Thursday, September 3, 2015

NGUYỄN VỸ * TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT V



Nguyễn Vỹ

Tuấn Chàng Trai Nước Việt



CHƯƠNG 31

1932-1933

- Các đảng cách mạng ở Saigon phát động mạnh hơn ở Bắc và Trung.
- Các báo loan tin Nguyễn Ái Quốc chết ở Hồng kông.
- Hà Nội và Huế : Cộng sản hoạt động ngầm, V.N.Q.D.Ð hoàn toàn im lặng.>
- Bửu Ðình, người Hoàng tộc làm cách mạng, bị Hội Ðồng Tôn Nhân Phủ bắt đổi tên họ là Tạ Ðình.


Trong lúc ở Trung kỳ và Bắc kỳ, phong trào Bảo Ðại bắt đầu lắng xuống, Phủ Toàn Quyền Hà Nội cũng như tòa Khâm Sứ Huế không làm gì hơn để tăng uy tín của ông vua, thì các Hội Kín Cách Mạng vẫn âm thầm hoạt động : Thanh Niên Cách Mạng đồng chí Hội (gọi tắt là thanh niên), Tân Việt Cách Mạng Ðảng (gọi tắt là Tân Việt), và Ðông Dương Cộng sản Ðảng. Một số đảng viên Thanh niên Cách Mạng đồng chí hội lại tách ra lập riêng một đảng có khuynh hướng cộng sản, lấy tên là An Nam Cộng Sản Ðảng.
Một số đảng viên của Tân Việt, trong đó có Võ Nguyên Giáp và Ðặng Thái Mai, cũng tách riêng ra, lập một đảng gọi là "Ðông Dương Cộng Sản Liên Hiệp ". Ba đảng cộng sản trên đây đều theo chủ nghĩa Mác Lê (Marx-Lénine), nhưng khác nhau trong các chi tiết tổ chức, và chống chỏi nhau, không hợp tác với nhau trên đường lối đấu tranh.
Vả lại, An nam cộng sản đảng và Ðông Dương cộng sản Liên Hiệp chỉ hoạt động ở Trung kỳ. Ðông Dương cộng sản đảng có kỳ bộ ở Trung Nam Bắc, nhưng hoạt động mạnh nhất ở Trung kỳ. Chính Ðông dương cộng sản đảng đã tổ chức hai phong trào nổi loạn riêng biệt : Ðồ Lương (Nghệ An) năm 1931, và Quảng Ngãi - 1932.
Theo dư luận của các đảng quốc gia chống cộng, căn cứ trên một vài tin tức của một số đồng chí bên Tàu về, thì hai cuộc khởi loạn trên kia " Soviet Nghệ An " và "Soviet Quảng Ngãi "đều do lịnh của Nguyễn Ái Quốc, là người chỉ huy Ðông Dương cộng sản đảng mà tổng hành dinh được đặt bí mật ở Trung Hoa.
Một số bạn bè trong giới thanh niên sinh viên Hà Nội có rủ Tuấn vào đảng Cộng sản Ðông Dương, lúc bấy giờ vẫn được gọi bằng tiếng Pháp là Parti Communiste de L’ Indochinois. Tuấn do dự chưa nhận lời vì thấy chủ trương Mác Lê không thích hợp với lý tưởng thuần tuý quốc gia của Tuấn.
Kế đó, Tuấn có dịp nghĩ hè về miền Trung, một hôm ghé chơi ở Qui Nhơn lại gặp một bạn cũ rủ Tuấn vào " An nam cộng sản đảng " (Parti Communiste Annamite). Tuấn ngạc nhiên và tìm hiểu sự bất đồng quan điểm giữa hai đảng cộng sản, và sự xuất hiện mới nhất của một đảng cộng sản thứ ba là Ðông Dương Cộng Sản Liên Hiệp, mà người bạn cho biết là Tổng bộ chỉ huy ở bên Xiêm (Thái Lan).
Trước những mâu thuẫn đó, Tuấn từ chối khéo và hứa chỉ hợp tác trên một vài điểm chung có tính cách tranh đấu cho quốc gia dân tộc mà thôi. Tuấn cương quyết không gia nhập một đảng cộng sản nào riêng rẽ ở Trung, Nam, Bắc.
Cuộc nổi dậy của cộng sản Quảng Ngãi, nhất là đêm máu lửa hãi hùng ở Ðức Phổ, Mộ Ðức, năm 1932, do anh Nguyễn Nghiêm cầm đầu, khiến cho Tuấn suy nghĩ nhiều, và càng củng cố lập trường quốc gia thuần tuý của chàng, tránh những hành động đấu tranh giai cấp của cộng sản.
Cuối năm 1933, Tuấn đọc mấy tờ báo Pháp và An nam xuất bản ở Saigon và Hà Nội, thấy ở trang 4, trong một cột chữ nhỏ, một tin vắn tắt đại khái như sau đây :
Nguyễn Ái Quốc đã chết tại Hồng Kông vì bịnh lao "Tin người Anh cho biết vừa rồi Nguyễn Ái Quốc, kẻ phiến loạn cách mạng An nam (agitateur révolutionnaire annamite) bị chết vì bịnh lao phổi trong ngục thất ở Hồng Kông. "
Cái tin ngắn chỉ có mấy dòng chữ nhỏ như thế, đăng ở cuối trang tư như một tin vặt không mấy quan trọng, nhưng đã gieo vào đầu óc của tất cả những người An nam làm cách mạng hồi đó, Quốc gia cũng như Cộng sản, sự tin chắc rằng cái tin kia là thật.
Ðối với thanh niên sinh viên như Tuấn trong trí óc nẩy ra ý nghĩ thực thà rằng Nguyễn Ái Quốc đã thuộc về thế hệ tiền bối như các cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu thì sự chết về tuổi già là lẽ thường. Huống chi cụ Nguyễn Ái Quốc lại bị bịnh lao phổi, cụ chết vì bịnh đó cũng là lẽ tất nhiên.
Nói đúng ra, thời bấy giờ ở An nam ít có ai biết rằng Nguyễn Ái Quốc là cộng sản. Cái tên "Ái Quốc " của cụ để cho các lớp người thanh niên yêu nước tưởng rằng cụ là một nhà cách mạng quốc gia lão thành, ở hải ngoại lâu năm như các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh vậy thôi.
Cái tin Nguyễn Ái Quốc chết vì bịnh lao phổi ở Hồng Kông đã làm xôn xao các giới cách mạng một thời gian rồi cũng chìm trong quên lãng. Dần dần không ai nói đến Nguyễn Ái Quốc nữa.
Mãi đến tháng 8 năm 1945, nghĩa là 12 năm sau, cũng như tất cả những người Việt Nam trong nước và hải ngoại, Tuấn nghe thấy lần đầu tiên cái tên Hồ Chí Minh và dư luận trong giới cách mạng quả quyết rằng " Hồ Chí Minh " chính là Nguyễn Ái Quốc. Tuấn hoàn toàn ngạc nhiên !
Vài năm sau đó, Tuấn được đọc ba bốn quyển sách ngoại quốc :
· Le VietMinh của Bernard Fall (Paris)
· Cinq hommes et la France của Jean Lacouture (Paris)
· From colonialism to communism (New York) của Hoàng Văn Chí.
· Le Mystérieux Hồ Chí Minh (Paris) của Hồ Văn Tạo.
mới biết rõ sự thật.
Sau khi Tưởng Giới Thạch tuyệt giao với Nga, năm 1927, Nguyễn Ái Quốc, nhân viên sứ quán Nga, theo lãnh sự Nga là Borodine phải từ giã Trung quốc trở về Moscou, để Hồ Tùng Mậu (tức là cố Mậu, T.S 40 " xến xáng ", bị giam ở trại an trí Trà Khê (Phú Yên) từ năm 1940 đến năm 1945) ở lại thay thế làm Tổng Bí Thư Ðông Dương Cộng Sản Đảng.
Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc được lịnh trở lại (từ Nga) Hồng Kông tiếp tục hoạt động, nhưng bị người Anh bắt bỏ tù ngày 6 tháng 6 năm 1931. Bắt rồi được tha, Nguyễn Ái Quốc lẻn đi Singapore, nơi đây ông lại bị người Anh bắt lần thứ hai, đưa về Hồng kông, vào bịnh viện vì bịnh lao phổi.
Cuối năm 1933, Nguyễn Ái Quốc bổng dưng biến mất. Nhà cầm quyền Anh ở Hồng Kông không hề cho biết Nguyễn Ái Quốc mất tích trong trường hợp nào. Có lẽ ông thoát ngục trốn đi chăng ?
Dù sao họ cũng đã loan tin rằng Nguyễn Ái Quốc chết vì bịnh lao ở ngục thất Hồng Kông. Tờ báo Daily Worker, của đảng Cộng Sản Anh ở Luân Ðôn, cũng đăng tin xác nhận rằng Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ Cộng sản An nam, bị bịnh lao phổi đã từ trần trong ngục thất Anh ở Hồng Kông.
Ðồng thời bộ Thuộc địa Pháp ở Paris và Phủ Toàn Quyền Ðông Dương ở Hà Nội cũng nhận được tin ấy. Trong hồ sơ của Nguyễn Ái Quốc tại sở Mật Thám Pháp cũng có ghi rằng Nguyễn Ái Quốc chết vì bịnh lao phổi ở Hồng Kông năm 1933.
Sự thật, chỉ có một đôi người quan trọng của Komintern(cơ quan đầu não của cộng sản Ðệ Tam - Nga ), là biết Nguyễn Ái Quốc ở đâu và làm gì trong thời gian từ 1933 thoát ngục Hồng Kông, đến năm 1941, năm mà ông lại xuất hiện đột ngột ở Moscou.
Ngoài ra, chính những đảng cộng sản ở Moscou và ở khắp thế giới, và toàn thể đảng viên cộng sản An nam đều tin rằng Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bịnh lao ở ngục thất ở Hồng Kông, như nhà cầm quyền Anh đã tuyên bố, và báo Daily Worker của đảng cộng sản Anh ở Luân Đôn đã đăng tin xác nhận.
Theo các tài liệu chính xác mới được tiết lộ sau nầy, thì Staline rất bất bình Nguyễn Ái Quốc vì ông chủ trương cuộc nổi loạn quá sớm của cộng sản Nghệ An năm 1931, và Quảng Ngãi năm 1932, gây thất bại lớn lao cho đảng Cộng sản Ðông Dương trong thời kỳ phôi thai.
Do đó, năm 1933, Nguyễn Ái Quốc đang ở Hồng Kông được lịnh của Staline triệu về Moscou và bí mật bị đày đến miền Ðông Sibérie. Mãi đến mùa xuân năm 1941, Nguyễn Ái Quốc mới được Staline gọi về Moscou và được lịnh cùng đi với Nguyễn Khánh Toàn sang gấp Yenan, nơi đây Mao Trạch Ðông giúp Nguyễn Ái Quốc những phương tiện trở về biên giới Hoa - Việt, lập mặt trận Việt-Minh với các phần tử cách mạng ở Trung Quốc.
Lần đầu tiên, năm 1941, xuất hiện nơi đây tên " Hồ Chí Minh ", vì Nguyễn Ái Quốc vẫn còn dấu bí mật lai lịch và tên tuổi thật của ông. Mãi đến năm 1958, vài tờ báo của chính phủ Hà Nôị mới được phép chính thức đăng rõ ràng Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc.
Tạp chí tranh ảnh " Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa " do Thông tấn xã Việt cộng phát hành, số tháng 8 năm 1960, đăng ảnh Nguyễn Ái Quốc với câu đề phía dưới "Ðồng chí Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) lúc 30 tuổi đang hoạt động ở ngoại quốc. "
Nhưng năm 1933, Tuấn đọc báo Hà Nội và Saigon, cứ yên trí rằng Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bịnh lao phổi ở Hồng Kông. Chính một số đông lãnh tụ cộng sản ở Hà Nội lúc bấy giờ là Võ Nguyên Giáp, Ðặng Xuân Khu (Trường Chinh), Trần Huy Liệu, cũng đều tin chắc như vậy.
Các phong trào hội kín chỉ còn hoạt động bí mật và đa số thuộc về thành phần trí thức, hoặc gọi là trí thức. Ở Saigon, vài đảng hoạt động công khai theo chế độ công hòa Pháp, vì Nam kỳ là đất Pháp, người Nam kỳ là dân Pháp. Nhưng không nên lẫn lộn : ở đây người Pháp vẫn đặt ra sự ngăn cách giữa hai hạng người dân Nam kỳ thuộc Pháp.
Dân Pháp (Sujets francais) không được hưởng đầy đủ quyền lợi tinh thần và vật chất như " dân nhập tịch Pháp " (sujets naturalisés francais). Những người này cần phải có địa vị và thích nghi xã hội khá cao mới được chính quyền Pháp chấp nhận ngang hàng với người Pháp như ngững công dân Pháp, cùng theo dòng dõi của họ, được hưởng những quyền lợi ưu tiên như họ. Dĩ nhiên trước pháp luật, họ mất hẳn quốc tịch " An nam ". Họ không còn là người An nam nữa.
Trái lại, " dân Pháp " (sujets francais), là tất cả những người dân Nam kỳ, sinh trưởng trên đất Nam kỳ, được hưởng đôi chút luật lệ tự do của Pháp - (citoyen francais) - trên nhiều phương diện, Nhưng họ không được hưởng những quyền lợi ưu tiên đặc biệt của người nhập tịch Pháp.
Ở Trung kỳ và Bắc kỳ, chỉ có một số rất ít, có thể nói là rất hiếm, người An nam nhập tịch Pháp. Những người này cũng được hưởng quy chế công dân Pháp (statut de citoyenneté francaise), như những người có quốc tịch Pháp ở Nam kỳ.
Ngoài ra, tất cả người dân Trung kỳ và Bắc kỳ đều là " thần dân của Hoàng đế An nam - sujets de sa Majesté l’ Empereur d’ Annam, - và phải theo chế độ bảo hộ và pháp luật Nam triêù, luật Hồng Ðức của nhà Lê và luật Gia Long của nhà Nguyễn.
Nhưng theo danh từ thông dụng nhất,thì người Pháp gọi người Trung kỳ là Annamites de Centre, người Bắc kỳ là Annamites de Nord hay là Tonkinois, người Nam kỳ là Cochinchinois hay là Annamites de Cochinchine.
Hậu quả của chế độ cách biệt ấy, là những kẻ " phạm tội "ở Trung -Bắc kỳ đều bị xử theo luật Nam triều. Sau đây là hai thí dụ rõ rệt nhất lấy trong trăm nghìn thí dụ.
Một người dân Trung kỳ, vừa là người trong "Hoàng tộc " tên là Bửu Ðình, vào Saigon viết báo đối lập chống chính phủ Bảo hộ, vào khỏang năm 1925-26-27, và bị trục xuất về Trung kỳ. Toà án Nam triêù chiếu theo luật Gia Long xử ông 9 năm tù khổ sai, đày đi Côn lôn, và đổi họ " Bửu " thành ra họ " Tạ ". Bửu Ðình bị xóa tên trong sổ Hoàng tộc, đổi ra thành Tạ Ðình, một kẻ bạch đinh thuộc về hàng " bá tánh ".
Một người khác quê ở Huế, Ðồng sĩ Bình, nguyên làm Phán sự tòa sứ Qui Nhơn, có làm một bài thơ chữ Hán dán trên mộ bia của cụ Mai Xuân Thưởng, một nhà kháng chiến chống Pháp ở Bình Ðịnh. Bài thơ ấy có những câu hăng hái chống Pháp, bị toà án Nam triều xử vầ tội " tạo yêu thư, yêu ngôn ", và bị 9 năm tù khổ sai, lưu đày đi Ban Mê Thuột. Một tội như thế nếu thủ phạm là người Nam kỳ, dân Tây, được xử tại toà án Pháp thì chỉ bị 6 tháng tù treo là quá lắm. Có thể được trắng án cũng nên.
Sự cách biệt của hai quy chế tư pháp là nguyên nhân do các đảng phái chính trị được hoạt động công khai và các báo chí đối lập được xuất bản tự do ở Saigon, và Nam kỳ, "terres francaises ", trong lúc ở Trung kỳ và Bắc kỳ tất cả các đảng phái đều là " hội kín ", hoạt động lén lút trong bóng tối. Các báo đối lập cũng không được xuất bản tự do.
Tuy nhiên ở Saigon, dưới chế đô tự do của Pháp, chỉ có hai khuynh hướng chính trị đáng kể mà thôi.
Một là đảng Lập Hiến Ðông Dương (parti constitutionnaliste Indochinois) gồm toàn những địa chủ, điền chủ có nhiều ruộng đất ở các tỉnh Nam kỳ, các nhà kỹ nghệ, các công chức cao cấp " trí thức thượng lưu, đốc phủ sứ v.v… " hầu hết là có quốc tịch Pháp. Ngoài Bùi Quang Chiêu, Kỹ sư Cầu cống là chủ tịch, và Nguyễn Phan Long, nghị viên và nhà báo, đảng Lập Hiến còn có những đảng viên danh tiếng như Nguyễn Phú Khai, Trương Văn Bền, Lê Quang Liêm, tự Bảy,v.v…
Tờ báo của họ là La Tribune Indigène sau đổi lại là La Tribune Indochinois. Nguyễn Phan Long còn làm chủ nhiệm tờ L’ Echo Annamite, từ sau năm 1945 được đổi lại là L’ Echo du Vietnam.
Chương trình hoạt động của đảng Lập Hiến chỉ nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi tinh thần và vật chất giới tư bản Nam kỳ.
Hai, là nhóm Cộng sản Ðệ Tam và Ðệ Tứ Quốc tế, tranh đấu cho giới thợ thuyền.
Hai nhóm cộng sản này là đôi anh em thù địch lẫn nhau, thường chống nhau quyết liệt trên các báo ngôn luận của họ. Họ tố cáo lẫn nhau là tay sai của đế quốc, và trong các cuộc tranh luận Hội đồng thành phố, họ bút chiến và đấu khẩu rất kịch liệt, gây ra không khí vô cùng sôi nổi. Giới thợ thuyền thấy bên nào nói hay, nói khéo là họ theo.
Ngoài ra, " Hội kín Nguyễn An Ninh " là một phong trào tuy cũng khuynh hướng về thợ thuyền và nông dân, nhưng có tính chất quốc gia hơn là quốc tế. Một phong trào cách mạng địa phương mà cả Ðệ Tam lẫn Ðệ Tứ quốc tế đều cố tìm cách khai thác và thu phục để lợi riêng cho họ. Tờ báo của Nguyễn An Ninh là La Cloche Fêlée mà sáng lập viên là một người Pháp tên là Dejean de la Batie, và quản lý là một người Pháp gốc Nga.
Từ khi Nguyễn An Ninh bị tù, hội kín của ông bị tan rã. Hội kín Nguyễn An Ninh cũng như đảng Lập Hiến Ðông Dương đều hoạt động riêng biệt trong giới hạn Nam kỳ của Pháp và hoàn toàn bị cấm ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
Tất cả các hoạt động chính trị ở Saigon đều náo nhiệt hơn ở Hà Nội và Huế, vì thủ đô Nam kỳ được hưởng chế độ tự do hơn, nhưng chỉ ở trên bề mặt mà thôi. Như những đợt sóng xao động trên mặt biển, không có sóng thần vùng dậy ở bể sâu.
Thỉnh thoảng có những trận bão lớn làm cho biển động, nhưng không có " lames de fond ". Quảng đại quần chúng không được tổ chức mạnh mẽ, cho nên sau những ngày sôi nổi, rầm rộ, hầu như giả tạo, do một vài nhóm trí thức tiểu tư sản gây ra mà không có sự hưởng ứng nồng nhiệt của các từng lớp nhân dân, người ta thường thấy không khí nguội dần và tẻ ngắt.
Vì thế nên người Bắc kỳ và Trung kỳ thường phê bình người Nam kỳ là " lửa rơm ".
Cho đến năm 1945, thành kiến đó vẫn còn.
Ở Trung kỳ và Bắc kỳ, thì là " lửa than ", nhưng không có cơ hội cháy bùng lên, cho nên cứ âm ỉ dưới lớp tro nóng. Phải công nhận rằng sau năm 1945, không khí đã đổi hẳn, ở "Nam bộ " cũng như ở " Trung bộ " và " Bắc bộ ".


 

Nguyễn Vỹ

Tuấn Chàng Trai Nước Việt



CHƯƠNG 32

- Thực lực của quân đội thuộc địa Pháp chiếm đóng ba xứ Bắc Trung Nam.
- Cuộc diễn binh ngày 14-7-1939.


Trong lúc đó, lực lượng quân sự của người Pháp ở Ðông Dương như thế nào ?
Lúc Tuấn còn là một cậu " lắc léo mè dòng lô " ở trường tỉnh, mà " Nhà nước Bảo Hộ " gọi là " Ecole Franco Indigène " (trường Pháp - bổn xứ), thì Tuấn thấy trong tỉnh chỉ có một đồn lính Khố Xanh, tiếng Pháp gọi là La Garde Indigène, dịch đúng nghĩa là Lính Bổn xứ. Ðây là toàn là lính An nam đặt dưới quyền một viên chỉ huy Pháp, L’ Inspecteur de la Garde Indigène (quan Giám Binh). Những người lính Bổn xứ ấy cũng thường được gọi là " les miliciens ", mà không biết ai dịch ra thành danh từ chính thức rất vô nghĩa, là " Lính Tập ". Danh từ "Lính tập" lại rất thông dụng trong dân gian hơn là " Lính Khố Xanh ".
Nhận thấy rằng trong tỉnh chỉ có ba hạng lính, lính " Phú lít " (Police, cảnh sát), lính Lệ (lính của các quan An nam), lính Khố Xanh, mà hai hạng lính trên khỏi phải tập luyện gì cả. Tuấn nghĩ rằng có lẽ vì chỉ riêng có lính Khố xanh của Tây khi mới vào làm lính là phải tập đi, tập bước, tập nhẩy, tập bắn, nên người ta gọi là Lính Tập chăng ?
Tuấn đã chứng kiến việc mộ lính Khố xanh như thế nào ở Trung Bắc Kỳ.
Thí dụ mỗi làng nhận được giấy của Phủ, Huyện gởi về truyền lịnh phải tuyển chọn 2 người nông dân để đưa ra tỉnh làm lính Tập. Thường ông xã kiếm hai người tình nguyện trong đám dân nghèo không có ruộng đất, nhưng khoẻ mạnh.
Sự lựa chọn không khó khắn lắm vì đám dân nghèo khá đông. Hoặc có những gia đình khá giả nhưng đông con trai, thì một người tình nguyện ra lính Tập, vì tính phiêu lưu, vì có tham vọng làm thầy Cai, thầy Ðội, hoặc vì một lý do nào khác.
Có những thanh niên tuấn tú đã học giỏi chữ Nho, thuộc làu kinh sử, nhưng vác lều chõng đi thi mấy lần đều rớt, hoặc những chàng thất vọng vì tình duyên, hay uất hận vì gia đình, họ tình nguyện đi lính tập với tin tưởng sẽ được nhiều an ủi. An ủi nhờ công danh, quyền uy, chức tước, tuy là làm lính Tập cho nhà nước Bảo Hộ, nhưng vẫn được hưởng địa vị và phẩm hàm của triều đình An nam ban cho.
Từ một chú lính trơn lên được lon Quyền (lon vàng bằng một ngón tay), rồi lên chức :
- Cai nhì (lon vàng bằng hai ngón tay)
- Cai nhứt (lon vàng bằng hai ngón tay, kèm theo một rẻo) được hưởng hàm Chánh cửu phẩm của Triều đình.
- Ðội Nhì (lon bạc bằng một ngón tay) được hàm Tùng Bát phẩm của triều đình.
- Ðội Nhứt (lon bằng bằng hai ngón tay) được hàm Chánh Bát phẩm.
- Quản (hai lon bạc) được hàm Tùng Thất Phẩm.
Một người cậu của Tuấn, họ Bùi, chữ Nho khá, chữ Quốc Ngữ thạo, con thứ mười của một gia đình Phú Nông, tình nguyện đi lính tập để lập công danh. Hôm đầu tiên ra tỉnh, cậu mặc áo dài đen, quần vải trắng, đầu bới tóc, đúng như con nhà Nho giáo, theo nề nếp Nho phong. Nhưng vào đồn, cậu được lãnh bộ áo quần kaki của lính Tập, hớt tóc và bắt đầu tập bước với các tân binh khác dưới sự huấn luyện hùng hồ oai vệ, của một thầy Cai :
- Ấc, đơ ! … Ấc, đơ ! … Ấc, đơ! …(Một, hai ! …)
- Ất-xoong…Han tờ ! (Coi chừng …đứng lại !)
- A oách ! …oách ! (quay bên phải) !
- Rơ pô (Nghỉ)
- Ga-ra-vu ! (nghiêm)
- Ăn-na-văng …mạc ! …(bước tới)
- Ấc, đơ ! Ấc, đơ ! Ấc, đơ ! …
Một năm sau, cậu lính Tập Bùi được đóng lon Quyền. Hai năm sau được đóng lon Cai Nhì, và được gọi là thầy Cai Nhì …Rồi lên thầy Cai Nhứt …Bị phạm tôị thiếu kỷ luật, bị xuống lon Cai Nhì. Hai năm sau mới được lên lại lon Cai Nhứt.
Về làng, thầy Cai Bùi được "ăn trên ngồi trưóc " và được gọi là " thầy Cửu ", Cửu phẩm của Triều Ðình.
Toàn tỉnh chỉ có ba bốn đồn lính Tập đóng những nơi hiểm yếu mà thôi. Nhiều Phủ, nhiều Huyện, không có đồn lính Tập, nghĩa là không có lính, trừ năm bảy chú lính Lệ, của Phủ, Huyện, để hầu hạ ông quan An nam. Lính này không có tập luyện, không có súng, không có khí giới gì cả. Thỉnh thoảng chú ra chợ, tay cầm một chiếc roi tre hay roi mây, để bắt nạt mấy chị bán hàng và mấy anh "culi" xe kéo.
Theo lời ông ngoại của Tuấn kể lại cho Tuấn nghe, thời kỳ Nguyễn Thân đi đánh giặc Phan Đình Phùng, ông ngoại của Tuấn lúc bấy giờ là một nông dân vào hạng trung lưu, bị tuyển mộ vào đoàn quân của Nguyễn Thân. Ðây là một cơ binh riêng biệt của Triều đình An nam, lính mặc áo kẹp nẹp đỏ, bên cạnh đội Lính tập chính quy của Nhà Nước Bảo Hộ Phú Lang Sa.
Lính khố xanh của Bảo hộ bị Nghĩa quân cách mạng của Phan Đình Phùng và Cao Thắng bắn chết khá nhiều trong nhiều trận oanh liệt.
Lúc Tuấn ra Huế, ở Huế một tháng, Tuấn thấy một đồn lính Khố Xanh ở đường Jules Ferry (nay là đường Lê Lợi) gần trường nữ trung học Ðồng Khánh.
Một đồn lính Tây, dân chúng gọi là lính Sơn đá (do chữ Soldat của Pháp = lính), đóng ở Mang Cá, để đề phòng những cuộc khởi nghĩa ở Huế, hơn là để bảo vệ Kinh đô.
Ngoài ra, trong Thành Nội, vua An nam "Ðại Nam Hoàng Ðế " có riêng một đội lính Khố Vàng, để hầu vua.
Dưới thời Khải Ðịnh, triều đình An nam có 6 Bộ (Lục Bộ) : Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ Học, Bộ Hình, Bộ Công, Bô Binh. Nhưng các bộ ấy không có nhiệm vụ nào thực tế, hay quan trọng. Như Bộ Công (công chánh) chỉ lo gìn giữ những con đường trong Thành Nội cho sạch cỏ. Còn quan Thượng Thư Bộ Binh, Binh Bộ Ðại Thần, thì chỉ huy lính Khố Vàng mà phận sự là khiêng kiệu, cầm cờ cầm quạt, che lọng cho Vua khi Vua đi tế Trời Ðất trên Ðài Nam Giao.
Sau khi Khải Ðịnh chết (động từ dành riêng cho Vua là " băng hà "), viên Khâm Sứ Huế, thủ hiến của Nhà Nước Bảo Hộ, bỏ hẳn Bộ Công và Bộ Binh.
Quan Binh Bộ Thượng Thư cuối cùng của triều Nguyễn, một cụ già đáng kính, có chòm râu bạc phất phơ hiền lành và nho nhả, không hề biết số lính của Triều đình là mấy chục hay mấy trăm người.
Bảo Ðại về lên ngôi, " cải tổ nội các", cũng bỏ luôn bộ Binh, và đổi danh từ cho vài Bộ khác :
- Bộ Giáo dục thay vì Bộ Học.
- Bộ Tư Pháp (Hình)
- Bộ Nghi Lễ (Lễ).
Ở Hà Nội, Tuấn để ý đến đồn lính Khố Xanh (ở Bắc kỳ không gọi là Lính Tập, chỉ gọi lính Khố Xanh), ở đường Ðồng Khánh.
Ngoài ra còn nhiều đồn lính Khố Ðỏ mà người Pháp gọi là Tirailleurs Tonkinois ở Hà Nội, Ðáp cầu, Tống (Sơn Tây), Lạng Sơn.
Lính này theo một quy chế khác hẳn lính Khố Xanh.
Ngoài hai hạng lính Bổn xứ ấy mà cấp bực chỉ đến chức Quản (Adjudant) là hết, và đặt dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan Pháp cũng ở cấp bực nhỏ, quân đội chính quy Pháp ở Ðông Dương gồm có Lục quân thuộc địa (Infanterie Coloniale) và " Lê Dương " (Légion Étrangère). Binh chủng này gồm đa số là người của các thuộc địa Phi châu của Pháp, nhiều nhất và nổi tiếng dữ nhất là người Sénégalais (quê ở Sénégal), Marocains (quê ở Maroc), Malgaches (quê ở Madagascar) và bọn phiêu lưu ngoại quốc Đức, Áo, Tiệp v.v…
Chính phủ thuộc địa dùng các đạo quân này để đánh dẹp các phong trào khởi nghĩa quốc gia, hoặc các cuộc nổi loạn của cộng sản.
Về vũ khí, có thể nói là chẳng có gì đáng kể. Hầu hết là các khí giới kiểu cũ đã dùng trong trận Thế chiến 1914-1918 còn ứ đọng lại, đem phân phối cho lính thuộc địa ở Ðông Dương. Thông dụng nhất là loại súng Mousquetons, được gọi là " súng trường ", và một số ít súng liên thanh kiểu cũ. Súng đại bác, có thể nói là rất hiếm. Một vài khẩu 75 đã xưa mà hỏa lực chỉ mạnh hơn chút ít loại súng " thần công " của các vua An nam thời Tự Ðức. Xe tăn được 5, 7 cái loại 1918. Tầu bay lỗi thời kiểu Morane và Potez độ vài chục chiếc với một động cơ, không bao giờ dám chở đi xa các vị thượng cấp, Toàn quyền, Khâm sứ, Thống đốc, hoặc Hoàng đế, Thượng thư. Các vị này đi đâu dù là từ Saigon ra Hà Nội cũng chỉ đi bằng xe lửa mà thôi.
Tuấn có đi xem cuộc diễn binh lớn nhất ở Hà Nội, nhân dịp lễ Quốc khánh của Pháp, ngày 14 tháng 7 năm 1939. Lúc này chiến tranh sắp bùng nổ ở Âu châu, do những lời hăm dọa thường xuyên của Hitler. Ở Ðông Á, Nhựt Bổn cũng lăm le dòm ngó thuộc địa Ðông Dương của Pháp.
Có lẽ vì tình thế khẩn trương, nên chính phủ thuộc địa nhân ngày "Quốc Khánh "
14-7-1939, muốn tổ chức một cuộc diễn binh vĩ đại, để phô trương lực lượng quân sự của Pháp ở Hà Nội trước mắt người dân bổn xứ.
Cuộc diễn binh đặc biệt này được cử hành long trọng trên Quai Clémenceau (đường Bờ Sông) dưới quyền chủ tọa tối cao của đại tướng Catroux. Toàn quyền Ðông dương. Dân chúng xem rất đông, đứng chật cả bờ đê sông Hồng Hà, theo một khoảng dài trên một kí lô mét và trên lề đường Clémenceau và đường Thống chế Pétain.
Sau cuộc nghi lễ quân sự, cuộc diễn hành bắt đầu lúc 9 giờ. Theo tiếng nhạc hùng tráng của đội quân Lê dương, các đơn vị binh chủng sắp hai hàng dõng dạc qua trước khán đài danh dự. Nhưng quân số rất ít, tổng cộng cả lính Khố Xanh, Khố Ðỏ, Lục quân thuộc địa, Lê dương, Thiếu sinh quân không quá 1000 người.
Ðội quân cơ giới không quá 5 chiếc xe thiết giáp nhỏ, và 4 xe tăn (người Bắc gọi là tàu bò) cũ kỹ mà hai cái vừa bò ì ạch đến trước khan đài thì bị panne, nằm chình ình giữa đại lộ. Năm chiếc tàu bay Morane một động cơ, cánh dài hình chữ nhật, sắp thành chữ V bay chậm chậm trên trời xanh, được một vòng rồi biến mất về phía phi trường Gia Lâm.
Xem xong cuộc diễn binh, dân chúng ra về, mỗi người phê bình mỗi cách, nhưng tựu trung không aí có cảm giác hào hứng lắm.
Nói về hiệu quả tâm lý, thì cuộc biểu diễn của quân đội thuộc địạ Pháp ở Hà Nội ngày 14-7-1939 là một thất bại lớn trái với dự tính của nhà cầm quyền Pháp.
Năm giờ chiều, Tuấn trở lại đường Bờ Sông, thấy hai chiếc " tàu bò " hỏng máy còn nằm vạ nơi đó, do hai người lính Pháp hì hục sửa mãi chưa xong.
Hai tháng sau, ngày 3-9 -1939, Thế giới Chiến tranh bùng nổ ở Âu châu.
Hà Nội cũng như tất cả thành phố Ðông dương, bị đặt vào tình trạng báo động. Dư luận tổng quát của dân chúng là biết trước rằng ở Âu châu Pháp đánh với Ðức thì Pháp chắc sẽ thua. Ở Á Đông, nếu Pháp chống lại Nhật thì thế nào Pháp cũng sẽ bị bẹp. Dân chúng không tin tưởng nơi lực lượng quân sự Pháp ở thuộc địa này.
Với một lực lượng quân sự có thể gọi là yếu ớt và sơ sài như thế, tại sao người Pháp nắm vững được thuộc địa của họ và đàn áp được tất cả phong trào chính trị, các mưu toan khởi nghĩa của các đảng phái quốc gia ở Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, và các cuộc nổi loạn cộng sản ở một vài địa phương Trung kỳ và Nam kỳ ?
Chúng ta tìm hiểu nguyên nhân ở chương sau.


 

Nguyễn Vỹ

Tuấn Chàng Trai Nước Việt



CHƯƠNG 33

1933-34-35

- Thực lực và khuyết điểm của các đảng cách mạng Bắc Trung Nam.


Nghiên cứu về tình hình riêng của mỗi " xứ ", và tình hình chung của toàn thể lãnh thổ Việt Nam, Tuấn nhận thấy rõ rệt sự kiện say đây, là thiếu hẳn đoàn kết giữa các đảng phái quốc gia hoạt động cách mạng.
Tất cả các đảng phái đều tranh đấu cho những mục phiêu chung :
- Ðộc lập của Tổ quốc.
- Chủ quyền của quốc gia.
- Tự do của dân tộc.
Tất cả các chương trình hoạt động của đảng phái, trừ đảng cộng sản - đều dựa trên ba yếu tố đó làm căn bản. Ðó là nhu cầu của thực trạng một dân tộc vong quốc từ cuối thế kỷ trước mà chưa có một vị anh hùng, chí sĩ nào thực hiện được suốt 50 năm dưới quyền thống trị Pháp. Thay vì một đảng cách mạng duy nhất, tổ chức trên bình diện rộng rãi có sự tham gia hăng hái và trung thành của đại đa số nhân dân ở khắp các từng lớp xã hội, thay vì môt lực lượng tranh đấu đoàn kết được các phần tử ái quốc của ba Kỳ, các đảng phái thành lập dưới hình thức " hội kín " lại thích hoạt động riêng rẽ với một số hội viên hiếm hoi, tuyển mộ trong vòng bạn hữu, quen thuộc, chứ không lan rộng được ra quảng đại quần chúng.
Một vài " lãnh tụ " làm cách mạng theo lối tài tử nhiều hơn là chiến sĩ chân chính. Họ nói rất hùng hồn nhưng hành động không có phương pháp thực tế.
Bậy nhất là họ có nhiều tự ái, có tác phong anh hùng cá nhân, không chịu chấp nhận những lời phê bình đứng đắn của các đồng chí, hội viên.
Do đó mà " Hội kín " nào hay "Ðảng " nào cũng chỉ sống được một thời gian ngắn, dần dần bị các hội viên bỏ rơi, chỉ còn lại vài ba anh " lãnh tụ " hoạt động trong phạm vi lý thuyết suông mà thôi. Sự kết hợp long trọng của một vài đảng cũng chỉ có trong lý thuyết, vì thực tế rất trống trãi nghèo nàn.
Tuấn có đưa một vài anh bạn xem quyển " Le Réveil de l 'Asie " của René Grousset, xuất bản ở Paris năm 1925.
Bạn xem xong, trả sách, Tuấn bảo :
- Nếu Việt Nam ta có một Ðảng Cách Mạng duy nhất như đảng Swaraj (parti de Congrès) của Ấn Ðộ, và một lãnh tụ duy nhất có đầy đủ uy tín đối với quốc nội và quốc ngoại như Mahatma Gandhi, hoặc đảng Warfd của Ai Cập, hoặc đảng Jeunes Turcs của Thổ Nhĩ Kỳ dưới quyền lãnh đạo cương quyết và sáng suốt của Mustapha Kemal, thì người Pháp phải kiêng nể dân tộc ta.
Nếu các "Ðảng phái " của chúng ta hợp nhất lạị thành một đảng duy nhất mà tầm hoạt động được lan rộng khắp 3 kỳ đặt dưới quyền lãnh đạo của một Phan Bội Châu, hay một Nguyễn Thế Truyền, thì cách mạng Việt Nam mới có thể tranh đấu công khai và đi đến thành công được.
Nhưng đám bạn trẻ của Tuấn và Tuấn nhận thấy tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, và hợp nhất đảng phái quốc gia không thể nào thực hiện được, vì óc " lãnh tụ ", " anh hùng cá nhân " đầy lòng tự ái của mấy người anh làm " cách mạng tài tử ", là một trở ngại lớn lao không thể nào đả phá được.
Ðó là một định mệnh vô cùng tai hại cho ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam.
Phải đợi đến 1945, nhờ hoàn cảnh thuận tiện cả trên lãnh vực quốc gia và quốc tế. Việt Minh (Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh) lên nắm chính quyền mới thực hiện được cuộc tranh đấu toàn diện, trên toàn thể lãnh thổ quốc gia.
Nhưng ngay trong hệ thống tổ chức của Việt Minh, các đảng phái quốc gia cũng không hợp nhất nhau lại thành một khối, không đoàn kết lại thành lực lượng, để cho cộng sản lợi dụng và tiêu diệt dần dần các hình thức cách mạng dân tộc, và các lãnh tụ quốc gia phải trốn hết qua Tàu.
Vài ba năm sau họ trở về qui thuận dưới bóng cờ Bảo Ðại.
Nhưng đó là chuyện khác.
Trở lại tình trạng chính trị của nước An nam trong những năm 1933-34-35.
Như chúng ta đã biết, lực lượng quân sự của chánh phủ thuộc địa Pháp lúc bấy giờ ở đây rất sơ sài yếu ớt, không đáng kể. Nhưng sở dĩ người Pháp vẫn nắm vững được tình hình, chính trị vì lực lượng chính trị và quân sự của nhân dân Việt Nam là con số không.
Trở về những năm 1933-34-35, có thể nói rằng không có hoạt động chính trị nào đáng kể từ Bắc đến Nam, và dân tộc Việt Nam sống rất " yên ổn ". Sau những đêm máu lửa hãi hùng ở Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên (Bắc kỳ) năm 1930 của V.N.Q.D. Ð, và ở Hóc Môn, Cai Lậy (Nam kỳ), Quảng Ngãi, Nghệ An, Hà Tỉnh (Trung kỳ) năm 1932-33 của cộng sản, toàn cõi Ðông Dương sống trở lại phong cảnh thanh bình mà thực dân hãnh diện gọi là " La paix francaise " (thái bình của Pháp ban cho).
Tuy nhiên dân chúng vẫn không quên được vài hình ảnh ghê tởm nhất của những năm tao loạn vừa qua. Như việc dân chúng Nam kỳ đồn rằng Ðốc Phủ Tâm ở Cai Lậy mỗi khi bắt được các dân biểu tình Cộng sản, thì ông sai lính lấy sắt nhọn nung lửa cho thật đỏ, dùi thành lổ giữa những bàn tay của phiến loạn, rồi lấy giây kẽm xỏ vào, cột thành từng chùm bốn năm người, chở ghe ra xô trọn xuống sông.
Như chuyện lính Lê dương đốt nhà và hiếp dâm các thôn nữ ở Quảng Ngãi, Nghệ An, như chuyện viên Toàn quyền René Robin cho hai chiếc phi cơ đến ném bom xuống làng Cổ Am ở Bắc kỳ, giết chết toàn dân lành, ông già bà cả, trẻ con để trả thù cuộc khởi nghĩa của VNQDÐ.
Ngoài mấy chuyện rùng tợn dã man như thế mà dân chúng truyền khẩu cho nhau, cuộc sống hàng ngày rất là yên tỉnh, không có biến cố nào xao động nữa.
Hội chợ Hà Nội được tổ chức ba năm một lần, tại Khu Hội Chợ rộng rãi, huy hoàng với sự tham dự đông đảo của các tỉnh Trung, Bắc kỳ và ba xứ Nam kỳ, Ai Lao, Cao Mên.
Có cả gian hàng trưng bày rất Mỹ thuật, đầy đủ hàng hoá của các nước láng giềng : Nhật, Xiêm (Thái Lan), Trung Hoa, và nhất là các hãng kỹ nghệ lớn của Pháp. Ðây là một dịp để cho các từng lớp thanh niên thiếu nữ chưng diện bảnh bao, nô đùa nhởn nhơ suốt một tháng, đêm nào cũng đông nghẹt. Họ ném lẩn nhau lên tóc những nắm confettis (hoa giấy), quấn vào nhau những giây serpentines, tặng cho nhau những que kem 1 xu của hãng kem Bờ Hồ.


 

Nguyễn Vỹ

Tuấn Chàng Trai Nước Việt



CHƯƠNG 34

1933-35

- Văn chương lãng mạn phát triển mạnh.
Hai nguồn gốc :
- Tố-Tâm, ảnh hưởng lãng mạn của văn minh Pháp.
- Tuyết Hồng Lệ Sử, ảnh hưởng lãng mạn của văn minh Tàu.
- Thơ mới, do một ông già Quảng Nam và một cô Nữ sinh Saigon cổ động, cả hai đều không phải là thi sĩ.


Năm 1933-34 , phong trào chính trị lắng xuống, thì trái lại, phong trào văn nghệ đột ngột bùng lên, Tiểu thuyết Tố Tâm chịu ảnh hưởng của văn chương lãng mạn Pháp, và tiểu thuyết Tuyết Hồng Lệ Sử, dịch chuyện lãng mạn của Tàu, xuất bản trước đó mấy năm và đã hấp dẫn được một phần lớn công chúng, hãy còn dư âm đẹp và hương vị nồng nàn trong các lớp người của thế hệ 1935.
Văn thơ lãng mạn kế tiếp ra đời, khắp cả Bắc, Trung, Nam, nhưng mạnh nhất ở Bắc. Tuấn được may mắn sống ở Hà Nội, theo dõi sát phong trào qua các báo chí, và các hoạt động văn nghệ ở Hà Nội cũng như ở Huế và Saigon.
Luôn luôn đứng trên phương diện khách quan, nhận xét sự kiện và phân tách biến cố theo thực trạng của nó. Tuấn thấy văn nghệ lãng mạn sôi nổi ở Saigon một lúc đầu, vào khoảng 1932-33, rôì dần dần dịu xuống để trở lại bình thường, hầu như bị buông trôi theo nhịp sống vật chất ồ ạt rộn rịp hàng ngày.
Có điều Tuấn ngạc nhiên nhất trong lãnh vực văn nghệ lãng mạn ấy, là phong trào " thơ mới " ở Saigon được hăng hái khởi xướng bởi hai người không phải là thi sĩ : một cụ Tú nhà Nho, người Trung kỳ, ông Phan Khôi, chủ bút tờ " Phụ Nữ Tân Văn", có ít nhiều Tây học, chỉ thỉnh htoảng, lúc nào cao hứng, mới làm chơi một bài thơ thuộc loại trào phúng, và một nữ sinh, cô Nguyễn thị Manh Manh, người Nam kỳ, con gái một ông Huyện hàm về hưu, vừa thi đỗ diplôme ở trường Áo Tím (Collège de Filles Annamites nay đổi tên là trường Gia Long). Cô Manh Manh không chuyên làm thơ, cô không hề xuất bản một tập thơ nào cả, nhưng cô lại hăng hái viết báo và diễn thuyết cổ xuý Thơ Mới. Không những riêng ở Saigon, cô còn lại đi với ông Huyện Trị, thân phụ của cô, ra Hà Nôị để diễn thuyết về " Thơ Mới ". Hôm cô diễn thuyết ở hội AFIMA, Tuấn bị sốt rét nên không đi nghe được, nhưng bạn của Tuấn đi khá đông, có về thuật lại cho Tuấn rõ ràng cô nói trôi chảy, giọng Saigon nghe là lạ dễ thương. Về nội dung bài diễn thuyết không có gì đặc sắc.
Người ta phê bình nhan sắc của cô nhiều hơn là bài diễn thuyết. Ðối với người Hà Nôị, cái tên của cô đã là một sự lạ rồi, Nguyễn thị Manh Manh. Sao lại đặt cái tên dị thường như thế ? Phải chăng cô muốn lấy tên một giống chim ở Nam kỳ, con chim manh manh, bé nhỏ, có giọng hót líu lo khả ái ?
Tại sao cô không thích để tên thật của cô là Nguyễn thị Kiêm mà đáng lẽ phải viết là Nguyễn thị Kim ? Người cô thấp và mập, mặt tròn vo, đôi mắt cũng tròn và to, tròng con ngươi đen nhánh, đầu để búi tóc như hầu hết các thiếu nữ Saigon 1935. Cô Manh Manh xuất hiện trên nền trời Thơ Mới Việt Nam như một ngôi sao chổi, chỉ thoảng qua rôì biến mất. Cô không để lại một bài thơ nào có giá trị, dù là thơ cũ hay thơ mới.
Phan Khôi, trái lại, là một cụ già nổi tiếng từ lâu trong làng văn, làng báo của ba Kỳ. Cụ thuộc về phái Nho học tân tiến, người tỉnh Quảng Nam, đã đậu Tú tài Hán học, nhưng lại thích mặc Âu phục hơn là áo dài khăn đóng, khác hẳn các ông Tú, ông Cử đồ Nho lúc bấy giờ. Cụ cũng thích nói tiếng Tây vì cụ có tự học Pháp ngữ, và nổi tiếng về khoa lý luận. Cụ vẫn thường tuyên bố với bạn bè rằng cụ thích ve vãn cô Logique Tây phương.
Tuấn được gặp cụ hai ba lần ở Hà Nội, trong toà báo " Phụ Nữ Thời Ðàm " mà cụ làm chủ bút. Cụ có cho Tuấn xem vài bài thơ của cụ, gọi là " thơ mới ", toàn một giọng trào phúng. Một lần cụ bảo với Tuấn :" Người ta cứ đổ riệt cho tú Phan Khôi này là đề ra thơ mới. Thiệt là bá láp bá xàm. Tui có ưa làm thơ bao giờ đâu, thơ cũ cũng không làm huống chi là thơ mới. Ðể trả lời những anh nói bậy đó, tui tức mình làm vài bài thơ mới chơi, gọi là " thơ mới " mà chính là để ngạo thơ mới đó ".
Tuấn có hỏi lại cụ Tú Phan Khôi :
- Người ta bảo rằng bài " Tình Già " của bác đăng trong Phụ nữ Tân văn là thơ mới đấy.
Cụ Tú cười oang oang :
- Mới cái mốc xì ! Bài Tình Già, tui làm theo điệu thơ Cổ phong của Tàu, chớ mới cái gì !
Dù sao, phân tách kỹ, Tuấn thấy rằng phong trào thơ mới cũng đã xuất hiện theo trào lưu tiến triển tự nhiên của văn nghệ.
Năm 1934-35, một lớp thanh niên mới được đào tạo ở các trường trung học và cao đẳng Pháp, hấp thụ nền văn chương tư tưởng Pháp quá nhiều, nên bắt đầu đem ảnh hưởng mới ấy vào văn chương Việt Nam.
Trước đó đã có Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh dùng cú pháp của Tây để diễn tả tư tưởng, nhưng hai nhà văn tiền phong lão thành ấy đã theo thể thức hàn lâm, quá đạo mạo, nghĩa là quá cổ điển.
Hoàng ngọc Phách viết quyển Tố Tâm đã khoáng đạt trẻ trung hơn nhiều, nhưng chỉ trong phạm vi tiểu thuyết lãng mạn mà thôi.
Bộ môn thơ vẫn chưa dứt ra khỏi khuôn khổ cũ kỷ từ nghìn xưa, vẫn quanh quẩn với mấy điệu thơ Ðường luật bát cú, tứ tuyệt, hoặc thơ song thất lục bát của mấy cụ nhà Nho.
Ðến lớp nhà văn và nhà thơ trẻ của thế hệ 1932-33, lối diễn tả tư tưởng, lối nhận xét sự vật, đã mới hơn nhiều, phóng đạt hơn và có phần sâu sắc hơn. Dĩ nhiên là nó thích hợp hơn với tinh thần phát triển mới của các từng lớp trí thức và công chúng.
Chính trong hoàn cảnh thay cũ đổi mới đó mà các loại thơ gọi là " thơ mới "được xuất hiện một cách mặc nhiên không ai đề xướng cả. Ðó là hậu quả dĩ nhiên của lịch trình tiến hoá của Văn chương và Tư tưởng loài người, chớ không phải một phát minh mới lạ như Khoa Học.
Trong phạm vi lịch sử nhân văn, Tuấn nhận thấy rằng đồng thời với sự tiến triển theo một ý thức mới của Văn chương An nam, chỉ sớm hơn hoặc muộn hơn năm sáu năm, ở Nhật Bổn và Trung Hoa cũng có phong trào thơ mới, ở Indonésia cũng có phong trào Thơ mới. Chỉ trừ ở Thái Lan, Cao Miên, Lào, tình hình văn nghệ vẫn duy trì như cũ, bị ứ đọng lại vì thiếu điều kiện phát triển. Duy có Phi luật Tân ảnh hưởng của Portugal (Bồ đào Nha), đã in sâu vào tiềm thức dân tộc từ lâu năm hơn, kế tiếp lại chịu ảnh hưởng của Hoa kỳ, nên Văn nghệ Phi luật Tân ở trong tình trạng đặc biệt hơn.
Có thể nói rằng dưới hấp lực của các chuyễn động Tây phương, địa lý văn nghệ (la géographie littéraire et artistique) của các xứ ở vùng Ðông Nam Á đều ghi nhận một trào lưu cải tiến tự nhiên và không tránh khỏi. Chính trào lưu ấy cũng đã thay đổi ít nhiều bề mặt, đảo lộn ít nhiều bề sâu, của tư tưởng văn nghệ An nam mới …
Tuấn theo sát các phong trào Văn nghệ đang nhóm dậy từ năm 1933-1934 tại Hà Nội.
Dù muốn dù không, Hà Nội cũng là nơi tụ hợp của các văn nghệ sĩ trẻ tuổi của thế hệ say sưa với nhiệm vụ thiêng liêng của họ.
Người Pháp lúc bấy giờ cũng phải nhìn nhận rằng Saigon là kinh đô thương mãi (Capitale commerciale), Huế là kinh đô cổ kính của Nam triều (Capitale Impériale), Hà Nội là kinh đô trí thức (Capitale Intellectuelle).
Nói như thế không phải là thời Pháp thuộc, Hà Nội không chú trọng về thương mãi, Saigon không có hoạt động về văn hoá. Nhưng ai cũng thấy rõ rằng Saigon là trung tâm điểm rộn rịp nhất của các hoạt động kinh tế và thương mãi, các nhà máy lớn của ngoại quốc, các hãng xuất nhập cảng lớn giao dịch khắp các thị trường quan trọng của thế giới. Saigon lại là một nhà máy lúa gạo vô tận để tiếp tế cho cả Trung, Bắc kỳ trong nhiều năm mất mùa hay đói rét. Trái lại, hoạt động văn hóa ở Saigon không được thịnh hành. Nếu có chăng cũng chỉ được coi gần như là một xa xí phẩm.
Các văn nghệ sĩ nổi tiếng trong nước không hẹn nhau mà lại gặp gỡ nhau ở Hà Nội nhiều hơn cả. Hầu hết các tác phẩm văn chương được dân chúng toàn quốc từ Bắc vào Nam hoan nghinh nhất, được đọc say mê, và bán chạy nhất bất cứ ở tỉnh nào của Bắc kỳ, Trung kỳ, hay " Nam kỳ lục tỉnh "đều xuất bản tại Hà Nội, do các nhà Thơ, nhà Văn tập trung ở Hà Nội.
" Làng Văn " Hà Nội - danh từ thông dụng của thời đại, bao gồm các tao nhân mặc khách quê quán ở các tỉnh Bắc kỳ như Tản Ðà, Khái Hưng, Lan Khai, Thế Lữ, Lê văn Trương, Nguyễn Công Hoan, Tú Mỡ, Trương Tửu, Phạm Huy Thông, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Nhược Pháp, v.v… và quê quán ở Trung kỳ như Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Tường Tam, Xuân Diệu, Phan Khôi v.v…
Chỉ có Hàn mặc Tử và Chế Lan Viên là ở hẳn Qui Nhơn (Trung kỳ), không có mặt ở Hà Nội trong thời kỳ bộc phát văn nghệ lãng mạn ấy.
Phan Khôi sau khi vào Saigon thử thời vận một thời gian, thấy không được như ý sở nguyện, trở về Huế làm báo " Sông Hương " cũng "chẳng nước non" gì, rốt cuộc cũng lê thân già ra đất Bắc.
Ở đây xem chừng như thích hợp với tinh thần văn nghệ hơn. Tao nhân mặc khách hình như lưu luyến hơn với khí thiêng của sông Nhị núi Nùng.
Nhân nói về vị trí của " núi Nùng ", Tuấn đã thắc mắc từ lâu, vì không thấy địa danh ấy trong các sách địa dư Việt Nam. Vài bạn làng văn ở Bắc hà đã chỉ cho Tuấn một gò đất cao quá 5 thước ở phía sau chuồng chim trong vườn Bách Thảo, Hà Nôị. Thì ra các cụ thi sĩ nhà Nho ở Thăng Long xưa đã gọi ụ đất ấy là núi Nùng để có một đối tượng thơ mộng với sông Nhị, như núi Ngự sông Hương ở Huế đô vậy.
Tuấn nhận thấy Hà Nôị có nhiều điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển văn nghệ, loại văn nghệ thuần túy của trí óc, biểu diễn thanh cao của tư tưởng. Thời bấy giờ văn thơ là tiêu biểu cho cái gì cao qúi, trong trắng nhất của tinh thần dân tộc.
Năm 1935 chưa có loại văn nghệ vụ lợi và văn nghệ xôi thịt, văn nghệ con buôn.
Tuấn đã phân tách văn thơ ở Hà Nội Tiền chiến và nhận thức phong trào tiến hoá của nó từ 1933-34. Cái mà người ta gọi là " thơ mới " chỉ là hậu quả không thể tránh được sự xâm nhập của văn thơ Pháp trong giới văn nghệ sĩ thanh niên.
Một nhóm người trẻ, xuất thân từ các trường Pháp - An nam (écoles Franco-Annamites), đã hấp thụ khá nhiều tinh tuý của văn nghệ Pháp, nhất là từ thế kỷ XVII mặc nhiên đã được đào tạo một quan niệm mới về suy tưởng, và một thể thức mới về diễn tả. Cuối thế kỷ XVIII, thi sĩ Pháp André Chénier đã phải chủ trương :" Sur des pensers nouveaux faisons des vers antiques " (trên những ý tưởng ta hãy làm những thơ xưa). Những thơ xưa tức là thơ Alexandrius của Hy Lạp và La Mã cổ điển.
Qua thế kỷ XIX, nhóm thi sĩ trẻ lãng mạn của Pháp chủ trương thay đổi một vài điểm của hình thức thơ cũ, xê-xích một césure, chấp nhận một enjambement, và chỉ có thế mà cũng gây ra cả một cuộc bút chiến khá sôi nổi trong làng Thơ. Người đề xướng hăng hái nhất là Victor Hugo, thực hiện chút cải cách nhỏ mọn về hình thức đó, cả gan đem lên sân khấu một vở kịch viết bằng lôí thơ mới, đã bị các nhà thơ cổ điển huýt còi la hét rầm rầm. Théophile Gautier với chiếc áo sơ mi đỏ chót, đã phải hung hăng đả kích lại để bênh vực cho chủ trương " táo bạo " của nhóm mới.
Ðầu thế kỷ XX, nhất là sau Ðệ Nhất Thế Chiến, lại có nhóm siêu thực của Apollinaire, Aragon, Paul Eluard, phá huỷ tất cả thông lệ, chê bỏ Alexandrius, đặt ra " thơ tự do " với lối diễn tả khác hẳn.
Dĩ nhiên lối thơ mới đó cũng đã làm đề tài cho một số người nổi dậy công kích dữ.
Ở Việt Nam, bắt đầu từ 1932, lớp thi sĩ trẻ tuổi ở các trường Cao đẳng tiểu học Pháp - Nam, vừa mới ra đời, đã đăng rải rác trong các báo ở Hà Nội những bài thơ mới bên cạnh những bài thơ cổ điển của những thi sĩ lão thành phái Nho học.
" Thơ mới " không bị ràng buộc bởi một quy luật nào nhất định, nhưng theo một xu hướng chung : thoát ly các khuôn khổ và hình thức niêm luật cũ, và theo vần điệu và cú pháp của thơ Tây. Thi phẩm đầu tiên có sắc thái thơ mới rõ rệt nhất là "Vài Nét Ðan Thanh" của Lưu Trọng Lư, ra một lượt với truyện ngắn "Người Sơn Nhân" của tác giả ấy. do Ngân Sơn tùng thư xuất bản.
Lưu Trọng Lư là người Quảng Bình, đã học đến lớp Ðệ Tứ niên cao đẳng tiểu học. Tính tình rất thơ mộng, hơi đãng trí, anh ta không thích học, thường để thì giờ làm thơ. Không chịu những gò bó niêm luật, quá khắc khe của thơ Ðường và quá dễ dãi của thơ Lục Bát (một bài thơ Lục Bát có thể trở thành một bài vè), Lưu Trọng Lư xử dụng một hình thức mới mà âm điệu uyển chuyển giữa hai thể Ca trù Việt Nam và Cổ phong Tàu. Nội dung lãng mạn thì chịu rõ ràng những ảnh hưởng của thơ Tây.
Ðọc kỹ năm bảy bài thơ phóng khoáng đầu tiên của Lưu Trọng Lư trong " Vài Nét Ðan Thanh ", Tuấn cảm thấy một hình thức thi ca mới, tuy còn hơi rụt rè, nhưng rất thích hợp với tinh thần mới của thế hệ trẻ 1932.
Kế Lưu Trọng Lư, Thế Lữ cũng bắt đầu đăng những bài thơ mới trong tuần báo Phong Hoá.
Ðến đây, Tuấnn nhận thấy một sự kiện lịch sử giúp rất nhiều vào lịch trình phát huy của thơ mới. Ðó là sự tiến triển của tinh thần độc giả song song với sự tiến triển của văn nghệ. Vì nếu có một thế hệ văn sĩ mới, sẵn sàng tiếp nhận những biến đổi thích ứng với thời đại. Lớp độc giả đông đảo này cũng đã được đào tạo trong các trường học Pháp - Nam, và cũng đã chịu ít nhiều ảnh hưởng của Văn nghệ Pháp. Sự hấp thụ văn hoá Pháp là một nhu cầu đương thời không thể nào tránh được, cho nên dù muốn dù không, cả một thế hệ thanh niên mới, trí thức, trung lưu và thượng lưu, sẵn sàng chấp nhận, và hoan nghênh mọi sự đổi mới thích hợp với trình độ tiến hoá của họ trên mọi lãnh vực.
Do tình trạng đó, Tuấn đã thấy trong nhiều gia đình An nam, những ông cụ già và những người của tuổi đàn anh, thích đọc văn thơ cổ điển trong những báo chí thủ cựu loại "Trung Bắc Tân Văn " và " Nam Phong Tạp Chí " ở Hà Nôị. Tiếng Dân ở Huế; Công Luận, Tin Ðiển, Sài Thành nhật báo ở Saigon.
Trái lại, những người tuổi trẻ có thấm nhuần tư tưởng văn chương Âu Tây lại thích đọc những báo chí tân tiến do lớp trí thức trẻ chủ trương như " Loa, Tiễu Thuyết thứ bảy, Tiểu Thuyết thứ năm, Phong Hóa ở Hà Nội, hoặc "Trong Khuê Phòng, Mai ", ở Saigon.
Những bài thơ mới được phổ biến rộng rãi trong các cơ quan văn nghệ của lớp trẻ, và rất được lớp này nhiệt liệt hoan nghênh. Thơ cổ điển bắt đầu suy sụp dần.
Nhưng thơ mới không có quy luật rõ rệt " Thơ Mới " chỉ là một danh từ tổng quát bao gồm tất cả những thể loại thơ không theo khuôn khổ cổ điển như Thất ngôn bát cú của Ðường luật, hoặc Song Thất lục bát, hoặc Ca trù.
Vì vậy, năm 1934 " Trường thơ Bạch Nga " xuất hiện đề xướng một quy luật cho thơ mới.
Tìm đến nguyên nhân chính của sự xuất hiện " Trường Thơ Bạch Nga ", Tuấn đã nhận thấy, như mọi người, một thống kê chung ở thời kỳ Văn chương bắt đầu phát triển mạnh mẽ nhất ở Việt Nam, là hầu hết văn chương " An nam " hồi đó đều chịu ảnh hưởng của văn chương Pháp.
Phạm Quỳnh và nhóm Nam Phong là tiền phong của phong trào mới. Mới từ tinh thần đến thể thức. Mới từ tư tưởng đến cách diễn tả tư tưởng. Tất cả những gì rườm rà, luộm thuộm, cổ kính, theo ảnh hưởng Văn chương Trung Hoa đều bị gạt bỏ dần dần, và được thay thế bằng lôí viết rõ rệt, có quy cũ, có văn phạm, của văn chương Pháp. Ðiều đó không ai phủ nhận được.
Cũng như về hình thức bề ngoài, người An nam của thế hệ mới đã cắt bỏ cái búi tóc cổ truyền để thay vào đó một cái "đầu mới cúp carré ", hoặc chải tóc rẽ " trios quart ", và bỏ chiếc áo dài thay thế bằng bộ y phục tây phương. Văn chương và tư tưởng của lớp người mới cũng bắt đầu từ bỏ mớ tóc daì lê thê và chiếc áo dài luộm thuộm của Văn chương cố cựu …đó đã trở thành một thông lệ mới, dĩ nhiên, của thời đại mới. Những câu văn xuôi rườm rà cổ kính của các cụ nhà Nho và những bài thơ nặng nề, đầy cổ tích Tàu, niêm luật khắc khe, đều bị đào thãi dần dần theo luật tiến triển tự nhiên của Tư Tưởng và Văn Nghệ.
Trong lúc thơ mới Việt Nam ra đời, thoát được khuôn khổ cũ, nhưng vẫn còn mò mẫm trong các cuộc thí nghiệm của mỗi nhà thơ, thì thơ Bạch Nga xuất hiện với mục đích rõ rệt là tạo cho thơ mới một nguyên tắc cụ thể về hình thức : dung hoà với cú pháp của Thơ Tây, qui chế của thơ Tây, vừa phản ảnh được tinh thần dân tộc Việt Nam để diễn đạt tư tưởng Việt Nam mới. Khác với André Chénier, trong thơ Pháp đầu thế kỷ XIX.
Thơ Bạch Nga chủ trương :
Sur des pensées nouvelles, faisons des vers nouveaux. (Với những ý tưởng mới, hãy làm những câu thơ mới.)
Bài " Gửi một thi sĩ của nước tôi "đăng trong tuần báo văn nghệ Hà Nội năm 1936 làm sáng tỏ chủ trương cải cách ấy. Trương Tửu quen lối dùng chữ táo bạo, đã gọi thơ Bạch Nga là " Trường thơ Cách Mạng ", có nghĩa là cách mạng hoá thơ cổ điển Việt Nam.
Nói một cách cụ thể hơn, trước ba thể thơ cổ điển Việt Nam ảnh hưởng trực tiếp và sâu đậm của thơ cổ điển Trung Quốc : Ðường Luật (bát cú, ngũ ngôn, tứ tuyệt), Song Thất Lục Bát và Ca trù, không kể lục bát được coi như là thuần tuý dân tộc, Thơ Mới ra đời năm 1932 chỉ mới là một thí nghiệm sơ khởi chưa có hình thức xác định rõ ràng.
Công chúng đã công nhận thơ mới, nhưng muốn tìm hiểu thơ mới như thế nào, thì các nhà thơ không trả lời được. Những người quen làm thơ Ðường, hoặc Song thất lục bát, lục bát, muốn chuyển hướng qua thơ Mới, nhưng còn thắc mắc do dự, vì không biết theo tiêu chuẩn nào.
Một độc giả yêu thơ có viết thư hỏi Lưu Trọng Lư :" Tôi muốn làm một bài thơ mới, nhưng không biết làm cách nào, theo luật nào, xin ông chỉ dùm cho …" Lưu Trọng Lư trả lời :" Cứ làm bừa đi, rồi thành ra thơ gì cũng được. Ðừng giống như thơ cũ, bỏ niêm luật thơ cũ, tức là thơ mới ".
Một thi sĩ mới ra đời, bút hiệu Thao Thao, có xuất bản một tập thơ, nhan đề là " Trên Bờ Suối ", toàn là thơ 8 chữ, với một bài tựa quả quyết rằng Thơ Mới là thơ 8 chữ. Thao Thao là một nhà thơ có tài, nhưng rất tiếc làng thơ Hà Nội không ai để ý đến, và tập thơ của Thao Thao bị chìm trong im lặng và quên lãng.
Nói tổng quát, thì Thơ Văn Việt Nam từ 1932 đến 1940, được phát triển mạnh mẽ và dưới một hình thức lãng mạn giống như thế kỷ XIX của Pháp trên nhiều phương diện. Các báo văn nghệ thường mở những mục dịch thơ Pháp, đặc biệt những bài thơ của các thi sĩ lãng mạn thế kỷ XIX.
Bài " Le Lac " của Lamartine được các giới văn nghệ đua nhau dịch ra thành thơ lục bát, tứ tuyệt liên ngâm, thơ mới v.v…đã đăng khắp các báo Hà Nội, Huế, Saigon.
Một vài thi sĩ, như Xuân Diệu, lấy nguyên cả những câu thơ lãng mạn Pháp, dịch ra Việt Ngữ làm thành thơ của chính mình. Ðoàn Phú Tứ dịch hẳn những bản kịch của Jules Renand, Sacha Guitry, Courteline…thành những bản kịch của ông, xuất bản nhan đề "Những bức thư tình " không đề xuất xứ, không nói dịch của ai cả.
Nhà văn Roland Dorgelès, ở Paris sang du lịch An nam có viết một tác phẩm nhan đề "Sur la route mandarine " (trên đường cái quan). Các giới trí thức Việt Nam thời bấy giờ đều có đọc quyển ấy, mà văn chương rất là lãng mạn, bóng bẩy, hấp dẫn vô cùng. Nơi trang đầu, tác giả có ghi một câu vỏn vẹn có 5 chữ :
" Partir, c’est mourir un peu " Nhà thơ Xuân Diệu chụp ngay câu thơ đó, đổi chữ "đi " ra chữ " yêu ", làm thành câu thơ của mình, không có một chút lương tâm lấy dấu ngoặc gói ghém ý nghĩ đẹp kia trả về cho tác giả của nó (đáng lẽ, theo lương tâm văn nghệ, Xuân Diệu phải chép câu thơ với dấu ngoặc như sau đây : Yêu là "chết trong lòng một ít "để chứng tỏ rằng " c’est mourir un peu " không phải là của ông.)





Nguyễn Vỹ

Tuấn Chàng Trai Nước Việt



CHƯƠNG 35

1936 - 37

- Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp được thành lập ở Paris, có ảnh hưởng xáo trộn đời sống chánh trị của Việt Nam.
- Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, trong vụ án Trần Huy Liệu có hai vợ.
- Nghị sĩ Cộng sản Pháp Maurice Honel qua An Nam đến Hà Nội.
- Vụ Honel mất bóp ở Ðáp Cầu trong khi đi thăm những làng bị nạn lụt.
- Vụ đón tiếp Justin Goddart tại ga Hà Nội.


Xét tổng quát trên bình diện lịch sử và xã hội của Dân Tộc Việt nam từ 1932 đến khởi điểm của Ðệ Nhị Thế Chiến, tháng 9 năm 1939, nghĩa là trong thời gian bảy năm trước cuộc đại khủng hoảng thế giới, sự tiến triển của Văn Nghệ Việt Nam, đặc biệt là văn chương và âm nhạc, đã ghi những dấu vết sâu đậm nhất của ảnh hưởng Pháp, về thể thức cũng như về tư tưởng.
Nhưng không một lúc nào tinh thần dân tộc bị truất phế trước hiện tượng hăng say tiếp nạp và canh tân ấy. Mặc dầu có những xáo trộn rõ rệt, do những chuyển hướng mới nghiêng hẳn về văn hoá Âu Tây, tính chất căn bản của Nòi Giống, tinh túy thuần thục của Dân Tộc, vẫn không hề thoái vị trước sức quyến rũ mãnh liệt của các phong trào tân văn nghệ.
Trong Thơ Mới, Văn Xuôi mới, Âm nhạc mới (đương thời gọi là Âm nhạc cải cách). Chính vì được thích hợp với tinh thần dân tộc và đáp đúng nhu cầu văn hoá mới của một xã hội đang tiến triển đến cao độ, mà Thơ mới, Văn xuôi mới, và Âm nhạc cải cách, mặc dầu chứa đựng rất nhiều yếu tố ảnh hưởng của nghệ thuật và văn chương Pháp, và sáng tác bởi các lớp thanh niên trí thức Tây học, vẫn được quảng đại quần chúng Việt Nam nhiệt liệt hoan nghênh.
Nhưng phong trào thơ mới chỉ sôi nổi trong thời gian bộc phát từ 1932 đến 1936. Hầu hết những nhà thơ nổi tiếng đều sáng tác thơ mới trong khoảng thời gian ngắn này. Ðầu năm 1936, tình hình chính trị nội bộ bổng trở nên căng thẳng ở Pháp. Một chính phủ mệnh danh là Front Populaire (Mặt Trận Bình Dân) lên nắm chính quyền, sau các cuộc biểu tình náo động của dân chúng tại Paris ngày 6 tháng 2, 1936.
Dĩ nhiên, năm xứ Ðông Dương, thuộc địa Pháp, đặc biệt nhất là ba xứ Việt Nam : Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ, đều chịu ảnh hưởng trực tiếp của biến cố rất quan trọng kia.
Chính phủ " Mặt Trận Bình Dân " Pháp áp dụng một chính sách rất khoan hồng đối với các thuộc địa. Do đó, phong trào " Mặt Trận Bình Dân "được thành lập hoạt động công khai ở Hà Nội, Saigon và khắp các tỉnh Nam kỳ, Bắc kỳ.
Ở Huế và các tỉnh Trung kỳ, tuy mặt trận bình dân không bị cấm, nhưng Tòa Khâm Sứ Pháp viện cớ Trung kỳ là lãnh thổ riêng của " Hoàng Ðế An nam ", nên hạn chế đến mức tối thiểu các hoạt động công khai của các giới nhân dân.
Ở Hà Nội và Saigon, các phong trào tranh đấu chính trị bị kềm hãm từ sau các vụ khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Ðảng và nổi loạn của An nam Cộng Sản Ðảng, bây giờ được cơ hội bừng dậy, hăng hái và sôi động hơn bao giờ hết.
Phong trào Văn Nghệ tự nhiên bị chìm xuống. Một số các nhà văn có tinh thần cách mạng, gác câu chuyện văn chương ra một bên, đem hết tâm chí, khả năng, vào các cuộc hoạt động chính trị, nửa công khai, nửa bí mật.
Trương Tửu, nhà phê bình Bạch Nga, nhảy qua nhóm Ðệ Tứ Quốc Tế. Mộng Sơn, nhà thơ Bạch Nga, gia nhập vào nhóm " Tiến Bộ khuynh tả. Tờ báo Bạch Nga (Le Cygne), một nửa Việt Ngữ, một nửa Pháp Ngữ, củng cố lập trường cách mạng quốc gia, và bớt hoạt động văn nghệ. Chủ nhiệm của nó viết một loạt bài luận thuyết đả kích kịch liệt chính sách thuộc địa Pháp, kêu gọi Việt Nam Ðộc Lập và đạp đổ chế độ Triều đình Huế. Báo Bạch Nga ra được 6 số thì người chủ nhiệm bị truy tố ra tòa án Pháp ở Hà Nội vì tội
"phá rối cuộc trị an ", và xúc phạm đến chủ quyền Pháp ở Ðông Dương, bị 6 tháng tù và 2000 quan tiền vạ.
Lan Khai, nhà văn chuyên về tiểu thuyết đường rừng, gia nhập vào Việt Nam Quốc Dân Ðảng cũng bí mật hoạt động trở lại. Nhà văn Nguyễn Triệu Luật, cũng tham gia vào VNQDÐ. Nhà văn Khái Hưng lập ra Việt Nam Dân Chính Ðảng, chủ trương thân Nhật, nhưng về sau ông nhảy qua VNQDÐ của Vũ Hồng Khanh. Nhà thơ Lưu Trọng Lư, trong thời Mặt Trận Bình Dân chưa hoạt động gì, nhưng bắt đầu Ðệ Nhị Thế Chiến ông theo nhóm Khái Hưng.
Nhà văn Nguyễn Tường Tam cũng không hoạt động trong thời Mặt Trận Bình Dân, nhưng bắt đầu Ðệ Nhị Thế Chiến, gia nhập vào Dân Chính Ðảng của Khái Hưng, và 1945 theo Khái Hưng qua VNQDÐ của Vũ Hồng Khanh.
Vũ Đình Duy, một nhà trí thức cách mạng rất hăng hái, chủ trương tờ báo Pháp ngữ " La Jeune Indochine" xuất bản tại Saigon, bị tù, rồi về Hà Nội ra tờ " Effort Indochinois " trong thời Mặt Trận Bình Dân, đại diện Bắc kỳ cho đảng Việt Nam Phục Quốc do cụ Cường Ðể làm chủ tịch ở Nhật bổn.
Trên đây kể đại khái các nhà Văn phục vụ lý tưởng Quốc gia Dân tộc trong thời Mặt Trận Bình Dân Pháp. Bên đảng Cộng Sản An nam lúc bấy giờ đã đổi tên là Ðông Dương Cộng Sản Ðảng, họ cho ra một tờ báo Pháp ngữ, lấy tên là " Le Travail ", tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản Ðệ Tam Quốc Tế. Chủ nhiệm và quản lý : Nguyễn Văn Tiến, Trịnh Văn Phú, là hai người giàu từ trước đến giờ không ai biết tên, đứng ra làm bung xung.
Võ Nguyên Giáp là người viết những bài quan trọng nhất, thì lại dấu tên thật, chỉ ký những bút hiệu lạ, và không mấy khi đến toà soạn. Tờ " Le Travail " cũng bị truy tố ra tòa, Nguyễn Văn Tiến và Trịnh Văn Phú bị tù, báo bị đóng cửa.
Võ Nguyên Giáp lúc bấy giờ mới đậu được một chứng chỉ Cử nhân Luật, trường Cao đẳng Ðông Dương ở Hà Nội, và dạy môn Sử ký ở tư thục Thăng Long mà hiệu trưởng là Hoàng Minh Giám, hợp tác về tài chánh với Tôn Thất Bình, con rể của Phạm Quỳnh, người của phe Bảo hoàng.
Ðảng Cộng sản còn có hai tờ báo khác, một tờ Pháp ngữ " En Avant ", và một tờ Việt ngữ " Thời Thế ". Ba người đóng vai trò chính trong hai tờ báo này là Võ Nguyên Giáp, Ðặng Xuân Khu (Trường Chinh) và Trần Huy Liệu.
Ðặng Xuân Khu lại là tổng thư ký Hội truyền bá Quốc ngữ mà hội trưởng là nhà học giả Nguyễn Văn Tố, phó giám đốc Viện Viễn Ðông Bác Cổ Pháp (Ecole Francaise d'Extrême - Orient).
Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, bề ngoài đeo đuổi mục đích " chống nạn mù chữ " nhưng bên trong là cơ quan dùng làm phương tiện hoạt động bí mật của Ðảng Cộng Sản Ðông Dương.
Trần huy Liệu lúc trước viết báo ở Saigon, là người cách mạng quốc gia hăng hái nhất. Sau khi bị tù, và bị trục xuất về Bắc, anh gia nhập vào Ðảng Cộng Sản, nhưng vẫn còn giữ phong độ của một nhà cách mạng tiểu tư sản, khác hẳn Ðặng Xuân Khu, một đệ tử sùng tín nhất của Staline. Trần Huy Liệu là một đồ đệ của Nho giáo thì đúng hơn vì anh còn rất nhiều thành kiến Nho giáo, cho nên anh thường bị nhóm đồng chí của anh phê bình gắt gao.
Tuấn có nhiều dịp chơi thân với Trần Huy Liệu. Tuy không đồng tư tưởng chính trị - Tuấn không bao giờ chấp nhận được lập trường cộng sản, - nhưng Tuấn vẫn giao du với Liệu về phương diện văn nghệ. Trần Huy Liệu, cán bộ cộng sản, trong thành phần chỉ huy cao cấp, lại cũng là một nhà thơ lãng mạn. Ðiều đó, Tuấn thật không ngờ, Trần Huy Liệu có đưa cho Tuấn xem vài ba chục bài thơ Ðường Luật, hoặc Lục Bát của anh (Trần Huy Liệu không làm Thơ Mới), trong đó có những bài xướng họa tình tứ với một nữ hộ sinh đã lớn tuổi, kiêm nữ thi sĩ. Chị này đã săn sóc cho anh rất tận tình trong khi anh bị tù ở Khám Lớn Saigon, và đã lấy anh sau khi anh mãn hạn tù. Vợ lớn chính thức của Trần Huy Liệu là người Bắc, quê mùa, ít học, chỉ lo buôn bán tần tảo nuôi một bầy con rách rưới, vì thời kỳ đó Trần Huy Liệu rất nghèo.
Tuấn được biết rõ bà vợ lớn của anh, do anh giới thiệu. Anh cũng cho Tuấn biết anh bị đảng kiểm thảo gắt gao về vụ hai vợ, và buộc anh phải từ bỏ bà vợ hai. Trần Huy Liệu phải tuân lịnh của đảng, nhưng anh rất buồn và đau khổ. Kể riêng tâm sự cho Tuấn nghe, anh cố giữ thái độ bình tỉnh nhưng không ngăn được hai dòng lệ trào ra trên đôi mắt lèm-nhèm của anh.
Ðể xử vụ " hai vợ " của Trần Huy Liệu, Trung Ương đảng bộ đảng Cộng sản Ðông Dương họp phiên đặc biệt trên lầu tờ báo "En Avant " của đảng, nơi góc đường Henri d’ Orléans và Hàng Vải Thâm (rue des Etoffes prolongée).
Dự phiên tòa đó, có Võ Nguyên Giáp, Ðặng Xuân Khu (lúc bấy giờ chưa có biệt hiệu Trường Chinh) và Khuất Duy Tiến. Trước hôm đó Tuấn có gặp Ðặng Xuân Khu ở phố Hàng Cót, và bảo :
- Nếu các anh cho tôi tới xem buổi họp với tư cách là đồng nghiệp của các anh, thì tôi sẽ bào chữa cho anh Liệu.
Ðặng Xuân Khu cười, bảo Tuấn :
- Anh bào chữa thế nào, nói cho tôi nghe bây giờ được không ?
- Tại sao các anh cấm anh Liệu có hai vợ ? Chính chị Liệu có phàn nàn gì về vụ chồng chị có vợ hai đâu ?
Khu vỗ vai Tuấn, cười :
- Toa mơ mộng lắm ! Toa thích có hai vợ lắm hả ?
- Không phải thế. Nhưng moa thấy các toa ăn hiếp Trần Huy Liệu, tội nghiệp lũy chứ ! Chính mõa biết rõ hai người vợ của Trần Huy Liệu, người nào cũng tốt, và tận tụy với lũy lắm, có hại gì cho hạnh phúc gia đình của lũy đâu ? Chuyện cá nhân của lũy, các cậu can thiệp vào làm chi rứa ? Mõa phản đối vụ đó. Sáng mai toa cứ cho thằng Tuấn này tới, nó nhất định sẽ bênh vực cho Trần Huy Liệu.
Ðặng Xuân Khu lại cười :
- Tuấn ơi, óc của toa còn phong kiến lắm …Một vợ không được sao, phải hai vợ ? Moa đây chẳng có vợ con gì cả thì cũng có sao đâu !
Rồi Khu cười, nói sang chuyện khác.
Bảy giờ tối hôm đó, Liệu đến tìm Tuấn tại gác trọ của Tuấn ở phố Hàng Cót. Nét mặt buồn rầu, Liệu trao cho Tuấn một quyển " carnet " nhỏ nhưng khá dầy, trong đó chép rất nhiều những bài thơ xướng họa giữa Trần Huy Liệu và người yêu đã trở thành vợ hai mà anh vừa bị đảng bắt buộc phải từ bỏ. Ngoài ra còn một ít thơ lãng mạn của anh bằng Quốc Ngữ hoặc Hoa Ngữ, vì Trần Huy Liệu có một căn bản Nho học khá vững. Anh bảo Tuấn :
- Anh xem mấy bài thơ, rồi cất dùm quyển carnet cho tôi.
Tuấn ái ngại nhìn Trần huy Liệu. Anh ta gượng cười nói tiếp :
- Anh cứ cất đi, hay là xé đốt tuỳ ý.
Tuấn hiểu ngầm rằng, chắc chắn buổi sáng Trần Huy Liệu đã bị các đồng chí của anh kết án nặng, cho nên một quyển thơ bỏ túi, kỷ niệm cuộc tình duyên êm đẹp của anh với Thu Tâm, anh cũng không dám giữ, phải nhờ Tuấn cất hộ "hoặc xé đốt".
Tuấn định sẽ tìm chị Thu Tâm để trao kỷ niệm ấy cho chị, vì trong lúc xẩy ra vụ án, Thu Tâm đã về ở Thái Bình quê của chị. Nhưng Tuấn chưa kịp làm công việc ấy thì sau đó ít lâu, năm 1940, Tuấn bị bỏ tù lần thứ hai, nhà Tuấn bị hiến binh Nhật khám xét và quyển carnet của Trần Huy Liệu cũng bị Nhật lấy luôn.
Mấy tháng sau vụ "án hai vợ " của Trần Huy Liệu, Tuấn làm chủ bút một tở tuần báo Phụ Nữ. Liệu làm chủ bút tuần báo Thời Thế, một cơ quan của đảng Cộng sản.
Một hôm, Tuấn nhận được thư của chị Thu Tâm gởi mua báo Phụ Nữ, và dặn đề ngoài " bằng " tên và địa chỉ như sau :
Bà Trần Huy Liệu
Làng……..
Huyện ………
Tỉnh ……..
Tuấn tủm tỉm cười, cho gửi báo theo đúng ý muốn của Thu Tâm.
Hai tháng sau, Trần Huy Liệu đến toà soạn Phụ Nữ, vẻ mặt hớt hãi, rút trong túi áo ra một " băng " báo giống hệt cái băng báo Phụ Nữ có đề tên và địa chỉ như trên, và đã đóng dấu nhà bưu điện.
Anh khẽ hỏi Tuấn :
- Thu Tâm mua báo của anh hả ?
- Ừ, Chị ấy có gửi thư mua năm, nhưng tôi gởi báo biếu.
- Thu Tâm bảo đề tên như trên băng này hả ?
- Ừ
- Anh bỏ đi nhé ! Ðề tên Thu Tâm, đừng đề Madame Trần Huy Liệu nữa.
Tuấn tò mò hỏi :
- Sao anh có cái băng này ?
Liêụ cười không trả lời, nhưng căn dặn hai ba lần :
- Anh nhớ nhé, bảo tuỳ phái đừng đề " Madame Trần Huy Liệu ".
- Vâng.
Xong, Trần Huy Liệu nói sang chuyện khác.
Tuấn còn gặn hỏi :
- Các đồng chí trong nhóm Cộng sản của anh có biết vụ này không ?
Liệu trả lời :
- Biết.
Rồi anh bắt tay cáo biệt :
- Thôi, moa về nhá. Cảm ơn toa nhé. Nhớ hộ chút nhé !
- Ðược rồi.
Câu chuyện rắc rối đó còn tiếp tục với bức thư của chị Thu Tâm hỏi tại sao có sự thay đổi tên trên băng báo. Tuấn phải viết thư phúc đáp như việc đã xẩy ra. Sau đó, Thu Tâm bỏ đi Saigon và Tuấn không có tin tức gì của chị nữa.
Maurice Honel, nghị sĩ Cộng sản trong Quốc Hội Pháp, do đảng Cộng sản Pháp phái qua Ðông Dương năm 1936 để tiếp xúc với Cộng sản " An nam "được nhóm này đón tiếp rất là niềm nở tại tòa báo En Avant.
Một số đông các nhà văn nhà báo theo khuynh hướng quốc gia cách mạng chống lý thuyết cộng sản, cũng rũ nhau đến xem cuộc đón tiếp.
Khi Honel bước vào cửa tòa báo En Avant, cơ quan của nhóm trí thức cộng sản An nam, ông được nhóm này chào mừng hăng hái bằng bài " Quốc Tế Ca " (l’ Internationale) bằng tiếng Pháp mà họ la rùm lên hơn là hát. Vì thật ra họ hát lệch lạc hết, không ăn nhịp với nhau, chỉ nghe ồn ào inh ỏi. Duy có Maurice Honel là hát đúng mà thôi. Tuấn không hát bài L’ Internationale vì Tuấn không phải là Cộng sản, nhưng có chép bài đó làm tài liệu nghiên cứu về Ðệ Tam Quốc Tế.
Lúc bấy giờ thành phố Ðáp Cầu đang bị một trận lụt lớn.Muốn lợi dụng cơ hội để tuyên truyền cho Cộng sản, Maurice Honel có trao cho Ðặng Xuân Khu một món tiền để mua mấy chục bao gạo và ông đi với một phái đoàn cộng sản An nam đến Ðáp Cầu để tặng tiền và gạo cho dân chúng bị lụt. Trong lúc ông trao các tặng phẩm giữa đám đông người, thì không biết một bàn tay bí mật nào thừa cơ hội thuận tiện rút mất cái bóp của nghị sĩ cộng sản nơi túi quần sau của ông.
Sáng hôm sau các báo Cộng sản Hà Nội đề cập đến vụ mất bóp ấy, đều đồng thanh nói quyết rằng thủ phạm vụ lấy cắp chính là nhân viên Sở Mật Thám Pháp ở Hà Nội len lỏi trong đám đông. Nghe nói trong bóp của Maurice Honel có nhiều giấy tờ bí mật và quan trọng ngoài một số tiền lớn bằng giấy bạc Ðông dương, Honel rất quạu về vụ này và hai hôm sau đi xe lửa vô Saigon để đáp tàu về Pháp.
Trước Ðệ Nhị Thế Chiến, muốn rãnh tay ở phương Ðông để tấn công các nước Ðồng Minh phương Tây, Hitler ký hiệp ước tương trợ và bất xâm phạm với Staline. Sự hợp tác bất ngờ này gây một dư luận vô cùng ngạc nhiên và sôi nổi ở các nước Tây phương. Một số đảng viên Cộng Sản Pháp công phẫn cũng nổi lên chống kịch kiệt chánh sách của Staline, và rời bỏ đảng cộng sản, làm sôi nổi cả dư luận thế giới.
Hằng ngày Tuấn đọc báo " Paris- Soir " của Pháp để theo rõi tình hình căng thẳng ở Âu châu, thấy trong danh sách các nghị sĩ cộng sản Pháp rút tên ra khỏi Ðảng có tên của Maurice Honel. Maurice Honel đi rồi, để lại cho dân chúng Hà Nội nhiều câu chuyện bàn tán khá lý thú về thời gian một tuần lễ ông ở Thủ đô Bắc kỳ.
Nhờ tiếp xúc rộng rãi hàng ngày trong các giới trí thức sinh viên, lao động, và làng Văn, làng Báo, Tuấn học hỏi rất nhiều trong các biến cố đặc biệt này. Khó mà biết được những cảm nghĩ xác thực của anh em bên Ðảng Cộng sản, vì thường họ tất dè dặt, khôn khéo, không thành thật trong việc phát biểu ý kiến, nhưng Tuấn có thể biết rõ dư luận tổng quát và khách quan của các phần tử khác trong quần chúng nghĩa là của đại đa số nhân dân.
Dư luận chung nổi bật trên hết, là nếp sống trưởng giả của người đại diện Ðảng Cộng Sản Pháp.Theo tuyên truyền của các nhóm Cộng sản An nam, quần chúng lao động, sinh viên, trí thức đã có sẵn thành kiến rằng cộng sản tổ chức đấu tranh vô sản, của khối nghèo đói, nên khẩu hiệu chiến đấu của Cộng Sản Quốc Tế là : Prolétaires de tous les pays, unissez-vous ! (hởi những người vô sản của tất cả các xứ, các anh hãy kết hợp nhau lại). Bài Quốc Tế Ca " L’Internationale " của toàn thể cộng sản thế giới cũng bắt đầu bằng hai câu sôi động.
Trước khi Honel đến Hà Nội, trong giới lao động có khuynh hướng cộng sản ai cũng đoán chừng rằng "đồng chí " Honel, Nghị sĩ Quốc hội Pháp, sẽ có một nếp sống rất bình dân, ăn ngủ ở các xóm lao động, và sẽ có những hành vi đề cao " Lao Ðộng Thần Thánh " theo danh từ của các báo công sản hay dùng.
Người ta chờ đợi những hành vi đó, và nhất là những bài diễn thuyết hùng hồn, những lời kêu gọi nẩy lửa chống chủ nghĩa đế quốc, chống thực dân Pháp, chống bọn tư bản v.v…mà chính phủ thực dân đế quốc sẽ không dám làm gì ông.
Ông là một đảng viên có uy tín của Cộng sản Pháp, đại diện chính thức của Lao Ðộng Pháp thuộc Ðệ Tam Quốc Tế, đến Hà Nội để công khai đề cao giới Lao Ðộng, bảo vệ dân nghèo, và để chửi vào mặt bọn thực dân Pháp, bọn đế quốc Pháp, tư bản Pháp, bọn phong kiến An nam, và bắt buộc tụi phản động đó phải lo đầy đủ " cơm áo tự do " cho vô sản An nam (prolétaires Annamites, theo danh từ thông dụng).
Cho nên cái tin Maurice Honel sắp đến Hà Nội đã gây lên một niềm hy vọng lớn lao, trong các giới gọi là vô sản. Honel được coi như là một vị cứu tinh do đảng Cộng sản Pháp phái sang để giúp đỡ vô sản An nam đấu tranh thắng lợi.
Một hôm Tuấn đang ngồi chơi trong tòa soạn báo En Avant với Ðặng Xuân Khu và Trần Huy Liệu, có một anh và một chị bước vào, khúm núm, nói với Trần Huy Liệu :
- Thưa anh, đồng chí Hô-nen sắp sang, chúng em sẽ tham gia đón rước như thế nào, xin anh cho biết trước để chúng em lo sắp đặt ạ.
Trần Huy Liệu hỏi :
- Anh ở đoàn thể nào ?
- Thưa anh, em là Tổng thư ký " Hội Ái hữu công nhân bồi bếp ". Còn đây là chị Tuyết, thủ quỹ đây ạ.
Trần Huy Liệu bảo :
- Chúng tôi cũng chưa biết nhất định hôm nào đồng chí Honel đến. Sự tổ chức đón rước như thế nào, chúng tôi sẽ loan báo sau.
Sau khi hai người này ra về, Ðặng Xuân Khu bảo Tuấn :
- Chắc Arnoux không cho phép đón rước long trọng đâu anh ạ. (Arnoux là tên của viên Chánh Mật Thám Pháp Hà Nội lúc bấy giờ).
Quả nhiên, sau đó Honel đến lúc nào ít người biết đến. Một buổi chiều, Trần Huy Liệu ở toà soạn về, ghé qua nhà Tuấn, bảo:
- 9 giờ sáng mai, đồng chí Maurice Honel sẽ đến thăm chúng tôi ở tòa báo. Anh muốn đến nói chuyện chơi thì đến. Tôi sẽ giới thiêụ anh nếu anh muốn.
- Ừ, muốn chứ. Các anh cho tôi nói chuyện với ông ấy độ 10, 15 phút nhé. Chắc ông ấy đâu có thì giờ tiếp chuyện lâu nhỉ ?
- Nhất kiến vi kiến, nói chuyện qua loa để làm quen rồi hôm nào rảnh sẽ gặp lâu hơn. Chúng tôi định tổ chức một cuộc gặp gỡ đông đủ anh em làng Báo trong một tiệc trà đãi ông Honel. Chừng đó tha hồ nói chuyện.
Trần Huy Liệu quên cho Tuấn biết Honel đến Hà Nội lúc nào. Ông ở khách sạn sang nhất của người Pháp, hút thuốc thơm Craven A. Một người bạn của Tuấn làm giáo sư tư thục, có kể chuyện lại cho nhiều người nghe rằng được ông Maurice Honel tiếp tại khách sạn Hôtel de la Gare, anh lấy ra gói thuốc Mélia (giá bán 6 xu) mời ông Nghị sĩ Cộng sản 1 điếu, nhưng Honel đỏ mặt, cười gượng :
- Cám ơn ông, tôi không chịu được mùi thuốc bổn xứ (tabac indigène)
Xong Honel lấy gói thuốc thơm Craven A. mời lại ông giáo sư. Ðến phiên ông này từ chối với một nụ cười hóm hỉnh :
- Cám ơn đồng chí, tôi không chịu được mùi thuốc đế quốc.
Biết anh chàng An-na-mít muốn chơi xỏ mình, Maurice Honel trả lời :
- Ở Paris, thợ thuyền An-na-mít cũng hút Craven A.
Những mẫu chuyện như trên được kể ra cho người này người nọ nghe, và làm đầu đề bán tán trong các cuộc nhóm họp của sinh viên lao động, trí thức trong thởi gian Maurice Honel ở khách sạn và sau khi ông từ giã Hà Nội vào Saigon.
Nhiều anh chị em thợ thuyền đến khách sạn thăm Honel vào những giờ bất thường, như 7 giờ sáng, 1 giờ trưa, vì các giờ khác đồng chí không có ở nhà. Nhưng thường bị Honel từ chối không tiếp trong giờ giấc ngủ trưa, các bạn tỏ ý bất mãn.
Một buổi sáng chủ nhật, một nhóm 5 anh thợ máy An nam ở một hãng sửa xe hơi của Pháp, đến khách sạn chờ từ 7 giờ sáng. Gặp anh bồi khách sạn, một người bảo :
- Chúng tôi muốn xin yết kiến đồng chí Hô nen.
Anh bồi đáp :
- Ông Honel còn ngủ, 7 giờ 30 ông mới dậy.
Anh em chờ đến 8 giờ. Anh bồi cho biết ông đang thay quần áo, sắp sửa ra đi. Anh em yêu cầu cho đợi ở phòng khách. Trong đám anh em, có một người nói tiếng Pháp thạo hơn, được chọn làm thông ngôn.
8 giờ 15, Maurice từ trên lầu bước xuống tỏ vẻ ngạc nhiên thấy nhiều người ở phòng khách đang chờ ông mà ông không được báo tin trước. Nhưng ông cũng nhã nhặn tiếp. Anh thông ngôn nói :
- Thưa đồng chí …
Anh nói bằng tiếng Pháp, nhưng hình như "đồng chí " Honel không hiểu, nên phái đoàn "An nam " chỉ thấy ông trố mắt ngó anh " thông ngôn ", không đáp lại một lời nào cả. Sau cùng, Honel bảo :
- Tôi cám ơn các bạn đến thăm. Nhưng tôi tiếc rằng tôi có " rendez- vous " 8 giờ 30.
Vừa lúc đó, có một anh ở tòa báo " En Avant " phái đến để đưa Honel đi đến nơi đã hẹn. Phái đoàn thợ máy xe hơi đành phải ra về, và đi thẳng đến tòa báo phàn nàn về sự đồng chí Honel tiếp anh em một cách lạnh nhạt.
Mặc dầu nhân viên toà báo giảng giải, anh em vẫn không thông cảm. Do đó và do nhiều chuyện khác mà có dư luận rằng đại diện Ðảng Cộng Sản Pháp và Mặt Trận Bình Dân ở Paris có thái độ quan liêu lắm, không có gì là " bình dân " theo như người ta tưởng.
Bài quốc tế ca " L’Internationale " không có bản dịch ra Việt Ngữ (theo lời Trần Huy Liệu thì bản ấy khó dịch ra tiếng Việt theo đúng những nốt nhạc của bản chính tiếng Pháp). Hôm tiệc trà thiết đãi Honel, chỉ có một số ít đảng viên trí thức hát tàm tạm được bài quốc tế ca với Honel mà thôi, còn đám đông đại diện lao động các giới đều đứng làm thinh nghe. Có vài ba anh, trong đó có một người mắt lé, miệng to, biết chút ít tiếng Pháp, nhưng hát bậy bạ, mà lại giọng hát của anh ta ồ ồ làm át cả các tiếng hát khác, thành thử chẳng ai nghe được gì cả. Honel tỏ vẻ khó chịu và quạu quọ, kiêu căng lắm. Suốt buổi tiệc, không khí gượng gạo, giả dối, mặc dầu Ðặng Xuân Khu và Võ Nguyên Giáp luôn luôn cười nói để gây ra đôi chút niềm nở thân mật với đồng chí Pháp.
Vụ mất chiếc bóp của Honel hôm ông đi thăm đồng bào bị nạn lụt ở Ðáp Cầu càng gây thêm cho Nghị sĩ Cộng Sản Pháp một cảm tưởng rất xấu xa về dân tộc Việt Nam.
Mặc dầu Ðặng Xuân Khu quả quyết thủ phạm là một tên mật thám, Honel vẫn nghi cho một tên móc túi (pickpocket) trong đám dân chúng, vì Honel được một số đông đảng viên cộng sản luôn luôn đi kèm bên cạnh để che chở và giữ an ninh cho ông, mật thám không thể đến gần ông được. Vụ mất bóp của Honel gây ra một dư luận xôn xao vô cùng. Chung qui Honel chỉ mất một số bạc. và một ít giấy tờ quan trọng, còn dân tộc Việt Nam thì mất cả danh dự và uy tín. Trong vụ này "đồng chí " nghị sĩ Pháp không muốn phân biệt đảng viên cộng sản An nam và người An nam. Chắc ông ấy nghĩ như bọn thực dân rằng " chúng nó là dân ăn cắp ".
Dĩ nhiên có liền sự phản ứng trên vài tờ báo của các phe Cách mạng Quốc Gia. Những bài này thuật lại vụ Honel bị mất bóp, cho rằng, nếu không phải bọn mật thám Tây lấy thì là một "đồng chí gạc-đờ- co " của ông nghị sĩ Cộng sản, chớ không thể là một ngươì thường dân được, vì thường dân đâu được đến gần vị đại diện chính thức của Ðảng Cộng sản Pháp.
Nhưng Maurice Honel chí là phái viên của Ðảng Cộng sản Pháp, mà Ðảng Cộng sản chỉ là một thành phần của chính phủ Mặt trận Bình dân ở Paris. Trái lại, Justin Goddart, thanh tra Lao động, nhân viên chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp, được phái sang kinh lý Ðông Dương, mới thật là một nhân viên chính thức có đầy đũ uy tín hơn. Vỉ thế nhà cầm quyền Pháp ở thuộc địa phải dành cho ông một cuộc tiếp rước trọng thể. Các tổ chức chính trị và lao động của dân chúng cũng được công khai tham gia cuộc đón tiếp ấy.
Mục đích viếng thăm của Justin Goddart là thu thập những nguyện vọng của dân chúng thuộc địa, đặc biệt hơn hết là giới bình dân, thợ thuyền, lao động …Nói đúng ra, về tổ chức chính trị của dân chúng chỉ có Ðảng cộng sản là hoạt động công khai mà thôi, tuy họ vẫn có thành phần hoạt động bí mật. Còn hầu hết các đảng phái quốc gia đều nằm trong bí mật và để bảo vệ hoàn toàn sự bí mật ấy họ không tham gia một phong trào công khai nào cả, dù phong trào có tính chất cách mạng và được chính quyền thuộc địa cho phép.
Ngay đảng cộng sản được cơ hội bành trướng mạnh mẽ nhưng các tổ chức thợ thuyền của họ cũng được che đậy khéo léo dưới hình thức các " Hội Ái Hữu " không làm chính trị, với mục đích tương thân tương trợ trong phạm vi nghề nghiệp mà thôi.
Ðại khái như các "Ái Hữu thợ đóng giày dép, Ái Hữu thợ máy xe hơi, Ái Hữu thợ giặt ủi, Ái Hữu bồi bếp v.v…Họ tổ chức đúng theo luật lệ hiện hành : một số người cùng nghề ký vào một là đơn xin nhà cầm quyền cho phép lập " Hội Ái Hữu " và cam kết tôn trọng luật pháp của " Nhà Nước ". Nhưng bên trong thì họ hoạt động bí mật theo Cộng Sản, và phần đông là đảng viên cộng sản.
Ðám đông người tham gia cuộc đón tiếp Justin Goddart trước nhà Ga xe lửa Hà Nội gồm hầu hết những anh chị em các " Hội Ái Hữu " bình dân. Mỗi hội tham gia chừng 20 người, đứng ngay hàng thẳng lối, với một tấm bảng viết bằng sơn đỏ tên của hội bằng Pháp ngữ :
Amicale des boys et des cuisiners (Aí Hữu Bồi Bếp). Amicale des cordonniers (aí hữu thợ giày) v.v…
Và những tầm biểu ngữ như : Vive le camarade Justin Goddart (hoan hô đồng chí Justin Goddart) Vive le Front Populaire (Hoan hô Mặt trận bình dân).
Justin Goddart là người của đảng Xã Hội S.F.I.O của Léon Blum, Thủ tướng Nội Các Mặt trận các mặt trận bình dân, chứ không phải người của Ðảng Cộng Sản. Nhưng các khẩu hiệu đón tiếp Goddart được căng lên là của cộng sản :
- Cơm áo, Tự Do
- No ấm, Tự Do.
- A bas le colonialisme à la trique (đả đảo thực dân dùi cui !)
" Thực dân dùi cui " là chỉ bọn cảnh sát của thực dân hay cầm dùi cui để đánh đập và giải tán các người biểu tình.
Justin Goddart từ Paris sang Saigon, rôì từ Saigon , đi xe lửa tốc hành ra Hà Nội. Dĩ nhiên, đại diện của chính phủ Léon Blum đi toa đặc biệt trong chuyến tàu suốt (train direct) Saigon - Hà Nội. Nửa giờ trước khi tàu suốt đến ga, Tuấn và vài người bạn với tư cách nhà báo, đến ga để xem. Viên chánh mật thám Arnoux mặc lễ phục và đeo băng tam sắc (xanh -trắng - đỏ, màu cờ Pháp) quấn vòng nơi thắt lưng, đứng giữa sân ga.
Y đeo nơi hông một chiếc súng lục (revolver) đã cũ, và một chiếc dùi cui bằng cao su sơn trắng. Nét mặt của y đầy vẻ hăm dọa. Cuộc tập trung biểu dương lực lượng thợ thuyền và đưa yêu sách đã được cho phép chính thức, nhưng Arnoux vẫn tỏ nét mặt hầm hầm, quyết ra tay đàn áp nếu thợ thuyền biểu tình làm mất trật tự. Y đã bảo trước cho ban tổ chức cộng sản như thế.
Tuấn và hai người bạn sinh viên Cao đẳng Ðông Dương ra đến trước sân ga, còn đứng xem bên góc trụ đèn đầu đường Gambetta, liền bị Arnoux chạy tới đuổi đi. Y bảo :
- Các anh không có phận sự gì ở đây, cút đi chỗ khác.
Dĩ nhiên y nói tiếng Pháp. Tuấn trả lời :
- Chúng tôi đến xem các ông đón rước ông Justin Goddart.
- Các anh là ai ?
- Chúng tôi là sinh viên trường Cao đẳng Ðông Dương, và cũng là nhà báo.
- Nếu thế thì các anh phải đứng vào hàng ngũ theo trật tự.
- Chúng tôi không có hàng ngũ. Chúng tôi chỉ đi xem với tư cách cá nhân.
Xe lửa tốc hành Saigon - Hà Nội sắp tiến vào ga. Tiếng còi của nó vang lên từ ngã tư Khâm Thiên, khiến mọi người xôn xao.
Arnoux vội vàng chạy đến cửa ga, truyền lịnh cho nhân viên của y, độ ba chục người đang chờ nơi đấy, đi tản mác đến các vị trí tập trung của quần chúng thợ thuyền đông đảo, để kiểm soát những hành động của họ lúc Justin Goddart đến.
Vị đại diện của Chính phủ Mặt Trận Bình Dân Pháp là một ông Tây cao lớn, ước độ 60 tuổi, nét mặt nghiêm nghị. Trái với sự mong muốn của đám bình dân sắp hàng ngũ chỉnh tề để đón tiếp và hoan hô ông, vị đại diện của Chính phủ Mặt trận Bình Dân Pháp, ngồi xe hơi của Phủ Toàn Quyền, đi ngang qua hàng nghìn thợ thuyền, được họ hoan hô nghiệt liệt, mà ông không bảo ngừng xe, không hỏi han một câu, không nghe những nguyện vọng và yêu sách của họ.
Trong số cán bộ Cộng sản điều khiển đám biểu tình đón tiếp, một cô giáo vừa thi đỗ Tú Tài Pháp, tên là Tâm Kính, cộng sự viên của một tờ báo Pháp ngữ. Tuy người không đẹp nhưng căn bản văn hoá rất vững, tinh thần cách mạng rất mạnh, viết và nói tiếng Pháp rất giỏi, tài hùng biện rất cao, cô được các giới bình dân rất kính phục.
Cô được đề cử đại diện cho toàn thể anh chị em lao động để đón chào ông Justin Goddart và đưa các yêu sách " cơm no áo ấm ". Nhưng Justin Goddart ngồi trong xe hơi, phớt tỉnh đi ngang qua, không chú ý đến cô thiếu nữ 20 tuổi mạnh dạn tiến đến xe ông. Xe của "đồng chí " chạy thẳng luôn về Phủ Toàn Quyền.
Một luồng gió thất vọng thổi qua đám biểu tình chào mừng vị đại diện của Nội các Mặt trận Bình dân Pháp, không được ông này ngó ngàng đến.
Tuấn thấy một cảnh tượng mĩa mai làm sao ! Ðám biều tình đã hăng say chuẩn bị từ một tuần lễ trước cuộc đón tiếp đầy hứa hẹn tốt đẹp. Giờ đây, sau khi chiếc xe xủa Justin Goddart đi qua rồi, dân chúng liền bị giải tán một cách tàn nhẩn, bởi các nhân viên mật thám và lính " phú lít " dưới sự điều khiển của Arnoux và mấy viên Cẩm Tây. Những biểu ngữ " cơm no áo ấm, tự do " Vive le Front Populaire, " Hoan hô đồng chí Justin Goddart đều bị gở ra lập tức, xếp lại và nhét trong túi quần của các "đồng chí " lao động An-na-mít.
Sự viếng thăm của Justin Goddart, đại diện Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp, không có một tiếng vang nào khác.
Hôm ông lên tàu hỏa trở vào Nam kỳ do chuyến tốc hành Hà Nội - Saigon, chỉ có nhà cầm quyền thuộc địa ra tiễn ông tại nhà ga mà thôi.
Cuộc nổi dậy của dân chúng và thợ thuyền Paris ngày 6- 2-1936, kết quả lật đổ một chính phủ bất lực của phe tư bản, và đưa lên chính quyền một Chính Phủ Bình Dân do 3 Ðảng lớn cầm đầu. Ðảng Xã Hội (Sfio, Section Francaise de L’ Internationale Ouvrière) chi nhánh Pháp của Quốc Tế Lao Ðộng. Sự thực toàn là những nhân vật tư bản và tiểu tư sản, như kiểu Léon Blum - Justin Goddart, Marius Moutet, đảng Cộng sản Pháp (PCF, Parti communiste Francaise) dưới quyền điều khiển và kiểm soát của lãnh tụ Nga, Staline, và đảng Xã hội Cấp tiến (Parti Radical Socialiste) của nhóm Edouard Henriot, nghị sĩ và Thị trưởng Lyon.
Ở Việt Nam, sự nắm chính quyền của Mặt trận Bình dân Pháp năm 1936 đã đem lại cho toàn thể dân chúng thuộc địa một niềm hy vọng lớn lao, ngay lúc đầu tiên. Nhưng về thực tế, không có biến cố nào quan trọng ngoài một vài thay đổi về hình thức không có ảnh hưởng mảy may đến đời sống chính trị và kinh tế của dân thuộc địa

Nguyễn Vỹ

Tuấn Chàng Trai Nước Việt



CHƯƠNG 36

1937

- Ðông Dương Ðại Hội.
- "Nguyễn Văn Jeannin ", Công Sứ Nghệ An.
- Cuộc " tranh đấu " và đả kích giữa hai phái Ðệ Tam và Ðệ Tứ Quốc Tế ở Saigon.
- Huỳnh Văn Phương.


Sau khi Mặt Trận Bình Dân Pháp lên nắm chính quyền được vài tháng, một số trí thức và báo chí Saigon phát động một phong trào gọi là Hội Nghị Ðông Dương tiếng Pháp là Congrès Indochinois.
Theo chủ trương của nhóm tổ chức thì hôị nghị sẽ có sự tham gia của tất cả đại diện của các giới dân chúng Nam, Trung, Bắc và Miên, Lào. Mục đích của hội nghị là mở một "Mặt Trận Bình Dân Ðông Dương " (Front Populaire Indochinois), để đòi hỏi nhà cầm quyền Pháp ở thuộc địa phải thực hiện những nguyên tắc dân chủ của Mặt Trận Bình Dân Pháp : tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, phóng thích tù nhân chính trị v.v…
Phong trào được một số báo chí cách mạng ở Saigon khởi xướng, cổ xuý tuyên truyền rất mạnh, và cũng được một số báo chí Hà Nội nhiệt liệt hưởng ứng.
Nhưng ngay lúc đầu, nhà cầm quyền thực dân đã dùng đủ các biện pháp để cản trở sự thực hiện Hội nghị ấy. Họ rất khôn khéo, không công khai cấm đoán, không hăm dọa đàn áp, vì họ sợ phản ứng chống đối của dư luận báo chí và chánh giới ở " Mẫu quốc ", danh từ nịnh bợ do bọn quan lại tôi tớ của Quan Thầy Ðại Pháp Lang Sa dịch nghĩa những chữ " Métropole ", " Mère Patrie ".
Nhưng họ vận dụng nhiêù thủ đoạn vặt để cho tổ chức " Hôị Nghị Ðông Dương " thất bại, và trên thực tế Hội nghị đã thất bại chua cay. Hôị nghị nhóm tại Hà Nộii, nơi câu lạc bộ thể thao của người Pháp, ở trung tâm khu cư xá của người Pháp. Ngay địa điểm này cũng đã là một sự bất ngờ.
Tuấn có tham gia hôị nghị nhưng không có trong ban tổ chức. Tuấn dọ hỏi một vài anh trong uỷ ban thì được biết rằng những nơi uỷ ban định nhóm họp, Nhà Hát Tây, Khu Hội Chợ, v.v…đều không được phép của viên Chánh mật thám Arnoux. Y viện lẽ rằng Khu Hội Chợ không có bàn ghế, còn Nhà Hát Tây của thành phố thì ông Ðốc Lý Hà Nội không cho mượn. Arnoux đề nghị sẽ mượn dùm Câu lạc bộ thể thao Pháp. Không có địa điểm nào khác, uỷ ban đành phải mượn tạm nơi này vậy.
Hội nghị nhóm họp không quá 50 người, toàn là An nam, Miên và Lào không tời dự. Ðại biểu Trung kỳ chỉ có vài ba người đi dự hội với tư cách cá nhân. Phái đoàn đại biểu Saigon khá đông với gần 20 người, phần đông là Nhà Báo. Còn bao nhiêu là người Bắc, hoặc người Nam, cư ngự ở Hà Nội, và hầu hết là giới nhà Văn, nhà Báo.
Ðóng vai trò hoạt động hăng hái nhất là các nhà báo có khuynh hướng mặt trận bình dân.
Tuấn và vaì người bạn trẻ khác ở Cao đẳng học đường Ðông Dương đứng riêng một nhóm thanh niên cách mạng, với danh hiệu " Antifascistes indépendents (chống phát xít, và độc lập, không đảng phái).
Hôị nghị khai mạc lúc 8 giờ tối ngay trên sân tennis ngoài trời, giữa một đám đông nhân viên mật thám Tây và An nam, đứng rải rác chung quanh sân, dò xét điệu bộ của từng người. Ban tổ chức ngồi dãy ghế chủ tịch đoàn. Sau bài diễn văn khai mạc của ban tổ chức trình bày lý do và mục đích của " Hội Nghị Ðông Dương ", lần lượt bước lên diễn đàn những người ghi tên trước. Mỗi người chỉ được phép nói 15 phút. Người đầu tiên là Nguyễn Văn Chất, đảng viên cộng sản, nói con cà con kê không đâu vào đâu cả.
Trong bài đã viết sẳn, có một đoạn nhắc đến tên nhà kịch sĩ trứ danh của Anh Quốc là Shakespeare. Nhưng vì không có học Anh ngữ và thiếu căn bản văn hoá, thay vì đọc " Sèk-s-pir "đúng theo tiếng Anh, Chất đọc :"Sakêts-pê-a-rơ ", khiến cho một số đông thính giả cười rộ lên. Không hiểu tại sao người ta cười, anh ta cũng bắt chước cười theo.
Diễn giả thứ nhì là Trương Tửu. Tửu nói chớ không đọc và thao thao bất tuyệt. Quá 15 phút, anh còn nói, mặc dầu bị ban tổ chức rung chuông " tốp lại ". Tửu phớt tỉnh, cứ nói mãi, nói mãi, mỗi lúc mỗi hùng hồn. Thính giả càng vỗ tay nhiệt liệt, Trương Tửu càng hăng, cho đến đổi chính ban tổ chức và chủ tịch đoàn cũng bị thu hút, lôi cuốn, chìm đắm trong những đợt sóng hùng biện ào ạt ngập tràn cử toạ. Ba lần chuông rung, ba lần Trương Tửu vẫn không ngừng nói, cho đến khi anh chàng bước xuống diễn đàn, với một nụ cười bướng bỉnh trên môi, thì toàn thể hội nghị vỗ tay như pháo nổ. Trương Tửu đã nói đến 30 phút, không một miếng giấy trong tay, và không lúc nào ra ngoài đề tài mà anh đã tự lựa chọn : " Tự do ngôn luận và tự do tư tưởng ".
Sau Trương Tửu, đến phiên Amédée Clémenti, một người Pháp có đầu óc cách mạng, chống chánh sách thực dân Pháp ở Ðông Dương, và chủ nhiệm tờ tuần báo Pháp thân Việt :" L’ Argus Indochinois" ở Hà Nội.
Ông nói bằng tiếng Pháp, và rất hăng say góp lời vào bản cáo trạng gay gắt chống chính sách áp chế của chính phủ thuộc địa đối với các dân tộc Ðông Dương. Nhiều diễn giả khác, đại diện của Trung kỳ và Nam kỳ, lần lượt lên diễn đàn. Tất cả đều nhắm vào một đề tài, và một mục phiêu : tấn công chế độ chuộc địa hiện hữu trên phương diện chính trị và báo chí. Mỗi diễn giả đều cố gắng vận dụng hết tài miệng lưỡi của mình nhưng vẫn không tránh khỏi lập đi lập lại các khẩu hiệu mà mọi người đều biết. Bữa tiệc đại hùng biện vô cùng hào hứng được chấm dứt vào lúc 11 giờ đêm, bằng một bản yêu sách (desiderata) gởi lên viên Toàn Quyền Pháp ở Hà Nội, đòi hoàn toàn tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do bầu cử v.v…
" Hội Nghị Ðông Dương "được một số báo chí tuyên truyền cổ võ khá rầm rộ từ Hà Nội đến Saigon trong gần nửa tháng, được kết thúc sau nhiều buổi hội họp bề ngoài có vẻ long trọng, sôi nổi, nhưng chấm dứt " thành đuôi cá " như một vài bạn trong hôị nghị đã nói theo một thành ngữ Pháp :" Le Congrès est terminé en queue de la poisson ".
" Hội Nghị Ðông Dương " danh từ vĩ đại, nhưng không có một trụ sở thường trực. Người ta tự hỏi giả sử viên Toàn Quyền Ðông Dương, đại diện tối cao của chính phủ Pháp, muốn trả lời các yêu sách của Hội Nghị, thì phải gởi văn kiện chính thức cho ai, và gởi đến đâu ?
Nhà cầm quyền thuộc địa thì trên các bài diễn văn thường hay phô trương những danh từ thông dụng trong giai đoạn " Mặt trận Bình dân ", nào là " công lý ", " tiến bộ ", nhân quyền v.v…và tuyên bố rầm rộ một chính sách " bình dân " hướng về hạnh phúc, và quyền lợi của quảng đại quần chúng, nào là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của giới thơ thuyền, nhưng thực tế càng tàn nhẫn, mỉa mai hơn trước.
Một thí dụ điển hình nhất, là viên Công Sứ Pháp chủ tỉnh Nghệ An, tên là Jeannin, người đảng Xã hội Pháp (SFIO). Chưong trình vĩ đại và " nhân đạo " của đảng này, là bênh vực quyền lợi của dân chúng, giúp đỡ dân chúng thoát khỏi ách bóc lột áp chế của tư bản đế quốc, v.v…
Từ ngày có phong trào Mặt Trận Bình Dân Pháp, ông Jeannin thường tuyên bố với các dân chúng Nghệ An rằng ông thương yêu người An nam cũng như anh em ruột thịt, và coi Nuớc An nam cũng như Mẫu Quốc của ông vậy, tuy ông là người Pháp trăm phần trăm. Ông lớn tiếng bảo trước hàng ngàn dân chúng tụ họp ở thành phố Vinh, tỉnh lỵ Nghệ An : " Thưa các bạn, tên của tôi là Nguyễn -văn - Jeannin, và tôi là người An nam trong tim (Annamite de Coeur) cũng như các bạn vậy ".
Dân chúng vỗ tay hoan hô nhiệt liệt, nhất là các "đồng bào "ở giới trí thức khen ngợi vô cùng tấm lòng yêu nước An nam, thương dân An nam của vị Quan cai trị Pháp bình dân, bình đẳng, huynh đệ. Không khí "thế giới đại đồng " của Kác-Mác, do các "đồng chí " cộng sản Pháp thổi phồng lên, thành những quả bong bóng bay qua vòm trời "Ấn-độ-chi-na "đầy màu sắc rực rỡ, làm mờ mắt người " nhà quê anh em "ở Cửu Long Giang và Hồng Hà.
Dĩ nhiên, không bao lâu những quả bong bóng kia xì hơi xẹp lép, và " thằng dân An nam " sau những đêm liên hoan tưng bừng chào đón phong trào " Mặt trận Bình Dân " Pháp, lúc tỉnh dậy sờ vào mũi của Ông Tây Nguyễn - văn - Jeannin.
Chung quy, Mặt Trận Bình Dân Pháp không đem lại một cái gì thật mới mẻ cho toàn thể dân chúng An nam. Theo dõi các báo Pháp xuất bản ở Paris, người ta thấy một chuyển hướng rõ rệt trong chính sách đối nội và đối ngoại của chính phủ Léon Blum (Mặt trận Bình dân). Nhưng ở Ðông dương kể cả Nam kỳ là " nhượng địa Pháp ", nghĩa là một lãnh thổ do vua Tự Ðức đã " nhường " hẳn lại cho Pháp rồi, chế độ thuộc địa vẫn không được cải thiện gì bao nhiêu.
Bởi vì, chương trình hoạt động của chính phủ Mặt trận Bình dân dựa trên chương trình dung hòa của ba đảng lớn được liên hiệp lại để nắm chính quyền, là đảng Cộng sản, đảng Xã hội, và đảng Xã hội Cấp tiến, đã đi ngược lại chính nguyên tắc thực dân của đế quốc Pháp. Cho nên ở Pháp, ba đảng Tả phái (Parti de gauche) chiếm đa số trong Quốc Hội, đánh bạt được thiểu số Hữu phái (Parti de droite) để thực hiện một cuộc thống nhất chính trị, mặc dầu sự liên kết đó chỉ có tính cách giả tạo và lâm thời.
Còn ở thuộc địa nhất là ở Ðông Dương, phe đế quốc thực dân vẫn chiếm thế lực mạnh mẽ và bền chặt ở khắp các guồng máy hành chánh thuộc địa. Chính phủ Tam đảng của Pháp lại không có một chính sách cụ thể bãi bỏ truyền thống thực dân. Trái lại, các nhà cầm quyền Ðông dương, trong lúc thi hành những chỉ thị mới của Bộ Thuộc Ðịa, lừa gạt dân chúng An nam bằng những hành động mị dân, giả vờ công lý, bình đẳng, bình quyền, tựu trung vẫn mang nặng sằc thái thực dân chủ nghĩa.
Các quan cai trị cũ của Hành Chánh Dân Sự (Administrations des Services Civils) đeo chiêu bài mới của Mặt Trận Bình Dân, tìm cách gây cảm tình với dân chúng mà trước kia họ rẻ rúng khinh khi, như Yves Chatel, Thống sứ Bắc kỳ Grandjean, Khâm sứ Trung kỳ Jeannin, Công sứ Vinh Eckert, Ðốc lý thành phố Hà Nội v.v…
Nhưng đồng thời họ để cho bọn tư bản kếch sù ở thuộc địa công khai đả kích và phá hoại đường lối của Mặt Trân Bình Dân, như bọn Henri de La Chevrotière, chủ nhiệm tờ báo La Dépêche ở Saigon, Henri de Monpezat, chủ nhiệm tờ báo La Volonté Indochinois, ở Hà Nội Ernest Outrey, Ðại biểu Ðông dương tại Quốc Hội Pháp v.v… Bọn này có hậu thuẫn mạnh mẽ vô cùng, trong giới tài phiệt Pháp ở Ðông dương cũng như ở Paris.
Xét về đại cuộc trên chính trường thuộc địa, chính phủ Mặt Trận Bình Dân Pháp (le Gouvernement du Front Populaire) không đem lại sự giải phóng dân tộc dù trên một vài phương diện nào, như dân chúng An nam đã nôn nao hy vọng.
Tuy nhiên, đối với các đảng phái chính trị, chính phủ Mặt Trận Bình Dân đã tỏ ra khoan hồng và cởi mở hơn. Nhất là đảng Cộng sản Ðông dương, trong đó có Võ Nguyên Giáp và Ðặng Thái Mai, đã nhập đảng từ năm 1930.
Ðược nhiều cơ hội thân thiện với vài ba lãnh tụ của Ðảng Cộng Sản Ðông Dương, và vài cơ hội cộng sự với họ trong một vài công tác chung, Tuấn để ý thấy rõ rệt sự thay đổi chiến thuật của cộng sản An nam đối với thực dân Pháp, và đối với các đảng phái cách mạng quốc gia.
Ai đã đọc lịch sử của Ðảng Cộng sản Ðệ Tam Quốc Tế và riêng các đảng Cộng sản Nga xô, Pháp, Việt Nam, đều biết rằng "Nga xô vĩ đại " kiểm soát tất cả các đảng cộng sản khắp thế giới, kể cả các đảng cộng sản " lô can "ở các xứ thuộc địa của Tây phương.
Nguyễn Ái Quốc, suốt thời kỳ tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lê trong đám thanh niên An nam xuất dương sang Trung quốc, và hoạt động quy tụ lần đầu tiên, cuối năm 1925, một nhóm " thanh niên cách mạng đồng chí hội " tại tỉnh Quảng Ðông (phôi thai của Ðông Dương Cộng Sản Ðảng) với sự cộng tác đắc lực và trung kiên của Hồ Tùng Mậu, người đồng chí An nam của ông - cho đến vụ nổi dậy đẫm máu, nhưng thất bại, của nông dân Nghệ An (nhất là Ðô Lương), do cộng sản Nghệ An chỉ huy nhân ngày kỷ niệm lễ Lao động quốc tế 1.5.1930 - suốt thời kỳ 5 năm đầu tiên ấy của lịch sử đảng Cộng sản An nam, Nguyễn Ái Quốc vẫn chịu mệnh lệnh trực tiếp của Moscou (Nga sô), chứ không phải của đảng cộng sản Pháp, mặc dù Annam là thuộc địa của Pháp.
Do sự thất bại của " Sô Viết Nghệ An " 1930-1931, và kế tiếp, sự thất bại của cộng sản Quảng Ngãi cũng trong thơì gian ấy, Nguyễn Ái Quốc liền bị Staline triệu về Moscou và bị ông này đưa đi Sibérie trong 9 năm, 1932 - 1941.
Mùa xuân năm 1941, giữa Ðệ Nhị Thế Chiến, bổng nhiên Nguyễn Ái Quốc được Staline gọi về Moscou cùng một lúc với Nguyễn Khánh Toàn, lúc bấy giờ là giáo sư Việt ngữ tại Ðại học đường Moscou được đảng cộng sản Nga xô cho qua Trung quốc hoạt động dưới mệnh lệnh của Mao Trạch Ðông. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí Minh và được giao phó nhiệm vụ tổ chức lại đảng cộng sản Việt Nam dưới quyền kiểm soát của Trung cộng (lúc bấy giờ còn ở Yennan (Diên An).
Ngày 1.10.1949, Mao Trạch Ðông hoàn toàn thắng lợi chiếm hết lãnh thổ Trung hoa và tuyên bố thành lập Nhân Dân Cộng Hòa Trung Quốc, thì lập tức tướng Trung cộng Lo Kwei Po được Mao phái qua Việt-Bắc làm cố vấn chính trị và quân sự cho Hồ Chí Minh.
Sau Hiệp định Genève 20.7.1954, chính phủ Hà Nôị vẫn còn theo đường lối chính trị của Trung Cộng và Nga xô. Ðến khi hai cường quốc lãnh tụ của cộng sản thế giới bắt đầu bất hòa với nhau, và dần dần trở nên thù địch nhau, thì đảng cộng sản Nhật và chính phủ cộng sản Bắc Hàn theo hẳn Trung quốc, rời bỏ Nga xô. Chỉ có Hồ Chí Minh, vì nhu cầu chiến tranh, vẫn không tránh được sự trực thuộc vào Trung cộng, đồng thời cố hết sức vận động duy trì sự bảo trợ tinh thần của Nga xô, viện trợ kinh tế và quân nhu (phi cơ Mig và súng đạn) của Nga cũng như các cố vấn Nga xô và Trung cộng.
Trở lại năm 1936-37, dưới thời Mặt trận Bình dân Pháp, vì Nguyễn Ái Quốc bị Nga xô đưa qua Sibérie, không còn ai là lãnh tụ đảng cộng sản An nam, nên Staline ra lệnh cho đảng cộng sản Pháp mà lãnh tụ là Maurice Thorez phải trực tiếp lãnh đạo Cộng sản An nam. Ðảng Cộng sản Pháp phái Maurice Honel qua " kinh lý " An nam năm 1936 và tiếp xúc với Cộng sản An nam, chính là để xác nhận trên thực tế sự trực thuộc của đảng cộng sản An nam vào hệ thống lãnh đạo của đảng cộng sản Pháp, theo mệnh lệnh của Nga xô.
Năm 1941, Pháp đã bị quân đội Ðức quốc xâm chiếm, Nga xô lo chiến tranh phòng thủ đất nước, Staline mới gọi Nguyễn Ái Quốc ở Sibérie trở về Moscou, và lập tức ngày hôm sau, Nguyễn Ái Quốc được lịnh lên chuyến xe lửa xuyên Tây Bá Lợi Á qua Diên An, tổng hành dinh của Mao Trạch Ðông.
Vì sự thay đổi đột ngột quyền lãnh đạo do Nga xô trao cho đảng cộng sản Pháp, dưới thời Mặt Trận Bình dân (1936-1937), mà Pháp lại là một nước thực dân đang đô hộ " xứ An nam " nên đảng cộng sản An nam phải theo mệnh lệnh của đảng cộng sản Pháp mà thay đổi cả chiến lược đấu tranh để hợp với hoàn cảnh lịch sử mới.
Lúc chưa nắm được chính quyền, và hãy còn là một đảng đối lập, thì Maurice Thorez, chủ tịch Ðảng cộng sản Pháp và các đồng chí của ông ở Hạ Nghị Viên, Thượng Nghị Viện, trên các cơ quan báo chí của đảng, không nhớ kêu gọi " giải phóng các dân tộc bị nô lệ dưới chính sách dã man của bè lũ thực dân tư bản Pháp ".
Nhưng khi Mặt trận Bình dân lên nắm chính quyền, trong đó thành phần cộng sản Pháp chiếm đa số, và Maurice Thorez được làm phó Thủ tướng chính phủ, thì đảng cộng sản Pháp không nhắc lại những khẩu hiệu đấu tranh kia nữa ! Các dân tộc thuộc địa chờ mãi chẳng thấy " giải phóng "đâu cả !
Trái lại, khẩu hiệu đấu tranh chống thực dân Pháp do cộng sản Ðệ Tam Quốc Tế vẫn thường nêu ra, bây giờ được đổi lại theo chiến thuật mới như sau :
" Cương quyết chống bọn cá mập tư bản da trắng và da vàng bốc lột quần chúng vô sản "
Những khẩu hiệu :" Chống đế quốc thực dân Pháp" trên các cơ quan báo chí cộng sản, và trong các cuộc biểu tình đấu tranh của Lao Ðộng, đều bị xoá bỏ và không được nhắc lại.
Ðồng thời ở Saigon, cộng sản Ðệ Tứ Quốc tế ở Pháp mới về, quyết tranh đấu chống lại cộng sản Ðệ Tam mà Ðệ Tứ cho là nô lệ của Nga xô, và tay sai của thực dân tư bản, không còn thực tâm bênh vực giai cấp vô sản An nam. (Lúc bấy giờ đến cả cộng sản cũng dùng danh từ " An nam "đã quen miệng).
Nhóm cộng sản Ðệ Tam lại cũng kết án nhóm cộng sản Ðệ Tứ là tay sai của đế quốc, phản bội giai cấp cần lao và vô sản thế giới.
Các giới thợ thuyền Saigon lại thích Ðệ Tứ hơn Ðệ Tam không phải vì lập trường đấu tranh của Ðệ Tứ hợp với quyền lợi của họ hơn, nhưng chỉ vì mấy anh lãnh tụ Ðệ Tứ " nói hay ", nói giỏi ", quyến rũ được các giới bình dân, lao động hơn mấy anh bên Ðệ Tam.
Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, là những lãnh tụ Ðệ Tứ Quốc Tế An nam lúc bấy giờ, là những thần tượng thân yêu nhất của một số quần chúng vô sản An nam.
Bên Ðệ Tam Quốc Tế cũng có nhiều tay cừ, trong số đáng kể nhất có Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, nhưng Mai và Tạo không duyên dáng, hoạt bát, cởi mở, bằng Tạ Thu Thâu chẳng hạn, cho nên không lôi kéo quần chúng mấy.
Lối tuyên truyền của Cộng Sản Ðệ Tam (theo mệnh lệnh của Staline) cứng rắn quá, câu nệ quá, cố chấp quá, trong lúc miệng lưỡi của Cộng Sản Ðệ Tứ (theo tổ chức mới của Trotsky) thật là khôn ngoan, hoạt bát và lý luận mềm dẻo. Lý thuyết "trotskysme" do các anh hấp thụ được ở Pháp, đem nhập cảng về Saigon, được đem ra mổ xẻ, với tất cả tài hùng biện uyển chuyển, thích hợp với tâm lý dể dãi và vui vẻ của quần chúng lao động Nam kỳ. Do đó, phe cộng sản Ðệ Tứ gặt được nhiều thắng lợi hơn phe cộng sản Ðệ Tam.
Một lý do khác, cũng không kém thực tế, khiến cho cộng sản Ðệ Tam mất nhiều uy tín đối với quần chúng lao động cũng như trí thức (nói theo danh từ mới của cộng sản : lao động chân tay và lao động trí óc), là sự nắm chánh quyền của Mặt Trận Bình dân Pháp trong đó cộng sản Ðệ Tam chiếm ưu thế.
Cộng sản Ðệ Tứ không tham gia nên được dịp lớn tiếng đả kích Ðệ Tam lúc đứng về phe đối lập thì đòi " giải phóng các dân tộc bị áp bức " nay đã lên nắm chánh quyền lại chủ trương nô lệ hóa các dân tộc bị áp bức " duy trì các thuộc địa, không đá động đến vấn đề giải phóng nữa. Ðệ Tứ khôn khéo vịn vào điểm đó để mạt sát Ðệ Tam là " lừa gạt giai cấp vô sản bị trị ", " bắt tay với đế quốc chủ nghĩa "để được hưởng quyền lợi, và tiếp tục chính sách thực dân, đàn áp nông dân và thợ thuyền.
Dĩ nhiên, các lãnh tụ Ðệ Tam Quốc Tế ở Ðông Dương, nói riêng ở ba " xứ An nam ", hành động theo mệnh lệnh của " Nga xô vĩ đại " (dưới quyền độc tài của Staline), không thể nào bào chữa cho trôi chảy chánh sách mâu thuẫn của Ðảng đối với dân thuộc địa.
Nhóm Ðệ Tứ (cơ quan tranh đấu ở Saigon là báo La Lutte, ở đường Lagrandière, Gia Long hiện nay) tiếp tục đả kích Ðệ Tam chung quanh quan điểm trên và tố cáo Mặt Trận Bình dân Pháp là tay sai của thực dân, đế quốc.
Suốt thời gian tranh đấu, hai phe cộng sản, bên nào cũng tự xưng là theo đúng lập trường Mác-Lê (Marxisme-Léninisme). Nhưng trừ các phần tử đã gia nhập vào Ðệ Tam, còn đa số thợ thuyền lao động đều theo nhóm Ðệ Tứ. Uy tín của Tạ Thu Thâu nổi dậy như cồn.
Trái với Saigon, Hà Nội không có Ðệ Tứ Quốc Tế. Thấy vậy, nhân kỳ Hội Nghị Ðông Dương, nhóm Ðệ Tứ ở Saigon phái một cán bộ nồng cốt ra hoạt động ở Hà Nôi. Tên anh này là Huỳnh Văn Phương, tự xưng là sinh viên cao đẳng Luật khoa, nhưng chỉ là " amateur libre ", thính giả tự do.
Bắt đầu, Huỳnh Văn Phương hợp tác với nhóm Ðệ Tam của Võ Nguyên Giáp, làm báo Le Travail, bằng Pháp ngữ. Chỉ một thời gian ngắn, Le Travail bị đình bản. Nhóm Võ Nguyên Giáp ra riêng một tờ báo khác, Le Rassemblement.
Lần này Huỳnh Văn Phương bị bỏ rơi. Tuấn có quen biết Huỳnh Văn Phương trong vài cuộc gặp gỡ về báo chí và các cuộc vận động tranh đấu chống phát xít. Tuấn thấy rằng trong lúc Hà Nôị và các tỉnh Bắc kỳ chưa có một người nào của Ðệ Tứ Quốc Tế mà Tạ Thu Thâu phái ra một cán bộ như Huỳnh Văn Phương để chơi lại nhóm Ðệ Tam, là một điều hớ hênh, sơ sót rất quan trọng.
Huỳnh Văn Phương thiếu rất nhiều đức tính của một thuyết lý gia và một chiến sĩ Ðệ Tứ Quốc Tế, về taì hùng biện, về học thuyết Các-Mác, Lênin, Staline, Trostky. Anh ta thua xa Ðặng Xuân Khu, lý thuyết gia của nhóm Ðệ Tam, Hà Nôị. Người ta gọi Khu là " théoricien rouge " lý thuyết gia đỏ. Về lập luận, Huỳnh Văn Phương kém Võ Nguyên Giáp. Tuấn nghĩ rằng nếu Tạ Thu Thâu ra Hà Nộị hoạt động một thời gian, có lẽ Thâu sẽ gây được một phong trào Trotkysme khá mạnh, đủ sức đương đầu với nhóm Ðệ Tam. Tạ Thu Thâu lại gởi Huỳnh Văn Phương ra Bắc, một tên " em út " chưa có kinh nghiệmn tranh đấu, không thế nào xây dựng một cơ sở cho phong trào.
Huỳnh Văn Phương còn trẻ tuổi, rất hăng say, nhưng anh ta không đủ tư cách và thiếu phương tiện. Anh ta không tạo ra được một tiếng vang nào đáng kể. Một thời gian sau, anh bị chìm trong quên lãng.



Tuấn Chàng Trai Nước Việt



CHƯƠNG 37

1937

- Vụ cô gái Nam kỳ 15 tuổi đi xe máy từ Saigon ra Hà Nội.
- Phong trào phụ nữ đi xe máy mới bắt đầu.
- Một cuộc diễn thuyết ở Huế và Saigon làm xôn xao dư luận của các giới phụ nữ đi xe máy.
- Tại sao Cộng sản An nam và Tư bản Pháp ủng hộ phong trào phụ nữ đi xe máy.


Suốt thời kỳ Mặt Trận Bình Dân, một số tù nhân chính trị được trả tự do. Tù nhân cộng sản cũng được ân xá. Ðảng Cộng sản Ðông dưong khai thác ngay tình hình mới. Tất cả đảng viên ở các lao tù mới ra đều được lịnh trở lại hoạt động ngay. Họ lập các tiểu tổ khắp nơi, và số đảng viên mới lên đến 10.000 người, chưa kể những người có cảm tình với họ, nhưng không vào đảng. Khuất Duy Tiến (thời kỳ Việt Minh nắm chính quyền, anh ta làm Ðốc lý thành phố Hải Phòng), Trần Đình Trì (thời Việt Minh làm uỷ viên thanh niên ở Uỷ Ban Kháng Chiến Trung Bộ, Huế), Ðào Duy Kỳ (em ruột Ðào Duy Anh), đều ở Côn Lôn về dịp này, cả ba người được giao phó làm một tờ báo Việt ngữ, ở đường Henri d’ Orléans, tờ " Tin Tức ".
Công việc đầu tiên của tờ báo này là nhiệt liệt ủng hộ cuộc đi xe máy từ Saigon ra Hà Nội của một cô gái bình dân ở Saigon, mới 15 tuổi, tên là Hồ thị L.
Vụ này gây ra nhiều dư luận xôn xao, từ Nam chí Bắc.
Thật ra, phong trào phụ nữ đi xe máy ở Nam kỳ đã cũ rồi, cũ cũng như chiếc xe " máy đầm " lần đầu tiên đã xuất hiện tại Saigon, từ năm 1928 lận.
Nhưng năm 1936 - 1937 dưới thời Mặt Trận Bình Dân Pháp, phong trào phụ nữ đi xe máy bổng dưng vùng dậy ồn ào ở Saigon là do một nguyên nhân không có liên quan gì đến món phụ nữ thể dục hoặc đến đời sống của phụ nữ bình dân.
Từ khi có Mặt Trận Bình Dân, đảng Cộng Sản Ðông Dương chủ trương xúc tiến mạnh phong trào thanh niên thể dục, với mục đích ngầm là đào tạo một lớp cán bộ cường tráng sẵn sàng hoạt động trong những công tác hăng hái mạnh bạo. Do đó, phong trào thanh thiếu niên thể dục được phát động ồn ào trong toàn xứ.
Một số nhà buôn lớn của Pháp-Việt-Hoa liền lợi dụng thời cơ, cũng như họ luôn luôn lợi dụng bất cứ một biến cố nào để đầu cơ, hốt bạc.
Hưởng ứng sốt sắng nhất phong trào thể dục mới bùng dậy, một số nhà nhập cảng xe máy và phụ tùng xe máy của người Pháp, cả người An nam ở Saigon, liền tổ chức một cuộc "đua xe máy phụ nữ " do một nhà tư bản An nam, chủ nhiệm nhật báo Ðiện Tín ở đường Catinat đứng ra làm trung gian, hô hào cổ xúy, với nhiều giải thưởng lớn.
Tờ Ðiện Tín là ấn bản quốc ngữ của tờ nhật báo Pháp " La Dépêche " của tên thực dân khét tiếng De Lachevrotière.
Tổ chức cuộc đua xe máy phụ nữ, bọn con buôn này không có mục đích nào khác hơn là tạo ra phong trào phụ nữ đi xe máy được bành trướng sâu rộng, để chúng bán được thật nhiều xe máy và đồ phụ tùng xe máy do chúng nhập cảng của Pháp. Ðó là món lợi rất lớn về thương mãi. Nên nhớ rằng thời kỳ 1936 -1937, chỉ một số phụ nữ trung lưu xử dụng chiếc xe " máy đầm " mà thôi. Xe máy đầm là một "mốt mới" lại đắt tiền. Một số phụ nữ bình dân, lao động thì đi xe máy đàn ông, rẽ tiền hơn, nhưng cũng hãy còn ít lắm. Chính bọn con buôn tổ chức cuộc đua xe máy phụ nữ muốn nhắm vào thành phần lao động trong giới phụ nữ bình dân.
Ở Trung kỳ và Bắc kỳ, phụ nữ bình dân cũng như trung lưu, thượng lưu rất ít đi xe máy. Riêng giới phụ nữ bình dân Hà Nội, nghèo hơn phụ nữ bình dân Nam kỳ, họ có những phương tiện khác mỗi khi cần xê dịch đó đây mà không tốn kém bao nhiêu. Ở Hà Nội, họ đi "tàu điện " (tramway) từ Bưởi xuống Bờ Hồ, hoặc từ Bờ Hồ lên chợ Ðồng Xuân, chỉ trả vài ba xu. Ở nhiều thành phố, trong các gia đình lao động, người chồng đi làm việc bằng xe máy thường đèo thêm người vợ trên " bọt-ba-ga" (porte-bagage).
Biết rõ những hoàn cảnh đó, các nhà buôn nhập cảng xe máy cổ động một cuộc đi xe máy phụ nữ từ Saigon ra Hà Nội, theo đường thuộc địa số 1 (route coloniale No 1), xuyên qua các tỉnh Trung kỳ.
Các đại lý bán xe máy ở các tỉnh đều được chỉ thị đứng ra tổ chức cuộc đón tiếp cực kỳ long trọng cô " Nữ anh hùng xe máy " - danh từ do các nhà buôn xe máy phổ biến trong dịp này, - là cô Hồ thị L. một cô gái bình dân Saigon 15 tuổi, nước da ngâm ngâm đen như cô gái Cao Miên, nhan sắc rất tầm thường, và gầy ốm, không có vẻ thể thao nào cả. Trình độ học thức cũng không có gì.
Giới tư bản xe máy đã thuê cô làm công việc "đi xe máy từ Saigon ra Hà Nội ", có tính cách dối trá, bịp bợm, mà chỉ nhằm mục đích cổ động cho mòn hàng của họ mà thôi.
Ðồng thời, các báo cộng sản trong Nam, ngoài Bắc, theo chiến thuật của Ðảng, cũng đề cao " nữ anh hùng xe máy Hồ thị L." là cốt ý đề cao phụ nữ bình dân, lao động, theo chủ trương " lao động thần thánh ".
Thành thử, cộng sản và tư bản không hẹn mà gặp nhau trên lập trường khuyến khích phụ nữ đi xe máy, và cả hai đều hăng hái cổ động, hô hào toàn thể đồng bào tham gia cuộc đón tiếp " nữ anh hùng xe máy Hồ thị L. " tại những địa phương mà cô ấy đi qua, từ Saigon ra Hà Nội.
Dĩ nhiên nhà cầm quyền Pháp ở ba kỳ cũng sẵn sàng khuyến khích tham gia phong trào, trên phương diện " thể thao phụ nữ ", hòa hợp với chiến thuật của đảng cộng sản, và quyền lợi tư bản của bọn nhà buôn lớn mà bọn cộng sản gọi là " cá mập da trắng và da vàng ".
Các nhật báo của bọn tư bản ở Hà Nội và Saigon, được cho tiền để dóng trống dóng chuông cho phong tào được lan rộng khắp xứ. Báo chí cộng sản cũng nhận được mệnh lệnh hô hào cổ xúy cho cuộc tổ chức được thành công.
Tờ báo cộng sản của nhóm Trần Đình Tri, Ðào Duy Kỳ, Khuất Duy Tiến phất cờ tiên phong trong việc đón rước " nữ anh hùng xe máy ".
Cô bé Nam kỳ Hồ thị L. tưởng mình thật sự là bà Trưng, bà Triệu của môn " xe máy đầm An nam " trong lúc cô lãnh được số tiền mấy trăm đồng của các nhà nhập cảng xe máy ở Saigon thuê cô đóng vai trò " liệt nữ " ấy.
Về thực tế, cô bé Hồ thị L. có "đi xe máy từ Saigon ra Hà Nội ", và được đón rước tưng bừng náo nhiệt, nhưng cuộc đi đó là cả một thủ đoạn bỉ ổi lừa bịp dư luận. Tuy họ rêu rao rằng cô là một thiếu nữ tình nguyện đi xe máy Saigon-Hà Nội (xe máy ÐUA chớ không phải xe máy đầm) và cả một phái đoàn đại diện ban tổ chức đi xe hơi theo sát cô để kiểm soát hành trình của cô, nhưng chính phái đoàn ấy đã âm mưu để cho cô đi xe máy trên những khoảng đường vài chục cây số ngang qua các thành phố mà thôi. Còn toàn thể các đoạn đường trường nguy hiểm trèo đèo vượt núi, và băng qua các cách đồng bát ngát bao la từ Nam chí Bắc, thì cô bé được đi xe hơi của Phái Ðoàn.
Gần đến Hà Nội, các báo công sản và tư bản ở thủ đô Bắc kỳ hô hào rất đông thanh niên nam nữ đi xe máy đến Văn Ðiển, một cứ điểm ở ngoại ô Hà Nội, để đón rước " anh hùng xe máy " Hồ thị L.
Dĩ nhiên là ra khỏi thành phố Nam Ðịnh 10 cây số, cô ả lên xe hơi của phái đoàn tổ chức cho đến còn cách Văn Ðiển 10 cây số thì cô lên xe máy. Từ đó, phái đoàn thanh niên xe máy Hà Nội tháp tùng cô về đến thủ đô, còn cách không bao xa.
Biết rõ mánh lới gian trá và lừa gạt dư luận một cách rất trắng trợn, của cuộc đi xe máy Saigon-Hà Nội của cô Hồ thị L. và thủ đoạn con buôn của các hảng nhập cảng xe máy ở Saigon, của nhóm cộng sản Ðông dương, Tuấn là người đầu tiên và gần như duy nhất đã viết báo kịch liệt phản đối vụ đi xe máy của cô L. và phong trào phụ nữ đua xe máy do bọn con buôn ở Saigon tổ chức, với nhật báo Ðiện Tín.
Trên một tờ báo Phụ nữ ở Hà Nội, Tuấn viết một bài dài ngỏ ý không nên khuyến khích một cô bé 15 tuổi đi xe máy (lại là loại xe đua của đàn ông) trên một con đường dài hơn 1700 kí lô mét, đầy núi đèo hiểm trở. Ngay như bên nam giới, từ trước tới giờ có ai dám tổ chức một cuộc đi xe máy trên quốc lộ số 1 từ Saigon ra Hà Nội, qua những đèo cao và nguy hiểm nổi tiếng ở Miền Trung như Ðèo Cả, đèo Cù Mông, đèo Ðại Lãnh, đèo Rù Rì, đèo Hải Vân v.v…Tuấn phản đối việc người ta lợi dụng danh từ phụ nữ thể dục, và xử dụng tấm thân gầy ốm và mảnh khảnh của một cô gái nghèo 15 tuổi để đạt những mục tiêu thương mãi, hoặc chính trị, đảng phái.
Nhưng, lý luận của Tuấn vẫn bị các bọn người vô lương tâm kia đả kích kịch liệt. Chính Trần Huy Liệu, bạn của Tuấn, cũng khuyên Tuấn đừng chống lại phong trào phong trào phụ nữ đua xe máy, và đừng phê bình vụ "nữ anh hùng xe máy" Hồ thị L.
Nhân một cuộc đi Huế để thăm cụ Phan Bội Châu và đi Saigon để tiếp xúc với một vài bạn đồng chí cách mạng quốc gia bị các nhóm cộng sản đệ tam và đệ tứ lấn át, trở thành hoàn toàn thụ động, Tuấn được một nhóm anh em mời diễn thuyết tại Hội quán Quảng Trị Huế, tại câu lạc bộ Qui Nhơn và tại hội quán S.A.M.I.P.I.C Saigon, về đề tài
"Phụ Nữ ". Ba cuộc diễn thuyết này đã gây ra những luồng dư luận sôi nổi suốt một tháng ở ba nơi đô thị ấy.
Với tư cách là chủ bút một tuần báo Phụ Nữ, một tờ báo được nhiều cảm tình của các giới văn nghệ và thanh niên phụ nữ, Tuấn phản đối cuộc đua xe máy phụ nữ đang được cổ động ở Saigon, và cuộc đua xe máy của một cô gái 15 tuổi từ Saigon ra Hà Nội, cả hai cuộc đều do một nhóm nhà buôn xe máy Pháp và An nam ở Saigon tổ chức.
Buổi diễn thuyết ở Huế do một ông tên là Ðào Đăng Vỹ, Hội trưởng hội Quảng Trị chủ toạ, ông này hình như đã quen biết Tuấn từ lúc ông còn học trường Luật tại Hà Nội, và cũng là ký giả, trợ bút như Tuấn, trong tờ báo Pháp ngữ " La Patrie Annamite " của Tôn Thất Bình, rể Phạm Quỳnh.
Cuộc diễn thuyết bắt đầu 8 giờ tối thứ bảy. Thính giả đông nghẹt, ngồi chật ních trong cử tọa lần đầu tiên có bà Ðạm Phương đến dự. Bà là một nữ sĩ danh tiếng nhất của Ðế Ðô, một nữ học giả đã đứng tuổi giỏi cả Hán văn và Quốc văn, tác giả vài quyển sách có giá trị. Bà viết trong tạp chí Nam Phong và đăng thơ trong báo Tiếng Dân, ký tên là Ðạm Phương nữ-sử. Lúc bấy giờ bà là Hội trưởng " Nữ công học hội " Huế.
Ða số thính giả phụ nữ, gồm những nữ lưu trí thức ở Thần Kinh, là những phần tử tân tiến, không tán thành ý kiến của Tuấn về vấn đề phụ nữ đua xe máy. Họ cho rằng con gái đua xe máy như thế mới là tiến bộ.
Giữa lúc câu chuyện của Tuấn đang hăng say, (Tuấn ứng khẩu chứ không viết sẵn bài diễn thuyết) một vài thiếu nữ đứng dậy phản đối ý kiến của Tuấn. Tuấn bình tỉnh yêu cầu cho chàng nói hết xong rồi ai muốn chất vấn chàng sẽ xin trả lời. Nhưng hai cô yêu cầu Tuấn trả lời ngay. Ông chủ tọa Ðào Đăng Vỹ phải can thiệp :
- Xin lỗi các cô, đây là Hội Quảng Trị mời diễn giả đến nói chuyện. Nếu các cô không đồng quan điểm với diễn giả, thì xin hôm khác sẽ tổ chức một buổi hội thảo chống lại (une conference contradictoire). Hôm nay xin đừng ngắt lời diễn giả.
Buổi diễn thuyết của Tuấn kéo dài hơn một tiếng đồng hồ được cử tọa vỗ tay nhiều lần. Sau đó, nhiều người bạn cho biết một số các cô ở Hội Nữ công Huế có ý định tổ chức một buổi diễn thuyết chống lại ý kiến của Tuấn riêng về vấn đề phụ nữ đua xe máy. Tuấn chờ mãi ba hôm không thấy gì. Sau nghe các bạn nói lại rằng, bà Ðạm Phương, Hội trưởng nữ công không tán thành việc hội đứng ra tổ chức một buổi diễn thuyết chống lại.
Dư luận đế đô Huế rất xôn xao sau cuộc nói chuyện của Tuấn. Bài tường thuật trong báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng đã phản ảnh dư luận ấy. Suốt tháng trời sau khi Tuấn đã đi rồi, dân chúng Thần Kinh còn bàn tán sôi nổi chung quanh câu chuyện " phụ nữ Huế có nên hay không nên tổ chức những cuộc đua xe máy như ở Saigon ? ".
Dĩ nhiên là có hai phe chống đối nhau.
Buổi diễn thuyết của Tuấn tại hôị quán S.A.M.I.P.I.C. Saigon, lại càng gây dư luận xôn xao hơn nữa, điều đó thật Tuấn không ngờ.
Tuấn không hiểu tên hôị bằng tiếng Pháp viết tắt S.A.M.I.P.I.C nghĩa là gì, vì danh từ dài quá, gồm đến 7 chữ, Tuấn có hỏi nhiều người bạn ở Saigon, không ai trả lời suông sẻ. Nhưng ai cũng biết rằng đó là một hôị văn hoá của những nhà thượng lưu trí thức Annnam ở Nam kỳ, tôn chỉ và các mục phiêu hoạt động đều giống như hội Quảng Trị ở Huế và hội A.F.I.M.A (Khai Trí Tiến Ðức) Hà Nội (Association pour la Formation Intellectuelle et Morale des Annamites). Hội trưởng lúc bấy giờ tên là Nguyễn Khắc Nương, giám đốc nhà in Nguyễn Khắc, một nghiệp chủ có danh tiếng ở Nam kỳ.
Tuấn vô Saigon, trọ tại tư thục Victor Hugo, đường hẻm Farinolle, nơi đây có người bạn thân của Tuấn ở Trung kỳ vô dạy học tên là Trần Quốc Bửu.
Buổi diễn thuyết ở SAMIPIC đã do Tuấn ấn định trước bằng điện tín, đúng 9 giờ tối thứ bảy trong tuần. Ông hội trưởng cũng đã đánh giây thép cho Tuấn lúc bấy giờ còn ở Huế, để xác nhận ngày giờ nói trên. Diễn giả sẽ được nói tự do, theo chế độ tự do ngôn luận dưới thời Pháp lúc đó, ở Nam kỳ cũng như ở Huế và Hà Nội, không bị bắt buộc phải soạn bài đưa kiểm duyệt trước.
Vì bận ghé Quảng Ngãi, Qui Nhơn, nên Tuấn đến Saigon hơi trễ, chỉ 12 tiếng đồng hồ trước giờ đã ấn định và do hội trưởng SAMIPIC đã thông báo cha các nhật báo Saigon.
Xuống ga xe lửa Saigon lúc 7 giờ sáng, Tuấn gọi một chiếc xe " kéo " chạy đến trường Victor Hugo ở cuối dãy nhà đường Farinolle, bên hông vườn " Bờ Rô ". Người kéo xe đòi 1 tiền xu (Xe kéo là loại xe cyclo đạp hiện nay, nhưng gọng dài, và do một người kéo, gọi là " cu li xe ". Xe kéo tiếng Pháp gọi là " pousse - pousse ")
1 xu là 5 đồng tiền điếu, 1 tiền xu là 10 đồng tiền điếu, tức là 2 xu. Tiền điếu là đơn vị tiền tê nhỏ nhất còn thông dụng trong giới bình dân Nam kỳ lúc bấy giờ. Nhưng dần dần người ta không xài nó nữa, cho đến năm 1939 - 40 thì nó biến hẳn trên thị trường Saigon. Ðồng tiền điếu là 1 đồng tiền bằng kẽm, bề kính hai phân rưỡi, giữa đục thủng thành hình vuông mỗi bề 6 ly, chung quanh khắc niên hiệu các vị vua An nam, thông dụng nhất là tiền Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Ðức, Ðồng Khánh, Khải Ðịnh. Bốn chữ Hán khắc chung quanh lỗ vuông như sau đây :
Minh Mạng thông bửu
hoặc
Tự Ðức thông bửu
Ðồng Khánh thông bửu,v.v…
Tuấn rất ngạc nhiên là năm 1937 kinh đô Saigon của Pháp vẫn còn dùng đồng tiền điếu của Vua An nam là loại tiền mà Tuấn chỉ thấy lưu hành riêng ở Trung kỳ mà thôi. Giá trị của nó là : 1 đồng tiền điếu bằng 5 đồng bạc 1970.
Vừa đến nơi, Trần Quốc Bửu mừng rỡ nắm tay Tuấn và chỉ cho Tuấn xem một tin ngắn đăng trong báo Công Luận nơi trang nhất, báo cáo cho công chúng biết 9 giờ tối hôm đó "ông Trần Tuấn, chủ bút báo Phụ nữ Hà Nội, sẽ diễn thuyết tại hội quán SAMIPIC. đại lộ Galléni, Saigon về đề tài " Phụ Nữ Hà Nội - Huế - Saigon".
Bửu hỏi Tuấn :
- Anh đã soạn sẵn bài diễn thuyết rồi chớ ? Dài không ?
Tuấn bảo :
- Tôi chỉ ghi đại khái trên miếng giấy nhỏ những điểm cần phải nói mà thôi.
Bửu la hoảng lên :
- Ối chu choa không được đâu. Tối nay người ta đi nghe đông lắm, anh phải viết sẵn bài để đọc, chứ anh nói lính quýnh lạc đề, họ sẽ bỏ về hết thì nguy lắm đa ! Ở Saigon không phải như ở Huế hay Qui Nhơn đâu.
Bửu lập tức dắt Tuấn lên một phòng riêng trên gác, đưa cho Tuấn một xấp giấy và bút mực, bảo Tuấn phải viết lẹ, để Bửu nhờ người đánh máy cho rõ ràng.
Vừa ngay lúc đó, có một người đi xe hơi đến đưa Tuấn phong thư của ông Bút Trà, chủ nhiệm nhựt báo " Saì thành ", hỏi xin Tuấn một bản sao bài diễn thuyết để thợ sắp trước, và lên khuôn cho kịp 10 giờ tối báo phát hành ở Saigon để có ngay bài diễn thuyết của Tuấn đọc lúc 9 giờ.
Tuấn rút được một bài học quí giá về nghề làm báo thông tin ở Saigon : sốt sắng, nhanh chóng, hoạt động lanh lợi, và biết khai thác kịp thời bất cứ một diễn biến nào mới xẩy ra để cống hiến những " tin tức sốt dẻo " cho đọc giả. Chứ không phải làm báo phong lưu, bệ vệ, trưởng giả, như các ông nhà báo ở Hà Nội. Tuấn chưa biết trả lời cách nào thì Trần Quốc Bửu nhanh miệng hứa ẩu với người nhà báo Sài thành :
- Còn đang đánh máy. Ðộ 5 giờ chiều ông trở lại.
- Dạ, 5 giờ có chắc không ông ?
- Chắc mà !
Người nhà báo của ông Bút Trà vừa ra khỏi cửa thì Bửu nắm tay đẩy Tuấn vào phòng riêng, vừa cười bảo :
- Anh thấy chưa ? Nhà báo cũng tưởng anh đã có sẵn bài diễn thuyết trong túi áo, nên chưa chi họ đã đến xin trước một bản sao. Tôi còn sợ vài nhà báo khác chốc nữa sẽ đến hỏi.
Quả nhiên 1 giờ chiều, báo Công Luận cũng đến hỏi bài diễn văn. Lần thứ nhất diễn thuyết ở Saigon, tại một hội quán rộng lớn, trước một số thính giả mà Trần Quốc Bửu đoán biết là " sẽ đông nhất đối với các cuộc diễn thuyết ở SAMIPIC từ trước đến nay ", Tuấn bắt đầu lo ngại, và theo lời khuyên bảo sốt sắng của người bạn ở Saigon lâu năm, Tuấn đi viết bài …
Trong căn phòng đóng kín cửa, Tuấn viết gần 59 trang giấy cho kịp 5 giờ chiều trao cho hai tờ báo Công Luận và Sài Thành.
Tuấn nghèo, từ Hà Nội vào chỉ mang theo " nhất bộ " đồ Tây mà Tuấn có. Trần Quốc Bửu thấy áo quần Tây của Tuấn chật và cũ quá, đã vàng úa lại đứt hết nút, bảo Tuấn phải thay đồ khác.
- Tôi chỉ có một đồ tây này thôi, Tuấn bảo.
Bửu chạy đi mượn một bộ âu phục bằng tussor của một giáo sư bạn của anh, đem về bảo Tuấn mặc thử. Cái nơ của Tuấn đeo cũng phai màu, Bửu đi mượn về cho Tuấn một cravate mới :
- Tôi diễn thuyết ở Huế và Qui Nhơn. Theo tôi biết, thì hội SAMIPIC có gửi giấy mời rất nhiều nhà trí thức nam nữ ở Saigon đến dự thính cuộc diễn thuyết của anh. Anh phải ăn mặc đàng hoàng không chơi lối " bohémien" như ở Hà Nội hay Huế được.
Tuấn cười :
- Ở Huế, họ mời quan cách cho. Mà tôi có nghe ai phê bình y phục của tôi đâu.
- Họ không phê bình trước mặt anh, nhưng làm sao tránh khỏi bị họ chỉ trích sau lưng ?
- Dù sao, họ biết mình là nhà văn nghèo, họ cũng tha thứ.
- Anh còn ngây thơ quá, Trần Quốc Bửu lắc đầu cười.
Trần Quốc Bửu nhất định bắt Tuấn phải mặc bộ đồ tussor mà anh đã đi mượn về, và đeo cravate xanh có chấm trắng. Giày của Tuấn mới há miệng sơ sơ, Bửu cũng lấy một đôi giày của anh bảo Tuấn mang "Ðôi giày kia để mang đi dạo phố chơi ".
9 giờ diễn thuyết, 9 giờ kém 20 Tuấn với Bửu cùng đi. Tuấn không muốn đến sớm quá, vì sợ ông hội trưởng sẽ giới thiệu mình với người này người nọ, điều mà Tuấn không thích, Tuấn bảo với Bửu.
- Anh đưa tôi đến SAMIPIC làm sao vừa đúng 9 giờ. Và tôi nói trước để anh biết, hễ diễn thuyết xong là tôi chuồn lập tức. Dù bị ai kéo níu, tôi cũng không ở lại thêm một phút nào. Tôi sẽ ra về sớm hơn bất cứ thính giả nào.
- Tại sao vậy ? Bửu ngạc nhiên hỏi.
- Tại vì tôi không muốn ai trông thấy mặt mũi diễn giả sau khi cuộc diễn thuyết chấm dứt. Chuồn ra khỏi cổng, là tôi nhẩy lên xe kéo chạy thẳng về nhà. Tôi sẽ chờ anh ở trường, nghen ! Tôi nói trước để anh đừng tìm kiếm tôi, mất công nhé.
- Nếu buổi diễn thuyết thành công, được thính gỉa vỗ tay nhiều lần, thì anh phải ở nán lại 5, 10 phút theo phép lịch sự để tiếp xúc với những người khen tặng anh và muốn làm quen với anh chứ.
- Vỗ tay hay không vỗ tay, khi tôi nói hết rồi là tôi trốn.
- Anh nói vậy, chứ ông hội trưởng sẽ giữ anh lại, để …
- Tôi sẽ trốn luôn ông hội trưởng.
Bửu lấy 1 tiền xu mua hai vé tại ga xe điện Cuniac (Xe điện : tramway. Loại xe chuyển động bằng hơi điện và chạy trên đường rầy. Chỉ Saigon và Hà Nôị có. Hà Nôị gọi là tàu điện. Phải mua vé trước tại ga.
Ga xe điện Cuniac, hiện nay là bến xe buýt trước Bồn Binh và chợ Bến thành) đến ga Pétrus-Ký. Hội quán SAMIPIC là một ngôi nhà đồ sộ ở xế ga Pétrus-Ký, đại lộ Galliéni, nay là Trần Hưng Ðạo. Hội sở SAMIPIC năm 1955 đã bị trưng dụng làm Tổng hành dinh quân đội Việt Nam Cộng Hòa, sau là Tổng hành dinh quân lực Ðồng Minh.
Lên xe điện đông quá, Tuấn và Bửu phải chen lấn. Trần Quốc Bửu khẽ nói thầm bên tai Tuấn :
- Tôi để ý hầu hết đám đông người đều mua vé đi ga Pétrus-Ký. Chắc họ sẽ là thính giả của anh đó.
Xuống ga Pétrus-Ký, đi bộ chừng 50 thước đến trước cổng một biệt thự đồ sộ hai tầng, ngự tọa trên một nền cao, mặt tiền trông rất oai nghi. Trước là một sân rộng đưa lên cửa chính bằng hai con đường dốc, bên hữu và bên tả, chạy sau một lan can hình bán nguyệt.
Ðứng trước cổng nhìn lên tầng hai, Tuấn thấy đèn điện sáng trưng trong phòng (có lẽ là phòng diễn thuyết) và lô nhô người đứng đông nghẹt che kín hết các cửa sổ mở rộng. Mặt tiền tầng hai được kết hoa lá, thêm vẻ long trọng bất ngờ.
Trần Quốc Bửu nhe hai hàm răng cười :
- Ðông quá anh ơi ! Thất bại thì thôi …độn thổ đa !
Tuấn bây giờ mới cảm thấy hồi hộp, lo ngại thật sự. Hai người đi lên cửa, bước đủng đỉnh sau một đám đông đến dự thính, đàn ông, đàn bà, con gái, con trai, tất cả y phụ chỉnh tề. Mấy bà mấy cô thì nước hoa thơm ngát, nụ cười tươi nở trên các khuôn mặt phấn son lộng lẫy, nhan sắc diễm kiều.
Ông hội trưởng Nguyễn Khắc Nương đã đứng chờ ở cửa. Vừa trông thấy Tuấn, ông nắm tay kéo vào phòng khách kế cận. Với giọng nói miền Nam, chân thành cảm động, ông khẽ bảo :
- Tôi thấy 9 giờ rồi mà ông bạn chưa tới, tôi lo quá. Chời ơi, bửa nay thính giả sao mà đông nghẹt, không còn chỗ, họ phải đứng chật ních hết chung quanh. Có nhiều quan khách. Phía nữ lưu cũng thiệt là đông. Ông bạn gắng nói cho hay, chớ lần đầu tiên ở SAMIPIC chưa có diễn thuyết nào thính giả tới lung như vầy ! Ông muốn tôi giới thiệu cách sao ? Bữa Nguyễn Tiến Lãng diễn thuyết, ít nhau hè.
- Tùy ông hội trưởng, giới thiệu sao cũng được.
- Không được. Ông cho tôi biết qua loa tiểu sử của ông để tôi nhớ. Tôi biết ít lắm.
- Ông giới thiệu sao cũng được.
- Tôi nói như vầy được không ?
Ông kể Tuấn là tác giả quyển truyện bằng Pháp văn …và các quyển văn thơ, trợ bút các tờ báo Pháp ngữ, Việt ngữ …và hiện là chủ bút tờ tuần báo Phụ Nữ văn chương xã hội, v.v…và v.v…
- Ðúng không ông ?
- Dạ đúng.
- Thôi, mời ông dô, chớ để cử tọa chờ lâu quá …9 giờ 15 phút, trể lắm rồi đó.
Tuấn bẽn lẽn, và khiêm tốn theo sau ông hội trưởng. Tuấn vừa bước vào phòng, đã nghe một tràng sấm vổ tay trong nữa phút đồng hồ. Tuấn khẽ cuối đầu chào đáp lễ.
Mặc dầu điềm tỉnh thế mấy chăng nữa, cũng khó mà giữ nổi hồi hộp lo ngại, trước một cử tọa vài ba ngàn người, người đứng chật ních cả một giảng đường rộng lớn. Với không khí long trọng, hoa lá trang trí mặt tiền, đèn sáng trưng trong phòng diễn thuyết, thêm vào những khuôn mặt bệ vệ của quan khách, nhất là phái nữ lưu tân tiến, ngôì san sát ở mấy dãy ghế danh dự phía trước, đối diện ngay Tuấn.
Diễn giả mới 24 tuổi, ở tận ngoài Hà Nội xa lắc xa lơ vừa tới Saigon lúc 7 giờ sáng coi bộ áy náy, bẽn lẽn, lần đầu tiên tiếp xúc với cả Saigon trí thức văn nghệ, thanh niên, công tư chức, nghiệp chủ. Trong số chắc chắn có những " công tử Bạc Liêu " mà tiếng tăm bay tận đến cả Trung kỳ và Bắc kỳ.
Hình như tên tuổi của Tuấn trên các sách và báo của Tuấn đã xuất bản, và đề tài diễn thuyết " Phụ Nữ Hà Nội, Huế, Saigon" đã lôi cuốn những đám đông người đến đây, vì theo lời Trần Quốc Bửu, và cả ông hội trưởng Nguyễn Khắc Nương, thì từ trước đến giờ ở Saigon chưa có cuộc diễn thuyết nào hấp dẫn được số thính giả đông đảo như thế.
Ông hội trưởng đã đứng tuổi, người nhỏ, thấp, phải cố nói thật lớn những lời giới thiệu :
- Ông Trần Tuấn là tác giả những quyển sách có giá trị như...
Ðến đây ông luống cuống thế nào bèn quay sang hỏi Tuấn, để cầu cứu :
- Những quyển gì ? Tự nhiên tôi quên mất …
Tuấn mĩm cười đáp :
- Tôi cũng không nhớ.
Thính giả cười rồ lên dậy cả phòng. Ông hội trưởng nhanh trí, nói tiếp :
- … Ông là tác giả những quyển sách có giá trị mà quý ông, quý bà, quý cô ở đây đều biết, khỏi cần tôi giới thiệu ….
Tuấn phớt tỉnh, nhìn những nụ cười khoan hồng nở trên môi những người ngôì nghe ông hội trưởng khả ái của hội SAMIPIC.
Xong mấy câu giới thiệu khá dài, khá lâu, ông nhường lời cho diễn giả.
Lúc bấy giờ chưa có microphone (máy vi âm). Trên bàn diễn giả có một bình hoa (5 cành sen trắng nở thơm phức), một carafe bằng thủy tinh đựng đầy nước lã trong veo, và một cái ly lớn. Tuấn bắt đầu nói nhỏ quá, vì run sợ.
Một người đứng tít ở cửa sổ cuối phòng, lên tiếng :
- Xin nói lớn, ở xa không nghe được gì hết.
Bổng nhiên bựt lên một ánh sáng magnesium sáng rực của một nhiếp ảnh viên nhựt báo, chói ngay vào mắt diễn giả. Tuấn phải im lặng một phút để giữ vững tinh thần, rồi cố lấy giọng nói thật to cho vừa với thính giác của mọi người.
Micro mới xuất hiện ở Việt Nam trong các hội trường của chính phủ từ năm 1948.
Trước đó, thật đáng thương hại cho những kẻ phải nói trước một công chúng đông đảo và thương hại cả cho công chúng ấy. Diễn giả, hoặc thuyết trình viên, phải vận dụng hết gân cốt để nói thật lớn, thật to, thì mọi người mời nghe được, nhất là cử tọa quá đông và giảng đường quá rộng. Công chúng phải chịu khó lắng nghe và hết sức chăm chú mới nghe được trọn vẹn.
Thường xẩy ra trường hợp một thính giả sổ mũi, nổi cơn ho sù sụ, là toàn thể cử tọa bắt buộc nghe tiếng ho có khi dài hàng tràng, thường làm cho diễn giả bị cụt hứng luôn.
Tuấn đã được dự nhiều buổi diễn thuyết ở Hà Nội của các bậc trí thức An nam và Pháp. Nguyễn Văn Vĩnh, chủ nhiệm Trung Bắc Tân Văn, diễn thuyết về Truyện Kiều ở Hội Quán Hội Trí Tri, phố hàng Quạt. Giọng nói tự nhiên của nhà văn to con ấy đã ồ ồ rồi, Tuấn đứng với một đám đông ở ngoài sân hội quán cũng nghe rõ từng tiếng.
Trái lại, Phạm Quỳnh, chủ nhiệm tạp chí Nam Phong, diễn thuyết tại giảng đường (amphitheatre) trường Cao đẳng Ðông dương, phố Bobillot, về " Le paysan tonkinois à travers le parler populaire ". Giọng của ông nhỏ nhẹ, ra vẻ nhà triết học nho gia. Tuấn ngôì trong đám sinh viên Cao đẳng, hết sức lắng tai để nghe mà câu được câu mất, thật bực mình. Những đứa bạn của Tuấn ngồi cùng một dãy ghế cũng bị tình trạng chung ấy.
Giáo sư Bernard, thạc sĩ văn chương. Viện trưởng Cao đẳng Học đường, diễn thuyết về nhà văn Emile Zola. Ông la thét, gào, thiếu điều bể bức trần của giảng đường, sinh viên và quan khách nghe đã ! Cử tọa vỗ tay đôm đốp không biết bao nhiêu lần.
Trái lại, ông De Lagarde, giám đốc nhà Bưu điện Bắc kỳ, diễn thuyết về " La Caodaisme " tại cinéma Majestic, đại lộ Ðồng Khánh, Tuấn tìm chỗ ngồi gần các dãy ghế đầu để được nghe rõ, nhưng vẫn không nghe được gì hết, vì diễn giả nói nhỏ quá, không cố gắng đáp đúng thính giác của cử tọa.
Đây là đại khái những cuộc diễn thuyết thích thú mà Tuấn đã đi nghe ở Hà Nội lúc bấy giờ chưa có micro.
Lần này được dịp nói chuyện với công chúng trí thức ở Saigon tại hôị quán SAMIPIC, Tuấn rút kinh nghiệm của các tiền bối, và cố gắng lấy hết gân cốt để nói thật to.
Thế mà sau khi diễn thuyết, về nhà Trần Quốc Bửu còn chê là " anh nói hơi nhỏ nhiều người không nghe rõ ". Thành thật mà nói, hôm ấy Tuấn đã bắt cuống họng làm việc quá sức, những gân cổ của Tuấn đã căng thẳng hết mức để cho câu chuyện " Phụ nữ Hà Nôị, Huế, Saigon "được trôi chảy êm xuôi vào lổ tai của các ngươì đẹp xứ Ðồng Nai. "
Buổi nói chuyện được hoàn toàn mỹ mãn.Thính giả vỗ tay rất nhiều lần. Tuấn tủm tỉm cười thấy nét mặt của mọi người đều vui tươi khoan khoái. Tuấn kết luận :
- " Thưa quý bà, quý cô, quý ông, trước khi từ giã quý vị, tôi xin gởi một lời cảm tạ chân thành đến mỗi người trong quý vị. Tôi xin thú thật, lúc khởi sự nói chuyện, tôi đã lo …
mất trang 316-317…
-Tôi đã nói trước với anh rằng nói xong là tôi trốn mà.
Bửu cho biết trong dãy ghế danh dự dành cho phụ nữ, có hai chị em Lê thị Ẫn, và đông đủ các bà Giáo, cô Giáo. Ngày hôm sau, dân chúng Saigon, Chợ lớn bàn tán không ngớt về bài diễn thuyết của Trần Tuấn phản đối cuộc đua xe máy phụ nữ do báo Ðiện Tín tổ chức. Ðể tránh cuộc bút chiến vô ích với các báo cộng sản và cuộc va chạm nặng nề cũng không ích gì với bọn nhập cảng xe máy ở Saigon, trong bài diễn thuyết Tuấn không đá động gì đến những động cơ chính trị và thương mãi đã thúc đẩy các báo của phe tư bản tổ chức cuộc đua vụ lợi kia, và các báo Ðệ Tam quốc tế hăng hái cổ võ cho cuộc đua. Tuấn chỉ nói đến những tai hại của một cuộc đua xe máy đối với sức khoẻ của phụ nữ. Nhất là Tuấn phản đối cuộc đi xe máy của cô gái 15 tuổi, Hồ thị L., thân hình ốm yếu, trên đường thuộc địa nguy hiểm từ Saigon ra Hà Nội dài 17000 cây số.
Thực ra chỉ có báo Ðiện Tín của ông Lê trung C. mà chủ bút là ông Bùi Thế Mỹ, là viết nhiều bài gay gắt đả kích Tuấn, đại khái bài " chó sủa mặc chó, đoàn lạc đà cứ đi " trong đó Tuấn bị chửi rủa rất nặng nề. Báo Ðiện Tín vẫn tiếp tục hô hào giới phụ nữ tham gia đông đảo cuộc thi đua do báo ấy tổ chức từ một tháng trước.
Ngoài ra, các báo khác như " Sài thành ", Ðuốc Nhà Nam, Công Luận, Tân Tiến, kể cả các nhật báo Pháp, L’Opinion, La Dépêche, Le Populaire, v.v… đều giữ thái độ khách quan với đôi phần cảm tình xã giao đối với Tuấn, không hẳn binh vực chủ trương của Tuấn, nhưng không ủng hộ lập trường của báo Ðiện Tín.
Trái lại, các báo ấy thường đăng những mục và tranh khôi hài để chế riễu báo Ðiện Tín và ban tổ chức chung quanh cuộc thi đua xe máy phụ nữ. Một vài ý kiến của độc giả các báo thấy rõ mục đích vụ lợi của ban tổ chức, đã công khai tán thành lập trường của Tuấn.
Báo Ðiện Tín liên tục mỗi ngày công kích Tuấn, và để dành một phần lớn nơi trang nhất để cổ động cuộc thi đua xe máy với rất nhiều giải thưởng lớn. Cuộc đua sẽ khởi hành sáng chủ nhất tuần tới, tại trước nhà Thờ Ðức Bà. Tuấn không trả lời một bài nào, nhưng kết quả cuộc bút chiến đơn phương vô cùng ác liệt của báo Ðiện Tín, là đến ngày khởi hành đoàn thi đua xe máy phụ nữ, trên hai mươi cô hầu hết là nữ sinh đã bỏ cuộc trong số 63 cô đã ghi tên tham gia. Các bạn ở trường Victor Hugo, nơi trọ của Tuấn, có đi xem về thuật lại cho Tuấn nghe rằng công chúng đến coi khá đông, và đến phút chót, khi khởi hành lại có 6 cô bỏ cuộc do sự khuyên can của bạn bè.
Một hội Ái hữu các nhà báo Nam kỳ (AJAC - Amicale des Journalistes Annamites de Cochinchine), mà hội trưởng tên là Nguyễn Văn Sâm, chủ nhiệm báo Ðuốc nhà Nam có tổ chức một buổi tiệc thân mật để đãi Tuấn với tư cách là các báo Saigon đối với một đồng nghiệp Hà Nội vào thăm thủ đô Nam kỳ.
Giấy mời có nói rõ là sẽ dùng rượu khai vị (apéritif) tại hội quán AJAC nơi góc đường La Grandière (bây giờ là Gia Long), và Aviateur Garros (Thủ Khoa Huân). Sau apéritif sẽ dùng cơm tại nhà hàng Mékong, đường Espagne (Lê thánh Tôn).
Nhà hàng này hiện giờ là một tiệm vàng. Tuấn vui mừng nhưng hơi bỡ ngở được gặp đông đủ các đồng nghiệp Saigon, và được ông hội trưởng giới thiệu từng người.
Trong số đó Tuấn có chú ý nhiều nhất đến các bạn Trần Văn Thạch (chủ bút báo La Lutte), cộng sản đệ tứ, Tạ Thu Thâu (cộng sản đệ tứ), Phan Văn Hùm (đệ tứ), Lê Trung Cang (Ðiện Tín), cô Anna Lê Trung Cang (con gái ông chủ nhiệm báo Ðiện Tín), và Lê Văn Thử (La Lutte), Thúc Tề (Công Luận), Jean Baptiste Ðồng (Sài thành), v.v…
Báo cộng sản Ðệ Tam không dự buổi tiệc. Ðang chuyện trò vui vẻ thì ông Lê Trung Cang đưa vào một thiếu nữ độ 15 tuổi, người mảnh khảnh, yếu ớt, nước da ngăm ngăm đen như người Cao Miên và mặc áo sơ mi, quần short (kiểu quần tây cụt trên, đầu gối tóc frisés. Tất cả các nhà báo đều ngạc nhiên trong lúc ông Lê Trung Cang giới thiệu cô ấy với Tuấn :
- Ðây là cô em Hồ thị L.
Rồi ông cười to nói to hơn, có vẻ đắc chí :
- Cô sẽ là nữ anh hùng xe máy An nam …Tôi mong rằng nữ anh hùng Hồ thị L. sẽ được bạn đồng nghiệp Trần Tuấn đón tiếp niềm nở tại Hà Nội cũng như bữa nay tôi được hân hạnh tiếp bạn đồng nghiệp tại hội quán AJAC vậy đó.
Một nhà báo la lớn :
- Ê, xin đính chính đa ! Bửa nay là hội AJAC của các nhà báo Nam kỳ đón tiếp bạn đồng nghiệp Trần Tuấn, chứ không phải riêng của cha nội đa !
Tuấn nhã nhặn bắt tay cô bé Hồ thị L. với một nụ cười xã giao, Trần Văn Thạch ngồi cạnh Tuấn, chỉ một ghế trống mời cô L. ngồi. Cô ngồi xong nói ngay với Tuấn, bằng một giọng ngây thơ :
- Mặc dầu ông công kích cái sự em đi xe máy ra Hà Nội, em cũng quyết định đi ra ngoài, để gây phong trào phụ nữ thể thao.
Tuấn nhã nhặn nghe và hỏi :
- Cô ốm yếu quá mà đi xe máy trên một đoạn đường dài trên 17000 cây số, trải qua bao nhiêu núi đèo hiểm trở, tôi phục lòng can đảm của cô.
- Em sẽ vượt qua hết, nhờ sự khuyến khích của papa Cang.
- Tui chúc cô thành công.
Apéritif kéo dài hơn một tiếng đồng hồ. Không khí rất thân mật vui vẻ giữa các bạn đồng nghiệp. Xong, kéo nhau qua nhà hàng Mékong.
Ông chủ nhiệm báo Ðiện Tín có nhã ý biểu cô " nữ anh hùng xe máy An nam "đi với Tuấn, và đến nhà hàng, cô cũng ngồi bên cạnh Tuấn để " tenir-compagnie " theo dụng ý gì riêng của ông Lê Trung Cang, Tuấn không hiểu được.
Thấy Tuấn không thích nói chuyện nhiều với L. (nói chuyện gì bây giờ với cô gái 15 tuổi mới học đến lớp ba bậc tiểu học ?), ông Trần Văn Thạch và các bạn đồng nghiệp ngồi cùng bàn trao đổi với Tuấn những câu chuyện hào hứng về chính trị và văn chương. Bỗng giữa buổi tiệc, ông chủ nhiệm báo Ðiện Tín, ngôì nơi bàn kế cận, nói to lên :
- Tôi xin lổi bạn đồng nghiệp Trần Tuấn, chủ bút báo phụ nữ Hà Nội, tại làm sao mà bạn công kích phụ nữ đi xe máy như vậy ?
Tuấn đáp :
- Xin lỗi quý đồng nghiệp, tôi không công kích phụ nữ đi xe máy. Tôi chỉ phản đối cuộc thi đua xe máy của phụ nữ, và tôi cũng không tán thành việc phụ nữ đi xe máy từ Saigon ra Hà Nội.
Ông Lê Trung Cang nói tiếp :
- Nước Ðại Pháp là bực thầy của dân An nam, mà thầy của chúng ta còn để cho các bà đầm, cô đầm đi xe máy, lẽ nào chúng ta đây lại không noi gương của bậc thầy hay sao chứ ? Ha, ha, ha !
Ông cười dòn tan. Nhưng Phan Văn Hùm ngồi đối diện với Tuấn, bảo :
- Anh Cang say rượu rồi đa !
- Tôi không say rượu …Không ! Tôi không say đâu !
Rồi ông Cang cứ một giọng lè nhè nói mãi. Ông Bùi Thế Mỹ chủ bút báo Ðiện Tín, và cô Anna Cang, thì lại ngồi ăn lặng lẽ, Tuấn cũng không nói gì.
Từ lúc apértitif ở hội quán AJAC đến suốt buổi tiệc ở nhà hàng Mékong, Tuấn để ý đến một bạn đồng nghiệp trẻ mà ông hội trưởng Nguyễn Văn Sâm giới thiệu là …Trí.
Anh này luôn luôn đi đôi với Thúc Tề, trợ bút báo Công Luận. Ðôi mắt anh lúc nào cũng có vẻ lờ đờ, mặt to, đầu lớn, lầm lầm lì lì, ít nói chuyện.
Xong buổi tiệc, ở nhà hàng Mékong ra, sau khi cảm ơn tất cả các bạn, Tuấn đi lang thang trên lề đường Espagne, bổng Thúc Tề từ phía sau tiến đến, vỗ vai Tuấn và giới thiệu người bạn bất ly thân của anh :
- Xin giới thiệu với anh đây là anh Hàn Mặc Tử, thi sĩ Qui Nhơn.
Tuấn vồn vã bắt tay :
- Rất hân hạnh được biết anh. Ở Hà Nội, tôi vẫn thích đọc thơ anh đăng trong nguyệt san " Trong Khuê Phòng "ở Saigon.
Hàn Mặc Tử cười hiền lành :
- Tôi cũng theo dõi những hoạt động văn nghệ của anh trong các báo Hà Nội. Thơ của anh có giọng thành thật dễ cảm và dễ thương lắm.
Hàn mặc Tử chỉ một căn gác ở dãy nhà lầu lụp xụp bên lề đường Espagne :
- Gác trọ của chúng tôi đó. Mời anh lên chơi.
(Hiện giờ căn nhà này là một tiệm giày khá lớn, đối diện với vách tường sau của dinh Gia Long -1966)
- Vâng.
Thúc Tề và Hàn Mặc Tử đưa Tuấn vào căn nhà dưới tối lờ mờ, và rất sơ sài, nơi đây có vài người thợ đóng giày đang làm việc. Vào căn giữa, leo lên một cầu thang gỗ đã mục nát nhiều chỗ, chỉ vừa một người leo. Vào cửa là một căn gác chật hẹp, thấp, bài trí rất bừa bãi, với ba bốn ghế bố, và hai chiếc bàn, vài cái tủ, tất cả đều cũ kỹ, nghèo nàn, luộm thuộm lẫn lộn sách, báo, đờn nguyệt, đờn mandoline, áo quần, mền mùng, chén tách bình trà …Phía trước là hai cửa sổ thấp, ngó xuống một mái tôn chĩa nghiêng ra đường phố. Trong lúc Thúc Tề lăng xăng đi pha nước trà nhưng bình đã cạn, và xách bình chạy xuống nhà dưới. Hàn Mặc Tử lấy một bài thơ mới làm ra đọc cho Tuấn nghe. Giọng đọc thơ của Hàn Mặc Tử run run yếu ớt. Tuấn để ý thấy da mặt, hai tai, và bàn tay của " thi sĩ Qui Nhơn " hình như bị lát, xần xùi, mốc mốc.
Tuấn khen bài thơ hay thấm thía lắm, Hàn Mặc Tử vứt tờ giấy chép thơ lên trên bàn, lấy cái tách úp lên để khỏi bị bay ra gió, rồi khẽ hỏi Tuấn :
- Sao có những bài thơ anh không làm nốt ? Hình như anh mới làm có một đoạn …
Tuấn mỉm cười :
- Lúc đi chơi bỏ đó, thong thả sẽ làm tiếp đoạn sau.
Hàn mặc Tử cười chất phác :
- Anh thích đi chơi lắm hả ?
- Ờ, đi lang thang chỗ này chỗ nọ một mình, thú lắm. Chừng nào hết tiền và mỏi chân lại về nhà viết …viết …
- Bộ anh giàu lắm hả ?
- Nghèo chết cha, chứ giàu gì ! Chửng nào ngứa chân muốn đi, thì mấy cô bạn gái với mấy thằng bạn trai ở Hà Nội cho chút ít tiền đủ mua vé xe và ăn xài chút đỉnh dọc đường. Ði đâu cũng có bạn, lo gì. Cũng may là tụi bạn biết thương mình.
- Nếu tôi không có bịnh, tôi cũng thích đi lang thang đây đó như anh.
Thúc Tề xách lên, thay vì bình trà, một chai bia …Nhưng chỉ có mình Thúc Tề uống, vì Tuấn không uống được rượu, kể cả rượu bia. Tuấn bảo :
- Tuần rồi, ở Qui Nhơn, tôi có gặp Chế Lan Viên.
- Vậy hả. vui không ?
- Vui ghê ! 8 giờ 30, tôi phải có mặt ở Câu lạc bộ, đễ diễn thuyết, mà giờ đó tôi còn ngồi trên bãi biển với Chế Lan Viên. Tôi không có đồng hồ. Chế Lan Viên cũng không, thành ra …Với lại, anh nghĩ coi : đêm sáng trăng trên bãi biển, đẹp quá mà ở Hà Nôị đâu có cảnh đó !
- Rồi mấy giờ anh mới diễn thuyết ?
- Hai đứa đến câu lạc bộ thì mới biết là 9 giờ 15. Cũng may là trong ban tổ chức có mấy người bạn học cũ và giáo sư cũ của mình ở collège Qui Nhơn, nên họ không bắt lỗi. Thính giả cũng xí xoá, không oán trách gì. Chế Lan Viên, tôi tưởng người Chàm, con cháu Chế Bồng Nga, nhưng nó bảo với tôi là không phải.
- Nó lấy tên đó để người ta chú ý đến, chớ nó là dân Bình Ðịnh.
- Thơ nó hay chán, không đủ để người ta để ý đến hay sao, cần gì phải lấy tên Chàm ? Tôi vẫn không tin mặc dầu hắn ta quả quyết là con Tiên cháu Rồng. Tôi đoán ít nhất nó cũng có lai máu Chàm trong huyết quản.
Tuấn từ giã Hàn Mặc Tử và Thúc Tề để về nhà sửa soạn đi dự buổi tập kịch của Claude Bourrin
 

Nguyễn Vỹ

Tuấn Chàng Trai Nước Việt



CHƯƠNG 38

1937

- Phong trào "áo Lemur " ở Hà Nội đang thịnh hành từ Bắc chí Nam.
- "Ðoàn Kịch Bắc Kỳ " của Claude Bourrin , ở đường Pellerin. Sàigòn.
- Ðạo Cao Ðài Tây Ninh. Phong trào cầu cơ ở Saigon và Bàn Ma ( Bàn ba chân ) ở Hà Nội.
- Phạm Công Tắc.
- Hai tín đồ Cao đài Pháp : Abadie, Delagardo.


1932- Hà Nội : Phong trào phụ nữ đi bộ được gọi là " phong trào tiểu thư đi bộ ".
1936 - Saigon: " phong trào phụ nữ đi xe máy ".
Cả hai đều bồng bột được một vài tháng , làm sôi nổi sư luận , rồi bỗng dưng nguội lạnh . Ngọn lửa rơm đã tắt , chỉ còn lại một đống tro tàn , tan biến trong cuộc sống gió bụi hằng ngày , không ai nhắc đến.
Chứng kiến cả bề mặt và bề trái của hai cuộc vận động ấy . Tuấn nghĩ rằng nếu một ngày nào đó nổi lên phong trào phụ nữ lái xe camion chở hàng hoá , hoặc phụ nữ lái xe ô tô buýt chở hành khách , hoặc phụ nữ lái máy bay đi từ Hà Nôị , Saigon qua Hong Kong , Tokyo, Manilla , New York , Paris , London v.v…thì chừng đó Tuấn mới hãnh diện cho phụ nữ thật gọi là tân tiến của Việt Nam .
Nhưng xét kỹ lại , Tuấn cho rằng " bệnh ấu trĩ cuả tân thời " không thể nào tránh được đối với một xã hội vừa mới trong tình trạng cố cựu bước qua giai đoạn tân tiến , do sự tiếp xúc với những yếu tố của một văn minh hoàn toàn mới lạ .
Nhất là trong lúc một xã hội bị gọi là " chậm tiến " ( danh từ của thực dân thường dùng là " arrièré" ) , chưa chuẩn bị đầy đủ để đón nhận các hình thức mới của nếp sống của tư tưởng , của quan niệm về nhân sinh , tập tục , Lénine cũng đã gọi " la maladie enfantile du communisme " ( bệnh ấu trĩ của chủ nghĩa cộng sản ), những hăng hái quá trớn , sai lầm , của cộng sản ở giai đoạn sơ khởi , chưa chuẩn bị đầy đủ , thiếu kinh nghiệm và ngoan cố .
Xã hội Việt Nam trong khoảng 20 năm giữa đệ nhứt và đệ nhị thế chiến ( 1919 - 1939 ) cũng ở trong tình trạng ấu trĩ của " bệnh tân thời " . Nó muốn vươn mình theo kịp tiến bộ Tây phương , nhưng không đủ phương tiện , yếu tố , cho nên chỉ chuyển động quanh quẫn trong khung khổ mong manh , của một xu hướng tân thời chưa có căn bản vững vàng , chưa có phương hướng nhất định .
Những phong trào " tiểu thư đi bộ " , " phụ nữ đua xe máy " , " khiêu vũ " , "áo Lemur " , v.v…đều là những biểu dương của chứng bịnh ấu trĩ đó , mà phụ nữ "Annam "đã mắc phải trước nhất .
Các cô ả đào Khâm Thiên , Ngã Tư Sở , và các cô vũ nữ ở Rex , Fantasia , là những cô gái đầu tiên mặc áo " Lemur "đi phất phơ những buổi chiều lãng mạn trên bờ Hồ Hoàn Kiếm , đã gây ra phong trào ấy , và sau đó từ một số đông các cô nữ sinh Hà Nội cho đến các con sen , chị ở , ở các tỉnh đều đua nhau mặc áo " Lemur".
Áo Lemur được thịnh hành nhất ở Hà Nội , và các tỉnh Bắc kỳ vài ba tỉnh Trung kỳ . Ở Saigon và các tỉnh Nam kỳ các nhà may áo phụ nữ đã chế ra vài kiểu áo giản dị hơn , thích hợp với xứ nóng .
Biết mục đích cuộc Nam du của Tuấn là quan sát tình hình văn hoá , xã hội, chính trị của Saigon Lục tỉnh , một người bạn đưa Tuấn đến dự một buổi tập dượt của "đoàn kịch Bắc kỳ " do một kịch gia Pháp chuyên môn tên là Claude Bourrin, sáng lập và điều khiển . Do sự giới thiệu trước của người bạn ấy , Claude Bourrin có gởi giấy mời Tuấn đến xem , lúc 6 giờ chiều chủ nhật , tại sân khấu của đoàn , ở đường Pellerin . Ðoàn kịch được biết nhiều hơn bằng danh hiệu Pháp ngữ , Groupe théâtral Tonkinois, gồm độ 10 nam nữ kịch sĩ , trẻ tuổi , toàn người Bắc kỳ nhưng có gia đình ở Saigon .
Tuấn rất cảm động được chủ nhân , Claude Bourrin đón tiếp niềm nở và cho biết buổi tập dượt đặc biệt hôm nay là cốt để cho Tuấn xem , và mong Tuấn cho biết cảm nghĩ sau khi xem xong .
Hôm ấy , đoàn diễn 4 hài kịch ngắn "Saynètes" bằng tiếng Việt : " Biển Lận " - " Nữa " - "Ông Cò " - " Thợ Cúp Tóc " - đúng hai tiếng đồng hồ , mỗi hài kịch dài 30 phút .
Tuấn công nhận rằng toàn thể kịch sĩ , cả nam lẫn nữ , đều có tài và đã thành công rất mỹ mãn , tuy họ không có nhiều thì giờ tập dượt , theo lời họ cho Tuấn biết .
Kịch do ông Claude Bourrin soạn bằng tiếng Pháp và được dịch và diễn bằng tiếng Việt . Cách bài trí trên sân khấu đơng giản lắm, nhưng sự sắp xếp bối cảnh của mỗi vở kịch rất mau lẹ và có nghệ thuật điêu luyện , không hề bừa bãi hay luộm thuộm . Cả bốn vở kịch đều có ý nghĩa hài hước rất sâu sắc , và các diễn viên đã biết làm nổi bật lên những đoạn khôi hài khiến thính giả không thể nhịn cười được rất nhiều lần trong suốt buổi trình diễn .
Tuấn bắt tay khen tặng nồng nhiệt ông Claude Bourrin và tất cả các kịch sĩ tài hoa , trẻ trung của ông . Lúc ra về , một nữ diễn viên , cô Tâm Hồng , tỏ ý muốn mời Tuấn đi ăn " bánh đập "để thưởng thức một món ăn đặc biệt Saigon mà cô biết ở Hà Nội không có. Chỗ bán bánh đập ở một khoảng đất trống , bàn ghế kê la liệt ngoài trời , ở cuối đường Frères Louis ( nay là Võ Tánh ) , giáp đường Cây Me ( nay là Nguyễn Trãi ) và gần đồn Ô Ma của nhà binh Pháp ( nay là khu Uỷ Hội Quốc Tế ) . Chung quanh là bờ bụi hoang vắng , đèn điện chỉ lưa thưa vài ngọn , rải rác có vài túp nhà lá thắp đèn dầu . Chỗ bán bánh đập trứ danh đó , vì theo lời cô Tâm Hồng , là chỗ bán bánh đập duy nhất ở Saigon , cũng là nơi hẹn hò của " trai thanh gái lịch " của " Hòn Ngọc Viễn Ðông " trong những đêm oi ả .
Lần đầu tiên , Tuấn ngơ ngác nghe cô Tâm Hồng gọi hai chai xá xị . Ở Hà Nội Tuấn chưa hề nghe thấy loại nước ngọt có cái tên kỳ dị đó .
Chín năm sau , năm 1945, Tuấn ở tù ra , đi xe lửa vô Saigon thăm lại kinh đô Nam kỳ , Tuấn trở lại quán bánh đập thì ngạc nhiên thấy khu đất hoang 9 năm trước , nay đã biến thành một cái gọi là chợ Thái bình . Quán bánh đập ngon lành đã biến đâu mất , Tuấn đi tìm khắp Saigon - Chợ Lớn , không còn thấy một quán bánh đập nào nữa cả . Tuấn ghé vào một tiệm Huê kiều trong chợ , gọi một chai …xá xị .
Sau này , Tuấn tìm hiểu , mới biết cái danh từ "xá xị " rất " Ba Tàu "đó lại chính là danh từ Pháp " Salsepareille" do người Tàu Chợ Lớn phiên âm ra .
Tâm Hồng là một nữ nghệ sĩ có danh tiếng thời bấy giờ ở đất Saigon . Cô có căn bản văn hoá , nói tiếng Pháp thạo , viết văn Việt bóng bẩy, và hiểu rõ đời sống văn nghệ ở thủ đô . Cô cho Tuấn biết rõ rằng công chúng Nam kỳ , kể cả giới trí thức thượng lưu và trung lưu , chỉ mê coi cải lương , chứ không thích coi kịch "Ðoàn Kịch Bắc Kỳ " của Claude Bourrin là đoàn kịch duy nhất ở Saigon , diễn kịch theo lối "Saynètes" của Pháp rất hay , nhưng không được công chúng thưởng thức mấy .
Mỗi lần trình diễn , đăng quảng cáo trong các báo liên tiếp mấy số mà khán giả mua vé đến xem không quá vài trăm người .
Các rạp cải lương , trái lại , đông nghẹt người ta , đàn ông , đàn bà , con nít , và những đào cải lương như cô Năm Phỉ , cô Phùng Há , kép Năm Châu , đều được nổi tiếng như cồn . Ngoài ra có một số thích xem hát bội , khán giả ciné, thì đa số là tây , đầm , và đám học sinh và thanh niên trí thức An nam .
Kịch là một môn văn nghệ do người Pháp nhập tịch vào , bị người An nam cho là " lạt lẽo " , " trơ trẽn " , " vô duyên " , không hấp dẫn bằng cải lương , hát chèo Triều Châu , và hát bội Cầu Muối .
Riêng về chủ nhân đoàn kịch Bắc kỳ , điều khiển với tất cả một lòng tận tụy hăng say vì nghệ thuật . Claude Bourrin thì Tuấn đã nghe tên ông trong lúc đọc các nhật báo Pháp ở Saigon và Hà Nội . Ông là một kịch gia chuyên môn , đã nổi tiếng ở Paris, nơi ông đã có nhiều vở kịch được trình diễn trên sân khấu Opéra " .
Suốt thời gian ông ở Saigon , làm một công chức sở Thương Chánh Pháp , ông vẫn có thì giờ để trình diễn các vở kịch của ông tại nhà Hát Tây ( nay là Quốc hội ) và rất được khán giả Pháp và ngoại quốc nhiệt liệt hoan nghênh . Ở Hà Nội , Hải Phòng , ông cũng được thành công rực rỡ .
Bị thất bại với "Ðoàn Kịch Bắc Kỳ ", mà theo lời cô Tâm Hồng , ông đã bỏ vào đấy biết bao là tiền bạc và thì giờ , ông đành phải giải tán , với lòng thất vọng chua chát thấy rằng người An nam chưa biết thưởng thức nghệ thuật của môn Kịch .
Anh chị em kịch sĩ xin phép ông cho họ giữ lại danh hiệu Ðoàn , và họ tự động đi diễn Kịch rộng rãi trong dân chúng. Nhưng rất tiếc họ vẫn không đạt được mục đích tốt đẹp ấy .
Tại Hà Nội , Nam Ðịnh , Hải Phòng , mặc dầu có sự ủng hộ triệt để của báo chí , và số khán giả có phần đông hơn ở Saigon gấp ba lần , nhưng họ vẫn không gặt được kết quả khả quan về tài chánh . Không đủ tiền sở hụi , và khán giả phần nhiều là trí thức có Tây học , chỉ đông đảo trong hai đêm đầu .
Trong thời gian đó và tiếp tục về sau , ban Kịch Vi Huyền Ðắc ở Hải Phòng , ban Kịch Tinh Hoa của Thế Lữ và Ðoàn Phú Tứ ở Hà Nội , cũng không " sống "được lâu trong sự lãnh đạm của công chúng .
Dù sao , Tuấn cũng thấy rằng Claude Bourrin và đoàn Kịch Bắc kỳ của ông gồm toàn nghệ sĩ bổn xứ , và đóng vai trò tiên phong rất xứng đáng về môn thoại kịch trong Văn học sử Việt Nam cận đại .
Tuấn có quen với ông Abadie, làm lục sư ( greffier ), tại Toà Án Hà Nội, một người Pháp theo đạo Cao Ðài. Sự quen biết này có một nguyên do không ngờ.
Năm 1936, Tuấn có làm chủ nhiệm kiêm chủ bút một tờ tuần báo Pháp ngữ, chuyên về chính trị, xã hội và văn hoá. Trong hai số liên tiếp, Tuấn có viết một bài xã thuyết dài tám cột trang nhất, công kích chế độ thuộc địa của Pháp ở Ðông Dương, và kêu gọi dẹp bỏ triều đình Huế. Theo thể lệ báo chí Pháp hồi đó được " tự do ngôn luận ".
Tờ báo không bị kiểm duyệt, không bị đóng cửa, mọi công đàn đều được tự do phát biểu ý kiến của mình. Nhưng Tuấn bị triều đình Huế và phủ Thống sứ Bắc kỳ truy tố ra toà án Pháp tại Hà Nội về tội " xúc phạm đến an ninh quốc gia, và chủ quyền người Pháp ở Ðông dương ( atteinte à la sécurité nationale, et à la souveraineté francaise en Indochine ) chiếu theo đạo luật báo chí Pháp tháng Juillet 1889.
Tuấn không có tiền thuê luật sư. Ông Abadie phụ trách về hồ sơ của Tuấn, vả có cảm tình riêng với Tuấn, một chàng trai hăng hái vì tuổi trẻ nhưng không có hành động nguy hiểm nên có giới thiệu Tuấn đến luật sư Lambert, một người bạn của ông, ở trước cổng Hội Chợ, đường Gambetta, nhưng xem qua bài báo bị truy tố, luật sư bảo Tuấn :
- Tôi rất tiếc không thể bênh vực cho anh trước toà án, mặc dầu có sự gởi gấm tử tế của ông Abadie bởi vì …tốt hơn hết là tôi sửa soạn va li để lên đường về Marseille !
Ý của luật sư Lambert bảo rằng ông không thể bênh vực một tờ báo có tính cách chống Pháp và có khuynh hướng đòi đuổi Pháp ra khỏi Ðông dương. Bênh vực cho Tuấn thì tốt hơn là ông xách va li về Pháp cho rồi.
Tuấn đem câu chuyện của luật sư Lambert nói lại cho ông Abadie rõ. Ông này có ý muốn cứu Tuấn khỏi tù tội, khẽ bảo Tuấn :
- Tôi khuyên anh tốt hơn là đi vắng Hà Nội trong thời gian có phiên toà xử anh. Toà sẽ xử khiếm diện. Nhưng anh sẽ trở về kịp ngày để chống án sang Pháp. Tôi sẽ tìm cách tạo ra một Vice de forme, để toà án huỷ bỏ bản án của toà Hà Nội, và bắt xử lại. Từ đây đến đó anh sẽ có thì giờ vận động, vì thủ tục Toà Phá Án còn kéo dài lâu lắm.
Nghe lời ông Albadie. Tuấn chuẩn bị đi Saigon một tuần lễ trước ngày có phiên toà. Nhân tiện ông Albadie viết thư giới thiệu Tuấn với ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Quyền Giáo Tông Ðạo Cao Ðài ở Thánh thất Tây Ninh. Tuấn không hiểu do trường hợp nào một người Pháp chính thống như ông lục sự Albadie lại theo đạo Cao Ðài ? Tuấn không hỏi ông, vì lễ độ, nhưng Tuấn cứ thắc mắc về vấn đề đó.
Ðạo Cao Ðài có gì lạ ? Có gì hấp dẫn đến đỗi một người trí thức Pháp phải bỏ đạo Thiên Chúa để theo đạo Cao Ðài ?
Trước đó ít lâu, giới trí thức Hà Nội đã bàn tán rất nhiều về đạo Cao Ðài. Nhưng thực ra không ai hiểu rõ, chỉ biết qua loa là một Tôn giáo mới xuất hiện ở Nam kỳ, thờ cả Phật, Chúa, Lão Tử, Trạng Trình và Victor Hugo. Chưa ai biết tường tận về giáo lý Cao Ðài, và nhất là hai chữ Cao Ðài. Một số anh em đồng chí cách mạng rỉ tai cho Tuấn biết rằng đạo Cao Ðài, do hai chữ C. Ð. tức là Cường Ðể, chính là một đảng cách mạng bí mật của nhà chí sĩ Cường Ðể sáng lập ra trá hình dưới thể thức một Tôn giáo để đánh lừa sự dòm ngó của người Pháp và của Deuxième Bureau (Ðệ Nhị phòng của Mật vụ vậy ).
Do sự tiết lộ ấy, Tuấn càng tò mò, muốn biết tất cả sự thật về đạo Cao Ðài.
Ðồng thời, phong trào " bàn ba chân ". từ Saigon lan truyền ra Hà Nội, đã làm sôi nổi dư luận các giới đồng bào Bắc Hà một thời gian khá lâu. Tuấn có tham gia nhiều cuộc " gọi hồn ma " về nói chuyện bằng những tiếng gõ trên " bàn ba chân ".
Tại nhà Cung, một bạn học cùng lớp Anh ngữ với Tuấn, người anh cả của Cung, làm thông phán Phủ Thống Sứ, có thuê đóng một chiếc bàn tròn ba chân, toàn bằng gỗ, không có một cái đinh hay một miếng sắt nào dính vào. Thường mỗi buổi tối, anh ấy có tổ chức những cuộc " gọi hồn ma " về nói chuyện trên mặt bàn.
Trong tháng thí nghiệm đầu tiên, tối nào Tuấn cũng đến dự với một số ít bạn bè được chọn lọc, không quá 6 người cả nam lẫn nữ. Những giải trí này rất là hấp dẫn, khiến cho cử toạ luôn luôn hồi hộp băn khoăn, trước một hiện tượng huyền bí mà Khoa Học của Thế kỷ XX chưa khám phá ra được.
Bắt đầu người anh cả của Cung thắp nhang khấn vái vài ba câu bông lông, không căn cứ vào một bài thần chú hoặc một bài Kinh kệ nào cả, vì bọn thanh niên trí thức thời bấy giờ đều là " tự do tư tưởng ( libres penseurs ). Cử toạ ngôì chung quanh chiếc bàn tròn không trải nắp và không để một vật gì trên bàn cả. Vì lúc bấy giờ phong trào người An nam nói tiếng Pháp đã thành một thói quen rất thịnh hành, nên thỉnh thoảng ông thông phán hỏi " hồn ma " bằng câu tiếng Tây :
- Esprit, es-tu là ? ( Hồn ma có về đó không ? )
Bỗng dưng có tiếng gõ trên mặt bàn ! Ai nấy đều mỉm cười, một nụ cười thích thú nửa tin nửa ngờ, nhưng không phải là không hồi hộp, sợ hãi, vì mình có cảm giác lành lạnh xương sống rằng mình đang tiếp xúc với một Hồn Ma đích xác, không biết từ đâu hiện về, không thấy hình bóng, nhưng nghe rõ ràng tiếng gõ " cóc …cóc " trên bàn gỗ.
Tiếng gõ chứng nhận rằng " Hồn Ma "đã hiện về. Cuộc đàm thoại bắt đầu, nhờ tự mẫu morse làm chuẩn ngữ (đã đề sẳn trước mặt mỗi người một tấm giấy ghi tự mẫu morse để theo dõi dể dàng câu chuyện ) và một bản morse đặt ngay giữa bàn để riêng cho hồn Ma.
Thường thường hồn Ma trả lời rất đúng những câu hỏi của cử tọa. Thí dụ, một người hỏi, anh Trần Niên, người Nghệ An :
- Ông cụ thân sinh của tôi tên là gì ?
Hồn Ma trả lời :
- Trần Văn Soạn.
- Ông cụ mất lúc mấy tuổi ?
- 72
- Hiện giờ vong linh ông cụ tôi ở thế giới nào ?
- Ðã đầu thai. Không biết rõ.
Tên và tuổi ông cụ thân sinh bạn Trần Niên, sinh và tử ở Nghệ An, toàn thể cử tọa không ai biết. Nhưng Hồn Ma biết rõ và nói không sai. Nhiều việc khác nữa. Hồn Ma nói đúng cả.
Có điều khiến Tuấn, cũng như tất cả cử tọa 6 người, vô cùng kinh ngạc là câu chuyện giữa Vũ Văn Thành, sinh viên Cao đẳng Y khoa, và một Vong Linh.
Thành : "tên tôi là Vũ văn Thành, 22 tuổi, sinh viên Cao đẳng Y khoa Hà Nôị, muốn tìm được nói chuyện với " Vong hồn cô Lê thị Cẩm Thuý, chết ngày 17.10.1934, hưởng thọ 19 tuổi. "
Chờ một lúc lâu, độ 15 phút. Hồn ma hiện về :
- Em, vị hôn thê của anh đây.
Rất cảm động, Thành run run một lúc mới hỏi tiếp :
Thành : "Em còn nhớ anh ư ?"
Hồn : "Không bao giờ quên."
Thành : "Tại sao đang yêu nhau mà em đột ngột vĩnh biệt anh như thế ?"
Hồn : "Tại em vô phúc. Phải trả nợ một tiền kiếp nhiều tội lỗi. Anh biết, em bị bệnh đau tim, chết vì bệnh …"
Thành : "Hiện giờ em cư trú nơi nào ?"
Hồn : "Hư không …An lạc."
Thành : "Hư không …an lạc là ở đâu ?"
Hồn không trả lời và biến mất luôn.
Nguyễn Thái Học có hiện hồn về sau lời khấn nguyện của Cung, nhưng anh chỉ nói hai câu. Hồn : "Việt Nam ta không may …còn nhiều tai họạ …giết Tây …giết Tàu …giết nhau …" Rồi làm thinh luôn.
Một đêm Trung thu trăng sáng đẹp, ông thông phán đề nghị đem bàn ba chân đặt ngoài bao lơn trên gác sau, có cúng bánh trung thu, bánh dẻo và nước trà ướp sen. Quanh bao lơn, treo đèn lồng Nhật bổn, và đặt nhiều chậu hoa cúc, hoa huệ, phong lan.
Ðêm ấy ngoại lệ, cử toạ được mời dự gấp đôi, 12 người, toàn bạn trẻ trí thức. Bạn bè vẫn thích tính hào hoa phong nhã của ông Phán Phủ Thống Sứ, tình nhân của một nàng công chúa kiều diễm, cháu nội vua Thành Thái. Ông đã lái xe hơi suốt đêm vào Huế, bắt cóc cô đem về tổ uyên ương bí mật của ông ở phố Tientsin.
Ðêm ấy Công chúa khấn nguyện mời một ông Tiến sĩ về làm thơ. Khoảng 1 giờ khuya. Tiên ông hiện về tự xưng là Huyền Không Ðạo Nhân.
Tuấn có chép tám câu thơ lạ lùng của Tiên ông như sau đây :
Thiên thanh ai hỡi tâm là thanh
U khí bao vây bốn góc thành
Mây gió trùng trùng un khói lửa.
Máu xương lớp lớp dậy đao binh
Lên nguồn xuống bể dư niên lụy
Ngược bắc xuôi nam bán dạ hành
Thu ẩm lục bồi truy mã lộ
Sơn hà lưu lệ bất tàn canh !
Thấy bài thơ có bao hàm nhiều ý nghĩa ly kỳ mà lúc bấy giờ, Trung thu năm 1936, toàn thể cử tọa đều hoang mang, không hiểu rõ dụng ý quá huyền ảo, Tuấn hỏi :
- Xin ngài cho chúng tôi biết Huyền Không đạo nhân, tên họ thật là chi, hiện ở Cung Trời nào ?
Hồn chỉ lập lại :
- Huyền Không Ðạo nhân
Cô giáo Loan hỏi :
- Bài thơ huyền bí quá, chúng con không hiểu nghĩa, xin Tiên ông giảng cho
- Bất.
Hồn tiên chỉ đáp vỏn vẹn một tiếng " bất", không thêm một lời, rồi thăng luôn.
Mãi gần hai chục năm sau, Tuấn mới hiểu đại khái ý nghĩa tám câu thơ của Huyền Không đạo nhân. Chắc bạn đọc cũng hiểu.
Phong trào " hồn ma "được thịnh hành khắp Hà Nội, trong các giới trí thức, nhưng sau đó ít lâu, không hiểu vì nguyên nhân nào phủ Thống sứ Pháp ra nghị định cấm tiệt các cuộc giải trí " hồn ma ". Nhiều người cho rằng lối cầu cơ " giáng bút " của đạo Cao Ðài cũng giống như Bàn Ma, và cùng một tính cách huyền bí cao siêu. Tuấn nóng lòng muốn vào tận " Toà Thánh Tây Ninh " nơi phát sinh của đạo Cao Ðài, để tìm hiểu sự thật và học hỏi thêm về Khoa Học Huyền Bí, mặc dầu Tuấn cứ thắc mắc : có phải thật là một Khoa Học hay không ?
Một chàng trai mới có 27 tuổi,, hãy còn ngây thơ, mộc mạc, từ Hà Nội vào Saigon, lần đầu tiên lên miền rừng núi Tây Ninh, đến một nơi" huyền bí xa xăm" gọi là Thánh Thất Cao Ðài, nơi đây theo như chàng chỉ được nghe đồn là thờ" thần Một Mắt" và thường xuyên tiếp xúc với các vị Tiên, Thánh trên Trời, chàng trai ấy không thể không hồi hộp, băn khoăn …
Tuấn tự cho rằng cuộc" phiêu lưu" này mà chàng liều lĩnh đi một mình, là một đại sự trong đời chàng . Nhưng chàng rất hăng hái vì thích hợp với bẩm tính của chàng ưa đi chu du đây đó, lang bạt kỳ hồ …
Ngủ dậy thất sớm, chàng xách cạp-táp ra bến xe đò Lục tỉnh, ngay bên hông cửa Ðông chợ Bến Thành, mua vé đi Tây Ninh . Dọc đường dài gần 100 kí lô mét, Tuấn để ý không có gì khác biệt các phong cảnh miền Trung, chỉ thỉnh thoảng có một vài loại cây lạ, như cây thốt nốt, cây xoài riêng, và hai bên đường, là đồng lúa mênh mông, ít có núi, gò, như ở hai miền Trung, Bắc .
Ðến tỉnh lỵ Tây Ninh vào khoảng 9 giờ sáng, chàng điềm nhiên hỏi một anh xe ngựa, một loại xe ngựa đặc biệt ở miền Nam, gọi là xe thổ mộ, người Pháp gọi là xe hộp quẹt
(boîte d’allumettes ) hay là tắc-ca-tấc ( tac-à-tac ) .
- Ði Thánh Thất Cao Ðài bao nhiêu, chú ?
- 6 cắc .
Ðường đi không xa, chỉ khoảng 5, 6 cây số . Phong cảnh đã hơi khác . Ðã thấy một vài đỉnh núi xanh mờ xa xa … Chú đánh xe bảo :
- Núi Ðiện Bà đó ! Linh lắm !
Người dân Tây Ninh đầu tiên đã cho Tuấn nghe một vài chuyện thần linh ở đất huyền bí này rồi . Xe đổ ngay trước một cổng lớn và rộng, nhưng đóng lại, chỉ để lối đi bên hông . Phía trên có đề hai giòng chữ lớn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp :
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ
3è Aministie de Dieu en Orient Tuấn nghĩ mãi không rõ ý nghĩa của hai chữ" tam kỳ" chắc chắn là không phải ba Kỳ : Nam, Trung, Bắc, vì có câu chữ Pháp chứa ở dưới : 3è Aministie, nhưng 3è Aministie là thế nào ? Nếu đừng có câu chữ Pháp thì Tuấn có thể đoán chừng ý nghĩa rằng : Cao Ðài là một đạo lớn phổ độ cho toàn thể nhân dân Nam Trung Bắc . Tuấn lại nhận thấy rằng câu chữ Pháp chứa ở dưới không phải là dịch đúng câu Việt ngữ ở trên vì nghĩa của nó là "Ân xá lần thứ ba của thượng đế ở Ðông phương" khác với câu tiếng Việt xa lắc xa lơ .
Chỉ có hai câu đề trên cổng cao lớn đó mà Tuấn cứ thắc mắc hoài, đứng tần ngần suy nghĩ mãi, chưa muốn vào trong . Ðã vậy, hai câu đối hai bên bằng chữ Nho lại càng khiến cho Tuấn hoang mang : không có ngụ ý gì là huyền bí ảo mộng thần tiên như Tuấn đã tưởng tượng . Trái lại, hai câu đối đề cập đến" dân quyền" và bao hàm tư tưởng ái quốc, tự do, dân chủ …Ðọc đi đọc lại câu đối chữ Nho .
Tuấn suy nghĩ : hay là dư luận của một số đồng chí cách mạng quốc gia ở Hà Nội bảo rằng Cao Ðài là một tổ chức chính trị có liên hệ đến Ðức Kỳ ngoại Hầu Cường Ðể …cũng đúng một phần nào chăng !
Với tất cả những thắc mắc ấy, Tuấn xách cạp táp đi cửa hông, bước chân vào khu vực của Tòa Thánh Cao Ðài .
Hai bên cổng Chánh môn của Thánh Thất, hai câu đối :
Cao thượng chí tôn đại đạo hoà bình dân chủ mục .
Ðài tiền sùng bái Nam Kỳ cộng hưởng tự do quyền .
Hai câu đối trên đã tiết lộ phần nào chí hướng chính trị của Cao Ðài giáo chăng ?
Một văn phòng liên lạc ở ngay bên hông, Tuấn vào . Thấy một thiếu phụ mặc toàn đồ trắng theo một kiểu riêng biệt của tín đồ Cao Ðài, Tuấn trao bức thư giới thiệu của ông Abadie, gởi Ðức hộ Pháp Phạm Công Tắc . Ông Abadie biên ngoài bao thư bằng Pháp văn :
Sa Sainteté Phạm Công Tắc
Saint Siège Tây Ninh Thấy thiếu phụ hơi do dự, Tuấn bảo :
- Thưa cô, ông Abadie, người gởi thư này, là tín đồ Cao Ðài giáo, và là người Pháp, làm chánh lục sự toà án Hà Nội . Nhơn tôi có dịp đi Saigon, muốn đến thăm Toà Thánh, ông viết thư giới thiệu tôi cho Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc . Vậy xin cô làm ơn chuyển thư lên ngài .
Bây giờ tín nữ Cao Ðài mới niềm nở hỏi han :
- Xin lỗi thầy là ai ? Quý danh là chi, để tôi trình lên Ðức Thầy .
- Dạ tôi là Trần Tuấn .
Tín nữ tỏ vẻ sửng sốt, nở một nụ cười :
- Ông là ông Trần Tuấn, chủ bút báo Phụ Nữ đó phải hôn ?
Tuấn lễ phép mỉm cười, nghiêng đầu :
- Dạ
Tín nữ Cao Ðài rất dịu dàng bảo :
- Dạ, xin mời ông Trần Tuấn đi với tôi tới Giáo tông đường, có đức Thầy ở đó .
Tuấn đi theo cô . Tò mò, Tuấn khẽ hỏi :
- Xin lỗi cô, Ðức Thầy là ai ?
Tín nữ duyên dáng đáp :
- Ðức Thầy là Ðức Hộ Pháp đó .
Tuấn thấy con đường rộng thênh thang bằng phẳng từ cổng Toà Thánh chạy thẳng băng vô tận, không biết tới đâu ! Có tấm bảng cắm bên cạnh đường ghi : "Ðại lộ Hòa Bình"
Bên trái là một toà nhà đang xây cất, một kiểu đặc biệt, không giống các kiến trúc chùa, đền, thông thường . Tín nữ cho biết đó là Chánh điện thờ Ðức Cao Ðài, chưa xong . Bên phải, giữa một khu đất trống, cỏ mọc um tùm đã dựng lên một pho tượng có lẽ bằng plâtre ? Một con ngựa kim trắng toát, hai chưn trước đưa lên như sắp phi . Tượng này cũng làm dở dang hình như phải có một người trên lưng ngựa nhưng chưa làm xong .
Dọc hai bên đại lộ Hòa Bình có rải rác ba bốn ngôi nhà ngói, kiến trúc thông thường, trước cổng mỗi nhà đều có tấm bảng để chữ :" Hiệp Thiên Ðài, Nữ Phối Sư, v.v…" Tuấn chưa quen với những danh từ hoàn toàn mới lạ này nên không nhớ kỷ .
Ði chừng 100 thước thì tín nữ đưa Tuấn vào một ngôi nhà cách đại lộ chừng 20 mét, bề ngoài trông như một biệt thự thấp ( không có lầu ) nhưng rộng rãi, mát mẻ. Kiến trúc và bài trí không có gì đặc sắc . Ngôi nhà ngói trưởng giả khả ái, vuông vức, toạ lạc giữa một khu vườn nhỏ xinh xinh, trồng nhiều cây mãng cầu đã có trái, và năm bảy bụi bông trang, bông ngâu, bông bụt .
Bước lên thềm, tín nữ bỏ guốc, đi chưn không vào phòng khách, nơi đây đã có bốn năm ông mặc toàn áo dài trắng của Chức sắc Cao Ðài, đang chuyện trò. Tín nữ lễ phép tiến đến một ông ngồi giữa, cúi mình, hai tay cung kính trao bức thư và nói rất khẽ . Tuấn rảnh rang quan sát hình dung của ông đó, mà Tuấn đoán chừng là chính Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc . Ðộ 40-46 tuổi, người nhỏ, nét mặt gân guốc, nhưng đôi mắt sáng . Tuấn đặc biệt để ý đôi mắt sáng quắc trên khuôn mặt gầy còm ấy . Ông mặc một bộ y phục trắng cũng cài một dọc nút ở giữa, như áo của mấy ông kia, chỉ khác một điểm là ông có một rèo lụa vàng quấn ngang bụng, thả hai tua dài xuống đến nửa ống chân .
Vừa xem xong bức thư, ông vội vàng đứng dậy, cười rất tươi ( hơi móm ) bước nhanh ra bắt tay Tuấn:
- C’est donc vous, monsieur Trần Tuấn ?
Tuấn đáp với một nụ cười lễ phép :
- Lui-même, Excellence .
Ông cười ha hả, vỗ vai Tuấn tỏ tình sơ giao thân mật, nói sang bằng tiếng An nam !
- Ðược gặp ông bạn đây, hân hạnh lắm . Tôi có đọc tờ báo La Patrie Annnamite, Văn Học Tạp Chí, Phụ Nữ, và phục lối văn của ông lắm . Tôi cũng có theo dõi bài diễn thuyết của ông bữa tối thứ bảy ở hội qúan SAMIPIC . Tôi hoan nghênh lắm.
Nắm tay Tuấn, Ðức Hộ Pháp quay sang nói với mấy vị chức sắc :
- Ông Trần Tuấn, chủ bút báo Phụ nữ, bạn của đạo hữu Abadie ở Hà Nội, vào viếng thăm Thánh Thất đây .
Quay lại giới thiệu với Tuấn :
- …Ðây là chư vị chức sắc cao cấp trong Ðạo …
Rồi ông giới thiệu riêng cá nhân và chức tước của từng vị . Tuấn lễ phép bắt tay mỗi vị .
Ðức Hộ Pháp mời ngồi xong, Tuấn hỏi :
- Thưa Ðức Hộ Pháp, tôi có ý định nghiên cứu kỹ càng đạo Cao Ðài, mà ở Hà Nội, Huế, và đa số đồng bào Bắc kỳ và Trung kỳ chưa được hiểu rõ lắm .
Ðức Hộ Pháp vui vẻ cắt ngang Tuấn :
- Trong thơ của đạo hữu Abadie có nói . Ông bạn cứ ở trong Toà Thánh đây bao lâu cũng được . Ông bạn sẽ có nhiều dịp chứng kiến và tham dự các cuộc lễ, các buổi cầu Cơ giáng Bút, nghe các vị Thánh, Tiên hiện về làm thơ bí và truyền bá giáo lý. Tôi sẽ biểu thầy Hiển, bí thơ của tôi, đưa các tài liệu về bổn Ðạo để ông coi … của đạo hữu Gabriel Gordon ở bên Pháp nữa …
Ông chợt nói qua tiếng Pháp :
- Vous savez, notre religion a recu un accueil des plus sympathiques à l’ étranger, surtout en Prague. Nous avons même un noyau Caodaiste français à Paris !
Với một nụ cười hãnh diện rất chính đáng, vị giáo chủ Cao Ðài nối tiếp, ( Tuấn thấy đôi mắt của ông sáng rực lên ) :
- Bữa trước, bà Henriette Chandet, nữ trợ bút nhựt báo L’ Intransigeant, đi theo ông Tổng Trưởng Thuộc Ðịa Paul Reynaud qua thăm Ðông Dương, chắc ông biết, có tới đây ở 3 ngày và có chứng kiến một cuộc cầu cơ giáng bút . Bà được nói chuyện với Victor Hugo, cho nên bà tin lắm .
Câu chuyện đầu tiên của ông Phạm Công Tắc đánh đúng vào thị hiếu của Tuấn. Thâm ý của Tuấn đến Toà Thánh Cao Ðài chính là chờ "cầu cơ giáng bút " đó . Tuấn muốn chứng kiến một buổi cầu cơ chính thức, thật sự, có đảm bảo, có hàng triệu người tin tưởng .
Mấy lời khai mào của ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc, là một tia sáng huyền ảo chiếu vào suy tư của Tuấn, với bao nhiêu màu sắc nhiệm mầu .
Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc gọi anh bí thư :
- Hiển, em đưa ông bạn Trần Tuấn về ở căn nhà Missions Etrangères ( Truyền Giáo Quốc Ngoại ) và lo đầy đủ tiện nghi cho ông,nghe em .
- Dạ .
- Ông bạn sẽ dùng cơm với tôi . Hay là ông bạn muốn dùng cơm riêng một mình, tùy ý . Mais il prendra le petit déjeuner avec moi . ( Nhưng ông ấy sẽ dùng điểm tâm buổi sáng với tôi )
- Dạ.
Quay lại tôi, ông bảo :
- Ở đây, ăn chay trường, ông bạn ạ . Ông dùng chay được hôn ?
- Dạ, được lắm . Tôi sẽ sống ở đây đúng theo kỷ luật nội bộ của Toà Thánh, như tất cả các tín đồ . Ðức Hộ Pháp tử tế quá …
Câu nói xã giao của Tuấn kết thúc vui vẻ buổi gặp gỡ đầu tiên với vị Giáo chủ của "Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ" .
Tuấn tạm biệt mọi người và theo anh Hiển đến ở căn nhà rộng rãi, rất mát, của văn phòng" Truyền Giáo Quốc Ngoại ", ngoài cổng có tấm bảng đề" Missions Etrangères"
Ngay tối hôn đó, vào khoảng 9 giờ, anh Hiển bí thư của ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc, đến biệt thất của" Missions Etrangères" cho Tuấn biết rằng Ðức Hộ Pháp mời Tuấn đến chánh diện dự kiến một buổi lễ long trọng . Hiển, một bạn trẻ rất dễ thương, và thật sốt sắng, lại bảo :
- Dạ, có sẵn xe ngựa đón ông trước ngõ .
Tuấn vui vẻ bảo :
- Anh gọi tôi bằng anh, nghen ! Ðừng gọi bằng "ông" . Tôì cùng lứa tuổi với anh mà !
Hiển cười :
- Dạ, …mời …anh ra đi .
Tuấn leo lên xe thổ mộ ngồi cạnh Hiển . Hiển tự cầm cương ngựa, có nhã ý cho Tuấn biết :
- Chiếc xe này Ðức Hộ Pháp để riêng cho …anh xử dụng để đi xem chỗ này chỗ nọ, trong Toà Thánh và các nơi quanh vùng . Tôi được biệt phái hướng dẫn…anh trong thời gian anh ở Toà Thánh .
Tuấn bảo :
- Ðức Hộ Pháp thật tử tế quá… À, anh Hiển nhơn tiện, anh có thể cho tôi biết trong buổi lễ đêm nay có " Cơ bút" không ?
- Dạ không .
Tuấn không muốn để Hiển thấy nét mặt thất vọng của mình, chỉ hỏi tiếp :
- Lúc chiều, Ðức Hộ Pháp có cho tôi biết bà Henriette Chandet, đặc phái viên của nhựt báo L' Intransigeant ở Paris đi với phái đoàn ông Bộ trưởng Thuộc địa Paul Reynaud qua Ðông dương, có đến viếng Toà Thánh và tham dự một cuộc cầu cơ, nghe nói có thi sĩ Victor Hugo hiện hồn về nói chuyện với bà ấy, có phải không anh ?
- Dạ, có bà Chandet do ông Nguyễn Phan Long ở Saigon đưa lên đây .
Tuấn ngạc nhiên :
- Ủa, Ông Nguyễn Phan Long, Chủ bút báo La Tribune Indochinois đó hả ?
- Dạ .
- Ổng cũng là tín đồ Ðạo Cao Ðài à ?
- Dạ …C’est un fervent Caodaiste.
Tuấn không ngờ Hiển cũng xen một câu tiếng Tây vào đó . Câu chuyện dở dang đến đây thì Hiển đã gò cương ngựa, ngừng xe thổ mộ trước một căn nhà đông nghẹt người ta, đèn thắp sáng trưng . Ðây là Thánh Thất tạm thời, vì Chính Ðiện chính thức, tức là chánh điện hiện nay ở Toà Thánh Tây Ninh lúc bấy giờ còn đang xây cất, chưa xong . Nhà thờ tạm này thật là dài, bài trí với nhiều màu sắc, rực rỡ một vẻ đẹp độc đáo, không giống như trong các Chùa hay các nhà thờ Thiên Chúa . Một căn nhà trống, rộng thênh thang không có ghế . Tất cả các tín đồ đều khoanh tay đứng yên, một bên nam, một bên nữ, độ vài trăm người, và số thiện nam tín nữ, thanh niên, nhi đồng, còn đứng ngoài không biết trăm ngàn nào mà kể . Chung quanh thánh thất đông nghẹt tín đồ tụ họp để chờ đại lễ .
Tuấn mắc cỡ quá, vì chỉ có mỗi một mình Tuấn đeo cà vạt với bộ đồ tây không hợp thời, lọt vào lẻ loi giữa đám đông người Cao Ðài mặc toàn áo dài trắng, đàn ông cũng như đàn bà . Các vị chức sắc thì mặc lễ phục đủ màu, áo dài xanh, đỏ, vàng, may theo một kiểu đặc biệt, có thắt lưng buộc ngoài và thả tua dài xuống bên hông . Mọi người đều chờ Ðức Hộ Pháp .
Ðáng lẽ, theo chỉ thị của ông Hộ Pháp, Hiển phải đưa Tuấn đến biệt thự của ộng để cùng đi với ông đến Thánh Thất một lượt . Nhưng Tuấn không thích thế, và đã yêu cầu Hiển cho Tuấn đến thẳng Thánh Thất để được tự do lẫn lộn trong đám đông tín đồ, để nghe ngóng chuyện trò và quan sát cho thỏa thích . Hiển đánh xe trở lại Giáo Tông Ðường để tin cho Ðức Hộ Pháp rõ .
Không đầy 15 phút sau, Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đến nơi . Toàn thể tín đồ đều cung kính khoanh tay cúi đầu né ra hai bên, trong lúc Ðức Hộ Pháp tiến vào Chánh Ðiện .
Tuấn để ý ông mặc lễ phục không giống như buổi sáng, lúc tiếp Tuấn. Bây giờ ông đội một chiếc mũ cánh sen na ná như mũ của một vị Hoà thượng, và y phục thì gần giống như pho tương Hộ Pháp ở Chùa, trông dữ tợn và không thích hợp với nét mặt hiền lành của ông . Tuấn ngơ ngác nhìn ông trong lễ phục kỳ dị ấy, với cảm tưởng mình đang lạc vào một thế giớ huyền bí mơ hồ, nửa thiệt nửa hư …
Tận trong tít cùng gian nhà thờ rộng mênh mông huyền ảo và ngự trên cao vót, Một Con Mắt mở lớn, vẽ giữa một khối hình cầu vĩ đại như một chiếc lồng đèn bự ít nhất cũng năm thước đường kính . Phải chăng Con Mắt Thần, tượng trưng đấng Cao Ðài, vị Thiêng Liêng Tối Cao bao trùm cả vũ trụ, dòm ngó cả vũ trụ và …ta bà thế giới ?
Ngay dưới hình cầu ( hình như rỗng ruột và đan bằng tre, phất bằng giấy trắng ), có ba bàn thờ kê sát nhau nhưng cao thấp ba bực. Trên bàn cao nhất có để tượng Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ðức Khổng Tử Phu Tử, và Ðức Lão Tử, ông này cầm cậy phất trần nơi tay, có chòm râu bạc dễ thương vô cùng. Bàn thứ hai thấp hơn, có tượng Ðức Chúa Jésus Christ, và các tượng khác mà Tuấn không nhận ra, và cũng chưa dám hỏi ai. Bàn thứ ba, thấp hơn cả, là nơi đặt các đồ thờ : lư trầm bình nhang, bốn cây đèn nến đỏ, hai lọ cắm hoa sen và hoa huệ.
Trật tự sắp xếp hàng lối của các vị Chức-sắc nam nữ tuỳ theo sắc phục. Nghi thức hành lễ vô cùng huyền ảo đối với cặp mắt tò mò và không hết kinh ngạc của chàng trai phiêu lãng, lần đầu tiên rơi vào một Thiên Ðàng tuởng tượng như của Dante, nơi đây quy tụ đông đủ các Phật, Thánh, Tiên, các Chúa và các Bồ Tát Ðông phương, Tây phương, dưới con Mắt Ðộc Nhãn mở to của Thượng Ðế. Thất là một cảnh tượng vượt quá những gì Tuấn đã học hỏi từ trước đến nay qua các sử sách. Một thế giới hoàn toàn mới lạ, có lẽ mới lạ cả đối với những vị Thần Thánh trên kia. Các vị đã chết trong những thời buổi cách biệt taị những địa điểm khác xa, và bây giờ cùng nhau nhất loạt phục sinh lại trong một góc rừng âm u huyền bí của Việt Nam. Chìa khoá của Huyền Bí có lẽ là nơi con Mắt. Con Mắt của Ðại Lực, Ðại Bi, Ðại Trí của Tối Thượng, Tối Cường, Con Mắt Ðộc Nhãn trên Quả Cầu, xuất hiện ra giữa một đám mây, như con Mắt tuyệt đỉnh của Lương Tri vũ trụ.
Buổi lễ chấm dứt bằng một bài hát đồng thanh của một đoàn thiếu nhi mặc đồng phục, và nhịp theo tiếng gõ đều đều của hai miếng gỗ mà mỗi thiếu nhi cầm trong tay. Tuấn nghe qua nhớ được mấy câu đầu :
Ðạo gốc bởi lòng thành tín hiệp
Lòng nương nhang khói tiếp truyền xa
Mười phương lư ngọc bay xa
Tính thành cầu nguyện tiên gia chứng lòng
Xin Thần Thánh rủi dong cởi hạc
Xuống phàm trần vội gác xe tiên
Ngày nay đệ tử chúng nguyền
Chín từng trời đất xin truyền chiếu tri.
Lễ cử hành lâu hơn một tiếng đồng hồ, rất nghiêm chỉnh có trật tự hoàn toàn trong không khí vô cùng oai nghi tôn kính.
Tuấn khẽ hỏi Hiển :
- Ðêm nào có Cầu cơ giáng bút ?
- Tôi mới nghe nói có lẽ đêm nay, một chút nữa … Nhưng đây là cuộc cầu cơ riêng của một tang quyến được Ðức Hộ Pháp cho phép, chứ không phải cơ bút chính thức do Toà Thánh tổ chức.
- Cầu cơ riêng là sao ?
- Một chị đó, cha chết mấy năm nay, muốn cầu cơ gọi hồn Cha về để hỏi thăm.
Hiển chỉ cho Tuấn thấy rõ dụng cụ cơ bút, mà Hiển gọi bằng tiếng Tây là Corbeille-à-bec. Khác hẳn cái " cơ" mà Tuấn đã thấy thông dụng ở Hà Nội, đây là một dụng cụ độc đáo do các vị tiền phong Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ ( Cao Ðài ) đã chế tạo từ lúc ban đầu. Nó giống như một ống giác hơi lớn ( ventouse ), úp xuống, đan bằng tre và bồi giấy kín mít chung quanh, rỗng ruột. Nơi miệng ống, có cột chặt một cây dài theo chiều ngang. Giữa cây, ngay nơi trung tâm của miệng ống có đóng theo chiều dọc một cái que ngắn và nhọn, giống như cái đanh 5 phân bằng gỗ hay bằng tre, mà người Cao Ðài gọi bằng tiếng Pháp là cái bec. Mỗi khi cầu cơ ( trong Nam gọi là Cơ Bút ), phải có hai người ngồi đồng, Cao Ðài gọi là Médiums (đồng tử ), ngồi đối diện hai bên cây cơ, mỗi người nắm một đầu.
Người ta đặt giữa hai người ngồi đồng và ngay dưới cái cơ, một mâm rộng lớn, đựng một lớp cát trắng, thật nhuyễn. Mỗi khi Hồn Ma hiện về ( ma đây là nói chung tất cả những kẻ khuất mặt, khuất mày, kể cả Tiên, Thánh, v.v…) nhập một lượt vào hai người ngôì đồng, thì tay họ bắt đầu chuyễn động cùng một lúc, và truyền từ thông lực ( Fluide magnétique ) của họ vào Cơ, chiếc cơ rung động và cái mỏ kim viết chữ trên mâm cát, theo chiều của hai bàn tay Médiums hướng dẫn.
Ðấy, tất cả hệ thống cơ bút huyền bí của Ðạo Cao Ðài. Theo lời Hiển nói với Tuấn thì cơ bút có thể viết chữ Việt, chữ Pháp, chữ Hán tuỳ theo trình độ ngữ học của Hồn Ma nhập về. Muốn chứng tỏ sự thật không lừa bịp, không gian dối của cơ bút, theo lời Hiển nói, người ta chọn Médiums trong số những người ít học, miễn biết viết là được. Những lời giáo huấn của đấng Cao Ðài truyền dạy cho các đệ tử, ý nghĩa thâm cao, hoặc những bài thơ bằng Quốc ngữ, Pháp ngữ, Hoa ngữ, do các Hồn Ma nhập về viết trên mâm cát, qua từ lực ( fluide magnétique ) của hai bàn tay mediums, đều không thể nào do chính hai người ít học này âm mưu đặt ra được.
Hiển có cho Tuấn xem một quyển tài liệu, đã in thành sách gồm nhiều bài thơ Quốc ngữ bằng thể song thất lục bát của Hương hồn bà Ðoàn thị Ðiểm, nhiều bài thơ Alexandrius của Vong linh Thi hào Pháp Victor Hugo tuyên truyền giáo lý Cao Ðài, và mấy bài thơ Ðường của Lý Thái Bạch cũng cùng một tác dụng phổ biến tinh thần của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Có điều Tuấn rất thắc mắc, là thơ Việt của Ðoàn thị Ðiểm, thơ Pháp của Victor Hugo, cũng như thơ Ðường của Lý Thái Bạch, được truyền bá bằng cơ bút ở Toà Thánh Cao Ðài, thật kém gía trị thua xa lắc xa lơ các Thi phẩm của ba bậc Thi Bá đó lúc họ còn lê la kiếp sống đầy nghiệp chướng trên trần gian ô trọc. Ðâu còn giọng thiệt não ruột của Chinh Phụ Ngâm, hùng dũng của La Légende des Siècles, đau đớn hận sầu của Villequier, và buồn man mác của Tống Biệt.
Tuấn có thành thật trình bày cảm tưởng ấy với ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc, thì ông cười bảo :
- Dẫu sao, mon cher, người phàm trần như lũ mình đâu có làm nổi những bài thơ cơ bút như vậy.
Tuấn ao ước được chứng kiến gần gũi và tường tận một cuộc cầu cơ, hay là " giáng bút" , " cơ bút" theo lối thông thường ở Thánh Thất Cao Ðài . Nhưng đêm đầu tiên không được tham dự, Tuấn không đưọc thỏa mãn vì tín đồ ngồi xem chung quanh đông quá, kín mít cả mấy vòng, Tuấn không muốn làm rộn nên đứng ngoài không nghe thấy gì được nhiều . Mấy người thuật lại rằng chị quả phụ cầu cơ gọi hồn chồng về, vong linh người chồng " giáng cơ bút" hỏi han chuyện gia đình và cho chị rõ anh được tiêu thăng về Tây phương cực lạc thế giới của Phật A Di Ðà .
Thế là bao nhiêu thắc mắc về bí ẩn cầu cơ, Tuấn mang từ Hà Nội vào vẫn chưa được giải quyết rành rẽ. Trái lái, câu chuyện giáng bút trên đây chỉ chồng chất thêm thắc mắc của Tuấn . Tuấn nhất định sẽ thừa một cơ hội thuận tiện để yêu cầu Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc tổ chức một cuộc cầu cơ thân mật và hạn chế với sự tham dự của một số ít, độ 5, 7 người trí thức trong Toà Thánh mà thôi . Có như vậy, cuộc giáng cơ bút mới có giá trị chân chính, và được sự bảo đảm của Ðức Hộ Pháp và các chức sắc cap cấp đáng tin cậy của Toà Thánh .
Tìm hiểu đạo Cao Ðài, chính là tìm hiểu bí ẩn của Cầu Cơ, vì đạo Cao Ðài đã tự đặt ra cái chiêu bài bằng Pháp ngữ là " Bouddhisme rénové, spiritisme annamite, Religion nouvelle en Eurasie "
Nghĩa là :
" Phật giáo canh tân, thông linh học An nam, Tôn giáo mới ở Âu - Á " .
Không ai chối cãi rằng Chiêu Hồn, hay là Cầu Cơ Giáng Bút, hay là Thông linh học, là yếu tố chính của đạo Cao Ðài . Vả lại, đạo Cao Ðài phát nguyên từ Cơ Bút, Ðức Cao Ðài do Cơ bút mà lập Ðạo .
Vì Cơ bút linh nghiệm, nên đạo Cao Ðài mới phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng đến đổi trong vòng 10 năm, từ 1927 là lúc Khai Ðạo cho đến 1937, lúc Tuấn viếng Toà Thánh Tây Ninh, toàn thể Nam kỳ đã có gần một triệu tín đồ, ở Trung, Bắc kỳ có gần 7000 . Riêng ở Hà Nội có gần 4000 . Ở Nam Vang, Cao Miên có 40.000 tín đồ, Miên và Hoa kiều .
Tuấn có hỏi đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc về ý nghĩa chữ "Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ " và " 3è Annistie de Dieu en Orient" được ông giảng giải như sau :
- Thượng Ðế giáng trần để phổ độ nhân loại kỳ thứ 1 do sự hiện thân của đức Phật Cồ Ðàm ( Gautama ), tức là Ðức Thích Ca Mâu Ni, kỳ thứ hai do sự giáng thế của đức Jésus Christ. Lần này là kỳ thứ ba ( tam kỳ ) do Ðấng Thầy Linh thiêng của chúng ta ( notre Maitre Divin ), tức là Ðức Cao Ðài . Cả ba kỳ đều xảy ra ở Ðông Dương . Nhưng đức Cao Ðài không hiện thân như hai kỳ trước, mà ngài lập Ðại Ðạo do sự truyền cầm của Cơ bút .
Tuấn hỏi đức Hộ Pháp :
- Kêu là Ðại Ðạo, bởi vì Ðạo Cao Ðài bao gồm cả tam giáo : Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, chia làm Ngũ chi đạo đạo ( 5 ngành ) .
1. Nhơn đạo : đạo Khổng Tử
2. Thần đạo : Quan Thánh Ðế Quân
3. Thánh đạo : Ðạo Thiên Chúa ( Cơ Ðốc )
4. Tiên đạo : đạo Lão Tử
5. Phật đạo : đạo Thích Ca
Theo lời đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, thì hôm 13-1-1927 trước sự chứng kiến của một số nhà chức trách Pháp Tiên, ông Lý Thái Bạch, nhà thi hào đời Ðường, có tuân lịnh đấng Cao Ðài giáng bút về truyền nguyên tắc Ngũ chỉ Ðại Ðạo như trên .
- Thưa ý nghĩa của Con Mắt vẽ trên quả cầu là sao ?
- Ðó là Thiên Lương . L'Oeil Divin . Con Mắt tượng trưng lương tâm con người và lương năng vũ trụ . Quả cầu là tượng trưng vũ trụ .
Trong buổi lễ đầu tiên, Tuấn chú ý đến một vài chi tiết sau đây của nghi lễ Cao Ðài :
Tín đồ cũng đọc như bên Phật giáo :
" Nam mô Phật . Nam mô Pháp . Nam mô Tăng ."
rồi tiếp theo :
" Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma-ha-tát
Nam mô Quan Thế Âm bồ tát ma-ha-tát
Nam mô Lý Thái Bạch tiên trưởng .
Nam mô Hiệp thiên Ðại đế Quan Thánh đế quân .
Nam mô chư Phật chư Tiên, chư Thánh, chư Thần ! "
Hỏi về ý nghĩa ba mầu áo khác nhau của các vị chức sắc Cao Ðài, Ðức Hộ Pháp trả lời cho Tuấn :
- Màu vàng : tượng trưng cho Phật
- Màu đỏ : đạo Khổng
- Màu xanh : đạo Lão .
Những chức sắc thuộc về ngành đạo Phật đều có tên đệm chữ Thái, và mặc áo màu vàng tượng trưng Ðạo đức .
Những chức sắc thuộc về ngành đạo Khổng đều có tên đệm chữ Ngọc, và mặc áo màu đỏ, tượng trưng Uy quyền .
Những chức sắc thuộc về ngành đạo Lão, đều có tên đệm chữ Thường và mặc áo màu xanh da trời, tượng trưng Thanh cao, Hoà bình .
Trên các vị chức sắc có Ðức Hộ Pháp, là chủ tọa Hiệp thiên đài, đức Giáo tông, là chủ tọa Cửu trùng đài . Ðức Hộ Pháp có đeo một huy hiệu trên mão, gồm ba vật tượng trưng linh bát ( Phật ), bộ Kinh Xuân Thu ( Khổng ), Phất Trần ( Lão ) .
Anh Hiển, thư ký Toà thánh, đưa Tuấn đến bàn thờ chỉ cho Tuấn những chi tiết sau đây :
- Theo Bạch Ngọc Kinh ( Niết Bàn ), Ngôi Cao Ðài ở hướng Bắc, mặt trời mọc bên trái, mặt trời lặn bên phải . Cho nên, trên bàn thờ, con Mắt ( Thiên lương ) luôn luôn ở hướng Bắc, bên trái là Dương, bên phải là Âm .
Giữa bàn thờ, đặt cả đèn con, thắp luôn ngày đêm gọi là Thái Cực Ðăng, tượng trưng Ánh Sáng của Thượng Ðế soi khắp vũ trụ . Ðến giờ niệm kinh thắp hai đèn cầy lớn, đèn bên trái tiêu biểu mặt trời ( dương ) phải thắp trước . Ðèn bên phải tiêu biểu mặt trăng (âm ) thắp sau . Hai ngọn đèn cầy gọi là Lưỡng nghi quang . Mỗi lần cúng và niệm Kinh, phải đốt năm nén hương tiêu biểu : Giải hương, Ðinh hương, Huệ hương, Tri kiến hương, Giải thoát hương . Một tách nước lạnh, tiêu biểu dương thuỷ, phải đặt bên phải . Hai tách nước trà trộn vào nhau thành nước âm dương, để làm phép cho tín đồ, hoặc chữa bệnh cho những bệnh nhân cầu nguyện Ðấng Thiêng Liêng .
Bình bông ( dương ) đặt bên trái Linh Nhãn, Cổ quả ( trái cây : âm, đặt bên phải ) . Bông cúng rồi để khô, nấu thành nước trị bệnh rất có linh nghiệm nếu bệnh nhân tin tưởng vào sức mầu nhiệm của Thượng Ðế .
Cũng theo lời anh Hiển, bài Thánh ca dâng lên Ðấng Cao Ðài, là do các vị cố tăng ở Hàn Sơn Tự trong thành Cô Tô Trung Quốc, cách đây 1200 năm về giáng cơ bút đọc cho .
Bên trái bàn thờ Ðức Cao Ðài, có đặt bàn thờ Ðức Quan Âm Bồ Tát, là bên dành riêng cho tín đồ nữ phái trong lúc làm lễ . Bên phải là bàn thờ Quan Thánh Ðế Quân, dành riêng cho tín đồ nam phái .
Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc có tặng cho Tuấn một tấm ảnh chụp đồ nghi lễ chánh thức giống hệt tượng Hộ Pháp thờ trong các chùa .
Nhưng ngày thường, Ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc mặc bộ đồ giản dị hơn nhiều, và tân tiến hơn .
Tuấn không được hoàn toàn thỏa mãn trong ước vọng được chứng kiến tận mắt một buổi Cơ bút chính thức tại Toà Thánh Cao Ðài . Nhưng Tuấn xác nhận một sự kiện thực tế là một phong trào tôn giáo mới phát động đã được hằng triệu người hưởng ứng, tất nhiên là phải có một vài đặc điểm nào đó kích thích lòng người, hoặc thích hợp với tâm tư, ý niệm của một khối quần chúng vĩ đại như thế .
Dù chúng ta có tin hay không tin, có chấp nhận hay hoài nghi lý thuyết của tín ngưởng mới ấy, sự xuất hiện và bành trướng ào ạt của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ ở Tây Ninh cũng là một biến cố quan trọng, có ý nghĩa trong Lịch sử dân tộc, bắt nguồn từ miền Nam . Song song với các cuộc tranh đấu hoặc công khai, bán công khai, hoặc ngấm ngầm của các đảng phái chính trị chống thực dân đế quốc Pháp, đạo Cao Ðài tuy được sơn phết dưới một lớp màu sắc tôn giáo, vẫn được các giới trí thức thượng lưu và trung lưu coi như che dấu một khuynh hướng cách mạng lẫn với huyền bí, có tính chất đặc biệt Á đông.
Tuấn cảm thấy vô cùng thích thú, một hôm sau bữa cơm chay chiều với ông Phạm Công Tắc, trong lúc dùng trái cây tráng miệng, Tuấn gợi chuyện quốc sự, được ông Hộ Pháp, lãnh tụ Cao Ðài tin cậy nói nhỏ cho Tuấn nghe :
- Từ ngày ông Phan Chu Trinh từ nước Pháp về diễn thuyết ở Saigon, và ông Phan Bội Châu ở Tàu về cư ngụ tại Huế, quốc dân An nam đặt nhiều tin tưởng nơi các bậc chí sĩ làm cách mạng ở hải ngoại . Hiện giờ, còn Ðức Kỳ ngoại hầu Cường Ðể, rể của vua Nhựt bổn, và chính là cháu ba đời dòng dõi vua Gia Long, đang ở Tokyo. Ngài là tất cả hy vọng phục quốc của quốc dân ta bây giờ .
Ðối với Tuấn, câu nói của ông Phạm Công Tắc chẳng phải là một tiết lộ đặc biệt gì cho lắm, nhưng là một xác nhận đầy ý nghĩa về một vài dư luận mà Tuấn đã nghe được của giới cách mạng Hà Nội . Sự xác nhận không ngờ ấy khiến Tuấn có rất nhiều cảm tình với đạo Cao Ðài trên bình diện cách mạng hơn là tôn giáo . Tuấn quan niệm rằng một vài chống đối xao động giữa các môn phái Cao Ðài Tây Ninh, Bến Tre, Cầu Kho, giữa các ông Phạm Công Tắc, Nguyễn Ngọc Tường, Nguyễn Phan Long, v.v…chỉ là những tranh chấp nội bộ không có ảnh hưởng đến hệ thống trung ương .
Về Hà Nội, với một mớ tài liệu đầy đủ và tranh ảnh sặc sỡ màu sắc của Toà Thánh Tây Ninh, Tuấn viết trong một tuần báo Pháp ngữ và Quốc ngữ một loạt bài đề là : "Le vrai visage du Caodaisme", Tuấn trình bày cho công chúng nhất là ở Bắc kỳ và Trung kỳ biết rõ tất cả những gì Tuấn đã mục kích và tìm hiểu về giáo lý và nghi lễ của tôn giáo mới . Nhiều đoạn bài này đã được trích đăng trong quyển " Histoire de Caodaisme " của Gabriel Gordon, một nhà triết học Pháp theo đạo Cao Ðài và đại diện Cao Ðài giáo ở Âu châu . ( Histoire de Caodaisme, Bouddhisme rénové, spiritisme annamite, religion nouvelle en Eurasie, par Gabriel Gordon, Juin 1948. Ed. Devry, 20 rue de la Trémoille. Paris.)
Dĩ nhiên, Tuấn chỉ nói đến trạng thái tôn giáo mà thôi, không tiết lộ khuynh hướng chính trị . Trong quyển ấy, trang 126,127,128, Gabriel Gordon có kết luận về bài của Tuấn :
(dịch) :
" Hàng ngàn vạn tín đồ Cao Ðài đâu phải toàn là những kẻ mê tín dị đoan, một số rất đông những người theo đạo mới ở Nam kỳ, ở Pháp, là những nhà trí thức uyên bác, những giáo sư, luật sư, văn sĩ, ký giả, dân biểu quốc hội . Không phải là không có lý do chính đáng mà đạo Cao Ðài đã khiến cho cả thế giớ đã bàn tán xôn xao về đạo ấy, mà nhiều tạp chí nổi danh ở Paris, London, Lisbone, Varsovie, cả ở Roma và Buenes-Ayres, hai kinh đô của Thiên Chúa giáo ở Âu châu và Nam Mỹ, đã khởi sự nghiên cứu về tín điều và giáo lý Cao Ðài .
" Tiên giả thiên điều tra này đã được đặc ân lục lọi trong văn khố của Toà Thánh Tây Ninh, và đã được đọc những bức thư những tài liệu quý báu, những đơn xin quy y gửi đến đức Hộ Pháp do những nhân vật ngoại quốc ở nhiều thủ đô Âu châu và Mỹ châu . Cho đến cả nước Nhật Bổn, là một xứ rất hãnh diện về Võ sĩ đạo, cũng đã gửi đến Toà Thánh Tây Ninh một phái đoàn học giả để nghiên cứu và tìm hiểu xem Cao Ðài là đạo giáo mới lạ như thế nào mà đã làm xôn xao dư luận quốc tế …"
Tuấn về Hà Nội, vội vàng tìm đến ông Lục sự Abadie tại văn phòng của ông ở toà án, để biết Toà đã xử tội viết báo của Tuấn như thế nào .
Trông thấy Tuấn, ông Abadie vui cười, khẽ bảo :
- Toà xử vắng mặt anh : 6 tháng tù và 3000 quan tiền phạt . Bây giờ anh ký giấy chống án qua toà Phá án Paris .
Tuấn không hiểu gì cả, hỏi ông Lục sự :
- Tại sao vậy ? Tôi có quyền chống án sang Paris sao ?
- Ðây là một phương pháp để kéo dài vụ này, chứ sớm muộn gì rồi anh cũng sẽ bị án . Nhưng tòa Phá án Paris sẽ bác bản án của toà Hà Nội vì khuyết điểm hình thức ( vice de forme) . Còn lâu lắm toà Phá án Paris mới gửi trả hồ sơ về đây . Từ nay tới đó, anh còn rộng thời giờ bay nhảy …
Nói xong ông Abadie đưa ra sổ sách và giấy tờ gì đó, bảo Tuấn ký tên . Tin cậy hoàn toàn nơi ông Abadie, ( chỉ vì cảm tình riêng của ông đối với Tuấn), không cần tìm hiểu thêm . Tuấn cầm bút ký đại, và cảm ơn ông Lục sư .
Tuấn trao cho ông bức thư của ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc nhờ Tuấn chuyển lại . Ông tín đồ Cao Ðài Pháp vui mừng xem thư của ông " pape " (đức Giáo Hoàng), danh từ này của người Pháp thời bấy giờ tặng cho vị lãnh tụ Cao Ðài giáo ( Le Pape Caodaiste) .
Rồi ông cho Tuấn biết tuần tới ông sẽ diễn thuyết về đạo Cao Ðài tại rạp chớp bóng Majestic, đại lộ Ðồng Khánh . Ông trao cho Tuấn một thiệp mời, 5 giờ chiều thứ Bảy .
Tuấn có đi dự buổi diễn thuyết . Majestic là một rạp chớp bóng mới mở, lớn nhất và sang nhất ở Hà Nội lúc bấy giờ .Phòng thật rộng có thể chứa được một nghìn khán giả . Một số dự thính khá đông Tây và Ðầm ngồi chật hết các dãy ghế đầu . Chỉ có vài người " An nam " nào đó, thuộc về hạng quan lại, ngồi với họ . Còn tất cả " An-nam-mít " trí thức lẫn học sinh, sinh viên, đều ngồi các dãy ghế sau .
Lúc bấy giờ chưa có máy vi âm ( microphone ) . Ông Abadie phải nói lớn, ông cố nói thật to nhưng vẫn khó nghe cho những người "An nam " ngồi xa .
Bắt đầu ông Cao Ðài Abadie thuyết trình về lịch sử và giáo lý đạo Cao Ðài dài hết nửa tiếng đồng hồ . Xong ông giới thiệu với thính giả một người Pháp, bạn đồng đạo của ông, tên là De Lagarde Chủ sự nha Bưu Ðiện Vientiane, Lào, hôm ấy có mặt ở Hà Nôị . Ông Abadie, kể chuyện về ông De Lagarde, như sau đây :
"Ông De Lagarde trước kia không theo đạo nào hết . Ông là một người " tin tưởng tự do " un libre penseur. Ông làm chủ sự sở Bưu Ðiện ở thủ đô xứ Lào đã mấy năm, và có vợ người Nam kỳ quê ở Cần Thơ . Một hôm chủ nhật, ông đi săn bắn trong rừng sâu, bị một bầy voi rừng đuổi, ông liệu bề không bắn được và không dám chống cự, bèn ù té chạy . Vì kinh hoảng, và sớn sác sao đó, ông bị vấp ngã vào một bụi gai cào chảy máu mặt mày . Do tai nạn bất thần đó, ông De Lagarde bị thương nặng nơi hai con mắt .
Về Vientiane, mấy vị bác sĩ chữa không khỏi . Ông bị đui luôn . Người vợ Nam kỳ của ông, đưa ông đi các nhà thương lớn ở Hà Nội và Saigon, được các bác sĩ danh tiếng săn sóc, nhưng bệnh không lành . Ông tốn hết biết bao nhiêu tiền bạc nhưng đành chịu tật mù . Ông lại phải nghĩ việc, chức vị của ông bị một người khác thay thế .
Bỗng dưng một hôm nghe lời mấy người bạn đàn bà khuyên bảo, bà vợ Nam kỳ của ông De Lagarde đưa ông đi Tây Ninh đến Toà Thánh Cao Ðài . Người ta đồn rằng nơi đây, nếu bệnh nhân thành tâm cầu cơ, sẽ có Tiên giáng bút về cho thuốc chữa bệnh gì cũng lành .
Trong lúc tuyệt vọng về y khoa tây phương, Ông Tây De Lagarde đành nghe theo lời người vợ An nam và thành tâm nguyện rằng nếu có vị Tiên hay vị Thánh nào giáng cơ bút chữa khỏi bệnh của ông, ông sẽ theo đạo Cao Ðài liền, và sẽ hy sinh suốt đời ông cho Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ .
Buổi cầu cơ được tổ chức tại Toà Thánh Tây Ninh, một đêm rằm . Vợ chồng ông De Lagarde đều thành tâm cầu nguyện và chính ông cũng theo đúng các nghi lễ cúng dường các Phật Thánh Tiên của Cao Ðài giáo . Ông phải ăn chay, giữ gìn thân thể và tâm hồn trong sạch suốt ba ngày đêm trước buổi cầu cơ . Thể rồi trong không khí trang nghiêm tỉnh mịch của đêm khuya trước điện Huyền Linh, ông De Lagarde ngồi vào dàn cơ, không nói tên tuổi, nhưng giáng bút cho ông một bài thơ bằng tiếng Việt trong đó chỉ bảo ông lấy một ít tro nhang hoà vào ly nước lạnh đang cúng trên Ðiện Thờ mà xoa vào đôi mắt . Xoa như thế thường xuyên ba ngày đêm, sẽ thấy lại ánh sáng . Ông Tây De Lagarde làm đúng như lời Tiên dặn . Ngày thứ nhất, ngày thứ hai, ngày thứ ba . Sáng ngày thứ tư, bà vợ Nam kỳ xoa cho ông giọt nước mầu nhiệm cuối cùng còn ở đáy ly . Bỗng tự nhiên cặp mắt của ông Tây dần dần hé mở …lim dim như người mới ngủ dậy …rồi mở hẳn . Ông De Lagarde mừng quýnh, đang nằm trên giường, liền ngồi vùng dậy reo cười lớn lên :
- Tôi đã tìm lại được nhãn quan của tôi rồi ! Tôi đã thấy lại được rồi !
Và thật thế, ông De Lagarde đã hết đui . Và ông đã trở thành một tín đồ Cao Ðài nhiệt thành nhất trong đám một triệu tín đồ của Tôn Giáo mới .
Ông Abadie nói xong đến đây rồi nói tiếp :
Thưa quý Bà, quý Ông, tôi xin mời ông De Lagarde lên đây để xác nhận câu chuyện tôi vừa kể .
Ông mỉm cười đưa bàn tay ngoắc một người trong đám cử tọa Pháp . Người này vui vẻ và hãnh diện, từ giã ghế ngồi tiên lên diễn đàn . Cả phòng đều im lặng, đăm đăm nhìn ông De Lagarde không cao lắm, mảnh khảnh, đôi mắt sáng, nhã nhặn chào khán giả với một nụ cười :
-Thưa quý Bà, quý Ông, tôi là De Lagarde, chủ sự của Bưu Ðiện Vientiane, tôi xin xác nhận câu chuyện của bạn tôi, ông Abadie, vừa nói là hoàn toàn đúng dự thật …
Cả phòng vỗ tay hoan hô ông . Ông nói tiếp :
- Vả lại trong đám cử tọa sang trọng này, có nhiều bạn thân của tôi, nhất là trong ngành Bưu Ðiện Ðông dương, đã biết tai nạn xẩy ra cho tôi trước đây 3 năm, và đã làm cho tôi phải nghỉ việt vì đôi mắt bị mù hoàn toàn . Bây giờ tôi được trở lại làm việc trong ngành Bưu Ðiện vì cặp mắt tôi hết mù nhờ ơn của vị Tiên Cao đài đã cứu chữa bằng một ít tro nhang hoa với nước thánh .
Tiếng vỗ tay lại nổi dậy vang cả phòng Majestic, và cuộc diễn thuyết chấm dứt . Tây Ðầm bu lại hỏi han ông De Lagarde, nhất là các mụ đầm có vẻ tin tưởng hơn ai hết thảy .
Sau đó, Tuấn thường gặp ông De Lagarde tại Thánh thất Cao đài Hà Nội, một căn nhà ngói ở một đường phố khu Chợ Hôm (gần Route de Hue) . Ông Abadie cũng thường đến đây hành lễ . Chỉ hai ông đó là tín đồ Pháp của đạo Cao Ðài mới bành trướng ở thủ đô Bắc kỳ không lâu .
Về trường hợp De Lagarde, Tuấn cho rằng đó là một hiện tượng đặc biệt hy hữu . Cũng như chính Tuấn đã chứng kiến những cuộc Cầu cơ nghiêm trang trong đó có một vị Tiên Ông xưng danh là Hư Không, hay Huyền Mặc Ðạo Nhân giáng cơ bút làm những bài thơ Ðường luật rất hay và ý nghĩa thâm trầm thanh thoát . Những chuyện Tiên Thánh, Phật, thỉnh thoảng xuất hiện trong cơ, bút báo trước một biến cố thời sự quan trọng, hoặc cho thuốc chữa bệnh, đều không phải là hoàn toàn bịa đặt . Nhưng trí óc phàm tục của chúng ta không thể nào giảng dạy được




No comments: