Nguyễn Vỹ
Tuấn Chàng Trai Nước Việt
CHƯƠNG 39
1938
- Lưu Trọng Lư và Võ Nguyên Giáp.
- Vợ Võ Nguyên Giáp.
- Ðặng Thái Mai và đứa con gái 9 tuổi.
- Vợ Võ Nguyên Giáp.
- Ðặng Thái Mai và đứa con gái 9 tuổi.
Cùng lứa tuổi trẻ hăng say hoạt động về văn nghệ và cách mạng, Tuấn tiếp tục thường xuyên hằng ngày với hầu hết các nhân vật của hai giới trên, các bạn đồng nghiệp, đồng chí ở Hà Nội . Xao động nhất là từ thời mặt trận bình dân Pháp ( 1936 - 1938 ) .
Trong một chương trước tôi đã nói khá nhiều về khoảng từ tháng 2 - 1936, Mặt trận Bình dân ( Front Populaire ) lên nắm chính quyền ở Paris và những ảnh hưởng trực tiếp ở An nam, đến tháng 7 - 1937. Võ Nguyên Giáp, sinh viên Cao Ðẳng Luật Khoa, Hà Nội, vừa thi đỗ chứng chỉ 2, cấp bằng cử nhân Luật, tháng 6 năm 1937.
Nhưng năm sau 1938, anh lại thi rớt bằng Luật Pháp hành chánh . Số đông sinh viên Luật Hà Nội thi đậu chứng chỉ Cử Nhân Luật liền học một năm về "Droit administrative
(Hành Chánh Luật ), thi đậu cấp bằng này được bổ ra làm Tri Huyện, theo Hành chánh Nam triều, hoặc "commis" làm tại Phủ Toàn Quyền hoặc các Toà Thống Sứ, Khâm Sứ, Thống Ðốc, nếu phục vụ cho chính quyền thuộc địa.
Võ Nguyên Giáp lúc bấy giờ có ước vọng làm commis, nhưng thi rớt nên bỏ học luôn, và tiếp tục làm giáo sư Sử Ðịa trường Trung Học Thăng Long . Ðây là một Trung học tư thục lớn ở một đường hẻm cạnh nhà thờ Tin Lành, và cách gác trọ của Võ Nguyên Giáp ở đường Henri d’ Orleans độ vài trăm bước .
Tuấn thường đến nơi gác trọ này, nói chuyện với Giáp và vợ Giáp, một cựu nữ sinh trường Ðồng Khánh, Huế, người mập, không đẹp, đôi mắt to . Giáp có một tủ sách gồm phần nhiều các sách cộng sản bằng Pháp văn, và cho Tuấn mượn lần lượt hết quyển này đến quyển khác : "De l’impérialisms " của Boukharine. "Manifeste de Parti communiste francaise" của Thorez . "Maladie infantile de communisme" của Lénine, v.v…
Từ đây,Tuấn bắt đầu làm quen với chủ nghĩa cộng sản đệ tam quốc tế, và được dịp học hỏi rất nhiều về chủ trương của cộng sản . Tuấn đọc gần hết tủ sách của Giáp, độ 100 quyển, và các báo và tạp chí cộng sản từ Paris gởi sang : " L' Humanité Cocur, Vaillant, Regards, Clarté, v.v…
Một hôm, Tuấn đem trả Giáp cuốn sách cuối cùng trong thư viện của anh . Vợ anh mời Tuấn ở lại ăn cơm trưa . Ðến lúc ăn chuối tráng miệng, Giáp hỏi Tuấn :
- Anh là người bạn đầu tiên đã chịu khó đọc hết các sách trong tủ sách của tôi, nói về chủ nghĩa cộng sản . Chắc nay anh đã hiểu rõ chủ nghĩa cộng sản …
- Vâng, và lần đầu tiên tính ham học hỏi của tôi được hoàn toàn thỏa mãn . Tôi đã tìm được nơi nhà anh chị đầy đủ sách cộng sản để nghiên cứu thật kỹ về chủ nghĩa ấy . Cám ơn anh chị nhiều lắm .
Giáp mỉm cười hỏi :
- Anh nghĩ sao về chủ nghĩa cộng sản theo như anh đã nghiên cứu, anh có thể cho tụi tui biết được không?
- Ðược chứ .Tôi nghĩ rằng chủ nghĩa cộng sản không thích hợp với dân tộc Việt Nam .
Trước kia chưa đọc các sách báo ấy, tôi còn nhiều thắc mắc, nhưng vẫn có chút ít tình cảm với học thuyết Mác - Lê, vì anh chị cũng biết là tôi thuộc về thành phần vô sản . Nhưng từ khi đã đọc và nghiên cứu kỹ các sách về cộng sản chủ nghĩa thì tôi thất vọng hoàn toàn. Tôi có ý thức rõ rệt rằng chủ nghĩa cộng sản, nếu áp dụng ở Việt Nam, chắc chắn sẽ làm sụp đỗ hết các nền tảng luân lý gia đình, xã hội, quốc gia của dân tộc VN, cho đến cá nhân của con người cũng sẽ không còn nữa .
Giáp tủm tỉm cười, không nói gì, nhưng chị Giáp hỏi :
- Anh có nhận thấy xã hội tư bản đầy rẫy bất công không đã ?
- Thấy rõ lắm chứ, chị . Nhưng muốn san bằng những bất công đó, và tạo ra một xã hội tự do, công bằng, nhân đạo, một thế giới đại đồng, phải một cuộc cách mạng khác cơ, chứ không thể là cuộc cách mạng vô sản được . Cuộc cách mạng vô sản, theo chủ trương của Mác Lê, chỉ đập đổ một bất công để tạo ra một bất công khác, đập đổ một đế quốc để tạo ra một đế quốc khác . Và sau cùng, là phá bỏ xiềng xích nô lệ này để cột vào xiềng xích nô lệ khác . Như thế đâu phải là cách mạng ?
Võ Nguyên Giáp bảo :
- Chính cái révolution prolétarienne ( cách mạng vô sản ) tạo ra một giai cấp bình đẳng cho tất cả mọi từng lớp, một thế giới đại đồng cho tất cả nhân loại, trong đó, như anh đã đọc trong quyển Le Capital của Karl Marx và La Dictateur du Prolétariat của Lénine, chế độ đế quốc tư bản bị đập đổ bỡi những mâu thuẩn nội bộ của nó, và cách mạng thợ thuyền sẽ thắng lợi .
Tuấn hỏi lại :
- Lénine không căn cứ vào sự kiện thực tế của con người để xác định rằng chế độ tư bản sẽ tự nó xụp đổ vì những mâu thuẩn nội bộ của nó, và cách mạng vô sản sẽ thắng lợi . Giả sử cách mạng vô sản sẽ thắng lợi thì xã hội của con người sẽ ra sao ? Huống chi, suốt thời Lénine nắm quyền, cuộc cách mạng Lénine làm nổ bùng lên ở Nga, vẫn đi từ thất bại này đến thất bại khác, đâu có thắng lợi ?
Chứng cớ là Lénine đã phải áp dụng tân chính sách kinh tế N.E.P, sau trận đói 1921, trận nội chiến do nông dân dấy lên và cuộc nổi loạn của hải quân Kronchtadt, tháng 3 năm 1921. Lénine chán nản, đã bỏ hoạt động cách mạng từ năm 1922, đến năm 1924 Lénine chết mà không loé lên một tia hy vọng thắng lợi nào của chủ nghĩa cộng sản . Ðến khi Staline lên cầm quyền, phải dùng đến khủng bố, tù đày, đàn áp giết chóc hàng triệu người mới duy trì được chế độ gọi là "vô sản ". Như vậy thì cuộc cách mạng "bôn sơ vích "đã thực hiện ở Nga đến nay đã gần một phần tư thế kỷ rồi, vẫn chưa thắng lợi . Nó chỉ được kéo dài nhờ chính sách sắt máu của Staline mà thôi, và chính nó đã bị chia rẽ trầm trọng bằng sự thành lập Ðệ Tứ Quốc Tế của Trotsky.
Võ Nguyên Giáp, hai tai đỏ bừng, nhưng nét mặt bình tỉnh, ngắt lời Tuấn :
- Trong quyển L’ État et la Révolution, Lénine đã nói rõ rằng chính phủ vô sản cần phải giết hết giai cấp tư sản để đi đến thắng lợi, nhưng đó chỉ là một chính sách giai đoạn, vì Lénine chủ trương thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa Mác-Lê là thế giới cộng sản sẽ không còn giai cấp, cũng không còn quốc gia ( ni classe, ni état ) . Còn Trotsky, thì anh xem các sách cũng đã biết rõ, hắn chỉ là một kẻ phản bội un rénégat, một loại Kautsky, Kerinsky.
Vợ Giáp cười :
- Anh Tuấn, anh là thi sĩ, anh chỉ có thể là một thi sĩ thôi .
Võ Nguyên Giáp cũng cười :
- Anh chàng mơ mộng bất trị ! Nếu tôi nắm chính quyền, tôi sẽ bắn anh chết, rồi sẽ dựng cho anh một cái tượng như người Hy Lạp thời Thượng cổ .
Tuấn cười :
- Rất tiếc, tôi không được là một đệ tử của Homère ( Homère, thi sĩ Hy Lạp, thế kỷ IX trước J.C ), nhưng tôi cũng không phải là đệ tử của Platon ( Platon, một triết gia Hy Lạp 428 - 342 trước J.C . Trong quyển La République, Platon có một chủ trương biện chứng pháp tư tưởng ) .
Chị Giáp thường ở nhà, ít đi đâu với chồng . Võ Nguyên Giáp thường đi chung với Ðặng Thái Mai, cặp này là đôi bạn thân, vừa là đôi bạn đồng chí, đã kết nghĩa "huynh đệ ", coi như hai anh em ruột . Ðặng Thái Mai, giáo sư, cũng dạy trường Thăng Long, có một đứa con gái lúc bấy giờ 8 tuổi, chỉ ham đọc tiểu thuyết kiếm hiệp, loại tiểu thuyết 32 trang, không có bìa bán 3 xu, dịch các truyện kiếm hiệp Tàu, đại khái như "Bạch Y thần nữ ", "Người Nhạn Trắng ". "Nga Mi hiệp sĩ ", v.v…Mỗi tuần ra một xấp kế tiếp cho đến khi trọn bộ .
Dân chúng thường gọi là "tiểu thuyết ba xu" với ngụ ý chê là loại tiểu thuyết rẻ tiền, không có giá trị văn chương, và giới trí thức không đọc .
Một buổi chiều, Tuấn đang đi lang thang phố Hàng Cót, gặp Võ Nguyên Giáp và Ðặng Thái Mai từ trên đi xuống . Mai nắm tay đứa con gái 8 tuổi . Bắt tay xong, Giáp hỏi :
- Chàng mơ mộng đi đâu đây ?
Tuấn cười :
- Ðến thằng bạn ở Hàng Than, mượn vài đồng bạc .
Giáp nhoẻn một nụ cười chế nhạo, khá dể thương :
- Thi sĩ mà cũng cần đến tiền bạc à ?
- Nếu không mượn được tiền, tối nay phải nhịn đói .
Giáp và Mai cười xòa, Mai bảo :
- Ðói thì đói, mặc kệ, đừng thèm đi mượn tiền . Tụi tôi cũng đang đói đây, nay mới 28 tây, mà túi đã hết sạch tiền rồi, đi chơi cho hết đói .
Võ Nguyên Giáp nắm tay Tuấn :
- Ði chơi với tụi tôi, hết đói .
Tuấn đưa tay lên gãi sau ót vài cái, rồi cũng đi chơi với hai chàng kia, quên luôn vụ đi mượn tiền . Ðến trước hiệu sách Thu Tâm gần trường Nữ tiểu học Brieux, hiệu trưởng trường này là bà Trịnh Thục Oanh, nổi tiếng Hà thành là một "nữ lưu tân tiến" nhất, tình nhân của viên Thống Sứ Yves Châtel, và lại là vợ của một luật sư họ Bùi. Bà này đã sang Paris sửa lại lổ mũi cao cho giống mũi Ðầm, tốn hết 2000 đồng, theo thời giá năm 1937. Nhưng ở Pháp về, mũi của bà chỉ cao thêm một vài millimètres, chứ không thể nào giống mũi của nữ thần Vénus được .
Tuấn và cặp "anh em"Giáp, Mai đang bàn về chuyện bà Trịnh Thục Oanh thì đứa con gái của Ðặng thái Mai đòi cha cho nó vào tiệm sách Thu Tâm mua mấy xấp "tiểu thuyết ba xu ", Mai bảo nó :
- Ðầu tháng hãy mua, com . Hôm nay cậu hết tiền rồi .
- Cậu vào mua chịu cho con .
- Họ có bán chịu không ?
- Có .
Ðặng Thái Mai dắt con gái vào nói cô chủ tiệm bán cho nó mấy xấp "Bạch y thần nữ "v.v…tiếp theo . Tuấn hơi ngạc nhiên, hỏi Ðặng Thái Mai :
- Cháu còn nhỏ quá, mà anh cho cháu đọc loại chuyện kiếm hiệp à ?
Mai gãi đầu, với một nụ cười triết lý :
- Cứ cho nó đọc, để sau này lớn lên nó sẽ làm một "thiếu lâm hiệp nữ "chứ sao !
Võ Nguyên Giáp nói thêm vào :
- Triệu Ẩu cũng là một tay kiếm hiệp đại tài thuở xưa .
Dĩ nhiên, con gái của Ðặng Thái Mai gọi vợ chồng Võ Nguyên Giáp bằng "bác ", bác trai bác gái, và được chị Giáp cho kẹo bánh hoài mỗi lần cháu bé được cha dắt đến nhà bác Giáp .
Sau khi Ðại Chiến Âu châu bùng nổ, chị Giáp bị chính phủ thuộc địa ở Hà Nội bắt giam vào "nhà pha hỏa lò", bị đánh đập dã man, rồi chết trong ngục, năm 1944 . Năm 1946, Võ Nguyên Giáp, tổng tư lệnh quân đội Việt Minh, lúc bấy giờ 35 tuổi, lấy con gái Ðặng Thái Mai làm vợ . Nó mới 16 tuổi . Người bạn kết nghĩa của Giáp trở thành cha vợ của Giáp .
Tuấn nhớ lại một buổi chiều chủ nhật từ làng Bưởi đi tàu điện về Hà Nội, qua khỏi các lò giấy bản độ một khoảng thì Tuấn trông thấy Lưu Trọng Lư, Võ Nguyên Giáp, vợ Võ Nguyên Giáp, ( người vợ trước ), Ðặng Thái Mai và đứa con gái 8 tuổi của anh này, cùng đi trên đường nhựa hướng về Hà Nội . Ba người bạn đàn ông đi trước, chị Giáp đi sau, thân mật nắm tay con gái anh Mai, như hai mẹ con.
Tàu điện vừa ngừng gần cổng Trường Bảo Hộ ( Lycée du Protectorat ) thì đám này cũng vừa đến gần đấy, Lưu Trọng Lư đưa tay ngoắc Tuấn, gọi Tuấn xuống . Võ Nguyên Giáp và Ðặng Thái Mai cũng nở một nụ cười đồng ý muốn Tuấn xuống nhập bọn với đám này để đi bộ một quãng đường cho vui . Vả lại, từ đây về Hà Nội cũng không bao xa gì. Ðã bắt đầu đến đường Quan Thánh ( route de Grand Bouddha ) và bên trái đã thấy ló dạng mặt nước Hồ Tây gợn sóng, và gió chiều phảng phất hương sen .
Trong đám 6 người này, 3 người là cộng sản chính cống, Giáp và Mai là hai lãnh tụ, vợ Giáp là một cán bộ cao cấp . Tuấn thì triệt để trung thành với lý tưởng thuần tuý quốc gia, chống phát xít và không đảng phái . Lư thì đã có khuynh hướng thân Nhật, tin tưởng nơi Cường Ðể và Nhật hoàng sẽ giải phóng cho xứ sở "An nam ", còn con bé 8 tuổi của anh Mai thì chỉ mê kiếm hiệp và thích võ thiếu lâm …Tuy nhóm này mang nặng trong đầu óc những sắc thái chính trị khác nhau, cách biệt nhau nhiều, nhưng cuộc đi bộ chiều chủ nhật vẫn vui vẻ, êm đẹp và có chiều thân mật nhau nữa .
Tự nhiên, Lưu Trọng Lư quay lại hỏi "cô bé kiếm hiệp "(các bạn của Ðặng Thái Mai vẫn gọi đùa con gái của anh như thế ) :
- Sau này mi dùng võ Thiếu Lâm để đánh Tây, đánh Nhật hay đánh Nga ? Mi trả lời hay thì tao thưởng cho mi một đồng bạc .
Con bé đáp liền :
- Con đánh cả Tây, cả Nhật, cả Nga .
Tất cả đều cười rồ lên . Chị Giáp cười nhiều hơn hết, Tuấn bảo :
- Con nhỏ trả lời câu đó được lắm à ! Mi đồng chí với tao rồi đấy .
Nhưng Lưu Trọng Lư gạn hỏi nó :
- Sao mi đánh Nhật ?
Nó cười, không trả lời .
Võ Nguyên Giáp hỏi nó :
- Con đánh Nga nữa, hả con ?
Con bé cũng cười . Nghĩ ngợi một phút, nó trả lời :
- Hễ nước nào đánh nước An nam, con sẽ đánh nước đó .
Tuấn khoái, reo lên :
- Bravo, cô bé kiếm hiệp !
Vợ Võ Nguyên Giáp nói đỡ một câu trả lời Tuấn :
- Nó sẽ là một nữ chiến sĩ cộng sản, anh sẽ bravo nó nhiều hơn .
Lưu Trọng Lư ngắt lời :
- Cộng sản chi con này .
Ðặng Thái Mai bảo :
Anh đừng tưởng . Nó sùng bái Staline lắm đây . Bác Võ Nguyên Giáp của cháu nói cháu sẽ là Rosa Luxemburg thứ hai (Rosa Luxemburg, nữ chiến sĩ cộng sản Ðức, rất nổi danh trong cuộc cách mạng tháng 10 . Chết tại Berlin năm 1919 ) .
Tuấn cười :
- Rosa Luxemburg sao lại đòi đánh Nga ?
Con bé ngây thơ hỏi cha :
- Cậu ơi cậu, Rosa Luxemburg có giỏi võ thiếu lâm không cậu ?
Võ Nguyên Giáp trả lời :
- Một chiến sĩ cộng sản không cần phải giỏi võ thiếu lâm, cháu ạ .
Lưu Trọng Lư cho rằng nhét vào đầu óc đứa bé 8 tuổi những danh từ bao quát khó khăn như thế chẳng ích gì . Anh chàng chỉ muốn nói chuyện bông đùa cho vui :
- Mi đòi đánh cả Nhật hoàng Hiro-Hito, thì mi láo thật .
Con bé cười :
- Bác hứa bác thưởng cho con một đồng bạc cơ mà ?
- Nhưng mi trả lời như rứa, tao không thưởng một cắc, một xu .
- Bác không thưởng thì thôi .
- Mi dám hứa với tao là mi đừng đánh Nhật Hoàng, thì tao thưởng .
Con bé cười, suy nghĩ một chốc rồi trả lời Lưu Trọng Lư :
- Thế thì bác có dám hứa với con là Nhật bổn không đánh nước An nam không ?
Lư cười ngặt nghẽo rồi bảo :
- Cái cô bé kiếm hiệp này rõ thật là rắc rối, à…rắc rối nhỉ …
Nó trả đũa liền :
- Tại bác rắc rối đấy chứ .
Tuấn rất chịu những câu trả lời đanh thép của con bé .
Chàng đưa tay xoa đầu nó, và ngó Võ Nguyên Giáp, chàng bảo :
- Con nhỏ này sau có thể là Trưng Trắc, Triệu Ẩu, chứ không thể là Rosa Luxemburg đâu, anh ơi!
Giáp chỉ mỉm cười, Giáp có một lối cười trầm ngâm, bí mật, cũng dễ thương .
...................................................
Lưu Trọng Lư ơi, còn nhớ buổi chiều chủ nhật ấy không?
Nguyễn Vỹ
Tuấn Chàng Trai Nước Việt
CHƯƠNG 40
1937-38-39
- Tình hình chính trị tổng quát.
- Các đảng phái cách mạng hoạt động trong bóng tối.
- Ðặng Xuân Khu nhảy vô Hội Truyền Bá Quốc Ngữ của ông Nguyễn Văn Tố, Võ Nguyên. Giáp, Ðào Duy Anh.
- Phật giáo.
- Các đảng phái cách mạng hoạt động trong bóng tối.
- Ðặng Xuân Khu nhảy vô Hội Truyền Bá Quốc Ngữ của ông Nguyễn Văn Tố, Võ Nguyên. Giáp, Ðào Duy Anh.
- Phật giáo.
Tình hình chính trị, xã hội, văn hóa, kinh tế của Việt Nam từ 1937 đến 1939, hình như ứ đọng lại . Sau cuộc sụp đổ của chính phủ Léon Blum (đảng S.F.I.O), Mặt trận Bình dân Pháp hoàn toàn tan vỡ . Các nhà cai trị cao cấp Ðông dương, do Mặt trận Bình dân Pháp đặt để, cũng dần dần trở cờ một cách nhẹ nhàng, êm thấm, không có gì xáo trộn lắm .
Nhưng người ta có cảm tưởng là ở trời Âu không khí ngột ngạt như sắp sửa có một trận giông tố trầm trọng sắp nổ bùng . Ở Việt Nam vẫn nhìn thấy thỉnh thoảng những làn chớp ngoằn ngoèo xẹt ra nơi chân trời mờ mịt mây đen …
Tình hình châu Âu bắt đầu căng thẳng vì chính sách quyết liệt của Hitler, tân quốc trưởng Ðức, lãnh tụ đảng Quốc xã ( Nazi ) . Dồn dập ba biến cố lớn làm rung động thế giới : Mặt trận Bình dân Pháp sụp đổ, quân đội Hitler chiếm đóng hạ Rhénanie, bất chấp hoà ước Versailles và mặt trận Antikomintern ra đời ( chống cộng sản đệ tam thế giới và Staline ), do Hitler chủ xướng, Mussoloni phụ hoạ (độc tài phát xít Ý ) và Nhật bổn hùa theo .
Trái lại, tình hình chính trị ở Việt Nam dần dần lắng dịu trong không khí ngột ngạt . Ðảng cộng sản Ðông dương rút vào trong bóng tối, hoạt động bí mật, hoàn toàn trở lại vị trí của một hội kín, bị mật thám Pháp dòm ngó hăm doạ .
Ở Hà Nội, nhóm Ðệ Tứ rất thiểu số của Huỳnh Văn Phương không còn tỏ dấu hiệu sinh tồn nữa . Phương biến đi đâu mất . Nhiều anh em cho rằng Trương Tửu là Ðệ Tứ, nhóm báo " Tiến Bộ " của Nguyễn Uyễn Diễm cũng là Ðệ Tứ . Nhưng Tuấn biết rõ các nhóm lẽ tẻ này, chỉ có cảm tình với Ðệ Tứ ghét Ðệ Tam, nhưng có tư tưởng xã hội lờ mờ, chưa dứt khoát . Cho nên họ sống riêng rẻ, không liên kết với nhau . Trương Tửu cho bọn
"Tiến Bộ " của Uyễn Diễm là " hủ nho " vì bọn này học chủ nghĩa cộng sản qua các sách Tàu và hiểu biết thô sơ, tạp nhạp về lý thuyết mà thôi . Bùi Ngọc Ái thì quốc gia " Ultra " rất ghét Ðệ Tam .
Trương Tửu ở trong thời kỳ ham mê nghiên cứu, thích làm nhà " học giả " hơn là nhà cách mạng chính trị . Anh ta đọc Karl Marx, Lénine cũng hào hứng như đọc Nietzsche, Freud, Bergson và Nguyễn Du .
Các đảng chính trị khác như Việt Nam Quốc Dân Ðảng ở Hà Nội, Việt Nam Phục Quốc hội ở Saigon, Tân Việt đảng ở Huế, không rục rịch từ lâu . Tất cả đều âm thầm ngay thời Mặt trận Bình dân. Ðảng viên hầu hết là trí thức tiêủ tư sản, đa số ở trong giới giáo học, trợ giáo, công chức văn nghệ, như Ðào Duy Anh ( Huế ), Lan Khai ( Hà Nội ), Nguyễn Văn Sâm ( Saigon ) v.v… Tinh thần cách mạng của quảng đại quần chúng hãy còn rụt rè, yếu ớt .
Ảnh hưởng thực dân Pháp còn sâu đậm trong dân chúng .
Học sinh Nam Trung Bắc cũng như sinh viên Cao đẳng Hà Nội tiếp tục chăm lo học hành, không tham gia chính trị nữa . Thời kỳ bãi khóa để kêu gọi ân xá cụ Phan Bôị Châu đã qua lâu rồi "Ông Già Bến Ngự " nằm trong chiếc thuyền nan lơ lửng trên sông Hương, khóc mây, khóc gió . Nghèo hết người giúp đỡ, cụ với tên đầy tớ tên là Lãng, chèo ghe đi Cửa Thuận An, mỗi tháng mấy lần buôn gạo về bán ở ngay cái chòi lá nơi góc vườn nhà cụ, bên hông chùa Từ Ðàm .
Tuấn từ Hà Nội đi Saigon có ghé Huế vào đây thăm cụ . Hàng xóm đến mua gạo của cụ, kẻ một lon người hai lon, toàn là dân nghèo . Cụ kiếm lời mỗi lon một, hai xu .
Thỉnh thoảng cụ có làm một vài bài thơ khí khái, viết một vài câu chuyện đạo đức, như
"Dây và Dao " đăng trong báo Tiếng Dân . Cụ Huỳnh Thúc Kháng tặng cụ chút tiền nhuận bút đủ cho cụ hút thuốc lào .
Một cuộc ẩu đả xuýt xẩy ra tại tòa soạn báo Tương Lai của Nguyễn Trọng Luật, phố Hàng Da, một buổi chiêù thứ Bảy . Nhà văn Lan Khai đi với Tuấn đến chơi tại toà báo này, gặp một người bạn của Chất, là Kính, đang ngồi hút thuốt lào với Nguyễn Triệu Luật . Kính cũng là cộng sản và thường đi đôi với Chất . Câu chuyện chính trị quốc tế một lúc chuyển về chính trị Việt Nam . Thừa dịp, Lan Khai rất điềm nhiên bảo Kính :
- Các cậu đ… phải là dân Annam !
Kính nổi quạu :
- Dân An nam thì nước mẹ gì ?
Nghe câu đó, Tuấn nổi nóng lên, nhưng làm thinh . Lan Khai nói tiếp :
- Thế là cậu chửi Nước Mẹ của cậu rồi đấy ! Cậu là dân vô tổ quốc rồi còn chó gì .
Kính tự biết mình hớ, nhưng vẫn ngoan cố, đả kích chủ nghĩa quốc gia, đề cao cộng sản và Staline . Câu chuyện dần dần đến Phan Bội Châu, Tuấn bảo :
- Thằng nào viết bài phỉ báng cụ Phan Bội Châu thằng đó tôi mà gặp nó, tôi đánh nó bể mặt .
Kính cười gằn, khiêu khích :
- Thằng này viết đây, thưa anh ạ .
Tuấn không thèm trả lời, vớ ngay điếu thuốc lào ở trên bàn (điếu cày, bằng tre ) ném vào mặt Kính . Kính né sang một bên, chiếc điếu cày bay đụng vào thành ghế, dội lại Kính, làm đổ cả điếu vào áo chàng.
Kính đứng dậy, nhảy chồm vào Tuấn, định đánh Tuấn . Nguyễn Triệu Luật vội vàng ôm chầm lấy Kính trong lúc Lan Khai làm bia đỡ Tuấn . Cuộc xô xát trầm trọng khỏi xẩy ra, nhưng hai bên còn đang hung hăng .
Vũ Trọng Phụng từ ngoài cửa bước vào, điềm nhiên :
- Ðứa nào có tiền, cho tao 3 xu trả tiền xe ?
Nguyễn Triệu Luật nắm hai vai áo Kính, dằn mạnh y ngồi xuống ghế :
- Mày ngồi yên, nhúc nhích tao đánh bỏ xừ .
Luật móc trong túi áo ra 3 xu đưa Phụng để trả anh phu xe kéo .
Lan Khai đột ngột cười rộ lên một tiếng, và buông Tuấn ra, thuật chuyện lại cho Vũ Trọng Phụng nghe . Phụng bảo Kính :
- Các cậu muốn phê bình cụ Phan Bội Châu về lý thuyết chính trị, thì cứ phê bình . Nhưng các cậu mạt sát cụ, gọi cụ là " Phản Bội " Châu, thì quá lắm . Tuấn nó cáu sườn về bài đó đã một tuần nay chứ không phải mới hôm nay đâu . Thôi, Luật, toa lấy cái ống điếu khác cho mỗi thằng hút một điếu, huề cả làng !
Ðặng Xuân Khu nhẩy vô Hội " Truyền Bá Quốc Ngữ " mà hôị trưởng là ông Nguyễn Văn Tố, nhà học giả thuần tuý Việt Nam, luôn luôn mặc áo dài trắng, chít khăn đen, che dù . Ðặng Xuân Khu hoạt động mạnh trong khu vực Hà Nội, với tư cách giáo viên .
Tuổi 30, thấp như Trương Tửu, khuôn mặt na ná giống Võ Nguyên Giáp nhất là lúc anh cười . Khu chưa đổ bằng Thành Chung . Giáp tiếp tục dạy trường Thăng Long với Ðặng Thái Mai, Hoàng Minh Giám . Trần Huy Liệu viết báo lăng nhăng kiếm tiền nuôi cả một gia đình đông đúc, nghèo " sát ván "ở phố Hàng Than, gồm một bà vợ " nhà quê " buôn thúng bán mẹt ở chợ Ðồng Xuân, và một bầy con 7,8 đứa, mũi dãi lòng thòng, áo quần rách rưới . Thường gặp Tuấn, Liệu than phiền tình cảnh gia đìnbh của anh, mà "đảng " chả giúp được gì cả.
Các đảng quốc gia vẫn chìm trong bóng tối hoàn toàn . Nhược điểm của các phái Cách Mạng Quốc Gia là không có hậu thuẫn của quảng đại quần chúng . Một phần lớn thợ thuyền, bình dân lao công các giới, hoặc đã nghe theo lời tuyên truyền của cộng sản, làm đảng viên, hoặc cảm tình viên . Ða số thợ thuyền thích an phận thủ thường, không tham gia phong trào . Các đảng cách mạng quốc gia chỉ tìm đồng chí trong các giới trí thức tiểu tư sản, hoặc công tư chức trung lưu, nhưng rất ít . Và các giới này nhút nhát, sợ liên lụy, tù tội . Cuộc khởi nghĩa thất bại của Nguyễn Thái Học năm 1929-1930, và cuộc xử tử 13 đồng chí VNQDÐ ở Yên Bái có ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần nhút nhát, cầu an của các lớp thượng lưu và trung lưu Bắc Trung Nam.
Sinh viên Cao đẳng Ðông dương thì không thành vấn đề . Lớp kế tiếp bây giờ hoàn toàn thụ động, chỉ lo cầu danh, đua nhau học thi, để ra làm " Tham Tá ", " Y sĩ Ðông dương ", "Ðốc học ", Tri huyện, v.v…để phục vụ Bảo hộ và Nam triều . Trừ một vài phần tử cách mạng thận trọng hoạt động ngoài phạm vi học đường, còn thì toàn thể xã hội trí thức, cũng như bình dân đều thích sống an bài, thụ hưởng, ân huệ của sự hiện diện của người Pháp ở Ðông Dương mà đại đa số còn theo nịnh bợ .
Tình hình tổng quát của báo chí và văn nghệ cũng trầm lặng, nhưng vẫn theo dõi sát những biến chuyển khá sôi động ở Tây Âu . Một số người Pháp có tinh thần chống thực dân Pháp, và đả tỏ ra thân An nam một cách khí khái đáng khen, bây giờ cũng chấm dứt, hoặc giảm bớt những hành động báo chí của họ .
Amédée Clémenti, chủ nhiệm L’Argus Indochinois, một tờ báo hoàn toàn chống thực dân Pháp, đã đình bản tờ báo của ông . Sau khi thất bại việc đi tìm mỏ vàng ở Savannakhet với nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh, chủ báo L‘Annam nouveu và ông Vĩnh chết trong cuộc phiêu lưu mạo hiểm này, Clémenti thất vọng trở về Thái Bình sống nơi quê vợ, với người vợ "An nam " của ông, một nữ giáo sư rất giỏi tiếng Pháp và cũng là một cộng sự viên rất đắc lực của ông .
Thỉnh thoảng Tuấn gặp Clémenti ở Hà Nội, người thấp, gầy, nghiện thuốc phiện, nhưng cặp mắt sáng quắt với nụ cười luôn luôn mĩa mai . Một hôm, thấy ông lết bộ trước chợ Hàng Da, Tuấn chưa kịp chào, ông đã nhanh bước đến bắt tay Tuấn :
- Ủa, anh ở nhà pha ra bao giờ ?
- Ra lâu rồi .
- Coi chừng, sẽ trở vào nhà pha nữa nhé .
Tuấn nhún vai :
- Bất cần, còn anh ? Dạo này con chim L ‘Argus không hồi sinh từ đống tro tàn của nó nữa à ? ( theo thần thoại Tây phương, L’ Argus là con chim Minh trĩ, bị đốt chết thành tro vẫn tái hiện từ đống tro ấy và sống lại )
Với một khoát tay thất vọng, ông bảo :
- Ðể nó chết yên tỉnh . Nó sống đã khá nhiều rồi .
- Bây giờ anh ở đâu ?
- Tôi cày ruộng ở quê vợ tôi .
Tuấn cười :
- Ðược mùa không ?
- Lúa nhiều, nhưng thuế cũng nhiều . Còn anh, sống được chứ ?
- Luôn luôn không có xu dính túi .
- Sao anh không về quê tạm một thời gian ?
- Tôi còn trẻ, còn thích sống phiêu lưu .
Clémenti tóc đã bạc, gần 50 tuổi, vỗ vai Tuấn và mĩm cười :
- Thôi chào anh, thi sĩ ! Anh cứ đi con đường của anh . ( Allez, adieu, poète ! Faites votre chemin ! )
Tuấn nhớ mãi câu vĩnh biệt và nụ cười chán đời của ông Tây già . Từ hôm đó, Tuấn không gặp ông Cựu chủ nhiệm báo L’ Argus Indochinois nữa . Sau Tuấn nghe nói ông bị giết ở Thái Bình, năm 1945, với người vợ của ông . Ðược tin, Tuấn buồn ghê . Tuấn phẫn uất không hiểu vì sao Amédée Clémenti bị giết ? Tuy là người Pháp, nhưng suốt một đời làm báo của ông, ông đã hy sinh tất cả để chống chánh sách đế quốc thực dân Pháp, chống áp chế, nô lệ, bất công, triệt để bênh vực các cuộc vận động độc lập của người Việt nam cách mạng . Yêu Nước, Việt Nam là quê hương của vợ ông, ông là người bênh vực hăng hái nhất và can đảm nhất cho Nguyễn Thái Học, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Nguyễn Ái Quốc .
Một tờ báo khác, nguyệt san, tập Revue Franco - Annamite ( Pháp Việt tạp chí ) của ông Ernest Babut cũng đình bản . Ông này là người đảng Xã Hội S.F.I.O. Pháp , đồng chí với Marius Moutet, Léon Blum, v.v… nhưng ông vừa chống thực dân Pháp vừa lãnh tiền trợ cấp hàng tháng của Phủ Toàn Quyền ( chính phủ thuộc địa của thực dân ) .
Ông đã gây được thiện cảm một phần nào của các giới cách mạng Việt Nam, nhưng họ vẫn dè dặt đối với ông . Các nhà ái quốc cách mạng chân chính đều biết rằng từ Léon Blum, Moutet, đến Babut, đảng Xã hôị Pháp vẫn luôn luôn đi hàng hai, vừa bắt tay Cộng sản vừa bắt tay Tư bản, vừa ủng hộ đế quốc thực dân vừa ủng hộ dân chúng thuộc địa .
Chính sách điển hình của Ðảng Xã hội Pháp được chứng minh rõ rệt nhất khi Hồ Chí Minh nắm chính quyền ở Hà Nội và Marius Moutet làm Tổng trưởng Pháp quốc Hải ngoại ( thuộc địa ) ở Paris - Một mặt Moutet ký tạm ước Modus-Vivendi cho Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp . Pháp vẫn còn bám lấy Liên Hiệp Pháp cho kỳ được, theo diễn văn Brazzaville của De Gaulle tháng 3-1945. Một mặt chủ trương đánh Hồ Chí Minh và chiếm lại Hà Nội ( 19-12-1946 ) .
Ông già Ernest Babut thường nói với Tuấn, và Tuấn không bao giờ quên được câu này :
- Nước An nam là một nước nhỏ và yếu, lại có hai người láng giềng to và mạnh : Trung Hoa và Nhật Bổn. Vậy giữa Trung Hoa và Pháp, các anh hãy chọn người Pháp . Nếu người An nam đuổi người Pháp ra khỏi xứ này, thì hai mươi bốn giờ sau, làn sóng Tàu, hay là làn sóng Nhật, sẽ tràn ngập An nam, và các anh sẽ bị chết chìm hết rồi .
Ðó là lời của một đảng viên có uy tín nhất của đảng Xã Hội Pháp ở Ðông Dương . Tuấn hỏi lại ông Babut :
- Nếu vậy thì theo ông, không bao giờ nước An nam được độc lập ?
Ông Babut gật đầu hai ba cái :
- Si si …Có chứ, có chứ, nhưng có là khi nào nước An nam sẽ có đủ điều kiện độc lập với sự giúp đỡ của Pháp . Vì các anh hãy coi chừng, kẻo các anh sẽ làm mồi hoặc là cho phát xít Nhật, Tàu, hoặc cho cộng sản Nga .
Tuấn không công khai phản đối ông Babut, nhưng trong thâm tâm cho là đó là chủ trương của thực dân. Tại tòa báo Franco Annamite, Tuấn cũng thường tiếp xúc với Vũ Ngọc Phan . Vũ Ngọc Phan là rể của ông Sở Cuồng Lê Dư . Ông này lùn và mập, sói đầu, quê ở Quảng Nam . Thời phong trào Ðông du, ông có sang Nhật bản theo cụ Phan Bôị Châu làm cách mạng . Nhưng ông lén trở về Hà Nôị đầu hàng Pháp, và được phủ Toàn Quyền Pháp cho giúp việc trong viện Viễn Ðông Bác Cổ ( Ecole Francaise d’ Extreme- Orient ) .
Vũ Ngọc Phan, đỗ tú tài xong, người ốm yếu, mảnh khảnh, được ông bố vợ Lê Dư giới thiêụ vào làm thư ký toà soạn Pháp - Việt tạp chí . Ông Babut giao cho Vũ Ngọc Phan phụ trách trang Việt ngữ .
Vũ ngọc Phan không thích chính trị, và tuyệt nhiên không có tham gia một phong trào cách mạng nào cả . Anh chuyên môn dịch một vài tác phẩm ngoại ngữ : Anna Karénine, Manon Lescaut, v.v… Anh cũng viết mục " phê bình " văn học, do nơi đây mà Tuấn quen biết Vũ Ngọc Phan . Anh có người vợ khá đẹp, con gái ông Lê Dư, thỉnh thoảng làm vài bài thơ cổ điển nhưng ít đăng báo . Có lần Tuấn hỏi :
- Sao chị không xuất bản tạp thơ của chị ?
Chị trả lời với một nụ cười hồn nhiên :
- Tôi làm thơ amateur ( thơ lối tài tử ) chơi cho vui, chớ đâu phải thi sĩ như các anh .
Thơ chị giống như món nữ trang của chị, óng ánh, duyên dáng, dễ thương, độ năm ba bài chớ không nhiều .
Vũ Ngọc Phan có người em trai, Vũ Minh Thiều, di cư vào Saigon năm 1954. Vũ Minh Thiều cũng mảnh khảnh, có gương mặt na ná giống Vũ Ngọc Phan, và cũng như Phan, Thiều sở trường về dịch sách và truyện ngoại quốc bằng Pháp văn .
Tháng 12 năm 1947, Tuấn rất ngạc nhiên gặp ông Ernest Babut tại Ðà Lạt, ông đã 80 tuổi . Ông kể lại tỉ mỉ cho Tuấn nghe ông ở với ông Hồ Chí Minh tại phủ Chủ tịch ( Phủ Thống Sứ cũ ) năm 1946, và bị lính của Sainteny bắt ông như thế nào lúc ông trốn dưới hầm … Ông thuật lại cho Tuấn nghe :
- Hôm 19-12-1946, quân lính của Sainteny kéo tới chiếm phủ Chủ tịch Hà Nôị, nhưng Hồ Chí Minh đã lén đi Thái Nguyên rồi . Hồ Chí Minh bảo tôi đi với ông, nhưng tôi đã 80 tuổi rồi, không có sức đi được nữa nên tôi ở lại . Tôi vẫn ở trong Phủ Chủ tịch cho đến 8 giờ tối . Súng bắn rát quá, Việt Minh và quân Pháp còn đang đánh nhau quanh Hồ Hoàn Kiếm và Phủ Chủ Tịch . Khi lính Pháp vào trong Phủ thì chúng bắt tôi dưới hầm trú ẩn . Chúng toan giết tôi, nhưng tôi xưng tên tôi là Ernest Babut và bảo chúng là tôi muốn gặp ông Sainteny . Họ còng tay tôi, dắt tôi đến Uỷ viên phủ đặt ở sở Radium đường Richaud, gần chùa Quán Sứ . Sainteny giam tôi trong một căn phòng và hôm sau họ đưa tôi đi máy bay nhà binh vào Saigon . Nơi đây họ hỏi tôi muốn hồi hương Pháp quốc hay muốn ở lại Việt Nam . Tôi tình nguyện ở lại Việt Nam . Can uỷ Bollact cho tôi lên ở Đà Lạt để dưỡng lão .
Ông Babut có mời Tuấn đến nơi ông ở . Ðây là một biệt thự rộng và sang, do Cao ủy phủ cấp cho ông . Cao uỷ phủ lại còn tiếp tục trợ cấp cho ông một số tiền hàng tháng, bằng ngân phiếu . Ông già " Xã Hội " Pháp, chống thực dân đế quốc Pháp, mà vẫn tiếp tục lãnh tiền dưỡng lão của chính phủ thực dân đài thọ!
Tuấn không hỏi chi tiết về sự giao thiệp giữa ông và Cao uỷ Pháp ở Việt Nam, nhưng sự ông lãnh lương hưu trí của Pháp trong khi ông không phải là công chức, chỉ chứng tỏ tất cả sự giả dối của đảng " Xã hội " Pháp S.F.I.O. đối với cuộc tranh đấu của các dân tộc bị thực dân đô hộ .
Trở lại tình hình Hà Nội năm 1938 - 39, một năm trước khi Ðệ Nhị Thế Chiến bùng nổ . Tuấn đã sống trong không khí chính trị căng thẳng mà Hành chánh Thuộc địa Pháp cố tìm cách làm cho êm dịu, để nắm vững dân chúng .
Ở Trung kỳ, Toà Khâm Sứ Pháp o bế Bảo Ðại, vừa nâng niu chiều chuộng vị Hoàng đế trẻ tuổi và ham chơi, vừa tăng cường biện pháp bao vây kín đáo, để tránh mọi sự tuyên truyền và áp lực của mọi phần tử cách mạng quốc gia . Người đóng vai trò quan hệ nhất trong chính sách ru ngủ của thực dân Pháp đối với Bảo Ðại, trong giai đoạn tiền chiến này là Phạm Quỳnh . Ðể được theo dõi sát cạnh Bảo Ðại, viên Khâm sứ Huế đã khuyên bảo vị quốc vương bù nhìn đưa Phạm Quỳnh, từ chức vị Thượng thư bộ Giáo dục, bộ Lại, lên địa vị tối cao : Ngự Tiền Văn phòng của Hoàng đế .
Thật ra, đối với Phạm Quỳnh cũng như với tòa Khâm sứ, với Bảo Đại, lực lượng cách mạng, cộng sản hay quốc gia, ở Trung kỳ và Bắc kỳ đều không đáng kể . Hầu hết các phần tử có thành tích đấu tranh cộng sản từ 1930 ( Sô viết Ðô Lương, Nghệ An, và Thanh Hóa, Hà Tỉnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi ) đều bị bắt, bị tù ở các lao tỉnh, hoặc bị lưu đày đi Côn Lôn ( Côn Ðảo ), và Ban Mê Thuột, Lao Bảo, ba ngục thất ghê gớm nhất, nổi tiếng là rùng rợn dã man nhất .
Các nhà Cách mạng quốc gia thì một số đã ngã theo Cộng sản Ðệ Tam, một số nghiêng về Cộng sản Ðệ tứ, chẳng còn lại được bao nhiêu. Hầu hết đã vô Saigon, hoặc ở Hà Nội, tiếp tực hoạt động, tương đối dể dàng hơn ở Trung kỳ.
Võ Nguyên Giáp, Ðặng Thái Mai, đều là người miền Trung, ở Hà Tỉnh, Quảng Bình, nguyên là đảng viên Ðảng Tân Việt, ( quốc gia ) chỉ mới nhảy qua cộng sản từ 1932 - 33, còn lại Ðào Duy Anh với vợ là Trần thị Như Mân, và Tạ Quang Bửu, cả ba đều là Trợ giáo với bằng cấp Thành Chung . " Cao đẳng Tiểu Học Pháp - Việt ( primaire Supérieur Franco-Annamite ) .
Ðào Duy Anh cũng là cựu trợ bút báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng, Tạ Quang Bửu chính là người sẽ ký vào hiệp định Genève 1954 với danh nghĩa đại diện Bộ quốc phòng Việt Minh, tuy lúc bấy giờ Bửu không phải là đảng viên cộng sản .
Tình hình tổng quát ở Ba kỳ Trung Nam Bắc rất yên tỉnh . Guồng máy hành chánh chạy đều đều, không có gì trục trặc . Sự hợp tác của Nam triều với Bảo hộ rất hoàn toàn, sự trung thành và phục tòng của quan An nam và các lớp trưởng giả phong kiến "Thượng Lưu Trí thức "đối với Nhà nước Bảo Hộ rất tích cực . Cho đến Làng, Xã, cũng triệt để tuân theo trật tự đã an bài khắp nơi .
Không ai đếm xiả tới " Thằng Dân " . Thuế má vẫn phải đóng đầy đủ cho Nhà nước, không ai dám yêu sách điều gì . Ðến mùa thuế, thường là mùa Hè, trống đánh thu thuế treo trước nhà ông Lý trưởng, thúc dục dân làng mau mau đến nạp thuế . Nhà ông Lý trưởng tấp nập kẻ ra người vào, đóng " thuế thân ", ngoài các thứ thuế ruộng đất và hoa lợi . Thuế thân - impôt personnel - là thuế cá nhân mà mỗi người dân phải đóng đồng đều, bất luận giầu nghèo, chức vị .
Những kẻ cùng đinh phải bán những gì có chút ít giá trị trong gia đình mới có tiền để đóng thuế thân . Cũng có những kẻ " trốn xâu lậu thuế " với sự đồng lõa của Lý trưởng do lòng nhân đạo thương xót những kẻ vô sản mà trong làng ai cũng biết . Các ông "thầy chùa " cũng khỏi đóng thuế .
Chùa chiền không đông đảo " Phật tử " như ngày nay . Nói tổng quát, trừ số ít người theo đạo Thiên Chúa còn tất cả đều tôn kính Phật, nhưng không phải là tín đồ chân chính . Họ thờ đức Phật như họ thờ đức Khổng Tử, đức Quan Công, một vị Thần, hay là một Thánh Mẫu nào đó, không phân biệt rõ ràng, không thấu hiểu giáo lý.
Họ coi Phật như những vị Thánh Thần, những bậc linh thiêng, che chở cho họ, hoặc có thể trừng phạt họ, tuỳ theo trường hợp và hành vi của mỗi người . Ngay số đông người trí thức, ở các giới thượng lưu, trung lưu có xem sách Phật, Kinh Phật, cũng hiểu Phật giáo một cách khái quát, sơ sài, nhiều khi sai lầm nữa .
Mặc dầu trong mấy năm Tiền chiến, nhất là từ 1930 trở về sau, phong trào " Chấn hưng Phật giáo "được thịnh hành một phần nào, nhờ một số người trí thức hợp tác với một số Hoà thượng có uy tín, cổ suý lập ra các hội Phật học, nhưng các hoạt động Phật giáo vẫn không được tiến triển mạnh .
Lúc bấy giờ cũng chưa có các chức vị Thượng Tọa, Ðại Ðức, Học Tăng, v.v… Dân chúng gọi các vị Sư bằng những danh từ bình dân hơn, như Sư Chú, Sư Bác, Sư Ông, Sư Cụ .
Danh từ Hoà thượng được xưng với các Sư Cụ mà thôị .
Ở Nam kỳ sự xưng hô cũng không khác mấy . Ở các chùa chỉ có Thầy trụ trì, và các chú tiểu ( chú Ðạo, chú Ðiệu ) . Hầu hết các bậc tăng ni đều sống theo tôn chỉ và giáo lý, luật pháp, giới pháp của Phật . Ðời sống của các Thầy rất giản dị, chưn chính, đúng theo giới luật của Phật . Họ không bao giờ sắm xe hơi, không bao giờ giao du thân mật với đàn bà con gái, không giao thiệp với các nhà quyền quý, không ham của cải .
Thỉnh thoảng, có một vị nào không tôn trọng giới luật nhà Phật và có những hành động trái với Ðạo giáo, như Sư Muỗng ở Nam kỳ, thì dư luận dân chúng sôi nổi, náo động và triệt để kết án giả danh " thầy chùa " làm việc tồi bại . Danh từ " Sư Hổ Mang "được áp dụng ngay đối với vị Hoà thượng nào không xứng đáng với đức vị tu hành . Nhờ vậy Phật giáo tuy không bành trướng mạnh mẽ, nhưng vẫn giữ được uy tín tôn nghiêm đối với toàn thể dân chúng .
Hạng Sư sân si, dối trá, kiêu căng, phách lối, trụy lạc, ham giao du thân mật với đàn bà con gái, ham đi xe hơi, ham ăn ngon, ở sang, tha thiết với đời, lơ là kinh kệ, đều chưa xuất hiện trong thời Chánh Pháp của Ánh Ðạo Vàng .
Vì nhận thấy đạo Phật thời Tiền chiến rất tốt đẹp, rất cao quý, Tuấn mới tìm hiểu giáo lý của đạo Phật, nghiên cứu kinh sách Phật, và theo đạo Phật .
Nguyễn Vỹ
Tuấn Chàng Trai Nước Việt
CHƯƠNG 41
1939
- 03/09/39 Ðệ Nhị thế chiến bùng nổ ở Âu châu.
- Chiến tranh Hoa Nhật mở rộng ở Trung Hoa lục địa.
- Ðêm tập " phòng thủ thụ động" đầu tiên ở Hà Nội.
- Tình hình báo chí và dân chúng ở Hà Nội, Huế, Saigon.
- Quân đội thuộc địa Pháp ở Saigon, Hà Nội, Huế tập trận ráo riết.
- Chiến tranh Hoa Nhật mở rộng ở Trung Hoa lục địa.
- Ðêm tập " phòng thủ thụ động" đầu tiên ở Hà Nội.
- Tình hình báo chí và dân chúng ở Hà Nội, Huế, Saigon.
- Quân đội thuộc địa Pháp ở Saigon, Hà Nội, Huế tập trận ráo riết.
Các giới cách mạng Việt Nam cũng như toàn thể dân chúng không lưu ý nhiều đến cuộc chiến tranh giữa Nhật Bản và Trung Hoa dân quốc, bắt đầu từ vụ Lư Cầu Kiều. Ai cũng thấy rõ rằng Nhật Bản kiếm cớ để xâm chiếm tỉnh Mãn châu. Nuốt xong Mãn châu, họ lập thành Mãn châu quốc ( Mandchokoo) và đặt một Hoàng thân bù nhìn, dòng họ Mãn thanh tên là Henri Pouyi lên ngôi, lấy niên hiệu là Phổ Nghi hoàng đế. Mãn châu quốc trở thành một thuộc địa trá hình của Nhật Bản.
Các giới cách mạng Việt Nam chỉ cười cái trò hề đó thôi, chứ không quan tâm đến lắm. Dư luận dân chúng Việt Nam cũng không xôn xao : một biến cố xẩy ra ở tận biên giới phương Bắc của nước Tàu rộng lớn, đồ sộ, nhưng yếu hèn vì nạn tham nhũng sâu mọt đụt khoét trong xương tuỷ của đất nước " Con Trời ".
Quân đội Nhật Hoàng đánh lần vào miền nam, chiếm Thượng Hải, Nam Kinh, hạ xong Nam kinh, Nhật lập ra tại đây một chính phủ Trung Hoa thứ hai với Uông Tinh Vệ ( Wang-Tching -Wei) làm Tổng thống để chống lại chính phủ Tưởng Giới Thạch ( Chang kei Shek). Họ Tưởng phải dời đô lên Trùng Khánh ( Tchung King).
Chuyện bên Tầu, người " An nam " lúc bấy giờ coi như " chuyện Ba Tàu " - chinoiserie - và không những không lo ngại riêng cho xứ sở mình, mà còn chờ đợi xem ngày giờ nào toàn thể Trung Quốc sẽ lọt hết vào tay Nhật Bản. Ða số đều khing rẻ, hoặc thương hại nước Tàu, rất ít người bênh vực Tưởng Giới Thạch. Tất cả đều nể hoặc sợ Nhật Bản, kể cả người Pháp đang làm chúa tể ở Ðông dương. Khinh Tàu, sợ Nhật, tin tưởng nơi Pháp, đó là tâm lý chung của đại đa số người " An nam " từ Bắc tới Nam, nhất là giới thượng lưu và trung lưu, trong mấy năm 1937, 38, 39,trước khi Ðệ Nhị chiến tranh Thế giới bùng nổ ở Âu châu.
Ðứng trên lập trường cách mạng, các giới chính trị " An nam " chia làm hai phe :
phe "chống phát xít " và phe " thân Nhật ", lúc bấy giờ thường gọi bằng tiếng Pháp là
"Anti-fascistes" và "pro-japonais ". Ngoài ra còn phe thứ ba là " chống phát xít và chống cộng sản ".
Phe chống phát xít hầu hết là đảng viên cộng sản Ðệ Tam và Ðệ Tứ quốc tế, từ Võ Nguyên Giáp, Ðặng Xuân Khu đến Huỳnh Văn Phương ở Hà Nội. Từ Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai đến Tạ Thu Thâu ở Saigon.
Ða số đảng viên Tân Việt ở Huế, Ðào Duy Anh, Tạ Quang Bửu, cũng chống phát xít hăng hái. Ở Huế, còn có Hải Triều, con trai của bà Ðạm Phương, cũng là một tay lý thuyết gia chống phát xít dữ dội.
Do những khuynh hướng cách biệt nhau đó mà phe chống phát xít có nhiều mâu thuẫn trầm trọng ở nội bộ.
Cộng sản Ðệ Tam ỷ lại và "lực lượng vô sản thế giới " chống phát xít và giải phóng dân tộc bị trị dưới quyền lãnh đạo của Staline. Cộng sản Ðệ Tứ cũng ỷ vào " lực lượng thợ thuyền cách mạng thế giới " chống phát xít, giải phóng dân tộc bị áp bức, dưới quyền lãnh đạo của Trotsky.
Ngoài ra, lập trường chống phát xít của đảng Tân Việt ( miền Trung) không được rõ rệt lắm, đứng lưng chừng không ngã hẳn về bên nào.
Phe thân Nhật thì tin tưởng tích cực vào thế lực đang bành trướng của Nhật Bản ở Ðông Nam Á. Phe này nương dựa vào các đảng Việt Nam Phục Quốc ở Quảng Tây, Quảng Ðông và hy vọng Nhật Bản sẽ giải phóng Việt Nam khỏi ách đô hộ Pháp.
Những người chủ trương thân Nhật của phe này là nhà học giả Trần Trọng Kim, nhà báo cách mạng Vũ Đình Duy, nhà văn Nguyễn Tường Tam ở Hà Nội, Tuần Vũ Ngô Đình Diệm và giám mục Ngô Đình Thục ở Huế, Nhà báo Nguyễn Văn Sâm, giáo sư Hồ Văn Ngà ở Saigon.
Có điều đáng lưu ý là lực lượng thân Nhật ở Bắc kỳ rất yếu, ở Trung kỳ thì bình thường thôi, nhưng lại rất mạnh ở Nam kỳ. Nơi đây ảnh hưởng của Hoà Hảo đang lên, của Cao Ðài đang bành trướng, thu hút một số rất đông đảo quần chúng nông thôn ( Hoà Hảo) và tư sản trung lưu thành thị ( Cao Ðài) nhất là miền Hậu giang và Tiền giang gọi là
"Lục Tỉnh ". Khuynh hướng chính trị thứ ba gồm đa số thanh niên trí thức có tư tưởng quốc gia thuần tuý và mãnh liệt " chống phát xít, chống thực dân và chống cộng sản ". Phe này gồm một số cựu đảng viên VNQDÐ và Thanh Niên Cách Mạng Ðồng Chí Hội, một số đông sinh viên Cao đẳng, nhà văn, nhà báo.
Tuấn thuộc về thành phần này nhưng dưới chiêu bài " chống phát xít và không đảng phái ( anti - fasciste independent).
Bắt đầu từ 1938, ở Âu châu, Hitler tỏ ý định cương quyết xâm chiếm hải cảng Dantzig, và Ba Lan, Tiệp Khắc. Toàn thể Âu châu và thế giới xôn xao náo động. Ở xứ An nam nhỏ bé, thuộc địa của Pháp, các đảng phái cách mạng cũng bắt đầu rục rịch hoạt động bí mật, hăng hái, để tuỳ cơ ứng biến.
Tình thế Âu châu rất bấp bênh. Riêng nước Pháp ở tầm mức liên hệ trực tiếp vào chính sách bành trướng của Hitler, cho nên ở Ðông dương ( Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Ai Lao, Cao Miên), riêng ở ba xứ " An nam " tình hình cũng trở nên ngột ngạt như chờ đợi một cơn giông tố sắp sứa nổ bùng ở vòm trời Ðông dương, mà không ai có thể dự đoán được hậu quả sẽ như thế nào.
Tuấn, sau khi bị 6 tháng tù vì một loạt bài báo chống thực dân và chống triều đình Huế, Tuấn lại viết sách chống chính sách bành trướng xâm lăng của Nhật Bản. Bạn bè của Tuấn lo sợ tác phẩm chính trị này sẽ đem lại cho Tuấn một số phận nguy hiểm. Nhưng Tuấn bảo :
- Ðại chiến sắp bùng nổ khắp cả thế giới. Rồi đây tất cả chúng ta chẳng riêng ai, sẽ phải chịu một số phận nguy hiểm không thể lường trước được, không thể tránh được. Người ta sẽ thấy cái gì người ta sẽ thấy. Chúng ta là " dân An nam " chúng ta dù muốn dù không, cũng sẽ sống chết trên đất An nam này, không biết trước được là dưới bàn tay của kẻ thù nào. Chúng ta không làm gì hổ thẹn với nòi giống " An nam " là được.
Với tư tưởng đó, Tuấn hồi hộp chờ đợi những chuyện gì sắp đến trong cơn giông đang đe dọa bùng nổ khắp vũ trụ loài người …
Tháng 9/1939. Những tia chớp sáng loè dưới trời Tây Âu …
1939, Hà Nội cũng như Saigon, và toàn cõi Á Ðông sống trong cơn sốt rét. Máy truyền thanh ( radio) chưa được thông dụng. Chỉ một số ít người Pháp ưu tiên mới mua được, và phải có giấy phép đặc biệt của Phủ Toàn Quyền Pháp mới được mua. Vả lại giá rất đắt mà không phải nhà giàu sang nào cũng sắm được. Nó bị sắp vào loại hàng hoá
"quốc cấm ".
Dân chúng chưa bao giờ nghe tới danh từ radio, hay máy truyền thanh, chứ đừng nói là trông thấy cái máy ấy ! Tất cả tin tức về tình hình sôi nổi ở Âu châu đều do các tờ Nhật báo loan ra, theo thông cáo của sở IPP " Information Propagande-Presse" (Thông tin, Tuyên truyền, Báo chí) của phủ toàn quyền Pháp.
Hằng ngày Tuấn và một nhóm thiểu số bạn đồng chí sinh viên và văn nghệ hùn tiền lại để mua hai tờ nhật báo " Quốc ngữ " : Ðông Pháp, Trung Bắc Tân Văn, hai tờ nhật báo Pháp ngữ ở Hà Nội : La volonté indochinoise, France-Indochine, và hai tờ nhật báo ở Paris : L’Intransigeant, Paris-Soir.
Báo Pháp mỗi tuần gởi qua một lần, thành ra mỗi tuần phải mua mỗi thứ một bó 6 tờ. Ngoài ra, Tuấn còn mua thêm tờ tuần báo rất nhiều tranh ảnh của Pháp, nổi tiếng nhất lúc bấy giờ là tờ Match de la Vie. Từ sau Ðệ Nhị Thế Chiến, Match de la Vie được đổi tên thành Paris- Match. Tuấn thích xem tờ Match de la Vie mặc dầu giá rất đắt, vì nó là tập báo duy nhất đăng rõ ràng và rất nhiều hình ảnh sốt dẻo mỗi tuần về các biến cố sôi nổi của Tiền Chiến Tây Âu, nhất là về Hitler, Staline, Churchill, Mussoloni, Chamberlain, Daladier, v.v…
Nhờ các loại bài đó, các bạn của Tuấn và Tuấn được theo dõi hằng ngày các âm mưu xảo quyệt của Hitler cương quyết gây hận thù máu lửa ở Âu châu, với sự đồng lõa của Staline trong giai đoạn đầu của chiến tranh.
Thế rồi chuyện phải đến đã đến. Các báo " quốc ngữ " xuất bản ở Hànội ngày 4/9/1939 đều đăng tin bằng tít lớn 8 cột trang nhất :
- 3/9 : Pháp tuyên chiến với Ðức.
- Ðồng thời các báo Pháp ngữ ở Hà Nội cũng đăng tin 8 cột :
- Le 3/9, à 0 heure, La France déclare la guerre à l’Allemagne.
Chiến tranh mà người Pháp lo sợ, và người An nam đợi chờ như một tai họa cho nước Pháp nhiều hơn là cho nước An nam, chiến tranh mà tất cả mọi người đều bàn tán xôn xao từ mấy tuần lễ, đã bùng nổ thật sự.
Cùng một lúc với tin nẩy lửa đó, các báo đều đăng những thông cáo quan trọng của toà Ðốc lý thành phố Hà Nội ( Tiếng bình dân Saigon quen gọi là toà Xã Tây của thời Pháp thuộc, dưới thời Bảo Ðại gọi là toà Ðô Sảnh, thời Ngô Đình Diệm gọi là toà Ðô Chánh).
- Tất cả các đèn trong nhà và ngoài phố đều phải bao phủ bằng vải đen để che đậy ánh sáng ( phòng phi cơ địch).
- Ðào hầm trú ẩn trong thành phố, theo hình chữ chi.
- Dân chúng tập " phòng thủ thụ động " ( còi hụ, dân chúng phaỉ chạy núp xuống hầm).
- Tập nghe còi hụ như thế nào là cói báo động.
- Toàn thể Ðông dương ( Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Ai Lao, Cao Miên) bị đặt trong tình trạng chiến tranh, v.v…
Hàng nghìn bích chương in bằng chữ lớn và đậm nhắc lại các chỉ thị trên do toà Ðốc lý Hà Nội dán khắp các vách tường thành phố, thu hút một số đông đảo dân chúng tụ lại xem thông cáo và bàn tán rất xôn xao, náo động. Cả Hà Nội chỉ nói về chiến tranh đã bộc phát ở Pháp và gián tiếp ảnh hưởng đến Ðông dương.
Tuấn và các bạn của Tuấn sống những giờ phút hồi hộp vô cùng. Họ tìm gặp nhau luôn để bàn về chiến tranh Pháp Ðức.
Ðêm hôm ấy là đêm đầu tiên, mở màn cho Thế giới Ðại chiến Thứ Hai, Hà Nội lập
"phòng thủ thụ động " cũng lần đầu tiên.
Dân chúng đã được chuẩn bị trước. Tất cả các ngọn đèn điện ( chưa có đèn nê-ông), đều bị che kín bằng vải đen, hoặc giấy bìa đen. Chỉ để một tia sáng thu nhỏ lại và chiếu thẳng xuống, thành những vũng tròn ánh sáng lờ mờ, trong nhà cũng như ngoài đường.
Cảnh tượng khác thường ấy gây cho Tuấn một cảm tưởng mới lạ, băn khoăn, ly kỳ, như nó báo hiệu sự khánh tận một thế giới, và sự khởi thuỷ một thế giới khác, đầy bí mật rùng rợn. Ðời sống bình thường hằng ngày đã có triệu chứng sắp biến đổi. Ai cũng chờ đợi những cái gì kinh ngạc có thể xẩy ra không biết lúc nào, không biết bao lâu, nhưng chắc chắn là sẽ có...
Dân chúng ra hết ngoài lề đường. Khác như mọi đêm, các phố lớn ở trung tâm Hà Nôị đông nghẹt những người hiếy kỳ đi xem cảnh phố phường chập chờn nửa tối nửa sáng …
Ði với một người bạn thân, họa sĩ Nguyệt Hồ, Tuấn bảo :
- Tự nhiên mình nhớ câu thơ trong Le Cid : cet clair-obscure qui tombe des étoiles…
(Ánh sáng mờ mịt ấy từ trên sao rơi xuống …)
Nhưng đây lại là :
Cet clair-obscure qui tombe sous les voiles …. (Ánh sáng mờ mịt ấy từ dưới màn đen rơi xuống …)
Vào khoảng 7 giờ hơn, còi báo động rú lên vang dội cả thành phố. Ai cũng biết rằng đây là cuộc tập dượt đầu tiên về phòng thủ thụ động, chứ không phải báo động thực, nhưng khi tất cả các ngọn đèn trong nhà và ngoài đường đều tắt hết, Hà Nội chìm đột ngột trong đêm đen hoàn toàn, thì không ai bảo ai, tất cả các cửa đều lần lượt đóng kín mít …
Ðều nầy không có trong thông báo của toà Ðốc lý, nhưng sau khi còi báo động rú lên, dân chúng tự động đóng cửa cài then cẩn thận. Nhiều người ngây thơ đã lo sợ rằng có lẽ máy bay lạ sắp bay đến thả bom Hà Nội chăng ? Nhiều người khác biết rằng đây là tập phòng thủ, nhưng họ sợ bọn trộm cướp thừa lúc thành phố tối đen tối thui không có một chút ánh sáng nào, sẽ lẻn vào nhà để cướp đồ đạc.
Ðám đông người vẫn đi dạo chơi ngoài đường để xem quang cảnh thành phố lúc báo động ban đêm. Tuấn và Nguyệt Hồ đi thong dong trên phố hàng Bạc. Tuấn đang hút một điếu thuốc, nhưng đến ngã ba phố Ma Mây ( Cờ Ðen, rue des Pavillons Noirs), một viên cẩm Pháp ( danh từ rất thông dụng trong dân chúng Bắc kỳ, phiên âm tắt tiếng Pháp Commissaire de Police mà trong Nam kỳ gọi là ông Cò. Ngoài Bắc còn một danh từ bình dân khác là ông Ðội Xếp. Ty cảnh sát được gọi là Sở Cẩm. Miền Trung gọi là Bác Phú Lít - Post de Police. Ở Saigon và Nam kỳ chỉ nói tắt một tiếng Bót. Từ hồi độc lập gọi bót cảnh sát.), sừng sộ bắt phải tắt điếu thuốc. Tuấn hỏi tại sao, viên đội xếp gắt lên :
-Tại sao hả ? Anh không biết rằng báo động ban đêm tất cả các ánh sáng đều bị cấm ?
-Tôi không tin rằng một điếu thuốc cháy là một ánh sáng mà một phi công từ trên trời dòm xuống có thể trông thấy được.
- Ðừng có nhiều chuyện. Nếu không tuân lệnh, tôi bắt giam anh vào bót ngay bây giờ.
Tuấn phải vứt điếu thuốc.
Nguyệt Hồ nắm tay kéo Tuấn đi, không muốn cãi nhau với viên cẩm nữa. Nguyệt Hồ bảo sau khi đã đi xa mấy bước :
- Thằng cha cẩm rõ lẩn thẩn !
Tuấn bảo :
- Kể ra thì hắn lẩm cẩm thật. Nhưng xét kỹ thì hắn có lý lẽ của hắn. Hắn được chỉ định phụ trách kiểm soát khu Hàng Bạc, và chắc chắn đã được lịnh cấm tất cả các ánh sáng trong thời gian báo động. Hắn áp dụng chỉ thị đó một cách mù quáng, và cho rằng một điếu thuốc ngậm trên môi cũng là một ánh sáng.
- Một thằng đội xếp Tây mà ngu ngốc thế !
- Nếu nó thông minh thì nó đã không là đội xếp.
Hà Nội chìm trong đêm thẳm suốt hai tiếng đồng hồ. Hai chiếc máy bay Morane kiểu 1914 bay chầm chậm thật cao trên vòm trời đen nghịt, tiếng kêu rầm rầm với hai chấm xanh đỏ nơi hai đầu cánh.
Ðến 9 giờ, một hồi còi hụ chấm dứt cuộc phòng thủ. Nhưng thành phố Hà Nội vẫn im lìm không có tiếng động, như đã ngủ yên. Hà Nội không muốn biết bộ mặt ghê rợn của tử thần bắt đầu đe dọa số phận của nó.
Tuấn và họa sĩ Nguyệt Hồ ngồi dưới góc một cây dương liễu đang âm thầm buông những giọt sương khuya xuống bờ hồ Hoàn Kiếm. Ðôi bạn trao đổi những cảm tưởng của họ và đêm đầu tiên tập sự chiến tranh tối tân nơi " ngàn năm văn vật đất Thăng Long ".
Chiến tranh thật sự chưa đến Hà Nội, cũng như toàn cõi Ðông dương và Ðông Nam Á. Ở đây, người ta chỉ nghe tiếng dội xa xăm của nó mà thôi.
Nhưng tiếng dội tràn lan sâu rộng khắp các từng lớp dân chúng cũng như trong các giới gọi là thượng lưu. Giới này hầu hết là dân Pháp, nói nịnh Pháp thì đúng hơn, gồm những quan lại của Nam triều và Bảo Hộ, những nhà kỹ nghệ, hoặc nhà buôn lớn được hưởng ân huệ của chính phủ thuộc địa, hoặc của Triều đình Huế. Ở Saigon và lục tỉnh, giới thượng lưu thân Pháp gồm đa số những Ðốc phủ sứ, " Bác vật ", đại điền chủ, kỹ nghệ gia, bác sỹ, kỹ sư, còm-mi ( commis), v.v…hầu hết là dân Pháp, theo quốc tịch Pháp, lấy tên Pháp, Paul, Henri, Louis, Marguerite…và sống theo tập tục Pháp.
Dĩ nhiên, giới thượng lưu An nam này cũng như giới Pháp thuộc địa, đều tỏ ra rất lạc quan với tin chiến tranh ở " mẫu quốc ". Họ tin tưởng rằng thế nào nước Pháp cũng sẽ thắng nước Ðức., như hồi Ðệ Nhất Thế Chiến 1914 - 1918. Trong các buổi tiệc của chính phủ hoặc tư nhân, kể cả các tiệc cưới, tiệc mừng trong các gia đình " thượng lưu " mà có người Pháp tham dự, treo cờ Pháp và đọc "đít cua " bằng tiếng Pháp, những câu mạt sát nước Ðức và đề cao hoan hô Pháp :" Vive la France ! (Ðại Pháp vạn tuế !) được đón nhận bằng những tràng pháo tay nồng nhiệt của quan khách An nam, là một cảnh tượng rất thường thấy, thường nghe, ở Hà Nội cũng như ở Huế, Saigon, và khắp các tỉnh ở toàn thể ba xứ Annamites.
Thật là một hiện tượng đầy ý nghĩa quái gở, chứng tỏ tâm địa của giai cấp khá đông đảo " thượng lưu trưởng giả An nam " mà người Pháp gọi là " la haute Bourgeoisie Annamite " tận tụy trung thành với " mẫu quốc " ( la Mère Patrie) và tỏ ra thành thật tin tưởng vào sự thắng trận của nước Pháp, trong lúc chính những người Pháp ở Ðông dương lại dè dặt hơn, và có phần lo lắng, sợ hãi là khác.
Ðể được chứng kiến tận mắt cái tình trạng mới do chiến tranh Âu châu tạo ra ở xứ mình, Tuấn xách va li lên ga xe lửa mua vé đi một vòng Trung kỳ và Nam kỳ. Chàng xuống Huế ở 3 hôm, rồi đi Saigon ở 1 tuần lể. Từ đấy, chàng đi Cần Thơ, Tây Ninh, Cap Saint Jacques ( Vũng Tàu).
Một điều đáng chú ý, là tuy nước An nam đã bị người Pháp chia xẻ ra thành ba " kỳ " đặt dưới ba thể chế hành chánh riêng biệt, nhưng từ Hà Nội vô Saigon, từ Quảng Ngãi Qui Nhơn đến Tây Ninh, Vũng Tàu, dân trí và dân tình của người An nam khắp nơi đều không thay đổi mấy. Ða số giới " thượng lưu trưởng giả " Hà Nôị, Huế, Saigon đều nịnh bợ Tây một giọng như nhau. Giới trung lưu thì ở đâu họ cũng dè dặt, nhận xét thời cuộc một cách khách quan hơn và bình tỉnh hơn.
Giá sử Pháp thắng trận, giới trung lưu cũng chẳng lợi lộc gì. Người Pháp vẫn cai trị xứ An nam, người An nam chẳng hưởng được ân huệ gì của chiến thắng Pháp.
Còn giả sử Pháp bại trận, thì theo ý nghĩ của họ, họ cũng chẳng có gì thương tiếc, buồn lo. Dân An nam không có cảm tình riêng gì với Tây. Có thể Nhật Bản sẽ đánh đuổi Tây chăng, vì Nhật Bản ở gần Ðông dương, và lại là đồng minh của Ðức.
Nhưng nếu Nhật qua đây thì chẳng qua là một cuộc thay đổi chủ nhà mà thôi. Ðối với dân An nam, sự đổi chủ không có thiệt hại gì cho An nam cả. Ðó là quan niệm chung của đại đa số người trong các giới trung lưu vô tư ở Saigon, Huế, Hà Nội và các tỉnh.
Quảng đại quần chúng, bình dân, tiểu thương, nông dân, sĩ phu, ở Nam kỳ cũng như ở Trung, Bắc kỳ đều đoán rằng Pháp sẽ thua trận, và mong muốn Pháp thua. Họ không bênh vực Ðức, không có cảm tình với Hitler, nhưng cũng không có gì oán hận dân tộc Ðức. Họ muốn cho Pháp thua, tại vì họ không ưa Pháp đó thôi.
Vả lại, tâm lý chung của quần chúng An nam là thích những người hùng, bất luận người hùng của xứ nào. Ðọc tiểu sử của Hitler đăng trong các báo, họ phục anh thợ sơn làm nghề quét vôi, hồi chiến tranh 1914 - 1918 chỉ là một chú đội Bộ binh, thế mà bây giờ trở nên lãnh tụ được sùng bái của một nước Ðức hùng cường. Y khạc ra khói, nói ra lửa, làm cho cả Âu châu phải rung động, cho Pháp sợ hoảng hồn phải chạy qua Munich để điều đình và nhượng bộ !
Ðại đa số dân chúng An nam, ở thành thị cũng như thôn quê, chỉ đọc báo và theo dõi cuộc chiến chánh trị sôi động ở Âu châu, đều phục tài Hitler, cho y là một tay anh hùng lừng lẫy của Âu châu, có thể đánh ngã quỵ nước Pháp, đè bẹp cộng hòa Pháp dưới huy hiệu chữ Vạn "ngược" của y.
Tâm lý bình dân che đậy sự ước mong được thấy cuộc trả thù gián tiếp đối với người Pháp là kẻ đã ỷ thế hiếp đáp dân An nam mình.
Ðó là ý nghĩ thầm kín của đại đa số người thường dân An nam ở Cần Thơ, Tây Ninh, Vũng Tàu cũng như ở Saigon, Huế, Nha Trang, Hà Nôị, Hải Phòng, Nam Định, Yên Bái …Lạng Sơn, trong cuộc đi tiếp xúc tìm hiểu của Tuấn với đồng bào khắp nơi.
Tuy nhiên, bề ngoài, không khí vẫn bình thường, không bị ảnh hưởng mấy vì Chiến tranh Pháp Ðức và Âu châu trong những ngày đầu tháng 9-1939.
Trừ một vài cuộc " tập phòng thủ thụ động " ( exercice de défense passive) để lấy lệ vậy thôi, không sốt sắng mấy, gần như một trò giải trí của chiến tranh, và lịnh đào hầm trú ẩn mà dân chúng tuân theo một cách lơ là, đời sống thực tế hằng ngày không thay đổi bao nhiêu.
Ban đêm, đèn chiến tranh bọc bằng vải đen như vải tang ở trong nhà và ngoài phố, tạo ra không khí u ám nặng nề. Nhưng chỉ vài tuần lễ đầu ai nấy cũng âm thầm chờ đợi, rồi dần dần, từ ngaỳ 10 tháng 9 trở về sau, bóng đen phủ vải đen trở thành một yếu tố quen thuộc trong gia đình cũng như ngoài phố. Nó không còn là một đề tài để dân chúng bàn tán xôn xao như mấy đêm đầu. Việc buôn bán không thay đổi hình thức, không bị hạn chế, không có chợ đen, không có đầu cơ tích trữ.
Pháp luật, và nhất là kỷ luật xã hội, được triệt để tôn trọng, như bất cứ lúc nào.
Chính phủ thuộc địa Pháp có mộ thêm lính An nam để tăng gia quân số ở Ðông dương và gửi qua Pháp. Nhưng người ta chỉ kêu gọi những người tình nguyện. Dân An nam, ngay cả ở Saigon và lục tỉnh là "đất của Pháp " không bị cưỡng bách tòng quân. Chế độ quân dịch chưa có, không có tổng động viên trong một lĩnh vực nào cả. Thanh niên học sinh vẫn tiếp tục đi học như thường lệ, và ngoan ngoãn, vô tư lự. Dĩ nhiên không hề có bóng dáng cao bồi, du đãng, đợt sóng mới, tóc dài, quần túm, v.v…
Thuần phong mỹ tục và luân lý gia đình xã hội, được tự người An nam giữ gìn lấy. Người Pháp không bắt buộc, cũng không khuyến khích, nói tóm lại là không can thiệp vào nếp sống truyền thống riêng của dân tộc "An-na-mít ".
Chiến tranh còn ở tận bên Tây phương, chưa làm xáo trộn đời sống hằng ngày của dân chúng.
Bắt đầu Chiến tranh Thế giới, Hà Nội chỉ có ba bốn tờ nhật báo quốc ngữ kỳ cựu không bao giờ thay đổi hình thức hay nội dung, và tất cả đều giữ nguyên vẹn thái độ thân Pháp cố hữu của họ. Ðông Pháp, Trung Bắc Tân Văn, cả hai đều thuộc về nhóm trí thức bảo thủ Bắc kỳ, và được lưu hành sâu rộng trong quần chúng.
Ngoài ra còn có tờ báo mới : Nam Cường của Phạm Lê Bổng, nhà làm pháo triệu phú, Viện trưởng viện Dân biểu Bắc kỳ, nổi tiếng là một sườn cột của phe " Bảo Hoàng " (quân chủ, tích cực tâng bốc Bảo Ðại) và đồ đệ của " son Excellence ", Phạm Quỳnh, Ngự tiền văn phòng của hoàng đế An nam ở Huế. Tờ Nam Cường in để biếu hơn là bán, vì không ai mua.
Nhóm " Trí thức mới " của Bác sĩ Luyện cũng vừa cho ra tờ nhật báo Tin Mới, quy tụ một số nhà báo trẻ tuổi có tư tưởng chống Pháp, nhưng ôn hoà. Tờ báo này bán chạy nhất vì có tính cách tiến bộ hơn, và chú trọng khá nhiều về chính trị và xã hội. Ngoài ra, có những tuần báo hoàn toàn ăn nghệ : Tao Ðàn, Tiểu Thuyết Thứ Bảy ( của nhóm Vũ Trọng Phụng, TCHYA, Vũ Bằng, Nguyễn Trọng Luật, Nguyễn Công Hoan, v.v…) Ích Hữu ( Lê Văn Trương, Trương Tửu), Tiểu thuyết Thứ Năm ( Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư, Xuân Huy, Nguyễn Vỹ, Lệ Chi, Loa ( Lan Khai, Côn Sinh v.v…), Việt Nữ ( Mộng Sơn, Thanh Tú), Ngày Nay ( Nhất Linh, Khái Hưng), Tương Lai ( Nguyễn Triệu Luật, Vũ Trọng Phụng).
Các báo cộng sản đều bị đóng cửa, và đa số đảng viên đã bị bắt.
Các báo Việt ngữ cách mạng cũng bị đóng cửa, và các nhà cách mạng quốc gia bị mật thám theo dõi.
Các báo Pháp ngữ của người Pháp có chủ trương cách mạng ( L’Argus Indochinois, L’Ami du Peuple), hoặc của người An nam cách mạng ( Le Peuple của Ðặng Thái Mai, Võ Nguyên Giáp). Le Cygne ( Nguyễn Vỹ, Trương Tửu) cũng đã bị đưa ra tòa và bị đóng cửa.
Nhật báo Pháp ngữ của người Pháp, có 3 tờ báo bán chạy nhất. La Volonté Indochinois
của Henri de Montpezat, France Indochine của Thiếu tá hưu trí J.Foroponf, L’ Avenir du Tonkin của Massais, L’ Avenir của luật sư Tavernir. Tờ L’ Indépendence Tonkinois ( của một bà Ðầm) bị đóng cửa.
Ngoài ra, có một tờ tuần báo L’ Indochine của De Saumont, hài hước, chuyên môn công kích các nhà cầm quyền thuộc địa Pháp bằng lối khôi hài, được một số độc giả thanh niên trí thức hoan nghênh.
Thiên Chúa giáo có tờ Nhật báo Trung Hoa ở góc đường Borgnes Desbordes và đường Nhà Chung, không được phổ biến mấy, và có tính chất hoàn toàn tôn giáo.
Phật giáo có nguyệt san Ðuốc Tuệ, xuất bản tại chùa Quán Sứ, đường Richard do Hoà thượng Tố Liên, và cựu Tổng đốc Nguyễn Năng Quốc.
Phủ Toàn Quyền Pháp cũng cho xuất bản một tuần báo dưới hình thức tạp san in tranh ảnh chính trị và văn nghệ L’ Indochine (Ðông dương). Về chính trị, dĩ nhiên nó là cơ quan tuyên truyền chính sách thực dân Pháp. Nhưng về văn học và khảo cứu, có nhiều bài có giá trị.
Hải Phòng cũng có hai tờ báo Pháp ngữ của người Pháp, chuyên về chính trị và kinh tế : Le Courrier d’ Haỉ Phòng và L’ Eveil économique của Coucherousset.
Huế, Ðế Ðô Trung kỳ, chỉ có hai tờ báo, cả hai đều do phái Bảo Hoàng chủ trương suy tôn Bảo Ðại và Nam Phương Hoàng hậu: Tràng An ( việt ngữ của Bùi Huy Tín, chủ nhân và nhà sách), La Gazette de Huế ( pháp ngữ do Nguyễn Tiến Lãng viết văn Pháp, Phủ Doãn Thừa Thiên và rể Phạm Quỳnh, làm chủ bút). Phạm Văn Ký, một thi sĩ làm thơ Pháp, khá nổi danh với thi phẩm Une Voix sur la Voie xuất bản ở Saigon, được gọi về công tác trong văn nghệ.
Hai tờ báo trên đây, chỉ có giới trí thức ở Huế đọc mà thôi, không được lưu hành nhiều ở các tỉnh.
Saigòn - Nhựt báo ( tiếng bình dân thông dụng gọi là nhựt trình) ở Thủ Ðô Nam kỳ hồi đầu Chiến tranh thế giới cũng hầu hết là những tờ báo xuất bản đã lâu năm, và chia làm hai loại :
- Loại do tư bản Pháp xuất vốn ra làm, với sự cộng tác của những người tư bản và trưởng giả An nam, như Ðiện Tín, Công Luận ( hai ấn bản quốc ngữ của hai nhật báo Pháp La Dépêche và L’Opinion) Tờ "La Dépêche" và tờ Ðiện Tín ( của Henri de la Chevrotière, một thực dân khét tiếng ở Nam kỳ) là hai tờ báo rất chạy ở Saigon và Lục Tỉnh.
- Loại thứ hai của tư bản An nam, cũng có tính cách hoàn toàn thương mãi : Sài Thành ( của Bút trà Nguyễn Đức Nhuận) hoặc của đảng phái chính trị như Ðuốc Nhà Nam ( của Nguyễn Văn Sâm), L’Echo Annamite ( của Nguyễn Phan Long) v.v…
Báo cộng sản ( La Lutte) của nhóm Ðệ Tứ Quốc Tế ( Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch) và báo của nhóm Ðệ Tam ( Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo), vẫn còn hoạt động hồi đầu tháng 9/1939.
Các báo cách mạng quốc gia có xu hướng hơi quá khích một chút đều lần lượt bị đóng cửa hết.
Về Văn Nghệ, còn tờ tuần báo Mai ( của Ðào Trinh Nhất) có đôi chút ảnh hưởng với một số văn nghệ trẻ Nam kỳ.
Ðó là tình trạng báo chí tổng quát của ba xứ An-na-mít khi Ðệ Nhị Thế Chiến bùng nổ ở Âu châu.
Dưới lớp vỏ bề ngoài, chính trị, xã hội, văn hoá, nẩy nở thịnh vượng trong khuôn khổ đô hộ của chế độ thực dân Pháp, như tôi đã phác hoạ trên, dân tộc An nam vẫn còn say chìm trong giấc ngủ mê man của thế kỷ.
Việt Nam chưa tỉnh dậy. Hồn thiêng của đất nước Tiên Rồng như còn phảng phất đâu đâu trong các đền đài của Lịch sử.
Sức đè nén thực tế, nhiều khi vô hình, nhưng luôn luôn hiện hữu, quyế liệt của thực dân dùi cui ( colonialisme à la trique) mà kẻ cầm quyền Pháp và bọn tôi tớ vô liêm sĩ của họ gọi tâng bốc là " Thái Bình Pháp " - La Paix Francaise, hầu như được coi là một định luật và được đa số thụ động chấp nhận như một sự kiện mặc nhiên của Lịch sử.
Nói đúng, thì nhiệt khí cách mạng đã phun ra từng lúc, từng hồi, như một hỏa diệm sơn còn sôi ngầm trong lòng đất, tiếng gầm thét thỉnh thoảng đã vang lên, chuyển động bốn phương trời như một căm thù triền miên từ vạn cổ nhưng thời tiết chính trị vẫn còn trong sáng, dân tâm chưa sôi động, dân tình còn xao lãng, lan man.
Vả lại, tiếng súng ở biên thùy Pháp - Ðức cũng còn im lìm. Chiến tranh khởi phát bằng sự lặng lẽ bất thường ở tiền tuyến. Hai bên địch thủ chĩa súng gờm nhau, nhưng chưa khai hỏa.
Các báo Anh, Pháp, Mỹ và chung cả thế giới bắt đầu bình luận liên miên về " chiến tranh quái gở " - une drôle de guerre, mà một bên là Ðức, một bên là Pháp và Anh, đều án binh bất động, Mỹ còn đứng vòng ngoài, Nga vờ nắm tay đồng loã với Ðức và đang âm thầm chuẩn bị.
Hitler vừa hùng hổ kéo quân xâm chiếm Dantzig, rồi lần lượt Ba Lan, Tiệp Khắc, Autriche (Áo).
Thế giời có cảm tưởng như con cọp vừa ăn no nê mấy con mồi, nằm lim dim ngủ, chờ bụng đói sẽ vùng dậy băng rừng.
Cả Âu châu đều hồi hộp đợi chờ. ở Ðông dưong cũng vậy.
Trong lúc tình hình chiến tranh ở Tây phương bỗng dưng trầm lặng, các báo Pháp ở Paris không có tin tức chiến sự nào " giựt gân "để loan truyền, thi đua nhau viết bài đề cao quân đội Pháp và đại tướng Gamelin, Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Pháp và Ðồng minh.
Ðại đa số, có thể nói là hầu hết giới trí thức An nam cả giới trí thức cách mạng, đều vồn vả đọc báo Pháp và đều tin tưởng vào những lời tuyên truyền kia, vì thực ra mình có biết gì về giá trị và những bí mật của quân đội Pháp và vị Thống tướng của họ đâu.
Mình nghĩ rằng, để đương đầu với một nước Ðại Ðức ( Grand Riche Allemand) dưới quyền lãnh đạo của nhà độc tài ghê gớm Adolf Hitler đã gây ra sóng gió ở Trung Âu và đã làm cho cả thế giới kinh hãi, thì tất nhiên nước Pháp và Ðồng minh là nước Anh ( Mỹ còn đứng ngoài vòng chiến) đã phải chuẩn bị sẵn sàng với lực lượng hùng dũng, mạnh hơn hoặc ít nhất cũng tương đương với quân lực Hitler.
Quân Anh đã đổ bộ lên đất Pháp, đóng dọc theo biên giới Pháp, Bỉ, để sẵn sàng bảo vệ hai nước Bỉ và Hoà Lan với sự yêu cầu của hai vương quốc này, mặc dầu cả hai đã chính thức tuyên bố trung lập, nghĩa là không tham chiến.
Chiến lũy Maginot ( tên Bộ trưởng Chiến tranh Pháp chủ trương đắp chiến lũy này) dọc theo bờ sông Rhin, được tăng cường với một lực lượng hùng hậu bằng pháo binh, bộ binh, và xe thiết giáp. Nhưng quân lính nơi đây đã bắt đầu buồn chán vì " La drôle de la guerre " ( chiến tranh quái gở) chưa thật sự bùng nổ, Pháp Ðức đã tuyên chiến từ ba tháng rồi mà Ðức vẫn chưa khởi sự tấn công.
Bên kia sông Rhin, quân đội Nazi ( quốc xã Ðức) đã bài binh bố trận, các họng súng đại bác đã chĩa qua bên này, nhưng chưa một lần nào khạc đạn. Quân lính Pháp chờ mãi ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, vẫn không thấy quân Ðức tấn công. Không có việc gì làm, quân đội Pháp phòng trú dọc suốc chiến lũy Magnot được nhàn rỗi chỉ đánh cờ, biểu diễn văn nghệ, viết thư cho người yêu và cho gia đình. Nhiều người lại cao hứng làm thơ, viết văn gửi về đăng trong các báo chí ở Paris.
Một vài nhà báo Pháp lạc quan đến nỗi cho rằng Hitler chỉ hăm dọa suông chứ không dám tấn công trước cuộc bài bố lực lượng hùng hổ của quân đội Pháp, và ức đóan rằng có thể chiến tranh sẽ " chấm dứt trước khi khởi sự ".
Chính phủ Pháp Daladier vẫn tiếp tục phô trương " sức mạnh vĩ đại của quân đội Pháp sẵn sàng tiêu diệt kẻ thù ". Các nhà chính trị nổi tiếng của Pháp thường tuyên bố rằng lần này nước Pháp nhận lãnh trách nhiệm thanh toán lần chót vấn đề bành trướng đế quốc Ðức hăm dọa hoà bình thế giới, và quả quyết rằng chiến tranh này là " Chiến tranh cuối cùng của những Chiến tranh " theo danh từ mới thường phổ biến trên các báo Paris.
Hành chánh thuộc địa Pháp ở Ðông dương ( mà các nhật báo An nam nịnh Tây thường gọi là Ðông Pháp, Indochine Francaise cũng làm phát ngôn viên của chính phủ Paris, và các nhật báo An nam ở Saigon, Huế, Hà Nội, hằng ngày phổ biến những bản diễn văn hoặc những lời tuyên bố hùng hồn rất lạc quan, rất kiêu hãnh của các chính khách Pháp ở Paris, của vị Toàn quyền và các Thủ hiến Pháp ở Ðông dương.
Phải nhìn nhận sự thật này, là lối tuyên truyền của thực dân Pháp đề cao sức mạnh của họ, cương quyết và khéo léo đến nỗi quảng đại quần chúng An nam từ Nam đến Bắc, đều tin tưởng nơi sức mạnh của Pháp, và hành chánh thuộc địa dựa vào tin tưởng ấy mà duy trì rất dễ dàng chế độ đô hộ Pháp ở năm xứ Ðông dương.
Sự kiện thực tế ấy cũng đè nặng trong trí óc của những người cách mạng An nam và các đảng cách mạng kể cả đảng cộng sản An nam, vẫn tiếp tục hoạt động lén lút, chưa dám công khai, vì không một lãnh tụ nào tin tưởng vào sự thành công dễ dàng và mau chóng của công việc mạo hiểm của mình. Ảnh hưởng thâm đậm của Pháp hãy còn mãnh liệt trên khắp các từng lớp nhân dân thuộc địa.
Tuấn theo dõi sát tình hình chiến cuộc Pháp Ðức ở Tây Âu , Nhật Tàu ở Ðông Dương, và cuộc diện Ðông dương tuy bề ngoài trầm lặng, nhưng không phải không ngấm ngầm sôi đông bên trong.
Một vài biện pháp thông thường, tuy đối với dân An nam hãy còn mới lạ như phòng thủ thụ động, đào hầm trú ẩn, bọc đèn chiến tranh bằng vải đen, như đã nói ở trên, ngoài ra không có thay đổi lớn lao, rõ rệt hơn.
Sau phong trào xôn xao của vài tuần lễ đầu, từ khi Pháp tuyên chiến ngày 3/9, đời sống hằng ngày của dân chúng trở lại bình thản, giống như tình hình chiến cuộc bất động ở tiền tuyến Pháp vậy.
Riêng Tuấn để ý thấy từ tuần lễ thứ ba, những chuyến tàu điện ( tramway) trên đường Hà Nội - Hà Đông , khởi chạy từ 3 giờ sáng ( thường nhật chỉ bắt đầu chạy lúc 5 giờ) và chở toàn lính khố đỏ An nam ( tirailleurs Annamites) của "Ðệ Nhứt sư đoàn bộ binh thuộc địa ( 1er légiment de l’ Infanterie coloniale) gọi tắt là R.I.C do sĩ quan Pháp chỉ huy.
Tuấn đoán chừng họ đi tập trận, nhưng không biết tập ở địa điểm nào, và muốn xem họ tập trận như htế nào. Tò mò, Tuấn tìm đến nhà một người đội khố đỏ Bắc kỳ quen biết đã lâu ( gọi là " khối đỏ " danh từ đặc biệt An nam, không dịch đúng theo danh từ Pháp " tirailleur " chỉ binh chủng bộ binh thuộc địa, đóng một khố vải đỏ nơi lưng quần, và quấn chân đỏ, khác với lính khố xanh ( lính tập), và lính khố vàng riêng biệt của vua An nam ở Huế.). Ông này cho Tuấn biết là cuộc tập trận dọc theo đường Hà Đông, phía trên làng Mộc Nhân khoảng 5 cây số, từ 3 giờ 40 sáng đến 4 giờ 50 sáng.
Có khi tập nơi làng Bưởi hoặc làng Bạch Mai. Ông đội thuật lại cho Tuấn nghe nhiều chi tiết khá hấp dẫn của một cuộc tập trận, trong đó sư đoàn bộ binh chia thành hai phe địch thủ, tranh nhau chiếm một địa điểm đã chỉ định trước. Xe tăn không tham gia tập trận vì xe tăn và xe thiết giáp hầu hết là cũ kỹ, đồ thừa thãi của Pháp từ Ðệ Nhất thế chiến còn lại, bố thí cho quân viễn chinh ở Ðông dương, dùng để biểu diễn trong các cuộc diễn binh hơn là để đi chiến đấu. Phi cơ cũng không tham gia các cuộc tập trận, cổ điển và rất thô sơ ấy, vì lẽ phi trường Gia Lâm, duy nhất của Hà Nội, chỉ có số phi cơ dự trữ không quá 12 chiếc, và hơn một nửa là Morane kiểu 1921 và Petez cũ sửa chữa lại.
Lắm lúc Tuấn suy nghĩ : quân lực của Pháp ở Ðông dương rất yếu ớt, và tổ chức rất sơ sài như thế mà Pháp đè đầu đè cổ được trên một xứ An nam cả ba kỳ dân số trên 25 triệu người, thì cũng lạ thật ! Ðành rằng họ còn có một đội quân " Lê dương " - Légion Etrangère gồm dân thuộc địa Phi châu, và nhiều nhất là Malgaches, Marocains, Sénéagalais.
Dân chúng An nam gọi bọn này bằng một danh từ chung là " lính Tây đen ", không phân biệt chủng tộc nào cả, hoặc " lính lê dương ".
Bọn này thật là dữ tợn, và thực tế gồm toàn dân du đãng trộm cướp giết người, thường tội, bỏ trốn quê hương xin nhập tịch vào đội quân lê dương Pháp.
Theo Tuấn dò hỏi thì ngoài những lính Bắc Phi châu, đội quân Lê dương còn có người Ðức, Áo, Tiệp Khắc, Y pha Nho và Thuỵ sĩ.
Ðông hơn nhất là người Ðức và Tiệp Khắc. Mặc dầu họ là những kẻ vong bổn, bỏ quốc tịch của họ, trốn qua Pháp xin làm lính Lê dương, và trình độ văn hoá rất thấp kém, nhiều chú dốt đặc, nhưng họ vẫn có mặc cảm tự tôn, mặc cảm Tây phương, đối với dân tộc An nam.
Tuy nhiên hầu hết chúng có vợ An nam và chú nào cũng bị người vợ bổn xứ đè đầu đè cổ hiếp đáp, nhiều khi đánh đập tàn nhẫn nếu người " me tây " bắt gặp chúng đi chơi điếm, hoặc đem tiền lương về không đủ số, hoặc không vui vẻ tuân theo một mệnh lệnh của " chérie ".
Một chú lê dương Ðức, 27 tuổi, nói tâm sự cùng với Tuấn rằng nếu hắn đàn áp những người cách mạng An nam một cách vô cùng dã man trong một cuộc khủng bố ở Nghệ An chỉ là để trả thù lại những lúc hắn bị người vợ An nam khủng bố hắn còn dã man hơn thế nữa mà hắn cũng ráng chịu.
Sự trả thù ấy hắn cũng không dám nói cho vợ hắn biết. Tên Lê dương này đã thi đổ tú tài, đã học Ðại học Filburg (Ðức) nhưng lỡ hiếp dâm một cô bạn gái, bị cô này kiện ra toà, nên y trốn sang Alsace ( Pháp) xin nhập Pháp tịch và đăng vào đạo lính lê dương, được đổi qua đồn trú tại Marakech ( Maroc) rồi qua Hà Nôị. Chính hắn sau này chơi thân với Tuấn và lén lút cho Tuấn nhiều tin tức bí mật về các cuộc dự định của quân đội Pháp ở Ðông dương chống nhật, và chống cách mạng An nam.
Ðồng thời Tuấn đã liên lạc được với một người bạn quen từ lâu, lúc bấy giờ làm sĩ quan ở Binh đoàn Khố Ðỏ ( compagnie des Tirailleurs Annamites) tên là Nguyễn Ngọc Lễ, anh là một thanh niên quê quán miền Trung, tuy làm lính cho Pháp nhưng tinh thần nòi giống rất cao, có khí phách cách mạng, vẫn nuôi hoài bão quốc gia độc lập.
Sau này, năm 1948, Nguyễn ngọc Lễ làm đại tá chỉ huy trưởng Vệ binh đoàn ở Huế, rồi làm Tổng giám đốc công an được vài ba năm dưới thờ Ngô Ðình Diệm, sau trở về quân đội cộng hòa, thiếu tướng Nguyễn Ngọc Lễ tham gia hăng hái cuộc đảo chính chống Diệm vào năm 1963, và được lên cấp trung tướng.
Tuấn thường xuyên liên lạc với anh đội khố đỏ Nguyễn Ngọc Lễ từ tháng 10 năm 1939, sau một cuộc họp bí mật ở một gian nhà của nữ đồng chí ở Nam Ðồng, gần nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Trong buổi họp, ngoài cô bạn đồng chí, Tuấn và Nguyễn Ngọc Lễ, còn có hai sinh viên trường Cao đẳng Y khoa, và một nhà văn.
Mục đích của nhóm này là kết nạp một số đồng chí có lý tưởng quốc gia thuần tuý, không nương dựa một thế lực ngoại bang nào cả. Năm 1939, các giới trí thức Việt Nam bị chia rõ rệt thành 5 khuynh hướng :
- Một số thân Pháp tin tưởng Pháp sẽ thắng trận,
- một số theo mệnh lệnh Ðệ Tam quốc tế của Nga sô ở Moscow ( cộng sản đệ tam) hoặc Ðệ Tứ quốc tế ở Paris, tuy là Trotsky ở Mexique ( cộng sản đệ tứ),
- một số thân Nhật bản, và
- một số trung thành với chủ trương VNQDÐ của Nguyễn Thái Học, nhưng có phần dựa vào Quốc dân đảng ( Koo-Minh Tang) của Tưởng Giới Thạch.
Trong lúc đó, một nhóm thanh niên trí thức thuần túy quốc gia âm thầm lập tại Hà Nội một mặt trận Antifascistes Indépendants, gọi tắt là AFI (độc lập chống phát xít), chủ trương tích cực tranh đấu cho quốc gia Việt Nam độc lập, mà chống Pháp, chống Nhật, chống cộng sản ( cả đệ tam lẫn đệ tứ) và khi độc lập được rồi sẽ liên kết với tất cả các khối quốc gia trên thế giới, trên chủ quyền quốc gia bình đẳng.
Anh đội khố đỏ Nguyễn Ngọc Lễ rất hoan nghênh chủ trương ấy, vì anh cũng chống Pháp, chống Nhật, chống cộng sản. Rất hăng hái, nhưng nhóm này hoạt động rất khó khăn, gặp rất nhiều trở ngại ngay trong giới cách mạng Việt Nam.
Trên lỉnh vực văn nghệ, Tuấn biết Khái Hưng và Nguyễn Tường Tam đang thành lập đảng Việt Nam Dân Chính có khuynh hướng thân Nhật rõ ràng. Nguyễn Triệu Luật và Lan Khai, rất thân với Nhượng Tống và triệt để theo đường lối cách mạng VNQDÐ của giai đoạn 1930, đường lối mà Tuấn cho rằng có tính chất phong kiến, lỗi thời, không kết nạp được quảng đại quần chúng, nghĩa là không tranh thủ kịp với bọn cộng sản trên phương diện tuyên truyền và tranh đấu chống đế quốc thực dân và phát xít.
Các ông cụ của Ðông Kinh Nghĩa Thục hầu hết là nhà nho, như Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc, còn rất nhiều hoài niệm về Nhật bổn, và đang liên lạc mật thiết với nhóm của Trần Trung Lập, con nuôi của cụ Cường Ðể, ở Quảng Ðông.
Cộng sản, thì ai cũng biết, nhóm Võ Nguyên Giáp, Ðặng Thái Mai, Trần Huy Liệu, Ðặng Xuân Khu.
Tất cả các đảng trên hoạt động tuyên truyền hăng hái, tuy ngấm ngầm, trong các giới công chức, tư chức, giáo chức và thương mãi kỹ nghệ. Chỉ có cộng sản là đi sâu vào các giới bình dân lao động mà thôi.
Nhóm thanh niên quốc gia thuần tuý, độc lập chống phát xít của Tuấn gặp toàn là chống đối. Danh từ phát xít lúc bấy giờ riêng ở Việt Nam bao gồm chủ nghĩa đế quốc Pháp và Nhật. Nhóm AFI của Tuấn ghép cả vào đó chủ nghĩa đế quốc cộng sản Ðệ tam và Ðệ tứ.
Do đó mà " liên đoàn các nhà văn chống phát xít " - Ligue des Ecrivains Antifascistes do Tuấn lập ra với sự tham gia trong giờ đầu tiên của Võ Nguyên Giáp, Ðặng Thái Mai và Jean Lang ( cộng hoà độc lập, chủ nhiệm báo La Jeune République, trụ sở ở sát cạnh toà báo L’ Annam Nouveau của Lê Thăng ( luật sư, có vợ đầm, có chân trong hội Tam Ðiểm, Franc Maconnerie, và kế vị Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút báo L’ Annam Nouveau. Hiện nay ở Saigon). - bị tan rã ngay sau 2 tháng hoạt động suông.
Giáp không đồng ý về danh từ " phát xít " của Tuấn và các đồng chí trong nhóm "độc lập chống phát xít ". Trong một cuộc thảo luận, Tuấn có nói :" Ai cũng biết rằng danh từ " fascite" phát xuất từ Tây Âu lần đầu tiên từ khi Mussolini lên nắm chánh quyền ở La Mã, và áp dụng chế độ độc tài phát xít. Sau đó, người ta gọi chung các chế độ độc tài, Ðức quốc xã của Hitler và quân phiệt Nhật của Tojo, bằng danh từ phát xít.
Ở Việt Nam, danh từ phát xít được ám chỉ cả đế quốc thực dân Pháp cũng như đế quốc Nhật.
Hai anh Ðặng Thái Mai và Võ Nguyên Giáp gia nhập " liên đoàn các nhà văn chống phát xít " với chủ đích lôi kéo liên đoàn này vào đảng cộng sản, nhưng khi gặp sự cương quyết nhận định ý nghĩa chống luôn cả phát xít Nga sô, do các bạn của nhóm AFI chủ trương, hai anh ấy rút lui.
Ðối với các đảng phái quốc gia thân Nhật, Tuấn và các bạn đồng chí cũng gặp sự chống đối quyết liệt như thế.
Một buổi tối, sau một cuộc nhóm họp chung của các phần tử còn lại với nhau sau khi Mặt trận bình dân đổ vỡ, Nguyễn Tường Tam cùng Tuấn ra về một lúc, cùng đi một đường, dọc bờ hồ Hoàn Kiếm. Tam hỏiTuấn bằng giọng khôi hài :
- Người Nhật làm gì hại anh mà anh chống Nhật ?
Tuấn cười trả lời :
- Thế thì người Nhật làm gì cho anh mà anh thân Nhật.
Câu chuyện đấu khẩu nửa thật nửa đùa kéo dài cho đến đầu đường xe điện đi Thái Hà ấp. Nhưng lập trường chính trị và cách mạng của Tuấn vẫn cương quyết bảo vệ tính chất thuần túy quốc gia, mặc dầu các phong trào thân Nhật, thân Pháp, đang đồng thời phát triển ngấm ngầm, và đả kích nhau sôi nổi trong các giới trí thức Hà thành bị chia rẽ vì lập trường chính trị.
Việc Staline ký hiệp ước " bất xâm lăng " của Hitler lại là một dịp để Tuấn đả kích chính sách cộng sản, và Tuấn hăm hở nói với Võ Nguyên Giáp và Trần Huy Liệu rằng Staline phản bội các đảng cộng sản thế giới.
Sau đó một tháng, đảng cộng sản Pháp cũng bị lung lay trong nội bộ, và một số đảng viên thuần thành đã chính thức ly khai đảng để chống lại chánh sách phản bội của Staline và cộng sản Nga Sô. Trong số đảng viên cộng sản ly khai này, có nghị sĩ cộng sản Maurice Honel, người đã được cộng sản Pháp phái qua An nam năm 1917, để tiếp xúc với cộng sản An nam, và đã được Võ Nguyên Giáp và các đồng chí của anh tiếp đón vô cùng long trọng.
Lời tuyên bố ly khai của 32 nghị sĩ cộng sản, trong đó có Maurice Honel, đã được đăng trong các báo Pháp : " Paris Soir ", L’Intransigeant, Match de la Vie " v.v…
Tuấn cũng hiểu rằng Staline ký " hiệp ước bất xâm lăng " … traité de non-agression - với Hitler là để có thì giờ chuẩn bị đương đầu với nhà độc tài Nazi, chứ thực tâm Staline vẫn coi Hitler là " một tên đồ tể ghê gớm, một tên khát máu ", nhưng Staline cũng chẳng đạo đức gì hơn. Hiệp ước bất xâm phạm ký kết ở Moscow giữa Ribbentrop ngoại trưởng của Hitler và Molotov, ngoại trưởng của Staline, chỉ là một thủ đoạn chính trị mà cả hai đều có thâm ý lợi dụng trong một giai đoạn để chuẩn bị sẵn sàng một cuộc tàn sát tiêu diệt trong tương lai gần gũi đó thôi.
Năm 1939, mấy anh cộng sản An nam ở Hà Nội cũng đưa cái lý luận đó ra để bênh vực chính sách " tài tình siêu việt " của Staline, mà họ gọi bằng tiếng Pháp là " la politique géniale de Staline ".
Nhưng Tuấn nhất định chống cãi rằng cái chính sách ấy nếu có lợi riêng cho Nga xô trong giai đoạn chưa chuẩn bị đầy đủ để đương đầu với Hitler, thì, trái lại, nó là một đòn nham hiểm, cho Hitler được rảnh tay ở phía Ðông, để dồn lực lượng vào cuộc tấn công bão tố các nước Tây phương.
Thâm ý của Staline là để Hitler tiêu diệt các đế quốc Tây Âu ( Pháp, Anh, Hoà Lan, v,v…) tạo cơ hội cho cộng sản Tây Âu nổi dậy, rồi Staline sẽ đánh bại Hitler, với sự hơp lực của cộng sản Tây Âu thành ba bốn mặt trận cộng sản bao vây Ðức quốc xã như một gọng kềm vĩ đại.
Hitler thì tính rảnh tay ở phía Ðông để tiêu diệt Pháp, Hoà Lan, Bỉ, Anh rồi quay lại đập Nga xô. Nhưng cả Hitler lẫn Staline đều không ngờ đến sức kháng cự quyết liệt và kinh khủng của Anh, và sau đó đến sự can thiệp của Mỹ.
Cho nên, sau khi ký hiệp ước " thân thiện " với Nga xô. Hitler tạm yên trí ở phía Ðông, dồn hết quân lực mở cuộc tấn công chớp nhoáng về phía Tây, các bác Ðức gọi là Blikzkrieg đánh lấy Luxembourg, Bỉ, Hoà Lan, Pháp, không đầy 20 ngày.
Ðồng thời Suède, Norvège, Danemark cũng bị quân Quốc xã chiếm đóng. Quân đội Hitler tràn ngập luôn cả vào các nước Nam Âu sát vùng Caucase của Nga.
Nguyễn Vỹ
Tuấn Chàng Trai Nước Việt
CHƯƠNG 42
1940
- Tin Paris bị quân đội Hitler chiếm đóng làm xôn xao dư luận dân chúng Việt Nam.
- De Gaulle Toàn quyền Catroux.
- Hà Nội báo động.
- Hải Phòng bị Nhật ném bom lần đầu tiên.
- Dân chúng Hà Nội tản cư về các vùng quê.
- Lạng Sơn bị Nhật chiếm. Việt Nam Phục Quốc Quân.
- Phi cơ và quân đội Nhật ào ạt đến Hà Nôị.
- Những câu sấm Trạng Trình.
- De Gaulle Toàn quyền Catroux.
- Hà Nội báo động.
- Hải Phòng bị Nhật ném bom lần đầu tiên.
- Dân chúng Hà Nội tản cư về các vùng quê.
- Lạng Sơn bị Nhật chiếm. Việt Nam Phục Quốc Quân.
- Phi cơ và quân đội Nhật ào ạt đến Hà Nôị.
- Những câu sấm Trạng Trình.
Ở Hà Nội, tin chiến tuyến Maginot bị đổ vỡ, và Paris bị thất thủ, gây một không khí xúc động mãnh liệt bất ngờ, so với trận Ðệ Nhất Thế Chiến giữa Ðức và Pháp kéo dài 4 năm từ 1914 đến 1918. Người ta đều tin tưởng rằng trận Ðệ Nhị Thế Chiến này dù Ðức mạnh đến đâu chăng nữa, Pháp cũng chống cự được 3,b4 năm, với sự giúp đỡ của đồng minh.
Ai ngờ đâu quân đội Hitler tràn ngập đất Pháp với một lực lượng kinh hoàng như sấm sét chà nghiến các chiến trường Pháp như một con quái vật khổng lồ dẫm lên một bầy người tí hon. Tất cả đều chết bẹp, hoặc còn sống sót thì chạy tán loạn không kịp thở.
Cả một đoàn quân Ðồng minh Anh cũng vội vàng chạy ra hải cảng Dunkerque, bỏ lại nước Pháp trơ vơ, rối loạn, khiếp đỡm, làm mồi cho quân Ðức.
Hà Nội xôn xao với những tin chiến trận bất ngờ ấy. Các giới cách mạng " An nam " cũng vô cùng kinh ngạc. Chẳng có một đảng phái quốc gia nào, và cả đảng cộng sản, chuẩn bị sẵn sang để chờ đón biến cố phi thường ấy, hầu như là phi lý …
Ðó là vào giữa tháng 5 năm 1940…
Tin tức bên Pháp vẫn qua đều đều và dồn dập mỗi ngày nhiều biến cố mới, hầu hết là bi đát và trái ngược nhau, chứng tỏ một tình trạng chính trị vô cùng hỗn loạn. Nội các Paul Reynaud cố tiếp tục chiến tranh mặc dầu ngày 10-6-1940, Paris đã bị quân đội của Hitler chiếm đóng mà không tốn một viên đạn.
Paris đã được tuyên bố là thành phố bỏ ngỏ. Quân đội Pháp đã tản cư vội vã và lộn xộn. Trong cuộc " chạy giặc " vĩ đại của những đợt sóng dân chúng hoàn toàn rối loạn từ các tỉnh miền Bắc ào ạt tiến xuống các vùng quê miền Tây và miền Nam, làm nghẻn tất cả các con đường.
Tổng thống Lebrun, và nội các Paul Reynaud cũng hấp tấp tản cư về Orléans rồi chạy xuống Bordeaux, hải cảng cuối cùng của miền Tây Nam, trên bờ Ðại tây dương. Nơi đây chính phủ Thượng và Hạ viện Pháp chia làm hai phe : một theo Paul Reynaud quyết tản cư qua thuộc địa Algérie ở Bắc Phi châu và tiếp tục chiến đấu, một phe theo Thống chế Pétain và Ðại tướng Weygand xin đầu hàng và đơn phương đình chiến với Ðức, nghĩa là phản bội lại Ðồng minh Anh quốc. Vì áp lực quân sự quá mạnh, lực lượng quân đội Pháp hoàn toàn bị tan rã, nên phe đầu hàng thắng thế. Thống chế Pétain, vị anh hùng thắng ở Verdun hồi Ðệ Nhất Thế chiến đứng ra lập một chính phủ đầu hàng ở Vichy. Pierre Laval làm thủ tướng chủ trương triệt để hợp tác với Ðức và nhận mệnh lệnh của Hitler.
Ðại tá De Gaulle vừa mới được Paul Reynaud làm cho Thứ trưởng Bộ Chiến tranh hồi tháng 5-1940, và được thăng cấp bực Thiếu tướng, từ Bordeaux đã trốn bay qua Luân đôn để thành lập một chính phủ lưu vong. Ngày 18 tháng 6 ông kêu gọi người Pháp tiếp tục chiến đấu với sự bảo trợ của Churchill và chính phủ Anh hoàng của George V.
Nhóm De Gaulle lúc bấy giờ mới có độ năm bảy người thôi.
Đông dương vẫn còn nguyên vẹn là Ðông Pháp, thuộc địa của Pháp. Lời kêu gọi của De Gaulle đọc trong đài B.B.C ở Luân Ðôn vẫn được loan truyền ở Saigon, Huế, Hà Nội, cũng như ở Phnom-Penh ( thủ đô Cao Miên ) à Luang Prabang, Vientiane ( Lào ).
Nhưng đồng thời dân chúng An nam cũng được nghe lời hiệu triệu của Thống chế Pétain, bây giờ gọi là Quốc trưởng Quốc gia Pháp ( Chef de l ‘État Francais ) vì chế độ cộng hoà đã bị bãi bỏ. Pétain kêu gọi các thuộc địa Pháp " hãy trung thành chính phủ hợp pháp của Thống chế ở Vichy " và đừng nghe lời tên " phản quốc De Gaulle ". Ông này mệnh danh là " lãnh tụ nước Pháp tự do " ( chef de la France Libre ) đã bị chính phủ Vichy kết án tử hình khiếm diện.
Tất cả những tin tức trái ngược và hổn độn ấy khiến cho dân chúng An nam vô cùng thắc mắc, và bàn tán rất xôn xao. Các giới cách mạng và chính trị ở Hà Nôị, Saigon, đã bắt đầu rục rịch theo dõi sát tình hình biến chuyễn ở Pháp hằng ngày, hằng giờ, để …tuỳ cơ ứng biến.
Có một điều mà Tuấn đặc biệt chú ý, là tình hình chính phủ và quân sự của Pháp quốc đã bị phá sản như thế rồi, mà giới quan lại và trưởng giả An nam vẫn còn trung thành với " mẫu quốc " của họ.
Ở Hà Nội cũng như ở Huế và Saigon, những lớp người đã được ân huệ của Pháp, riêng ở Nam kỳ hầu hết là những kẻ đã nhập tịch dân Pháp, như một số đông Thượng thơ, Tổng đốc Tuần phủ, đại kỷ nghệ gia ở bắc kỳ và Trung kỳ, những Ðốc phủ sứ và " Bác vật ", bác sĩ, kỹ sư, commis, "đội đồng, đại điền chủ ở Nam kỳ, đều công khai bày tỏ " lòng tri ân và luyến ái, tận tuỵ trung thành không nao núng " của họ đối với " Nước Ðại Pháp Bảo Hộ ", " Mẫu Quốc " của họ," leur attachement inébranlable à la Mère-Patrie ".
Nhưng " Mère Patrie " nào ? Vì " mẫu quốc "đã bị chia làm hai phe, công khai đả kich lẫn nhau, thù địch lẫn nhau, chửi nhau là phản quốc. Dĩ nhiên, trong những ngày đầu tiên của tháng 6 và tháng 7 cho đến tháng 9, tháng 10 năm 1940, những người Pháp cai trị ở Ðông dương đều khuynh hướng theo chính phủ kháng chiến của De Gaulle.
Lý do rất dễ hiểu, vì lòng ái quốc của lớp người Pháp ấy cũng có một phần, nhưng phần lớn là lòng tự ái của họ đối với các dân tộc thuộc địa ở Ðông dương, nhất là đối với dân An nam. Tự ái vì họ đã bị quân Ðức đánh bại, xứ họ đang bị quân Ðức chiếm đóng một nửa ( miền Bắc ) gồm cả thủ đô Paris, còn một nửa miền Nam Thống chế Pétain, vị anh hùng của họ đã oanh liệt hồi nào giờ lại làm quốc trưởng bù nhìn được Hitler cho đóng đô ở thành phố Vichy bé nhỏ. Thật là một nhục nhã, cho nên vị chúa tể của họ là đại tướng Catroux, Toàn quyền Ðông dương, đã công khai theo phe De Gaulle để chứng tỏ cho dân chúng An nam và Miên, Lào thấy rằng họ chưa thật sự chiến bại.
" Nước Pháp đã thua một trận giặc, chứ không phải thua giặc " như lời hiệu triệu của De Gaulle ngày 18-6-1940 :" La France a perdu une bataille, elle n’a pas perdu la guerre ".
Các giới An nam thân Pháp thì nhất định theo chiều hướng của Hành chánh Pháp ở thuộc địa. Viên toàn quyền và các viên Khâm sứ ( Trung kỳ ) Thống sứ ( Bắc kỳ ), Thống đốc ( Nam kỳ ) chủ trương như thế nào, họ cũng vổ tay hoan nghênh nhiệt liệt. Họ vẫn hoàn toàn tin tưởng nơi nước Pháp, bất cứ là cái nước Pháp nào.
Các giới cách mạng An nam nắt đầu hội họp bí mật ngày đêm để thảo luận và theo dõi sát tình hình Pháp, Ðức, và Âu châu. Ðông Nam Á còn yên ổn ( trừ cuộc chiến tranh thường xuyên giữa Nhật và Trung Hoa ).
Những đề tài thảo luận sôi nổi nhất là thái độ của Nhật đối với Ðông dương sẽ như thế nào ?
Ở Hà Nội lúc bấy giờ có hai nhóm chống Nhật, và ba nhóm thân Nhật.
Chống Nhật là đảng Cộng sản và nhóm AFI của Tuấn ( Antifascistes Indépendants ) - chống Phát xít Ðộc lập. Nhóm này gồm có Nguyễn Ngọc Lễ, nữ đồng chí Khuê Lưu, Tuấn, hai sinh viên Y-khoa, và Thọ, một sinh viên trường Luật.
( Khuê Lưu sau bị quân Pháp bắn chết ở Việt trì ). Nhóm Chống Phát xít Ðộc lập đi tuyên truyền ở Hà Nội, Hải Phòng, bị các nhóm thân Nhật đả kích kịch liệt. Căn cứ trên tình hình chiến sự ở Âu châu, nhóm của Tuấn nhận xét rằng Nhật và Pháp sẽ đánh nhau trên lãnh thổ Việt Nam. Tuấn có viết sách chống Nhật, tiết lộ Kế hoạch Tanaka mà đám quân phiệt Nhật đang áp dụng, chủ trương bành trướng thế lực Nhật ở toàn thể Ðông Nam Á, xâm chiếm An nam, Cao Miên, Lào, làm căn cứ để tràn qua Xiêm, Miến Ðiện và Ấn Ðộ, đồng thời chiếm Tân Gia Ba để chận đường của Anh, Pháp, Hòa Lan. Nhưng nhóm Tuấn lại nghĩ rằng bọn đế quốc thực dân Âu châu sẽ kêu gọi Mỹ về phe Ðồng minh với họ để diệt Nhật.
Nhóm Tuấn tin rằng thế nào Pháp và Nhật cũng sẽ đánh nhau vì Nhật ở trong " trục thép " ( axe d’acier) Berlin - Rome, Tokyo, đồng minh với Ðức và Ý. Bọn Pháp ở Ðông dương theo phe De Gaulle tức là chống Nhật, thì dĩ nhiên Nhật sẽ đánh Ðông dương và Anh, Mỹ sẽ đổ bộ ở đây. Dân chúng Việt Nam sẽ thừa cơ hội duy nhất đó để nổi dậy đòi Ðồng minh Anh - Mỹ bắt buộc Pháp phải trao trả độc lập cho mình, theo nguyên tắc " 14 điểm của tổng thống Wilson hồi 18-19 xác nhận :" quyền dân tộc tự quyết ( le droit des peuples de disposer d’eux-mêmes ).
Nhóm AFI của Tuấn lấy câu này làm khẩu hiệu tranh đấu với các nước đồng minh. Nhóm này đi hoạt động hoàn toàn bí mật, đợi khi nào Anh Mỹ đổ bộ ở Việt Nam, nhóm sẽ công khai ra mặt đòi độc lập.
Ðêm trung thu năm 1940, anh đội khố đỏ Nguyễn Ngọc Lễ vừa ăn bánh trung thu tại nhà nữ đồng chí Khuê Lưu, vừa xầm xì cho Tuấn và các đồng chí biết tin Nhật chuẩn bị đổ bộ Hải Phòng, nội trong tháng 8.
Người Pháp biết nhưng sẽ không dám làm gì để đối phó. Người Pháp ở Ðông dương tuy bề ngoài ra vẻ hiu hiu tự đắc để lừa bịp bịt mắt dân chúng, và tuyên bố phòng thủ Ðông dương rất kiên cố, chống mọi cuộc xâm lăng bất cứ từ đâu đến, nhưng kỳ thực họ vẫn gờm Nhật bản, và lo sợ Nhật gây hấn.
Cái tin sốt dẻo của Nguyễn Ngọc Lễ, hình như cũng có nhiều người biết, nhất là trong quân đội Pháp, nên từ ngày hôm sau tin ấy được loan truyền rỉ tai khắp cả Hà Nội và Hải Phòng. Cùng một lúc, viên Ðốc lý thành phố Hà Nội ra lịnh bắt dân chúng gấp rút sửa sang lại các hầm trú ẩn lâu ngày để cỏ mọc tùm lum, nước đọng dơ bẩn, và đào thêm nhiều hầm mới.
Tiếng đồn xôn xao khắp thành phố, tuy chưa thấy dấu hiệu gì chứng tỏ người Nhật sắp hành động gây chiến. Ði đâu cũng nghe dân chúng xầm xì bàn tán sắp có đánh nhau ở Hải Phòng.
Ông Ba Ngữ, một ông đồ Nho ở Phố Hàng Bạc, gặp Tuấn, khẻ bảo :" Tôi chả lo ! Các cụ xưa đả bảo : Thăng Long bất chiến tự nhiên thành. Tuy nhiên không khí Hà Nôị đã thay đổi một không khí hồi hộp, nặng nề, lo âu. Nhiều gia đình đã tính việc tản cư tạm về quê, để nghe ngóng xem sau.
Sáng ngày 19/9, Tuấn mua vé xe lửa đi Hải Phòng để dò xét tình hình. Gặp mấy người bạn thân. Tuấn hỏi, họ cười bảo :" Tin đồn, dân chúng ở đây đã biết cả, nhưng chả thấy gì ". Hải cảng không có phòng thủ, gần như một thành phố bỏ ngỏ. Dân chúng làm công việc hằng ngày chẳng có gì xôn xao.
Trở về Hà Nội, Tuấn nghe tin hai người Triều tiên có tiệm bán nhân sâm ở phố Hàng Ðẫy gần chợ cửa Nam, tự nhiên bị nhà chức trách Pháp bắt. Nhà buôn Nhật DainamKoosi ở phố hàng Nón tự nhiên đóng cửa. Nghe thiên hạ đồn rằng mấy người Nhật đã bỏ trốn đi cả.
Ðó là những triệu chứng bắt đầu tiết lộ một biến cố trầm trọng sắp xảy ra.
Ðùng một cái, 7 giờ sáng ngày 23/9/1940, Hà Nội có báo động. Lần này là báo thật sự, vì toà Ðốc lý không cho biết trước. Toàn thể dân chúng nhao nhao chạy xuống các hầm nấp. Hai chiếc máy bay Pháp bay vù vù trên vòm trời Hà Nôị, nhưng bay thật cao.
Thế rồi, không biết do ai truyền tin mà người này bảo người cho người kia biết là Nhật đang ném bom Hải Phòng. Hà Nội báo động vì có thể máy bay Nhật sẽ đến ném bom Hà Nội trong chốc lát. Dân chúng Hà Nôị lần này hoảng hốt thật sự. Thiến hạ nhốn nháo cả lên. Con nít bị lôi kéo xuống hầm, la khóc om sòm.
Buổi sáng hôm ấy, 23 tháng 9 năm 1940. Tuấn dậy thật sớm, đi lang thang trên phố Hàng Bột, quãng đưòng này từ Ô Chợ Dừa ( Khâm thiên ) đến ngã ba đường Duvillier ( phố Hàng Ðẩy ) dọc bên hông Văn Miếu (đền thờ Khổng Tử ) đến phố Sinh Từ.
6 giờ, mặt trời chưa mọc. Khí trời mát mẻ, một làn gió hiu hiu thổi phất phơ trên ngọn cỏ lá cây. Thành phố Hà Nội còn đang ngủ. Bổng tiếng còi báo động rú lên. Lúc đầu còn nho nhỏ rôì to dần, to dần, vang dội 36 phố phường như một tiếng mê sảng, thét lên trong ác mộng. Nghe rùng rợn làm sao !
Trong giây phút, tất cả kinh thành Hà Nôị đều tỉnh dậy, hoảng hốt, đổ xô xuống các hầm trú ẩn, chạy tán loạn trên các ngả đường.
Tin rằng máy bay Nhật chắc là không ném bom làm chi xuống Miếu Ðức Khổng Tử, Tuấn trèo ngay trên bức thành sau, bức thành đầy rêu với vôi gạch ngày xưa đã đổ nát nhiều, ngồi chờ xem và nghe ngóng. Một mình ngồi cheo leo trên đỉnh thành. Tuấn ngó xuống các hầm chữ chi đào chằng chịt trên các đám đất hoang gần Miếu. đông nghẹt những người trú ẩn. Một cặp vợ chồng trưởng giả ở Phố Hàng Ðẫy, vợ choàng chiếc áo ngủ chưa kịp cài nút, quần ống thấp ống cao, chồng mặc quần đùi, khoác aó pyjama bằng vải sọc, nắm tay nhau chạy hớt hơ hớt hãi lên phố Hàng Bột. Vấp vào đống đá xám của lục lộ đổ bên lề đường, bà vợ té xuống đá, ông chồng vội ôm xốc lấy bà, chạy khấp khểng xuống cái hầm gần đấy. Những người đứng chật ních dưới hầm, nước mưa đọng lâu ngày lên đến đầu gối, tuy họ đang lo sợ ném bom, nhưng vẫn không nhịn cười được, tất cả đều cười rồ lên khi thấy ông chồng lính quýnh té luôn với bà vợ ngay trên miệng hầm. Hai ông bà ôm nhau chặt cứng, cả hai đều nằm sắp mặt xuống cỏ, không dám ngó lên. Hai chiếc máy bay màu xám, đang vần trên trời, tiếng kêu vù vù làm rung động cả không gian.
Họ tưởng máy bay Nhật từ Hải Phòng bay lên và sắp ném bom, nhưng ngó kỹ thấy bóng dáng quen thuộc của hai chiếc Morane thám thính cũ-xì của Pháp, có lẽ để trấn tỉnh dân thành phố hơn là để phòng thủ, hay sẵn sàng nghênh chiến. Ngồi điềm nhiên trên tường miếu Khổng Tử, Tuấn thoáng nghĩ rằng, nếu máy bay Nhật bay đến đây thì chắc là hai chiếc Morane kia phải vội vàng cút mất, chớ đừng hòng nghênh chiến.
Máy bay chiến đấu của Pháp ở phi trường Gia Lâm có một chiếc Potez cũ, làm gì mà không thấy bay lên phòng thủ thủ đô ? Hay chúng đã bay trốn đi từ khuya rồi ?
Còi báo động đã im tiếng từ lâu. Mặt trời đã mọc, rọi ánh nắng trên một thành phố im lìm gần như nín thở. Tuấn có cảm tưởng trái tim Hà Nội đang đập mạnh trong cơn mê sảng trầm trọng, lo sợ Tử thần sắp bay đến bằng những chiếc cách đen ngòm và ghê rợn. Dân chúng dồn xuống các hầm trú ẩn, sợ hãi cho đến nỗi trẻ con khóc họ cũng bịt miệng chúng lại, một cái mũ cái khăn có màu xanh đỏ loè loẹt họ cũng cất dấu đi.
Một tiếng đồng hồ, lâu dằng dặc. Hồi còi lại rú lên …chấm dứt báo động. Dân chúng từ các hầm trú ẩn đọng nước lóp ngóp trèo lên, chạy nhanh về nhà.
Tuấn xuống phố Sinh Từ, gặp một người bạn họa sĩ Nguyệt Hồ, người Nam Ðịnh. Gầy như caí que, ngực lép xẹp, mang đôi giày há mồm. Nguyệt Hồ cười mừng hỏi Tuấn :
- Ở đâu ra đây, cậu ?
Tuấn hất hàm về phía Văn Miếu :
- Ở sau bếp nhà cụ Khổng, còn cậu ?
- Tớ nấp trong sân Hội Dục Anh của cụ cả Khiêm.
Rồi nghiêm nét mặt, Nguyệt Hồ bảo nhỏ :
- Hải Phòng bị ném hai quả bom, chắc cậu biết tin rồi chứ gì ?
- Mình cũng vừa nghe tin đây. Hình như không có ai chết. Tụi Nhật chỉ ném bom xuống bờ biển để hăm dọa thôi.
- Láo ! Có người chết lu bù. Nghe nói một quả rơi xuống phố Od’handal… Ðây không phải là tin tức của đài Phát Thanh, vì lúc bấy giờ Hà Nội chưa có Ðài Phát Thanh loan truyền tin tức, và cũng chẳng nhà nào có radio. Tất cả tin tức biết được cấp thời đều do một số người được ưu thế nghe lỏm nhờ làm việc trong Phủ Toàn quyền, trong các giới cao cấp Hành chánh Bảo hộ hoặc trong các trại lính Tây.
Vì thế nên tin đồn rất nhiều, nhưng nhiều khi trái ngược nhau, do những người vô tình hay cố ý loan truyền thất thiệt hoặc do các giới bồi bếp của Tây không hiểu rõ tiếng Pháp nên loan tin sai lầm.
Chỉ một giờ sau khi hết báo động là cả thành phố đều biết tin Hải Phòng bị ném bom. Nguyệt Hồ và Tuấn đi dọc theo phố Sinh Từ xuống chợ cửa Nam gặp một người bạn. Có vẻ bí mật, người bạn không ai khác hơn là Lê Văn Trương, cho biết Quân đội Nhật hoàng đang đánh Lạng Sơn.
Tuấn hỏi Trương :
- Cậu lấy tin ở đâu thế ? Có thật không ? Hay là gián điệp cho Nhật đấy ?
Trương trố mắt la :
- Tao nói dối mày, tao làm con chó ! Chúng nó đang đánh nhau ầm ầm ở biên giới. Giờ chúng tao đang nói với chúng mày đấy không khéo Lạng Sơn mất mẹ nó rồi còn gì !
Vội vàng từ gĩa Lê Văn Trương và Nguyệt Hồ, Tuấn chạy một mạch về nhà Minh Phương, ngõ Văn Tân. Ðây là nhà xuất bản các sách báo của Tuấn.
Ðến đây Tuấn được biết rằng ông Minh Phương đã đưa mẹ, vợ và con " về quê lánh nạn ". Phong trào " về quê lánh nạn "đang được thịnh hành ở Hà Nội từ một tuần lễ đầu có chuyện rục rịch đánh nhau giữa Nhật và Pháp ở Bắc Kỳ. Chỉ còn anh bếp ở lại giữ nhà. Lúc Tuấn đến, anh bếp từ dưới hầm trú ẩn ở trong sân vừa chui ra, hỏi Tuấn :
- Hết báo động rồi sao, cậu Tuấn ?
- Hết từ nãy giờ. Chú không nghe à ?
- Sợ thấy mồ, còn nghe cái khỉ khô gì đâu !
- Ông Minh Phương đâu ?
- Ông ấy đem mẹ nó cả gia đình về lánh nạn rồi còn chó gì.
- Ông ấy đi lúc nào ? Chiều hôm qua chưa đi mà ?
- Còn mỗi một mình chú ở lại giữ nhà thôi à ?
- Thế mới cực bỏ mẹ.
- Cực cái gì ?
- Chứ cậu nghĩ xem : Hai ông bà lo đi về quê lánh nạn, bỏ tôi ở lại giữ nhà, nhỡ bom ném xuống sập nhà thì làm thế nào ? Tôi phải dọn cất các đồ đạc trong nhà, chả dám đi đâu cả !
- Không sao đâu, đừng lo.
- Cậu ở đâu ?
- Tôi vẫn ở phố Mã Mây.
- Thôi cậu dọn về ở đây với tôi cho vui, nhé ? Tôi thổi cơm cho cậu ăn. Ở đây đánh cờ tướng chơi.
Tuấn cười :
- Giặc giã đến nơi, ở đó mà đánh cờ tướng !
- Nghĩ cho kỹ thì Nhật họ đánh Tây, chứ ăn thua gì An nam, phải không cậu ? Tây phải phòng thủ Hà Nội.
- Ðất này là đất An nam chứ đất Tây à ? Nhật nó đánh Hà Nôị, thì nó làm thịt chúng mình ! Còn Tây thì Nhật quét hết xuống hồ Hoàn Kiếm, thây kệ chúng nó chứ.
- Ồ Thăng Long bất chiến tự nhiên thành, mà cậu !
- Nếu thế thì chú còn sợ cái quái gì ?
- Sợ máy bay Nhật ném bom thôi. Hôm nào Hà Nội bị ném bom thì tôi cũng chuồn về quê lánh nạn. Còn cậu ?
- Tôi chả đi đâu cả.
Tiếng còi báo động lại rú lên rùng rợn.
- Thấy mẹ !
Chú bếp vừa kêu hoảng lên như thế vừa chui vội xuống hầm. Trong nháy mắt chú biến mất tiêu. Tuấn do dự thấy chiếc thang dựng nơi vách tường, Tuấn leo tuốt lên sân thượng để xem dân thành phố chạy đi trú ẩn lần nữa.
Khi nào máy bay Nhật đến, mình sẽ nằm sấp xuống sàn sân thượng để nghe ngóng và ngóc đầu xem nó ném ở chỗ nào, và ném bom cách nào ….
Tuấn quyết không chạy trốn và ở tại chỗ để quan sát tường tận những giờ phút bắt đầu biến chuyễn của Lịch Sử.
Thăng Long, 10 giờ sáng ngày 23/9/1940.
Tin Hải Phòng bị Nhật ném bom vừa được xác nhận, toàn thể dân chúng lo sợ quân đội Nhật Hoàng đổ bộ lên Hải Phòng, chiến tranh sẽ xẩy ra giữa quân Nhật và quân Pháp. Dư luận của người An nam rất phân vân, vì ít người biết rõ thực lực của Nhật và cả của Pháp ở Bắc kỳ. Nếu Nhật đổ bộ và chiếm Hải Phòng, thì họ sẽ lần lượt theo đường xe lửa kéo lên đánh chiếm Hải Dương, Bắc Ninh, rồi tới Hà Nội. Thế nào rồi Hà Nội cũng bị ném bom, và chắc chắn chiến tranh sẽ ác liệt, Bắc kỳ sắp biến thành bãi chiến trường.
Nói đúng ra thì đại đa số người An nam không lo sợ cho xứ sở và cho thân mình. Bàn tán với nhau về chiến cuộc đang bùng nổ, họ chỉ than thở bằng một câu tục ngữ :" trâu bò húc nhau , ruồi muỗi chết ". Họ có cảm tưởng rõ rệt là nếu Tây thua trận, thì Nhật sẽ chiếm cứ Hà Nội, Bắc kỳ, và người An nam sẽ mặc nhiên phải thay chủ cũ, để làm nô lệ cho chủ mới. Thế thôi !.
Ý tưởng rất giản dị ấy thay thế cho tinh thần chiến đấu hầu như đã mất mát khá nhiều, nơi đa số dân An nam sau nửa thế kỷ thế kỷ chịu đựng cuộc đô hộ của Pháp. Dân chúng có khuynh hướng cầu an vì cái mặc cảm yếu hèn của một thói quen làm nô lệ, cho nên họ tự coi mình như " ruồi muỗi ", trong cuộc xô xát giữa " trâu bò ". Chính vì tâm trạng bạc nhược đó mà các đảng phái cách mạng thường gặp nhiều khó khăn trong việc chiêu mộ đồng chí, do sự lãnh đạm sợ sệt của số đông quần chúng.
Vả lại, nếu chiến tranh bùng nổ ở Ðông dương, thì chỉ có Nhật với Pháp đánh nhau. Chứ An nam có gì đâu để đánh ? Một khí giới tự vệ cũng không có, thì biết đánh đập ai ?
Nhưng rồi ai nấy đều ngạc nhiên nghe tin tỉnh Lạng Sơn ở biên giới Trung Hoa bị quân Nhật vừa đánh chiếm hôm trước, thì hôm sau họ giao trả lại cho Tây.
Cái tin sét đánh ấy khiến mọi người đều ngơ ngác, chẳng hiểu sao cả, Hà Nôị nhận được tin từ biên giới loan về cho biết Nhật đã đánh lấy Lạng sơn với một Ðạo quân Cách mạng của Cường Ðể. Quân Pháp chết rất nhiều. Cờ Nhật đã bay phất phớ tại tỉnh thành Lạng Sơn.
Ðám thân Nhật của Vũ Đình Duy, chủ nhiệm báo Effort Indochinois, và Nguyễn Tường Tam được cơ hội tuyên truyền công khai ở Hà Nội. Duy hãnh diện bảo Tuấn :
- Anh thấy không, Tuấn ? Việt nam mình đã thắng Pháp rồi đấy.
Tuấn hỏi :
- Việt Nam thắng hay Nhật thắng ?
- Nhật chỉ giúp ta. Chính Quân đôị Việt Nam Phục Quốc ở Quảng Tây đã chiếm được thành phố Lạng Sơn.
- Nếu thế thì đáng khen Phục Quốc quân. Nhưng sao lại có tin là quân Nhật đã giao trả Lạng Sơn lại cho Pháp, và một nhóm Việt Nam Phục Quốc Quân do người con nuôi của Cường Ðể chỉ huy, theo quân Nhật vào Lạng Sơn đã bị Nhật bỏ rơi và bị quân Pháp đánh đuổi tơi bời và giết hại rất nhiều.
Tuấn tìm đến hỏi Duy thì Duy đã đi mất, Tuấn tìm đến Nguyễn Tường Tam, Tam cũng biến đi đường nào, không ai biết tăm hơi ở đâu.
Tình hình Hà Nội trở lại yên tỉnh, không còn báo động nữa, và Hải Phòng cũng bình yên vô sự. Chiến tranh " quái gở " chỉ kéo dài có 24 tiếng đồng hồ. Ðồng thời, tất cả các nhật báo Ðông Pháp, Tin Mới, Trung Bắc, đều đăng những dòng chữ lớn, 8 cột, loan tin :" Trung tướng Ninshihara đã đến Hà Nội viếng thăm Ðại tướng Catroux, Toàn quyền Ðông dương.
Tôí hôm đó, anh đội khố đỏ Nguyễn Ngọc Lễ cho Tuấn và các đồng chí trong nhóm biết :" Trung tướng Nishihara cầm đầu một phái đoàn Nhật bổn đã đến ở dinh Toàn quyền để thương thuyết về vụ Quân đôị Nhật hoàng sắp chính thức được qua chiếm đóng Hà Nội.
Theo những tin tức của anh đội khố đỏ đã nghe ngóng trong trại lính của anh thì người Nhật đòi người Pháp phải để cho Nhật được quyền kiểm soát đường xe lửa Hà Nội - Lạng Sơn và Hà Nội - Vân Nam. Vì người Nhật nghi người Pháp đã dùng hai đường xe lửa nầy để tiếp tế khí giới cho Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh.
Nhưng đó chỉ là một cái cớ để Nhật qua chiếm Bắc kỳ mà khỏi phảỉ chiến tranh với Pháp. Cuộc ném bom ở Hải Phòng, và trận đánh chiếm Lạng Sơn chỉ có mục đích làm áp lực Toàn quyền Catroux phải chấp nhận những yêu sách của Nhật.
Trước sức mạnh hùng hổ của quân đội Nhật hoàng, tướng Catroux đã phải buộc lòng nhượng bộ, và phái đoàn Nishihara được tiếp đón trọng thể tại Phủ Toàn quyền.
Những yêu sách quân sự của Nhật đã được thỏa mãn, Nhật liền trả tỉnh thành Lạng Sơn lại cho Pháp, và bỏ rơi nhóm Phục Quốc Quân Việt Nam của Cường Ðể. Nhóm này không quá 300 người, bị quân Pháp tái chiếm Lạng Sơn, đánh giết tơi tả, còn sống sót một số ít tàn quân phaỉ trốn tránh trong rừng núi Quảng Tây, Quảng Ðông.
Tại Hà Nội, những người An nam thân Nhật trở lại tiếp tục hoạt động ráo riết. Rất nhiều tin đồn được loan truyền trong dân chúng về việc tướng Nhật Nishihara đến Phủ Toàn quyền. Người ta đồn rằng phái đoàn Nhật gồm nhiều người An nam cách mạng ở Nhật lâu ngày, nói tiếng Nhật rất thạo, lất tên Nhật và mặc quân phục Nhật.
Trong buổi tiệc do Ðại tướng Catroux, Toàn quyền Ðông dương thết đãi phái đoàn Nhật, một viên Sĩ quan cao cấp Nhật không ngần ngại cho Catroux biết ông là người Việt Nam, và y hỏi Catroux tại sao dám áp chế và bạc đãi người An nam ?
Viên Toàn quyền trả lời bướng bỉnh sao đó, thì liền bị người An nam cải trang làm Sĩ quan Nhật kia đánh hai bạt tai nẩy lửa. Toàn quyền Catroux đành câm miệng, chịu đòn, không dám hó hé.
Những chuyện đồn đãi như thế rất nhiều, tuy là bịa đặt nhưng vẫn được dân chúng tin là có thật. Rồi ít xít ra nhiều, những " giai thoại ly kỳ quái gở tràn ngập khắp dư luận thành phố Hà Nội, cho đến đỗi tụi trẻ nít cũng biết và đi đâu cũng nghe bàn tán chung quanh những mẫu chuện " Nhật Bổn "được thêm bớt khác nhau ".
Người ta còn tiết lộ cả tên họ và quê quán của những vị " anh hùng " An nam dưới chiêu bài Sĩ quan cao cấp Nhật Bổn ấy nữa.
Thật ra những tin đồn có quá nhiều người An nam mặc quân phục đeo lon Sĩ quan cao cấp Nhật trong phái đoàn của tướng Nishihara đến Hà Nôị đều là những tin thất thiệt.
Ðó là những tin do các đảng phái An nam thân Nhật phao truyền ra để gây uy tín cho chính họ đối với đồng bào và đối với các đảng phái khác. Xem danh sách phái đoàn Nhật của Nishihara ( Mission Japonaise ) đăng trong các báo người ta chỉ thấy toàn những tên Nhật, không có danh tánh " An nam " nào. Giả sử họ dấu tên thật của họ dưới một tên Nhật, thì họ đâu còn là người " An nam " nữa ? Và đấy đâu phải là một điều hãnh diện cho họ, hay là cho Quê Hương của họ ?
Môt lối tuyên truyền khác cũng do các phần tử thân Nhật phổ biến trong dân chúng, là các câu " sấm " mà họ gán đại cho Trạng Trình.
Người Nhật đến Hà Nội một tháng thì người ta thấy nơi đầu cầu sông Cái ( cầu Doumer ) ở phía Gia Lâm có một anh mù ngồi kéo đàn cò và hát giọng sa-mạc những câu sấm để xin tiền khách qua đường đứng lại nghe anh. Ðại khái anh hát những câu sau đây :
Bao giờ cua cái đổi càng,
Thì giống da vàng đùm bọc lẫn nhau,
Những loài da trắng mắt thau ,
Bồng con bế vợ dắt nhau ra về.
Một hôm Tuấn sang cầu Gia Lâm nghe anh ta hát. Trong đám đông thính giả, có một cụ già hỏi :
- Cua cái đổi càng là nghĩa thế nào, hả anh ?
Anh ca sĩ mù giảng giải với giọng nói của người Thái Bình :
- Con cua cái nó có hai cái càng không đều nhau, càng bên phải thì nớn, càng bên trái thì nhỏ. Daọ này nó nại đổi càng, bên phải thì nhỏ, bên trái thì nớn.
- Sao anh biết ?
- Cụ không tin thì Cụ ra chợ, đến hàng bán cua mà xem có phải rằng nà cái càng bên trái thì nại nà nớn không ?
- À thế hả ?
- Thế mới thật nà đúng mấy câu Sấm Trạng Trình.
- À thế ra câu hát ấy là Sấm Trạng Trình đấy à ? Anh thuộc nhiều sấm Trạng Trình thế cơ ?
- Sấm của cụ Trạng Trình thì tôi thuộc nằm nòng. Chả thế mà tôi thấy như cái câu ấy nà rất đúng mấy thời sự.
- Ðúng với thời sự như thế nào ?
- Này nhé : Bao giờ cua cái đổi càng, nà cụ đã tiên tri rằng đến ngày nay nà cua cái đổi càng, thì giống da vàng đùm bọc lấy nhau. Giống da vàng thì người An nam mấy người Nhật nà cùng giống da vàng, phải đùm bọc mấy nhau …che chở nẩn nhau. Còn những người da trắng mắt thau nà …ai ? Người có học nà hiểu giống người nào nà da trắng mắt thau. Tôi chưa nói Cụ cũng biết nà ai chứ ? Chúng nó sẽ bồng con bế vợ dắt nhau ra về. Nghĩa nà chúng sẽ bị giống da vàng đuổi về, chúng phải bồng bế vợ con mà đi về bên xứ. Ðấy, câu sấm này ninh ứng như thế. Cụ Trạng Trình tiên tri nà không có sai bao giờ.
Người ta lại được nghe một câu " sấm Trạng Trình" này nữa cũng do anh mù ở đầu cầu Gia Lâm hát ra :
Bao giờ thằng Bảo ra thau,
Thầy Tăng xách gói mau mau ra về
Anh mù giảng cho thính giả nghe :
-Thằng Bảo …nà….nà…
Không nói tiếp anh mò bàn tay tong chiếc mũ nỉ " hàng phở " mà anh để ngửa ra trước chổ nhồi để khách từ tâm vứt đây cho anh những đồng hai hào, một hào, một xu, và tiền " Bảo Ðại ", loại tiền này bằng thau, mà dân chúng thường gọi là tiền " chinh " ( 6 đồng chinh Bảo Ðại là 1 xu ) nhỏ bằng nửa đồng tiền Khải Ðịnh. Anh mù nhặt một đồng chinh Bảo Ðại trong chiếc mũ đựng tiền bố thí của khách, đưa cao lên và giảng tiếp :
- Bao giờ thằng Bảo ra thau, nà Bảo Ðại phát hành ra đồng tiền thau này, thì…Thầy Tăng …nói nái ra là …thằng Tây xách gói mau mau ra về. Ðấy, cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã biết trước việc Bảo Ðại phát hành ra tiền chinh bằng thau, và thằng tây lo xách gói ra về. Tức nà câu sâm ninh ứng vào thời thế bây giờ …
Những câu " sấm " như thế mà mấy người An nam thân Nhật bịa đặt ra và lợi dụng uy tín của cụ Trạng Trình để gán cho cụ, đều có mục đích tuyên truyền cho Nhật cho các đảng phái thân Nhật, tay sai của Nhật như Vũ Đình Duy, Nguyễn Tường Tam, v.v…và bọn " Nhật bổn xứ " mà ngươi Pháp gọi là à Japs locaux.
Nói đúng ra, thì người Nhật đã làm cho những bọn người tay sai thất vọng nhiều trong mấy lúc đầu. Họ tưởng Nhật đổ bộ lên Hải Phòng, sẽ chiếm các tỉnh, rôì lên chiếm kinh đô Hà Nôị. Họ tưởng rằng Nhật ném bom Hải Phòng và đánh chiếm tỉnh lỵ Lạng Sơn là mở màn cho cuộc chiếm đóng toàn thể lãnh thổ An nam, và giải phóng cho dân tộc An nam.
Họ thật không ngờ Trung tướng Nishihara, trưởng phái đoàn Nhật Bổn, qua tiếp xúc với phủ Toàn quyền Pháp ở Hà Nôị là chỉ có nhiệm vụ ký một bản hiệp ước cho Quân Ðội Nhật hoàng, có quyền kiểm soát đường xe lửa Hà nội - Vân Nam để ngăn ngừa đồng minh Anh Mỹ xử dụng đường xe lửa ấy để tiếp tế khí giới cho chính phủ Tưởng Giời Thạch xuyên qua Vân Nam phủ.
Toàn quyền Catroux ký thỏa hiệp ấy xong, là người Nhật trả liền tỉnh Lạng Sơn lại cho Pháp, bỏ rơi cả bộ đội " Việt Nam Phục Quốc Quân " của Trần Trung Lập ( con nuôi của Cường Ðể ), bộ đội này đã cùng đi theo bộ đôị Nhật của tướng Matsui vào đánh chiếm Lạng Sơn ngày 3/9/1940 cùng một ngày với vụ Nhậtt ném bom 25 kí xuống Hải Phòng.
Sau khi được trở lại Lạng Sơn do quân Nhật trao trả, quân đôị Pháp truy kích V.N Phục Quốc Quân, và đánh tan tành. Một đoàn chạy về phía Mông Cáy rút qua Quảng Ðông, một đoàn khác bị quân Pháp tiêu diệt ngay trong rừng.
Sự phản bội của quân Nhật ở Lạng Sơn đã khiến phe đảng thân Nhật ở Hà Nội vô cùng tức giận, và họ không thể trả lời cách nào suông sẻ cho những người hỏi họ lý do sự phản bôị của người Nhật.
Một chiến sĩ Phục Quốc Quân bị người Pháp bắt giam ở nhà lao Lạng Sơn có viết một cuốn hồi ký bằng chữ li ti rất nhỏ trên giấy hút thuốc, và nhét dấu trong lai quần. Tập Hồi ký nhỏ cho đến nỗi mấy lần anh bị lính Pháp giải qua các cửa ngục, từ Lạng Sơn về Hà Nội, mà lính khám xét trong mình anh rất kỹ vẫn không bắt gặp.
Tuấn được chính tác giả cho xem " quyển " hồi ký chiến sự hy hữu đó trong xà lim mật thám ở Hà Nội, lúc Tuấn bị bắt giam trong đó.
Nguyễn Vỹ
Tuấn Chàng Trai Nước Việt
CHƯƠNG 43
1940 - 1941
- Quân đội Nhật đóng tại Hà Nội, Hải Phòng, rôì chiếm lần vào Huế, Ðà Nẵng, Cam Ranh, Saigon.
- Thái độ của họ đối với dân chúng An nam.
- Xiêm la đổi tên là Thái Lan và Ðồng Minh với Nhật. Thái Lan tuyên chiến với Pháp.
- Ở Cao Miên.
- Mỹ tuyên chiến với Nhật.
- Những hoạt động chống Nhật và thân Nhật.
- Thái độ của họ đối với dân chúng An nam.
- Xiêm la đổi tên là Thái Lan và Ðồng Minh với Nhật. Thái Lan tuyên chiến với Pháp.
- Ở Cao Miên.
- Mỹ tuyên chiến với Nhật.
- Những hoạt động chống Nhật và thân Nhật.
Tháng 9 năm 1940, Quân đội Nhật hoàng chỉ đến đóng ở Hà Nội và Hải Phòng và các tỉnh có đường xe lửa qua Trung Hoa, để " kiểm soát " các chuyến xe lửa không được chở khí giới qua các biên giới Tàu . Họ được quyền xử dụng ba sân bay ở Gia Lâm ( Hà Nội ), Lào Cay và Phủ Lạng Thương .
Lính Nhật mới chân ướt chân ráo đến Hà Nội để chứng tỏ một mặc cảm tự kiêu, tự đại, gây ra một thành kiến tàn bạo cho dân chúng " An nam " khiếp sợ . Thí dụ như tiếng đồn sâu rộng trong dân gian rằng khi người Nhật bắt được một kẻ trộm, kẻ cắp, thì họ sẽ chặt đứt 5 ngón tay của tội nhân . Người nào chống đối họ, họ chém đầu liền .
Cả những người Pháp ở Hà Nội cũng lo sợ …Một bà đầm gặp người lính Nhật ngoài phố, không chào hắn, hoặc nhìn hắn với cặp mắt khinh khỉnh, là bị hắn xấn tới đánh một tát tai nẩy lửa liền, và chửi tơi bời . Nghe nói một ông quan Toà Pháp bị một tên lính Nhật đánh ngay trước cổng Toà, cũng vì nguyên nhân ấy . Chánh quyền Pháp bất lực, can thiệp không hiệu quả, đành đăng báo khuyên dân chúng Pháp, Nam "đối xử nhã nhặn và thân thiện với quân đội Nhật hoàng " ( Les soldats du Mikado ) .
Lính Nhật tổng số đóng ở Bắc kỳ là 6000 người, không được cảm tình của dân chúng, cả tụi con nít ngây thơ và hiếu kỳ thường bu theo họ để làm quen . Phần đông lính Nhật có điệu bộ cứng rắn, nghiêm nghị, khiến thường dân không dám tiếp xúc với họ . Ða số đeo kính trắng, ra vẻ người trí thức, và hầu hết sĩ quan, hạ sĩ quan đều đeo gươm, cái vỏ gươm bằng gỗ dài lòng thòng, mà họ kéo kêu lạch cạch trên đường phố .
Một năm sau, ngày 27-7-1941, một hiệp ước mới ký kết giữa Pháp và Nhật để cho quân đội Nhật hoàng vào đóng ở Huế, Ðà Nẵng, Cam Ranh, và cuối cùng vào Saigon và các tỉnh Nam kỳ . Tất cả vào khoảng 35.000 người .
Nước Xiêm ( Siam ) ký hiệp ước đồng minh với Nhật, và đổi tên là Thái Lan, ( Thailand ) được Nhật xúi dục tuyên chiến với chính phủ thuộc địa Pháp ở Ðông dương, để đòi lại hai tỉnh Battambang và Siemréap của Cao Miên, sát biên giới Xiêm . Thái Lan bảo là đất nguyên thủy của họ .
Lính khố đỏ An nam ở Hà Nội do bộ chỉ huy Pháp đưa đi xe lửa tốc hành vào Saigon để lên Cao Miên đánh giặc Xiêm .
Tuấn xen lẫn trong đám đông dân chúng Hà Nội đi xem cuộc huy động ồn ào náo nhiệt đó tại phố Sanh từ và nhà ga lớn ở Hà Nội, lúc 7 giờ tối một đêm Hè . Tuấn hỏi một anh lính :
- Ðánh giặc Xiêm thì có lính Cao Miên và lính Tây . Sao các anh cũng đi đánh ?
Người lính khố đỏ " An nam " thản nhiên đáp :
- Chúng tôi là lính, quan trên sai đi đâu thì đi đó, chứ biết thế nào mà nói .
Một thầy đội quen biết với Tuấn cũng trả lời y như thế .
Tuấn hỏi :
- Theo anh, thì tụi Xiêm sẽ thắng, hay là Ðông dương sẽ thắng ?
Ông đội khố đỏ cười :
- Có lính An nam mình dự trận, thì Xiêm làm sao thắng nổi ?
Chiến tranh bắt đầu tháng 11-1940, chỉ kéo dài không quá 2 tuần lễ . Lính khố đỏ An nam chiếm đóng biên giới Cao Miên . Lính Xiêm không dám tấn công . Một trận thủy chiến xẩy ra trên vịnh Thái Lan . 3 tàu chiến Xiêm bị Hải Quân Pháp đánh đắm . Thái Lan tổn thất nặng nề và hoàn toàn bại trận . Nhưng Nhật Bản nhẩy vào can thiệp, ép buộc Pháp phải nhượng bộ Thái Lan. Rốt cuộc, Thái Lan thua mà thắng !
Ðêm 22-11-1940, lợi dụng chiến cuộc đang bùng nổ giữa Pháp thuộc địa và Xiêm, Kỳ bộ Nam kỳ của Ðảng Cộng Sản Ðông Dương nổi dậy lập " Chánh phủ nhân dân dân chủ cộng hòa Ðông Dương ", và tổng khởi nghĩa ở Hốc Môn, Mỹ Tho, Cần Thơ, Rạch Giá, Bạc Liêu …Toàn quyền Decoux ra lệnh đàn áp ác liệt bằng máy bay ném bom, y như Toàn quyền Robin hồi 1930 ở Cổ Am tàn sát VNQDÐ, 15 ngày sau, phong trào cộng sản ở Ðồng Tháp Mười và các tỉnh ở Nam Kỳ bị dập tắt, đánh đập, và đày đi Côn Lôn .
Ở Hà Nội, các lãnh tụ Cộng sản tìm cách thoát ly ra vùng biên giới Tàu để tiếp tục hoạt động .
Ðồng thời, Việt Nam Phục Quốc Hội của Kỳ ngoại hầu Cường Ðể đang hoạt động mạnh ở vùng Lạng Sơn, sau sau vụ phản bội của Trung Tá Nhật Sato .
Nghe tin Quân đội của V.N. Phục Quốc Hội phải bỏ Lạng Sơn mà chạy trốn qua Tàu, bị quân Pháp đuổi theo sát hại khá nhiều ( 10-1940 ), thanh niên cách mạng Việt Nam ở Hà Nội phẩn uất vô cùng .
Những người đã thù ghét Nhật lại càng chống Nhật quyết liệt hơn . Một số sinh viên, học sinh, thanh niên trí thức chống Nhật bèn chủ trương xúc tiến phong trào " Quốc gia chống Nhật Pháp " . Tuấn hăng hái gia nhập vào nhóm trẻ nầy . Một tờ truyền đơn được phân phát bí mật, " Nhật phản bội Việt Nam Phục Quốc Quân từ Quảng Tây đã đánh chiếm được Lạng Sơn, cùng với đạo quân Quảng Ðông của Nhật, và đang tăng cường lực lượng để biến Lạng Sơn thành căn cứ Quân Ðội Việt Nam Cách mạng . Tại sao Tướng Nishihara lại qua Hà Nội thỏa thuận với Pháp, giao trả lại Lạng Sơn cho Pháp ?
Tại sao ? Dân tộc Việt Nam phẩn uất vì Nhật bổn đã phản bội Việt Nam, và đồng lỏa với thực dân Pháp để đàn áp Việt Nam ! "
Một trong những người hăng hái phát truyền đơn này trong giới Quân lính An nam ở Hà Nội, là viên đội khố đỏ Nguyễn Ngọc Lễ, sau làm Trung Tướng Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoà ở Saigon năm 1963.
Tuấn đêm nào cũng đến với các bạn đồng chí, hoặc đi các tỉnh miền Bắc để quan sát tận mắt, không mấy khi về nhà .
Phe thân Nhật, trong nhóm " Dân Chính Ðảng " của Khái Hưng và Nguyễn Tường Tam họat động ráo riết . Nhưng đảng viên của họ cũng không đông đảo mấy . Một hôm, Tuấn hỏi Khái Hưng về cụ Lạng Sơn . Chủ tịch ban chấp hành Trung ương Dân Chính đảng cười gượng, trả lời :
- Làm sao chúng ta biết được bí mật quân sự của họ . Biết đâu là một chiến lược cao, có lợi cho chính sách khôn khéo của Nhật hoàng ?
Tuấn lại hỏi liền :
- Phản bội đồng minh, là khôn khéo thế nào ?
Sự thật, Dân Chính đảng không thu hút đa số thanh niên trí thức cách mạng . Họ chỉ tuyên truyền lôi kéo được một vài phần tử trưởng giả xu thời ở Hà Nội mà thôi . Cho nên sau đó, năm 1945, Nguyển Tường Tam và Khái Hưng phải bỏ rơi Dân Chính đảng, mà nhảy vào Việt Nam Quốc Dân Ðảng của Vũ Hồng Khanh . Lúc bấy giờ người Nhật đã bại trận và Trung Hoa Quốc Dân Ðảng của Tưởng Giới Thạch đang lên chân .
Ngày 8-12-1941, Mỹ chính thức tuyên chiến với Nhật . Nhưng ngoài những phần tử hoạt động Cách mạng, đời sống dân chúng An nam ở khắp ba Kỳ rất là yên tỉnh . Người ta theo dõi các chiến thắng của Nhật ở Pearl Harbor, HongKong, Manila, Singapore. Nhiều người phục, nhưng không mấy ai tin tưởng cuộc chiến thắng sẽ lâu dài .
Trừ những đồng bào theo đạo Cao Ðài ở Trung Kỳ và Nam Kỳ tin tưởng rằng Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể ( rể của Nhật hoàng ) sẽ là vị Cứu quốc tương lai của Việt Nam, còn thì đại đa số dân chúng vẫn cách biệt quân đội Mikado và giữ thái độ trung lập gần như hoài nghi, đối với Nhật bản .
Ðời sống vật chất của dân chúng trong hai năm 1940 và 1941 có phần khổ cực hơn trước chiến tranh, do sự chiến đóng của 35000 quân nhân Nhật mà chính quyền Pháp ở Ðông dương phải lo tiếp tế đầy đủ lương thực . Lính Nhật ăn khắc khổ và không biết ăn ngon, nhưng họ ăn dữ tợn, ăn gấp hai người mình .
Con gái An nam lấy Nhật cũng không có nhiều, trừ một thiểu số - rất ít - bọn gái điếm, hoặc gái nhẩy . Có lẽ một số phụ nữ Việt Nam thường hay ăn hiếp những người đàn ông hiền lành, mà lại ngán người tàn bạo, nhất là người Nhật .
Với những Quân Nhân và Sĩ Quan Nhật, bộ tịch hung dử luôn luôn đeo gươm dài lê thê bên cạnh mình, con gái An nam khiếp sợ, không dám làm thân .
Cho nên sau 1945, Nhật về xứ, số con nít An nam lai Nhật không có bao nhiêu.
| |||
Nguyễn Vỹ
Tuấn Chàng Trai Nước Việt
CHƯƠNG 45
1944 - 1945
- Hai tờ nhựt báo Saigòn trong nhà tù .
- Chiếc máy bay bí mật.
- Tình hình biến chuyển.
- Giải phóng.
- 9/3/1945 : Chấm dứt cuộc đô hộ Pháp.
- Việt Nam "Ðộc Lập " của Nhật Bổn.
- Bom nguyên tử Mỹ.
- Nhật đầu hàng.
- Chiếc máy bay bí mật.
- Tình hình biến chuyển.
- Giải phóng.
- 9/3/1945 : Chấm dứt cuộc đô hộ Pháp.
- Việt Nam "Ðộc Lập " của Nhật Bổn.
- Bom nguyên tử Mỹ.
- Nhật đầu hàng.
Trại giam tù cách đồn lính Khố xanh ( Garde Indochinois ) 100 thước , do một viên đồn trưởng Pháp chỉ huy . Hắn là một sĩ quan già có đánh giặc ở Syrie-Liban hồi Ðệ Nhất Thế Chiến , và sang Việt Nam được làm " Giám binh Lính Khố Xanh " từ lâu năm .
Cũng như đa số người Pháp theo chính sách tùy thời ở Ðông dương lúc bấy giờ , viên Ðồn trưởng nầy suy tôn Thống chế Pétain là anh hùng cứu quốc của nước Pháp , và chửi bới De Gaulle là " phản quốc ", và phe Ðồng Minh Anh-Mỹ là kẻ thù tàn bạo của nhân dân Pháp .
Trong trại giam , trừ một thiểu số Cao Ðài và đảng Ngô Đình Diệm , còn thì tất cả tù nhân khác đều chống Nhật , và tin tưởng chắc chắn rằng phe Ðồng minh sẽ thắng trận . Nhưng toàn thể tù nhân đều chống Pháp , và coi Thống chế Pétain chỉ là một nhân vật bù nhìn , làm tay sai cho Hitler, không hơn không kém .
Tuy nhiên , muốn đời sống trong lao tù được yên ổn , muốn tránh mọi sự đàn áp và sát hại của viên Ðồn trưởng Pháp và của 150 lính Khố xanh Rhadés triệt để trung thành với y, toàn thể tù nhân đã bảo với nhau cứ giả cờ "ngoan ngoản" ngoài mặt , đừng biểu lộ một chút gì chống lại chính sách của Tây ở Ðông dương . Trái lại mỗi khi viên Ðồn trưởng hay lính hỏi , thì bất cứ người tù nhân nào cũng tán thành ngoan ngoãn Thống chế Pétain …Nói cho qua chuyện , để Tây đừng để ý kiếm chuyện làm hại tù .
Hậu quả bất ngờ của chủ trương dối trá đó , là viên Ðồn trưởng già cho phép tù nhân được đọc hai tờ báo Saigon mỗi ngày : tờ báo Pháp La Dépêche và tờ Ðiện Tín . Chính y gởi mua dài hạn hai tờ báo ấy ở Saigon do ngân sách của nhà tù đài thọ .
Nhờ hai tờ nhật báo , tù nhân được theo dõi hằng ngày những tin tức khá đầy đủ và khá sốt dẻo về chiến cuộc thế giới , cũng như về tình hình sinh hoạt chung trong nước .
Ở mặt trận Tây phương , Quân Ðội Ðồng Minh Anh-Mỹ đã đổ bộ trên đất Pháp nơi hai bờ biển Normandie và Provence, và đang ào ạt tiến sâu vào nội địa , sắp vượt qua sông Rhin và dãy núi Alpes. Ở mặt trận Trung Âu , Nga cũng đang chọc thông các phòng tuyến Ðức và tiến vào Ba Lan …
Ở mặt trận Thái Bình Dương , quân Mỹ của Mac Arthur đã thắng trận ở Corregidor, biển San Hô , đảo Saipan , và đổ bộ lên đất Phi-Luật-Tân .
Những tin chiến thắng sấm sét của phe Ðồng Minh mỗi ngày dồn dập , phe phát-xít Ðức - Ý - Nhật mỗi ngày thất bại thê thảm , làm phấn khởi tinh thần của tù nhân hy vọng chắc chắn vào ngày giải phóng không còn xa lắm nữa .
Ngoài những tin chiến tranh , Tuấn còn đọc hết những tin lặt vặt hàng ngày , cho đến những quảng caó , những dòng rao vặt , để tìm hiểu tất cả những khía cạnh sinh hoạt của đồng bào về mọi phương diện .
Một buổi chiều , vào khoảng 6 giờ , một lúc sau khi mặt trời lặn , tù nhân còn đang chơi ngoài sân , thì một chiếc máy bay Mỹ , U.S Air Force , bỗng từ hướng đông vụt bay qua , tiếng động cơ rầm rầm , sát trên nóc đồn lính Khố Xanh và trên trại giam . Tuấn vừa ngước đầu ngó lên thì phi cơ đã biến mất về phía rừng Cheo Reo , ở hướng Tây .
Chiếc phi cơ bí mật gây xúc động cho cả tù lẫn lính Rhadés , còn viên Ðồn trưởng Pháp thì ngơ ngác lo sợ . Y định báo tin cấp tốc cho Công sứ Pháp ở Sông Cầu biết . Nhưng suy nghĩ một đêm , sáng hôm sau , y hỏi ý kiến một số tù nhân .
Theo Tuấn , thì có lẽ chiếc phi cơ Mỹ từ Thái Bình Dương bay vào để thả dù tiếp tế khí giới cho những nhóm người kháng chiến Ðồng Minh bí mật hoạt động biên giới Việt- Miên - Lào .
Giới Pháp và Cách mạng " An nam "đều biết rằng vào giữa năm 1944, Ðại tướng Pháp Mordant , nguyên Tổng tư lệnh Quân đội Pháp ở Ðông dương (đã xin từ chức ) , và Trung tướng Aymé, Phó tư lệnh lên thay thế Mordant , đang âm mưu tổ chức " Lực lượng kháng chiến chống Nhật " bí mật ở các vùng rừng núi Bắc kỳ , Nam Trung kỳ và Nam kỳ , ở biên giới Việt Miên Lào .
Theo lệnh của De Gaulle , Ðô Ðốc Toàn quyền Decoux được bí mật loan báo về phong trào kháng chiến , nhưng bắt buộc phaỉ làm ngơ . Vả lại , tình hình chính trị của nước Pháp đã biến chuyễn . De Gaulle đã vào Paris nhờ Quân đôị Ðồng minh giải phóng , và lập " Chính phủ lâm thời Cộng Hoà Pháp " giữa sự hoan hô cuồng nhiệt của dân chúng .
Quân đội Hitler baị trận đã bị đánh bạt ra khỏi lãnh thổ Pháp . Thống chế Pétain bị quân đội Ðức bắt cóc đem qua Ðức lập chính phủ bù nhìn lưu vong . Ông gìa khốn đốn đã mất hết uy tín đối với nhân dân Pháp , chỉ còn như một món đồ chơi bị gẫy nát , vô dụng , trong tay của tay lãnh tụ Nazi khát máu điên khùng .
Chính phủ Vichy không còn nữa . Chính quyền thuộc địa Pháp ở Ðông dương cũng mặc nhiên thay đổi chiều hướng , và dù muốn dù không cũng phải tự bắt buộc nhìn nhận De Gaulle , lãnh tụ của nước Pháp vừa giải phóng .
Viên đồn trưởng trại giam , cũng thay đổi lập trường tức khắc . Hắn ra lịnh cho lính Rhadés và tù nhân phải hạ bệ những bức ảnh của Pétain , và treo ảnh De Gaulle lên thay thế . Thích thú nhất là nghe hắn trở giọng hoan hô De Gaulle , nhiệt liệt ca tụng " vị cứu quốc chân chính " của nước Pháp , và không nhắc đến tên Thống chế Pétain nữa . Trên thực tế , sự thay đổi lập trường đó không khó khăn gì , vì màu cờ ba sắc của Pháp và bài quốc thiều La Marseillaise vẫn giữ nguyên vẹn .
Ðồng thời viên đồn trưởng cũng vui mừng báo tin cho tù nhân biết y đã nhận được công văn của Toà Khâm Sứ Huế ra lịnh thả tự do cho một số tù nhân . Tuy nhiên , sự phóng thích sẽ thực hiện từng đợt , cách nhau vài ba tháng .
Ðợt đầu có 20 người nô nức ra về . Toàn thể tù nhân sắp hàng trước nhà tù , hát bài
"Ce n’est qu’un au revoir " để tiễn biệt những người bạn đồng lao may mắn được ân xá trước tiên .
Ðợt thứ hai có 15 người , cũng ra đi với nghi lễ thân mật và cảm động ấy .
Còn lại 70 người , Tuấn sốt ruột lắm vì viên đồn trưởng cho biết những người có hồ sơ nặng nhất sẽ bị ở lại cho đến ngày Chiến Tranh chấm dứt ở Ðông Dương .
Ðến chừng nào ? Tuấn còn bị giam giữ với 70 người ở lại .
Mãi ba tháng sau , viên đồn trưởng mới được lịnh phóng thích đợt ba , trả tự do cho 25 người . Tuấn vui mừng nhảy nhót khi thấy tên mình trong danh sách hồi hương .
Về đến tỉnh nhà đầu tháng 2-1945, Tuấn còn bị lính của sở Mật thám Pháp và của Công Sứ Pháp ở địa phương cho được về làng quê quán , nhưng bị quản thúc ở đấy cho đến hết chiến tranh . Muốn đi đâu phải xin phép ông …Lý trưởng .
Cũng may, Lý trưởng là người bà con trong họ , Tuấn đi chơi thong thả , tự do , khắp các làng , các tổng , huyện , và ở cả tỉnh thành .
Tuấn vô cùng ngạc nhiên nhận thấy , trong các cuộc tiếp xúc thân mật với đủ hạng người trong các giới đồng bào , đa số dân chúng như còn tin tưởng rằng nước Pháp đã nhờ Ðồng minh giúp cho thắng trận chắc sẽ còn ở lại Ðông dương , như sau thời Ðệ Nhất Thế Chiến 1914-1918.
Ðến cả những phần tử cách mạng quốc gia , và cộng sản cũng có ý nghĩ lo ngại như thế . Hầu hết dân chúng đều tin rằng Nhật sẽ bại trận. Ðồng minh sẽ đổ bộ ở Trung , Bắc , Nam kỳ , và Nhật sẽ đầu hàng .
Ðã mấy tháng rồi , không quân Ðồng minh đã làm chủ vòm trời An nam , và phi cơ Mỹ gọi là " pháo đài bay B-19 " và Liberators từ Thái Bình Dương cứ bay vào ném bom mổi buổi sáng , mỗi buổi chiều , khắp các ga xe lửa lớn , và các nơi trong tỉnh có Nhật chiếm đóng rôì bay trở ra biển , mà không hề có phản ứng của cao xạ phòng không Nhật .
Hằng ngày đọc các báo thông tin ở Saigòn và Hà Nôị cũng thấy tình hình Nam Bắc kỳ không khác gì ở Trung kỳ . Phong trào " Thanh niên và Thể dục " của Ðại tá Ducoroy do Toàn quyền Decoux phát động từ năm 1941, vẫn tiếp tục bành trướng khắp cõi Ðông dương .
Tuấn đã chứng kiến một cuộc luân phiên rước đuốc từ Hà Nội vào Saigon . Bốn thanh niên lực sĩ An nam chạy ngang qua tỉnh nhà , trên đường ái quan hồi tám giờ tối tháng 2-1945 , giữa một đám thanh niên và dân chúng đứng hai bên đường hoan hô và cổ vỏ .
Học sinh nam nữ các trường vẫn chăm chỉ đi học . Tình hình thương mãi ở các thành thị vẫn được ổn định , mặc dầu nhiều hàng hóa bị khan hiếm , do chiến tranh gây ra , và nhất là do sự chiếm đóng của trên 35.000 binh sĩ Nhật trên lãnh thổ Việt Nam .
Ở hương thôn , đâu đâu cũng yên tĩnh . Nhiều nhà có cảm tưởng rằng tuy bị Nhật uy hiếp , chính quyền Pháp ở Ðông dương vẫn được củng cố mỗi ngày mỗi mạnh và sẽ có thể tiếp tục " bảo hộ " xứ An nam lâu dài sau khi "Ðồng minh Anh -Mỹ "đánh bại quân Nhật , buộc Nhật phải xếp giáp đầu hàng .
Bỗng nhiên , 8 giờ tối ngày 9-3-1945 tiếng súng nổ ầm ầm ở ngay tỉnh lỵ . Dân chúng không hiểu gì cả , chỉ thất lính Nhật đột ngột di chuyễn rầm rộ trong thành phố , và đánh các đồn lính Khố xanh , Khố đỏ , và lính Lê dương của Pháp .
Sau vài tiếng đồng hồ , tiếng súng im bẵng . Lính Nhật reo cười náo động , la hét om xòm . Bấy giờ dân chúng An nam mới biết rằng Nhật đã đánh Pháp , và làm chủ tất cả các đồn lính . Pháp đã thua cuộc , nhiều lính Pháp chết .
Tất cả người Pháp , từ viên Công sứ , viên Giám binh, viên Chánh mật thám đến người Pháp cuối cùng đều đã bị Nhật bắt giam hết , hồi 11 giờ đêm .
Chính quyền Pháp ở An nam hơn nửa thế kỷ bổng dưng không còn nữa .
Sáng hôm sau , dân chúng An nam được người Nhật cho hay nước An Nam đã Ðộc Lập .
Mấy hôm sau , Tuấn đọc bản " tuyên bố " sau đây được dán khắp nơi , in vừa ráo mực :
" Xét tình hình thế giới , và tình hình riêng của Á Ðông , chánh phủ Việt Nam tuyên bố chính thức rằng , bắt đầu từ ngay hôm nay hiệp ước bảo hộ ký với nước Pháp đã được hủy bỏ , và nước Việt Nam sẽ tự sức dùng những phương tiện riêng , để phát triển cho xứng đáng với địa vị một quốc gia độc lập , và sẽ theo đường lối trong bản tuyên ngôn chung của Ðông Nam Á , và gia nhập vào trật tự chung của Ðại Ðông Á . "
Chính phủ Việt Nam tin tưỏng ở Nhật bản , và cương quyết hợp tác với nước Nhật để đạt mục đích trên .
Khâm Thử
Huế , ngày 27 tháng Giêng , Bảo Ðại năm thứ 20 ( 11-3 -1945 )
Bảo Ðại .
Dưới ký tên toàn thể Cơ Mật Viện gồm 6 vị Thượng Thư đứng đầu là Thượng Thư Bộ Lại : Phạm Quỳnh .
Ở Hà Nội , Huế , Saigòn , và một vài thành phố lớn , do sự sách động của nhóm thân Nhật và tay sai của Nhật ( Hà Nôị có nhóm Nguyễn Văn Cầm , Saigòn có bà Song Thu , Trần Quang Vinh v.v….)) một số người xuống đường biểu tình rầm rộ để " tri ân quân đội Nhật hoàng " . Ngoài ra, quảng đại quần chúng Trung , Nam Bắc đều tỏ vẻ thờ ơ lạnh nhạt với phong trào "độc lập " do Kampétai và Quân đội Nhật gây ra.
Ở các hương thôn , lý trưởng được lịnh tổ chức dân chúng mừng ngày độc lập , tại đình làng .
Tuấn nhận được giấy của Lý trưởng mời đến tham gia lễ Ðộc Lập lúc 9 giờ sáng ngày 17 tháng 3 năm 1945. Cửa đình mở rộng , trước sân đình có cờ , chuông , trống , như ngày cúng Thần . Hội đồng xã chỉ lưa thưa có mấy ông .
Dân chúng chẳng ai đến cả , chỉ trừ một số chức việc có phận sự trong làng .
Ðến giờ , chuông trống nổi dậy , hương xã làm lễ tế Thần . Lý trưởng đọc lời " tuyên cáo Ðộc Lập . Y như một bài văn tế . Xong , chiêng trống tiếp tục và buổi lễ chấm dứt không đầy 30 phút . Không một tiếng vỗ tay . Không một lời hoan hô . Các ông làng xã , khăn đen áo dài khệ nệ như trong các đám cúng thần theo nghi lễ cổ truyền , lặng lẽ đóng cửa đình ra về sau khi dọn dẹp .
Tuấn mượn chiếc xe máy của người em trong làng , cởi chạy khắp các làng tổng kế cận , và các huyện sở , để xem xét tình hình dân chúng . Ðâu đâu cũng thản nhiên , không có một cuộc biểu tình nào của đồng bào mừng lễ Ðộc Lập . Dò hỏi dư luận chung của các giới nhân dân , đều được họ cho rằng , đây chỉ là lễ Ðộc Lập giả hiệu của Nhật bổn . Ðồng bào không mấy hoan nghênh vì chưa phải là "độc lập " thật sự .
Ngày 19-3-1945, theo lời khuyên của Yokoyama , Ðại sứ Nhật ở Huế , Bảo Ðại giải tán Nội Các của Phạm Quỳnh .
Mãi một tháng sau , ngày 19-4-1945, Nội Các Trần Trọng Kim mới thành lập xong , với những thành phần hoàn toàn mới :
Thủ Tướng : Trần Trọng Kim
- Tổng trường Nội Vụ : BS. Trần Ðình Nam
- Ngoại Giao : LS. Trần Văn Chương
- Giáo dục : GS. Hoàng Xuân Hãn .
- Tư Pháp : LS. Trịnh Ðình Thảo
- Tài Chánh : LS . Vũ Văn Hiền .
- Kinh Tế : BS. Hồ Tá Khánh .
- Tiếp Tế : BS. Nguyễn Hữu Thi
- Công Chánh : KS. Lưu Văn Lang
- Y Tế : BS. Vũ Ngọc Anh
- Thanh Niên : LS. Phan Anh .
Hai ông Kinh tế và Công chánh được mời , đã nhận lời miệng , nhưng rút cuộc không tham gia . Bảo Ðại được chính thức tôn lên ngôi " Hoàng Ðế " Việt Nam . Lần đầu tiên từ ngày Tây đô hộ , danh từ " Việt Nam "được chính thức công dụng , và danh từ
"Annam "được bải bỏ .
Việt Nam được thống nhất trên nguyên tắc , và Tuần Vũ Phan Kế Toại được cử làm Khâm Sai Bắc kỳ , nhà báo Nguyễn Văn Sâm ở Saigòn làm Khâm sai Nam kỳ . Cả hai đều về Huế nhận lãnh sắc ấn của Bảo Ðại .
Tuy nhiên , trên thực tế hành chánh , thì người Nhật vẫn đặt Minoda ở Saigon làm Thống Soái Nam kỳ , thay thế vị Thống soái Pháp , Yokoyama ở Huế làm Khâm sứ Trung kỳ thay thế Khâm sứ Pháp , Tsukoyamoto ở Hà Nội làm Thống Sứ Bắc kỳ , thay thế Thống sứ Pháp , kiêm hiệu chức Toàn Quyền Ðông Dương .
Nhiều đảng phái mới cũng bắt đầu xuất hiện và hoạt động mạnh mẽ công khai dưới sự che chở của Nhật .
Ở Hà Nôị , đảng phái Ðại Việt Quốc Xã thu hút đa số phần tử cách mạng quốc gia .
Ở Saigon , có hai đảng Phục Quốc và Việt Nam Quốc Gia Ðộc Lập ( Trần Quang Vinh , Hồ Văn Ngà v.v…) Ở Huế , đảng Tân Việt Nam . Các đảng này đều ủng hộ Nội Các Trần Trọng Kim , và được Nhật khuyến khích .
Ở tù về , Tuấn chưa muốn ra hoạt động trong tình thế rộn rịp và chụp giựt đó , dưới bóng cờ Mặt Trời và cờ chữ Ly . Vả lại , Tuấn được viên Lý trưởng cho biết tin mật rằng người Nhật còn đang theo dõi Tuấn , và Tuấn nên đề phòng .
Vì lẽ , Tuấn ít khi ở nhà , và ban ngày chàng cũng đã chuẩn bị nhiều nơi và những phương tiện để thoát ly nếu có biến cố xẩy ra .
Tuấn được gặp hai người bạn cách mạng ở đồng tỉnh , nhưng ở cách xa làng của Tuấn . Một người trước kia là chủ bút một tờ báo lớn ở Saigòn , và theo nhóm Ðệ Tứ Quốc Tế của Tạ Thu Thâu .
Sau ngày 9-3-1945, nghe tin Tuấn ở tù về , một đêm anh ta xuất hiện dưới mái nhà tranh của Tuấn ẩn nấp , và đề nghị Tuấn tham gia " Mặt Trận Phản Ðế " . Suốt một đềm bàn luận ráo riết về các khía cạnh vấn đề , đến hừng đông , hai người ăn cháo gà , rồi từ gĩa nhau vui vẻ . Nhưng Tuấn đã cương quyết từ chối vào " Mặt Trận " vì nó là một biến thể của Ðệ Tứ Quốc Tế .
Về sau này , Tuấn ở Saigon nghe tin Tạ Thu Thâu bị Việt Minh ám sát ở Quảng Ngãi , hồi tháng 9- 1945, chính là lúc anh đi trên đường đến nhà người bạn đồng chí của " Mặt Trận Phản Ðế "ở Thi-Phổ cùng làng với Phạm Văn Ðồng .
Một đêm khác , cũng sau khi có Nội Các Trần Trọng Kim , Tuấn được tiếp xúc với Võ Tòng , nhà cách mạng ở Xiêm về . Nhà anh này ở cùng Huyện cùng Tổng với Tuấn , nhưng cách xa làng Tuấn đến vài chục cây số , đi loanh quanh theo các hương lộ , Anh này lại muốn rủ Tuấn tham gia vào " Mặt Trận Việt Minh " . Mặt trận này , tuy còn ở trong vòng bí mật hoàn toàn , nhưng đã được tuyên truyền kín đáo và mạnh mẽ khắp các thôn quê trong tỉnh . Mặc dầu có cảm tình sâu đậm với nhau vì lý tưởng cách mạng , Tuấn vẫn từ chối tham gia vào Mặt Trận V.M., Võ Tòng bảo :
- Lúc này cần phải đoàn kết chống thực dân .
- Ðồng ý về điểm đoàn kết chống thực dân , nhưng tôi quyết giữ vững lập trường quốc gia độc lập .
Gà gáy sáng , hai người giã từ nhau , sau một đêm thảo luận cặn kẻ , và không gặp lại nữa .
Ở Saigòn , Tuấn được tin Võ Tòng làm Chủ tịch Uỷ ban Hành chánh Huyện rồi Tỉnh , dưới thời Việt Minh năm 1945-1946, rồi sau đó chết không biết vì lý do gì . ( Sau này Tuấn được tin anh bị Việt Minh giết ) .
Mỹ tiếp tục ném bom khắp các căn cứ Nhật ở Việt Nam từ Bắc vô Nam . Tháng 4 , tháng 5 -1945, Saigòn bị những trận bom Mỹ kinh khủng nhất , do những chiếc " Liberators " kếch xù trút xuống ào ạt nhiều nơi trong thành phố .
Phi cơ Mỹ làm bá chủ trên không phận Việt Nam . Sức phản ứng của Không quân và Phòng không Nhật hầu như càng ngày càng kiệt quệ .
Bổng ngày 2 tháng 8 -195, vào khoảng 5 giờ chiều , một chiếc máy bay từ hướng Bắc trực chỉ vào Nam , bay ngang qua các làng dọc theo dãy Trường Sơn , bay khá thấp và …rải truyền đơn .
Ðồng bào thôn quê xôn xao , chạy khắp nơi tìm lượm những truyền đơn ấy . Tuấn cũng hồi hộp , không làm sao tìm xem được truyền đơn gì , vì máy bay rải quá ít , chỉ thấy lưa thưa vài chục tờ bị gió đưa phất phơ bay lạc vào rừng .
Mãi đến 7, 8 giờ tối , nhiều người ở khắp nơi các làng xa xôi trong huyện , chạy đến nhà Tuấn cầm truyền đơn của họ lượm được rất khó khăn , đưa hỏi Tuấn :
- Thầy Sáu , đọc coi truyền đơn gì đây nè ?
Trên một mãnh giấy trắng lớn bằng bàn tay , in hai thứ chữ , một bằng Anh ngữ , một mặt là Nhật ngữ .
Anh ngữ viết đại khái :"Nhân dân Việt Nam hãy chuẩn bị : Nội trong tuần này Ðồng minh sẽ đổ bộ để giải phóng nước Việt Nam . Quân đôị Nippon hãy đầu hàng sớm ngày nào , sẽ bớt chết chóc sớm ngày đó . Không đầu hàng , các anh sẽ bị tiêu diệt hết " .
Truyền đơn không có ký tên , nhưng ai cũng hiểu rõ là của "Ðồng Minh " và chiếc phi cơ " pháo đài bay B19 " bay khá thấp để rải truyền đơn , mang phù hiệu U.S Air Force .
6-8-1945.
Tin thành phố Hiroshima của Nhật bị một thứ bom mới vô cùng khủng khiếp làm tiêu tan hết , lại do chính một vài người lính Nhật loan truyền . Mấy hôm sau , đọc các báo nói đại khái rằng loại bom đó tên là " Bom Nguyên Tử ".
Ngày 19-8-1945, được tin Nhật đầu hàng vô điều kiện , Tuấn không hành lý , hai tay không , với 100 đồng bạc trong túi , lên xe lửa vô Saigòn ….
No comments:
Post a Comment