu khắp các nơi hết Tết là hết cờ bạc. Các bộ bài được gói cất kỹ lưỡng trong tủ, và ai nấy lo làm ăn.
Học trò cũng thế. Hết nghỉ Tết, bắt đầu học trở lại, phần nhiều học sinh lo học, không đánh bài nữa. Dù có muốn chơi cũng không dám chơi, vì bài học và bài làm rất nhiều, đâu có thì giờ rảnh rang nữa.
Trừ một thiểu số lười biếng, phần nhiều là con nhà giàu, được cha mẹ cưng, còn hầu hết học sinh thời trước đều chăm chỉ học tập, sợ thầy phạt, và lo tranh đua với chúng bạn. Học không thuộc bài, bị thầy cho zéro trong sổ điểm, là một cái nhục lớn cho người học trò, đối với bạn bè trong lớp. Học trò thuở trước biết tự trọng, do đó mà biết cố gắng.
Xã hội Việt Nam từ 1910 đến 1950 không có hạng thanh niên lêu lỏng, truỵ lạc, quá nhiều như ngày nay. Chính ở hai đô thị xa hoa rộn rịp nhất là Saigon, Hà Nội, số thanh niên trác táng cũng không có bao nhiêu.Hoạ chăng chỉ là một thiểu số con nhà giàu, mà cha mẹ để cho ăn chơi tự do, bọn công tử, công tôn xài phí hoang đường, cậy quyền, ỷ thế, có những hành động ngang tàng mất dạy. Còn hầu hết thanh niên đều cố gắng học hành thi cử, để kiếm công ăn việc làm. Tuỳ theo khả năng của mình, tất cả đều được tiếp nhận trong các công sở, tư sở, nhà buôn, nhà máy, và các ngành hoạt động khác trong xứ. Luân lý gia đình chặt chẽ, kỷ luật học đường nghiêm khắc, chương trình học vấn điều hoà, có căn bản, và phong độ chung của xã hội Việt Nam được lành mạnh, tốt đẹp, để bảo đảm cho thanh thiếu niên Tiền-chiến một đời sống tinh thần và vật chất thăng bằng, không bê bối, không hỗn loạn.
Thanh niên 1920-1940, có lễ độ, không hỗn láo, không xấc-xược. Đối với thầy họ không lỗ mãng, đối với bạn không lơ là, với mọi người trong xã hội họ giữ được tư cách đứng đắn, gương mẫu của người học trò. Tuy học chữ Tây, nhiễm văn minh vật chất của Âu Tây nhưng họ vẫn điều hoà được cả hai tinh thần đông phương và tây phương. Nhờ đó họ đã xây dựng một thế hệ trung bình, phấn chấn, không rụt rè thoái bộ, mà cũng không hời-hợt, lăng nhăng.
Tuấn-em lớn lên giũa một xã hội mới đang phôi thai trong tiến bộ, hấp thụ một dưỡng khí học đường lành mạnh, tinh khiết và mát dịu. Tinh thần chủng tộc càng nẩy nở mạnh mẽ trong tâm khảm nó. Bao nhiêu những rực rỡ tân kỳ của văn minh Pháp quốc, như tầu bay, xe hơi, giây điện, giây thép, đồng hồ và trăm ngàn máy móc mới lạ, tuy khiến cho nó kính phục, nhưng không sao biến đổi được tính chất thuần tuý của giống nòi đã khắn khít như keo sơn, như cội rễ, trong giòng máu Việt Nam của nó.
Những kẻ "phục Tây sát đất ", và nịnh Tây theo Tây tôn người Pháp là " quan Thầy, tôn nước Pháp là " mẫu quốc ", chỉ có một số rất ít thôi. Đó là những kẻ muốn tăng cường địa vị cá nhân, muốn khuếch trương quyền lợi riêng, muốn dựa thế người Pháp để xây dựng danh vọng, vinh hoa, phú quý cho họ và cho gia đình họ. Những kẻ ấy không ảnh hưởng chút nào đối với đại đa số thanh thiếu niên, nhất là thanh thiếu niên học sinh ở các trường Pháp-Việt.
Nhân vật điển hình của hạng nịnh Tây, năm 1920 ở tỉnh Q., thuộc về giới " thượng lưu trí thức " lại chính là ông đốc học Phạm văn Mỗ. Tốt nghiệp trường Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương ở Hà Nội, ông là người Nghệ An được bổ nhiệm vào tỉnh Q. thay thế cho ông đốc học Pháp đổi đi nơi khác. Ông là một trong số người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp trường Cao Đẳng Sư Phạm ( trường này mới được chính phủ thuộc địa thành lập tại Hà Nội, năm 1914 ), và cũng là người Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm làm Đốc học tại trường Tiểu học Pháp Việt ở tỉnh (Ecole de Plein Exercice ). Ông độ 30 tuổi, người thấp và nhỏ, luôn luôn nói tiếng Pháp, ít khi nói tiếng Việt.
Năm 1920, ở các tỉnh toàn xứ hãy còn ít người An-Nam mặc Âu phục. Các thầy Thông, thầy Phán làm việc các Toà, các sở, các thầy giáo, đều mặc áo dài đen dài, mang giầy Hạ, đội mũ, hoặc chít khăn đen. Ở tỉnh Q. quan Đốc học Phạm văn Mỗ là người đầu tiên mặc âu phục và " quan " chỉ mặc đồ tây, không bao giờ mặc đồ An-nam cả. Ấy thế mà một năm sau, một thầy giáo lớp Tư cũng bắt chước mặc âu phục như quan Đốc thì quan Đốc không bằng lòng và thù ghét tìm cách đuổi thầy đi khỏi trường. Nghe nói thầy đi vô Đồng Nai, Gia Định !
Chỉ tội nghiệp cho thầy giáo lớp Ba. Cũng như thầy lớp Tư, thầy này cũng bắt chước may một bộ đồ tây, sắp sửa mặc đi dạy học. Học trò đến nhà thầy, thầy lấy bộ áo tây mới may đem ra khoe, có vẻ hảnh diện và vui sướng lắm. Học trò cũng thích thầy mặc đồ tây cho oai. Nhưng thấy cái gương thầy lớp Tư như thế, thầy lớp Ba vội-vàng xếp bộ đồ tây cất vô tủ, không dám lấy ra mặc nữa.Đến đổi chủ nhật thầy đi dạo chơi ngoài phố, hoặc đến chơi nhà các thầy khác, thầy cũng không dám mặc đồ tây, sợ có ai mét lại với quan Đốc thì nguy !
Mỗi buổi chiều thứ Năm nghỉ học, Tuấn-em đến thăm thầy, thầy than thở với Tuấn :
- Ở tỉnh mình không có thợ may đồ tây, và cũng không có tiệm nào bán vải may đồ tây, sẵn có người bà con đi Đồng Nai buôn bán, thầy gởi tiền nhờ họ vô Đồng Nai mua vải và mướn thợ may cho thầy một bộ. Không dè ông Đốc không muốn cho thầy giáo mặc đồ tây, thành thử thầy phải bỏ. Thầy tiếc quá !
Tuấn hỏi :
- Thưa thầy, thầy thuê thợ Đồng Nai may hết bao nhiêu tiền ?
- Thầy để dành nửa tháng tiền lương mới đủ mua hàng tissu và may được bộ đồ complet đó.
Tuấn-em nghe thầy nói, thương thầy lắm. Học trò cả lớp đều thương thầy không đứa nào dám chế nhạo về vụ đó. Đối với ông Đốc, các thầy giáo và học trò cả trường đều sợ.
Buổi học cuối niên khoá, trước kỳ nghỉ hè 3 tháng, từ đầu tháng 7 dương lịch, ông Đốc vào từng lớp căn dặn học trò. Dĩ nhiên ông nói tiếng Pháp. Học trò lớp Năm và lớp Tư không hiểu nổi, các thầy giáo dịch lại tiếng An-nam :
- Ngày mai 1 tháng 7, bắt đầu nghỉ Hè. Nhưng các trò ở xa không được về quê vội. Vì ngày 14 tháng 7 là ngày lễ Quốc-khánh của nước Đại Pháp, có quan Công Sứ chủ toạ cuộc diễn binh long trọng. Tôi muốn toàn thể học trò trường tỉnh phải đến đông đủ dự buổi lễ ấy. Vậy sáng ngày mai, và liên tiếp trong 7 ngày, học trò lớp Nhất, lớp Nhì và lớp Ba, phải tới trường để tập hát bài quốc ca Pháp, là bài La Marseillaise. Phải tới đông đủ, học trò nào vắng mặt sẽ bị phạt consigne. Ngoài ra, tất cả học trò các lớp phải nói với cha mẹ mua vải xanh vải đỏ may cho mỗi trò một lá cờ Tam Tài, xanh-trắng-đỏ, lá cờ của Mẫu quốc, để ngày 14 Juillet cầm đi dự lễ. Sáng 14-7, đúng 6 giờ các trò và các thầy giáo phải tề tựu đông đủ tại sân trường, mặc áo dài trắng sạch sẽ, và mỗi trò cầm một cây cờ Tam Tài lớn bằng một tờ giấy tây, sắp hàng tề chỉnh, để các thầy giáo dẫn đi dự lễ Quốc-khánh, và chào mừng quan Công Sứ. Trò nào khiếm diện hôm đó, sẽ bị đuổi luôn.
Ông Đốc học Phạm văn Mỗ truyền huấn lệnh rõ ràng, và nghiêm khắc như thế, rồi ra về.
Tuấn-em về nhà nói chuyện lại cho anh và cha mẹ nghe lời căn dặn củ ông Đốc. Thím Ba, mẹ Tuấn, nói :
- Không lẽ may một lá cờ tam sắc nhỏ bằng tờ giấy tây mà phải đi mua ba thứ vải ba màu sao ! Mẹ cắt một tấm vải trắng ra thành ba, mẹ mua phẩm xanh, phẩm đỏ về nhuộm hai miếng, rồi mẹ may lại, được không ?
Thưa mẹ, không được đâu. Ông Đốc bảo phải mua vải xanh, vải đỏ.
Nhưng Phán Tuấn ngắt lời em :
- Ông Đốc bảo thế, kệ ổng. Mẹ cứ nhuộm vải trắng rồi may. Miễn có cờ ba sắc là được...Nhưng Ông Đốc này làm lố quá. Ngỉĩ hè, không cho học trò về quê thăm cha mẹ, bắt ở lại đến 14-7 để đi chào mừng ông Sứ là nghĩa lý gì ? Lễ Quốc-khánh của Tây, chớ của An-nam sao ? Nếu muốn dẩn học trò đi chào ông Sứ, thì học trò ở tỉnh được hơn trăm đứa cũng đủ rồi, cần gì phải bắt học trò quê ở các Phủ huyện xa phải ở lại ? Ông Sứ có bắt buộc như thế đâu ?
Tuấn-em hỏi anh :
- Lễ 14-7 là lễ gì, anh Hai ?
Phán Tuấn lấy sách Sử Ký Pháp ra giảng cho em hiểu :
- Đấy là một ngày lễ kỹ niệm cuộc Cách mạng Pháp. Dân chúng Pháp uất ức vì bị nhà Vua hà hiếp, thuế má nặng nề, nên họ nổi dậy phá tan ngục Bastille, và đòi bắt chém vua...
Tuấn kể dài nữa, thật dài và thật rõ ràng đầu đủ về cuộc Cách mạng nổi dậy ngày 14 tháng 7 năm 1789, ở Paris...
Tuấn-em nghe say mê lời anh thuật chuyện và sáng hôm sau cũng phải đến trường tập hát bài quốc Pháp, La Marseillaise, theo lịnh của ông Đốc.
Sáng ngày 14-7, Tuấn-em phải cầm lá cờ Tam tài đến trường đúng 6 giờ. Học trò và các thầy giáo đều đến đông đủ, đếm tất cả trường được 415 trò dưới sự chỉ dẫn của 10 thầy giáo. Học trò sắp hàng hai trước sân trường đúng 7 giờ, ông Đốc Phạm văn Mỗ đến. Ông mặc bộ đồ tậy mới, toàn màu trắng, mang giày trắng, đội mũ trắng. Ông bảo học trò lớp Nhất, lớp Nhì, lớp Ba hát bài quốc ca Pháp cho ông nghe. Trò nào hát sai giọng, hoặc sai một chữ, bị ông đánh một tát tai nẩy lửa. Nét mặt giận dữ, ông la hét om sòm làm cho các thầy và toàn thể học sinh hoảng sợ. Đúng 7 giờ 30 phút, ông ngồi trên chiếc xe keo nhà sơn đen, bánh cao su, do một người cu-li mặc quần áo mới kéo ra Sở Cò, trên đường Cửa Tây, là nơi hành lễ. Các thầy dẫn học trò sắp ngay hàng thẳng lối, mỗi trò cầm một cây cờ Tam tài, lặng lẽ đi sau xe ông Đốc. Học trò sắp hàng trên lề đường phố, đối diện khán đài.
Linh khố xanh ( lính Tập ) độ trăm người, mặc lễ phục oai vệ, cầm súng cắm lưỡi lê sáng quắc, đứng sắp hàng trên lề đường bên kia, hai bên khán đài. Dân chúng đứng xem đông nghẹt, chung quanh khán đài và trên các đường phố, chen lấn nhau chật ních, không còn một chổ hở.
Sau khi ông Công Sứ và các quan khách đến đúng 8 giờ 30, và lính thổi kèn, bồng súng chào, ông Đốc học Phạm văn Mỗ bước ra trước mặt ông Sứ, đọc bài diễn văn bằng tiếng Pháp. Bài diễn văn rất dài, đại khái có một đoạn hùng hồn như sau đây :
" Oh France magnanime ! Oh France Bienfaitrice de l' Humanité ! Oh Mère Patrie ! Combien, nous, les Annamites, vos fils adoptifs, vos fidèles protégés, nous sommes fiers ce jour glorieux qui porte la marque sublime de la grandeur francaise !..."
Ông Đốc bảo một thầy giáo đọc bản dịch quốc ngữ cho mọi người nghe :
" Hỡi nước Đại Pháp khoan hồng đại lượng ! Hỡi nước Đại Pháp ân nhân của nhâ loại ! Hỡi Mẫu quốc ! Chúng tôi, người An-na-mít, là những đứa con nuôi của nước Pháp, những con trung thành được nước Pháp bảo hộ, chúng tôi hãnh diện xiết bao trong ngày hôm nay, ngày vinh quang của nước Pháp vĩ đại !..."
Các quan Tây-Nam vỗ tay như sấm dậy. Theo huấn lịnh của ông Đốc dặn trước, ông đọc xong bài diễn văn, lúc học trò phải phất cờ tam tài của Pháp và hát lên bài quốc ca La Marseillaise...
Ông Công Sứ cảm động quá, đứng dậy gắn một chiếc mề đay trên ngực ông Đốc học Phạm văn Mỗ, và ôm hôn ông...
Lễ Quốc-khánh của nước Pháp, ngày 14 tháng 7 dương lịch, được gọi là " lễ Chánh-chung ". Không biết ông quan nào của Nam-triều, hay thầy Thông, thầy Phán nào của chính phủ Bảo hộ, đã đặt ra danh từ lạ lùng ấy mà không ai hiểu ý nghĩa đích xác là gì cả. Có nhiều ông Tú, ông Cử nhà Nho nói rằng đúng chữ là "Chánh - Trung ", nghĩa là ngày lễ đúng vào giữa năm. Ngoài ra, còn có một danh từ khác thông dụng hơn, là lễ " Cách -tót-duy-dê ", phiên âm theo tiếng Pháp.
Trừ ngày Tết Việt-Nam có tính cách nghi lễ gia đình nhiều hơn, người ta có thể nói rằng " lễ Cách-tót-duy-dê " là một ngày đại hội toàn quốc tưng bừng náo nhiệt nhất trong năm, dưới thời đô hộ Pháp ở xứ ta. Sáng sớm tinh sương Tuấn-em vừa thức dậy đã nghe tiếng kèn lính tập thổi một bài quân nhạc đặc biệt vang lừng khắp tỉnh. Ngoài đường phố đã thấy lính khố xanh rộn-rịp, mặc toàn quân phục trắng của những ngày đại lễ. Sau nghi lễ chính thức có ông Đốc học Phạm văn Mỗ đọc diễn văn suy tôn ông Công Sứ, và tâng bốc nước Đại Pháp, và sau một cuộc " diễn binh" có hai anh lính khố xanh thổi kèn đi đầu, Toà Sứ có tổ chức những cuộc vui công cộng mà dân chúng nô nức từ các làng kéo vể tỉnh để xem. Trước sân chợ, có một môn giải trí do Quan Tuần Phủ bày ra. Trên khán đài đông đủ mặt các quan Tây, quan An-nam, và các bà Đầm ngồi hàng ghế danh dự, một thiếu phụ Pháp cầm một cần câu treo một cái chảo dính đầy lọ nghẹ. Dưới đít chảo có dán một đồng bạc trắng. Quan Tuần giảng nghĩa trò chơi cho công chúng nghe :" Ai muốn lấy đồng bạc kia, thì phải lấy khăn cột hai tay sau lưng, đứng dưới cần câu, ngước mặt lên đít chảo và đưa miệng lên cắn lấy đồng bạc ". Nếu cần câu để yên một chổ thì trò chơi không khó khăn gì, nhưng cô Đầm quái ác ngồi trên khán đài cố ý cầm cần câu nhử mồi như cầm cục xương đưa cao lên để nhử con chó vậy. Cô hạ cần câu xuống gần miệng người ham đồng bạc đang dùng mọi cử chỉ lanh lợi để đưa miệng lên táp vào đít chảo sắp sửa thành công, thì cô Đầm lại dựt cần câu lên, cái chảo cũng lắc lư ra xa. Người ham đồng bạc đã không cắn được đồng bạc mà mặt mủi lại bị dính đầy lọ nghẹ.
Các quan Tây, quaun An-nam, và các bà Đầm, cô Đầm đều cười rũ rượi, khoái chí lắm. Khán giả "An Nam " cũng cười rùm lên.Người ham đồng bạc vẫn không thất vọng, cứ chườn cái mặt lọ lem kia ra, cố há miệng cho to táp vào đít chảo, mong táp trúng đồng bạc...
Tuấn-em đứng xem cũng tức cười như mọi người. Nhưng anh nó, thầy Phán Tuấn, sa sầm nét mặt, bảo nó :
- Em muốn xem nữa, cứ đứng đây xem, hay là xem các trò khác. Anh đi về.
Tuấn-em còn con nít, ham vui, đi coi khắp các trò chơi công cộng, như leo cột mỡ, bịt mắt bắt vịt, đua xe kéo, keó thùng nước đừng cho đổ ra ngoaì, v.v...
Phán Tuấn về nhà, nghĩ laị cuộc chơi của " người An-nam liếm đít chảo " trong ngày lễ Quốc khánh Pháp, cho rằng đây là một trò chơi nhục nhã cho ngươì Việt. Nhưng còn biết bao nhiêu caí nhục nhã nữa kể sao cho hết ? Kể cho ai nghe ? Mà ai dám nghe ? Tuấn làm thông phán đầu toà, hàng ngày gần gũi với các ông Công Sứ Pháp và các quan Tây, các quan ta, các ông tổng, ông xã, đã mắt thấy tai nghe biết bao nhiêu những chuyện nhục nhã, đê tiện, khốn nạn, bỉ ôỉ, do chính hạng " An-nam nịnh Tây " nêu gương ra. Họ tưởng làm vui ông Tây, nhưng chính ông Tây chê cười, khinh bỉ. Gặp những viên quan cai trị Pháp biết tôn trọng dân tộc Việt Nam, thì mình xâú hổ, vì họ vẫn theo thành kiến dân chủ và tinh thần bình đẳng. Nhưng một số đông người Pháp đã có kỳ thị chủng tộc, nhiễm thói tự cao tự đaị với dân thuộc điạ, laị gặp những " người an nam mít " tâng bốc họ một cách đê tiện, vô liêm sỉ thì họ càng lên mặt vênh-váo, khinh khi cả giống người Việt và chà đạp lên dân ta như loài trùn dế vậy thôi.
Cuộc vui liếm đít chảo để lấy một đồng bạc, tự nó có thể được coi như một trò chơi bình dân, thật ra không đến nỗi xúc phạm đến quốc thể của một nước, nhưng chính vì do các " quan Đại Pháp - chủ trương, do các " quan An nam " bày đặt, và cả một công chúng " An Nam " đông đảo đứng xem và vỗ tay cười trước mặt Tây và Đầm, cho nên Tuấn thấy thương tổn đến phẩm giá của người Việt, và chạm đến lòng tự ái dân tộc của chàng.
Mặc dầu Trần anh Tuấn đương là một kẻ giúp việc cho Tây, ăn lương của "Nhà Nước Bảo Hộ" nhưng Tuấn đã được thấm nhuần tư tưởng ái quốc của vua Duy-Tân, vua Thành-Thái, lúc Tuấn còn là học sinh trường Quốc Học Huế. Cho nên một cuộc chơi liếm đít chảo bày ra mà đa số đồng bào chỉ biết hùa nhau vỗ tay cười, Tuấn lại cho là nhục nhã.Tuấn bùi-ngùi đau xót, tức giận, mà âm thầm không dám nói với ai.
Năm 1923, ở tỉnh có một đám rước " thầy Tú vinh qui " thật là vui. Người ta nô nức đi xem đông vồ số kể. Đối với đám rước của Lê văn Thanh hồi chàng mới thi đỗ bằng tiểu học " ri-me " ở tỉnh thì đám rước này còn linh đình hơn nhiều.
Thầy Tú tân khoa là con một ông bá hộ có theo đạo Thiên Chúa. Cậu cũng học trường Quốc Học Huế, thi đậu bằng Thành Chung, lúc bấy giờ có một số người gọi là " Tân khoa Tú Tài ". Cũng như Trần anh Tuấn vậy. Kể ra năm 1923, lớp học sinh thi đỗ bằng Thành Chung ở Huế, Vinh, cũng như ở Hà Nội, Nam Định,Saigòn, Cần Thơ v.v...đã nhiều rồi, không phải hiếm hoi như ba, bốn năm về trước, nhưng ở tỉnh Q.., toàn tỉnh chỉ có chừng năm người. Hầu hết chỉ học đến lớp đệ nhị niên, đệ tam niên., (2è Année,3è Année Primarie Supérieur ) đã thi ra làm thầy Thông ở các công sở như Thương chánh, Kho bạc, Bưu điện, Kiểm lâm, hoặc làm trợ giáo.
Một số ít con nhà khá giả mới học thi bằng Thành Chung ( cũng gọi tắt là thi Diplôme).
Lúc mới mở các học đường thì chính người Pháp bày ra việc rước các cậu tuyển sanh và tú tài tân khoa, sau đó vài ba năm họ bỏ lệ ấy. Nhưng ông Bá hộ muốn khoe khoang, nên tự ý tổ chức riêng việc rước con trai của ông mới thi đỗ ở Huế. Cậu Tú mặc áo gấm, mang giầy hạ, đội mũ trắng, ngồi trong chiếc cáng. Có phường nhạc bát-âm và cờ xí loè-loẹt, chuông trông vang lừng. Đám rước phải đi gần mười cây số và đi thật chậm, để cho dân chúng các làng, các tổng ở khắp nơi kéo nhau đi coi mặt " thầy Tú vinh qui ".
Về nhà, ông bá hộ tổ chức một buổi tạ ơn Chúa và tạ ơn Đức Mẹ tại nhà thờ Đạo trong tổng. Các cha sở và gần trăm bà con họ Đạo tham gia. Xong rồi ông giết ba con bò và năm con heo khao đãi dân làng và quan khách liên tiếp ba ngày đêm.
Tiếng đồn gần đồn xa, đến đỗi bọn ăn mày ở khắp tỉnh có đến năm, sáu chục người, già trẻ,lớn bé, đàn ông đàn bà xách bị, chống gậy, bưng nồi, bưng thúng, tổ chức thành một đoàn kéo đến ngồi chật cả sân ông bá hộ để xin một bửa ăn khao mừng thấy Tú tân khoa.
Còn những bà con của thầy Tú, họ nội, họ ngoại, xa lắc xa lơ từ mấy đời cũng lần lượt về mừng " cậu Tú nó ", "anh Tú nó "...Kẻ vuốt ve, người ngắm nghía, trầm trồ khen ngợi không hết lời. Thi đỗ bằng Trung học về làng, chàng thanh niên 1923 vẫn còn được trọng vọng như một vị anh hùng của xóm làng, huyện, tổng.
Quan Tuần, quan Phủ, có con gái lớn 15, 16 tuổi, cũng lăm le muốn gả con cho thầy Tú tân khoa. Thôi thì mai mối tấp nập. Nhiều cô gái trong tỉnh hồi hộp ước muốn làm cô Tú.
Tết năm ấy, làng sở tại có tổ chức một cuộc chơi Bài Chòi, sáng Mồng Một thầy Tú đước mời đến ngồi ghế tràng kỷ với các vị bô lão.
Tuấn-em đi xem về, thèm thuồng, hỏi anh nó :
- Anh Hai, anh cũng đỗ thành chung trước người ta sao anh không làm lễ rước tân khoa ?
Phán Tuấn mỉm cười :
- Ở đời, có người thích thế này, có người thích thế khác. Chừng nào em học giỏi, thi đỗ, em có muốn được đón rước như thế không ?
- Không, em bắt chước anh Hai.Anh Hai làm sao, em làm theo vậy.
Nguyễn VỹTuấn Chàng Trai Nước ViệtCHƯƠNG 61923
- Hội " Như Tây du học " của các quan.
- Thanh niên Nam-Trung-Bắc du học ngoại quốc từ năm 1900 đến 1930. - Con gái Quan Thượng Thư đi du học ở Paris về, lấy tên Tây, ghê tởm nước mắm, và không biết cầm đũa ăn cơm. - Con vua bằng đồng, mừng lễ Tứ-tuần Vua Khải-Dịnh " Đại Nam Hoàng Đế ". - 20 thanh niên khiêng con voi ra Huế. - Cả tỉnh chỉ có 4 cô nữ sinh lớp Nhất, học chung với con trai. - Cô học trò 16 tuổi, xưng "con" với Thầy giáo 20 tuổi. - Phụ nữ đứng đắn ở Bắc chỉ mặc quần đen để phân biệt với bọn gái điếm quần trắng. - Y phục phụ nữ Bắc - Trung - Nam.
Các quan Thượng Thư của triều đình Huế nhận thấy rằng các trường Sơ học, Tiểu học và Cao đẳng tiểu học 1 ở khắp ba kỳ, và ngay đến cả trường Cao đẳng Đông Dương ở Hà Nội, chỉ đào tạo các thanh niên trí thức vừa đũ khả năng làm việc cho hành chánh thuộc địa trong xứ, chứ không thể học lên cao được nữa, bèn lập ra một hội tên là " Như Tây Du Học Hội " để tuyển lựa một số thanh niên học sinh, cấp học bổng cho đi du học bên Tây. Cũng như ngày nay chính phủ cấp học bổng cho một số học sinh du học hải ngoại vậy.
Dưới thời thực dân phong kiến, những thanh niên được may mắn xuất ngoại đều là con cháu của các cụ Thượng Thư các Bộ, hoặc trong gia đình bên nội hay bên ngoại. Hoặc là con của các Quan Tổng Đốc, Tuần Phủ, có thần thế " có chưn trong chưn ngoài ", nhờ các cụ Thượng-thơ và các quan Tây gửi gấm, hoạ may mới được đi Tây học. Các " ông lớn " đã giàu có, phần nhiều con cháu của các ông lại học kém thua con nhà bình dân, trung lưu, nhưng họ vẫn được cấp học bổng đầy đủ, có khi dư dã, để sang Pháp học. Họ học về văn minh tiến bộ thì ít mà học cách ăn chơi xa xí thì nhiều. Ấy là nguyên nhân cho ta hiểu vì sao cùng một lúc thanh niên Nhật và Ấn Độ du học bên Âu-Tây mà khi thành tài sau mấy năm chuyên cần học hỏi, họ đem về tất cả những khả năng kỷ thuật mới lạ, những bí quyết văn minh khoa học để mở mang kinh tế, kỷ thuật của xứ sở họ, không kém thua các nước Tây phương bao nhiêu. Còn du học sinh An-Nam đi Tây năm sáu năm trời, chỉ đem về một mớ kiến thức đủ làm công cho người Pháp ở thuộc địa mà thôi.
Người ta có thể đếm trên đốt ngón tay số thanh niên An-Nam đi du học bên Pháp " thành tài " trở về quê hương trong thời gian từ 1900 đến 1930, cả ba kỳ, Nam,Trung,Bắc. Vài ba ông kỷ sư Cầu Cống, kỷ sư Canh Nông, theo dân Tây, lấy vợ Đầm, hoặc chủ trương một đường lối chính trị úp mở, ví quyền lợi cá nhân hơn là quyền lợi Tổ Quốc, Dân Tộc. Một số Bác sĩ Y-khoa, năm bảy ông Tiến sĩ Luật-khoa, vài ba ông Cử nhân, Tiến sĩ văn chương.
Người ta không thấy những ông ấy làm được một việc gì ích quốc lợi dân cả. Họ không để lại được một thành tích gì vẻ vang cho xứ sở. Trừ ra một nhóm vài ba sinh viên ở Nam kỳ đi Tây về hoạt động Cách Mạng, gây ra phong trào sôi nổi, chứng tỏ tinh thần quật khởi của Dân Tộc, còn thì bao nhiêu sinh viên khác chỉ lo Vinh Thân Phì Gia, chẳng góp được một phần xây dựng nào cho xã hội đang vươn lên với văn minh thế giới. Hầu hết thế hệ thanh niên " Như Tây Du Học " của thời Pháp-thuộc, chẳng đem về cho Đất Nước một tiến bộ nào xứng đáng.
Trái lại, người ta đã thấy biết bao nhiêu những điều lố lăng nhục nhã cho đám thanh niên du học ở Pháp về nước, phần nhiều là VONG BỔN.
Một buổi sáng thứ Hai, niên khoá 1924-24, Tuấn-em ngồi học trong lớp Nhất, giờ luận Pháp văn, do chính ông Đốc học Phạm văn Mỗ dạy. Bổng anh cai trường đứng ngoài cửa lớp, lễ phép nói với ông Đốc :
- Dạ bẩm quan, có cậu Ấm con trai cụ Tuần-vũ, đi Tây về, đến thăm quạn
Ông Đốc học ỷ mình là cựu sinh viên trường Cao đẳng Đông Dương Hà Nội, và hiện làm quan Đốc học tại tỉnh, một bậc thượng lưu trí thức nào có kém ai, nên ông tỏ vẻ ganh ghét cậu Ấm, con quan Tuần-vũ, học bên Tây về đã chắc gì hơn ông. Nhưng không lẽ không tiếp, ông bảo người cai trường :
- Cho người ta vào.
Trò Tuấn thấy một chàng thanh niên mặc đồ Tây, tóc chải láng mướt, mang giầy tây đen bóng, không kém gì ông Đốc đeo nơ đen dính vào cổ áo sơ mi dài kín cổ, còn cậu Ấm đi Tây về lại mặc áo sơ mi hở cổ và đeo chiếc cravate nơi giữa ngực.
Ông Đốc chào bằng tiếng Tây :
- Bonjour !
Cậu Ấm mỉm cười vồn vã chào lại cũng bằng tiếng Tây :
- Bonjour, Monsieur le Directeur...Je suis enchanté de faire votre connaissance...
( Tôi hân hạnh được làm quen với ông )
Ông Đốc gật đầu vài cái :
- Moi aussi ( tôi cũng thế ). Qu'est ce-que vous avez fait en France ? ( anh đã làm gì ở bên Pháp ? )
Hình như câu hỏi này làm chột dạ cậu Ấm con quan Tuần, nhưng cậu cũng loè lại ông Đốc :
- J'ai été dans une Ecole Supérieure à Paris.
( tôi đã học trong một trường Cao đẳng ở Ba-Lê.)
- Oui, mais...qu'avez-vous comme diplôme ?
( Ừ, nhưng mà...anh đã đổ bằng cấp gì ? )
- Je suis ingénieur de canne à sucre.
( tôi là kỹ sư mía ),
Ông Đốc cười ngạo nghễ. " Kỹ sư Mía " là kỹ sư quái gì ? Làm gì có trường Cao Đẳng Kỹ Sư Mía ở Paris ?
Thế rồi ông Đốc cắt ngang câu chuyện :
- Bon, je vous remerci de votre visite. Je n'ai pas le temps de vous recevoir plus longuement, je regrette.
(Thôi, được rồi, tôi cám ơn cậu đến thăm tôi. Tôi không có thì giờ tiếp chuyện lâu, tôi rất tiếc ).
Hai người gật đầu chào nhau, rồi cậu Ấm Kỹ sư Mía cầm ba-toong đi ra. Cậu cừa ra đến sân, thì ông Đốc nói với học trò :
- Cái thằng ấy đeo cravate theo kiểu lãng mạn Pháp hồi thế kỷ mười chín. Nó nói nó đỗ kỹ sư Mía là nó nói láo. Tao nghe quan Công Sứ nói rằng cha nó là quan Tuần-vũ đang xin xỏ với Triều đình An-nam cho nó làm Tri-huyện.
Tuấn về nhà học lại với anh nó câu chuyện cậu Ấm con quan Tuần đến lớp học thăm quan Đốc. Phán Tuấn cười bảo :
- Anh chàng ấy có đến thăm ông Sứ, và nhờ ông Sứ tiến cử cho một chổ làm. Ông Tuần cũng có " vận động " với ông Sứ và ông Phó Sứ nhưng ông Sứ bảo anh rằng cậu ta không đỗ bằng cấp gì cả, chỉ biết nhảy đầm là giỏi. Có lẽ ông Sứ sẽ viết thư ra toà Khâm, đề cử cậu Ấm làm sở Mật-thám ở Huế.
Cũng năm ấy, trò Tuấn nghe người ta đồn có cô con gái lớn của một quan Thượng-thơ ở Huế, nhưng quê quán tỉnh nhà, đi du học bên Tây cũng vừa về. Ở Pháp, cô đã nhập tịch dân Tây, 22 tuổi chưa có chồng, và lấy tên tây là Anna.
Vì ở cùng làng, nên trò Tuấn tò mò muốn đến xem mặt. Trưa, tối, hoặc chủ nhật và thứ năm, nghỉ học, Tuấn thường chạy tới dinh cụ Thượng-thư xen lẫn với đám con nít kéo vào nhà bếp cụ Thượng để xem mặt cô Anna. Tuấn thấy sao, về học lại hết cho cha mẹ và anh Hai của nó nghe.
Nó bảo :
- Cô Tỳ-Ty ( tên hồi còn ở nhà ) mới qua Tây có ba năm mà bây giờ về nhà, cô ăn cơm không được. Mẹ ơi, bà cụ phải mua bánh tây cho cô ăn. Cô cầm đũa theo kiểu An-nam mình cũng không được nữa, anh Hai à !
Thím Ba vừa nhai trầu, vừa cười, hỏi :
- Con thấy cổ ăn bằng gì ?
- Cô cầm cái gì mà Tây gọi là cái fourchette đó, với con dao tây. Cổ cắt bánh tây theo kiểu tây mẹ à !
- Bánh tây là bánh gì ? Nó ra sao ?
- Là bánh mì đó. Tây gọi là pain.
- À, panh là bánh đó hả ? Cổ cắt bánh theo kiểu tây là cắt cách sao ?
- Cổ cầm con dao cắt ngược từ ngoài cắt vô, từ dưới cắt lên, chứ không phải như An-nam mình từ trong cắt ra, từ trên cắt xuống dưới.
- Cổ ăn bánh tây với gì ?
- Bà vú Hai dọn cơm có chén nước mắm, cổ la om sòm, cổ bịt mủi, nói cái này thúi, cổ không chịu được, cổ hất chén nước mắm ra ngoài sân. Cổ ăn toàn đồ tây, mua tận ngoài Huế, đem về mẹ ơi !
Ông Ba, ( tức là chú Ba thợ mộc ) hồi Phán Tuấn còn đi học, hỏi Phán Tuấn :
- Cô Hai đi Tây học đỗ tiến sĩ chưa con ?
- Con có xem hồ sơ của cổ ở toà Sứ, cổ thi đậu Brevet Supérieur. Bằng cấp ấy ở bên ta không có.Đỗ bằng ầy sẽ được làm giáo sư dạy trường Quốc Học Huế.
- Nếu con đi tây, thì con cũng đỗ bằng ấy chứ gì ?
- Dạ, nhưng nhà mình nghèo, mình chịu thấp kém hơn họ. Nhờ cổ là con quan thượng thơ, nên cổ là người con gái đầu tiên được nhà nước cho học bổng du học bên Pháp, đỗ bằng Brevet Supérieur, và làm giáo sư dạy collège. Nhưng bây giờ cổ là dân tây, chớ không phải An-nam nữa, cho nên cổ theo nếp sống của người tây...
Nghe người ta đồn cô Anna, con gái quan Thượng thư đi du học ở bên Pháp có 3 năm mà về nước đã quên hết " tiếng An-nam ", Phán Tuấn không tin. Nhưng hàng ngày, Phán Tuấn được bà con trong tỉnh nói lại - những người đã được nghe rõ ràng cô Hai " nói tiếng Tây như Đầm " và quên hết " tiếng An-nam " - Tuấn định chờ một cơ hội gặp cô Anna để xem lời đồn đãi của thiên hạ đúng thật hay không ?
Một buổi sáng thứ hai, Tuấn đang ngồi làm việc nơi bàn giấy toà Sứ, thì cô Anna bước vào. Tuấn lễ phép đứng dậy :
- Chào cô, cô đến có chuyện chi ?
Cô Đầm An-nam trố mắt ngó Tuấn, hỏi lại bằng tiếng tây :
- Qu'est ce-que vous dites ?
( anh nói cái gì ? )
Tuấn điềm nhiên hỏi :
- Thưa cô, cô muốn gặp ai ?
- Voulez-vous parler Francaise ? Je ne comprend pas l'Annamite.
( Anh hãy nói tiếng tây cho tôi nghe. Tôi không hiểu tiếng An Nam ).
Tuấn cười :
- Ah ! Pardon ! Vous êtes Francaise ?
(à..xin lổi cô, cô là người Pháp ? )
- Oui, je veux voir monsieur le Resident.
(phải, và tôi muốn gặp Quan Sứ ).
Một giờ sau, cô Anna ra về, ông Sứ gọi Phán Tuấn vào văn phòng của ông, và khen cô Anna nói tiếng Pháp y như giọng một cô Đầm ở Paris ông thuật lại cho Tuấn nghe lời cô Anna vừa mét với ông rằng lúc nãy cô mới đến nghe Tuấn nói " tiếng An-nam " cô không hiểu gì cả...Rồi ông Sứ hỏi Tuấn :
- Quả thật cô Anna quên hết tiếng An Nam rồi sau ?
- Dạ, chính cô ấy cũng vừa nói với như thế.
Ông Sứ ngồi trầm ngâm một lát, rồi nhún vai, nhìn Tuấn :
- Tôi không hiểu cô gái Annam sinh trưởng ở đất Annam từ nhỏ cho đến 19 tuổi, sang Pháp chỉ ở có ba năm, lúc trở về không nói được tiếng mẹ đẻ của nó nữa, chuyện ấy làm cho tôi ngạc nhiên lắm. Anh có hiểu ra làm sao không ?
- Dạ không.
- Có hai lẽ, một là tiếng an-na-mít là một thứ tiếng rất tồi, hai là cô Anna là một người An-na-mít rất tồi.
Để kết luận, ông Sứ cười hỏi Tuấn :
- Còn anh Tuấn, khi anh nói tiếng Pháp với tôi, anh có quên tiếng an-na-mít không ?
Tuấn mỉm cười, xấu hổ, không trả lời.
Năm 1923, các quan Annam ở tỉnh Q. điều khiển một con voi bằng đồng, để gửi ra Huế dâng lên vua Khải-Định trong dịp Tứ-tuần của ông vua này.
Nơi đúc là khu vườn hoang của Kho tỉnh, ngay trước trường học, phía bên kia đường cái, sau một bức tường dài vuông vức bao bọc chung quanh Kho.
Tuấn-em, cũng như số đông học trò, mê xem công việc này lắm. Buổi sáng, buổi chiều, Tuấn-em thường đến thật sớm trước giờ học, và trong các giờ chơi, Tuấn rũ một bọn học trò cùng lớp, chạy qua Kho để xem đúc tượng voi.
Không biết các đồ đồng lấy ở đâu mà nhiều thế ! Nồi đồng, mâm đồng, chảo đồng, lư đồng, bỏ vào bốn năm cái chảo lớn, nấu thường xuyên trên một đống củi cháy hừng-hưc, suốt mười ngày đêm, cho đến khi đồng chảy ra dể đỗ vào khuôn. Khuôn voi bằng đất sét, do một ngươi thợ hồ Việt Nam xây lên, giống hình con voi, nhưng không đẹp tí nào cả : chân cẳng, thân hình, đầu và đuôi, đều thẳng cứng, cái vòi cũng chỉa ra ngay đơ, hai tai thì nhỏ, cái bụng thì bự. Tuấn-em tò mò hỏi mấy người thợ đúc, mới biết rằng các đồ đồng dùng nấu để đúc tượng voi là do các làng xã thâu nhặt của dân chúng, theo lịnh quan tỉnh và các quan phủ, huyện. Sự thực thì các quan thâu góp của dân nhiều đồ đồng lắm, nhiều gấp ba, gấp bốn số đồng để đúc tượng voi, nhưng các quan lớn lấy bớt một phần, các quan nhỏ lấy một phần. Còn lại bao nhiêu đúc trong kho để đúc tượng, có lính lệ canh giữ. Một đêm tối trời, một chị đàn bà ăn ở gần đây lẻn lấy trộm được một chiếc nồi đồng bị bắt quả tang. Lính dẩn chị qua dinh Quan Án, quan truyền lịnh đánh chị mười roi, rồi đem giam bên nhà Lao.
Tượng voi đúc một tháng mới xong, và phải đúc đi đúc lại ba lần, vì hai lần bị hỏng. Lần thứ nhất con voi không có vòi, vì đồng chảy không đều. Lần thứ hai có vòi, hai ngà, bốn chân, có cả đuôi lớn bằng chiếc đủa, nhưng trên đầu con voi bị sứt một cái tai, nên quan Tuần truyền lịnh đúc lại. Lần thứ ba này, các người thợ phải nấu một nồi xôi, mua một nãi chuối, một bình rượu và đèn hương, cùng cái miểu thờ Thổ thần nơi góc vườn Kho.
Tuấn-em có tính tò mò,cái gì cũng muốn coi, chuyện gì cũng muốn biết, cho nên nó chạy theo ông thợ Cả cúng thần. Nó lễ phép vòng tay đứng dựa vào cột miếu,nghe ông thợ cả khấn vái như sau đây :
- " Con được lệnh của quan Tuần-vũ khuya nay phải đúc cho xong tượng voi đồng để kịp ngày đưa ra Huế dâng lên Ðức Ðại Nam Hoàng Ðế, để mừng lễ khánh thọ Tứ-tuần của Hoàng đế. Vậy con lại xin Thổ-địa linh thần gia hộ cho con đúc tượng voi được hoàn thành, viên mãn, kẻo có tội với Ðại Nam Hoàng đế ".
Cúng lạy xong, ông thợ lấy hai đồng tiền kẽm, một mặt tiền bôi vôi, một mặt không, khẽ thả rõi hai đồng tiền xuống mặt đia sành để gieo quẻ, xem Thổ-thần có ưng thuận và chứng minh cho không ? Nếu tiền rõi xuống đia một đồng ngửa (có bôi vôi ) và một đồng xấp ( không có vôi ) tức là Thần bằng lòng. Nếu trái lại cả hai đồng tiền đêù ngửa hết hoặc sấp hết, tức là Thần nhất định phá phách việc đúc tượng voi đồng dâng lên vua Khải-định.
Chẳng may, khi ông thợ cả gieo quẻ thì cả hai đồng tiền đều nằm sấp.
Gieo lại lần thứ hai, hai đồng tiền đều ngửa. Gieo lần thứ ba, hai đồng tiền nhảy tung ra ngoài đia, rớt xuống đất.
Ông thợ cả rầu -rĩ muốn khóc lên được. Theo lệ gieo quẻ, quá lắm là ba lần, được hay không cũng thôi, chứ không ai gieo lần thứ tư. Ông thợ Cả nhất định xin quẻ lần thứ tư và lạy lục Thổ thần thiếu điều gãy xương sống. Lạy xong, ông cầm cây đèn nến, cúi xuống soi kiếm hai đồng tiền, nhưng chúng văng vào khe tường nào, hay nấp trốn trong bụi cỏ, lùm cây nào, ông và bốn ngưõì thợ đúc lụi cụi tìm mãi không ra. Các ông thợ đành bưng xôi, chuối và cầm bình rượu đi.
Ông thợ Cả lẩm bẩm nói với bốn anh thợ phụ cuả ông :
- Caí ông Thần Thổ-địa này cứng đầu cứng cổ thật " Tượng voi đúc để dâng lên vua, mà ổng cứ theo phá phách mãi, đó là phạm tội khi quân, chứ không phải giởn à ".
Rốt cuộc cái tượng voi cũng đúc xong nội trong đêm ấy. Con voi không đẹp, nhưng cũng may không bị sứt vòi, sứt tai chi cả, xem cũng ra vẻ con voi !
Rôì các bạn có biết, con voi đồng ấy phải chở đi bằng cách nào không từ tỉnh ra Huế ? " Quan An-nam truyền lệnh thợ mộc đóng một cái củi to tướng bằng gỗ, kín mít chung quanh, để đựng con voi. Rồi các làng sở tại phải bắt 40 thanh niên, họp thành hai đoàn, mỗi đoàn 20 thanh niên thay phiên nhau mà khiêng món quà kết -xù âý đi bộ ra đến Huế !
Hôm lễ Tứ-tuần cuả Khải Ðịnh, ông vua chê cái tượng voi xấu-ỉnh.Xấu là tại nó bằng đồng. Giả sử nó bằng vàng thì dù cho nó sức đuôi mẻ vòi, chắc " Ðức Ðại Nam Hoàng đế " cũng khoái chí tử !
Tuy vậy, các quan An-nam chủ tỉnh cũng được vua ban cho một số tiền để thưởng cho mấy " thằng thợ đúc ".
Nhưng mấy "thằng thợ đúc " có được huỡng đồng tiền của vua hay không. Tuấn-em không biết. Còn 40 cậu thanh niên lực lưỡng khiêng con voi đồng từ tỉnh ra đến kinh đô để mừng vua hưỏng thọ 40 tuổi, thì phải đem tiền nhà theo để xài. Hết tiền, bốn cậu ở lại đất thần kinh làm nghề cu-li xe kéo cho các quan, còn 36 cậu đưọc đi xe lửa về đến Tou-Ranh ( Ðà Nẳng ), rôì từ Tou-ranh đi bộ về tỉnh, trên mấy trăm cây số.
Niên khóa 1923-1924, Tuấn -em đã học lớp Nhất. Trường nữ học chỉ có đến lớp Nhì, và ở cách biệt trường Nam. Cả tỉnh, lần đầu tiên mới có 4 cô nữ sinh học lớp Nhất, cho nên phải học chung với tụi con trai ở trường Nam. Bốn cô cùng dãy ghế đầu trong lớp, ngay nơi cửa vào : cô Dư, cô Ánh-Tuyết, cô Yến-Tuyết, cô Tỷ. Tuấn-em ngồi dãy ghế thứ hai, sau lưng cô Nguyễn thị Dư. Cùng một dãy ghế với Tuấn, có Hường, Ái, Tế. Tế là con một quan Phủ nên có vẻ làm nghiêm, còn Hường, Aí, Tuấn, thì chính ba cậu không ngôì dẫy ghế này, vì họ thích ngồi ở phía sau, ở cuối lớp, để thỉnh thoảng lén thầy, ăn kẹo hay lánh mặt trong những hôm không thuộc bài. Nhưng tại vì hôm nhập học trong lớp Nhất có 40 trò con trai, trò nào cung mắc cở không chịu ngồi gần các cô con gái, thành ra dãy sau lưng 4 cô gái bị bỏ trống.
Thâý thế, thầy giáo bèn lôi cổ ba thằng tinh-nghịch nhất chui trốn ở cuối lớp, đem chúng nó lên ngồi dãy ghế thứ hai, sau lưng mấy cô. Tuấn-em, Hường, Aí ngoan ngoãn tuân lịnh thầy, nhưng trò nào cũng mắc cỡ, đỏ mặt tía tai.
Tuổi trung bình của học trò lớp Nhất năm âý là 14 đến 15 tuổi ta. Ðấy là đứa học sinh lớn nhất trong tỉnh. Thế hệ mới, có nhiều triển vọng nhất. Về việc học, có thể nói rằng tất cả đều chăm chỉ, và học trò cũng học thuộc bài, và cố gắng làm bài để khỏi bị thầy cho "zéro ". Ðối với toàn thể học sinh, sự lười biếng, không thuộc bài bị thầy phạt là một cái nhục lớn. Nói đúng ra, bạn bè không ai chê cười mình nếu thầy gọi lên bảng đen, mình trả bài không xuôi, bị ăn trứng gà, nhưng mình tự xấu hổ với lương tâm của mình vì cả lớp đều học thuộc bài.
Về hạnh kiểm, thí dụ có tiếng là tinh nghịch nhất như Tuấn-em, Hường, Aí, cung chỉ là tinh nghịch đùa dỡn với bạn bè mà thôi, chứ đối với thầy giáo, cả với thầy giáo lớp khác, học trò không bao giờ dám vô lễ, hỗn láo, xấc xược. Có thể nói rằng, học sinh của thế hệ 1920-1940 còn giữ được nề nếp nho phong của học trò chữ Hán, theo đúng phưõng châm " Tiên Học Lễ nhi Hậu Học Văn ".
Có điểm đáng chú trọng, là học sinh lớp Nhất vẫn chưa biết gì về chuyện " yêu đương " như một số thanh niên ngày nay. Trái lại, hầu hết hình như là " sợ " con gái và học trò trai ở lớp Nhất vẫn goị 4 cô nữ sinh cùng lớp bằng " chị " mặc dầu cùng lứa tuổi.
Gần Tết bổng dưng có một thầy giáo mới đổi tới dạy riêng về Pháp-văn cho lớp Nhất. Thầy này người Huế, vừa mới đỗ " diplôme ", còn trẻ măng, tuổi chừng 18, 19. Thầy đẹp trai, thường mặc áo xuyến đen, quần thật trắng, và ủi thật phẳng nếp, có vẻ bảnh bao lắm. Thầy hiền lành nhưng Tuấn-em để ý thầy không bao giờ dám ngó bốn cô nữ sinh, và thầy không khi nào gọi bốn cô nữ sinh lên bảng trả bài.Mỗi lần thầy vào lớp, mặt thầy tự nhiên đỏ bừng. Thầy bẽn-lẽn ra chiều bối rối.Ðể giữ uy quyền của nhà mô phạm, thầy làm nghiêm với học trò con trai, không bao giờ thầy cười hay nói đùa một câu với học trò.Ấy thế mà 4 cô nữ sinh lại sợ thầy như sợ cọp ! Một lần, trong kỳ thi lục cá nguyệt, buộc lòng thầy gọi các cô lên bảng để thi bài khẩu vấn. Cô Dư bối rối không trả lõì được.
Thầy nghiêm trang hỏi :
- Cô không học bài ?
Cô vừa run vừa đáp :
- Dạ thưa thầy, con có học, nhưng tự nhiên con quên.
Học trò trai bụm miệng, không dám cười to, học trò gái cúi đầu lấy quyển vở che mặt. Thầy giáo không hề nhếch môi. Thầy nói tiếng Pháp đuổi cô Dư về chổ vì cô không thuộc bài văn phạm :
- Allez-vous-en ! Vous ne savez pas votre leçon de grammaire.
Rồi thầy tặng cô con zéro tròn vo trong sổ điểm. Lúc ra về. Tuấn-em theo sau cô Dư, nghe cô thút-thít.
Mặc dầu có nghiêng chiếc nón bài thơ để che mặt. Tuấn cũng thấy cô thỉnh thoảng lấy tà áo dài trắng đưa lên lau mấy giòng nước mắt lặng lẽ tuôn trên đôi má hồng đào...
Các cô đều 16 tuổi, nhưng xác đã lớn, và vẫn xưng " con " với thầy giáo 18,19 tuổi, vì kính trọng thầy. Nói cho công bằng, không phải riêng thầy giáo trẻ này là làm nghiêm với các cô học trò lớp Nhất, mà tất cả các thầy giáo đều nghiêm. Tất cả bốn cô sợ thầy, chính vì thầy là Thầy Giáo.
Có điều nên nói để khen tặng các cô nữ sinh thuở ấy : tuy là sợ thầy nhưng các cô vẫn kính mến thầy, chớ không phải thù ghét. Trước khi nghỉ hè, thầy giáo trai trẻ được lệnh đổi đi tỉnh khác, học trò lớp Nhất kéo nhau đến nhà thăm thầy để chào tiễn biệt. Bốn cô cùng đến với đám học trò trai. Thầy tiếp niềm nở, hôm ấy thầy rất dễ thưõng - và khi thầy nói mấy lời từ giã, bốn cô đều cảm động, rưng rưng hai ngấn lệ. Chính cô Dư đaị diện cho ba cô bạn, thưa với thầy :
- Thư thầy, chúng con xin kính chúc thầy lên đường bình an mạnh giỏi...
Thầy khẽ cúi đầu đáp lễ. Hôm ấy, lần đầu tiên Tuấn-em cảm thấy quý mến bốn cô bạn gái cùng lớp.Tuấn hối hận vì suốt cả năm Tuấn chuyên môn phá phách các cô. Nào là trong giờ chõi, Tuấn ra sân trường tìm bắt những con cóc, con nhái, con trùn, để lẻn vào lớp bỏ trong cạt-táp các cô. Nào là bỏ cục phấn trong bình mực tím của cô Dư hay cô Ánh Tuyết.
Ba đứa học trò nghịch nhất trong lớp, lại là ba đứa vào hạng học khá nhất, Hường vẫn đứng đầu, hoặc đứng thứ hai, thứ ba, trong bảng sắp hạng hàng tháng. Ái và Tuấn cũng thế. Có lẽ nhờ học khá, nên mấy trò trai tinh nghịch này vẫn được mấy cô bạn gái mến hơn cả. Tình bạn ngây thơ, vô tội, của đám học sinh thời bấy giờ không có hậu ý gì vẩn vơ, bậy bạ. Tôi đã nói tuổi 16,17 của thế hệ 1920-1924, chưa biết tí gì về " yêu đương ", " mơ mộng ". Tâm hồn thanh thiếu niên hãy còn trong sạch, chưa bị tiêm nhiễm, chưa bị cám dỗ, chưa bệnh hoạn, suy đồi. Chỉ có một lần, một câu chuyện " trai gái " của học trò bị đổ bễ, làm xôn xao cả trýờng. Thủ phạm chính là trò A. ở lớp Nhất, Nữ đồng lõa là cô H. con một nhà buôn bán ở phố cửa Tây, mới 16 tuổi. Nhà hai cô cậu này gần nhau. Không biết hai đứa làm quen với nhau hồi nào, mà một đêm, mẹ cô H., vô tình bắt gặp con gái của mình trò chuyện nhỏ to với cậu học trò.Bà lôi cổ con gái về nhà, đánh một trận nhừ tử.Bà lại sang mét với gia đình trò A. Trò A. cũng bị một trận đòn nên thân. Hôm sau cả truờng đều biết vụ ấy.Toàn thể học sinh đều coi A. là một đứa " học trò xấu-xa " và chế nhạo nó. A. laị bị thầy giáo mắng, và bị ông Ðốc trừng phạt gắt gao.Thế là câu chuyện " trai gái " của cặp thiếu niên chưa đâu vào đâu đã bị chấm dứt ngay sau khi chàng bị phạt qùi trong hai tiếng đồng hồ trong cửa lớp học. Thế hệ thanh niên 1920-1925 không chú trọng đến vấn đề tình ái cá nhân và không dùng những danh từ " yêu đương ", "ái tình ", "tình yêu ". Ở miền Trung và miền Nam chỉ gọi là " trai gái " với nhau, hay là " phải lòng nhau " thường bị coi như làm một việc tội lỗi, không tốt đẹp, và bị chê cười.
Một thanh niên Việt Nam trong những năm 1920-1925 không bao giờ viết thư cho gái với những câu " anh yêu em ". Họ chỉ viết lén lút " tôi thương cô ", đã là qúa lắm rồi. Ba chữ rất tầm thường đó đã đã chứa đựng bao nhiêu...mê ly !
Tìm trên các tờ báo văn nghệ cách đây 35 năm, chưa hề thấy đăng những bài thõ loại " anh yêu em "., "em yêu anh" (nhớ nhung ) ( nhung nhớ ) tràn ngập như ngày nay.
Nhưng nói rằng thời bấy giờ thanh niên không biết yêu, laị cũng không đúng, thanh niên nào mà không biết yêu ? chỉ có khác là tình yêu kín đáo, dè dặt, nghĩa là tế nhị hơn. Không bồng bột sôi nổi, không bộc lộ công khai và không trơ-trẻn. Tình yêu trước đây 30 năm, cũng được gìn giữ kín nhẹm như y phục của thiếu nữ không bộc lộ ranh mãnh, không nửa kín nửa hở, và cũng không khiêu khích. Con gái ở các đô thị xa-hoa Saigon, HàNội, Huế...may mặc bằng hàng lụa sang đẹp, nhưng vẫn kín đáo, e-ấp như các cô thôn nữ. Cô Dư, cô Ánh-Tuyết, cô Tạ thị Tỷ, đều là con nhà giàu hoặc con nhà quan.Các cô thuộc giới " văn minh " nhất trong tỉnh và trong xứ. Ðến trường, các cô mặc y phục trắng, đen hoặc tím. Chỉ những ngày chủ nhật, hoặc đi đâu, các cô mõí mặc màu xanh, màu hồng.Tuấn không thấy bao giờ các cô mặc áo đỏ chói, hay màu vàng. Ngày Tết hay các ngày lễ các cô mặc áo gấm, quần sa-tanh mang giầy thêu cườm.
Ở Bắc Việt, phụ nữ mới bắt đầu mặc quần trắng vào khoảng năm 1930 trở về sau. Trước 1930, các bà, các cô đứng đắn mặc toàn quần đen.
Về nữ trang, các cô thường đeo kiềng vàng trơn ( đi học cũng đeo kiềng ) và hoa tai vàng. Không bao giờ đeo nhẩn, trừ khi đã có chồng.Các cô đã để răng trắng và tóc quấn trần theo kiểu Huế. Ở Bắc, vấn tóc trong khăn nhung đen, Ở Nam, để búi tóc sau ót.
Cổ áo cao một phân, tà áo dài xuống vừa đến đầu gối ( ở Trung ) ; hoặc trên đầu gối 1 phân ( ở Nam ) : hoặc dưới đầu gối 1 phân ( ở Bắc ), các cô Hà nội mặc quần ống rộng, ở Huế và các tỉnh miền Trung ống vừa, ở Saigon và Lục tỉnh ống chật hơn, độ hai phân tây. Giày cao gót xuất hiện tại Hà nội và Saigon khoảng năm 1935, nhưng để riêng cho các thiếu nữ đã trưởng thành, theo phép xã giao tân tiến của Âu Mỹ. Nữ sinh các trường và các thiếu nữ dướí 21 tuổi không bao giờ mang giày cao gót.
--------------------------------
|
No comments:
Post a Comment