Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay
1. Trịnh Công Sơn2. Tuý Hồng
3. Nguyễn Thị Thuỵ Vũ
4. Dương Nghiễm Mậu
5. Nguyễn Đình Toàn
6. Nhật Tiến
7. Thế Uyên
8. Thế Phong
9. Bùi Giáng
10. Võ Hồng
(Xếp theo thứ tự năm sinh từ nhỏ đến lớn: Trịnh Công Sơn, Tuý Hồng, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Nhật Tiến, Thế Uyên, Thế Phong, Bùi Giáng, Võ Hồng)
Dans tous les domaines, le triomphe de la vie est la création.
Trong mọi địa hạt, sự đắc thắng của đời sống là sáng tạo. Henry Bergson (1859-1941) Thưa
Sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam trong vòng mười năm (1961-1970) đã phát triển thật phong phú với sự góp mặt đông đảo những người làm văn nghệ thuộc nhiều lớp tuổi. Họ du nhập vào đời sống nghệ thuật như dòng nước lũ, chảy phăng phăng với những chiều hướng khác biệt nhưng vô cùng sung mãn.
Những người làm nghệ thuật hôm nay, họ không quan niệm văn nghệ có nhiệm vụ nhằm cải tạo nếp sống, hoặc đem cái tinh hoa của nghệ thuật để phục vụ cho mục đích nào đó của xã hội, nhưng chính để tỏ bày trước tập thể, những giá trị mới của suy nghĩ. Bởi vậy, cái ý nghĩa tinh khôi của danh từ, đã biến chất, trở thành một xác định hiển nhiên qua nhiều phương cách sáng tạo. Cái tạp đa (diversité) trong văn nghệ hiện đại, không phải chỉ do sự biến chuyển của những yếu tố cấu tạo nên ngôn ngữ, nó còn là biểu tượng của sự điều hoà thế hệ, ở một thời đại có nhiều biến chuyển đột ngột do thời cuộc đẩy tới.
°
Đi vào văn nghệ là đi vào khung trời đầy rẫy buồn phiền với nhiều ray rứt nội tâm. Cái vòm con sáng tạo treo cao giữa vùng trời suy tưởng, muôn đời vẫn chỉ là ảo ảnh do mộng mơ sáng tạo. Người làm văn nghệ nhìn lên cái vòm cong vinh quang để phác hoạ, mong tìm về cho mình một thuần khiết nào đó, nhưng hỡi ơi! Mỗi lần viết ra, nó lại biến thể qua ngôn ngữ đê trở thành một vùng ám ảnh, mang nhiều chứng tích u uẩn với đêm khuya phủ kín mặt người. Nỗi ám ảnh trong lòng người làm văn nghệ hôm nay, ít nhiều gì cũng trùng hợp với bóng dáng của F. Scott Fitzgerald 1 với chiều sâu bi đát, với nhiều đêm mất ngủ, với khủng hoảng tâm trí, trong mỗi suy nghĩ về tình yêu, cuộc sống và hư vô!
Sự sáng suốt vô tư ở mỗi ý nghĩ hầu như đã biến dạng, chỉ còn lại chua chát của ngôn từ trong mỗi dòng, mỗi ý được phô diễn qua tác phẩm để chứng minh sự thật. – Tại sao như vậy? Những người làm văn nghệ hôm nay, phải chăng bị thôi thúc quá nhiều bởi dục vọng kỳ bí? Họ muốn tiêu huỷ cho hết, dốc đi cho khô cạn những dòng cảm xúc đang ứ nghẹn ở nội tâm? Trước mặt họ, hiện ra một vũ trụ tối đen như niềm tuyệt vọng, không có cả sự tới gần cõi Siêu hình để đối chiếu tương quan giữa con người và khách hàng trước Hư vô. Họ như đứng chênh vênh trên bờ vực thẳm, cong mình ngó xuống: tự đáy sâu bỗng mọc lên sự ô nhục, đớn hèn và phản trắc. Họ vội ẩn mình vào bản ngã. Họ có cảm tưởng như kẻ đứng chờ đợi vĩnh viễn ở biên giới của đời sống, không có hy vọng kinh qua được ngưỡng cửa cách ngăn giữa họ và thực tại. Họ băn khoăn, mệt mỏi trong cuộc hành trình đi tìm thân phân trước ba vấn đề: chiến tranh, tình yêu và đời sống. Cuộc chiến với hai mươi lăm năm hoang phí mà tuổi trẻ chưa một lần an hưởng trọn vẹn, được hình dung bằng vùng trời đầy huyết lệ, ở đó, mỗi số phận như bị buộc chặt vào tập thể, vào định mệnh. Nó có đấy như một kiêu hãnh đồng thời cũng như một nhục nhằn. Chiến đấu cho tự do, dân chủ, danh từ có phải bàn tay Tuý Hồng đang đong đưa chiếc “nôi phù thuỷ” vẫy gọi lũ kên kên mở hội ái tình với tiếng thở dài não nuột! Còn ai kia, đang cất lên tiếng nói độc địa, với dáng điệu hung hãn, phá phách điên cuồng, có phải vóc dáng Thế Phong với những mũi nhọn nén vun vút vào cuộc đời để thoả mãn tự ái? Cái nguồn thương yêu sáng láng và cao cả của tình người giữa những cơn sóng đảo điên ích kỷ, cũng thổn thức đâu đây, qua tâm tư Nhật Tiến với khung trời mơ ước thăng hoa. Cách mạng, chiến tranh, phẫn nộ và tình dục đang quay tít mù giữa cuộc đời đổ vỡ, hình ảnh Thế Uyên im sững nhìn lũ âm binh mải mê thi hành nhiệm vụ. Nay quê hương, ôi! Quê hương yêu dấu! Đã bao lâu rồi, tiếng nói kinh hoàng còn cất lên giữa thinh không bát ngát, gọi về từng chắt chiu kỷ niệm, gọi về dĩ vãng khoả lấp trong bom đạn mịt mù, với bao nhiêu dang dở! Có phải Võ Hồng đó chăng? Tiếng nói trang nghiêm vẫn lẩn khuất nỗi u hoài của thương, của nhớ, của điêu tàn, sụp đổ mơ ước trần gian cùng đắng cay mãi mãi!…
°
Tiếng nói của văn nghệ hôm nay có lúc nó thì thầm thân mật, có lúc nó bùng cháy giận dữ, có lúc nó cay đắng, mỉa mai, có lúc nó dâm loạn, có lúc nó buông thoát, chia lìa!… Trong vùng ánh sáng nghệ thuật chiếu rọi vào đời sống, từng hình ảnh thấp thoáng chạy quanh, đuổi bắt nhau, chửng rỡn nhau như những con múa rối. Chiến tranh, tình yêu và đời sống đã gắn bó từng sự kiện để từ đấy, tạo nên bi kịch!…
Nghệ thuật hôm nay cách biệt hẳn với nghệ thuật tiền chiến. Nó khoẻ và sống hơn nhiều, vì nhờ vào những yếu tố thực tế, với bao nghịch cảnh tác động thẳng vào tri giác, gây phản ứng cho mỗi suy nghĩ. Chính vì suy nghĩ miên man, nên sự tỏ bày tình tiết trong tác phẩm có phần nào rắc rối, và đôi khi khép kín nữa, nhằm kích động tò mò đồng thời cũng để gây hứng thú cảm mỹ. Họ quyết tâm đi theo con đường đã chọn lựa. Họ muốn những suy nghĩ ấy được trực tiếp truyền cảm, không cần đi qua cánh cửa lý trí. Nhưng nghệ thuật vốn cô đơn và buồn rầu, mặc dù chỉ có nó mới đủ khả năng để nhận định đời sống một cách chân thực nhất. Cái dòng sống nội tâm của mỗi cá nhân nghệ sĩ, không ở mặt đất, nó sinh động trong môi trường đặc biệt và bị thúc đẩy vào sâu ý thức, để khám phá ra từng sự thực che giấu sau mỗi đột biến. Nó đi tìm cái căn bản của mỗi trạng huống để trình bày thái độ. Nó hướng vào tương lai với cái nhìn lý tưởng. Nó cũng biết tàn nhẫn bỏ rơi không thương tiếc những cái bất toàn của xã hội (mù quáng, vô ý thức) và tin tưởng vào lẽ tất thắng cuối cùng của sức mạnh hướng thiện. Nó là toàn vẹn. Nó không cần tán tụng, chỉ cần cảm thông. Vì nghệ thuật biểu thị cho niềm tin vĩnh cửu – thực sự cần thiết cho việc tạo dựng một đời sống chân thực. Đôi khi nó cũng là tiếng kèn cấp báo trong đêm tối mịt mùng, hay mang nỗi thất vọng như lời cầu cứu truyền đi trên mặt nước!… Nghệ thuật có sức mạnh tự tại. Nó lấy đà vượt lên, tạo thành chuyển động. Chỉ nghệ thuật mới có thể nói lên cái biểu tượng duy nhất đó. Nếu những người làm văn nghệ để mất đi, thì không còn gì mà tồn tại. Bổn phận của họ phải giữ gìn cái sức mạnh đó trong suy nghĩ và ngôn ngữ. Không biết những người làm văn học nghệ thuật hôm nay, có chia sẻ phần nào với quan điểm của W. Faulkner về văn nghệ, trong bài diễn văn của ông đọc khi lãnh giải Nobel, 1950: … Tôi tin rằng con người không phải chỉ tồn tại một cách đơn giản mà thôi, nó còn phải chiến thắng. Nó bất tử, không phải vì nó là kẻ duy nhất trong tạo vật có một tiếng nói bất tuyệt, nhưng bởi nó có một linh hồn, một tinh thần có khả năng biết xót thương, biết hy sinh và biết kiên trì. Bổn phận các nhà thơ, nhà văn là phải nói lên những điều đó… (“Tôi từ chối thừa nhận sự tận cùng của con người”) … Je crois que l’homme ne doit pas simplement durer, il doit triompher. Il est immortel, non parce qu’il est le seul parmi les créatures à posséder une voix intarissable, mais parce qu’il a une âme, un esprit capable de compassion, de sacrifice ed de persévérance. Le devoir du poète et de l’écrivain est de parler de ces choses… (“Je me refuse à admettre la fin de l’homme”) W. Faulkner, traduction de L. Jacoël Cuốn sách này được thực hiện cùng một chiều hướng với cuốn Mười khuôn mặt văn nghệ, ấn hành năm 1970, nghĩa là kẻ viết chỉ tỏ bày cảm nghĩ của riêng mình đối với mười nhà văn nghệ hiện diện trong những trang sau. Do đó, không tránh được chủ quan trong vấn đề chọn lựa cũng như nhận định giá trị từng người qua tác phẩm và tài năng. Vì ý thức được sự thiếu sót ấy, nên kẻ viết xin gửi nơi đây lời tạ lỗi chân thành đến các văn hữu, nếu kẻ viết không, hoặc chưa khám phá ra những cái Hay, cái Đẹp, cũng như sự trích dẫn chưa đúng mức để mà sáng tỏ toàn bộ sự nghiệp của mỗi vị. Sự thực, khu vườn văn nghệ còn nhiều bông hoa đáng quý, đáng kính khác, hơn một lần, kẻ viết lại cầu mong có hoàn cảnh cùng thời gian để tiếp tục được hân hạnh, lần lượt viết về những tinh hoa của nghệ thuật Việt Nam – những người đã phải trả giá đời mình cho văn nghệ.
°
Cuốn sách đang ở trong tay bạn, chắc chắn còn nhiều sơ suất lỗi lầm. Nhưng dù sao nó cũng được hoàn thành do thiện chí và cố gắng miên tục, với ngày dài cặm cụi, với đêm khuya đèn chong một ngọn, giam mình giữa đống sách ngổn ngang. Từng dòng chữ nhảy múa giữa hồn người mê chữ, ngay cả trong giấc ngủ, mới chợp mắt, ngoài trời đã dựng sáng.
Những cánh hoa đã thả cho bay theo chiều gió, chả biết có cánh nào rơi vào vùng trời hằng mơ ước?… Trịnh Công SơnSinh ngày: 28-2-1939 tại Lạc Giao. Chính quán: Minh Hương. Soạn nhạc từ năm 1958-1959 Tác phẩm: 1. Trên ba mươi bản (Ướt mi, Biển nhớ, Lời buồn thánh, Hạ trắng, Tuổi đá buồn, Nắng thuỷ tinh, Chiều một mình qua phố, Xin mặt trời ngủ yên…) do các nhà xuất bản An Phú, Ly Tao, Minh Phát phát hành từ 1959 đến 1965; 2. Tập Thần thoại quê hương, tình yêu và thân phận do nhà xuất bản An Tiêm và Nhân Bản phát hành 1965-1966; 3. Ca khúc da vàng, Kinh Việt Nam, Ta phải thấy mặt trời, Những tình khúc Trịnh Công Sơn, Như cánh vạc bay, Cỏ xót xa đưa,… do nhà xuất bản Nhân Bản in ấn lần lượt từ 1966 đến 1970-71. Trịnh Công Sơn và tiếng ru máu lệ Tôi là một nghệ sĩ thuần tuý. Tôi chỉ diễn tả những điều gì tôi mơ ước, nhưng tôi không biết làm cách nào để hoàn thành những mơ ước của tôi!… (Trịnh Công Sơn, trích The New York Times, 10-6-1970) Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, không nhạc sĩ nào có thể tạo cho mình, cho thế hệ mình, những cơn lốc nghệ thuật làm lay động đến chiều sâu tâm thức con người ở trong và ngoài kích thước quốc gia như Trịnh Công Sơn. Trong vòng 4, 5 năm trở lại dây, tiếng nhạc Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly đã đi hẳn vào đời sống tâm linh của những trẻ tuổi bằng niềm đau xót và phẫn nộ xen kẽ trong một hoàn cảnhh không mấy thuận lợi vì tình hình quân sự và chính trị. Tiếng nhạc Trịnh Công Sơn đã gieo rắc nỗi ai oán giận hờn bàng bạc trong vòm cong âm thanh để trở thành niềm ám ảnh khôn nguôi ở mỗi lương tri hiện hữu. Cái vòm cong đó như một khung trời trong suốt, ở đấy, mọi cảm xúc được thể hiện rõ ràng qua từng nét nhạc chập chờn, khắc khoải, với vóc dáng xanh xao, với đêm dài không ngủ, với nguồi vui chợt tắt trên môi, với dòng lệ hoà theo tiếng gào thét âm vọng tự cuối trời máu lửa. Trịnh Công Sơn đã rót vào cuộc sống những giọt cường toan hay mật ngọt? Thân phận con người Việt Nam với 25 năm chinh chiến đè nặng trên quê hương này có phải chăng, để chứng minh cho tinh thần bất khuất của một dân tộc đã trải qua nhiều cay đắng và tủi nhục? Nhưng cuộc chiến hôm nay, với những tan nát có đấy, đâu phải cuộc chiến thuần tuý quân sự giữa hai quốc gia, nó đương nhiên là cuộc đấu tranh để chọn lựa chế độ trong một quốc gia với sự cổ võ, trợ lực ở cả hai phe cộng sản và tư bản. Sự xác nhận một vị trí, một tư thế giữa hoàn cảnh này, phải chăng là nhận thức đứng đắn của con người chân chính? Dưới bóng mặt trời hằng ngày soi tỏ từng khuôn mặt anh em, bạn bè đang bị hút cuốn vào guồng máy nhập cuộc, Trịnh Công Sơn thoát ra, không phải để yên thân, hay đóng vai nhân chứng cho lịch sử mà đích thực, Sơn tìm riêng cho mình lối sống cá biệt với những gì mà xã hội đã quen thuộc. Do đó, chiều hướng sáng tạo âm thanh của Trịnh Công Sơn trong hơn 100 ca khúc, tuy không cùng chảy chung nguồn cảm hứng, nhưng tất cả đã khởi hành từ một ý thức, ý thức thê thảm của thân phận làm người trong một môi trường khốn khó: chiến tranh. Chiến tranh, chẳng những gây đổ vỡ, tang tóc cho quê hương, cũng vì nó, bao nhiêu ước mơ phải tàn lụi và tương lai mịt mù vóc dáng. Ai cũng biết vậy, ai cũng nghĩ vậy, chẳng cứ gì Trịnh Công Sơn, nhưng cuộc chiến này, mang một hình thái đặc biệt, ở đấy, con người được quyền chọn lựa chế độ và thái độ trước cuộc sống, do đó, mới cần đến sự góp sức của cá nhân vào tập thể để bảo vệ cuộc sống mình thừa nhận. Sự khước từ nhập cuộc của Trịnh Công Sơn trong âm nhạc, thực ra, cũng chẳng mang lại ảnh hưởng nào tai hại cho cuộc chiến đang diễn ra từng giờ, từng phút trên mảnh đất khốn cùng từ bao năm. Bằng chứng hiển nhiên, không chiến sĩ nào vì các ca khúc Trịnh Công Sơn mà buông súng, từ bỏ vai trò lịch sử của mình. Phải thành thực nhận rằng, các chiến sĩ trẻ rất mến thích Trịnh Công Sơn, vì nhạc của Sơn đã nói lên hộ họ những băn khoăn, tiếc nuối, những đam mê cũng như chán chường của mỗi số phận trong cuộc đời, trước chiến tranh. Nhưng sự ưa thích ở đây, nằm trong vị trí thuần tuý nghệ thuật chẳng những không nguy hiểm mà còn giúp ích cho mỗi số phận tự an ủi, vỗ về bằng những âm thanh chất ngất, bằng ngôn ngữ giao hoà nức nở!… Có một số người cho rằng, nhạc Trịnh Công Sơn là sự phản bội xương máu của các chiến sĩ đã hy sinh ngoài mặt trận từ bao lâu, để giữ vững mảnh đất tự do này, trong đó có Trịnh Công Sơn, gia đình, cùng bè bạn đang góp mặt. Nhưng cũng có người nghĩ, Việt Nam hiện nay là quốc gia dân chủ, mọi công dân đều có quyền bày tỏ ý kiến của riêng mình trong phạm vi này đấy, vì nếu không, còn đâu dân chủ? Bởi vậy, sự hiện diện của Trịnh Công Sơn như một thách đố. Thực ra, vị trí của các ca khúc Trịnh Công Sơn chỉ là cái nút an toàn của chiếc động cơ đang quay với tốc độ khủng khiếp, để tránh một nổ vỡ bất ngờ nào đó, có thể xảy ra ngoài dự định. Trịnh Công Sơn vào đời với vóc dáng độc đáo, với những đắm đuối đến tận cùng của đam mê, hoà trộn cùng niềm đau thương rã cánh của một tâm hồn ngu ngơ, nhìn cuộc đời với lo sợ và chán chường. Chính vì những mâu thuẫn nội tâm phát triển một cách quá mạnh mẽ trong mỗi suy nghĩ, nên tiếng nhạc của Sơn lúc nào cũng choáng váng, ngây ngất trong từng vũng âm thanh run rẩy, nghẹn ngào để chạy trốn vào tiềm thức của người thưởng ngoạn. Rồi nó nằm chết trong đó với buồn thương lãng đãng. Nó đưa con người đi dần vào cơn mê hoặc. Nó làm cho tâm tư bị vò xé bởi niềm đau không thành tiếng. Nó ray rứt, đứt nuối trong mỗi ưu tư về thân phận vật vã trước định mệnh. Nó kéo dài từng cơn mệ loạn làm ngất ngư thân xác. Ca khúc Trịnh Công Sơn, dù ở bản nào cũng vậy, không mang một ý tình cứu rỗi, một ân huệ thiêng liêng, nó có đấy như biểu tượng của oán hờn! Dòng nhạc Trịnh Công Sơn chia làm ba loại: ca khúc viết cho chiến tranh, ca khúc viết cho tình yêu và ca khúc viết về thân phận. Trong loại thứ nhất, Trịnh Công Sơn bị ám ảnh bởi chiến tranh, ở đấy, tuổi trẻ không còn là một dự tính nữa. Nó hiện diện như loài rong biển, phó mặc cho chiều nước đẩy đưa đến bến bờ nào đó, hay ngàn đời phải chìm đắm giữa lòng đại dương mù mịt. Chiến tranh, dù là cuộc chiến chính nghĩa, thuộc bên này hay bên kia, Sơn không cần tìm hiểu. Sơn chỉ nghĩ đến sự chết chóc và những cảnh tượng thê thảm đang vì chiến tranh, tiếp diễn mỗi giờ phút trên mảnh đất nghèo này, nên Sơn chẳng ngần ngại gì mà tuyên bố với Jean-Claude Pomonti: Je ne veux pas faire de différence entre les guerres justes et les autres. (Câu này trích trong bài “Trịnh Công Sơn, ca nhân phản chiến tại miền Nam Việt Nam” – “Trịnh Công Sơn, chantre de l’antiguerre au Viêtnam du Sud, phụ trang báo Le Monde số 7570 ngày 17-5-1969). Cũng trong bài, Pomonti cho biết Trịnh Công Sơn đã làm nhạc vì một rủi ro trong lúc tập Nhu đạo (1959), phải nằm bệnh trong bốn năm liền. Trịnh Công Sơn sống ẩn dật ở Huế, và cũng từ đó tiếng dân ca lần đầu xâm nhập vào hồn. Sơn cũng chẳng cần giấu diếm rằng, mình chịu ảnh hưởng của dân ca cải cách ngoại quốc qua các ca khúc của Bob Dylan và Joan Baez. Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác các ru khúc và ca khúc tình cảm với biểu thức mới, rồi lần lần tìm kiếm. Sự tìm kiếm đưa Trịnh Công Sơn đi dần vào nỗi đau của con người trong cuộc chiến hiện hữu, mà vì lý do thầm kín nào đó, Trịnh Công Sơn đã chối bỏ không gian mình góp mặt, để thay vì làm cho nó, tại nó, lại đứng riêng biệt mà khóc than, oán hờn gây nên ngộ nhận. Chiến tranh không do sự phản đối của một người, một số người, hay nghệ thuật mà có thể chấm dứt một cách ổn thoả, bình thường. Nhưng mọi người phải thẳng thắn nhìn vào nó như nhìn vào một sự thật hiển hiên, rõ ràng như đời sống có đấy, còn đấy, nghĩa là phải chấp nhận, dù cho sự chấp nhận đi qua một hình thức nào đó, thuận tiện hay bất lợi đối với mỗi cá nhân đi nữa. Trịnh Công Sơn đã chấp nhận cuộc chiến này có thật, nhưng chấp nhận bằng những âm thanh run rẩy, bằng môi cười gượgn gạo, bằng mắt nhìn e ngại, bằng tiếng khóc nghẹn ngào vương vất vây quanh, Một ngày, ngày đã qua, ôi một ngày chóng qua, một chiều, một ngày âm thành đã… đã trôi đi không còn gì. Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè, ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương, còn có ai không, còn người, ôi nhân loại, mặt trời và em thôi!… (“Xin mặt trời ngủ yên”) Mỗi ngày qua đi là mất, dù nó qua trong sôi nổi hay âm thầm ở tâm sự mỗi người. Cái tuổi trẻ, chúng ta đang ôm trong vòng tay quấn quít, đang nhìn đời bằng đôi mắt hồn nhiên, đang phác hoạ trong tâm trí muôn vàn mơ ước và những cánh bướm vàng đang đuổi nhau bay lượn giữa vườn đời mới lớn. Nhưng một ngày đã trôi đi, chinh chiến đã lấy mất của mình bao nhiêu bạn bè? Có buồn không? Có tiếc nhớ không? Một tương lai mịt mờ với khuôn mặt chiến tranh làm tàn úa mộng mơ, làm con-ngựa-hồng-biểu-tượng-của-tuổi-trẻ đã mỏi vó chết trên đồi quê hương, hay chết giữa hồn mình? Mặt trời, xin mặt trời hãy ngủ yên, ngủ vĩnh viễn trong không gian này, để đừng bao giờ tôi phải nhìn thấy nỗi đau đớn đang trải rộng trên quê hương. Và nhân loại, và em, có còn gì không? Có còn gì không? Trong nỗi xót xa sau mùa chinh chiến, có chăng, mảnh đất mến yêu này trở lại thuở hồng hoang, với hình ảnh Liêu trai chập chùng hằng đêm mở hội!… Niềm than van của ca khúc như lời tuyệt vọng và tiếng hát, ôi! Tiếng hát đã dìu người nghe vào đến tận cùng ngây ngất. Trong đó, thực và giả như xáo trộn rồi để lại những dư âm nghẹn ngào, lãng đãng. Những ngày qua đi, những ngày còn lại với vết thương in đậm trong hồn người. Hằng ngày, hằng đêm từng cảnh tượng đi qua, đi qua trên khuôn mặt người già, trong tâm trí rối loại người điên, trong xác chết, trong tiếng bom, tiếng súng vây quanh, với 25 năm hoả châu thay mặt trời thắp sáng nhân gian. Mẹ Việt Nam , quê hương ruộng vườn ta đó, nay còn gì? Chỉ còn màu đất loang đỏ, chỉ còn đàn bò không luống cỏ và ngày dài của quê hương chỉ còn lại đau buồn trong màu da vàng bệnh hoạn. Ca khúc “Ngày dài trên quê hương”, nếu xét trên phương diện đấu tranh, đúng là ca khúc phản chiến. Nó đã thê thảm hoá cuộc chiến mà miền Nam chỉ đóng vai trò thuần tuý tự vệ. Thành phố kia, đồng ruộng này nếu có xơ xác và điêu tàn như vậy không phải do chúng ta khơi nguồn máu lệ! Sự có mặt hàng hàng lớp lớp thanh niên hiện diện dưới bóng cờ chẳng phải vì ham thích sự chém giết nhưng đích thức, có mặt để gìn giữ những gì mà họ có nhiệm vụ phải gìn giữ, dù vì bổn phận chứ không do ý thức. Nhưng đứng trên bình diện nghệ thuật để phê phán và xác định, thì ca khúc “Ngày dài trên quê hương”, chỉ là sự tỏ bày nỗi ai oán của cá nhân trước súng đạn với lo âu, căm thù và đau đớn thay, cuối cùng lại nhận thức ra mình xa lạ ngay cả với quê hương, đồng bào ruột thịt. Nhưng dù ở trạng thái nào, Trịnh Công Sơn vẫn vì hai chữ Việt Nam để phải nói lên những điều cay đắng. Tiếng ru của người mẹ đã tự đáy linh hồn dân tộc cất lên như tiếng khóc rã rời, mệt mỏi vì cảm thấy sự không-thuộc-về-mình, những gì mình muốn, mình nghĩ. Con ngủ đi, đứa con của mẹ da vàng. Ru con đạn nhuộm hồng vết thương… (“Ngủ đi con”) Tiếc thay, tiếng ru chỉ là tiếng than thở. Đàn con khi lớn lên vẫn ra chiến trường, để mẹ ê chề, tủi cực. Tiếng ru đã hai lần cất lên, cả hai lần đều bất lực. Chúng đã khôn lớn, tự hành động, tự chọn lựa đường đi dù có làm buồn mẹ! Hoàn cảnh Việt Nam trong quá khứ và hiện tại, vẫn là sự tiếp nối không ngừng của lịch sử, cũng vì lịch sử mà mẹ Việt Nam, hay một biểu tượng nào đó, được nhạc sĩ dùng để nói về đất nước này cũng chỉ là ý niệm, ý niệm một cách thê thảm rằng, cái chết hay cái sống của mỗi số phận nó ở ngoài quyết định của mỗi người. Đứa con gái da vàng yêu quê hương như yêu thân mình chợt ôm tim, chợt lìa cuộc sống mà đất nước vẫn u mê trong căm thù, oán hận! Những ca khúc viết về cuộc chiến của Trịnh Công Sơn, đều mang bên trong nó, đời sống riêng. Cái đời sống thứ hai đó, không phải ai cũng thấy, ai cũng biết, khi nghe nhạc Trịnh Công Sơn, nó chính là lương tri trước cuộc chiến, ẩn nấp sau ngôn ngữ, qua giọng buồn đứt nối của âm thanh. Cái lương tri đó không được nói thẳng với mọi người, nó chỉ như chiếc bóng chập chờn thoáng hiện, thoáng mất, mà mỗi người sẽ tìm thấy ở lòng mình khi chợt bàng hoàng, thảng thốt, vì có anh em, chồng con vừa gục ngã đó đây… Trịnh Công Sơn đã nói thật những gì ẩn nấp trong đầu, qua ngôn ngữ và âm nhạc, nhưng chính điều nói thật này, hàm chứa thiên vị và phiến diện, nên thay vì vô tư, nó trở thành bất lợi cho một phía mà ở đó, sự có mặt của mỗi người là để bảo vệ, nếu không, cũng đừng làm hại nó vì ngộ nhận hay ích kỷ. Chính vì không nhìn thấy và không đoán biết những gì thuộc phía bên kia, nên phần nào Trịnh Công Sơn chủ quan, khi phổ biến ý nghĩa của riêng mình trong vấn đề chung của quốc gia. Tiếng bom có rơi ở xóm làng nào đó, đại bác đêm đêm có vọng về thành phố nữa đi, thì thái độ của con người có ý thức không thể như người phu quét đường dừng chổi đứng nghe được. Cái thái độ dửng dưng chắc chắn không phải điều cần thiết đối với người miền Nam. Khi dùng hình ảnh này, Trịnh Công Sơn muốn nói lên sự bất lực của con người trước những thảm hoạ tuy không muốn, vẫn phải chứng kiến và mỗi số phận đều phải gánh chịu cái sự thực hiển nhiên đó mỗi ngày, mỗi đêm… Nhưng chẳng phải chỉ bấy nhiêu, với những dữ kiện được trình bày trong các ca khúc viết về chiến tranh, đích thực nó còn mang nặng niềm đau đớn của từng số phận bị chiến tranh vùi lấp trong một cảnh ngộ nào đó. Các địa danh nổi tiếng về những trận giao tranh ác liệt như Pleime, Chiến khu Đ, Đồng Xoài, Chu Prong, Ashau, A Lưới v.v… được ghi nhận như những chứng tích tuyệt đỉnh của bi thương. Người yêu, người yêu hỡi! Tại sao lại có thể như vậy? Cái chết không thoải mái nằm cong queo ở một lòng đèo, hay cái chết nghẹn ngào không manh áo, hoặc cái chết lạnh lùng giữa rừng núi mịt mùng chẳng hẹn hò, có phải chăng để nuôi sống Việt Nam? Lẽ dĩ nhiên như vậy. Chiến tranh là một trò chơi tàn bạo, không ai muốn, nhưng khi đã chấp nhận nó với một ý nghĩa, thì mọi sự hy sinh phải được coi như thần thánh. Nếu không có những cái chết đèo, hoàn cảnh sinh hoạt miền Nam đã đổi thay và chắc chắn tiếng hát Khánh Ly sẽ thôi ngân dài ứ nghẹn đau trong kích thước phòng trà, hay một thính đường nào đấy, với tiếng vỗ tay của người mộ điệu đang có mặt bình yên, thoải mái để thưởng thức nhạc Trịnh Công Sơn. Tâm hồn nghệ sĩ, đúng ra chỉ là tấm phim lớn ghi nhận những hình ảnh do cuộc đời để lại. Những hình ảnh tốt cũng như xấu, chồng chất lên nhau, trong hồn người nghệ sĩ. Bởi vậy, nếu cơn đau nào có đến, ý nghĩ giận hờn, phẫn nộ nào có làm điên cuồng trí não, hay nguồn yêu thương êm dịu nào có xoa mát thịt da, cũng đều là phản ánh do cuộc đời đẩy tới. Kẻ nghệ sĩ không phải thần thánh, mà cũng chẳng có uy quyền cho lệnh hoặc cải tạo xã hội theo ý muốn của mình, bởi vậy, mỗi khi gặp ngang trái, gặp cảnh ngộ không vừa lòng, tự nhiên bật ra than thở để trút nhẹ oán hờn! Có lúc nào Trịnh Công Sơn vô tư nhất, thanh thoát nhất, dù nói về Việt Nam máu lửa, nhất là một Trịnh Công Sơn đi tìm quê hương, đi khâu vá tình thương đất nước, trong căn nhà nhỏ, đèn mờ sáng, ngủ quên non nước, để cho thịt xương phưoi trắng đôi miền. Ở ca khúc này, người nghệ sĩ đã nhận diện được cuộc chiến hiện tại không do một phía, nhưng vì tương lai, vì ruộng đồng, xin mở tan xích xiềng vô hình trói buộc tự do. Cái tự do trong ca khúc “Đi tìm quê hương” là cái tự do của một dân tộc, người nhìn người không e ngại và mọi ý thức hệ dẫn đường không nằm trong chủ nghĩa này, chủ nghĩa nọ làm con người ly tán. Trịnh Công Sơn, đã chứng kiến cuộc tổng công kích của Việt cộng hồi Tết Mậu Thân vào kinh đô Huế. Sơn đã nhìn thấy tận mắt cảnh chém giết hung tàn do cộng quân gây ra. Đã nhìn thấy bao nhiêu đổ vỡ, bao nhiêu nát tan, đau xót. Đã sống những giờ phút hãi hùng giữa lòng chiến trận với những xác người chết không kịp trối trăn, không kịp nhắm mắt và còn nhiều nữa!… Cảnh tượng này đã gây xúc động thực sự trong hồn Sơn với ca khúc: “Hát trên những xác người”: Chiều đi lên đồi cao Hát trên những xác người Tôi đã thấy Tôi đã thấy Trên con đường người bồng bế nhau chạy trốn Tôi đã thấy Bên khu vường một người mẹ ôm xác đứa con… … Tôi đã thấy Người cha già ôm con lạnh giá Chiều đi qua bãi dâu Hát trên những xác người Tôi đã thấy những hầm những hố Đã chôn vùi thân xác anh em… Thảm cảnh tàn sát ở Huế còn được Trịnh Công Sơn khóc vật vã trong: “Bài ca dành cho những xác người”: Xác người nằm trôi sông Phơi trên ruộng đồng Trên nóc nhà thành phố… … Xác người nằm bơ vơ Dưới mái hiên chùa Trong giáo đường thành phố… Những xác người đó, có già, có trẻ, có em bé thơ ngây nằm trong mưa lạnh, cái lạnh căm căm của mùa xuân xứ Huế với hoa đào chưa phai màu phấn bướm. Đi từ phẫn nộ, tiếng nhạc Trịnh Công Sơn lả vào cầu khẩn với ước mong lời nói của mình được chấp nhận. Hoà bình, ai mà chẳng muốn. Hai tiếng đó như lời kêu gọi thầm kín trong tâm tư mỗi con người thương nước. Nhưng 25 năm đã trôi qua rồi đấy và cảnh xương trắng chất thành non, đâu phải lỗi ở người miền Nam, lỗi ở một chế độ khát máu, mà thực ra, do sự giằng co giữa hai thế lực vĩ đại quốc tế. Trịnh Công Sơn biết chắc điều đó, nên cất lên lời cay đắng: … Kinh Việt Nam là những tiếng kêu thương thống thiết. Khởi từ một thực trạng máu xương Kinh Việt Nam cũng là lòng mơ ước về một rạng đông cho đêm tối dài lâu này. Những bài ca được viết từ những hân hoan lắng nghe được trong lòng người. Đó là nỗi hân hoan của đám đông chờ mong ngày hồi sinh… (“Kinh Việt Nam”) Nội dung các ca khúc trong hai tập nhạc Kinh Việt Nam và Ta phải thấy mặt trời đều tỏ bày sự mong mỏi thanh bình qua những nét nhạc trầm hùng, nhưng vẫn không xoá hết được ray rứt, đắng cay. Nơi đây tôi chờ Nơi kia anh chờ Trong căn nhà nhỏ Mẹ cũng ngồi chờ Anh ngồi chờ trên đồi hoang vu Người tù ngồi chờ bóng tối mịt mù Chờ đã bao năm Chờ đã bao năm Chờ đã bao năm?… (“Chờ nhìn quê hương sáng chói”) Chờ đợi là điều nhục nhằn với trăm vạn lo buồn. Niềm tin tưởng cũng như hy vọng đến gần hay xa đi, đâu phải tự mình quyết định mà do vận nước. Cứ nghĩ như vậy may ra tránh được thất vọng trong công trình nuôi dưỡng hy vọng. Chẳng cứ gì ở những ca khúc viết về chiến tranh và quê hương. Trịnh Công Sơn mới có những dằn vặt, xót xa đâu. Nhạc tình của Sơn là sự giao thoa của âm thanh và ngôn ngữ thi ca cũng nói lên đầy đủ ý nghĩa trên. Tiếng nói của tình yêu và tuổi trẻ đối với Trịnh Công Sơn, hình như muôn thuở vẫn chỉ là lời dặn dò của ly cách. Những câu ân tình biến thành giọng than van thê thiết, với từng âm giai lả lả trôi về nẻo quạnh hiu nào đó. Sự cuồng nhiệt, đam mê bỏng cháy ở đầu môi không thuộc về nét nhạc của Trịnh Công Sơn. Có lẽ định mệnh đã đưa đường tài năng, nên dù ở chiều suy tư nào, Sơn cũng cố tìm về cho mình những góc cạnh đau thương với những hoài nghi, chán chường. Ngôn ngữ đi qua nhạc như nhức mỏi, buốt giá, làm tê cóng tâm hồn, … Trời còn làm mưa, mươi rơi, mưa rơi!… Từng phiến băng dài trên hai tay em xuôi, tuổi buồn em mang đi trong hư vô ngày qua hững hờ!… Trời còn làm mưa, mưa rơi, mưa rơi Từng phiến mây hồng em mang trên vai tuổi buồn như lá, gió mãi cuốn đi quay tận cuối trời!… Âm thanh lướt đi nghe tha thiết, nghẹn ngào rồi kéo dài trong không gian như cơn gió đêm thu thổi lùa giữa rừng sâu. Nhạc tình của Trịnh Công Sơn, hay, hay lắm. Nó đắm đuối trong khung cảnh hoang sơ mà con người có mặt như những chứng tích lạc loài. Từng chùm hoa dã thảo thả xuống tự trời cao bay bạt ngàn trong không gian bát ngát. Tiếng hát, ôi tiếng hát đã cất lên thăm thẳm mịt mùng như bủa vây nỗi buồn không vượt thoát. Tiếng hát dìu âm thanh đi đến cuối trời tiếc nuối, ở đó, đã chờ sẵn biệt ly. Thời gian mong manh, tuổi đời mong manh, hy vọng mong manh, tình yêu mong manh, tất cả những mong manh đó như muốn ta ra, muốn xoá nhoà vào hư vô, để cát bụi lại trở về cát bụi. Tâm hồn Trịnh Công Sơn hình như bị quấn chặt bởi lớp lớp bi thương, nên dù cho tình yêu có đến, hoa đời có ngát hương, chăn chiếu đời có nồng men ân ái thì với Sơn, nó vẫn là ảo tưởng, vẫn cho đau buồn hơn nguồn vui, vì nguồn vui không nằm trong khuôn khổ cuộc sống hôm nay: Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ Dài tay em mấy thuở tóc xanh xao Nghe lá thu rơi reo mòn gót nhỏ Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu Mưa vẫn hay mưa trên hàng lá nhỏ Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua Trên bước chân em âm thầm lá đổ Chợt hồn xanh buốt chi mình xót xa… (“Diễm xưa”) Ca khúc “Diễm xưa”, một ca khúc rất nổi tiếng chẳng những trong nước, mà còn ở quốc tế. Đại hội Dân ca Quốc tế lần đầu tại Nhật Bản vào tháng 11-1970, tiếng hát Khánh Ly đã làm cho hàng vạn con người say mê âm nhạc lắng nghe, ngưỡng mộ. Khánh Ly cũng đã trình bày ca khúc này bằng tiếng Nhật tại Expo 70 – Osaka, được hoan nghênh nhiệt liệt. Có lẽ, trời bắt giọng ca Thái Thanh thuộc về Phạm Duy, thì tiếng hát Khánh Ly phải dành cho Trịnh Công Sơn. Sự thành công của Trịnh Công Sơn hôm nay, một phần nhờ vào tài trình diễn của Khánh Ly vậy. Tiếng hát Khánh Ly có âm hưởng đặc biệt. Nó không cao vút, hoặc thanh thoát ở giọng hát bình thường. Nó ẩm đục, vướng nghẹn như niềm vui chợt mất. Nó bâng khuâng như cơn mưa vội đến. Nó tuyệt vọng như cánh chim non bay lạc trong cơn giông tố mịt mù. Nó đam mê giữa hơi thở chán chường. Nó khóc ngất rồi lịm chết trong nguồn đau vô hạn! Tiếng hát hình như có pha rượu và khói thuốc của từng khuya quên ngủ. Nó rót vào hồn người những thanh âm não nùng ngất ngất!… Tình yêu, tình yêu nào đó, phải chăng để đánh lừa mỗi số phận hay để ghi dấu trong hồn từng hình ảnh qua đi, với nỗi ưu phiền giữa vùng u tối! … Tình yêu xứ này một lần hiện tượng một lần bão nổi giã từ giã từ chiều mưa giông tới em ơi em ơi sầu thôi xuống đầy làm sao em nhớ mưa ngoài sông bay lời ca anh nhỏ nỗi lòng anh đây sầu thôi xuống đầy… (“Cuối cùng cho một tình yêu”, thơ Trịnh Cung) Đối với Trịnh Công Sơn chẳng những cuộc đời là không trọn vẹn, ngay cả tình yêu cũng chỉ là sầu nhớ, mộng mơ! Vì thế, nét nhạc tình của Sơn luôn luôn bải hoải cung bậc, nhưng cái bải hoải ở đây không chứa đựng thất bại mà nó chứng minh cái nhìn của Sơn về tình yêu không nằm trong ước lệ bình thường. Nó là vóc dáng tuyệt đối của cái Đẹp xuyên qua ý nghĩ. Nó là tuổi trẻ đi tìm bóng mình qua kẻ khác. Từng dòng lệ trôi đi, từng cánh lá trôi đi, từng ngày tháng trôi đi và tuổi trẻ này với cơn đau ấy cũng trôi đi, tôi đi mãi mãi: Tuổi nào nhìn lá úa vàng chiều nay Tuổi nào ngồi hát mây bay ngang trời Tay măng trôi trên vùng tóc dài Bao nhiêu cơn mưa vừa tuổi này Tuổi nào ngơ ngác tìm tiếng gió heo may Tuổi nào vừa thoáng buồn áo gầy vai Tuổi nào ghi dấu chân chim qua trời Xin cho em tay còn muốt dài Xin cho cô đơn vào tuổi này Tuổi nào lang thang thành phố tóc mây cài… (“Còn tuổi nào cho em”) Nhưng cái tuổi thơ ngây đó đã hết rồi. Mây đã vây quanh giọt sầu và bàn tay che giấu lệ nhoà vì khóc ngàn thu, tháng năm van nài cho nguôi mong chờ cũng không một lần trả lại. Nhạc tình Trịnh Công Sơn đều đi chung khuôn thức. Ở đấy buồn, thương pha trộn, cuối cùng là bâng khuâng, tưởng tiếc trong âm thanh ngất ngây. Tiếng ru của người mẹ, hay tiếng ru dành cho cuộc tình với ngôn ngữ mặn nồng qua dòng tóc, phiến môi mềm, trên bàn tay gầy, trên mùa lá xanh rồi tiếng mưa sẽ ru em ngủ với mộgn mơ còn đó, nhưng dáng em vẫn trôi dài và tiếng ru này ngàn năm vẫn không phai giận hờn định mệnh! Có lẽ Trịnh Công Sơn bị ám ảnh quá nhiều về cuộc chiến, nên ngay trong tình yêu, vẫn thấy thấp thoáng nỗi lo sợ nào ẩn nấp giữa chiều sâu tiềm thức, và tình yêu chẳng phải những lời hò hẹn ngay tình, nó được hình dung qua nỗi buồn và nước mắt. Trịnh Công Sơn không tin vào cuộc đời có mặt và sự đoán biết nào đó, chỉ là những bóng mây bay lang thang trên trời cao chờ điều kiện vật lý vừa đủ, biết chất thành mưa. Bởi vậy, cái tuổi trẻ mỗi thanh niên mang trên vai hôm nay, nó cũng như những đám mây kia, chờ giờ phút nào đó sẽ hoà tan vào cơn mưa máu lửa, Tôi ru em ngủ một sớm mùa xuân em hôn một nụ hồng Hỏi thăm về giọt nắng Tôi ru em ngủ hạ cũng vừa xong em hôn lên tay mình Để chua xót tình trần… (“Tôi ru em ngủ”) Mình hôn lên tay mình, một hình ảnh vừa đẹp vừa mỉa mai, có nghĩa là cô đơn vẫn còn đó, tình yêu chỉ là đắng cay. Bởi vậy, dù cuộc tình có lên cao vút cũng mỏi cánh xa lìa bầy, rời bỏ đường bay. Cơn buồn phiền của tình yêu trong nhạc Trịnh Công Sơn nó kéo dài theo năm tháng. Nó là trái chin trên cây rụng rời, nó như dòng sông nước cuốn, nó như chiếc lá lìa cành và mong manh như nắng, như hồn mình vá khâu… Tình yêu như vết cháy trên da thịt người Tình xa như trời, tình gần như khói mây Tình trầm như bóng cây, tình reo vui như nắng Tình buồn làm cơn say … Tình yêu như cơn bão đi qua địa cầu Tình thắp cơn sầu, tình dìu qua hố sâu Tình vời lên núi cao, rồi trong cơn yêu dấu Tình đầy tình xa nhau… (“Tình sầu”) Như đã nói, nguồn cảm hứng của Trịnh Công Sơn không chỉ ở trong môi trường phẫn nộ, hoặc bàng bạc trong tình yêu với tuổi trẻ hư không, nó còn quay nhìn thân phận. Những ca khúc viết về thân phận cũng chỉ là đi tìm cái hữu hạn của kiếp sống. Sự hiện diện của mỗi số phận bắt buộc phải đi qua một khoảng thời gian nào đó, do định mệnh an bài và cái không gian vô tình phải nhận diện. Theo Phật lý, đó là nhân quả, là luân hồi, là sự sinh trưởng không ngơi nghỉ và biến hoá vô cùng để phát triển, tạo nên cái “nghiệp” cho số phận. Con người đã ai thoát khỏi vòng: sinh, bệnh, lão, tử và ba chữ: tham, sân, si dễ gì tránh được? Nên cái thân phận khốn khó mà mỗi kiếp người phải mang nặng, không nằm trong phạm trù riêng, nó trải rộng ra cả thế gian này với những sai biệt xuyên qua cung số. Cát bụi lại trở về cát bụi, câu nói nhuốm đầy bi quan nhưng rất thực tế. Vì: … Ta ở, ta đi đời vẫn vô tình Như ta chửa bao giờ có mặt!… (Thơ Hoàng Trinh) Chính vì sự vô tình của cuộc sống cũng như thiên nhiên, đối với mỗi cá nhân nên mới có người chán đời quyết giã từ cõi sống. Trịnh Công Sơn chưa đi vào con đường tuyệt vọng đó, nhưng những ca khúc viết về thân phận ít nhiều gì cũng mang nặng trong nó, nỗi thống khổ của riêng mình trước bao canh trần gian. Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi Để một mai vươn hình hài lớn dậy Ôi cát bụi tuyệt vời Mặt trời soi một kiếp rong chơi Hạt bụi nào hoá kiếp trong tôi Để một mai tôi về làm cát bụi Ôi cát bụi mệt nhoài Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi… (“Cát bụi”) Rồi những năm, những tháng, kiếp người phải kéo lê trong vòng cương toả của xã hội với bao cố gắng, bao đam mê, bao thất vọng. Nhìn cuộc đời có đấy với lá úa, với mái tóc như vôi, với mặt trời soi sáng con ttim, hun nóng từ ngày này qua ngày khác để biến tình yêu thành đá cuội, và cái vũng hư không lúc nào cũng mở ra chào đón con người trở về cát bụi. Nhưng con người, sự thực, vẫn không chấp nhận dễ dàng quan điểm đó. Nó vượt lên bằng ánh sáng tâm linh, nó phản đối lại cái hữu hạn bằng cách tìm miên viễn qua ý thức, nó trộn lẫn hai miền sống chết để thấy rõ ý nghĩa Vô thường. Do đó, nó tồn tại trong dòng sống như một vòng quay không đứt đoạn, nối tiếp và nối tiếp… Tiếng khóc than vây quanh đây đó. Từng ngày rồi từng ngày trôi đi. Quạnh hiu quá chăn chiếu trần gian, dù trần gian có mắt ai đẹp, có môi ai xinh, cũng chỉ là quạnh hiu! Đang ở giữa tuổi thanh xuân, Trịnh Công Sơn đã nhìn thấy trăm năm, với vóc dáng nghĩa trang trước mặt, mỗi khi nghĩ về kiếp sống. Lời trăn trối đó gửi đi từ đáy thẳm tâm linh cũng chỉ là tiếc thương im vắng! Con người ở đâu, từ đâu tới và trở về đâu, câu hỏi đó hình như chưa ai trả lời minh triết được, nên băn khoăn vẫn còn nguyên vẹn. Cuộc hành trình đi tìm Vô cùng vẫn giữ kín trong vóc dáng hai chàng Lưu Nguyễn thuở nào. Từ hoang xưa tới hiện tại, vẫn nhịp đời đó thôi, và con người, được Sơn hình dung như một vật vô tri lăn mình giữa cuộc thế, với phiến đá ưu phiền có in dấu chân muông thú. … Người đi phiêu du từ đó chưa thấy quê nhà, rộng đôi cánh ta chờ mong Người đi chợ nhớ mình như đá Đá lăn, vết lăn buồn… … Từ cơn đau ấy lưu thân mỏi mòn Ôi mắt than van xin lời thánh đêm… (“Vết lăn trầm”) Nghĩ về thân phận tức là truy nguyên nguồn gốc sự sống, muốn tìm về an ủi trong nỗi bơ vơ, sợ hãi. Người đi lên đồi cao, bước xuống lũng thấp, đi hỏi mưa, hỏi gió, hỏi rừng, hỏi mây, hỏi suối, hỏi sông, hỏi thăm về đời mình hoang vu, hỏi dòng nước lũ rời nguồn gặp đại dương, đại dương nói thầm về kiếp người với ăn năn và rêu phong, nên người thắp nến trong đêm thay mặt trời để soi tỏ Hư vô. Người đi trong cay đắng, người cúi xuống cho máu ngược dòng để làm nước tưới cho cây khô cành lá, cho bóng mình làm xót xa mặt trời, nghe tim rạn vỡ, nghe lòng bâng khuâng. … Cúi xuống thật buồn cho nước sông cuồn cuộn Hai mươi năm no tròn tuổi biết đau thương Cúi xuống cho tắt nụ cười cho chút da thịt người Tuy tan hoang vẫn còn bóng mát che ngang… (“Cúi xuống thật gần”) Có buổi nào đó, khi thức giấc chẳng nhìn thấy mặt trời, những hình bóng người vây quanh hôm trước nay bỗng nhiên vắng mặt. Ngay cả cuộc tình cũng mất tiếng cười. Con người cảm thấy mình lạc loài, bơ vơ. Bàn tay mẹ hiền cũng không còn nữa va chiếc nôi trống rỗn không ấm lời ru: … Hôm nay thức dậy ôi ngẩn ngơ tôi Hôm nay thức dậy mê mỏi thân tôi… (“Xa dấu mặt trời”) Trịnh Công Sơn đang sống, đang đuổi bắt mộng đời qua những vòng hoa ân thưởng. Cuộc sống ồn ào quấn chặt mỗi con mồi vào đấu trường rực lửa. Từng con mắt đỏ đọc, từng cặp môi mím lại, từng hàm răng nghiến chặt, từng thân người như những thân cây dựng lên thành luỹ. Và những tiếng kêu, những cơn gào thét, những lời nguyền rủa, những câu khóc than, những chuỗi cười ô nhục, tất cả như mê mải, như hối thúc đi vào những ô không gian dành riêng cho chúng. Nhưng ngoài chúng, đích thực, còn có những phút im lặng, những ngượng ngùng e thẹn, những tủi nhục không nói nên lời, những khắc khoải buông trôi qua tiếng thở dài não nuột của nhiều khuôn mặt đang cúi xuống!… Vì: Chúa đã bỏ loài người Phật đã bỏ loài người Này em, em cứ phụ người Này em, xin cứ phụ tôi… … Này em có nhớ cuộc đời Này em có biết loài người Này em có nhớ gì tôi… (“Này em có nhớ”) Niềm tin cuối cùng đã mất, từ đây Trịnh Công Sơn có thể làm một kẻ lãng du vô trách nhiệm đi rong chơi giữa cuộc sống. Cái vòng lẩn quẩn sáng, trưa, chiều, tối kia nó bắt buộc con người phải tuân hành luật thời gian. Biết rằng phi lý, vẫn cứ phải níu lấy phi lý mà hành động. Tiếng chân mình gõ lên nền sỏi đá hôm nay là in dấu chân mình hôm trước để ngày mai đây, bước lại nhịp đầu. Con người muốn tung mình lên, muốn vứt mình qua khỏi sự nhàm chán đó, nhưng cơm áo ngày ngày bắt mình cúi đầu chấp nhận: Một ngày như mọi ngày, em trả lại đời tôi Một ngày như mọi ngày, ta nhận lời tình cuối Một ngày như mọi ngày, đời như mây như khói Một ngày như mọi ngày, mang nặng hồn tả tơi… … Một ngày như mọi ngày, từng mạch đời trăn trối Một ngày như mọi ngày, đi về một mình tôi… … Một ngày như mọi ngày, từng chiều lên hấp hối Một ngày như mọi ngày, bóng đổ một mình tôi… (“Một ngày như mọi ngày”) Tiếng nhạc Trịnh Công Sơn hôm trước, như lả vào khung trời bi thảm của cô đơn. Những ca khúc với cung bậc chan hoà máu lệ, với cơn giận dữ khôn nguôi, với muôn vàn hệ luỵ, rốt cuộc, vẫn chỉ tiếng than van của một tấm lòng tích luỹ quá nhiều đau đớn, quá nhiều cay đắng. Từng âm thanh nấc nghẹn như tiếng khóc thầm với lời ca nấn nuối của kẻ đi vào thất vọng! Nhưng Trịnh Công Sơn hôm nay, qua những ca khúc mới nhất trong tập nhạc Như cánh vạc bay và Cỏ xót xa đưa đã dấn thân vào một tìm kiếm. Trịnh Công Sơn muốn kinh qua sự nhàm chán của hoàn cảnh cũng như nghệ thuật. Vì nghệ thuật là tiến hoá, là sự vươn tới không ngừng của ý thức. Những ca khúc gần đây nhất đã cho người thưởng tâm thấy có sự “chuyển mình” trong nét nhạc cũng như ngôn ngữ. Đúng, Trịnh Công Sơn đang cố gắng viết đơn giản từ lời ca đến câu nhạc. Các giai điệu (mélodie) đã bớt dần tính cách mô tả để nghiêng dần về nhạc kể (récilatif) hơn. Sự kiện này rất quan trọng, vì ở thể mô tả, nét nhạc được tỏ bày bằng những âm giai lê thê, để nói hết những gì, nội dung muốn đạt tới hay cần phải chuyển tới người nghe. Ở thể nhạc kể, nét nhạc cô đọng, hàm chứa trong nó hiệu năng truyền cảm không bị gò bó bởi phách, do đó, ý thức nghệ thuật cao và giản dị hơn. Tính chất mới trong nhạc Trịnh Công Sơn hôm nay, ở một vài ca khúc có các đoạn ngắn, một, hai phách (mesure) và âm tiết (accent) nghiêng về biểu hiện, để diễn đạt một vài nội dung của lời ca. Trịnh Công Sơn muốn tránh bớt cái tính chất gọi là “hát hò” quanh một nội dung buồn bã. Đối với Trịnh Công Sơn, hơn 10 năm làm nhạc, với những ca khúc đã nổi tiếng trong và ngoài nước, Sơn chỉ coi như giai đoạn tập dượt, học hỏi và thử thách. Sơn đang suy nghĩ và tìm kiếm chiều hướng mới cho nét nhạc của mình. Sự tìm kiếm đòi hỏi nhiều điều kiện trong đó có phần tự vượt. Trịnh Công Sơn hiểu rõ điều ấy, nên rất thận trọng và âm thầm nghiên cứu, tìm tòi để tiến bộ. Ý thức được tiến hoá, nên Trịnh Công Sơn không bao giờ chủ quan trong vấn đề sáng tác. Vì cuộc sống không làm gì có chân lý tuyệt đối, ngay cả nghệ thuật. Montaigne, nhà đạo đức học của Pháp ở thế kỷ XVI, đã khám phá ra sự bất lực của con người trong vấn đề đi tìm chân lý và công bằng rồi đó! Tìm chân lý không thấy, con người đi tìm tiến hoá. Điều kiện tiến hoá làm cuộc sống đổi thay, suy nghĩ đổi thay, nghệ thuật đổi thay v.v… Âm nhạc cũng đổi thay không ngừng từ thể nhạc, cách cấu tạo, hình thức phô diễn tư tưởng cũng như nhạc ngữ. Cái bí ẩn của đời sống vốn là một bất toàn (imparfait) và ngược lại, vì thế, người nghệ sĩ phải tìm Tuyệt đối trong Tương đối, tìm Vô hạn trong Hữu hạn, tìm Vô thể trong Hữu thể. Vấn đề này được biểu hiện rõ trong địa hạt nghệ thuật mới hôm nay, nói chung. Trịnh Công Sơn ý thức được tiến hoá, tức là đã đi vào chiều hướng mới. Người yêu nhạc Trịnh Công Sơn có thể đoán biết qua ngôn ngữ bình dị, thứ ngôn ngữ bắt nguồn từ đời sống, vì ngôn ngữ không có đời sống không làm ai rung động. Đúng như vậy, các ca khúc của Sơn hôm nay nó thanh thoát, giản dị hơn nhiều, dù rằng những âm tiết vẫn uất nghenj, thê thiết vì thế cuộc, nhưng nó chỉ là một khởi đầu, một thành hình chưa toại. Trịnh Công Sơn còn trẻ lắm. Tương lai còn đầy ắp phía trước nên những mơ ước, dự tính đều được thời gian ủng hộ. Những bất ngờ đang chờ đón trong ca khúc Trịnh Công Sơn ngày mai, với ân tình thắm thiết trong lòng những yêu nhạc như yêu đời sống của mình. Tất cả mọi người đều biết, các ca khúc viết về chiến tranh của Trịnh Công Sơn bị chính phủ cấm hát ở Đài Phát thanh và vô tuyến truyền hình từ mấy năm nay, vì nó phản chiến, làm phương hại đến thời gian đấu tranh của dân tộc. Sự cấm đoán đã gây xúc động mạnh mẽ trong dư luận. Được ký giả J. C. Pomonti hỏi về vấn đề này, Trịnh Công Sơn đã thẳng thắn trả lời: Trong chế độ dân chủ, tôi có quyền viết, và cấm là quyền của chính phủ (En démocratie j’ai le droit d’écrire et le gouvernement celui d’interdire. Le Monde No. 7570, 17-5-1969). Cũng trong bài báo đó, ký giả Pomonti cho biết Đài Phát thanh Hà Nội phổ biến nhạc của Sơn chỉ nhằm vào mục đích tuyên truyền và hàng ngàn đĩa hát, băng nhạc được đưa ra ngoại quốc lén lút do các con buôn. Nhưng Pomonti cũng phải nhận rằng, chính quyền không quá khắc nghiệt đối với Trịnh Công Sơn. Nhạc của Sơn vẫn bày bán ở các tiệm sách tại Đà Nẵng và Huế sau 1 tháng bị cấm. Báo Chính Luận số ra ngày 13-2-1969 cũng bày tỏ ý kiến: … Xét nhạc Trịnh Công Sơn, dưới cái nhìn Trịnh Công Sơn trước hết phải là một công dân với tất cả nghĩa vụ và quyền hạn của một công dân đối với tập thể. Có thể trách Trịnh Công Sơn đã không đặt đúng tầm quan trọng của “quan điểm chính trị” mà mỗi công dân phải có, tức là phải có tư tưởng dứt khoát và minh bạch đối với cuộc kháng chiến chống cộng sản xâm lược. Thế nhưng trong một chế độ được coi là tự do thì vấn đề “quan điểm chính trị” không nên khe khắt như trong các chế độ độc tài và cộng sản. Chẳng hạn trong chế độ cộng sản khi mà cộng sản còn khai thác chiêu bài yêu nước thì bài: Người về nay đã cụt tay (“Nhớ người thương binh cua Phạm Duy”) được coi là liều thuốc kích thích hữu hiệu, nhưng khi dân chúng giác ngộ về sự lợi dụng của cộng sản mà hết say mê thần tượng “cụt tay” vì đẫy là cụt “cho Đảng” không phải “cho nước”, thì bài đó bị liệt vào loại “phản động” làm nản lòng chiến sĩ. Trịnh Công Sơn khi khóc than trước cái cảnh chết hai lần (một lần chết vì đại bác quốc gia, một lần chiết vì mìn của cộng sản) nếu về phương diện chính trị có thể bị coi là đã “không phân biệt bạn, thù” thì về phương diện triết lý của sự sống đã nói lên được phần nào thân phận bi đát của miền Nam bị kẹp giữa các thế lực quốc tế và để sống còn, vì không có đủ sức lực “trực tiếp trả miếng” nên đã phải tiến, lui, tránh né, để gián tiếp phản công mà tự vệ. Nhạc Trịnh Công Sơn nên được hiểu theo tinh thần phản chiến đó. … Chính trị của Việt Nam Cộng hoà, nghĩa là của chính trị của một chế độ dân chủ đã làm trọn nhiệm vụ có nó hay chưa. Đó mới là vấn đề trong vụ: nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn. (Chính Luận) Việc cấm nhạc Trịnh Công Sơn còn gây nên phản ứng ở các báo chí ngoại quốc. Những bản tin đánh đi, ít nhiều gì cũng bênh vực Trịnh Công Sơn nhất là đối với dư luận nước Mỹ, vì nhạc của Sơn đã lôi kéo sự chú ý của dân chúng Hoa Kỳ từ khi tờ New York Times đăng tải một bài của thông tín viên Bernard Weinraub tại Sài Gòn với nhan đề: “Một người Việt Nam trẻ đã ca về nỗi buồn của chiến tranh”. Trần Văn Dĩnh đã nói điều trên ở bản tin, nhan đề “Bob Dylan của Việt Nam” (The Bob Dylan of Vietnam) trong Peace News ngày 8-11-1968. Vậy Bob Dylan là ai? Bob Dylan là nhạc sĩ Mỹ trẻ, thuộc thành phần phản chiến. Bob Dylan không phải là tên thật, chỉ là biệt hiệu. Nguyên do chàng nhạc sĩ này mê thơ của một thi sĩ tiền phong Mỹ: Thomas Dylan, nên lấy tên của thi sĩ này đặt cho mình. Cách đây mấy năm, các ca khúc của Bob Dylan đã gây ảnh hưởng rất lớn trong giới thanh niên Hoa Kỳ với nếp sống hippy thác loạn. Bob Dylan mê hút cần sa, chất ma tuý này đã làm thần kinh Bob Dylan mau suy sụp, đến bây giờ hình ảnh Bob Dylan phẫn nộ, cuồng mê, phản chiến đã chìm dần vào dĩ vãng, vì nước Mỹ “nghiến” nhân tài rất nhanh và tàn nhẫn! Trong các thông tin quốc tế có mặt tại miền Nam ở thời gian nhạc Trịnh Công Sơn bị cấm, có lẽ chỉ Crystal Erhart là có cái nhìn khách quan khi nói về đời sống và nhạc Trịnh Công Sơn, … Sau cuộc chiến ở Huế, Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ cũng là ca sĩ 28 tuổi, đã viết lên những ca khúc cảm động: “Bài ca dành cho những xác người”: … Xác người nằm trôi sông Phơi trên ruộng đồng Trên nóc nhà thành phố Trên thềm nhà hoang vu… Trong những ngày của cuộc chiến ở Huế, Sơn đã ngồi trong nhà, nhìn những người lính Bắc Việt di chuyển qua khu vườn nhà Sơn, và sau đó, sống với những người dân tị nạn trong những căn nhà ẩm mốc cả tháng trời, nhìn những nấm mộ tập thể được tìm thấy, những thành luỹ bị bom đạn và sự chết, Sơn đã viết bài hát này với xúc động sâu kín, chỉ có thể so sánh với những bài hát của những người dân nô lệ miền Nam Mỹ: … Xác người nằm quanh đây Trong mưa lạnh này Bên xác người già yếu Có xác còn ngây thơ Bên những vồng ngô khoai… Ca khúc này nói lên tâm hồn người Việt Nam sau biến cố Tết Mậu Thân 31 tháng Giêng. Trịnh Công Sơn, một ca sĩ và nhà soạn nhạc hiện đang nổi tiếng. Người được dân chúng Việt Nam kính trọng, nhất là giới học sinh, sinh viên, bởi vì nhạc của ông là kết hợp những lời rền rĩ, oán than của người Việt Nam ngày xưa với nét nhạc mới Tây phương. Ngôn ngữ trong ca khúc của ông giống như ca dao, những ca dao Việt Nam có từ hàng ngàn ăm trước đây ảnh hưởng đạo Lão, chữ dùng nhiều khi cụ thể, giản dị, đôi lúc có tính cách tưởng tượng. Trịnh Công Sơn đã xuất bản 3 tập nhạc về dân ca và sẽ xuất bản thêm một tập mới nữa, mang nhan đề Sau ngày hưu chiến. Trước Tết, Sơn đã có nhiều cuộc hoà nhạc tại đại học đường, khi mà một số tự do tối thiểu nào đó của sinh viên, học sinh vẫn còn. Nhiều bài hát hiện đang bị chính phủ cấm, vì có tình cách phản chiến, … Một ngày dài trên quê hương đang đến với Việt Nam… Những ca khúc của Trịnh Công Sơn cũng đã được xuất bản và thâu băng tại Hoa Kỳ (trong một phim ngắn thuật về đời ông ở Huế, nơi ông cư ngụ với gia đình đang được Dispatch thực hiện và sẽ chiếu cho công chúng xem trong tương lai gần đây). Thiết bị những đến Sài Gòn, ông ta đã ở tại một căn nhà cũ kỹ sau Hội Hoạ sĩ trẻ Việt Nam, đường Lê Thánh Tôn. Ba phía tường bằng xi măng, còn một phía bằng gỗ. Một cái dù trên trần nhà để che mưa, quần áo mắc đầy tường, một cái bàn gỗ mộc, hai ghế bố, một cái đi-văng gỗ rộng, và cái trạn đựng thức ăn v.v… Ánh sáng đi vào từ cửa sổ mở, một bóng đèn tròn được bao quanh bằng cái chụp giấy. “Tôi được sinh ra ở cao nguyên miền Trung Việt Nam”, Trịnh Công Sơn nhấn mạnh: “tôi chưa bao giờ học nhạc ở một lớp nhạc nào. Tôi đã tự học, tại Huế, Sài Gòn và Đà Lạt. Tôi sống để sáng tác nhạc.” Sơn đã đậu tú tài ban Triết, tại trường Chasseloup Laubat, Sài Gòn. Cha Sơn đã chết, và gia đình gồm một mẹ già, 2 anh trai, 5 em gái hiện ở tại Huế. Sơn đã trở lại Huế sáng tác tập nhạc: Những ca khúc mới. – Tôi thích sáng tác ở Huế, Sơn cười buồn, bởi vì dù thành phố này bị tàn phá, nhưng nó rất yên lặng, không ồn ào, bụi bậm như Sài Gòn. Bây giờ, tất cả cảm hứng của tôi đều đến từ khuôn mặt thật của chiến tranh, những lời ca và ý nhạc đều được hình thành vì nỗi buồn mà tôi được chứng kiến. Sơn đã viết về nỗi buồn này trong bài hát “Ngủ đi con”, bài này làm cho một bà mẹ hát để ru ngủ đứa con đã chết: Con ngủ, ngủ đi con Đứa con của mẹ da vàng Ru con ru đạn nhuộm hồng vết thương Hai mươi năm đàn con đi lính Đi rồi không về Đứa con da vàng của mẹ Ngủ đi con Ru con ru đã hai lần Ôi tấm thân này ngày xưa bé bỏng Mẹ mang đầy bụng, mẹ bồng trên tay Hò… ho… ho… Sao ngủ tuổi hai mươi (“Ngủ đi con”) Khi Sơn hát và chơi đàn, căn phòng trở nên u tối, cơn mưa sớm buổi chiều bắt đầu. Một vài người bạn đã đến, nghe Sơn hát. “Cái gì tôi lo sợ nhất cho quê hương tôi”, Sơn nói, “đó là nếu quê hương trở thành nô lệ, thì những người dân Việt Nam sẽ bị chia cắt tận gốc từ màu da thật sự của họ, hơn nữa, tôi sợ phần lớn những tầng lớp xã hội này sẽ bị phân hoá dần dần bởi sự oán giận và hờn ghen.” “Sau chiến tranh”, Sơn tiếp tục, “cái tôi sợ nhất là sự bắt đầu của một cuộc chiến khác, vì thế, thật là khó khăn để mộng mơ đến hoà bình, thống nhất sẽ được thực hiện trên quê hương chúng ta.” Những bài hát của ông luôn luôn diễn tả sự hy vọng sẽ có hoà bình và thống nhất. Những bài hát này, như “Tôi sẽ đi thăm” đã không làm cho ông ta có cảm tình với chính phủ miền Nam Việt Nam, … Khi đất nước tôi hoà bình Tôi sẽ đi không vội vã Từ Sài Gòn ra Nghệ An Từ Hà Nội xuống Phan Rang… “Tôi nghĩ rằng, những ca khúc của tôi không được chính quyền yêu thích”, ông ngượng ngập nói lời trên. Lý do, những ca khúc đó than van về những đau khổ của chiến tranh, như vậy, đã trái với đường lối của chính phủ. Những bài hát tình cảm, dầu sao, như bài “Gia tài của mẹ” đã được trình diễn trên Đài Phát thanh Việt Nam và ở những quán cà phê ta thường được nghe,
… Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu
Một trăm năm nô lệ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày…
Mưa bắt đầu nặng hạt và nước bắt đầu tràn vào nhà. – “Căn nhà này thấp hơn mặt đường”, Sơn giải thích, nên phòng này luôn luôn bị lụt khi trời mưa. Mọi người đều cười, để chân lên ghế hay giường, đốt thuốc lá và yêu cầu Sơn hát nữa. Sơn đã hát lại một cách hồn nhiên.
“Tôi chưa có dịp để nghe những ca sĩ dân ca Hoa Kỳ trình diễn nên chưa biết thích ai cả tuy nhiên, tôi có một tape nhạc Joan Baez. Tôi thích Joan Baez bởi vì giọng hát của cô chuyển đạt được hết những dư âm buồn Đông phương.”
Sau những ca khúc khác, Sơn nói: “Khi tôi viết những ca khúc để nói lên một tình trạng nào đó, thí dụ như thân phận buồn rầu của dân Việt Nam, tôi mơ rằng, những bài hát của tôi sẽ làm những người có cùng thân phận gần lại nhau hơn và khám phá ra những phương pháp để chữa trị vết thương chung mà 20 năm nay chúng ta phải chịu đựng.”
Mọi người đều yên lặng, nghe mưa rơi, Trịnh Công Sơn đang dạo nhạc và lựa hoà âm. Tai của Sơn sát với thùng đàn. Với 28 tuổi đời, Sơn đã có một tước vị cao trọng của một người khi hát lên những đau khổ của cả một dân tộc.
Crystal Erhart
Văn Trịnh Công Sơn
Huế hôm nay
Một cửa sổ của căn phòng bẩn thỉu nơi tôi đang sống đã nhìn ra phía ngoài một góc thành phố đông đúc. Trong một buổi chiều, tôi nằm dài yên lặng trên ghế bố, nhìn ra ngoài cửa và tôi nhớ Huế.
Từ cửa sổ ngó ra, Huế, là hai cây bông bụt đỏ ối, những làn mưa nghiêng nghiêng trong một bầu trời ảm đạm.
Mỗi năm vào tháng này, tôi đi Huế. Đi ở đây, có nghĩa là trở về với những cái gì tầm thường như quý giá: một căn nhà chật hẹp, một tô bún bò gạo giã, bạn bè tại những quán cà phê nhỏ Mệ Tồn và giữ Huế trong tay suốt mùa hạ. Bản chất của Huế nằm trong kích thước nhỏ bé của nó. Nó không ồn ào và bận rộn. Những lề đường của Huế thân mật. Trên con đường của thành phố, bạn có thể giơ tay vẫy bạn bè suốt ngày. Khách lạ mới tới Huế có cảm tưởng rằng tất cả mọi người ở Huế đều có họ hàng với nhau.
Trước hết, tôi trở về để thưởng thức những vật tầm thường nhỏ bé đó. Tôi đã thưởng thức nó trong một thời gian ngắn trước khi biến cố Mậu Thân xảy ra.
Một sự sợ hãi lớn lao đã đến với Huế. Thật là điều khó khăn đối với tôi để quên, mùi xác thịt thối rữa trên đường Lê Lợi khi tôi cùng gia đình tản cư ngang qua đó. Hai hàng cây trước kia che chở đại lộ bằng những bóng mát cũng bị tróc gốc và trở thành những chướng ngại vật cho chúng tôi.
Nhìn vào Huế tháng Hai, tôi thấy một bộ mặt sụp đổ của thành phố cổ kính. Tôi nghe giọng buồn nhất ở khắp nơi trong địa ngục kéo dài suốt tháng này. Họ là những người còn sống sót trong những cuộc chém giết, dường như họ chỉ còn thân xác mà không còn hồn. Nỗi buồn trốn mất khi nỗi đau khổ quá lớn. Tất cả dân Huế sống cùng với nhau trong suốt khoảng thời gian nguy hiểm nhất, đều đã thở bầu không khí bẩn thỉu nhất của trại tị nạn. Tất cả đều đã được biết sự tận cùng của đau khổ. Tôi nhìn những căn nhà bên kia sông bị nổ tung vì đạn đại bác, tạc đạn rơi trên dòng sông Hương, làm mặt nước tung bọt trắng xoá. Trong những ngày đầu của trận chiến, gia đình và tôi ngồi yên lặng trong nhà. Buổi sáng đi qua trên những khuôn mặt khổ não. Các anh tôi và tôi ngồi nhấp nháp rượu trong khi đạn réo ngang đầu. Qua khung cửa, chúng tôi nhìn thấy những người lính Bắc Việt di chuyển, nấu ăn, đào hố trong vườn trước mặt nhà. Đó là những ngày đẹp trời của mùa xuân, với những giọt mưa nhẹ như sợi chỉ đan vào nhau và không khí lành lạnh. Tôi muốn tản bộ dọc theo những con đường đầy bóng mát trước cửa nhà. Tôi muốn có cốc cà phê ở một tiêm bên kia sống, trong nội thành, đằng trước Trường Âm nhạc và Mỹ thuật.
Nhưng tôi đã ngồi bất động hơn 15 ngày. Anh tôi và tôi ví những ngày của chúng tôi với những ngày của Anne Frank.
Tôi không biết bây giờ những gì có thể tìm thấy, khi tôi trở về Huế. Những cây cầu bắc ngang qua dòng sông nhỏ đã bị gãy. Tất cả mọi cây cầu An Cựu, Khe Ron, Phú Cam, Bến Ngự, Nam Giao v.v… Một trong những cây cầu này đã chứng kiến sự trưởng thành của người bạn gái thân nhất, những dấu chân của nàng đã in hằn trên đó khi đi đến trường.
Khu nhà tôi ở bây giờ đã trở thành bãi dây kẽm gai. Căn nhà tôi, một phần lớn bị tàn phá, đã đầy rác. Ngày đầu tiên tôi trở về. Tôi ngồi duỗi dài chân tay trên một cái giường bị gãy và nhìn giọt mưa nhỏ rơi trên tôi, từ chỗ trống của mái nhà, tôi nghĩ rằng đang mơ. Thật sự, Huế chẳng còn gì cả. Bầu không khí thanh lịch, ấm áp của ngày xưa sẽ không bao giờ trở lại. Các kho tàng cổ kính và quý giá của Huế đã bị bom đạn đốt cháy.
Chỉ trong vòng hai tháng, tất cả mọi người dân của thành phố Huế đều trở thành những công nhân. Tập quán cổ truyền có từ lâu của một lối sống vương giả ở những gia đình ngày xưa đã bị xoá đi mất. Tôi đã nhiều lần bước ngang qua cầu Tràng Tiền gãy đổ nhiều nhịp. Tôi qua dòng sông Hương với con thuyền đầy người. Còn đâu sự êm đềm trong tâm hồn thành phố. Rất khó kiếm thấy một chỗ không bị lỗ chỗ bởi những hố bom.
Những con đường tráng nhựa sạch sẽ thuở nào nay đã trở nên lộn xộn, bẩn thỉu. Từng đám bụi bay lên cao suốt ngày ở hai con đường chính. Một bảng quảng cáo của rạp hát Châu Tinh vẫn còn treo ở trước cử chợ Đông Ba. Phim này dường như cũng là một điềm gở: Le Temps du Massacre.
Máu đã chảy và thấm xuống đất thành phố. Tôi đã mất nhiều thời gian ngồi trong quán cà phê trên đường Trần Hưng Đạo để quan sát những người qua lại buồn phiền, những người đã thăm được chiều sâu của sự buồn phiền. Tôi nhớ rằng tôi đã không tắm, không thay quần áo và không cạo râu cắt tóc trong hai tháng.
Sau giờ giới nghiêm, thành phố còn trở nên bi thảm hơn. Cửa nội thành đóng, đường phố bị bao phủ bởi một bầu không khí lạnh lẽo của bãi tha ma. Những ngôi mộ mới mọc lên như nấm dóc theo những con đường và lề đường trong công viên, trong vườn cam Tây Lộc và trong những cánh đồng nơi đàn bò ăn cỏ. Những bức tường của thành nội cũng đầy những vết đạn. Có lẽ hương hồn của những vị vua chúa ngày xưa và những quan lại cũng sợ hãi. Huế luôn luôn được nếm mùi bất hạnh. Từ lụt lội, bão tố trong quá khứ cho đến sự tàn phá của hàng ngàn căn nhà, hàng ngàn gia đình trong cuộc chém giết tàn nhẫn ngày hôm nay, người dân Huế đã phải học cách sống trong kiên nhẫn. Huế dường như bị cột chặt vào định mệnh khắc nghiệt. Sẽ không bao giờ có thành phố Huế cổ kính ngày xưa nữa. Tại đây, dân chúng không bao giờ có dịp để làm giàu một tháng hay một ngày. Cần phải 4 thế hệ: ông, cha, con và hcáu, mới có thể xây dựng một căn nhà. Căn nhà được truyền từ đời nọ sang đời kia, và những người nào phải xa nhà, đều vẫn có thể nhớ từng cột nhà, từng sà nhà, từng bậc cửa.
Vì thế phải cần một thời gian lâu, mọi người có thể nhìn Huế mà không nhìn thấy khuôn mặt bị tàn phá. Huế của ngày xưa đã biến mất đi khi mái cao của cửa Thượng Tứ và cửa Đông Hoà đã bị tàn phá và đầy lỗ thủng.
Tôi bước dọc theo đường thành nội nơi mà hàng ngàn căn nhà đã bị đốt cháy rụi.
Tôi đi lên An Hoà, đứng trên ngọn đồi Uông Voi và nhìn chung quanh, cạnh những hố bom sâu hơn 10 thước. Nơi đây là nhà của hàng ngàn những gia đình nghèo khó. Họ đã trở về để nhìn lại những cây chuối non, những cột gỗ, những lăng tẩm, từng bậc đá ghi lại những dấu vết của những cái gì đã một lần ở đó.
Tất cả mọi thứ đều bị tàn phá. Huế đã phải lo cúng bái thêm nhiều linh hồn con đi lang thang. Huế đã có một ngày giỗ chung cho tất cả mọi người chết, ngày mà người ta nhìn thấy nhiều đống xác người. Nhưng bây giờ lại có thêm nhiều thân người nữa. Sự tàn phá cũng càng ngày càng nhiều. Nước mắt của người dân Huế đã đủ để làm dòng suối nhỏ. Những ngôi mộ ở chùa Áo Vàng, tại Bãi Dâu, tại Kim Long, tại Long Thọ, là những dấu vết của một bạo lực hung ác, không có thể quên được trong tâm hồn những người còn sống.
Nhớ những ngày ở Huế trong tháng Giêng và tháng Hai, tôi không bao giờ có thể quên được những người mẹ chạy theo xe chở xác, đã mang đứa con trai của bà và trong khi chạy, bà đã vỗ tay cười suốt con đường lầy lội đất đỏ.
Tôi cũng sẽ không bao giờ quên được những người lính Mỹ ngồi dài trên lề đường, nhìn bà ta cười ngạo nghễ. Tôi cũng nhớ một người đàn ông già, bước những bước nặng nề, trên vai ông một cỗ quan tài bé, trên quan tài có cắm ba nén hướng đang cháy.
Huế đã sống qua những ngày tàn nhẫn. Hàng đoàn người đã đào lỗ để tìm xác cha, anh, mẹ hay chị. Những tiếng khóc của đám ma có thể làm rung chuyển cả núi rừng. Nhiều cái chết do sự ác độc của loài người gây nên. Ngày kia tôi lẩn trốn trong một thư viện của Viện Đại học Huế, tâm hồn tôi là một tảng băng. Chung quanh tôi mọi vật đều bị tàn phai. Tôi không thể nói được gì cả, khi đời sống chỉ là một trò đùa. Trong một tháng, tôi đã sống ở nơi ẩm ướt, lạnh lùng, trong bầu không khí ảm đạm của thư viện. Tôi không biết phải làm cái gì với cảnh tàn phá này. Căn bản luân lý của chiến tranh đã ra khỏi giới hạn của năng lực loài người để chịu đựng.
Huế ơi! Tôi hy vọng có một ngày thanh bình nào đó, tôi có thể trở về để ăn bánh bèo ở cây Phượng, bún bò thịt nướng ở Kim Long, bún bò tiệm bà Rốt. Tôi muốn quay trở lại để ngủ đêm trên dòng sông Hương và gọi ông Bê mang cho tôi một bát bún, rất cay, cay đến chảy nước mắt. Tôi sẽ gọi cô con gái trên thuyền mang cho tôi một con mực nướng khô, một cốc rượu nhỏ, thật nhỏ để làm cho đêm trở nên ấm hơn, những bài hát nửa đêm trở nên hay hơn và giấc ngủ hiền hoà hơn trong lúc sông lặng lờ trôi…
(/?title=muoikhuonmatvannghehomnay#t1" name="n1">1
F. Scott Fitzgerald (1897-1941), nhà văn lớn của Mỹ, đã bị khủng hoảng thần kinh trong khoảng thời gian 1935-1936, khi đang viết The Crack up (Điên đầu). Sau khi ông mất, di cảo này do nhà New Directions, New York ấn hành. Nội dung gồm những đoản văn có tính cách tự thuật với suy nghĩ qua tình yêu đổ vỡ, cuộc sống bi đát và ám ảnh của những đêm dài ghê rợn, xen kẻ những câu ngạn ngữ. Các tác phẩm: This Side of Paradise, The Great Gatsby, Tender Is the Night, The Last Tycoon, đều được phiên dịch qua Pháp ngữ.
Tên: Nguyễn Thị Tuý Hồng. Bút hiệu: Tuý Hồng. Ngày sinh: 12-10-1938 tại Chí Long, Phong Điền, Thừa Thiên. Viết văn từ năm 1962 (viết 1 bài rồi nghỉ 2 năm sau mới viết lại). Tác phẩm: Thở dài, nhà xuất bản Đời Mới 1965, Kim Anh tái bản 1966; Vết thương dậy thì, nhà xuất bản Kim Anh 1966; Trong móc mưa hạt huyền, nhà xuất bản Đồng Nai 1969; Tôi nhìn tôi trên vách, nhà xuất bản Đồng Nai 1970; Mùa hạ huyền, Văn Khoa 1971; Những sợi sắc không (Giải nhất Văn chương toàn quốc 1970), nhà xuất bản Khai Trí 1971; Biển điên, nhà xuất bản Văn Khoa 1971 ; Bướm khuya, nhà xuất bản Đồng Nai 1971 Đã cộng tác với: Văn Hữu, Bách Khoa, Lập Trường, Văn, Văn Học, Tin Sách, Nghệ Thuật, Kịch Ảnh, Con Ong, Diều Hâu, Tia Sáng, Độc Lập, Tin Sáng, Thần Phong, Thời Nay, Đời Nay, Khởi Hành, Tiền Tuyến, Vấn Đề… Tuý Hồng và Những sợi sắc không … Huế là quê hương tôi, quê hương đang có vô số nhà cửa cần bán rẻ để người Huế vào Sài Gòn tìm một chỗ ở cuối cùng. Tôi đã ở Huế từ trong bụng mẹ đến năm thứ 28 của cuộc đời. Huế mang thai tôi, để ra tôi, cho đến khi tôi đi lạc vào Sài Gòn này. Từ hai năm nay, tôi ở nhà thuê, nói tiếng Bắc, ăn chả giò, ăn bún riêu, canh chua cá dấm, thịt bò viên, mía ghim và có một người yêu… … Bỏ Huế mà đi lòng tôi nhớ trời, nhớ khoảng thiên nhiên. Huế đẹp từ vũng nước đọng bên đường đến lượng cỏ non Hương Giang, từ cọng rau muống bờ hồ đến cây phượng già xanh lục… Những đêm mùa đông, những con “ệnh oạng” kê mõm khắc khoải kêu than từ những ao rau muống… kêu chi mà khỏ mà trầm thống!… … Cực lòng quá, Huế ơi! Tôi đi… ở với Huế buồn lằm… vào Sài Gòn hoạ may có một nụ cười, vào Sài Gòn hoạ may có một người yêu!… (Tôi nhìn tôi trên vách, trang 10-11) Huế, quê hương của Tuý Hồng đã góp mặt vào văn nghệ với truyện ngắn “Thở dài”, làm bỡ ngỡ nhiều người vì nội dung và lời văn bỏng cháy tình dục. Sự góp mặt đầu tiên cũng là sự đóng góp vĩnh viễn vào khung trời văn học Việt Nam một bông hoa lạ và quý. Cô gái xứ Huế, mặc áo tím, che nghiêng nửa mặt chiếc nón bài thơ, mái tóc huyền bỏ xõa ngang lưng, lê đôi guốc mộc gõ lóc cóc trên nhịp cầu Tràng Tiền mỗi sớm, gõ mỗi chiều trên ván cầu Bạch Hổ, để các thi sĩ làm thơ, nó không nằm trong kích thước Tuý Hồng. Tuý Hồng là một ngọn lửa, là một mũi tên, là lưỡi dao nhọn, là những đột biến giãy giụa, là sự dấn thân không trả giá, là cuộc sống hôm nay không có nguỵ trang bằng môi cười e lệ, bằng dáng dấp thẹn thùng, bằng sự mập mờ, che đậy. Huế, kinh đô nhà Nguyễn với thành quách lâu đài, với lăng tẩm uy nghi, với dòng Hương Giang lững lờ xuôi mái, với núi Ngự Bình phơ phất chim bay, với bốn mùa thay đổi. Tất cả, đã tạo nên Huế một sắc thái đặc biệt, nó trầm lắng ưu tư trong quá khứ và nó vạm vỡ, hùng tráng trong cách mạng. Tuý Hồng được Huế đùm bọc từ thuở ấu thơ tới năm 28 tuổi. Biết bao nhiêu kỷ niệm giăng mắc đầy ứ tâm hồn. Cái cuộc sống đó, nó không đơn thuần, giản chiết, mà nó đẩy sâu mỗi số phận vào góc tối của suy tư, đồng thời nó bắt con người phải phản kháng hay chấp nhận những gì hiện hữu. Tuý Hồng nhớ Huế, thương Huế ở giữa Sài Gòn mưa nắng hai mùa với dòng sống ồn ào không biết mỏi mệt. Cái cảnh mơ mộng đi sóng đôi trên con đường Phan Chu Trinh nhìn hoa violette, hay trải hồn theo tiếng hò ngân dài trên mặt nước sông Hương, không thể có ở đây, ở một hoàn cảnh chụp bắt, lừa lọc, phản trắc kể cả những khuôn mặt anh em! Nó làm cho cuộc sống gẫy vụn ra từng khúc. Nó làm bải hoải và chán mỏi đến tận cùng xương tuỷ, nhưng mọi người không thể và không có cách nào rời xa nó cả. Nó là nguồn sống, là huyết mạch. Nó đưa người lên, dìm người xuống. Nó là cuộc chơi đầy hứng thú và nguy hiểm. Tuý Hồng kinh qua ba tác phẩm nhỏ: Thở dài, Vết thương dậy thì và Trong mưa móc hạt huyền để đi vào những tác phẩm bề thế rộng lớn có tính cách quyết định sự nghiệp văn chương của nhà văn. Tôi nhìn tôi trên vách, tác phẩm dài đầu tay của Tuý Hồng. Trong cuốn sách, tuy nhà văn dùng ngôi thứ nhất, nhưng nguỵ trang dưới tên Khanh để giữ tính cách riêng của nhân vật, sự thực, nó chính là một đoạn đời khi giã từ tuổi con gái của tác giả, cũng như Colette viết về đời mình trong nhiều cuốn sách, với các nhân vật mang tên Claudine hay Renée chẳng hạn. Vả lại, cái đó không quan hệ. Điều quan hệ là giá trị thực thể của tác phẩm đối với độc giả cùng những dữ kiện mà nội dung cuốn sách chuyên chở, có mang lại một kết quả nào về ý thức đời sống có mặt hay không? Nội dung Tôi nhìn tôi trên vách, viết về đời sống của Khanh, cô gái xứ Huế, vào Sài Gòn rồi lấy Nghiễm, văn sĩ người Bắc. Trước khi lấy chồng, Khanh làm nghề cào thuốc ở các phòng mạch. Nghiễm anh trai gì cẩn thận, không muốn Khanh hành nghề này, sau khi thành hôn, vì một lần vô tình Nghiễm đã chứng kiến sự chụp bắt, lầm mò của y công vào thân thể cô gái có nhiệm vụ chào hàng. Nghiễm sống độc thân đến năm gần 40 tuổi mới lấy vợ. Khanh ba mươi mới lấy chồng. Hai cái già khú đế lấy nhau vì tình yêu để rồi chịu đựng nhau trong nếp sống thường nhật. Tiền cưới, một phần, do bạn bè của Nghiễm giúp, cộng thêm số tiền Nghiễm được bạc. Cưới xong, Nghiễm và Khanh chung sống ở một cao ốc giữa Sài Gòn. Tuy đã lấy vợ, nhưng Nghiễm vẫn uống rượu và rong chơi cùng bạn hữu. Khanh không quen lối sống nơi đây, nên bảo Nghiễm sang lại phòng về nhà bố mẹ ở. Bi kịch nội tâm đã đẩy Khanh vào một vùng trời oán hận với kỷ niệm, vì hiện tại có Nghiễm, có bố mẹ, các em gái và bạn hữu. Tất cả những gì u uẩn nhất, chua cay nhất đều được Tuý Hồng viết với vò xé, đôi khi tàn nhẫn. hình ảnh Phi híp-pi, Sanh, Ninh và chị Sương, Bích Vân, Bích Khuê v.v… chỉ là những khuôn mặt phụ được tác giả tạo ra để sử dụng vớn ẩn ý nào đó, nhằm gây nên sự tình, đẩy nội dung vào môi trường thuận lợi của kỹ thuật dựng truyện. Nhưng cuối cùng, tác giả vẫn dành cho người đọc sự thoải mái nhẹ nhàng vì chẳng có gì đáng tiếc. Hạnh phúc vẫn nằm trong tay với chồng con nguyên vẹn. Những mơ mộng thời con gái mất dần theo thực tế. Lấy chồng đâu phải đùa giỡn và không cuộc sống nào toàn bích. Những đuổi bắt của thời con gái, chỉ còn là ảo ảnh do tiềm thức cấu tạo nhằm đánh lừa thực tại. Khi yêu nhau, cái gì cũng tốt, cái gì cũng đẹp, yêu từ giọng nói yêu đi, Em nói tiếng Huế cho anh nghe đi. Anh thích nghe tiếng Huế, tiếng Huế mà chửi nghe cũng hay!… Nhưng câu nói chỉ để lừa nhau đó thôi, cuộc đời làm cho sự thực lần lần hiện ra từng mũi nhọn. Những mũi nhọn của đời sống xuyên qua suy tư, đâm lút vào trí não làm tê liệt thần kinh, làm rã rời hy vọng. Sự chờ đợi và mong mỏi không còn cho bồn chồn đứt nuối, nó trở thành nỗi hờn ghen, oán hận và ý nghĩ phũ phàng trong mỗi tưởng tiếc! Tình yêu có đấy, cuộc đời có đấy, ân tình có đấy, nhưng nó là cái gì vừa tung cao lại giật xuống, vừa cho đi lại lấy về, vừa xây dựng lại phá đi, vừa thương yêu lại phụ rẫy. Nó là nỗi khốn khó của thực tế đối chiếu với dự tưởng. Nó không tròn đầy vòng tay mong mỏi. Nó thiếu hụt. Nó chơi vơi như kẻ không biết bơi bị cuốn vào trận đắm tàu. Tuý Hồng là ngọn lửa hoả diệm sơn ngất ngất, chứa chấp tận đáy sâu một khối lượng nhiệt khổng lồ, mỗi lần chuyển động là mỗi lần gieo đớn đau, đổ vỡ và chất phún thạch kia chảy lan tràn làm chết sững cả một vùng cỏ cây vô tội. Tuý Hồng viết như ném vào cuộc đời những phũ phàng, như tiếng thét giận dữ để phản kháng lại sự trói buộc, cái bất toàn của luật lệ xã hội với thân phận đàn bà. Bởi vậy, ngôn ngữ văn chương của Tuý Hồng nghe sượng sần, chát chúa. … Em tôi là văn sĩ. Bước chân vào làng văn là đi đời con gái. Bây giờ thử hỏi một nữ sĩ: Cô đã ngủ với đàn ông lần nào chưa? Thì phải hết sức vô giáo dục, hết sức trơ trẽn, hết sức giả tạo, ngổ ngáo, trân tráo mới có câu trả lời: Tôi chưa hề ngủ với đàn ông lần nào!… (Tôi nhìn tôi trên vách, trang 26) A, nữ sĩ! A, văn nghệ! Nếu vậy làm nữ sĩ cũng cực nhọc lắm, đâu có dễ dàng. Cái mảnh hồng nhan với đường con rõ rệt, gồm những tế bào được cấu tạo bởi: muối khoáng, nước, vôi, sắt, acit v.v… có phải điều quan trọng, có phải một gìn giữ thiêng liêng cho mỗi nhan sắc? Hay nó chỉ được đánh giá bằng đam mê nhục thể, bằng ve vuốt môi hôn, bằng thể tích của cặp đùi, của vùng đồi cỏ êm mướt, với chiếc tử cung và hai buồng trứng, như Tuý Hồng quan niệm? Không, nó đâu như vậy! Văn nghệ nó là đời sống ở trên đời sống. Nó cung cấp những dữ kiện để tạo nên đời sống, nó chấp nhận hay phản kháng những gì mà đời sống đẩy tới. Nó làm cho mỗi số phận vượt thoát thấp hèn, ti tiện. Nó là môti cười dịu ngọt, nó là giọt đắng tê lưỡi, nó là dòng lệ không bao giờ khô, nó là câu khóc không thành tiếng. Cái tâm hồn nửa đực, nửa cái, cứ thích xông xáo ở ngoài, cứ đâm sầm vào xã hội như trâu bạc mất mùa, Tuý Hồng dùng để xác định cương vị của nữ sĩ hôm nay, chẳng qua chỉ để tỏ bày thái độ, để khẳng định lập trường trước xã hội mà thôi. Chính thức, cuộc đời cũng như cuộc tình, đối với nữ sĩ vẫn long lanh màu hổ phách trong đáy ly liên hoan, sóng sánh men rượu ân nghĩa, vẫn ấm ngọt, vẫn mịn màng như hột bánh nhân duyên. Tuý Hồng viết sắc và nhọn. Sắc như lưỡi dao mới mài, nhọn như mũi dùi mới giũa. Những dữ kiện vừa cay đắng, vừa mỉa mai, vừa dâm đãng, vừa cao thượng, vừa yêu thương, vừa ghét bỏ, vừa buồn vừa vui làm người đọc như bị bủa vây trong một không khí mờ ảo, mù mịt hơi cay, để rồi khóc, để rồi cười, để rồi nuối tiếc!… Lấy chồng muộn, Khanh thèm có con nâng niu, phòng mai hậu về già đỡ lo, vì thế, đêm tân hôn đối với nàng là đêm thư hùng lồng lộn, đêm trống mái dập vùi, nàng khát khao mong mỏi sau đêm đó, đường kinh sẽ tắt và bụng tròn vo bởi có đèo thêm mầm sống. Nhưng sáu tháng trôi qua vẫn như tháo chỉ, đan len hoài công uổng sức! Cũng như Khánh hy vọng, lấy vợ rồi, Nghiễm sẽ bỏ mọi thói hư tật xấu như uống rượu, rong chơi cả đêm cùng bạn hữu và với các “cô cháu” kêu bằng “chú” đáng nghi ngờ! Nhưng không được. Nghiễm, nhà văn, nghĩa là ngoài bổn phận làm chồng. Nghiễm vẫn còn có đời sống riêng, một đời sống phóng túng của loài ngựa rừng không thích đóng yên, mắc hàm thiếc, che mắt một chiều. Từng đêm trên cao ốc, khắc khoải mong chồng đi chơi khuya về, làm Khanh chán mỏi. Hơn nữa, cái chung cư đó còn gây cho nàng những ấn tượng hãi hùng, ghê tởm. Không khí hắc ám vây quanh toàn vũ nữ ngày đêm lướt thượt lượn lờ. Ái tình thì đánh ghen, giành giựt với những khuôn mặt tiên nữ lúc hoàng hôn và dạ xoa mỗi bình minh thức giấc. Nó không thích hợp với Khanh, cô gái Huế có nếp sống trầm tĩnh, kín đáo, dù trong lòng có nổi loạn yêu thương từng cơn vật vã!… Sau cùng, Nghiễm đã thua, chiều theo ý Khanh dọn nhà về ở chung với gia đình bên vợ. Trâm và Thảo, hai cô em lớn của Khanh. Trâm viết văn, làm nữ sĩ đó! Nghiễm như lạc vào thế giới lạ, cảm thấy cô đơn. Xung quanh được bao phủ bởi một nếp sống khác, khác hẳn từ lời nói, khác từ miếng ăn, khác từ cử động. Nghiễm, trước mắt mỗi cô em vợ là con người cẩn thận vô lối đến ti tiện, mở tủ lạnh cũng khó chịu, rửa chén bát dối cũng không ưng ý, để từ đấy đi vào mâu thuẫn. Còn Khanh về nhà bố mẹ, cũng chẳng sung sướng gì, nàng trở thành cái bung xung, một bên chồng, một bên bố mẹ và các em, chao ôi! Các cô em sao ác ôn làm vậy? Thảo mỉa mai bảo Khanh: Hầu chồng như hầu chúa, cha thì đau lên đau xuống chẳng pha cho cốc sữa. Trâm chua chát: Cá voi luỵ rồi, nước biển tha hồ ra sức chào xáo xung động. Còn Nghiễm lại nhăn nhó: Sao Thảo nó chửi vào mặt anh vậy? Khanh là ung nhọt, là đau đớn có đấy. Phải chứng kiến và làm nhân chứng bất đắc dĩ cho hạnh phúc khốn khó của riêng mình và chung gia đình: … Tôi vùng chạy xuống thang gỗ vào phòng đắp mền nằm co rút. Nước mắt hình như nóng hơn khi tôi khép hai mi lại. Ướt đẫm cơn khóc câm, tôi hình dung ra những chuyện tiếp diễn từ buổi sáng đầu tiên tôi về lại nhà cha mẹ: ngày của Nghiễm không phải là một khối thời gian để trắng mà tràn đầy công việc, chàng còn bận chuyện liên miên nên giấc ngủ của chàng bao giờ cũng bắt đầu từ nửa đêm đến tám giờ sáng và từ hai giờ chiều mới được ngủ lại giấc trưa. Cái tủ lạnh để trong phòng hai vợ chồng. Trong đó là bia, là trái cây, là nước lọc, là fromage, jambon, pâté, giấc ngủ của chàng bị dựng dậy từ sáu giờ sáng vì tiếng mở tủ lạnh lách cách của các em tôi vào lấy nước lọc. Chàng nằm trên giường theo dõi bước đi, bước chạy của từng đứa, cánh tay từng đứa dang ra mở tủ đóng tủ. Đến ngày thứ sáu cái tủ lạnh mở không ra đóng không vào. Nghiễm bảo: “Những đứa em gái của cô sao nhiều đàn ông tính, đãng trí, buông thả, dễ dãi, cẩu thả. Cô phải bảo với chúng là đồ vật cũng có tri giác, đồ vật cũng biết đau.” Hai mi mắt tôi bắt đầu đỏ sửa soạn những giọt lệ: “Vâng, vâng, tôi sẽ không cho chúng thọc tay vào tủ lạnh này nữa.” (Tôi nhìn tôi trên vách, trang 67) Chính thức, đồ vật không biết đau, người bỏ tiền ra mua chúng về thì đau thật! Nghiễm, sống độc thân quá lâu, hơn nữa, từ nhỏ đã phải tự mình lo cho mình, gây dựng cho mình, do chính mồ hôi và nước mắt của mình mà có chúng, nên sự giữ gìn là cần thiết đối với Nghiễm. Còn Khanh, vì tự ái nên nàng khổ, Khanh cũng không quên cám ơn Nghiễm, vì lấy chàng nên nàng mới được ăn nhiều miếng ngon, mặc nhiều đồ tốt, nhưng Khanh muốn rằng, không phải vì thế mà Nghiễm có quyền khinh nàng và gia đình mình. Bài học làm vợ đã cho Khanh biết thế nào là nhẫn nhục. Nhưng trời lại phú cho nàng cái tính tự ái, ưa suy nghĩ nên nàng khổ. Cái khổ đó, nàng muốn vứt đi như vứt bỏ món đồ phế thải hoặc trả thù cho bõ ghét, cho bõ tức, tuy vẫn yêu chồng, thương bố mẹ, các em. Nghiễm, đôi khi dưới mắt nàng, cũng chẳng tốt đẹp gì, bê tha rượu chè, mê rượu hơn mê vợ, và có lần Nghiễm cho Khanh biết: trước chàng còn hút thuốc phiện nữa kia, bây giờ tu tỉnh lại rồi đó! Bỏ tám phần mười rồi đó, nhà văn mà! Có lúc Khanh giận quá đã phải nhờ Trâm viết thành văn hộ mình một dòng: Hạnh phúc đôi khi là một tên cướp đuổi nàng chạy như chuột. Nhưng đó chỉ do sự mất bình tĩnh trong chốc lát, vì những gốc râu của Nghiễm day trên môi Khanh vẫn làm nàng tê tái, khoái cảm!… Cái nếp sống chồng Bắc, vợ Huế, còn làm khổ mỗi người về miếng ăn, thức uống. Nghiễm thích bún riêu, chả giò, thịt bò xào cần v.v… nhưng gia đình Khanh lại chỉ ưa cá nục kho, mắm ruốc! Lấy chồng nhà văn lại còn ham đeo hột xoàn, tức là chọn nhầm cửa. Nhưng đàn bà lạ lắm, hay tự ái vặt, thấy bạn có hột xoàn, tự nhiên trong lòng nảy sinh mơ ước cho được bằng người. Bích Khuê, một goá phụ trẻ, bạn của Khanh buôn hột xoàn, hay đánh bài với mấy ông tướng thất nghiệp qua vài cuộc đảo chính, chỉnh lý. Sự có mặt của Bích Khuê như lời khích động, lời mời chào vượt thoát. Nghiễm chỉ yêu vợ chứ không yêu gia đình nhà vợ, nên chàng thường mua lén thức ăn ngon chờ cả nhà đi ngủ, gọi vợ dậy ăn vụng. Sự ước mong một đứa con của Khanh rồi cũng đến. Nó hành nàng với một cơn đau chết giấc. Trong cơn mê vì độ nóng, Khanh nhìn thấy viên kim cương Culiman của hoàng gia Anh, và các trò chơi tình ái qua ba hồi bảy hiệp của đời con gái thăng trầm. Đứa con Khanh mong, nó đã ra đời: mắt lớn, tai to, tóc rậm, xồm xoàm tiền sử. Tên nó: Khanh Hiền. Mắt nó đen như satin để sau này lớn lên hớp hồn đàn ông như mọi cô gái Huế. Cuộc đời Nghiễm, Khanh, thêm đứa con vẫn cứ nằm chình ình ở căn phòng khách được ông bố vợ xây tường vội vàng ngăn đôi cho cách biệt. Nghiễm vẫn vậy, uống rượu đều và đi Đêm Màu Hồng. Còn không khí vẫn bị quá khứ đi về giăng mắc. Những cuộc tình không có chiều dài, nhưng cũng đủ làm nên kỷ niệm. Dòng sông Hương nước chảy lững lờ xanh biếc, óng ánh ôm nhịp chèo périssoire dồn dập. Ôi! Dòng nước cứ mỗi năm một lần bị đại dương lấp hiếp lại ghi dấu mặn nồng làm cả thành phố thiếu nước uống. Nào lăng tẩm, nào cửa biển Thuận An, nào đèo Vọng Cảnh, nào chùa Thiên Mụ và một hôm nàng thỏ thẻ vào tai Nghiễm: Anh Nghiễm ạ! Cá voi đực si tình lắm. Ngày xưa có một ông mê em như cá voi đực, mê kỳ lạ, mê đến mọc mộng ra. Nghiễm: Ừ!… Nghiễm biết rõ quá khứ của Khanh nhưng đã thuộc về dĩ vãng. Chàng chỉ cần sự trong trắng của Khanh từ ngày cưới trở đi thôi. Nhưng, làm sao Nghiễm có thể kiềm chế Khanh không được suy nghĩ, không được đến thăm bạn bè? Bích Khuê đó và Sanh chẳng hạn: … Tôi đứng lên chào về. Sanh nhìn tôi từ tóc tới chân, mắt chàng êm ái mát như lụa và ngọt sắt như quýt Hương Cần. Tôi sức nhớ một câu văn tôi đã ghi vào bìa cuốn vở giảng văn năm đệ nhị: “Đừng nhìn nhau lâu, sợ rồi thương mến nhau, chỉ cần quen biết thôi, tình đừng nên tìm sâu.” Hồi đó Bích Khuê nói: “Con Khanh hắn yêu anh Sanh như sanh với sứa!…” (Tôi nhìn tôi trên vách, trang 119) Rồi con đường Phan Chu Trinh nằm bên dòng sông An Cựu ghi dấu kỷ niệm tuổi trẻ. Hôm nay Sanh còn đó, Khanh còn đó, mà xứ Huế thật xa vời. Hình ảnh con Khanh thằng Sanh điên điên tàng tàng đã bị thời gian khoả lấp vào đổi thay, nay chợt trong tiềm thức le lói ánh lên màu hạ cũ. Chuyện đến vay tiền Bích Khuê để mua máy rang ngô, biết đâu chẳng phải cuộc viếng thăm để giải toả kiềm chế: “Bắt được cô bỏ nhà đi chơi đấy nhé, hết chối, hết cãi.” “Phải rồi, tôi đi đánh tứ sắc đấy.” “Này, liều vừa vừa nhé!” “Anh sao cứ ra tay lớn vào những việc nhỏ.” “Trước khi đi tôi đã buộc cô ở nhà trông con.” “Em đi có việc cần.” “Tôi đã bảo ở nhà, là ở nhà. Cấm không cãi.” “Ai biết anh khó vậy. Nếu biết anh khó… khó… như vậy… biết vậy thà lấy chồng Huế cho sướng…” … … Cơn khóc khởi đầu bằng những cái chớp mắt nhỏ, nỗi buồn khởi đầu bằng tiếng thở dài ẩm ướt, cơn điên khởi đầu bằng những sợi thần kinh hư, tôi thảng thốt nghĩ rằng tôi đang ở trong một cái ống, mở thoáng hai đầu trông ra cuối trời mơ ước, cuối trời kỷ niệm. Tôi trông ra và tôi thúc thủ bó tay. Thảo rướm giọng: “Lấy chồng đôi khi là một sự lỡ tay.” Trâm ngừng viết ngửng đầu lên khôi hài: “Lấy chồng là tự sát…" (Tôi nhìn tôi trên vách, trang 124-127) Sự ngỡ ngàng tình cảm làm Khanh thấy nhức buốt trong mỗi ngày giờ, sống trong kích thước gia đình, nàng tìm phương kinh qua, bằng cách với Nghiễm cho mình theo học Văn khoa. Khuôn viên đại học đẩy Khanh gặp Phi híp pi. Khuôn mặt này, tác giả chỉ dùng như một ám ảnh, một buồn phiền, mà nhà văn cần giải toả ẩn ức trong đáy thẳm tâm linh. Cái cuộc sống do Khanh chủ động hồi con gái không còn nữa. Nó chỉ như một sợi tơ đứt mỏng manh bay phất phơ theo chiều gió. Phi như con dã thú, như một tội ác, như sự ghê tởm, như viết sâu Quảng làm lở lói ý nghĩ của nàng. Nó vuốt má Khanh, cầm tay Khanh và xấu hổ chưa, nó còn đòi chết trên bụng nàng. Ôi! Cái bụng đam mê có vùng mơ ước! Nỗi đớn đau chợt tới. Khanh mong vượt thoát ít phút cái lưới của Nghiễm giăng qua mau, quá dầy lại bị cái lưới cuộc đời ô trọc bao phủ. Phi trân tráo lại nhà thăm Khanh. Cái mái tóc thời tiền sử của Phi, làm Khanh chợt nghĩ đến thời kỳ ăn lông ở lỗ, chưa lửa, chưa khói, chưa sắt, chưa vải che thân… Sự thực, tác giả đã nguyền rủa xã hội Việt Nam trong chiến tranh đau khổ, còn dung dưỡng những điều quái gở qua vóc dáng Phi đó! Câu chuyện Phi chưa xong, đến chuyện Ninh, chàng trai xứ Huế quen nhau ngày xửa ngày xưa. Mỗi khi Khanh gặp lại con trai Huế, như gặp đời sống của mình nên bao giờ nàng cũng vồn vã quấn quít. Vì thế, nếu có ý nghĩ u ám trong đầu, đó cũng chẳng phải điều lạ. Các cô em trách Khanh về vấn đề này tuy chẳng thích gì Nghiễm, anh con trai Bắc kỳ khó tính. Tuy làm gì cứ làm, nghĩ gì cứ nghĩ, Khanh vẫn thương chồng lắm, … Thương chồng, thương luôn những ly rượu của chồng. Thương chồng, thương cả chiếc miệng nói nhanh. Thương chồng, thương cả tật rung đùi, thương từ ngón chân cái, ngón chân út đến sợi tóc sớm bạc trên đỉnh đầu, thương từ đầu gối thương lên đôi môi lười biếng tạo những chiếc hôn, đôi môi chỉ biết hôn khi có chuyện cần… (Tôi nhìn tôi trên vách, trang 241) Nhưng đôi khi quá giận, Khanh nói lên những lời chua hơn giấm, cay quá ớt, ngay vào mặt Nghiễm: "Giết tôi đi, tôi không chấp nhận thứ chồng trâu ngựa đó… Những người bạn cũ của tôi vẫn có một giá trị, một sức nặng cụ thể cho tôi mến phục. Họ khốn khổ, họ trong sạch, họ thanh thản, họ uống nước vối chớ không biết uống rượu… Có lẽ họ tồi hơn anh ở những chỗ đó: họ thức khuya để học bài thi chứ họ không thức khuya để ngồi ngắm ca sĩ phòng trà…" (Tôi nhìn tôi trên vách, trang 260) Lời nói như những mũi kim châm, như từng chiếc lưỡi lê đâm phập vào da thịt rồi để nguyên đó. Nó dìm xuống vực sâu bao nhiêu ân nghĩa. Nó cắt xén từng sợi tình vấn vít. Nó thấm. Nó đau. May quá còn chị Sương, một người đàn bà biết cư xử theo lẽ phải, tuy cũng bắt nạt chồng “một cây”. Chị Sương nói: Có ba thứ danh dự con Khanh không được chạm đến: danh dự của chồng, danh dự của cha mẹ, danh dự của tụi em mình chưa có chồng; và chị nói với Thảo, nếu thằng Nghiễm có lên đây (trên lầu) gây lộn với con Khanh, mình về phe thằng Nghiễm. Vì uống rượu và làm việc quá nhiều nên Nghiễm khạc ra máu. Khanh lo lắng chạy đến nhà Bích Khuê xin đơn thuốc gia truyền, gặp Sanh. Sanh trách Khanh, tự nhiên nhảy vào Sài Gòn lấy Nghiễm làm bao nhiêu thằng hổng cẳng, rồi hắn buông một câu: "Tại sao Khanh lại có thể đi kết hôn với Nghiễm nhỉ. Khanh có nhận thấy là Nghiễm không đáng xách dép cho Khanh không?" (Tôi nhìn tôi trên vách, trang 273) Cái anh con trai xứ Huế này thật nhảm. Đã thua cuộc còn làm tàng. Khanh giận, nhưng câu trả lời của nàng hơi yếu, tự an ủi rằng, không chấp làm gì thằng con nít điên. Nghiễm ngã người vào cột đèn sau một bữa chả cá mời vợ, trong lúc chờ taxi về. Bệnh Nghiễm nặng thực, tưởng chết ngay, Khanh đưa chồng vào nhà thương Chợ Rẫy một đêm, hôm sau vào Grall, Khanh đang mang bầu đứa con thứ hai. Việc nuôi bệnh là điều khổ cực. Nghiễm bị chai gan vì rượu. Nghiễm phải kiêng thức ăn đặc, nên Khanh ăn phần cơm của chàng, trong nhà thương: Tôi cười buồn miễn cưỡng nhấc chiếc nĩa xúc vài cuống “nui” cho vào miệng. Qua ba lần nuốt, tôi bỗng cảm thấy đĩa “nui” ngon, tôi gắp miếng sườn sang xé ăn hết cả, ăn hết đĩa xúp hết khúc bánh mì và sau cùng quả chuối dài. Tôi quay nhìn Nghiễm ngủ, tôi phát ngán tôi. Chồng đau nặng mình đớp đủ thứ một cách khoái khẩu như thế này… (Tôi nhìn tôi trên vách, trang 278-279) Nghiễm đau nặng lắm, tự nhiên lại rung đùi, đấy là một điềm lành, là dấu hiệu tha thiết nhất của cuộc sống trước mặt Khanh lúc đó. Thời gian làm Nghiễm bình phục, nhưng Nghiễm không về nhà, nằm dưỡng bệnh tại một cao ốc do người bạn tốt cho mượn. Mỗi chiều Khanh đưa cơm và ngủ lại đó. Thời gian này có “cháu” Bích Vân lại thăm, Khanh ghen. Đi từ cơn ghen, Khanh quan niệm bọn đàn ông văn nghệ người nào cũng chia cuộc đời mình làm hai: một cho vợ con, một cho người tình và mỗi người đều có năm bảy lá gan để sẵn sàng đem cho gái. Còn Khanh, vô tình gặp Ninh, gã nói dối Bích Khuê cần gặp nàng. Khanh theo Ninh về nhà. Ai ngờ, có Phi híp-pi chờ sẵn, Bích Khuê không thấy. Hai đứa nó hành hạ nàng, đánh đập nàng, may có Sanh đến cứu. Hình ảnh Sanh lúc nào cũng lởn vởn bên cạnh đời Khanh. Nó không có đấy mà hiện diện trong mỗi góc sống của đời nàng. Nó là cõi trời đã mất, một phiến mây đã qua, một vùng tuổi trẻ nguyên vẹn với giao ước vượt khỏi vòng tay. Quá khứ nhức buốt làm Khanh ngất ngư trong vũng lầy tâm tưởng. Để cứu vãn kinh tế gia đình vì Nghiễm đau, Khanh phải đi dạy học, nhưng nàng cũng không quên tìm vui cho riêng mình. Nàng theo Bích Khuê đi phòng trà, phấn son, giày dép, tóc tai hợp thời trang, ngồi xem thiên hạ đánh bạc và đi tắm biển với người con trai lạ mặt, tên Thể. Hắn đã ôm đại nàng giữa sóng biển dào dạt cuốn xô hai thân xác!… Rồi cũng vì Bích Khuê mà nàng phải nổi nóng cấu xé Phụng vì bị nghi oan ăn cắp chiếc nhẫn kim cương trong lúc Phụng tắm. Thể có mặt như một bãi phân! Tất cả những việc trên, tác giả chỉ dùng nhằm đưa nội dung vào “cao độ kỹ thuật”, nhưng đồng thời cũng để bày tỏ thái độ sống và sự phản tỉnh sau những chuỗi dài vật vã đam mê, buông thả tâm hồn, thân xác! Ngay cả vấn đề gia đình, Nghiễm còn đó, ba đứa nhỏ còn đó, bố mẹ và các cô em còn đó, ngày tháng còn đó, trước mặt. Nhưng hạnh phúc vợ chồng không thể hoà hợp khi mọi chuyện riêng tư còn được dò xét và phê bình bởi người ngoại cuộc, dù người đó là bố mẹ, chị em. Hạnh phúc cần được che đậy dưới một dung tích nào đó, kín đáo và riêng biệt. Nó nhỏ bằng bàn tay hay to bằng cái đình, miễn nó thuộc về mình. Chỉ có mình và nó. Sau cùng, nhờ trời Nghiễm và Khanh đã có một dung tích để giải toả mọi ám ảnh, phiền não. Tôi nhìn tôi trên vách hay Tôi nhìn tôi trong hồn, với hình ảnh quá khứ, hiện tại và còn đó, nỗi cô đơn nguyên vẹn. Những hình bóng nào đấy in chập chùng trên tấm-vách-đời-tôi như những vết thương không bao giờ kín miệng, ngày và đêm chỉ làm nhức nhối tâm tư… Trong hơn bốn trăm trang sách, Tuý Hồng đã vẽ nên bao nhiêu hoạt cảnh vui buồn, với nhiều cay đắng, nhớ thương và giận dỗi. Tuý Hồng viết như bứt ra khỏi hồi những vướng vít, như cầm lưỡi dao khứa vào da thịt mình, để nhìn từng giọt máu đỏ hồng chảy nhễ nhại với tiếng cười tự ái. Những vết thương tình ái dù đã thành sẹo trong tâm hồn, nhưng vẫn là ngứa ngáy khó chịu mỗi lần nghĩ tới. Cuộc sống dù được trải rộng ra hay thu hẹp lại, lúc nào Tuý Hồng cũng tự mình bày vẽ, điểm trang cho mình nét đặc biệt, thật đặc biệt, thật riêng rẽ giữa những nhàm chán đến buồn nôn. Nói đến thân xác, không còn là nói điều cấm kỵ và những ngón tay ngọ nguậy ái tình cũng chẳng phải lời nói dâm ô, hoặc điều sỉ nhục. Đối với Tuý Hồng, cái khung trời tình ái mà tuổi trẻ tôn thờ, không đi ra ngoài thú vui nhục thể. Chính nó, mới là tình yêu chân thật. Hỡi tên gác rừng của văn hào D.H. Lawrence, mi đã bất tử cùng với người đã tạo ra mi uổng thay, mi đâu có biết! Từ Tôi nhìn tôi trên vách Tuý Hồng đã đi vào Những sợi sắc không với sự đắm chìm của bao thân phận quay cuồng, vật vã trong lịch sử và cách mạng, ở đấy tình yêu hiện diện như sự thách đố với đạo đức và định mệnh. Huế nên thơ và trầm tĩnh? Huế e lệ và kín đáo? Không, Huế trong năm 1963 là sôi sục căm thù, Huế là mồi lửa thứ nhất, là tiếng gào thứ nhất, là giọt máu thứ nhất, là cam đảm thứ nhất, là quyết tâm thứ nhất trong phong trào nổi dậy để xô đổ một chế độ đã 9 năm làm chủ miền Nam nước Việt, khi nó không còn làm họ hài lòng. Các thanh niên trí thức đã cùng Phật giáo và toàn dân thành phố Huế nhất tề đứng lên tranh đấu. Một số trí thức bị bắt, bị tra tấn và bị truy nã. Tiếng súng cách mạng 1/11/1963 thành công. Họ reo hò vui sướng. Nhưng sau đó, những người cùng chung lưng đấu cật hôm trước lại không cùng nhau nhìn về một hướng. Một ngã ba sông thành hình. Từ đó là gãy vụn, chia lìa và tình yêu cũng chỉ được đánh giá qua lý tưởng cách mạng, hoặc bằng sự chụp bứt nhục thể nếu có hoàn cảnh. Những khuôn mặt chính: Trương, Lê Hùng, Sinh, Cỏ May, Trầm, quấn chặt lấy nhau trong không gian xứ Huế, và rất nhiều nhân vật phụ chạy xung quanh họ như quân đèn cù. Họ yêu nhau, làm khổ nhau, phản bội nhau, nhớ thương nhau, qua bao nhiêu trạng huống giày vò, qua bao nhiêu bước đi thời đại. Họ tựa vào cánh tay cách mạng để tạo một lý tưởng. Họ tựa vào tình yêu đều dìm họ xuống đáy vực của nghi ngờ, phản bội, ích kỷ, giả trá và lợi dụng. Bi kịch đối với mỗi số phận như những trang đời đen tối, như cơn giông gió thổi từ một vùng trời phẫn nộ, như một hang sâu chập chờn khua động màu xanh nhợt nhạt của những bàn tay giơ lên cầu cứu trong nỗi thất vọng!… Tuý Hồng dàn trải cuộc sống trong một kích thước vừa đủ, ở đó tác giả đã góp mặt, đã say mê, và sống thực cái đời sống con gái từng tham dụ vào trò chơi cách mạng. Tác phẩm Những sợi sắc không mở đầu bằng 21 kẻ trí thức buộc thành phần sinh viên, giáo sư, bác sĩ trong đó có 2 cô gái: Cỏ May và Trầm. Trong những ngày bị giam, một mối tình nhen nhúm giữa Cỏ May và Trương, giáo sư. Tuy bị mất tự do nhưng 21 “sách” vẫn nô giỡn, yêu đời vì họ tin rằng sự kìm hãm này chỉ tạm thời. Muỗi cứ đốt, rệp cứ cắn, họ cứ ngâm thơ Đường luật và đánh cờ tướng. Họ nói giỡn với lời lẽ như vỗ vào mặt nhau mà không sợ mất lòng: "Bọn này ăn cơm nguội… đói đàn bà quá nên thấy cô Trầm đẹp vội tán chơi… ồ ồ nếu cô Trầm không ưng ý thì bọn này quay sang cô Cỏ May. Ối chà… đúng là một cuộc tán gái nảy lửa, cuộc tán gái sấm sét qua cơn giông là hết, là dứt tuyệt và mãn tù ra thì ai đi đường nấy. Ờ ờ không biết khi được thả rồi còn có tán gái được nữa không? E rằng thiên tài bị rỉ sét ăn mòn đi rồi!… – Thôi đi cha… Khỉ nào lại có thứ khỉ không biết trèo…" Cỏ May, cô gái vì lý tưởng mà tranh đấu, còn Trầm, viết văn, có mặt cho biết mùi đời vậy thôi. Trầm, cô gái phiêu lãng, việc đời đối với nàng cái gì cũng là nhỏ kể cả tình yêu. Qua một đêm cách mạng, mọi người được trả tự do với sự hoan hô nhiệt liệt của dân chúng. Những buổi liên hoan được tổ chức liên tiếp. Những người ở tù hôm trước bây giờ được coi như có thành tích cách mạng. Họ hội thảo, họ ăn uống, họ cười nói, họ coi cuộc đời và sự thành công hôm nay một phần lớn do họ. Mối tình của Trương và Cỏ May cũng lớn vui theo cách mạng. Trong khi đó Trầm vẫn cô đơn, sống theo ý mình, theo cuộc đời đã chọn lựa: nghề viết văn với tự do tuyệt đối. Trương, giáo sư đại học gia nhập phong trào chống đối chính quyền lúc đó, vì cảm thấy có bất công trong cách đối xử với Phật giáo và độc tài trong vấn đề cai trị, nhưng một khi nhiệm vụ đã thi hành xong. Trương muốn trở lại cương vị cũ. Từ Pháp về, Trương có mang theo vợ đầm tên Laura và một đứa con. Người vợ không hợp thuỷ thổ nên đã tự ý mang con trở lại Pháp. Trương lo thủ tục ly dị theo điều kiện của Laura và bắt đầu yêu Cỏ May. Cỏ May, cô gái Huế lạ lùng vừa yêu tình nhân, vừa yêu lý tưởng, cả hai thứ, nàng muốn phải cao đẹp ngang nhau. Vì lý do nào đó cần chọn lựa, nàng sẽ nghiêng về lý tưởng. Tình yêu giữa Trương và Cỏ May đã đi đến lễ hỏi, tuy Cỏ May khổ sở về bài bố cáo của Trương đăng báo ly dị vợ. Cách mạng đã thành công, các cuộc hội thảo được tổ chức luôn luôn để gìn giữ khí thế đấu tranh vì: Sau cách mạng không phải là một giấc ngủ vùi. Người làm nó không ăn không ngồi rồi, không nhởn nhơ bay bướm. Chúng ta có hai quả đấm bằng thép để nhiếc bốc vào bao cát phong kiến, có chiếc lưỡi dài để nhiếc móc vào những phần tử sâu mọt tai hại, bọn mật vụ cần lao phải ngã ngục. Đó là luật thiên nhiên, luật đào thải xã hội. Như cây phải trút lá như rắn phải lột xác… (Những sợi sắc không, trang 18) Những người trẻ tuổi đi vào cuộc sống như đi vào cuộc sinh sát, như đi vào căm thù ngàn kiếp! Họ phải phá hết, phải đạp đổ hết những gì họ không ưng. Họ bắt cuộc sống phải theo mình, mọi người phải theo mình, trong khi chính họ không cần theo ai cả! Ý thức cách mạng trong họ là cái gì vừa kiêu căng vừa tàn bạo, một chiều. Chẳng biết có phải thứ độc tài mới chăng? Trương không đồng ý về đường lối đấu tranh đó, chàng bỏ về, bác sĩ Nghị bỏ về, nhưng Cỏ May ở lại. Cỏ May nhìn cách mạng như nhìn vào lý tưởng tuyệt đối. Tình yêu giữa Trương và nàng chỉ có thể nối liền bằng sợi dây cách mạng. Nếu Trương không thích đứng chung chiến tuyến với anh em nữa, chắc chắn nàng sẽ hy sinh tình yêu! Cỏ May càng tức giận khi thấy khuôn mặt nham nhở của Phiến và Trầm, những khuôn mặt không thể phân định rõ ràng lập trường: trông ngoài thì như ngỗng, nhưng trong chát ngầm như chuối xanh, như sung sống! Buổi họp tan, Trầm về nhà Cỏ May ăn cơm, nàng được học khôn ở ông Thông, bố Cỏ May, đang sống theo phương pháp tân dưỡng sinh, gạo lức muối mè: "Trầm biết không? Sinh ra trên vùng đất nghèo thì phải ăn cơm hẩm, cơm mốc, phải dễ nuôi, phải cực. Sống là phải cựa quậy, phải ngo ngoe nhúc nhích, phải vùng vẫy không để ai đấm lưng, lôi bụng mình được, trước phải không ai chèn cổ, sau phải không có ai ngáng chân. Phương pháp đấu tranh đầu tiên là phải biết kham khổ hoá cái bao tử, bắt nó phải thắt bóp, bắt nó cam go khổ cực…" Nhưng trong lúc đó, những đứa con gái ông, không đứa nào chịu khổ cực được hết, Ngàn, Ngự, Nguyên v.v… vẫn cứ ăn uống theo phương pháp cựu dưỡng sinh, trừ Cỏ May mỗi tháng hai lần ăn theo bố mẹ. Không những thế, Nguyên còn ham lấy chồng qua câu nói nửa đùa nửa thật: "Chị Trầm ơi! Biết bao giờ cha mẹ chịu thương thuyết với cha mẹ em để xin hỏi cưới em cho con trai họ hè?…" Trầm dạy khôn: "Muốn lấy chồng thì phải tấn công dồn dập, phải xuống đường liên miên để đón tàu tranh giựt, đừng khư khư núp kín trong nhà đợi người ta đi hỏi như ôm cây đợi thỏ…" Trầm, cô gái đã trao đời mình cho một ý hướng, quan niệm rõ ràng về cuộc sống có mình đang góp hơi thở: Một đứa con gái viết văn, một ả giang hồ cầm bút, nói một cách hơn cả cộng sản tam cùng nói, phải theo đến mười ba và hai mươi bốn cái cùng của cuộc đời. Trước luân lý tôi là đĩ. Sống cuồng nộ bất kham. Sống kích động giành giựt. Lướt qua ngọn lửa, vọt theo lao, cuốn trong gió lốc, trườn mình trong sấm sét, hào hển, thở dốc ngất ngư cảm giác… (Những sợi sắc không, trang 27) Đối với Trầm, cuộc sống chẳng là cái quái gì cả. Ái tình, cách mạng, lý tưởng cũng để che đậy sự ti tiện, bẩn thỉu, đê hèn và dâm đãng bên trong! Do vậy, nàng luôn luôn đùa giỡn, khinh bạc những thứ gì mà xã hội chấp nhận hay đề cao. Cái thân xác này, nếu có làm ai mơ ước cũng chỉ để giải quyết sự dồn nén của nhục dục, và tâm hồn, thứ tâm hồn bệnh hoạn luôn luôn đòi hỏi những gì làm no nê khát vọng. Tuý Hồng đã sòng phẳng trong vấn đề ân oán giang hồ và tôn trọng luật chơi với một thái độ vô cùng nghĩa hiệp! Cuộc ái ân giữa Hoán và Trầm cũng nằm trong khuôn khổ đó. Nào xá gì một chút tình đối với anh con trai nói khoác, cho rằng thiên hạ có bao nhiêu con gái, mình có bấy nhiêu bồ! Không gã đàn ông nào lừa dối được Trầm cả trừ phi nàng muốn để bị đánh lừa. Sự lợi dụng thể xác cũng chỉ là điều ích lợi cho cả hai bên, vì nàng đã đánh hơi thấy sự phản bội cũng như khuôn mặt tình yêu nguỵ trang của Hoán, gã chỉ yêu Trầm từng phần, cái phần hấp dẫn nhất! Tình yêu, hò hẹn, tuyên thệ, kỷ niệm chỉ là giả dối. Mọi đứa đàn ông đều bước mau và quay mặt khi đã đi sâu vào thân xác của Trầm. Tình yêu của Hoán trồi sụt như kinh nguyệt con gái. Hoán đã bao vây tình cảm của Trầm khi nàng làm préceptrice ở gia đình ông Phan, kèm học cho bé Hải, Hoán là chú bé Hải. Trầm, nữ sĩ bụi đời, khi thôi kèm học bé Hải, nàng vô Nha Trang kiếm sống. Nàng cho rằng, đời đã hư, vữa, chua lè rồi, phá luôn! Cái ý tưởng điên cuồng, rồ dại ấy phát sinh tự đáy lòng chán chường thế cuộc vì thế cuộc chẳng có gì đáng cho ta gìn giữ. Trầm đã dấn thân vào đam mê đến trân tráo, nàng tự thú: Tôi bây giờ hôn rất tài, hẹn hò rất tài, đi hoang rất tài, ân ái rất tài… dửng dưng như một cục sắt nguội, như bất cứ loài khoáng chất nào trong và ngoài vỏ trái đất. Trầm như vậy đã trở thành một động vật vô tri. Nàng có đó, biết đó, thấy đó, nhưng không phải là mình! Cuộc hội thảo lửa trại khai diễn giữa những người đang bị ánh sáng cách mạng làm loá mắt, rối loạn thần kinh, với sự có mặt của Lê Hùng, giáo sư trẻ, mới từ Pháp về, cuồng tín, đầy tham vọng chính trị, Trương mấy lần dợm đứng lên đều bị Cỏ May níu lại. Cử toạ xôn xao vài tiếng ồn ào lẻ. Trương hất mạnh bàn tay Cỏ May bước ra ba bước lên tiếng: "Thưa giáo sư Lê Hùng… như vậy là tôn giáo đã rõ ràng vào cuộc đời và tôn giáo của chúng ta đã công khai tự đặt mình trước một đối thủ rồi, đã mơ hồ thấy chân dung kẻ thù rồi… Vậy kẻ thù mà giáo sư đặt ra đó là ai?" "Thưa giáo sư Trương… tại sao lại nêu vấn đề kẻ thù… tôi xin nhấn mạnh: độc tài, chia rẽ, đàn áp, bất công… ai đánh ta, ai tiêu diệt ta thì ta phải tự bảo vệ, tự dàn một thế thủ bằng khí giới bất bạo động mà thôi…" … Ngôn ngữ giáo sư Hùng thao thao như rồng phun, như một dòng nước cuốn sạch mọi điều thắc mắc vụn vặt. Những người chất vấn đều lần lượt về chỗ. Trương vẫn còn đứng, bác sĩ Nghị đủng đỉnh bước ra nhìn thẳng vào mặt chàng: "Vấn đề đặt ra là tranh đấu, tranh đấu cho có tự do, dân chủ thật sự, cho giảm bớt chênh lệch giữa người và người trong xã hội… Kẻ thù chúng ta là ai?… Nó ở trước mặt, nó ở sau lưng, nó ở xa, nó ở gần, nó lảng vảng đây đó. Giáo sư Trương đã thấy và mọi người đều đã thấy." "Tôi muốn kêu đích danh, chỉ đúng mặt. Tôn giáo của tôi là Phật giáo, đó là một sự rõ ràng và khi có người nhân danh tôn giáo tôi để nói có kẻ thù ở sau lưng, trước mặt, ở xa, ở gần thì tôi muốn biết kẻ thù đó là ai? Đó là một sự rõ ràng." Một nữ sinh viên bước ra: "Thưa thầy, con sẽ kể cho thầy một liên danh: độc tài, áp bức, chia rẽ, bất công, đàn áp… thầy nghe đủ chưa ạ?" (Những sợi sắc không, trang 54-55) Cuộc tranh luận cứ kéo dài, Trương đứng về phe thiểu số sáng suốt vì không muốn chấp nhận sự tình: một quốc gia trong một quốc gia, một quê hương trong một quê hương, một chính thể trong một chính thể! Cuộc hội thảo đưa sang vấn đề chửi trí thức miền Nam bằng những câu thật cay độc; … Trí thức, các ông đang ngủ hay đang thức, hay ông đang ngáy? Ông đang ăn hay đang uống? Ông đang tiểu tiện hay ông đang đại tiện? Ông đang hành lạc ở động phủ nào? Ở cửa động nào? Trên chiếc giường nào? Trên tấm nệm nào? Lưng ông ngã vào tự do, tay ông chống trên công bằng, đầu ông ngã trên dân chủ, đùi ông gác lên bác ái. Ông được hưởng đủ hết, hưởng đủ các thứ đó. Bây giờ nhé, nếu những lũ dân cù đầy chúng tôi tranh đấu reo hò… tức nhiên ông cảm thấy bị nghe, bị rung động, bị gây huyên náo , bị làm quấy phiền, bị mất an ninh ở cặp chân hay đôi tay gì đó… tức nhiên ông khoát tay im đi, im đi, bảo đừng có ồn… câm họng. (Những sợi sắc không, trang 57) Đó, đó là cách mạng, là tranh đấu, là bắt mọi người phải chấp nhận, tuân hành những gì mình nghĩ và nói. Trương đã bị cách mạng đẩy ra khỏi hàng ngũ về phương diện chính trị, Cỏ May đã đẩy chàng ra khỏi vòng tay tình ái, tuy chỉ tròn một tháng nữa làm đám cưới. Mấy cô em gái Cỏ May đang hy vọng chị đi lấy chồng, mình sẽ gặm giò heo, ăn bánh thật nhiều, được may áo mới để đi phù dâu… phù rể nữa. Một lá thư Cỏ May viết gửi Trương để cắt đứt mối tình, vì đường lối suy nghĩ của Trương hôm nay không còn thích hợp với nàng. Trương đau đớn nghĩ đến Laura với ba năm chăn gối đoạn tình và Cỏ May chưa có gì đã mất! Cỏ May đến tìm Trầm than van: Tau với Trương bỏ nhau rồi, nghỉ rồi, défiancer rồi, hồi hôn rồi, trả lễ rồi. Tau… bỏ Trương rồi, đá nhau rồi, hết trơn hết trụi tình nghĩa với nhau rồi!… Trầm, cô gái khôn ngoan và liều lĩnh. Đối với nàng, chính trị chỉ như sấm sét… tuy long trời lở đất nhưng chỉ làm cho một thoáng sợ hãi rồi thôi. Trầm lấy đời mình ra khuyên nhủ bạn, không xong. Nàng đã sống như giống đực, như Tarzan, đã làm các nhà đạo đức đỏ mặt nhưng rốt cuộc, đời vẫn vậy, chẳng phải vì mình mà nó chết, chẳng phải vì mình mà nó sống. Đừng có dại, đừng có dại Cỏ May! Nhưng Trầm quên, tạo hoá đã an bài!… Trong ngày buồn xa vắng, chợt Sinh đến. Sinh, khuôn mặt yêu thương của Trầm. Chàng Đại uý này là chiếc cù lao nằm giữa biển lòng nàng. Sự thật, biển lòng Trầm có nhiều cù lao nhưng cù lao của Sinh lớn và bề thế hơn cả. Sinh yêu Trầm, muốn đi đến chung đôi. Mối tình của Sinh rất cụ thể, nhưng Trầm vẫn muốn làm kẻ lãng du rong chơi giữa cuộc đời để hưởng thụ, dù phải trả giá nào đi nữa. Sinh hỏi nàng, có thể coi chàng như ruột thịt được không? Trầm cười khịt khịt nói: không được, không được… coi anh như “ngoài da” thôi! Trầm đó! Trong hoàn cảnh nào nàng cũng ngổ ngáo và không ngần ngại, mỗi khi cần sỉ vả cuộc đời! Bút pháp của Tuý Hồng vô cùng linh động, viết tự nhiên nhưng thật sâu sắc, vì nó mang nặng phần đời của nhà văn, nếu không vậy, chẳng còn Tuý Hồng. Trầm đã yêu, đã dâng hiến thân xác cho nhiều kẻ đàn ông khác như Truyền, Lực, Siêu. Những bàn tay đàn ông đã trườn đi mải miết trên thân xác nàng để khám phá da thịt. Nhưng càng yêu thì không được yêu, làm điếm thì không được con. Giờ đây nàng đã biến thành một vật xúc tác vô cảm, một đồng lầy da thịt vô tri giác!… Nàng cảm thấy mình mang thứ “đàn ông” trên thể xác đàn bà. Nàng đã bị loài ong độc và chất nam châm quái ác hút sạch mồ ma đời con gái. Bây giờ nàng chỉ còn là một cái khuôn đàn bà, có bộ ngực núi và thung lũng, một tử cung thâm u heo hút cùng hai buồng trứng rườm rà sai quả… Trầm van xin người yêu – Sinh, hãy ngủ với nàng một đêm, đừng trọn đời!… Tâm trạng Trầm thật thác loạn, làm điên đầu các nhà luân lý học, … Sinh liếm môi cười rồi chợt đâm bổ tới nằm nhào ra giường gối đầu lên đùi Trầm. Sinh ngửa mặt trông chiếc quạt điện một hồi ngắn rồi cầm vạt áo dài đắp để rúc đầu vào vùng tối âm hai cột thịt đùi người đàn bà. Chàng chợt so sánh cơn cuồng nộ nhục dục với những viên thuốc trụ sinh. Một bên mặt chàng và một cái tai chà xát mạnh bạo vào miền dưới của bụng người đàn bà. Vùng khoái cảm vỡ vụn ra thành từng hạt li ti hoà tan trong huyết quản hai người và cả một khu vực sung sướng không thể tích vỗ nhẹ lên bờ thân thể và muôn vàng máu nhỏ run rẩy… (Những sợi sắc không, trang 86) Như thế đấy, cuộc đắm say nhục thể được viết ra không chút e dè, ngượng ngập. Nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ để mô tả, để khích động dâm tính trong mỗi cảm nghĩ. Một vùng trời chợt sáng lên, chợt u tối. Một cơn mê vừa chụp xuống, một thức tỉnh chợt bàng hoàng. Không nguỵ trang, không thèm dối trá, Tuý Hồng đi vào vùng đất cấm giữa văn chương và thân xác như đi vào nhà mình, đi vào phương vị đã dành riêng cho mình từ thuở nào, nên có viết, có nói đến nó, cũng như người khác viết về cái bàn, cái ghế v.v… Thường quá mà, việc gì phải giấu diếm, úp mở, che đậy? Việc đời thế cả, bốn bức tường đều biết!… Giáo sư Lê Hùng miên man cùng chính trị, cách mạng và đấu tranh. Vì cực đoan nên luôn luôn chàng kết tội kẻ khác. Vì kẻ nào làm chính trị cũng phải một cục bướu đại chảng ở sau lưng. Hôm nay chúng ta phải mổ xẻ, phải vứt đi cái tật nguyện đó. Giải phẫu bằng cách nào? Bằng cách ra báo, vì bên cạnh chúng ta tờ Lập Luận (lập trường) đang có sức mạnh bật sơn. Chúng ta cũng cần khí giới để đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội! Trầm có tham dự cuộc hội thảo. Nàng không chấp nhận sự có mặt của tờ báo, một cơ quan ngôn luận dùng để sỉ vả chính quyền và mị dân, … Đối với tôi, tờ Lập Luận là một võ khí tranh đấu của nhóm người cứu quốc miền Trung này… Dạ thưa quí vị, tôi xin nói thêm một tiếng nữa: thanh danh, mặt mũi, tư cách của người cai trị ở đâu mà lại để cho một tờ Lập Luận làm ầm ầm bừa như thế được… và tại sao cái miệt đấu tranh này lại đi tôn thờ một tờ báo, lại đi triều bái một thứ chính phủ vợ bé, một thứ chính phủ nàng hầu, một thứ chính phủ vô hình, vô bóng như vậy được nhỉ? Và cái chính phủ chính thức bây giờ lại cũng rúm ró sợ sệt cái chính phủ hầu nong Lập Luận… … Lê Hùng phất cánh tay: Khoan, khoan, tốp tốp cô Trầm… đối với một chính sách cai trị ngô chẳng ra ngô, khoai chẳng ra khoai như thế này thì chúng ta không thể câm như lúa được… … Chúi mũi vào một tờ báo còn hơn nghếch mắt nhìn guồng máy cai trị mình nó sa đoạ. Chúng ta phải nói với Nguyễn Khánh rằng: chúng ta không sống nổi với cộng sản nhưng miền Nam chưa có ai xứng đáng để chúng tôi tôn thờ… (Những sợi sắc không, trang 102-103) Trầm như thế đó, khi đắm chìm vào tình ái, đắm chìm tột độ, nhưng lúc cần đến thái độ, nàng cũng tỏ ra sẵn sàng chết vì nó. Nàng là thứ độc, thứ dữ. Cỏ May không thể bắt chước nàng. Ý kiến này của Phiên, gã thanh niên ăn nói ngổ ngáo, nhưng hiện hữu vô duyên trong tác phẩm. Cỏ May đã khước từ tình yêu với Trương, đã trả lễ hỏi nhưng trong lòng vẫn nhớ thương. Nàng kêu lên từng tiếng bi thảm, "Thôi cho anh cả đầu tóc tôi đây, cho anh cả hai lít rưỡi máu trong người tôi, cho anh bộ xương, cho anh, cho anh… Tình yêu là một cuộc thảm sát. Thôi thôi không thèm khát nữa, thôi thôi không còn gì nữa. Tôi chỉ còn ba mươi bảy ký lô. Chao ôi!…" (Những sợi sắc không, trang 110) Trầm không lý-tưởng-hoá tình yêu như Cỏ May. Nàng như con sóng đại dương còn đàn ông là những chiếc thuyền nhỏ bé. Vùng sa mù nào đấy mà Cỏ May đã ômg mặt khóc oà, thương cho tình yêu chết yểu, đối với Trầm nó chỉ như cười cợt, bông đùa. Chân lý tình yêu qua Trầm, được điểm danh sống sượng, được treo lơ lửng trên những hành tinh ân ái. Nó là những bóng ma lặng lờ, câu kinh nhớ lại. Nàng vẫn là một cái gì, còn một cái gì mà không ai có thể định hình gọi tên được. Nó luôn luôn dở dang, mãi mãi bắt đầu. Một khung trời nửa cũ, nửa mới. Một hoạt cảnh nửa thật, nửa giả làm choáng váng những kẻ mê nàng. Chữ trinh chỉ là tấm màn phong kiến hết sức mỏng manh, hết sức phi lý! Trương, nhà trí thức vừa bị tình yêu đá cho một cú đau tê, bị cách mạng bạt tai tím mặt, đến thăm Trầm. Một vóc dáng hư hư thực thực, lượn chập chờn trong tiềm thức Trầm qua Trương. Con mọt sách vở đã được cuộc đời cho những bài học, nhưng không vì thế mà nao núng. Trương tìm Trầm như tìm niềm quên, như tìm sự khuất chìm của thương hận! Một tình yêu mới, nhen nhúm trong tâm hồn Trương, nhưng còn giữ kín nơi lòng. Cuộc gặp gỡ giữa Trầm và Trương thật phất phơ, thật ngượng ngùng. Trong khi đó, các em gái Cỏ May cho Trầm biết, Lê Hùng và Cỏ May đã có những liên hệ. Tác giả thắt thêm một “nút”. Trầm thảng thốt chợt nghĩ chuyện Trương đến thăm mình và Lê Hùng đi với Cỏ May. Trầm nghi ngờ, nàng biết tâm tính Cỏ May không hợp với Lê Hùng vì Cỏ May là kẻ đi tìm tuyệt đối, còn Lê Hùng, kẻ đầu cơ giai đoạn. Tuý Hồng đã kết thúc phần I của tác phẩm Những sợi sắc không với những “nút” thắt dở dang, với những sự tình vừa sôi động, chầm bập vừa khốn khó. Các số mệnh còn đương vi hành trên lộ trình chung của tình cảm cũng như lề lối sinh hoạt, chưa tới mức quyết định tìm phương hướng cho mỗi thân phận. Tuý Hồng, nhà văn thích lý sự, hình như lý tính là đặc trưng cho phái nữ nên ở đâu, lúc nào có thể, tác giả không quên tìm về cho mình những trường hợp để cấu tạo lý luận và dùng nó để đặt vấn đề, trình bày lý do, dù thanh nhã hay sỗ sàng cũng được! Phần II của cuốn sách được mở đầu bằng sự có mặt của Trầm trong ô vuông thành phố Sài Gòn, nơi có cuộc sống ồ ạt kinh niên, và có một bầy kên kên văn nghệ hễ thấy đàn bà là bay lượn dáo dác như muốn cấu xé con mồi. Những cuộc họp mặt mỗi tối, không phải để thảo luận về đường lối đấu tranh cách mạng hay tìm chiều hướng sáng tác, mà để ăn, uống rượu và văng tục. … Những tên đàn ông bỏ bàn ăn sang ngồi xếp bằng tròn ở sa lông nói ra những chữ tục thật ngon miệng. Chai Johnnie Walker mới uống xong dựng ở góc phòng, Chúng cúi xuống quẹt que diêm quăng vào trong chai đốt nghịch những giọt rượu còn sót lại. Trầm có cảm tưởng những câu nói tục của đàn ông đều phóng đúng tai nàng, nàng cười gằn cắn vào môi điếu Salem thắp tiếp, kéo một cái ghế trống gác chân lên nhìn Yến Ly gật gật đầu. Lý đi chân vòng kiềng đến trước mặt Thảo Trang coi người hớn hở: này này bà Thảo Trang ơi… ông Chung ông ấy cứ xoắn xít bên cô Trầm hoài à… bà phải ghen lên chứ! Nụ cười Thảo Trang nở ròn với vẻ trắng bóng khả ái của đôi hàm răng đều: ồ trường hợp cô Trầm với những người đàn ông đây… ai muốn tán cô thì cứ tán… đó là trường hợp một nữ sĩ độc thân. Nếu tôi không thành hôn với Chung… thì cũng vậy!… … Yến Ly lắc đầu chỉ tay: nhưng cái bọn văn sĩ đực rựa này chúng nó là một bầy kên kên… mình lao đầu vào… vào… rồi tâm hồn mình mục rã, rồi xác thịt mình sẽ rữa ra… (Những sợi sắc không, trang 130) Trầm vốn mang trong người nhiều chất đàn ông nên những lời nói tục không làm nàng thấy ngại, còn cho rằng ngôn ngữ đàn ông phải có tục, cũng như câu văn phải có chấm, có phẩy… Cái không khí cuồng nộ do rượu và đàn bà tạo nên nhức nhối, khác hẳn với không khí mà Trầm vừa xa cách nó. Tiệc tàn, Kiệt vì có xe, nên phải đưa Trầm cùng mấy người bạn về. Nửa đường, hắn tức vì bị lợi dụng làm tài xế nên dừng xe lại, mở cửa bước xuống, đứng đái vào cột đèn, trước mặt mọi người. Xong, nhất định không lái xe nữa. Trầm và bốn tên đàn ông phải kêu taxi. Vào Sài Gòn Trầm ở nhà Phi và Đào, hai cô gái Huế. Trầm kể lại chuyện Kiệt đái. Phi chép miệng: đời tau bị đàn ông thay nhau phụ bạc nhưng, chưa lần nào bị đàn ông đả thương một cách tục tằn như vậy! Rồi chiều hôm sau, Trầm lại sửa soạn đi ăn chơi. Một tiếng hỏi: "Trầm, mi lại sửa soạn đi chơi với ai đó?" "Thằng Chu say." “Trời ơi! Cái thằng cha hồi hôm đái trước mặt mày đó hả?” “Không phải, thằng cha này đái trong buồng tắm…” (Những sợi sắc không, trang 135) Hoạt cảnh vẫn như hôm trước, chỉ thêm mấy tên cựu Bộ trưởng, cựu Đổng lý thất thế, gia nhập với tụi làm văn nghệ cho quên đời. Chu, hiện làm giáo sư đại học, đang tấp tểnh muốn làm Bộ trưởng. Hắn là tên trí thức đón gió, cũng đi chùa lễ Phật và biết nghe ngóng tình hình. Ở giữa khung cảnh này, Trầm chợt nghĩ đến Cỏ May và tự ví mình với nàng Kiều: Kiều chỉ vì ngón đàn tưng tưng mà đoạn trường, mình vì viết lách lăng quăng mà gian truân! Sau những ngày dài kéo lê trong ăn chơi với mục đích để giải toả câu chuyện riêng tư. Trầm lại như cánh chim bay về tổ cũ. Trở lại Huế với một thân, một phận, với chuỗi ngày đều đặn chồng trước mặt. Trương lại hiện diện trước mặt nàng. Tiếng lòng của Trương âm vang trong tiềm thức Trầm. Trương đứng đó, trải lớn trên khung cảnh hùng vĩ của tình yêu và bất ngờ chàng ôm gọn Trầm vào lòng. Nhưng Cỏ May còn đó, không cho phép nàng phản bội bạn, tuy trong lòng, những ngón tay tình ái đang ve vuốt trái tim căng máu. Cái khối hạnh phúc đã gần kề, nàng đành phải gạt lệ chối bỏ. Chối bỏ với nhức buốt tâm can, Trương và Trầm cùng đứng bên chiếc ghế, Trầm bóp nhẹ bàn tay Trương nói: “Cỏ May đi chơi với Lê Hùng thắm thiết lắm rồi, chính miệng mấy con em mắc dịch của nó tố cáo với tôi.” Trầm chợt nhận thấy một tạ gạo cũng chưa nặng bằng cái cười nhếch mép của Trương. “Thế thì chúng ta đủ sức yêu nhau rồi Trầm nhỉ?…” (Những sợi sắc không, trang 153) Tuy không muốn, nhưng Trầm vẫn đi tắm biển Thuận An với Trương. Lúc về, được thư Cỏ May vứt qua khe cửa. Cái thân thể nặng vì tội lỗi, do chuyện này nặng thêm chút nữa. Bài học cuối cùng vẫn chưa đến, còn đam mê thì như núi lửa mà tình dục thì chói chang, luôn luôn đói khát ái ân, như trẻ con ngứa răng bạ cái gì cũng cắn. Thân thể nàng đã bao lần bị chiếm và tái chiếm, nhưng tình yêu như loài ma quỷ ẩn hiện chùm lấp mọi suy nghĩ. Cuộc sống trôi đi, cứ trôi đi với giăng mắc trong những trang sách của Tuý Hồng làm người đọc váng vất. Nhân vật Trầm là ngoại lệ, là sự phản kháng tích cực đối với trật tự và luân lý xã hội. Nó là niềm đau xót của cánh chim bị giam hãm, tù túng. Nó là những dằn vặt của kiếp đàn bà từ lâu bị cầm chân đạo lý. Nhà văn dùng nó như một biểu tượng giải thoát. Trong khi đó nhân vật Trương, tượng trưng cho sự co rút cuối cùng của cố gắng, một thứ anh hùng thấm mệt, muốn được ẩn nấp che giấu dưới máy yêu đương cho lãng quên đời. Trương than thở: Tường vôi đã vữa, những chiếc đinh đã long, tôi không còn móc nối niềm tin vào đâu nữa, không còn bấu víu vào đâu nữa. Tất cả đã phai lớp phẩm màu thiêng liêng, tất cả đã tróc đi lớp nhựa bóng ngời cao đẹp, thánh thiện, hào quang lập loè đã tắt ngủm, tối đen… không còn gì… không còn gì, tất cả chỉ còn trơ lại đống lá đa vừa mới quét. Lòng đau quặn thắt từng cơn vì sự phá sản, sự truất phế siêu hình, nên bây giờ, tôi một mình tiếp xúc với đấng chí tôn của tôi không qua một trung gian nào cả… (Những sợi sắc không, trang 163-164) Sự tranh đấu đã làm Trương chán ngấy, vì những kẻ chống áp bức hôm qua, hôm nay lại thi hành áp bức đối với người khác khi họ ở thế mạnh. Vì nhìn rõ cái trục của sự việc, nên sự việc đối với Trương chỉ như trò giả dối, họ lợi dụng số đông để mưu đồ tư lợi. Trương yêu Trầm cũng không ngoài mục đích tìm quên. Nhưng Cỏ May luôn luôn vẫn là ám ảnh, khổ não. Hằng đêm, những cái tên đàn bà thân yêu vẫn vang vọng trong tâm não. Trương cảm thấy mình bị giày vò đến khốn khổ về cả hai khía cạnh: tình yêu và cuộc sống. Giữa lúc ấy, đột nhiên vóc dáng Khả hiện ra trong đêm mưa gió. Trương tưởng kẻ gian, vội thủ thế bằng cây súng, khi nhận ra bạn chàng rắn giọng trách, đã say rượu còn đi mưa! Khả hỏi, còn rượu không? Còn chai rượu chát. Khả tu một hơi rượu ừng ực hỏi, con Trầm làm nghề gì? Viết văn, một nghề không vốn. Uống đã, Khả lên tiếng: “Tôi nghi chị cậu với người ta thật nên tôi mới ra làm lớn được ba tháng.” Trương giữ thân thể không nhúc nhích mắt nhắm tít, đầu gối chàng ngứa ngáy, chàng cũng không buồn đưa tay gãi. Khả nằm ngửa lập lại: “Tôi nghĩ thiên hạ đồn đúng, chị cậu ngủ với người ta nên tôi mới nhảy ra chính trường được ba tháng!” Trương đã ngủ tự lúc nào… (Những sợi sắc không, trang 171) Tuý Hồng viết không những chanh chua còn độc ác. Mỗi chữ như cục đá, do bàn tay búp măng trắng trẻo, nõn nà, ném vùn vụt vào mặt đối tượng như để trút hết căm hờn, giận dỗi. Những lời Trương tự sỉ vả mình, chính thức, do Tuý Hồng nói: Im, im đi những thù hận dài! Trí thức đểu, trí thức gàn, trí thức lèo lá hàng chợ… Lý với luận… mình chỉ là hạng trí thức tôm cá… Lý với luận! Hơn nữa, tác giả còn dùng những từ ngữ nghe chả êm tai chút nào như “trí thức gián”, “trí thức chuột” mà cũng nhân danh chiến tranh để tuyên bố chúng ta thân cộng. Người trí thức chân chính, khi đọc đến dòng này, chắc bực mình không ít, cũng như Trương bị câu nói của Khả làm bấn loạn tâm trí. Chàng tự hỏi: Ai là kẻ đáng cho chị Minh ngủ với nhỉ? Ông Việt cộng? Ông Mỹ? Ông Cần Lao?… Vì chị Minh lộng lẫy oai phong đứng trên đỉnh đầu cuộc đời. Tấm nhan sắc ấy, cái trí tuệ ấy như một uy thế, không trí thức nào địch nổi. Trương càng lúc càng chán nản. Thời cuộc như thế, tình yêu như thế, nên cuối cùng chàng trở thành thứ anh hùng thấm mệt! Chàng hô hào anh em sinh viên, những người cùng cảnh ngộ: lập bang hội không làm gì hết, mở quán cà phê nho nhỏ để đấu láo và đọc sách. Ý tưởng tiêu cực đã làm băng hoại cả nguồn sinh lực, đáng lẽ cần đóng góp vào công tác xã hội để xây dựng ngày mai, manh nha trong tâm trí một số đông trí thức miền Trung vì họ đã nhìn rõ “cái thế” của một quốc gia nhược tiểu trong vấn đề lớn quốc tế. Sinh, chiếc cù lao lớn trong biển lòng Trầm lại có mặt lúc đó. Một thoáng hờn ghen chạy dài trong cái nhìn, câu nói: Sinh bực dọc bỏ đứng lên đi những bước nặng: “Lúc này nghe người ta nói Trầm còn luyến ái cả Trương nữa.” Trầm cúi nhìn xuống đất: “Anh kê tai nghe thiên hạ nói xấu tôi… Phải, tôi với Trương có lẽ mới bắt đầu vào cuộc.” Sinh đứng thẳng ở bức tường ngậm thuốc, im tiếng. Trầm mỏi mệt lắc đầu: “Mà có lẽ cũng đang phá cuộc… tôi với Trương…” Miệng Sinh cười rộng: “Tình yêu của Trầm là trò hề trong gánh xiếc.” “Đúng em là bò lạc, em là ngựa hoang chưa về chuồng.” Hai lông mày của Sinh nhăn lại gần nhau: “Em dễ dàng ngủ với bất cứ một ai… Tại sao thế nhỉ? Trong khi em đâu phải…” Trầm đưa tay lên gãi gáy: “Cho phép anh mệnh danh em là đĩ. Đĩ tinh thần hay đĩ vật chất cũng là một, đĩ óc não rồi lây qua đĩ thể xác… cũng thế.” (Những sợi sắc không, trang 184-185) Sinh yêu Trầm thực, gã quân nhân đa tình này luôn luôn mở rộng hai cánh tay cao thượng đùm bọc lấy nàng như đùm bọc chính bản thân. Còn Trầm, như cánh thiêu thân không xa vời vùng ánh sáng đam mê của tuổi trẻ, dù tuổi trẻ được trả giá bằng muôn vạn đắng cay cả tâm hồn lẫn thể xác. Sinh đã nói, đã nghĩ, đã khuyên nhủ Trầm, đã bày tỏ hết sức mình những gì chân thành nhất, của đứa con trai đối với đứa con gái như Trầm, Hối hận đi em, ăn năn đi em, tổn thương lòng tự ái đi em, mắc cỡ đi em, xấu hổ đi em, ê chề đi em, và hãy nghĩ rằng tình yêu phải có luân thường đạo lý, bớt đa tình, đừng đa dâm. Đàn bà trong cái xã hội này vẫn còn ngoan lắm, hư hỏng như em là một số rất ít. Em cũng nên tự vớt em ra khỏi dòng sông tình dục vì em không cho anh vớt, em hãy tự xuống đỉnh nhọn mê hoang vì em không cho anh đỡ em… Xã hội có làm gì em đâu mà em phá phách tạo phản… … Trầm xô Sinh ra nói lớn: “Anh Sinh, thả cửa cho anh chửi em đó. Em chứ đâu phải ai. Không câu chấp, không nề hà, can đảm đến liều mạng, tự tin đến dửng dưng, bất cần thiên hạ, bất cần vũ trụ…” (Những sợi sắc không, trang 191-192) Tình yêu không cần lẽ phải, chẳng biết câu nói đó của danh nhân nào, nhưng thật thích hợp với Trầm, cô gái viết văn liều mạng, chỉ tuân theo những gì mình nghĩ, bỏ mặc lẽ phải phía sau. Những khuôn mặt người tình số một, số hai, số ba, số bốn v.v… đối với nàng chỉ là con số, con số vô nghĩa đi đôi với sự cọ xát da thịt. Phút cảm khoái qua rồi là hết, nàng chỉ cần tắm rửa một lát, mọi ân nghĩa đều theo dòng nước bẩn trôi xuống cống. Nhưng có đích thực như vậy không? Trầm có hoàn toàn vô luân, dâm đãng như lời nàng tỏ bày không? Trong đêm dài, một mình đối bóng. Trầm tính sổ đời mình. Mỗi số phận Thượng đế đều ban cho một khoảng để sống và một khoảng để chết. Trong một thoáng. Trầm đã có ý định cầm lưỡi dao cạo cứa một nhát lên gân tay, để cho những giọt máu quí báu – bao nhiêu công dinh dưỡng – chảy vọt ra ngoài không khí và nhiễm từ từ đi vào giấc ngủ lãng quên đời! Chưa được, Trầm vẫn ham sống vì đời đang xinh, đang đẹp, đang được tô lục, chuốt hống trong môi hôn, với ma xát thịt da gợi cảm… Những lời nói chua chát của Sinh chưa có thì giờ ra khỏi trí não Trầm, thì Cỏ May lại lừng lững đối diện, Cỏ May cười nức nở: “Trầm ơi! Mi và anh Trương yêu nhau!…” Tiếng nói vỡ oà cho bao nhiêu nước mắt cùng đổ lã chã. Nỗi sợ hãi ụp đến một cách thần tốc. Trầm không kịp run, Trầm không kịp tái mặt, Trầm không kịp hé miệng, Trầm đứng khựng như một cột trụ thẳng. Hồi lâu Cỏ May nhếch môi chua chát: “Tau không ngờ, cho đến bây giờ tau vẫn không ngờ…” “… Lạy Trời không phải mi và Trương yêu nhau. Tau ngờ bậy và thiên hạ ác miệng đồn bậy. Trầm ơi! Mi hãy chính thức minh xác với tau là mi và Trương không yêu nhau đi. Tau đến đây để nghe một lời minh xác, mi nên nói một lời cải chính đi. Tau tin mi chứ tau không tin ai hết. Mi không bao giờ nói láo với tau hết!” (Những sợi sắc không, trang 198) Trầm choáng váng, im lặng làm Cỏ May càng tin rằng họ yêu nhau thiệt. Cỏ May rời bỏ Trương, trả lễ hỏi hôm trước vì bị ánh sáng cách mạng làm đui mù, nhưng sau những ngày đụng chạm với Lê Hùng, với thực tế, nàng đã hiểu rằng, tình yêu không như cách mạng, trái tim có lý lẽ của nó, lý trí không hiểu được. Đau thay, hai khuôn mặt bạn bè, hai vóc dáng con gái đang hầm hè nhau vì một con mồi. Họ cùng chung một cơn khóc và không cùng chung một cơn cười!… Trầm hăm hở đi rượt bắt mộng tình đến quên cả tuổi già, quên đời con gái, quên cái nhòm độc địa của người đời, quên dư luận tanh nồng khê khét. Nhưng nàng vẫn tỉnh táo để nhận định, Trương thương Cỏ May là đi vào tình yêu trường cửu, còn hắn thương Trầm là để chờ cơ hội tụt quần nàng. Sau cùng, nàng xác nhận với Cỏ May giữa hai người chưa có gì hết, ngoài việc lợi dụng nhau chút đỉnh gọi là!… Trong nhà tù, Trầm, kẻ bại trận, ra ngoài đời, Trầm lại thắng Cỏ May, nó là cái vòng luẩn quẩn thật thê thảm do hoàn cảnh cấu tạo. Cỏ May yên tâm ra về với hớn hỏ trong lòng vì mình vẫn là kẻ được cuộc. Trầm cảm thấy tự nhiên trở thành gỗ đá. Giữa lúc ấy, Trương hiện ra để gánh chịu những lời sỉ vả đắng cay: … Trương bước vô. Trầm ngồi xuống ghế chống tay lên bàn: “Đồ chồn! Anh là một con chồn! Đồ đầu người đuôi cáo… Đồ đểu! Đồ làm cho con người ta hoá đá!” (Những sợi sắc không, trang 207) Trương có mặt như tội nhân, như chiếc bia để Trầm ném mọi ngôn ngữ sỗ sàng vào mặt, không hối tiếc. Cơn bão táp qua đi, Trầm nói với Trương để tự nguyền rủa, “Tôi vô luân quá, anh Trương hí!… Đàn bà lấy một chồng mới không vô luân, đàn bà lấy hai chồng là đã hơi hơi vô luân rồi. Tôi bao nhiêu chồng. Trên thân thể tôi là cả trăm thằng đàn ông. Những thằng đàn ông lượn quanh thân thể tôi rồi đáp xuống trúng ngay mục tiêu như kim chích vô thịt. Kim chích vô thịt thì đau. Thịt chích vô thịt nhớ nhau trọn đời. Tôi vào buồng tắm, tôi dội nước, tôi rửa là hết liền…” (Những sợi sắc không, trang 211) Tuý Hồng đó. Cái văn phong của Tuý Hồng rất sượng sần, tê điến. Nó cứng và sáng chói như kim cương đồng thời cũng khô ran và khó nuốt như đá cuội. Tuý Hồng không đi tìm cái tầm thường, cái chung chung. Nhà văn muốn rướn cao trên đỉnh đầu của ý tưởng, của ngôn ngữ. Các nhà đạo đức hãy nhắm mắt lại, hoặc xé những trang sách đó đi, vì nó đã phỉ nhổ vào luân lý và đạo đức. Nhưng nó là Tuý Hồng. Nó là chứng tích của thời đại. Và cái lũ kên kên đàn ông, đối với nhà văn luôn luôn như lũ đểu cáng, ba que, xỏ lá, thoả mãn rồi sẽ bay tít mù khơi!… Ở chương kết của Những sợi sắc không, nhà văn giải quyết vấn đề trong khung cảnh man rợ, thanh toán nhau để bao trùm ảnh hưởng và uy thế. Hình ảnh giáo sư Bình, đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng bị bắt mang ra hành hạ sỉ nhục, phải chăng là một vết nứt rộng lớn trong ý thức của con người quốc gia? Người đọc rùng mình, ghê tởm sự cuồng tín, u mê của lớp người đã nhân danh cách mạng để đối xử với những anh em cũng yêu nước, nhưng không đứng chung chiến tuyến: “Ai dám rêu rao câu nói: Rượt Mỹ về nước tức là cõng Việt cộng vô nhà?” Một người đàn ông mũi bự từ vòng vây thứ hai xông lên nói: “Quốc dân đang xả xấu. Mày là đảng viên Quốc dân Đảng chó chết.” Tức thì mấy cái miệng cùng hô: “Đả đảo Việt Nam Quốc dân Đảng.” Xẹt một cái, người đàn ông ở vòng vây thứ nhất lê loi một cú vào quai hàm giáo sư Bình rồi trở về chỗ cũ. Hai người ở vòng vây thứ ba lẹ tới đấm đá vào lưng, vào sườn non ông Bình, rồi giẫm chân lên ngực, giẫm chân lên bụng. Nạn nhân trợn mắt, thè lưỡi… Ông Bình nằm mềm nhão trên nền gạch cố rướn lớn giọng: “Tôi không phục các anh, các anh thanh toán tôi, các anh độc tài hơn cả cái chính phủ các anh đang đả đảo. Các anh tranh đấu cho tự do, thế thì tự do của tôi đâu? Tự do ngôn luận của tôi đâu? Trong lúc các anh tranh đấu cho tự do, tôi mới biết tự do không có…” … Ở tại nơi đây, người ta đã nhân danh tôn giáo để tranh đấu cho người, cho có một xã hội chủ nghĩa. Bởi, người ta đã nhân danh tôn giáo để làm việc, nên tôi có quyền phản đối, có quyền không phục cái việc làm của tôn giáo. Khi tôi phản đối tôn giáo, tôi vẫn là người Việt Nam, là quốc gia văn minh. … Tôi phản đối cả chính sách của Mỹ tại quê hương tôi, tôi phản đối cả toàn dân nước Mỹ, tôi phản đối ông Tổng thống Mỹ, Quốc hội Mỹ. Nhưng tôi không phản đối một người Mỹ trên quê hương tôi, vì người ấy cũng là nạn nhân của chính sách Mỹ như tôi, người ấy qua quê hương tôi để chết cho chiến tranh của tôi và chiến tranh của người ấy… (Những sợi sắc không, trang 218-219) Cái cảnh tra tấn này giống hệt như cảnh đấu tố tại miền Bắc. Cũng không khí ấy, cái không khí của máu và oán cừu! Trương cũng bị đội quyết tử đến thanh toán. Trương cùng cái quán cà phê vẫn đi theo ngày tháng buồn tênh. Tiếng loa phóng thanh dội vào tai chàng từng nhịp điệu hò hét phẫn nộ, hô hào đòi chính quyền phải trả tự do cho tăng ni ở Quảng Ngãi. Trương nói với cái cửa sổ: Lại la hoảng nữa! Có gan làm thì có gan chịu thử đi cái nào. Chính trị thì làm mà ở tù thì không ở… khôn thế! Cuối cùng, Trương vẫn phải tháo thân ra cửa hậu vì quán cà phê bị bao vây và mồi lửa đang chập chờn tiến vào… Tranh đấu và cách mạng tiêu diệt lần lần những gì chống đối họ, nhưng lẽ phải chẳng còn, nên mọi cố gắng đều vô ích. Cuối cùng, Cỏ May được Trương và Trầm giã từ những ngày phiêu lãng để ngã vào vòng tay Sinh với tê mê cảm giác. Tác phẩm Những sợi sắc không đã vẽ lại bối cảnh sôi động vừa hùng tráng vừa bi thảm của miền Trung trong những ngày sát cánh với Phật giáo tranh đấu, lật đổ nền Đệ nhất Cộng hoà và tiếp theo một thời gian nữa. Những nhân vật trình bày trong cuốn sách là những khuôn mặt thực, được tác giả nguỵ trang bằng danh tính khác, chẳng hạn như Lê Hùng chính là giáo sư L.V.H., người đã giữ chức vụ Chủ tịch Lâm thời Ủy ban Giải phóng Huế trong những ngày Việt cộng tạm chiếm đóng thành phố Tết Mậu Thân, hiện ở Hà Nội. Hãy gạt bỏ tất cả mọi đam mê tuổi trẻ sang một bên, nội dung tác phẩm có giá trị cao về phương diện phê phán cũng như phân tích khách quan từng dữ kiện thuộc lịch sử. Kỹ thuật dựng truyện rất chắc, phương pháp hành văn thật linh động, lúc đứng đắn nghiêm trang, lúc sàm sỡ buông thả, lúc ngưng đọng bị thảm. Tuý Hồng đã tận dụng khả năng thiên phú để tạo cho mỗi nhân vật một đời sống đặc thù, một hoàn cảnh khốn khó để thử thách sức chịu đựng của vai trò. Cái đặc tính vừa thông minh vừa lì lợm của Trầm phải chăng là hiện thân của tác giả? Dù đúng dù sai, nhân vật này được cưng nhất và chính “nó” đã làm sống cuốn sách. Những sợi sắc không còn đưa ra vấn đề căn bản của đạo Phật với bốn chữ: sắc sắc không không. Bốn chữ đó bao hàm một ý hướng thật rộng rãi, thật mông mênh vì ở đời cái có, cái không làm sao phân giới, và ai dám khẳng định không và có là hai điều khác biệt? Do đó, mọi việc ở đời chỉ là mộng ảo và mỗi số phận được búng sẵn tự trời cao, nào ai biết? Điểm đặc biệt, tác phẩm của Tuý Hồng mang nhiều địa-phương-tính qua ngôn ngữ và hành động, nhưng vẫn đi vào cái chung của văn học hôm nay, làm người đọc thích thú. Tác phẩm Những sợi sắc không đã được trao tặng Giải nhất Văn học Nghệ thuật 1970. Tương đối, nó xứng đáng. Từ đó, Tuý Hồng đi sang Bướm khuya, tác phẩm viết về cuộc đời chìm nổi của Nghi, nhân vật chính trong truyện. Nội dung Bướm khuya chuyên chở những sự tình bi đát với bối cảnh chiến tranh của năm 1946. Nghi, cô gái từ nhỏ ở bên ngoại với cha mẹ. Cuộc chiến đã manh nha, cha Nghi về bên nội một mình. Ít lâu sau gửi thư về bảo mẹ con Nghi phải trở về bên nội để tránh cảnh giặc giã. Ông ngoại không muốn để lũ cháu và con gái mình đi, vì biết về bên đó sẽ khổ. Nhưng ông Tuần, em Ngoại, khuyên nên để cho đi vì thuyền theo lái, gái theo chồng. Thế là những ngày thần tiên bên quê ngoại chỉ còn là kỷ niệm. Nghi năm đó lên 9 tuổi còn 4 đứa em nữa. Quê nội xa lắm, đi nửa tháng sông nước mới đến nơi. Lúc đó cô Thương, em ruột cha Nghi, đang hoạt động cho Việt Minh kèm theo hộ tống. Cô Thương không đi chung đò với mẹ con Nghi, ẩn hiện không chừng. Cô có súng lục và lựu đạn. Trong chuyến đò, Nghi đã thấy cảnh giết người. Một ám ảnh nặng nề, sợ hãi đối với tuổi thơ. Mẹ Nghi buồn lắm khi phải về quê chồng, vì đã biết rõ những gì mình sẽ gặp ở hoàn cảnh khốn khó đó. Nghi và các em vì ngây dại nên vẫn vui đùa. Quê nội nghèo lắm, khổ lắm! Mẹ con Nghi sống những ngày dài tủi nhục. Cha không hỏi đến một lời. Ăn uống kham khổ, ngủ chật chội bẩn thỉu, trong lúc đó vợ chồng của chú Trí được ưu đãi, ở phòng rộng rãi khang trang. Cũng may còn chú Tân có tinh thần quốc gia, không theo Việt Minh, vui tính, vô tư và yêu quý cháu, nên Nghi và các em cũng được an ủi. Mặt trận tràn lan. Cuộc chiến làm cho không nơi nào yên. Quê nội, Tây tràn về và hiếp chóc. Nghi tuy mới 11 tuổi, nhưng phổng phao bằng cô gái 14, 15. Một bữa Tây vào làng càn quét, gặp mụ Còm toan hiếp, mụ sợ quá lạy van rồi chỉ chỗ mợ Trí trốn cho Tây, vô phúc, mụ chỉ nhầm nơi Nghi núp. Thế là ba thằng Tây thay phiên nhau hại đời Nghi. Cha Nghi cũng bị giết, nhưng không do Tây mà bởi ái tình. Cha Nghi mê Lan, cô ta lại là nhân ngãi của tên công an trưởng, nên cái chết không toàn thây làm mẹ Nghi nhục nhã, điều này do cô Thương tiết lộ. Sau khi nhặt thây chồng, chôn cất xong, mẹ con Nghi về quê ngoại. Quê ngoại đã bị Tây chiếm rồi. Sự sung túc và hiền hoà ngày xưa không còn nữa. Cảnh nhà tang thương tao loạn! Chiến tranh và chuyện ác độc. Lại thêm trong gia đình Ngoại, mợ Út cũng bị hiếp, sau đẻ ra thằng Tây đen. Mợ Út là con thứ tư của Ngoại nhớn. Còn bà Trưởng và bà Phủ là em thứ hai, thứ ba, cũng ở chung nhà. Bà Phủ chồng bì Việt Minh giết dã man, mổ bụng nhét đầy đá cục vào. Bà Trưởng goá đã lâu tuy đã có tuổi, nhưng nhan sắc còn mặn mà, mê anh thu thuế chợ bị bà Phủ cầm roi mây đánh, và cột tóc vào vào cột vì làm nhục gia đình. Đánh xong, bà Phủ xin lỗi chị rồi nằm úpc mặt xuống đất cho chị đánh lại. Nghi lớn dần lên theo năm tháng. Một chiều nàng đau bụng, sáng hôm sau đi tiểu thấy máu tháng. Nghi sợ quá, nhớ lại cảnh bị hiếp năm nào. Nàng mê man thảng thốt, mẹ dỗ rằng: trong chiến tranh không người đàn bà nào thoát, mẹ cũng bị hiếp rồi!… Để vượt khỏi cơn túng quẫn, mẹ Nghi phải theo bà Út đi bán câu lạc bộ trong trại lính Tây. Nhà vắng vẻ không có ai, Nghi phải trông nhà, thay vì được đi học. Ít hôm, bà Út mướn được chị Chúc, người đàn bà nha quê đông con nghèo đói. Chị Chúc muốn lấy Tây để có nhiều tiền thay vì làm mướn, nhưng chị xấu quá, dù đã trang điểm môi son má phấn, Tây nó vẫn không thèm. Cái số may, chị Chúc vớ được ông bán rau, có đến hai xe vận tải. Khi đã có tiền, mẹ con Nghi về Huế ở. Nghi vào học ở trường Jeanne d’Arc. Nghi muốn theo đạo, mẹ không cho. Một buổi Nghi gặp người đàn ông lạ trong nhà, ông Bút. Mẹ Nghi còn trẻ, không giữ nổi lòng mình. Ông Bút giới thiệu Thuý để kèm học thêm cho Nghi và các em. Thuý, cô gái bị chồng bỏ, buồn quá theo Việt Minh. Thuý dụ dỗ Nghi hoạt động. Nghi bị bắt. Cha dượng thăm nom chu đáo. Nghi thấy ông tốt hơn cha. Nhưng một tối có lệnh lên xe. Nghi được đưa vào căn phòng lộng lẫy có một bà đối đãi tử tế, cho ăn uống đàng hoàng. Ăn xong, lão quan già hiện ra trước mặt. Nghi nhìn trăn trối nội dung cho lệnh bắt mình. Hắn cưỡng hiếp nàng, nhưng lạ thay, sao nàng lại thấy khoái cảm, tuy vẫn kêu gào chửi rủa! Hắn làm xong, đến lượt cha dượng nàng vào. Tên đàn ông khốn nạn này đã bày mưu cho lão quan già cưỡng đoạt thể xác Nghi, bây giờ lại nham nhở nói: vì yêu Nghi mà lấy mẹ nàng! Hắn chẳng ngại gì mà không mua vui trên thân xác nàng. Ở trong tù, Nghi nhớ đến Thịnh, mối tình đầu thật đẹp. Nhưng hỡi ôi! Số mệnh ác nghiệt chưa cho hưởng đã lấy đi. Được tha về, Nghi xuất huyết rồi chết. Lão Bút không còn ở với mẹ Nghi, sau khi đã bòn rút hết tiền và thân xác cả hai mẹ con. Đoạn cuối tác phẩm nói về gia đình Thịnh, cùng mối tình của chàng đối với Nghi sau khi chết và kết thúc bằng những trang viết của Nghi, không ghi ngày tháng. Với tác phẩm Bướm khuya, Tuý Hồng đã dàn trải câu chuyện trong kích thước rộng lớn, thời gian rộng lớn. Sự rộng lớn đó đã làm cho vòng tay Tuý Hồng mệt mỏi. Cái thân phận của Nghi, con mồi, bị nhà văn bi thảm thái quá làm xa lạ với người đọc. Hơn nữa, cái bối cảnh chiến tranh của những năm 1946 đến 1954 nó không hoàn toàn nằm ở trong khung cảnh hiếp dâm như nhà văn mô tả. Cái đó có, cũng chỉ phần nào thôi. Nó đâu phải cái trục chính để quân đội Pháp phải mang một lực lượng quân sự đông đảo như vậy, vượt vạn dặm trùng dương để rồi gánh chịu thất bại nhục nhã! Nhân vật Nghi là quá độ. Đoạn nói về gia đình Thịnh cùng những trang viết của Nghi cũng thừa. Nhưng bút pháp của tác giả thật vững, rất Tuý Hồng. Tác phẩm vẫn không kém phần cảm động, sâu sắc. Nhiều đoạn làm người đọc nghẹn ngào, tức thở. Cái không khí thê lương trùm lấp cả vùng trời thơ dại, và nỗi niềm cay đắng như từng lưỡi dao rạch nát cõi lòng!… Ngôi đền văn học Việt Nam đã dành sẵn cho Tuý Hồng chỗ ngồi thật xứng đáng. Dù ngày mai với con đường trước mặt còn dài, với nhiều bông hoa lạ đang vươn trồng trong dự tưởng nhà văn, nhưng hôm nay, Tuý Hồng quả thực, vẫn là một-cái-gì, còn một-cái-gì làm người đọc suy ngẫm. Trích văn Tuý Hồng … Trương ngồi im như ngồi trong bức tranh, rất thảnh thơi, thuốc lá cũng không hút. Trầm gào tiếp khi hai con mắt xốn xang: “Tôi tội lỗi, tôi có lỗi lớn không đối với ai cả. Bao nhiêu thằng đàn ông đã nhảy lên thân thể tôi tàn phá từng chỗ thịt cấm. Và bao nhiêu thằng đàn ông đã nhảy xuống thân thể tôi để nằm im như một tĩnh vật. Và bên họ, tôi cũng nằm im như một tĩnh vật, một con đỉa no nê. Tôi đã quyết định vậy và tôi đã nhận, đã làm. Tôi đã làm đĩ, đĩ thời gian rồi lây qua đĩ xác thịt. Tình cảm tôi giao hoan bừa bãi và xác thịt tôi cũng giao hoan bừa bãi… Anh ơi, có ngày đêm tôi đã kêu Thuý Kiều, Thuý Kiều con gái cụ Nguyễn Du đấy mà, tôi kêu Thuý Kiều như thế này: Kiều ơi, mình không yêu ai được lâu hết như Kiều vậy. Tiếng kêu của tôi đâm lui vào trong tôi quậy quậy cho tôi đau đớn tới chín chiều gan ruột, xông lên óc, xói vào não. Tôi bây giờ là một bãi lầy, một đống sình, một vũng bùn. Tôi biết, sở dĩ tôi hư như ngày hôm nay vì tôi đã lầm từ đầu, lầm từ một khởi điểm rất nhỏ, như đã lầm to cho đến bao giờ: như người mắc bệnh ung thư cổ tử cung, bắt đầu chỉ là một khởi điểm 0, một đốm nhỏ nằm tại eo tử cung chưa có triệu chứng gì để tự phát giác, nhưng dần dần đóm nhỏ ăn ruồng đến những tạng khác vào toàn vẹn bụng dưới. Tôi đã hư vì cái nhận định đến sớm nhất trong tôi: ái tình không phải là tâm hồn gặp tâm hồn, mà ái tình là xác thịt gặp xác thịt. Tôi đã be be cái miệng với Cỏ May và với những người khác: ái tình là một cái không có… Niềm tin của tôi đã bị đánh cướp rồi. Anh Trương! Có một tí tẹo lầm lẫn đó mà bây giờ như thế này, mà bây giờ như thế này, chữa không được nữa rồi…” Trầm đứng dậy xõa tóc bước theo hình chữ nhất của gian phòng rồi đứng lại dưới bức vẽ truyền chân màu thịt bò tái của nàng: “Anh Trương này, hình như giờ này ở ngoài đời có vô số con người đã đánh mất niềm tin rồi. Niềm tin đã mất sợ rằng rồi đây, lũ bác sĩ không còn tin ở thuốc Tây nữa. Lũ bác sĩ ngơ ngác, nghi ngờ cả nền y học Tây phương mất thôi. Anh Trương ơi, hình như giờ này ở ngoài đời có rất nhiều người còn lương tâm, và lương tâm họ đang hằn lên những nét tím bóng hối hận. Anh Trương ơi! Cỏ May chửi tôi quá! Cỏ May cao thượng với tôi quá! Cỏ May ăn ở đẹp với tôi quá! Tôi là một đứa ưa kiếm chuyện, ưa trừng mắt nhìn đời.” Trầm ngó thẳng vào mặt Trương. Chiếc miệng người đàn ông vẫn ngậm cứng một cây tăm yên lặng. Người đàn bà bặm môi và tiếp: “Tôi thấy tôi vẫn chưa ra khỏi cái dĩ vãng nguội, tôi bước hụt như bị hất cẳng trong hiện tại nóng… Còn tương lai, tương lai tôi là một cuốn phim hư. Tôi phải giơ tay lên vả vào mặt tôi, tôi phải tự cười, tự nói xấu tôi cho đã đời.” Cánh cửa đẩy ra như bị mở trộm. Nắng bứt rứt bám vào tường, bám vào bàn ghế. Ly nước lọc Trương cầm ở tay thật hiền lành. Tiếng thở dài của Trầm nghe nặng nước mắt. Một tủi nhục nhờn nhờn trườn quanh thân thể, một tức tối nghẹn ngào phản kháng như đầu mũi kim len vào mạch máu chạy theo đường tuần hoàn vào quả tim lạnh héo hắt bộ ngực hận đời. Trầm bỗng đứng bật dậy muốn trương vi, trương vẩy, muốn khua môi, múa ngón cho rộn bộ như hát bội, nhưng, Trầm lại ỉu xìu ngồi xuống: “Tôi vô luân quá anh Trương hí!… Đàn bà lấy một chồng mới không vô luân, đàn bà lấy hai chồng đã là hơi vô luân rồi. Tôi bao nhiêu chồng. Trên thân thể tôi là cả trăm thằng đàn ông. Những thằng đàn ông lượn quanh thân thể tôi rồi đáp xuống trúng ngay mục tiêu nhin kim chích vô thịt. Kim chích vô thịt thì đau. Thịt chích vô thịt nhớ nhau trọn đời. Nhưng tôi không nhớ ai trọn một giờ. Tôi vào buồng tắm, tôi dội nước, tôi rửa là hết liền… Tôi không nhớ ai trọn một giờ mà. Những người đàn ông và lũ kên kên thèm tôi, rỉa hết cả thịt tôi rồi đá lông lốc bộ xương của tôi đi. Ngày hôm nay, giữa cuộc đời, chỉ có một người đàn ông dám thú nhận yêu tôi, đòi lấy tôi làm vợ – Sinh đó – nhưng tôi đã liệt Sinh đồng hạng với những người đàn ông khác. Tôi đã tục tĩu hoá mối tình, tôi đã dơ dáy hoá mối tình, tôi chịu ăn nằm với Sinh, nhưng không chịu để Sinh lấy làm vợ. Tôi đã coi Sinh không ra một cái gì hết, tôi đã coi tôi không ra một cái gì hết. Tôi ăn nằm với Sinh ở khách sạn, tôi ngủ đò sông Hương với Sinh, tôi ân ái với Sinh trên divan, ở phòng khách… Còn Sinh, Sinh yêu tôi vô tả vô tận, yêu bám lấy tôi như vẩy cá dính vào con cá. Xá tội mà yêu, nhắm mắt mà yêu, ở xa cũng yêu. Ở gần, chàng van xin tôi như hát vè con cá, ở xa, chàng liên miên thú tội trên mặt giấy. Sinh khư khứ nắm lấy tình yêu như cái lỗ mũi cố níu lấy hơi thở. Sinh yêu tôi cho đến giấc ngủ chung thân, chứ không phải như một kẻ níu lấy mạn thuyền bơi một hồi rồi bỏ. Yêu đến ngây thơ rồ dại, nhưng, cũng chín chắn lắm lắm, son sắt lắm lắm. Trên cuộc đời này, hầu hết đàn ông đều đểu, chỉ còn lại Sinh và vài người là khác. Chàng dệt mối tình từ đầu đến cuối, từ mặt tiền đến mặt hâu. Nhưng tôi đã coi Sinh giống như bất cứ người đàn ông nào khác.” Trầm ngừng lại nuốt nước bọt, ngó qua Trương đang ngắm nghía mình rồi tiếp: “Sinh là một người trẻ tuổi có ý thức lớn, ý thức khổng lồ, chàng không ngó tôi bằng cái nhìn cận thị, chàng biết trước những việc tôi làm nhưng đại xá hết. Tôi làm gì chàng cũng tha thứ, chàng cũng chiều chuộng. Bởi, chàng là kẻ diệt mối tình từ đầu đến cuối. Bởi, chàng cố làm cho tôi thấy tình yêu là có, tình yêu bao giờ cũng có. Tôi đã bảo chàng là một người trẻ tuổi có ý thức. Sinh hành quân liên miên. Mỗi lần nghỉ phép, chàng về chạm trán với bầy con gái điên ở thành phố, một bầy con gái mất trí. Đi đầu là tôi. Mỗi lần nghỉ phép, chàng về gặp một bọn đàn bà đang làm loạn lên, bối rối, hốt hoảng. Đi đầu là tôi. Cuộc đời mở tám mặt tấn công đàn bà. Chiến tranh mở tám mặt tấn công đàn bà, sự lo sợ làm nhão người họ ra, nhão trái tim ra, nhão óc não ra, nhão xác thân ra… Tôi đã la hét giữa bọn con gái không điên. Tôi đã giậm chân, giật tay giữa bọn con gái còn tỉnh. Bọn con gái bình tĩnh đó rồi sẽ hoá nhão hết, cái bọn con gái không chịu một ảnh hưởng gì của chiến tranh tám mặt tấn công và của cuộc đời tám mặt tấn công, chúng sẽ hoá đá hết, chúng sẽ biến thành các vật hoá thạch hết, nếu chúng không điên như tôi.” Trầm hỉ mũi đi thẳng lại trước Trương mắt đỏ nhìn chàng: “Tôi là một đứa nghịch nữ, một đứa đàn bà ngược đời. Trời ơi và anh Trương ơi, trời đã sinh ra tôi sao trời còn sinh thêm những người đàn bà giống tôi nữa?” Trầm khóc mùi, khóc ướt đầm, khóc nức nở cao thấp. Trương bước tới cầm vai Trầm lay mạnh, ấn xuống, giọng chàng ấm như hơi thuốc lá: “Cô, cô Trầm… em Trầm, em không bao giờ là của tôi nữa!” Cổ Trầm mềm gục xuống: “Tôi, tôi là của Sinh, tôi là của Sinh." Trương buông tay, giọng nói còn ám khói: "Cô Trầm! Cô bây giờ đã xuống nước." Trầm mềm tiếng nói: "Không, tôi không xuống nước, dù chỉ một giọt." Trương kêu nhỏ: "Tôi thấy có một trái lửa đam mê vừa tắt." "Tôi đang trong cơn động kinh tĩnh, con động kinh sáng suốt, cơn động kinh không nóng, không co giật." Trương đứng xê Trầm ra, từ tốn đi bách bộ trong phòng chàng tiến lên dịu dàng, bước tới khoan thai, tay sờ lên mặt bàn, lên thành ghế, lên nóc tủ. Chàng đi sâu vào, dừng lại ở đầu giường, Trầm vội đưa tay: "Khoan, khoan đừng đi tới nữa, đừng đi tới vị trí chiếc giường của đĩ." Trương quay lại: "Nếu em còn làm đĩ nữa, tôi sẽ lấy roi bò bắt em nằm xuống, đánh vào mông em, ngay trên chiếc giường mà em đã làm đĩ." (Trích bản thảo Những sợi sắc không từ trang 209 đến 213) Nguyễn Thị Thuỵ VũBút hiệu: Nguyễn Thị Thuỵ Vũ. Sinh ngày: 19-8-1937 tại Vĩnh Long. Viết văn từ năm 1965. Tác phẩm: Mèo đêm, tập truyện, nhà xuất bản Kim Anh 1966, Hiện Đại tái bản 1968; Lao vào lửa, tập truyện, nhà xuất bản Kim Anh 1967; Chiều mênh mông, tập truyện, nhà xuất bản Kim Anh 1968; Ngọn pháo bông, truyện dài, nhà xuất bản Hiện Đại 1968; Thú hoang, truyện dài, nhà xuất bản Hồng Đức 1968; Khung rêu, truyện dài, nhà xuất bản Kẻ Sĩ 1969 (Giải nhì Văn chương toàn quốc 1970). Đã cộng tác với: Bách Khoa, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Vấn Đề, Khởi Hành, Hoa Tình Thương, Tin Sáng, Tiếng Nói Dân Chủ, Đời, Lập Trường, Dân Chủ Mới, Dân Ý, Ánh Sáng, Tin Mật, Tiến Bộ… Nguyễn Thị Thuỵ Vũ và những cánh thiêu thân Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, nhà văn phái nữ, hiện diện giữa khung trời văn nghệ với một sắc thái đặc thù. Những ý nghĩ bỏng cháy và giãy giụa về thân xác trong mỗi tác phẩm, đôi khi vượt quá ý nghĩ của nhiều người. Thuỵ Vũ mới ngoài ba mươi tuổi đời, tuổi nghề vừa lên 6 (1971), nhưng tự tạo cho riêng mình một thế đứng, một cương vị trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Người ta đã hỏi nhau, bàn tán, phê bình về bút pháp cũng như nội dung mỗi truyện của Thuỵ Vũ, vì nó không nằm trong khuôn nếp thông thường của một nữ nhi, nó đã bay ra ngoài quỹ đạo dự tưởng. Người ta còn băn khoăn, thắc mắc về mỗi tình tiết, mỗi dữ kiện được nhà văn tỏ bày trong văn chương. Từ băn khoăn đến thắc mắc, rồi nghi ngờ về thực trạng của mỗi vấn đề, mà Thuỵ Vũ đã đặt ra trước xã hội, về khả năng hiểu biết cuộc sống, một cuộc sống chả lấy gì làm hãnh tiến, và sự góp mặt của những chứng tích đó, có nên dành vinh dự cho nhà văn nữ giới? Cùng đi chung đường với các nhà văn trẻ hôm nay, Thuỵ Vũ mở đầu văn nghiệp bằng những truyện ngắn đăng rải rác trong các tạp chí văn nghệ. Sự đóng góp của Thuỵ Vũ trong khu vườn văn chương đã gây ngay sự chú ý, nhờ vào một bút pháp mạnh mẽ xuyên qua từng dòng chữ bỏng cháy với suy nghĩ về tình dục, về xã hội trong nét sống đặc biệt của các cô gái thuộc giới snack bar thành phố. Mấy chục năm trước, khi Nguyên Hồng viết Bỉ vỏ, vẽ lại nếp sống của lớp người du thủ du thực, ăn cắp, ăn trộm tại các bến tàu, các ngôi chợ. Cách thức sinh hoạt của hạng người đó, với những ngôn từ chuyên môn (nói nôm na là tiếng lóng) do họ sáng chế để dùng riêng với nhau, được Nguyên Hồng viết ra thực chính xác, sống động. Sở dĩ Nguyên Hồng có thể đào sâu vấn đề để tác động đến tâm thức người đọc, một phần nhờ vào hoàn cảnh có thực. Nguyên Hồng thuở niên thiếu, mồ côi cha, sống với mẹ tại một xóm lao động ở Hải Phòng, nơi tập trung khá đủ các hạng người cặn bã của xã hội. Dù muốn dù không, cái nề nếp sinh hoạt đó cũng ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của Nguyên Hồng, nên những sự việc được nói đến, chẳng những trong cuốn Bỉ vỏ mà còn ở những truyện ngắn khác, đều phản ánh một cách minh triết về trạng thái xã hội lúc ấy dưới sự cai trị của thực dân Pháp. Đọc Bỉ vỏ, người ta cảm thấy như được xem một màn trình diễn trong hí viện vừa vĩ đại vừa nhơ nhớp, vừa đáng thương vừa đáng ghét. Ở đấy, mọi lừa lọc, gian manh và tủi cực, được tỏ bày như một hiển nhiên. Người đọc bị hút vào cơn lốc, xoay tròn từng vòng quay thê thảm, tượng trưng cho một dòng sống không thuộc vào dòng sống chung của xã hội. Nó có đấy, nhưng không được thừa nhận. Nguyên Hồng viết nó, nhưng ở ngoài nó cũng như trường hợp Vũ Trọng Phụng viết Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây và Làm đĩ v.v… Ai cũng biết Vũ Trọng Phụng không biết đánh bạc chứ đừng nói đến bạc bịp, nhưng khi đọc Cạm bẫy người với những lối bịp cao tay trong trò chơi đổ bác, người đọc nghĩ rằng, nếu tác giả không phải tay sành sỏi về môn này, chắc khó mà viết được chính xác, linh động như vậy. Sự thực, nhà văn chỉ giữ vai trò ghi chép và nghệ thuật hoá nó qua lời kể của ông chú, một tay đổ bác khét tiếng của Hà Nội ngày xưa. Cũng như trong Kỹ nghệ lấy Tây, Vũ Trọng Phụng đã điều nghiên qua kẻ khác. Trái lại, có nhà văn muốn những điều mình viết ra, nó phải được chứng minh qua sự thật, nghĩa là, mình phải sống qua cái môi trường đó một cách thực tình với sự trả giá của bản thân như Marie Choisy, nữ ký giả Pháp, đã lăn lóc trong các hộp đêm của Paris và ngoại ô, đóng vai gái điếm, để hiểu cái thực chất của nghề nghiệp mãi dâm. Trường hợp Marie Choisy là ngoại lệ. Ở xã hội Việt Nam, không thể nào có một Marie Choisy, tuy rằng trong địa hạt văn chương phóng sự, không thiếu gì các nhà văn khai thác về khía cạnh truỵ lạc, sa đoạ nhưng họ đều thuộc nam giới. Sự xuất hiện của Nguyễn Thị Thuỵ Vũ như một kỳ lạ, giữa khung trời nghệ thuật miền Nam Việt Nam. Thuỵ Vũ viết truyện ngắn với nhiều thể tài, mỗi thể tài đều hàm chứa sự cuồng nhiệt của tuổi trẻ trong vấn đề tình yêu, cũng như nỗi nhức mỏi về thân phận, thân phận người con gái với những ước mơ táo ạo về dục tình. Thuỵ Vũ hãy còn trẻ lắm, nên những sự việc đề cập tới dù ở khía cạnh nào, dù ở trạng huống nào, cũng chỉ để tỏ bày, để nói ra những gì mình nghĩ, một cách ngay tình không dùng những ẩn dụ nào che đậy, hay có ý khuyến dụ ai, chìm khuất phía sau những dòng chữ. Bởi vậy, văn của Thuỵ Vũ thiếu chiều sâu ý thức. Người đọc Thuỵ Vũ, có thể nhất thời, bị lôi cuốn vào guồng máy, nhưng sau khi đọc đến dòng cuối, bắt gặp cái khoảng trắng mênh mông, người đọc không còn phải thắc mắc, hay suy nghĩ về trường hợp vừa được nói đến. Đó là cái bản chất văn chương của Nguyễn Thị Thuỵ Vũ và nhà văn, chắc cũng chẳng mấy bận tâm về điều đó. Colette, nữ văn hào Pháp. Người đã từng viết nhiều về cuộc đời luân lạc, gian truân của mình. Vốn bẩm sinh phóng túng lại lận đận cảnh chồng con, nhưng trời phú cho một năng khiếu về văn chương, với cái nhìn thật tinh tế và sâu sắc, nên những truyện do bà viết đều được hoan nghênh nhiệt liệt. Bỏ chồng, đi hành nghề vũ công, dưới tên Renée, Colette sống cô đơn và cực nhọc trong những năm tự lực mưu sinh. Bà đã viết về khoảng đời mấy năm làm vũ công, với những vui buồn của đời sống, tình yêu và nghề nghiệp trong cuốn La Vagabonde (Kẻ lang thang). Viết, đối với Colette là cái nghiệp, nên bà đã say sưa bày tỏ quan điểm trong phạm trù văn chương, bằng những đoạn văn bất hủ. … Viết! Chuẩn bị để viết! Có nghĩa là trải dài mơ mộng trước trang giấy trắng, với những dòng nguệch ngoạc vô ý thức, những trò chơi của ngòi bút quay vòng tròn quanh vết mực, nó nghiến nát những chữ bất toàn, nó gượng ép, nó lởm chởm như những mũi tên nhỏ, nó giăng mắc như những sợi dây trời, như những vụn vặt, cho tới lúc mặt chữ mất đi, biến thành loài côn trùng cánh bướm tiên… … Viết! Là trút xuống với đắm đuối tất cả thành thực của lòng mình trên mặt giấy cám dỗ, thật nhanh, nhanh đến nỗi bàn tay đôi khi cưỡng lại, tỏ ra ghê tởm, mệt mỏi vì đã được hướng dẫn bởi một vị thần linh không kiên tâm… và rồi lại tìm thấy, ngày hôm sau, ở nơi nhánh cây vàng diệp, sự hiển hiện một cách linh diệu trong một giờ rực rỡ, một cành gai khô, một đoá hoa rơi… Viết! Nguồn vui và đau khổ vô dụng! Viết!… Tôi cảm thấy tốt đẹp, từ phía xa tắp, cái nhu cầu khẩn thiết như cơn khát giữa mùa hạ, phải ghi chép, phải vẽ ra… Tôi viết tức là bắt đầu trò chơi nhào lộn và giả trá, để chụp bắt cầm giữ, dưới ngòi bút uyển chuyển, cái hào nhoáng, cái phù du và cái mê cảm của hình dung từ… Nhưng đó chỉ là cơn biến động ngắn, là sự ngứa ngáy của một vết sẹo… (La Vagabonde, trang 15-16) Viết đối với Colette chẳng những là cái nghiệp còn do ám ảnh, nỗi vò xé của suy tư, cùng sự quyến rũ đến thôi thúc trong mỗi dòng, mỗi chữ dù vui, dù buồn do tình ái hay cuộc đời tác động vào tâm thức. Nguyễn Thị Thuỵ Vũ cũng trải hồn mình trên trang giấy và vẽ vào đó những nét mạnh bạo, đôi khi phũ phàng để bắt người đọc phải cùng chung vui buồn với mình trong một khoảng thời gian ngắn, dài nào đó. Chuyện bốn cô gái ở trọ nhà chị Tám, một goá phụ, đã nói lên những cảnh huống dị biệt ở tâm tư mỗi người con gái lứa tuổi khác nhau. Vì còn trẻ, nên Thuỵ Vũ cũng không quên đùa nghịch qua văn chương, mỗi khi có dịp, như chuyện rình kẻ trộm trong Đợi chuyến đi xa. Đàn bà con gái bắt trộm ai tin được, nhưng đó chỉ là cái cớ để các cô có dịp thoả mãn sự tò mò trong vấn đề tìm hiểu thân xác đàn ông. … Thình lình cây đèn bấm từ hướng chị Tám bật lên tiếp theo là tiếng the thé của chị. “Kìa nó đó.” Chúng tôi đứng phắt đậy, chạy dồn lại chỗ chị Tám. Chúng tôi chụm đầu nhau về phía thang gác nhà bên cạnh. Nhà tắm đặt sát trên mái bếp của nhà láng giềng hiện ra một khoảng sáng, rộng. Một người đàn ông đang tắm… Chị Tám bàng hoàng kinh ngạc đến độ quên tắt đèn bấm. Mọi người ngơ ngác chưa kịp cười thì thằng Bình (con út chị Tám) la lên: “Tưởng gì! Té ra thầy Năm.” Lúc thầy Năm quấn xong cái thân mình loáng ướt, chị Tám mới chịu tắt đèn. Thầy Năm chửi thề, rồi la: “Người ta tắm, làm gì rình rập như vậy?” Chị Tám bỏ nước nhỏ: “Xin lỗi thầy Năm nghe. Tụi tôi tưởng trộm rình nhà. Ai dè mà…” Chị Tám vừa đi vừa càu nhàu: “Ăn ở như vậy mà coi sao được chớ? Vậy mà còn chửi thề nữa.” Chúng tôi bây giờ mới cười rộ. Chị Tám cũng cười theo nhưng trên nét mặt chị còn vẻ sượng sần lẫn hờn dỗi… (Mèo đêm, “Đợi chuyến đi xa”, trang 35-36) Tập Mèo đêm gồm 7 truyện ngắn. Mỗi truyện ít nhiều cũng để tỏ bày về thân phận người con gái trước tình yêu và cuộc sống với băn khoăn, rạo rực. Tuy không bất mãn hoặc chán đời, nhưng cuộc đời cô đơn quá, với những ước mơ cứ chồng chất theo số tuổi mà tương lai thì vẫn mịt mù! Đứng hoài trong tư thế chờ đợi đâu được, người con gái cần yêu vẫn phải yêu, dù yêu trong đau đớn, nhục nhằn. Yêu mà không hy vọng nắm được hạnh phúc trong tay, nhưng thà có một người tình để an ủi, vỗ về còn hơn sự trống vắng của tâm hồn. … Anh Duy, bây giờ chỉ còn một mình anh có can đảm bắt tình với em thôi! Em chỉ còn một mối tình không say mê hào hứng nữa. Nhưng mất nó, em không hiểu mình sẽ bám vào cái gì để tiêu nốt quãng đời trống rỗng còn lại… (Mèo đêm, “Đợi chuyến đi xa”, trang 45) Thật tội nghiệp! Làm kiếp con gái, trời bắt xấu, thân thể khô khan, mỏng lét, da mặt tươi mát giả tạo qua lớp phấn kem, không có bộ phận nào hấp dẫn con trai cả, nên tự mình phải chấp nhận một hoàn cảnh gượng gạo, không tin ở mình, chỉ còn tin vào một may mắn nào đó, do định mệnh run rủi. Từ những tình cảm đơn phương của cá nhân, Thuỵ Vũ đi vào vùng đất cấm của xã hội, với cái nhìn soi mói qua cảm xúc, tạo nên rung động trong mỗi truyện ngắn viết về đời sống của những cô gái bán bar. Hoàn cảnh đất nước trong những năm gần đây, đã xô đẩy một số người vào vực thẳm sa đoạ. Người con gái nào đó, đang sống yên lành, tử tế, bỗng nhiên vì hoàn cảnh trở thành gái điếm, hoặc gái bán bar. Một người vợ hiền, một người mẹ gương mẫu chỉ một sớm một chiều đi vào con đường đó, không không tìm ra lối thoát nào khác, để cứu vãn sự sống của mình bằng cách làm ăn lương thiện. Vấn đề gái điếm, không phải do sự có mặt của quân đội Mỹ tại miền Nam. Nó là vấn đề cũ, nhưng cung cách sinh hoạt và tổ chức theo danh xưng mới snack bar. Danh từ kép này, ngoài nghĩa chính là quán giải khát có bán đồ ăn nhẹ, nhưng ở đây nó còn bao hàm nghĩa bóng: nhà chứa trá hình. Nó là nơi mồi chài, mở đầu cho việc trả giá nhục dục sẽ thực hiện ở địa điểm khác. Cái thế giới dâm loạn đó, được nhà văn diễn tả với nhận xét tỉ mỉ, với kỹ thuật hành văn vô cùng phác thực, đau xót trộn lẫn đam mê, tủi nhục, đôi khi kiêu căng lố bịch và cái thú tính được trình bày như biểu tượng của thời đại. Người đọc văn Thuỵ Vũ bị hút sâu vào một thế giới lạ lùng, ở đấy, chỉ đoán biết theo trí năng chứ không thể nhận định theo suy luận. Nhiều đoạn, nhiều ý, nhà văn đã kinh qua cái nữ tính của mình, làm sửng sốt, bàng hoàng tâm cảm. Câu chuyện học Anh văn của mụ gái điếm đã gần tàn xuân sắc mang tên Mi-sen (Michèle) với những nét đặc biệt về vóc dáng và cung cách ăn nói, đều được Thuỵ Vũ viết với suy nghĩ sinh động. Mi-sen từ thuở nhỏ không biết chữ, kể cả chữ Việt, nay vì nhu cầu giao dịch với ngoại kiều, bắt buộc nàng phải học. Cái tên Michèle do người khác đặt cho, nàng cũng không biết viết ra sao, mỗi lần lên Quận làm giấy tờ, thay vì ký, Mi-sen đánh dấu thập. Nhưng Mi-sen dưới mắt nhà văn, nàng cũng có những nét riêng, … Mi-sen không hẳn đẹp. Gương mặt nàng có những nét vụng về ghép vào những nét tuyệt xinh. Răng nàng hơi hô, mà cặp môi dày ít khi che kín. Đó là dấu hiệu của con người cởi mở và nồng nàn… … Hôm nay như thường lệ, tôi đến dạy Mi-sen vào những buổi trưa nắng gắt. Vào giờ này cánh cửa sắt trước nhà đã được chị Tư mở sẵn. Tôi cứ việc ung dung dẫn xe đạp vào tự tay đóng cửa lại, không phải gọi chuông inh ỏi nữa. Đi ngang qua phòng khách tôi rẽ tấm màn quẹo qua buồng ngủ Mi-sen, rồi gõ nhẹ cửa. “Cô giáo đó hả, vô đi.” Tôi đẩy cửa bước vào, rồi bất chợt dừng lại. Mi-sen cười ngặt ngoẹo: “Vào đi cưng. Chờ chị làm massage một chút nghen.” Tôi tìm chiếc ghế ngồi cạnh giường, Mi-sen pha trò: “Cô giáo hôm nay bắt gặp học trò trần truồng như nhộng. Chỗ đàn bà với nhau cả phải không cô.” … Bây giờ tôi được dịp quan sát Mi-sen kỹ hơn. Nàng nằm trên một chiếc khăn lông hồng, trải tấm nệm mút, phủ “ra” trắng. Bà làm massage quỳ hai gối xuống nệm, hai bàn tay thoăn thoắt trên các bắp thịt mông và lưng nàng. Mồ hôi rịn ướt trên đôi tay gân guốc của bà. Mắt Mi-sen lim dim, dáng điệu nàng như con mèo sưởi nắng một cách khoan khoái. Lúc nào nhìn người đàn bà khoả thân tôi cũng có một cảm giác lạnh lẽo và tê tái như nhìn một bức tranh tĩnh vật với màu sắc hết sức ảm đạm. Riêng đối với Mi-sen, tôi nghĩ rằng tấm thân nõn nà, với làn da mịn màng đó, có cái gì mong manh. Tuổi già đã gần kề nàng. Chẳng bao lâu nữa, những bắp thịt thon đẹp kia sẽ nở bung ra, bụng sẽ nhão nhoẹt. Nghĩ tới giai đoạn đó, tôi cảm thấy buồn hơn là ganh tị… (Mèo đêm, “Đợi chuyến đi xa”, trang 88-89) Giọng văn của Thuỵ Vũ gọn. Viết như nói chuyện rất hồn nhiên, dù viết về một thực trạng không kém mỉa mai, chua chát! Mi-sen biết mình sắp về già nên muốn kéo dài nhan sắc bằng mọi cách, tuy lúc nào cũng tự khoe có hàng chục ông “Giôn-sơn” say đắm thân xác mình. Nhưng nàng đã quên rằng, trên cõi đời, không thiếu những bông hoa tươi thắm hơn, và muốn ăn khách sộp, nàng vẫn phải nhờ vào môi mép của lũ ma cô dẫn mối. Lời đối thoại giữa tên ma cô và Mi-sen về chuyện này, được ghi nhận như từng câu nguyền rủa vào mặt xã hội, một xã hội còn cố níu lại lấy hai ông thầy Khổng Mạnh làm cứu cánh cho nền đạo đức cuối mùa. Ở đây, họ không cần thứ đó, họ có đạo đức riêng. Họ không vụ danh từ mà căn cứ vào thực tế, nên họ có tụt quần áo trước mặt đàn ông, làm ái tình như máy và bóc lột khách làng chơi bằng mọi mánh khoé tàn nhẫn cũng là chuyện thường vì nó nằm trong quy luật giang hồ. Cũng như việc đời đâu có êm trôi theo ý muốn, nên Mi-sen đã bị tên Phrăng (Frank) đánh trọng thương vì nó đã nhìn thấu cái dã tâm của nàng. Nằm bệnh, mặt mũi sưng vù, nhưng lạ thay, chẳng bao giờ Mi-sen coi đó là bài học tủi hổ, nàng vẫn phác hoạ đời mình ngày mai với đắm đuối, … Khi mạnh, tôi nuôi da thịt cho thật mịn, tôi mua son rồi mở tạp chí thời trang sắc đẹp ra để tô môi. Tôi may áo đầm cho thật chiến, tôi… Bóng tối đã ôm choàng thành phố ngoài khung cửa… (Mèo đêm, “Đợi chuyến đi xa”, trang 107) Thuỵ Vũ không chỉ nhìn vào cuộc sống đó với khía cạnh xấu, đôi lúc nhà văn đi vào những uẩn khúc của từng tâm trạng, thứ tâm trạng thiếu hụt ở mỗi nhân vật được viết ra. Tuy bề ngoài họ vẫn vui nhộn theo ánh đèn đêm, họ vẫn làm đẹp thân xác để quyến rũ khách ngoại kiều, họ có những ngón nhà nghề để móc túi đàn ông, họ vẫn tạo ra đam mê cho riêng mình nhưng, tự đáy sâu suy nghĩ, sau những đêm dài vật vã với đồng tiền và dục vọng, sau những hờn ghen, đố kỵ, đích thực, họ vẫn muốn giữ lại cho mình một cái gì, để gọi là an ủi. Cái đó là nỗi ước vọng mù khơi của một tâm hồn đã quá ê chề giữa vũng lầy truỵ lạc. Trong khi tìm mọi cách để thu hút khách hàng, bằng đùi, mông, ngực, và dùng cả bùa ngải nữa để mê hoặc nếu cảm thấy thua sút chị em, khi khách không ham sờ đùi, vỗ vế cho uống như xưa. Nhưng cái đó cũng chỉ là tạm bợ, vấn đề chính, làm sao giải quyết được cuộc đời, lúc thân phận đã trở thành đồ phế thải sau bao đêm dài mê mải truy hoan!… Tác phẩm Lao vào lửa gồm 3 truyện. Cả 3 truyện đều viết về một vấn đề. Mỗi truyện mở ra một hoạt cảnh dị biệt về những thân phận đàn bà đang quay cuồng, giẫy giụa trong mê cung không lối thoát. Từng cô gái lao vào lửa dục vọng như những cánh thiêu thân lao vào ánh đèn. Chẳng cần bâng khuâng và hối tiếc trong kích thước cuộc sống này. Câu chuyện phá thai, làm tình, rồi phá, lại làm tình quá thường, nên phút nào có nghĩ tới, cũng chỉ là truyền cho nhau những kinh nghiệm với mục đích bảo vệ nghề nghiệp. Nhưng tiếp thị, không phải lúc nào, giờ nào các cô gái làng chơi cũng có thể vui vẻ, múa hát với đồng tiền, thứ tiền kiếm được bằng sự khó nhọc của thân xác. Có những giờ phút trống rỗng, từ đâu chẳng biết, từng ý tưởng tối đen bay lởn vởn với ám ảnh về số phận trong ngày mai, khi đường cong và duyên dáng không còn hấp dẫn được khách. Có người lo xa muốn kiếm ít vốn để dành tiêu xài mai hậu, như trường hợp Tâm với chiếc giường mới của nàng. Tâm đã phá thai hai lần, cảm thấy thân xác bắt đầu mệt mỏi sau bao đêm thức khuya, sau những cơn hành lạc. Nàng hốt hoảng khi nhìn thấy dung nhan mình trong gương. Tuổi già chập chờn ẩn hiện xung quanh. Muốn đạt được ý muốn, nàng cần được sự hỗ trợ của thần linh, của một phép màu nào đấy để khỏi thua sút chị em. Tâm đã lặn lội lên suối Lồ Ồ để nhờ ông thầy bói Trọng Ích đoán quẻ, xem số mạng và tiền tài. Ông này, tuy không có ngải như ông thầy bùa Tân Châu, nuôi rắn hổ để trắc nghiệm số phần của khách hàng. Sau cho rắn bò quanh người, ông thầy Tân Châu làm phép vô ngải bằng cách xức tóc và cho thêm một gói củ ngải mang về nhà trồng, để yểm trợ công cuộc mần ăn được kết quả mỹ mãn. Ngải rất linh, người vô ngải bắt buộc phải kiêng cữ một vài thứ, nếu làm trái sẽ phát điên lập tức. Ông thầy bói Trọng Ích khuyên Tâm đóng chiếc giường ngủ theo ngày đã định trong quẻ, phải kê giường theo hướng bắc. Với cái giường mới, dù nàng có xấu như Chung Vô Diệm đi nữa, đàn ông cũng tìm đến nườm nượp. Tâm đã thực hành đúng lời thầy bói và buổi tối hôm kê giường xong, quẻ đã linh ứng, một tên Mỹ khờ khạo đã mời nàng uống thả giàn. Tối đó nàng thu nhiều tích kê, nhưng Tâm chưa muốn đưa tên này về nhà ngủ vào chiếc giường mới, vì nó bị nàng lột rách như xơ mướp rồi. Nó lại khoẻ như voi, với thân xác ấy, nếu hành lạc nàng chắc chịu hết nổi! Vì tin tưởng vào ma lực của chiếc giường. Tâm bắt đầu kiêu hãnh, để đánh bạt mặc cảm bị đào thải. Nhưng thực ra, tự đáy lòng, nàng vẫn cảm thấy như có gì vướng mắc, … Nàng rùng minh khi tưởng tới mình sẽ nằm trong vũng tối quên lãng trong khi nàng chỉ mới bốn mươi. Ở cái tuổi này, nàng cảm thấy lòng mình lai láng những ước vọng. Dĩ nhiên là sự tấn công cuối cùng của xác thịt không mấy rõ rệt vì nàng đã thường tiếp xúc với những cơ thể xa lạ của kẻ khác phái… Nhưng cớ sao nàng vẫn còn thèm khát cái thân thể của anh chàng nào đó, có thể nhen nhúm một ngọn lửa trong tâm hồn mù mịt của nàng và sự rung động trên từng thớ thịt của nàng. Người đàn ông đó như một hình bóng chuyện hoang mà nàng như người đui, quờ quạng đi tìm một thứ trái cây đầy cám dỗ vượt xa tầm với của mình… (Lao vào lửa, “Chiếc giường”, trang 25) Người gái giang hồ bốn mươi tuổi, đã nhìn thấy một phần kết quả cuộc đời, đã lọc lõi trong nghệ thuật làm tình mà nay trong hồn vẫn cảm thấy thiếu vắng, vẫn cần đến vỗ về, an ủi trong những giờ phút trống rỗng mà tiền bạc không thể khoả lấp được. Phải chăng là ảo ảnh, một thoáng gợn của lương tri mỗi con người khi biết mình sắp mất hết? Nỗi ám ảnh bất ngờ đó cũng không ở lâu, chiều mai, khi ánh điện vừa thắp sáng thành phố, Tâm thành khẩn lên nhang đèn khấn vái thần linh xin khai trương chiếc giường mới. Buổi tối đó, nàng vui tươi bả lả và dạy dỗ “đàn em” các ngón nhà nghề, … Em lựa lúc nào mà nó ngà ngà say, hay lúc cơ thể của nó nổi loạn vì sự đụng chạm của em. Chừng ấy em mặc sức mà ăn gian. Đừng có thiệt thà quá thua sút người ta, em cưng ơi! (Lao vào lửa, “Chiếc giường”, trang 27) Sau giờ làm, nàng dẫn một tên Mỹ về nhà. Chiếc giường mới linh thật, dù bị đánh thức tới hai bận, nhưng trên mặt giường, một xấp đô la nằm ngổn ngang làm Tâm bàng hoàng run rẩy đếm. Mắt nàng sáng lên với nụ cười, trong lúc thân xác mệt mỏi vì qua hai lần hành hạ. Công việc làm ăn của Tâm cứ thăng tiến mỗi đêm, nàng đã có nhiều tiền. Một tối, nàng đang mơ chiếm huy chương vàng cuối năm về thành tích ăn khách nhất bar thì Minh bạn nghề, bảo nàng cho thuê giường vì có bồ mới từ Bến Cát về. Sau một hồi văng tục, chiếc giường ngã giá một ngàn. Tuy không đưa khách về nhà, nhưng đêm ấy Tâm kiếm được hơn trăm miếng “bông” cộng với một ngàn tiền giường. Tâm ôm gối ngủ thiếp trong khoan khoái. Nguồn vui chưa được bao lâu, mới sáng, đứa tớ gái mét cho Tâm biết, qua đêm Minh thấy tháng mà vẫn đi Mỹ, chiếc giường đã bị Minh vẽ sơn thuỷ và tấm “ra” với những nét đỏ lòm. Cũng từ đêm đó, chiếc giường hình như mất linh thật. Tâm vắng khách dần, nàng oán giận, gây gổ với Minh nhưng sau, biết mình nhầm vì ế khách là tình trạng chung do phong trào linh Mỹ chống Sài Gòn-Tea. Cuộc sống của các cô gái bán bar khi lên voi, khi xuống chó tuỳ theo may rủi và cũng tuỳ theo kỹ thuật non già của mỗi người, nhưng nó là một nghề tương đối dễ kiếm tiền, nếu không dư giả, cũng chẳng đến nổi túng thiếu. Cái nghề duy nhất không cần vốn, ngoài cái “vốn” trời cho. Trường hợp các cô gái thơ ngây vì hoàn cảnh gia đình phải vào chốn này cũng không hiếm. Mỗi cái bar như chiếc vực thẳm, người con gái nào nhìn vào, đều chóng mặt rồi bị nó hút xuống như bỡn. Miếng cơm kiếm bằng công việc lương thiện càng lúc càng khó khăn, dần dà dìm mỗi số phận vào nghiệt ngã, cơ hồ muốn buông trôi tất cả. Từ một cô gái nhà lành, mang cái tên rất hiền, rất ngoan, chẳng mấy chốc đã khoác cái tên khác nửa Tây, nửa Mỹ không ăn nhập vào nguồn gốc của mình. Nào Agnès, nào Juliette, nào Tina, nào Michèle v.v… Những cái tên vô nghĩa ấy, mỗi đêm gọi nhau loạn xạ trong một kích thước hôn mê với âm hưởng điên cuồng, qua hơi rượu và mùi da thịt ướp đẫm phấn son. Ở đây, bài học vỡ lòng cho kẻ mới vào nghề cũng vô cùng cứng rắn do luật lệ giang hồ riêng biệt. Cô học trò nhỏ với chiếc áo dài màu thiên thanh còn thơm mùi long não của tuổi nữ sinh, trình diện một cách quê mùa trong một khung cảnh toàn mini-jupe với những lời nói chớt nhả, tục tằn lcùng những bàn tay lông lá khua động vào da thịt đàn bà xen tiếng cười dâm dật. Sự đụng chạm lần đầu với cái không khí ấy, làm choáng váng mặt mày, làm kinh sợ một tâm hồn hãy còn trong trắng, “Chị Năm!” Tiếng kêu của tôi gần như lời cầu cứu. Mí mắt tôi nóng và ẩm ướt. Kinh sợ làm cổ họng tôi khô. Tôi muốn trốn ánh đèn và quầy rượu. Chị Năm chạy lại tôi, hỏi dồn: “Gì vậy Tina?” Tina? Đầu óc tôi cuốn tròn trong sự ngỡ ngàng tủi nhục. Tôi khóc: “Gã làm ẩu em.” Chị Năm cười sằng sặc rồi kề tai tôi: "Tina à! Em đừng sợ gã. Nếu em tránh gã sẽ có người khác đến với em. Biết đâu kẻ đó còn hung hăng hơn gã gấp trăm lần. Chiều gã một chút đi. Có mất mát gì đâu." Giọng chị Năm như khuyên lơn: "Em đừng mắc cỡ. Vô đây là vậy đó. Chỉ trừ em ra khỏi nơi đây thì chẳng ai dám đụng tới lông chưn em. Có kẻ nào lại quăng tiền ra cho mình mà họ không có sơ múi gì." Chị vuốt ve một nhánh tóc tôi, rồi ngọt ngào mơn trớn: "Em đã thấy chị uống giỏi nhất trong bar này ít ra chị cũng bầm dập. Ngoài ra chị còn có cái bí quyết đặc biệt nữa…" Chị dừng lại như sợ người ngồi cạnh tôi nghe. Chị kề miệng vào tai tôi nói rất khẽ: "Em phải biết cách điểm huyệt họ, làm cho sự khoái cảm của họ sôi lên thì mới mong trút bóp họ…" (Lao vào lửa, trang 60-61) Cô gái mới vào nghề nghĩ rằng minh bị xúi bậy nên cương quyết không thực hành lời khuyên vì thế, đêm này qua đêm khác nàng vẫn đói rách trong vai thu ngân viên, lương tháng ba ngàn. Nhưng rồi cái gì đến sẽ đến, chiếc áo màu thiên thanh được vĩnh viễn quăng vào xó tủ và bộ đùi trắng xanh lộ ra với chiếc mông tròn bó chặt trong chiếc jupe, hai cánh tay nõn nà để hở đến nách, đã biến cô nữ sinh thành kẻ khác. Tina, cái tên mới bắt đầu nhập cuộc. Một tên Mỹ “ngọt” đã mê Tina, mỗi đêm hắn trở lại với bó hồng đỏ thắm trên tay và những ly nước trà thay rượu được gọi tơi bời. Gã đàn ông lông lá đó yêu Tina thực, nên đã không tiếc tiền, mua tặng nàng cả nhẫn kim cương. Được khách chiều đã là nỗi vui cho riêng mình nhưng cũng làm bạn bè ghen tức qua lời nói cạnh khoé: "Gái trinh mới có giá như vậy chớ. Còn tụi tui tan hoang như ống cống thì chỉ có cách kiếm tiền mua hột xoàn giả!…" Lời nói có độc nhưng không sai. Nó là luật chơi. Thời gian qua đi mau chóng và những đêm nối tiếp nhau trong cái không khí khốn nạn này, làm sao tránh được cái kết quả tất nhiên cho mỗi số phận đang quay cuồng giữa vực, ngay cả chị Năm nữa, người đã cho Tina bài học vỡ lòng cũng đang bị cuộc đời tặng những cú tát nảy lửa. Cái không khí vui nhộn giả tạo nơi đây được thay bằng màn bi kịch ngắn giữa chị Năm (có tên Jane) với một tên Mỹ. Tên Mỹ thuộc thành phần chống Sài Gòn-Tea, nên nó đến để trả thù. Nó nói với chị Năm rằng, tối nay chị muốn uống bao nhiêu cũng được với điều kiện mỗi lần uống, chị Năm phải nghe nó nói một câu thôi. Câu đó là câu gì, chị Năm chưa biết, nhưng trước mớ tích kê lớn lao, chị khinh bạc và bằng lòng. Tên Mỹ gọi bồi đem ly whisky và ly trà thứ nhất. Nó tợp một hơi cạn ly rượu rồi đưa ly trà cho chị Năm, gằn giọng: "Uống nước đái tao đi Jane!" Chị Năm lạnh lùng uống ly trà nước đái Mỹ rồi dằn mạnh ly thách thức: "Nữa đi Bob, tao chờ câu thậm tệ hơn của mày." Thằng Bob lại gọi bồi đưa ly rượu và nước trà. "Uống nước đường mương và nước ống cống đi Jane." Chị Năm lại hùng hục uống. Rồi ly nước thứ ba, thứ tư và tiếp tục với những lời thô bỉ nhất do tên lính Mỹ nghĩ ra, cho đến ly thứ một trăm. Cuối cùng tên Bob chịu thua gan lì của chị Năm. Bây giờ đến lượt chị Năm kêu hai ly whisky “sec” chị ta đưa gã một ly, chị uống một ly, đột nhiên chị nhổ ngụm nước miếng từ miệng chị bay thẳng tới mặt gã, rồi chị ném ly vỡ tan tành với lời chửi: "Đồ man rợ!" Chị đưa hai tay cấu vào mặt gã, Bob chụp lấy cổ chị Năm xiết mạnh. Cuối cùng, hắn vẫn phải móc bóp trả tiền bước mạnh ra khỏi quán. Câu: "đồ man rợ", chị Năm chửi tên Bob, văn minh quá, sự thực, ở trường hợp này, người đàn bà Việt Nam có ngôn ngữ riêng, rất nôm na nhưng vô cùng thực tế. Có lẽ, vì kính trọng độc giả nên Thuỵ Vũ không viết thành văn. Cứ như thế, như thế, đồng tiền và dục vọng thắt dần con người vào một vị trí nhất định, muốn thoát cũng không được. Tina đã trở thành gái bán bar lành nghề và đêm nào cũng đi khách, nàng chỉ ngủ được vào khoảng hai giờ sáng và giấc ngủ thường bị gián đoạn. Đôi khi mệt, cứ ngủ thức chập chờn mặc khách hành sự, xong lúc nào cũng chẳng hạy! Tụi đàn ông Mỹ làm ái tình rừng rú lắm, Tina đã quá quen thuộc đến nỗi mất cả cảm xúc và trở thành nhà nghề lúc nào cũng không biết. Kỹ thuật hành văn của Thuỵ Vũ đôi khi tàn nhẫn, nhưng dữ kiện được đặt ra bao giờ cũng minh triết. Người đọc cảm thấy như đang chứng kiến cái khung cảnh kỳ quái đó ở phía trước, và nhà văn đang đóng vai đạo diễn mà giấu mặt đâu đây, miệng tủm tỉm cười, nụ cười tinh nghịch và thông minh. Những trạng huống khốn khó mà con người phải gánh chịu ở trần gian này không phải tự nó hình thành mà có hoàn cảnh hỗ trợ. Nếu không gặp lan, không gặp Agnès, nếu không có chị Năm thì cô nữ sinh ấy làm sao trở thành một Tina, trở thành một vấn đề cho xã hội? Từ cái khung cảnh hỉ, nộ, ai, lạc của Sài Gòn-Tea, Thuỵ Vũ đi vào khung cảnh khác, ở đấy, không còn hoa bướm, không còn ánh đèn mờ ảo, không còn tích kê, không còn những bàn tay lông lá lượn tròn trên da thịt, không còn đam mê, chỉ còn lại cái cười ngượng ngập, lời nói lạnh lùng và nỗi đau đớn chảy từ trong tâm não thoát ra ngoài. Những cái tên Lina, Jackie, Nga, Bích v.v… gắn liền với những con số in đậm nét trong sổ bộ của nhà thương Bạc Hà. Từng khuôn mặt chai sạn trình bày đến trơ trẽn vì quá quen thuộc. Bị lính kiểm tục giữ, sau khi “lên bàn”, nếu không bệnh, được tha, nếu có, phải nằm lại. Có người ra vào nhiều lần đến nỗi tưởng như nơi đây là nhà thứ hai của mình. Họ thông thuộc lề lối làm việc cũng như tổ chức của bệnh viện. Những lời nói sỗ sàng, chớt nhả được ném vào mặt nhau bừa bãi để giải buồn. Người ta không tìm thấy một chút e dè ngượng ngập trong cách thức sinh hoạt giữ vòng đai bệnh viện, từ vài khuôn mặt mới, … Lina tay khoanh trước ngực, lơ đãng nhìn đăm đăm về phía trước. Bỗng chị vỗ vào vai tôi – Nếu ngày mai lên bàn mà tao bị “kẹt”, mày ra được, nhớ lại nuôi tao nghe hôn? Tiếng “lên bàn” như tiếng pháo chuột làm ê ẩm đầu óc tôi. Tôi hỏi chị: – "Trường hợp nào mình bị giữ lại?" – "Máu xấu! Có nhiễm trùng". (Lao vào lửa, "Đêm nổi lửa", trang 99) Những người con gái bị đưa vào đây đều khổ sở về chuyện mất tự do nhiều hơn chuyện khác. Họ đã quen sống cuộc đời phóng túng của lũ ngựa hoang với những bất ngờ mỗi ngày, mỗi tối, nay họ phải cúi đầu phục tùng kỷ luật, thứ kỷ luật đúng giờ, đúng giấc qua tiếng chuông làm họ phát điên. Nhất là những buổi chiều, họ nhớ đến không khí đam mê dành riêng cho họ với thân xác khoẻ mạnh của những người đàn ông xa lạ, những ly rượu và bao nhiêu lôi cuốn khác. Tuy cuộc sống thực của họ không có gì đáng khích lệ, nhưng họ muốn thế, ông trời đã bắt họ phải như thế, và họ chỉ lo sợ ngày nào họ không được phép núp giữa bóng tối của một con ngõ nào đó chờ khách, hoặc ở căn phòng có giường nệm mút, ôm chặt một thân xác lông lá mà ngủ vùi sau nhiều lần hành lạc, … Bước tường vôi trắng và những chiếc giường sắt trùng điệp như bủa kín lấy tôi. Đây là thế giới đạo đức có trách nhiệm hoán cải tôi. Ý nghĩ đó làm tôi chán ghét vu vơ. Lina đã vắt mùng rồi, chị ngồi bó lấy gối đối diện tôi và Nga. Chị chép miệng: – "Hôm nay có bốn đứa mình lên bàn. Còn mấy bà nội kia chỉ chờ thả hay được thỉnh về Bình Khang an nghỉ để học nữ công, nữ hạnh." Jackie bỏ chân xuống xề qua ngồi cạnh Lina. Nàng mỉm cười nhìn chúng tôi: – "Bích! Mày mới nhào vô đây lần đầu, còn tụi tao thì năm hồi mười hiệp rồi, khó mong tránh khỏi bà chúa ngục Bình Khang hú lắm!" (Lao vào lửa, "Đêm nổi lửa", trang 107) Những ý nghĩ của họ được phản ánh qua lời nói. Họ chấp nhận nó như chấp nhận những giọt thuốc độc nhẹ, sẽ làm họ chết mỏi mòn trong hoan lạc, còn hơn được tiếng lương thiện với những bó buộc làm mất cái thú sống ở đời. Nhưng, xã hội không cho phép họ được gây ung độc làm xấu xa toàn thể những kẻ vô can, nên họ phải gánh chịu những phiền luỵ cuộc đời, với lính kiểm tục, với không khí chán nản của bệnh viện, với dụng cụ y khoa sáng loáng, với dao kéo và ống chích, với chiếc bàn cao lênh khênh, với nét mặt lạnh băng của những người bác sĩ hoặc cô y tá, với tiếng chuông mỗi sáng, mỗi trưa, mỗi chiều. Nhưng cũng may, họ không hoàn toàn cô đơn, các bạn đồng nghiệp chưa “bị” vẫn thăm nom, an ủi họ và cho họ biết tin tức bên ngoài. Để tránh cảnh giam hãm mà sức họ không chịu nổi quá lâu, họ tính kế thoát ra khỏi nơi này, để tiếp tục chuỗi ngày đam mê nhục thể và để đón mùa xuân sắp tới. Jackie đã cầm đầu vụ đốt bệnh viện vào lúc hai giờ sáng bằng bông gòn tẩm dầu hôi. Bệnh viện náo loạn với tiếng người kêu, với còi hụ của xe chữa lửa. Lợi dụng cơ hội này những người con gái cởi quần áo buộc lại làm thang leo qua tường thoát ra, có cô chỉ còn mặc chiếc si líp. Hòn đá ném xuống mặt hồ, một bụm nước tung lên rồi tản ra thành những chiếc vòng lớn dần, lớn dần, trong nháy mắt mặt hồ lại êm ả như cũ. Câu chuyện thật bất ngờ nhưng vô cùng lý thú qua ngòi bút của Thuỵ Vũ. Khi viết truyện này chắc nhà văn nhớ tới câu của Chúa Jésus: Cái gì của César phải trả về César! Và luật lệ, đàn ông xã hội chỉ còn là con đê nhỏ đã bị thẩm lậu qua nhiều mùa nước lũ, chờ dịp bị băng tràn. Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, một nhà văn phong phú, luôn luôn tìm về cho mình nguồn sáng tạo mới. Nhưng dù ở môi trường nào, Thuỵ Vũ vẫn bắt gặp những băn khoăn, rã rời ngay cả với tình yêu đang ươm hồng tuổi trẻ xuyên qua thân phận mình và quê hương có dòng sông Long Hồ thuộc tỉnh Vĩnh Long. Những cuộc tình đi qua trong tiểu thuyết hay trong thực tế chỉ mang lại đắng cay, … Sau vài cuộc tình ái phất phơ, bây giờ tôi mệt mỏi thật sự. Tôi bất chấp dư luận để sống mà rồi vẫn cô đơn. Tìm được kẻ mà mình đắc ý, tính cho chàng ta đắc cử vào giấy hôn thú thì tôi gặp cảnh hụt đõi luôn luôn. Bây giờ tôi bám vào Duy để lấp vào những ngày trống rỗng. Chàng nhạt nhẽo quá. Tôi đã mơ cao để rồi số tuổi càng ngày chồng chất theo nỗi chán chường… (Chiều mênh mông, "Đêm tối bao la", trang 44) Thân phận người con gái, nhất là con gái làm văn chương bao giờ cũng đặt ra với mình nhiều nghĩ ngợi, với từng giọt đắng thấm vào tâm hồn làm khô dần ước muốn. Mỗi ngày qua đi, hoàn cảnh vẫn y nguyên trước mặt với ngần ấy rụng rời, ngần ấy băn khoăn làm nhà văn sững sờ, tê tái. Tuổi trẻ có mặc dù là con gái, không phải chỉ quẩn quanh với những chứng tích thuộc về quá khứ mà từng sự vật như nhắc nhở, như gò ép thân phận vào khuôn thức không mấy thích hợp. Tương lai là của ai đó, và sự chờ đợi nào có ích chi khi mình đã đoán biết những gì đang đón ở cuối ngả đường ước vọng! Một người tình không như ý muốn, một nếp sinh hoạt lạnh lẽo và nỗi cô đơn trải rộng trước tầm nhìn. Còn những đêm dài, ôi! Những đêm dài hoang liêu với xúc cảm bơ vơ, với buốt giá tâm hồn, với ray rứt triền miên, vật vã qua làn ánh sáng vàng vọt của tin yêu. Kèm theo đấy, vóc dáng khốn khổ của người đàn bà già luôn luôn sống trong cơn hoảng hốt với ác mộng! Cái thân phận già nua khốn khổ đó qua mấy lần đam mê tình ái chẳng còn lại gì ngoài kỷ niệm xót xa, vì người bạn tình thứ hai, ông Năm Còn đã tặng cho bà một túi vi trùng hoa liễu, làm rụng cả hai hàm răng, nhưng không phải vì thế mà lòng dục của bà tắt đi. Đêm đêm vẫn thường có tiếng la thất thanh, "Mợ Hai ơi! Con Linh (nhân vật xưng tôi trong truyện) bị mấy thằng sửa cầu hãm hiếp, máu ra đầy quần nè! Mở cửa mau đi!" Tôi nắm vai bà lắc mạnh hét: "Tôi đây, tôi đây nè!" Bà Điếc vẫn la thất thanh: "Ai cứu nó. Trời ơi! Nó là con gái mà" Nhìn đôi tay run rẩy của bà, tôi chợt hiểu. Bây giờ là lúc bà đang sống ở một trạng thái mê loạn, quái đản. Tôi gào lên: "Tỉnh đậy đi bà! Tôi đâu có đi ra khỏi nhà." Bà Điếc ngẩn người một lúc rồi nhếch cái miệng méo xệch, không còn một chiếc răng giống hệt cái miệng rùa, cười tỉnh cơn mê: "Vậy hả! Mầy không việc gì sao? Tao thấy…" (Chiều mênh mông, “Đêm tối bao la , trang 39) Hai thân phận một già mê loạn, một trẻ khắc khoải cứ phải nhìn nhau, chịu đựng nhau, trong những suy nghĩ khác nhau giữa một khung cảnh buồn nản của ngôi nhà cổ đã có một thời oanh liệt. Những ngôi mộ nằm rải rác, nơi nghỉ chân của những đàn quạ rỉa lông với tiếng kêu chát chúa. Vài líp rau bỏ vắng, những gốc cây cổ thụ, tổ của lũ chồn đèn, chồn mướp đêm đêm rình bắt gà vịt. Và ngôi nhà mái thấp, từng cụm rêu màu xanh mướt, như những dấu vết thời gian in đậm vào cảnh vật và lòng người. Khung sống đó càng lúc càng thê thảm. Bà Điếc cũng qua đời sau nhiều ngày nằm bệnh, thuốc thang. Hai thân phận tách rời để người còn lại phải gắn liền vào số mệnh khắc nghiệt cũng do tình ái khơi nguồn. Người con gái chợt biết mình đã mang thai, rồi phá thai để tránh tiếng. Mặc cảm sát nhân đã cấu xé lương tâm một cô gái từ chối bổn phận làm mẹ! Nhưng cuộc đời phía trước còn cho nhiều mơ mộng, nàng sẽ dùng phương tiện cuối cùng mình có được, như hai lạng vàng và chiếc máy may để cố hàn gắn lại nhan sắc đã suy sụp do vụ phá thai, … Đời em chưa hẳn tàn nha là cảnh chợ chiều. Em sẽ chắt mót từng đồng để tìm bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ. Em sẽ bơm cái ngực teo trở thành cái ngực vĩ đại, sẽ nhờ ông ta vá lại màng trinh. Để rồi anh xem. Em sẽ lấy chồng sĩ quan Thủ Đức!… (Chiều mênh mông, “Đêm tối bao la”, trang 67) Người con gái phải trả giá cuộc đời quá đắt. Tình yêu chỉ mang lại cho nàng cái kết quả bi đát. Những giây phút thần tiên sống bên nhau, cho nhau mặn mà, nồng thắm, du dương thể xác qua rồi, qua nhanh như cơn gió đêm hè mà buồn thương, ân hận thì lãng đãng suốt đời!… Những nhân vật con gái trong tác phẩm của Thuỵ Vũ không ai gặp may mắn và hạnh phúc. Tất cả hình như đã được an bài trong một bối cảnh ngột ngạt mà mỗi số phận phải chia sẻ một phần tủi nhục. Từ người con gái ngây thơ trinh trắng tới các cô gái làng chơi, sự an bài nào đấy đã chờ sẵn ở cửa ngõ định mệnh. Phá thai, một hình thức sát nhân, nhưng ở vài trường hợp, người ta coi như chuyện thường tình, vì nếu để lại, người mẹ sẽ chết vì ô danh hay túng thiếu, hoặc vì muốn nhẹ nợ chồng con để tự do bay nhảy. Thuỵ Vũ đã dùng ngòi bút thật uyển chuyển, đưa người đọc vào một khung cảnh, ở đấy, câu chuyện phá thai với các chuyên viên hành nghề bất hợp pháp. Biết rằng, mỗi lần phá, mỗi lần ân hận. Nhưng không phá lấy gì mà sống? Những đường con bay bướm quyến rũ đàn ông sẽ không còn nữa và cuộc truy hoan huyên náo không thể tiếp diễn, rồi những ngày đêm giam mình trong phòng kín chờ lúc “bể bầu” làm họ phát điên. Lẽ đơn giản, họ không thuộc hạng đàn bà nặng tình mẫu tử. Thế giới của họ là quán rượu, là những thân thể đàn ông trần trụi, là ánh đèn mờ ảo, là những mệt mỏi rả rời trong kích thước chiếc giường nệm “mút”. Tuy chuyện phá thai cũng làm họ sợ không ít, nhưng họ lại sợ cuộc đời hơn, nên họ vẫn cúi đầu tuân theo luật sống, … Tôi dừng lại, ngạc nhiên vì số người có mặt ở đây đông đảo. Mọi người yên lặng, những đôi mắt đợi chờ trộn lẫn lo âu chốc chốc hướng về căn buồng với cánh cửa màu da trời đóng im. … Tôi quay sang bà bên cạnh gợi chuyện: “Bà đến đây lần đâu phải không?” Thiếu phụ phục sức sang trọng với bộ đồ lụa phơn phớt vàng, nàng nhìn tôi mỉm cười: “Lần thứ ba rồi.” Tôi không bỏ lỡ cơ hội, phỏng vấn ngay: “Đau lắm không bà?” Thiếu phụ lắc đầu mỉm cười trấn an tôi… … Thành ló mặt ngoắc tôi vào phòng biểu tôi ngồi xuống chiếc giường sắt loang lở nước sơn xanh. Chiếc chiếu mới trải trên mặt giường. Ngọn đèn néon bật sáng. Mụ chủ biểu tôi nằm xuống rồi lôi chiếc bassin để ở dưới gầm giường kẹp miếng bông gòn trong cái pince de crochet lau sơ qua một lượt đoạn đặt dưới mông tôi. Chiếc quần sa-ten đen của tôi tuột dần xuống rồi rút ra khỏi đầu ngón chân cái… … Mụ lôi chiếc ngăn kéo lấy ra cái mâm nhỏ đựng vài sợi thun đỏ dài bằng chiếc đũa ăn cơm bít đi một đầu. Mụ vuốt đùi tôi dỗ dành: “Em đừng lo, qua sẽ làm cho em rất êm, không có chút gì đau đớn hết.” Mụ ung dung lấy cây sắt trên tường cho vào ống thun. … Tôi chỉ nghe chiếc đũa sắt đang nô giỡn trong tận cùng sâu kín của thân thể… (Chiều mênh mông, “Cây độc không trái”, trang 166-168) Thuỵ Vũ viết tàn bạo một chút ở vấn đề này, nhưng cuối cùng câu chuyện cũng được mở ra một cách thoải mái qua hình ảnh đứa bé mút ngón tay trỏ, trong lịch quảng cáo sữa Guigoz với câu nói: Tao cần giữ một đứa trẻ nào đó để tao coi mình có thích thú làm mẹ hay không? Câu nói hơi chủ quan đấy, chuyện có con đâu phải hễ muốn lúc nào được lúc đó, nhất là đối với các cô gái hành nghề truy hoan! Viết về sa đoạ của xã hội, đúng ra, đã nhiều cây bút viết trước Thuỵ Vũ, tuy hình thức có khác, nhưng nội dung chỉ là một. Những sự việc, dù được trình bày dưới khía cạnh nào, vẫn có mục đích, đặt trước lương tâm xã hội một vấn đề, còn giải quyết ra sao, không thuộc thẩm quyền nhà văn. Thuỵ Vũ viết, chính đã giải toả cho mình nỗi dằn vặt trong thâm tâm với thân phận đàn bà, với những thiệt thòi minh bạch đã từ lâu bị khoả lấp vào quên lãng, nay được khơi động lại từ dưới đáy vực những chứng tích xác thực, hiển nhiên, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ không hoàn toàn ném mình vào cuộc sống bỏng cháy hoan lạc cả đâu. Thuỵ Vũ đã đốt ngọn đèn tâm tưởng để truy nguyên quá khứ, để giành giữ cho mình những khung trời tuy không trong sáng bao nhiêu, nhưng cũng vừa đủ soi tỏ bản thân với tác phẩm Khung rêu (1969). Kỹ thuật dựng truyện ở Khung rêu , Thuỵ Vũ quay về phương pháp cổ điển, nghĩa là nội dung được dàn trải quanh một cơ cấu (structure) ở đó, Thuỵ Vũ chạm trổ những gì đã được ấn định trong tâm thức. Khung rêu, tác phẩm dài, trình bày một nếp sống đã qua rồi, trong bối cảnh ngột ngạt của gia đình ông Phủ, tượng trưng cho giai cấp quan liêu, phong kiến đã một thời oanh liệt, sống nghênh ngang trên xương máu lê dân. Để minh định vị trí của mình, tác giả trình bày lý do đã thúc đẩy để hoàn thành tác phẩm đó, Từ hồi còn nhỏ, tôi đã phải chịu đựng một ám ảnh thường xuyên: sự suy sụp bệ rạc của một gia đình thịnh mãn ở miền Nam. Nguyên nhân chính của sự suy sụp bệ rạc này thì ai cũng biết: chiến tranh. Một cuộc chiến tranh dằng dai hai mươi lăm năm, khoảng thời gian gần bằng số tuổi tôi. … Khi khởi công viết quyển truyện này, tôi đặt trước cho mình một chủ định: ghi lại cái ám ảnh từ thuở nhỏ dại đó của tôi, trong ước vọng, một lần nữa, giải toả nó cho xong. (Lời nói đầu) Cái xã hội suy sụp và bệ rạc đó, được Thuỵ Vũ gói ghém trong hơn bốn trăm trang sách với những xâu xé, giằng co, đam mê và tội lỗi đã diễn ra thật sống động trong một gia đình quyền thế ở miền Nam trước và đầu cách mạng. Các nhân vật xoay quanh tác phẩm, mỗi người đều được tác giả vẽ bằng những nét riêng thật độc đáo để cuối cùng nhoà nhạt, chìm vào cái bi thảm không thể tránh được do sự chuyển vận của lịch sử. Cuốn truyện được khơi động trong kích thước không mấy rộng lớn, nhưng vừa đủ để nói lên những khía cạnh tâm lý cũng như xã hội vô cùng chao động, vô cùng đau đớn với các khuôn mặt: ông Phủ, bà Phủ, Ngự cháu ruột bà Phủ, Tịnh cháu ruột ông Phủ, Canh, Tường, Thụ các con riêng của ông Phủ và Chiêu, ái nam ái nữ, con chung của ông bà Phủ, lão Tự – tên gia nô trung thành, Ngà – đứa con gái ở đợ vài năm để trừ nợ thiếu lúa cho bố, con Lài, tên Mọt – tôi tớ và Hoàng, bạn Tường – kẻ ở trọ. Ông Phủ đã về hưu chỉ trông mong vào số lúa thu mỗi năm do các tá điền đóng góp. Tuy đã có tuổi với hai đời vợ nhưng ông không an phận vẫn còn say mê tình dục, lang chạ với Ngà, con lão Tám tá điền, đến mang thai. Bà Phủ đảm đang nhưng khô khan, nghiệt ngã trong vấn đề giáo dục, lúc biết chồng ngủ với tôi tớ, giận đến lúc chồng chết vẫn chưa tha thứ. Canh, đứa con trai lớn, chơi bời truỵ lạc, muốn làm một thứ Bạch Công tử, nhưng đôi khi, trong đầu lại nuôi ảo vọng cải hoá xã hội! Tường, đứa thứ hai, dốt nát bạc nhược, mê gái. Thụ tương đối có ý thức và cũng là nhân vật được tác giả nâng niu nhất trong cuốn truyện. Chiêu, vì trời bắt tội, nên chả ra làm sao. Ngự đứa con gái trắc nết, yêu vì quyền lợi. Tịnh con gái đáng thương, đem tình yêu trao tặng cho trai không xong, thất vọng, nổi điên mà chết. Lão Tự, tượng trưng cho tấm lòng nhân hậu cổ sơ ngày trước, bây giờ không còn tìm thấy. Con Ngà, cam chịu số phận, cũng biết đam mê. Con Lài và thằng Mọt được dùng như cái chốt an toàn của bộ máy. Còn Hoàng, gã thanh niên lạc loài đến khung cảnh này gây rắc rối tình cảm cho Tịnh, cho Lài và cả Chiêu nữa, tự nhiên bỏ đi!… Đó, từng ấy nhân vật, từng ấy cá tính, quấn riết lấy nhau, hành hạ lẫn nhau, trong một môi trường sắp vỡ nát và mỗi thân phận cuối cùng đều tan rã như bọt bèo trôi nổi trong đại dương cuộc đời hay khuất chìm vĩnh viễn vào lòng đất. Câu chuyện bắt đầu vào những này cuối năm, mọi người đều bận rộn chuẩn bị cho mấy ngày Tết, nhất là ông bà Phủ, tuy đã có một đời chồng, lấy kế ông Phủ, nhưng vốn người đảm đang, nên lúc nào cũng vì gia đình nhà chồng mà cố giữ danh giá qua nếp sống phong lưu, để che giấu thiên hạ sự đang xuống dốc của một gia đình quan lại. Cái gia đình ấy trông bề ngoài có vẻ êm ấm. Nhưng bà Phủ chỉ lo được những vấn đề trước mắt như thóc gạo, mắm muối và dạy bảo hai cô cháu gái vào khuôn phép, thứ khuôn phép được vâng dạ trước mặt. Thụ và Chiêu học trên tỉnh, trở về ăn Tết với gia đình. Sự hiện diện của hai nhân vật này, được nhà văn tạo cho nhiệm vụ để gây nên những sự tình, đóng góp thêm cho tấn thảm kịch gia đình những sự thực không chối cãi. Rồi về sau, vì không chịu đựng nổi hoàn cảnh khắc nghiệt, cả hai theo cách mạng, chưa chắc đã vì lý tưởng. Bà Phủ, tuyệt đối tin vào danh dự, tin vào uy thế cũng như tư cách của ông Phủ, nên bà đâu có ngờ chính ông đã tự tay phá vỡ gia đình mình vì một hành động dâm đãng. Trong chuyến bà đi thăm người em trai ở miền đất đỏ, ở nhà, ông đã hủ hoá với con Ngà, đứa con gái miệt ruộng, ở đợ trừ nợ lúa cho cha. Thuỵ Vũ viết chuyện ông Phủ và con Ngà với đoạn văn vô cùng bỏng cháy, xác thực như chính mình được chứng kiến, … Từ trước, khoảng cách biệt giữa ông Phủ và ả như được ngăn chặn bởi một bức màn sắt kiên cố. Nét mặt lạnh lùng, lời nói thị oai của ông chủ như đẩy ả vào khuôn khổ, bổn phận phục dịch trong nhà. Vòng tay ông Phủ siết chặt lấy ả, hơi thở dồn dập như muốn làm võ toang lồng ngực của ông. Ả không thể kêu cứu ai được vì chính ả cũng bị sự kích thích hung dữ, mới mẻ lung lạc. Lời kêu cứu ấy nếu có, cũng chỉ dành cho kẻ đang ghì chặt thân thể mang nhiều lửa cảm xúc của ả. “Đừng ông!… con sợ lắm. Bà biết được chắc con chết.” Bóng tối trong dần… ông Phủ đắm đuối nói: “Coi kìa… Để quan… thương Ngà một chút.” Ông Phủ vừa nói dứt câu, Ngà đã bị quật xuống giường lò xo. Toàn thân tê tại, ả đẩy mặt chủ ra một cách yếu ớt, miễn cưỡng. Ả bất lực trong vùng cảm xúc sôi trào với cái thân thể rực lửa. Ả lờ mờ ngắm chủ múa quay cuồng như cái bông vụ… (Khung rêu, trang 43) Rồi từ đấy, công việc buông màn, làm giường cho ông Phủ mỗi tối ít nhiều gì cũng có đụng chạm giữa hai thân xác một già, một trẻ. Giữa lúc đó, mối tình của Ngự và Tường cũng đang nhen nhúm trong bóng tối, dưới những gốc cây trải rộng mịt mù hoa trái, với lời yêu nồng ấm đầu môi, với những ước vọng tràn đầy trong trí tưởng tượng của hai kẻ yêu nhau. Cả Tịnh và Hoàng nữa, họ cũng yêu, nhưng là thứ tình yêu câm lắng, hờn hận, vì sự không dám dấn thân của Hoàng, người trai ở trọ, rồi đến Chiêu, tuy ái nam ái nữ mà cũng say mê Hoàng như say mê một người tình thực sự. Với Chiêu, có lẽ tác giả cố tạo cho vai trò đã bi đát này, càng bi đát hơn, khi Chiêu thích làm gái mà bà Phủ bắt Chiêu ra trò với tác phong con trai, học trường con trai, sinh hoạt như con trai. Nhưng đau đớn thay, các cơ phận của Chiêu lại nảy nở mạnh về nữ giới. Bởi vậy, cảm xúc của Chiêu luôn luôn hướng đến con trai, do đó, cơn thèm muốn tình dục lẽ dĩ nhiên chỉ nghĩ về giống đực. Thuỵ Vũ cho Chiêu mê Hoàng một cách tuyệt vọng trong đoạn văn, … Hơi thở Hoàng toát ra sự đầm ấm. Chiêu chìa bàn tay đặt lên bụng Hoàng và bàn tay chàng mắc cạn luôn ở đó… … Từng giọt thời gian chậm chạp nhỏ xuống tâm hồn Chiêu như chất cường toàn rỉ rả trên da thịt. Chiêu vụt ứa nước mắt, lẩm bẩm: Nếu mình là con gái?… (Khung rêu, trang 211) Cả con Lài nữa, không cam phận tôi đòi cũng say mê chàng trai biết kéo cây đàn cò tây rỉ rả, làm tên Mọt, gã gia nhân lai Miên, ghen tức ấm ức trong lòng. Lão Tâm, bố con Ngà đâu có ngờ sự việc lại xảy ra quá quắt như vậy? Làm tá điền, đến mùa thiếu lúa góp vì quá nghèo, lão đành đem thế chân bằng đứa con gái duy nhất ở đợ, trừ tiền nợ cho chủ điền. Con Ngà đã được lão hứa gả cho thằng Đực, người chòm xóm, cũng là tá điền của ông Phủ. Đực, gã nông dân quê mùa nhưng cũng biết đắm mê sắc đẹp người vợ chưa cưới xin. Trong ngày nộp lúa, Đực chỉ mong nhìn lại mặt người yêu cho đỡ nhớ. Nhưng vụ lúa năm nay Ngà cố tình tránh né không cho Đực gặp. Linh tính đã báo cho Đực biết có gì thay đổi trong lòng người yêu. Đực hỏi ông Tám, ông lặng thinh lơ đãng nhìn ra sông, vì trong lòng cũng cảm thấy con mình đã khác trước, nó không còn cười giỡn hồn nhiên như xưa. Nhưng cũng để an ủi đứa con rể hờ, ông vẫn đoan quyết, trừ xong nợ lúa, sẽ gả Ngà cho Đực. Đực, tuy quanh năm cày sâu cuốc bẫm mà cũng tinh tường lắm. Gã đoan chắc có trục trặc cho phận mình, nhất là lão Tư lại nói sẽ làm mai Lài cho gã. Sự thực, gã thèm khát cái thân thể mơn mởn của Ngà. Trước khi về xứ, gã muốn chiếm Ngà, ngày mai ra sao, mặc kệ. Đêm trước ngày về, gã thực thi ý định bằng cách vào buồng Ngà để cưỡng bức ân ái. Gã đã toại nguyện và thân xác Ngà lại bị xâm phạm bằng cường lực, lần này dũng mãnh hơn lần với ông Phủ, vì Đực còn trẻ, thật sung sức. Thuỵ Vũ viết đoạn này có lẽ hấp tấp chăng, hoặc chưa điều nghiên kỹ? Vì thực tế, không dễ dàng gì nhét được chiếc khăn vào miệng con gái để chặn tiếng kêu, hơn nữa, thời gian bế cô gái từ trên chiếc giường tre xuống đất, có ai cấm cô gái la lên nếu không thuận, khi ngay sát vách, lão Tư vẫn trở mình húng hắng ho. Cưỡng bức ái tình không phải chuyện dễ, nhưng người đọc cũng biết chắc sự việc này được diễn tiến hoàn toàn do có tưởng tượng, vì thế, không thể tránh khỏi sơ hở về nhận xét, dù là nhận xét qua lăng kính suy luận. Bởi vậy, những tiếng kêu: cứu cháu, ăn trộm… càng làm cho sự giả tạo thêm rõ ràng. Cái bối cảnh gia đình ông Phủ cứ từng bước một, tan rã lần lần qua mỗi sự vụ. Chuyện Ngà mang bầu với ông Phủ không còn giấu được ai, trừ bà Phủ vì quá tin tưởng vào danh giá và lòng tự tôn của ông chồng. Những lời của Thụ, đứa con trai thứ ba, nói với ông Phủ như từng gáo nước lạnh dội vào giữa tâm can vị quan già bê bối, trong lúc ông đang mê mải vui ngắm đàn cá lia thia tàu vàng rực bơi lội tung tăng dưới đám rong rêu, … Ông Phủ nhìn chăm chú vào mặt nước trong veo. Thụ ngó quanh một lúc ngập ngừng: “Thưa ba, con muốn nói với ba một chuyện khá quan hệ.” Ông Phủ hơi sửng sốt: “Con cứ nói.” “Chị Ngà đã có mang.” Ông Phủ hốt hoảng: “Sao… sao con… biết?” Thụ cười buồn: “Chị ấy thú thật với lão Tự… Lão Tự nhờ con nói lại với ba, nhờ ba giải quyết giùm chị.” Ông Phủ đứng sát gần Thụ hơn và hạ thấp giọng: “Nó đã có mang với…” Thụ tiếp lời cha: “… với ba. Đáng lẽ chị phải tỏ thật với ba, nhưng chị còn ngại.” “Biểu nó lên gặp ba tối nay.” (Khung rêu, trang 140-141) Từ phút ấy, trong lòng ông Phủ như có sợi dây thắt lại. Đã thế, hình ảnh Canh, đứa con trai lớn lại hiện ra như châm chọc vào uy quyền ông. Canh hư hỏng, ăn chơi, nghiện hút, bố chưa chết đã đòi chia gia tài. Mỗi vụ lúa trở về lấy phần bán đi lên tỉnh ăn chơi cho sướng thân. Đã có lần, Canh ăn nói hỗn xược bằng cách doạ ông, hắn sẽ vô đạo Thiên Chúa để khỏi cúng giỗ thờ phượng ai hết. Ông mỉa mai lại bằng lời nói cay đắng, “Mày lo gì, tao mà chết rồi, mày chịu khó quàn xác tao lại trong nhà này chừng mười ngày, nửa tháng. Chừng đó, thiếu gì người đến đem tiền phúng điếu để mày kiếm chác thêm mớ nhắm nộp cho tiệm hút.” (Khung rêu, trang 145) Sự không may cứ tới tấp rơi xuống kích thước này như những tiếng sét. Mọi người đều vui đùa một cách giả tạo vì mỗi thân phận đang bị cấu xé bởi lý do riêng biệt. Ngà nằm bệnh vì bị bào thai hành, nhưng do tập tục ngày Tết, nàng vẫn phải lên nhà chào mừng ông bà Phủ sáng mồng Một, với tư cách tôi tớ, … Giọng bà Phủ làm ả chợt tỉnh: “Sao? Chúc ông bà năm mới cái gì đây? Nói hết câu cho bà nghe coi.” Ngà nắm hai bàn tay vào nhau, ngập ngừng: “Năm mới con chúc ông bà… trường thọ.” Bà Phủ cười cởi mở: “Dữ ác hôn?” Bà day lại giục chồng: “Thôi lì xì cho nó lấy hên đi ông.” Ông Phủ ngập ngừng một chập, trao gói tiền mừng tuổi cho Ngà rồi lặng lẽ đi lại chỗ khay trà. Bà Phủ truyền lệnh bằng một giọng lanh lảnh: “Ông cho thì cầm đi để có mà xây xài trong mấy ngày Tết…” (Khung rêu, trang 154) Thuỵ Vũ viết thật chắc và mô tả tâm lý rất sát trong đoạn văn tuy ngắn nhưng tóm gọn được tất cả mọi khía cạnh của vấn đề. Ngà bóp nát số tiền ông Phủ cho trong lòng tay căm giận, tủi hổ, xong lại chui vào căn buồng nhỏ hẹp, khóc cho thân phận. Nhưng rồi bà Phủ cũng biết Ngà có thai, sau khi mời ông Bàng đến bốc thuốc xem mạch. Bà nghi quanh quẩn cho những ai ai chứ không dám ngờ ông Phủ. Về phía ông Phủ, biết rằng giấu không được nữa đành thú thật với vợ, cái bào thai đang hành hạ con Ngà là của ông. Bà Phủ cắn chặt hàm răng, không nói điều gì xúc phạm hoặc trách móc chồng nửa lời. Bà muốn thu xếp cho tên Mọt nhận cái thai trong bụng Ngà, ông không chịu. Từ bữa ấy, ông ngồi ăn cơm một mình, còn bà luôn luôn lẩn tránh khỏi giáp mặt chồng. Không muốn nhìn thấy ai nữa, vì chuyện xấu xa kia, bà lấy tiền của riêng, cất một căn nhà sàn ở mé sông, sống một mình. Trong nhà có thờ Phật Quan Âm. Bà Phủ cạo đầu để mong rũ sạch nợ đời, lấy kinh kệ làm vui chuỗi ngày còn lại. Trong lúc đó, Ngự cũng đã mang bầu với Tường con trai thứ ông Phủ. Sau nhiều suy tính, Tường nghe Ngự ăn cắp đồ vật, vàng bạc của cha rồi cùng người yêu đi xây tổ uyên ương. Buồn thay chỉ mấy tháng sau, cái tổ ấy vỡ vì tình yêu không thể nuôi bằng ảo tưởng. Họ lại quay về dưới mái nhà xưa với cái bụng chình ình và để nghe những lời sỉ nhục của ông Phủ. Ngà thay bà Phủ mỗi tối lên nằm giường lò xo và hiến dâng xác thịt cho ông Phủ, lúc này vì chán cảnh gia đình nên ông chẳng mấy tha thiết làm Ngà buồn và nhớ Đực. Canh lại lù lù trở về bán lúa và gây sự với cha về cái hành động bỉ ổi, nhơ nhuốc với Ngà. Rồi lão Tám với đau đớn khi đinh ninh lên đón con về gả chồng vì đã mãn hạn nợ. Lão Tám đâu muốn làm tía ông Phủ. Lão chỉ muốn giữ lời hứa với Đực và mong con gái dù có lấy chồng cũng ở gần mình để trông nom lão lúc về già. Lão căm giận và có ý nghĩ phải bắt Ngà về bằng mọi cách dù phải trả bằng máu! Nhưng ý nghĩ chỉ là ý nghĩ, trước mặt ông Phủ, lòng hăm hở của lão Tám chùng xuống. Lão đi những bước nhẹ nhàng, lòng vẫn sợ sệt thứ uy quyền tuy đã thuộc về dĩ vãng, … Ông Phủ mở đầu câu chuyện: “Chú tính lên rước con Ngà về dưới phải không?” Ông Tám đáp nhỏ như không dám xác nhận: “Dạ!” Ông Phủ chau mày: “Theo tôi, con Ngà trong lúc bụng mang dạ chửa, chú nên để nó ở trên này. Tôi sẽ hết lòng lo cho mẹ con nó vuông tròn.” Ông Phủ ngừng lại, dò xét phản ứng trên mặt mặt người đối diện, rồi tiếp lời: “Dầu gì đi nữa, nó cũng là vợ tôi. Đứa nhỏ trong bụng nó do khí huyết tôi tạo ra, lẽ nào tôi làm ngơ cho đành đoạn. Nếu chú bằng lòng để tôi sai trẻ nó về rước chú lên nở với anh Tự cho vui. Hai anh em bạn già hủ hỉ với nhau cho có bầu bạn.” Ông Tám ngồi yên, miệng cơ hồ bị khoá lại. Ông chỉ còn biết gật đầu vâng dạ về mọi lời đề nghị của ông Phủ, vì như từ lâu rồi, ông thấy mình hèn hạ, bạc nhược, nhỏ nhoi trước con người mà ông đã nung nấu thù hằn… (Khung rêu, trang 315) Lão Tám đâu ngờ con Ngà cũng phụ lão. Nó không muốn quay về nơi chôn rau cắt rốn vì đã ăn phải bả vinh hoa. Lão Tám phóng lẹ xuống ghe như để dứt khoát với những tủi nhục nơi đây. Mối tình của Tịnh lê dần vào tuyệt vọng vì một buổi sớm Hoàng đã giã từ không gian địa ngục này đi tìm chân trời khác. Đau khổ đã làm nàng nằm bệnh rồi phát khùng, chết tại nhà thương điên Biên Hoà! Thật đau đớn và tội nghiệp cho một linh hồn trinh nữ! Đứa con gái Ngà sinh ra cũng chẳng sống được mấy tháng. Cái dòng sữa quý báu nàng đem nuôi đứa con của Ngự – người đàn bà đoảng, ích kỷ và trắc nết. Từ khi Tịnh lâm bệnh nặng bà Phủ bớt khe khắt với Ngà, bà lại ra mặt cai quản gia đình nhưng vẫn lảng tránh chồng, dù ông Phủ đã nhiều lần muốn nối lại dây thân ái tình ngãi vợ chồng. Thụ cũng bỏ nhà vào chiến khu để chống lại giai cấp của cha mình, chống bất công, thối nát. Ông Phủ lúc này như quay cuồng giữa cơn ác mộng và ông bắt đầu nhìn rõ những gì Trời đã dành cho mình trong những ngày cuối của kiếp người. Ông chán hết, ngay cả thân xác nõn nà của Ngà tràn đầy sinh lực, hằng đêm vẫn nằm bên ông với rạo rực trong lòng. Còn lão Tự hằng ngày, hằng đêm vẫn phải chứng kiến sự đổ vỡ không tránh được của một gia đình mà lão đã hết lòng phục vụ, như một nhân chứng bất đắc dĩ. Chiêu cũng ra đi theo Thụ để tránh phải nhìn thấy cảnh tan rã chung và riêng với mặc cảm thân xác bất toàn. Ông Phủ lúc này mất hết, mất vợ con, mất nguồn lợi hằng năm vì các tá điền đã theo cách mạng không chịu nộp lúa nữa. Ông thấy mình gần lão Tự hơn vì lão cũng chẳng có gì suốt một đời nô bộc. Ông vơ vẩn tự hỏi: không biết bên kia cái chết, có còn một đời sống nào khác nữa không? Câu hỏi đó, người sống không thể trả lời được. Ông chợt nghĩ đến tổ tiên, đến các bậc đã sinh thành ra mình đang có mặt qua tấm ảnh trên bàn thờ, rồi bỗng nhiên, ông quay cuồng, điên đảo, ông buông xuôi hai tay ngã quỵ xuống nền gạch lạnh toát… Nghe tin chồng chết, vì vẫn nặng lòng oán giận nên bà Phủ chỉ ngó sững thây ma không một tiếng khóc, không một cử chỉ xót thương. Khi cơn uất hận đã lắng xuống, bà muốn nói với ông vài lời vĩnh biệt, đã muộn! Nỗi hờn ghen của bà Phủ ghê gớm thật. Nó là một hình phạt ác độc nhất trong các hình phạt mà con người có thể đối xử với nhau để đoạn tuyệt tình nghĩa phu thê, trăm năm chăn gối! Thuỵ Vũ đã viết, viết đúng vì ở cuộc sống này đã có, những người đàn bà ghen như bà Phủ. Lúc thương yêu thì yêu thương da diết, lúc phụ rẫy lại hạ nhục đến chết mới nghe. Chao ôi! Tình nghĩa, chao ôi! Dục vọng, chao ôi! Cuộc đời!… Tác phẩm Khung rêu được kết thúc bằng sự băng hoại thê thảm của một đẳng cấp đã từng thịnh mãn ở miền Nam nước Việt. Hình ảnh Thụ, con người ý thức của tác phẩm đã hiện lên như niềm hy vọng, tuy chẳng ấm áp gì nhưng có hơn không. Còn Hoàng, sau những ngày tháng chạy theo cách mạng, đã lấy vợ và có một bầy con. Trở về Thành làm chủ tiệm xe đạp, không một lần nhắc đến Tịnh người con gái đã chết vì mình, cho mình. Một đêm, mười năm sau, Thụ ngồi trước ngọn đèn chong mờ tỏ, giữa một khung cảnh tan hoang, một tương lai lo lắng chẳng biết có thuộc về mình?… Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, cây viết trẻ, đã thẳng thắn bày tỏ suy nghĩ của riêng mình về cuộc sống tình cảm cũng như xã hội. Nhiều ý tưởng táo bạo, mạnh mẽ như những nhát búa đập thẳng vào trí não người đọc làm choáng váng mặt mày. Nhà văn chẳng cần giữ ý, chẳng cần úp mở với những vấn đề được đề cập tới trong tác phẩm. Ý hướng sáng tạo của Thuỵ Vũ giống như một thác nước cao đổ ào ạt xuống triền sâu mặc cho sức đập phá và cuốn theo bao nhiêu cỏ cây hoa lá, cũng như rác rưởi trôi xuôi theo dòng đời muôn vạn ngả. Nhưng đích thực, Thuỵ Vũ vẫn gìn giữ cho mình một phần trách nhiệm, vì trong mọi trạng huống dù khốn khó đến đâu bao giờ nhà văn cũng mở ra một chiều hướng tốt, một ý nghĩ tốt cho kết quả. Bởi vậy, đừng có ai khắt khe cho rằng sự dâm ô trong kích thước văn chương Thuỵ Vũ là độc tố phá hoại ngấm ngầm ý thức con người, nó chính là liều thuốc an thần cho mỗi con người đã mất thăng bằng tâm não. Ngoài những tác phẩm được nói tới, Thuỵ Vũ còn hai tác phẩm: Ngọn pháo bông và Thú hoang cũng không đi ra ngoài ý hướng chuyên biệt đã tạo nên Nguyễn Thị Thuỵ Vũ hôm nay. Cánh cửa đã mở, xin mọi người cứ thong dong thưởng ngoạn. Trích văn Nguyễn Thị Thuỵ Vũ … Bà Phủ uể oải đứng lên. Ông Phủ vẫn ngồi y nguyên chỗ cũ. Tâm trí ông xoay tròn trong câu chuyện mà ông sắp sửa nói với vợ ông. Đột nhiên, hình ảnh người vợ trước hiện lên. Mẹ Cang ngày xưa ngoan hiền trong mọi việc, nhưng đối với những vụ ngoại tình vụn vặt của ông, bà trở nên dữ dằn, không còn giữ lại chút lý trí nào. Những hành động âm thầm, những mưu chước tinh vi của bà chỉ dành cho cuộc lùng bắt, săn đuổi tình địch. Thế rồi những trận đánh ghen sôi nổi diễn ra: sởn tóc tình địch, thuê một lũ đàn bà đến vây khốn, lột truồng tình nhân của ông. Đàn bà ghen thoạt đầu vì tình yêu, dần dà họ ghen vì tự ái bị động chạm và vì quyền lợi mình bị hao hụt. Cái chết thê thảm của người vợ trước trong lúc ở cữ sống lại mãnh liệt trong trí nhớ ông. Qua một thời gian sống cảnh gà trống nuôi con dài đằng đẵng, ông hứa với người quá cố sẽ sửa chữa, tu tỉnh. Nhưng rồi, niềm ân hận cũng phai đi, hình bóng người chết cũng nhạt nhoà theo năm tháng… Ông Phủ nuốt nước miếng, từng cơn lốc lướt qua đầu. Suối hai mươi năm liền sống với người vợ kế, ông cũng có những mối tình phất phơ không đáng kể. Nhưng bà Phủ đã tự tin cái địa kiên cố trong lòng ông. Bà đã thắng tất cả những người đàn bà vây quanh ông vì bà có chút nhan sắc và có thừa công trạng đối với nhà chồng. Năm nay, bà đã bốn mươi hai tuổi, nhưng mặt mày còn tươi rói, khoé nhìn và nụ cười thật sắc sảo. Bà ăn trầu vén khéo, nên răng trắng trong, và khi bước ra khỏi nhà bà bới đầu lèo, đeo hột xoàn, tô son dồi phấn rực rỡ. Bà vẫn tin tưởng mình nắm trọn trong tay mọi quyền hành. Bà là loại người chỉ huy chồng bằng sự dịu dàng. Mọi quyết định từ trong ra ngoài phần lớn đều phát xuất từ một tay bà. Ông Bang cầm chiếc dù cán ngoéo đứng dậy chào bà Phủ. Bà đon đả đưa ông xuống nhà ngang. Ngà vẫn nằm lim dim bên Lài đang chế nước sôi vào ly đựng gừng, trà và bỏ trần bì. Ông Bang kéo ghế đẩu ngồi lại cạnh giường. Ngà thảng thốt ngồi phắt dậy như bị điện giật. Ả thiểu não nhìn bà Phủ: “Thưa bà con chỉ cảm sơ sịa, có gì đâu phải nhọc đến ông Bang?” Bà nhìn ả, nói như ra lịnh: “Con này chướng. Thầy thuốc đến tận giường mà không cho chẩn mạch hả? Đói ăn rau, đau uống thuốc chớ.” Ngà vẫn dụ dự không đưa tay cho ông Bang. Ả biết rõ căn bịnh của mình. Đó chẳng qua là do thai hành cộng thêm những đêm mất ngủ liên tục, những nỗi sợ sệt bám lấy ả không rời. Tựu trung đều tại cái thai. Lài dỗ dành: “Rán uống tít thang thuốc cho mau mạnh đi chị. Đừng có nuôi bịnh như vậy.” Ngà rướm nước mắt, nhìn lão Tự đứng xớ rớ gần đó như cầu cứu. Lão Tự giục: “Cháu đưa cho ông Bang chẩn mạch. Việc gì mà cháu ngại. Có bác đây chi?” Lão Tự nhìn Ngà trấn an. Ngà biết đây là dịp bà Phủ khám phá cái tội lầm lỡ của ả. Trái tim của ả muốn ngừng đập. Ả rụt rè chìa tay về phía người thầy thuốc. Ông Bang chậm chạp lột cặp kính lão, kéo lấy vạt áo the lên lau, rồi chăm chú chẩn mạch. Bỗng đôi mày ông cau lại, ngạc nhiên. Bà Phủ sốt ruột trước cử chỉ chậm chạp, khệ nệ của ông. Bà ngập ngừng: “Thưa ông Bang. Con nhỏ này đau làm sao vậy?” Ông Bang hớp ngụm trà, rồi cười nửa miệng: “Bẩm bà lớn, cô em đây có gia thất chưa?” Bà Phủ đáp gọn: “Nó còn con gái mà.” Ông Bang ngần ngừ một lúc, rồi lắc nhẹ đầu: “Cổ chẳng bịnh hoạn gì hết. Cái thai đang hành đó thôi.” Bà Phủ buột miệng kêu hai tiếng “Hèn chi!” rồi cao giọng: “Nó có bầu hả? Kỳ quá vậy?” Bỗng Tịnh hớt hơ hớt hải chạy đến vừa lúc bà Phủ cùng ông Bang sửa soạn đi lên nhà trên. Tịnh nói mau: “Thưa mợ, cậu Phủ mời mợ và ông Bang lên cho cậu hỏi thăm.” Ông Bang khệ nệ chiếc bụng lùm lùm như cái mả lạn bước lên tam cấp. Chiếc dù cán ngoéo của ông dùng một lúc hai việc: che mưa nắng và còn chiếc gậy nâng đỡ cái thân hình bề bộn thịt mỡ của ông. Mọt đã thay ấm mới, còn đứng xớ rớ chờ lệnh. Ông Phủ biểu gã rót trà ra chung rồi lui đi. Ông Bang bước vào trung đường rợp hơi mát của mấy cây nhãn trồng ngoài hiên. Trong khi ông Bang còn đang nói chuyện với ông Phủ, bà Phủ toan xuống nhà ngang mở cuộc thẩm vấn Ngà, ông Phủ ngăn lại: “Mình ở lại đây, tôi có chuyện muốn nói.” Ông Bang sau một lúc nói chuyện vãn nắng mưa, mùa màng, xuống chiếc ghe bầu về nhà. Bà Phủ có vẻ lăng xăng: “Để tôi xuống dưới nhà, coi con Ngà lỡ dại với thằng trời đánh nào? Mình phải thu xếp tống lôi, tống khứ thứ đồ hư thân mất nết đó cho mau. Thiệt nuôi tớ gái trong nhà như nuôi ăn trộm.” Ông Phủ nhìn vào mặt vợ, hạ thấp giọng như một lời kinh sám hối: “Đứa nhỏ trong bụng là con của tôi.” Bà Phủ ngó ông lom lom rồi không nói thêm được một lời nào nữa. Bà tưởng như tai mình lùng bùng bởi một điều phát giác trắng trợn. Bà đứng dựa lưng vào cây cột, cảm thấy mái nhà xiêu vẹo và mọi vật trước mắt như phủ một làn sương mỏng. Ông Phủ bước tới dìu bà vào ghế phô tơi. Ông Phủ nói: “Mình thương tôi, hãy cứu mạng giùm nó. Chuyện đã dĩ lỡ rồi!” Bà Phủ cắn chặt hàm răng để không nói điều xúc phạm, trách móc chồng. Rồi bà bỏ đi nằm. Trong gian phòng vắng ngắt, chỉ có tiếng muỗi vo ve. Bà Phủ nằm bất động, tay vắt trên trán. Ánh nắng buổi trưa trườn qua khung cửa sổ. Trước mặt bà bây giờ là một vùng trắng thinh không. Bà biểu Lài bước ra ngoài để bà nằm nghỉ ngơi. Trong hai mươi năm, bà đã bồi đắp, gói ghém, che giấu những thăng trầm của nhà chồng một cách khéo léo. Bà ngỡ Trời Phật trớ trêu đã cho bà một đứa con tật nguyền cũng đủ lắm rồi. Vậy mà giờ đây, bà phải nhận thêm một bất hạnh ô nhục nữa: ông chồng ngoại tình với kẻ tôi tớ trong nhà. Phải dè cớ sự như vầy, bà đã đi cưới cô Năm Thành, một đào hát bội nổi danh cho ông.
Lúc bà chưa sanh Chiêu, bà nghĩ rằng mình là một thứ cây độc không trái. Hồi đó, ông Phủ mê xem hát của gánh Bầu Đỏ. Những ngày gánh này ghé lại đình làng, ông Phủ nhất định giành vai cầm chầu để xem cô Năm Thành đóng vai Đắc Kỷ, Phàn Lê Huê, Hồ Nguyệt Cô. Nhan sắc chim sa cá lặn của cô đào hát bội đó trong lớp phấn son hoá trang và trong y phục Quảng Đông rực rỡ hào quang đã thâu đoạt hồn phách của ông. Mỗi khi tan hát, ông về nhà say sưa nhắc nhở tài nghệ của cô với nụ cười và ánh mắt đờ đẫn và mộng mị.
Bà Phủ vẫn biết cô Năm thật ra có màu da bánh ích, một thân hình hơi khô và cô lại còn ưa ăn trầu. Nhưng trước khi sắm tuồng cô Năm đánh răng, súc miệng, uống một chén sâm và bắt đầu xức một loại thuốc gia truyền trên mặt để cho làn da dễ dàng ăn phấn. Hoá trang xong, cô Năm đốt nhang lạy tổ nghiệp và từ trong cánh gà tuôn ra sân khấu, cô đã trở thành một thần nữ mà khoé mắt, nụ cười, giọng hát cao vút như ướp bùa ngãi ma quái, dễ làm cho ông Phủ, ông Cai tổng, thầy Bang Biện phải mê mẩn rụng rời. Bà Phủ rất bực mình khi giữa đêm khuya, bà vụt chợt tỉnh vì tiếng mơ của chồng gọi cô Năm ơi ới. Bà đã lén mướn cậu Trùm Xuyên Bình dò la những nơi mà ông Phủ dắt cô Năm Thành đi ăn chè cháo khuya để kịp thời ngăn chặn sự dan díu của chồng. Hình như lúc còn tại chức, ông Phủ có lần muốn chuộc cô Năm Thành bằng một phần ba gia sản. Nhưng cái ý định của ông chưa kịp thành hình thì đùng một cái cô Năm Thành mang bầu với tên kép chánh trong gánh. Tên này thường sắm vai tướng quân, nguyên soái oai phuông lẫm lẫm. Hắn hát ở quận nào trên một tháng là có được ông Phủ gói ghém trong nét mặt lầm lì, khắc khổ. Thỉnh thoảng, bà Phủ, trong câu chuyện nửa đùa, nửa thật, cũng nói trêu chọc: “Phải chi có Năm Thành chưa lỡ dại, tôi sẽ đem trầu cau lạy lục rước cổ về cho mình rồi.” Bà Phủ lúc đó như thoát khỏi một cơn ác mộng. Rước cô Năm Thành về cho chồng là một mối hiểm hoạ cho bà. Bà sẽ là cái bóng mờ nếu cô Năm có con với ông Phủ. Người đàn bà lừng danh đó chắc sẽ nhận chìm bà một cách thảm hại.
Bây giờ, có thể nào tưởng tượng một kẻ tôi đòi quê mùa, cục mịch như Ngà lên làm chị làm em với bà được không? Đuổi Ngà ra khỏi nhà hay để ả sanh nở xong rồi bắt đứa nhỏ? Hay là năn nỉ dụ dỗ Mọt đứng ra “nôm” Ngà để cứu vãn danh giá cho chồng? Đầu bà nhức như bị búa bổ. Bà cảm thấy càng cựa quậy lung tung, bà càng lún sâu vào nỗi khó khăn, thất vọng. Bà nằm không muốn nhúc nhích nữa. Tứ chi bà như rời rã, thần sắc thiểu não. Đến mấy ngày liền, thân xác bà sa sút thịt mỡ. Gian nhà vốn đã âm u càng trở nên nặng nề khó thở.
Ông Phủ chúi mũi vào sách báo, nhưng chữ nghĩa trơn trợt trong tâm trí ông. Ông muốn gần vợ để năn nỉ, ỉ ôi bà vì ông dư biết đàn bà dễ xiêu lòng. Nhưng ông cảm thấy ngượng ngùng. Hình như giữa ông và vợ, tự dưng đã đào sâu một khoảng cách mênh mông không sao lấp nổi nữa. Thái độ yên lặng của bà như đe doạ ông. Người đàn bà không ồn ào quát tháo đáng đề phòng hơn. Hai mươi năm qua, ông ngờ mình rành rọt tất cả những nẻo đường đổ về tâm hồn bà. Nhưng bây giờ, im lặng của bà có phải là dấu hiệu của sự cố gắng thoả thuận hay là giai đoạn mở đầu của những mưu toan đen tối sắp được thực hiện? Mỗi lần ông toan đến gần bà để phân trần, để kêu gọi lòng từ bi, đại lượng của bà thì lập tức bà ngồi bật dậy, bước ra khỏi giường, rồi bước vào buồng riêng của Chiêu, khoá kín cửa lại. Thái độ câm nín, lạnh nhạt của vợ trong mấy ngày nối tiếp hành hạ ông ghê gớm. Nhưng ông đã cố gắng hy vọng chờ đợi sự việc sắp tới sẽ trơn tru, êm đẹp. Biết đâu được, lòng người đàn bà nay vầy mai khác. Ông tự an ủi mình nhưng lại không ngớt lo lắng, bứt rứt… (Trích Khung rêu, từ trang 238-246)
|
Dương Nghiễm MậuDương Nghiễm Mậu và thủ bút Tên: Phí Ích Nghiễm. Bút hiệu: Dương Nghiễm Mậu. Sinh ngày: 19-11-1936 tại Hà Đông, Bắc Việt. Viết văn từ 1955. Chủ trương nhà xuất bản Văn Xã. Tác phẩm: 1. Cũng đành, nhà xuất bản Văn Nghệ 1963, Văn Xã tái bản 1966 2. Gia tài người mẹ, nhà xuất bản Văn Nghệ 1964, Văn Xã tái bản 1966 3. Đêm, nhà xuất bản Giao Điểm 1965 4. Đêm tóc rối, nhà xuất bản Thời Mới 1965 5. Tuổi nước độc, nhà xuất bản Văn 1966 6. Đôi mắt trên trời, nhà xuất bản Giao Điểm 1966 7. Sợi tóc tìm thấy, nhà xuất bản Những Tác Phẩm Hay 1966 8. Nhan sắc, nhà xuất bản An Tiêm 1966, Văn Xã tái bản 1969 9. Phấn đấu, nhà xuất bản Văn 1966 10. Kinh cầu nguyện, nhà xuất bản Văn Xã 1967 11. Gào thét, nhà xuất bản Văn Uyển 1968 12. Ngày lạ mặt, nhà xuất bản Giao Điểm 1968 13. Địa ngục có thật, nhà xuất bản Văn Xã 1969 14. Nga đạn, nhà xuất bản Tân Văn 1970 15. Quê người, nhà xuất bản Văn Xã 1970 16. Cái chết của, nhà xuất bản Văn Xã 1971 Đã cộng tác với: Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Văn, Văn Nghệ (Chí) và Tin Sáng (báo) v.v… Dương Nghiễm Mậu và tuổi trẻ cô đơn Que l’homme est né pour le bonheur. André Gide (1869-1951) Con người sinh ra để hưởng hạnh phúc. Dương Nghiễm Mậu xuất hiện trên văn đàn miền Nam cách đây ngoài 10 năm, như một chứng tích. Cái chứng tích đó là nỗi bơ vơ của tuổi trẻ, của một thế hệ tuổi trẻ đang sống giữa cuộc sống không thuộc về mình. Cái tuổi trẻ nào đó được tô hồng trong những dạ hội, dưới mái đại học, hay rong chơi quanh năm với bốn mùa tình tự, đều ở ngoài tầm tay của Dương Nghiễm Mậu. Cuộc sống đối với Mậu là cái gì quá khe khắt, quá cứng rắn và từ đó mỗi suy nghĩ, mỗi hành động hình như, ít nhiều gì cũng để chống đối cuộc đời. Những xấu xa, ti tiện, lòng ganh ghét và đố kị thấp hèn, trộn lẫn với tình thương yêu con người làm giọng văn của Dương Nghiễm Mậu vừa phẫn nộ vừa chua xót. Con người sinh ra đời không phải để gánh chịu nhục nhằn và cái xấu. Nhưng cuộc đời có mặt không phải là thiên đường, nên con người vẫn phải cúi đầu chấp nhận những gì do nó đưa lại cả xấu lẫn tốt. Con người tính vốn thiện từ thuở lọt lòng, nhưng càng sống, càng tranh đấu để cuộc sống được tốt đẹp hơn lên, con người lại vô tình làm nó xấu đi, vì lòng ích kỷ và tinh thần chiếm đoạt, tư hữu. Cái ý thức tốt hướng vào điều thiện cũng như việc đề cao lương tri chỉ còn là những danh từ trống rỗng, giữa một xã hội xáo trộn vì chiến tranh quá lâu, giữa những ngộ nhận từ kẻ này qua kẻ khác. Dương Nghiễm Mậu không phải vô tình hay vô cớ khi đặt vấn đề thân phận con người, nhất là tuổi trẻ, trong phạm trù sinh hoạt thực tế với cục bướu quá to, lông lá xồm xoàm, tượng trưng cho nỗi băn khoăn, ám ảnh của nhà văn đối với một xã hội thối nát, bất công đang bám vào da thịt mình làm bứt rứt, khó chịu. Cục bướu đó, sự thực, mỗi con người đều phải gánh chịu suốt đời, chỉ có khác, ở mỗi người nó mọc ra ở mỗi chỗ, tuỳ theo cung số!… Cục “bướu quá to” đã làm khổ Dương Nghiễm Mậu, với mặc cảm xấu xa, vì nó mà người yêu từ bỏ, xã hội khinh khi. Nó hiện diện như một hình phạt, dù con người muốn cắt bỏ nó, hoặc tự huỷ mình cho thoát nợ, nhưng vẫn không xong, vì nếu mọi việc ở đời đều có thể giải quyết dễ dàng như vậy thì làm gì còn cuộc sống nữa? Bởi vậy, con người được sinh ra, dưới sự an bài nào đó, phải chấp nhận đời sống và luật sống là có thực. Y học và văn minh cũng chẳng giúp ích gì được, một khi căn bệnh không nằm trong bệnh lý thông thường, mà nó biến hoá khôn lường giữa tâm linh để tàn phá, để giết dần đời sống, làm lụi tàn hy vọng. Sinh ra và lớn lên trong một xã hội bị phân hoá vì chính trị và đời sống bấp bênh do cuộc chiến tạo nên, mỗi số phận trai trẻ như phập phồng, khắc khoải, chờ đợi một cái gì đó, có thể là những hạt giống tốt, cũng có thể là loài cỏ dại ăn hết chất màu của mảnh vườn mới bón. Từ phẫn uất, Dương Nghiễm Mậu đi vào chán nản khi biết rằng thân phận mình đã bị điểm danh, nghĩa là đã được định đoạt, Mậu không có quyền lựa chọn. Một khi con người không có quyền lựa chọn cho đời mình hướng đi, thì một, phải dứt khoát với nó, hai, phải buông trôi thân phận như dòng nước nhỏ chảy len lách vô tri dưới một khe lạch không tên, cho đến lúc nhạt nhoà tan biến vào đại dương. Dương Nghiễm Mậu, tuy không có quyền chọn lựa hướng đi nhưng cũng chẳng sẵn sàng làm một dòng nước nhỏ, nên chấp nhận sự có mặt của mình trước cuộc sống với một thế đứng riêng biệt. Những năm cô đơn của tuổi trẻ mà Mậu đem theo là nỗi cô đơn bi thảm trước một chứng tích đã có đấy, đã hình thành như thế từ lâu. Mậu không biết dùng phương cách nào để tự an ủi đành mang mình ra trước khoảng trống (cuộc đời) để tự đóng vai trò lừa dối mình, … Khoảng trống bao la ấy đau buốt, nhức nhối trích vào thân thể anh từng giây, từng phút ngột ngạt, tức tưởi lay động choáng váng tim óc. Anh đã đánh lừa và mang em đến với anh. Em đã chịu đựng sự có mặt của anh – nhưng đến bây giờ em còn đủ sức chịu đựng nữa – em lên tiếng, như đám đông lên tiếng cho anh nhận ra anh… (Cũng đành, "Niềm đau nhức của khoảng trống") Sự lên tiếng ở đây là phát biểu thái độ, là ý thức nhập cuộc vì khoảng trống mà Dương Nghiễm Mậu hình dung thấy ở trong tâm tưởng nó như một vực thẳm xa vắng, nó làm Mậu hốt hoảng đến nỗi không còn nhận ra mình. Con người sinh ra dù không được quyền lựa chọn theo ý muốn nhưng ít ra con người cũng phải có thái độ trước thực tại, phải là một cây sậy biết suy tưởng theo Pascal: l’homme n’est qu’un roseau, le plus faible de la nature, mais c’est un roseau pensant. Cái tuổi trẻ Thượng đế đã ban phát cho mỗi con người một thời gian là để thử thách sức chịu đựng của từng số phận. Sự ban phát này không đồng đều, do đấy, nảy sinh ra bất mãn và chống đối. Có những khuôn mặt tuổi trẻ không bao giờ vui tươi, hớn hỏ, ở đó, bao nhiêu băn khoăn, vò xé nội tâm. Dương Nghiễm Mậu thường tìm hình bóng mình qua kẻ khác, cũng như dùng kẻ khác để nói đến mình. Đi từ nỗi bơ vơ này qua bơ vơ khác, đến đâu, ở đâu, cũng chỉ gặp xa lạ ngay với cả tình yêu. Hình ảnh những nhân vật đàn bà trong tác phẩm Dương Nghiễm Mậu lúc nào và bao giờ cũng tạo nên oan trái, phảng phất nỗi u buồn riêng biệt trong một thế giới riêng biệt bao phủ ở mỗi truyện. Từ Hê-Len tới Thuyền, tới Phượng, tới Hạnh rồi Quyên hay bất cứ một cái tên nào khác đều được phác hoạ dưới những nét run rẩy mờ nhạt, cùng với từng niềm đau thương len nhè nhẹ nhưng vô cùng sắc bén vào tâm tư người đọc, … Tôi đã muốn quên Hạnh, như quên thực tế đã phải sống với một mơ hồ êm đềm, nhưng bây giờ Hạnh ở trước mặt. Một Hạnh dở dang buồn bã. Thịnh đã chết ngoài mặt trận. Một Hạnh những kỷ niệm lưu giữ bền chặt. Một Hạnh đáng yêu còn đó. Một Hạnh tan vỡ như thời gian học trò trong thành phố quê hương bốn mùa. Đối diện với Hạnh, ký ức lại trở về với những hình ảnh liên tiếp của một thời, như những toa xe trên chuyến tàu trở lại ngang qua một trạm nhỏ dọc đường… (Sợi tóc tìm thấy, "Đôi mắt chỉ rối", trang 73) Đoạn văn trên có thể thực, có thể do óc sáng tạo của nhà văn nhưng qua đấy, người đọc đoán được những gì Dương Nghiễm Mậu muốn nói. Kỷ niệm nào đó, tại sao lại trở về để ám ảnh tâm hồn, tại sao lại gặp nhau để tạo nên đau khổ? Dự dằn vặt của kỷ niệm hay nỗi băn khoăn thuộc về tiền kiếp với ý thức siêu hình. … Đêm xuống rất khuya. Chúng tôi nằm trên những người đã chết trong nghĩa địa, Long nằm gối đầu vào tay tôi. Thu về cây nhị hổ – những âm thanh ấm ức, tức tưởi, sầu thảm, u uất, nghẹn ngào trườn lên bực dọc quằn quại – và tôi chờn vờn vào một giấc mơ… … "Thưa người là ai?" "Tôi không là ai." "Người từ đâu đến?" "Có can hệ gì đâu?" "Sao người than van sầu thảm làm vậy." "Tôi vốn không ưa tâm sự. Sự than van chẳng cần thiết gì…" "Nhưng tôi có tâm sự phải than van. Muốn có một người ngồi trước mặt mình. Anh ghét tâm sự ắt hẳn người có quá nhiều tâm sự rồi chăng?" "Tôi chẳng có chút gì. Chẳng có gì để nhớ. Có gì để nhớ đâu? " "Người nói dối chăng? Nhưng nếu người sống giữa một khoảng trống không có tâm sự thì người sống làm sao?" … Chúng ta hãy thử nhìn sang bên kia đường. Người có thấy chăng một cậu bé con đang nô đùa bên mẹ nó – cậu bé nhảy và hát. Đôi miệng xinh tươi, triền môi dịu ngọt – đôi mắt ngây thơ của trẻ dại đang nhìn vào cuộc đời mong lớn – cậu bé đang nũng nịu gọi: Mẹ ơi!… Tôi có thấy đứa bé nô đùa bên mẹ nó. Tôi chỉ nhìn thấy một đứa trẻ đi vất vưởng buồn nản, môi thâm bậm chặt để khỏi cất lên tiếng khóc – đôi mắt ngầu đỏ. Nó thấy cuộc đời lớn lên vượt khỏi tầm tay nó. Cậu bé chẳng biết bố mẹ thế nào nên chẳng thể gọi tên để chẳng thấy mình còn được gọi tên. "Trời xanh lắm thấy không anh?" "Trời ngầu đỏ vẩn đục và như giông bão sắp về." "Cây cối xinh tươi làm sao?" "Những cành khô quờ quạng như muôn cánh tay hối lỗi – già nua đầy đau đớn." "Anh hãy nhìn vào vườn hoa đẹp đẽ kia – muôn hoa đua nở, cành lá xanh tươi hương thơm toả ngát. Anh có thấy không một cặp tình nhân cùng nhau tâm sự, mặt nhìn mặt, tay cầm tay, nói với nhau những lời dịu ngọt hứa hẹn một tương lai hạnh phúc sum họp." "Nhưng tôi chỉ thấy kia là một sa mạc bao la gió cát bay mù tàn nhẫn. Ở đó, có một kẻ đang ngồi một mình, nói một mình, nghe một mình và tay mình sờ soạng lấy tay mình. Nhìn vào lòng bàn tay hoài, những ý nghĩ về tương lai." "Này chiếc hoa màu hồng." "Màu tím đó thôi!" "Có nghe chăng tiếng hát?" "Tôi nghe thấy tiếng người rên khóc, tiếng thở dài…" (Sợi tóc tìm thấy, “Trong lòng bàn tay”, trang 73) Lời đối thoại trong một nghĩa trang, giữa con người và hồn ma, để nói với cuộc sống hôm nay. Tiếng thở than sầu muộn của muôn đời gửi từ cõi hư không, ở đấy không còn chi hệ luỵ! Ý nghĩ về cô đơn, bi thảm mà nhà văn đã và đang gánh chịu đâu phải niềm cô đơn tuyệt đối. Nó còn nghe thấy và đón nhận về phần mình những dư âm của tiếng lòng than van, uất nghẹn cảm thông qua hai cõi âm, dương. Quả thực, Dương Nghiễm Mậu đã bị ám ảnh vây hãm trong quá nhiều ý nghĩ đau buồn xuyên qua lời đối thoại. Cái tâm sự bi quan, đầy rẫy phẫn uất nó chứa đựng và tích luỹ tự đáy lòng chờ dịp phát ra những âm thanh chua chát não nề với hình ảnh đứa trẻ mồ côi, với cảnh vật không còn màu xanh, cuộc đời biến thành sa mạc và màu hoa – vườn đời – biến thành màu tím tang tóc! Còn gì nữa không? Còn chứ! Còn tuổi trẻ bơ vơ, còn nhiều tình phụ bạc, còn thân phận tôi đòi, còn tiếng khóc thay cho nụ cười, còn tù tội và còn đam mê trong thất vọng. … Quyên ơi! Anh tự cho rằng anh không hề có tội lỗi, chưa quỳ dưới chân ai một lần. Cửa vào địa ngục không biết, đường lên thiên đường không hay. Em hãy cho anh tội lỗi để đôi mắt được mù loà. Vì anh yêu em nên không thể tự tay chọc thủng đôi mắt mà Chúa đã ban cho – như thế anh không phải nhìn vào lòng bàn tay… (Sợi tóc tìm thấy, “Đôi mắt chỉ rối”, trang 123) Cái quan niệm bi đát và thái độ sống của Dương Nghiễm Mậu vào giai đoạn 1960-1961-1962, ít nhiều gì cũng chịu ảnh hưởng của thời cuộc và những tư tưởng vay mượn của Tây phương với Sartre và Camus, tuy hai nhà văn kiêm triết gia này chẳng những đối nghịch về đời sống và cũng dị biệt nhau về quan điểm triết học, nhưng cả hai cùng gây ảnh hưởng sâu đậm trong tâm thức các nhà văn trẻ lúc đó. Con người sinh ra đời không có quyền chọn lựa cả cái sống lấn cái chết, và cái xã hội đang vây quanh mỗi thân phận cũng chả có phương thế gì giúp cho con người tìm thấy hạnh phúc. Thiên nhiên là một sự kiện ngoại giới, nó chẳng cứu rỗi được ai vượt qua khốn khó. Nó có đấy như một điểm trang vô ích, trong lúc con người cần tới sự cảm thông thiết thực hơn. Do đó, trong tác phẩm La Nausée của Sartre, nhân vật Roquentin mới có ý tưởng bi phẫn cho rằng: chúng ta ai cũng như ai không có lý gì đáng sinh ra cả… vì tất cả những gì hiện hữu đều có mặt một cách vô lý, kéo dài bở hèn yếu rồi chết ngẫu nhiên!… Dương Nghiễm Mậu không hoàn toàn du đời mình vào những ý nghĩ u tối, nhưng người đọc cũng thoáng thấy niềm bâng khuâng và chả mấy tin tưởng vào tương lai, tin vào cái ý hướng tốt đẹp nào đó để níu lấy chút hy vọng mong manh cho những ngày bắt buộc có mặt. Cái đau nhất của Dương Nghiễm Mậu là phải tiếp thu những gì mình không thích, không muốn mà nó cứ đến, đến thản nhiên như sáng, trưa, chiều, tối với những nhu cầu thường nhật. Sự kiện ấy được phơi bày thật rõ trong tác phẩm Đêm tóc rối (1965). Cái tuổi trẻ hư không với những ý nghĩ và hành động phần nào do vô thức khích động rồi đẩy nhà văn vào ngõ cụt, do đó, sự nghĩ và viết ra chỉ nhằm mục đích chứng minh cái “đột biến” của những năm tháng rã rời đã ăn sâu vào trí não nhà văn. Sự hưởng thụ khoái lạc mà A. Gide từng khuyến khích tuổi trẻ phải sống theo ý mình, tìm về cho mình lạc thú mà Thượng đế đã ban phát cho mỗi số phận trong cuốn Les Nourritures Terrestres, nó chỉ có giá trị đối với các thanh niên Tây phương, nơi mà chiến tranh và nghèo khổ không đầy đoạ con người một cách thê thảm, nơi mà nền văn minh cơ khí đã giúp cho con người các tiện nghi vật chất, nơi mà không khí tự do được phát triển cùng độ, nơi mà tư tưởng được hãnh tiến trong mọi suy nghĩ về kiếp sống. Còn hoàn cảnh chúng ta, hoàn cảnh của những trẻ tuổi lớn lên trong tiếng súng căm thù liên tục, được nuôi dưỡng bằng phẫn nộ thay cho miếng cơm manh áo và tình thương. Cái ý thức mà Dương Nghiễm Mậu ấp ủ để làm vốn cho mình không nằm trong khuôn thức thoải mái, hiển nhiên nó khơi động tự đáy lòng từng nỗi vò xé đau thương. Hình ảnh Dương Nghiễm Mậu, hay Lễ, nhà giáo trẻ hào hoa trong tác phẩm Đêm tóc rối chỉ là biểu tượng, để nhà văn gửi vào đấy những gì cần phải tỏ bày. Nội dung Đêm tóc rối được hình thành quà một cốt truyện khá giản dị: Lễ, nhà giáo trẻ, ở trọ nhà mụ Liên chồng mụ đi làm xa. Do đó, xảy ra sự liên hệ xác thịt giữa Lễ và mụ. Lễ không thương yêu gì mụ Liên, chỉ coi như một giống cái để giải quyết sinh lý. Lễ yêu Quyên nhưng Quyên lại lấy Khánh, bạn Lễ. Một trận đòn ghen xảy ra khi ông Tiến trở về nhà, vì hàng xóm nói lại chuyện vợ ông với Lễ. Mối tình đẹp mong manh của Phượng – Lễ cũng tan vào hư không vì cái chết bi thảm của nàng dưới đáy giếng. Rồi mọi sự hoà loãng và cuộc sống… Những khuôn mặt Thục, Khang, Trinh và vóc dáng mụ Liên – con đĩ già có chồng còn dâm đãng, được đề cập tới ở những trang đầu cuốn sách chỉ là hình thức khích động. Cái sự thực Dương Nghiễm Mậu cần nói ra nó nằm ở chỗ khác. Thân phận tuổi trẻ nhiều khi không tuỳ thuộc vào ý muốn, hình như nó được an bài ở chỗ nào khuất nẻo lắm. Một chút hạnh phúc thơ ngây, một bàn tay bé nhỏ, một môi hôn ngỡ ngàng, một lời nói vụng dại của tuổi hồng mà nhà văn tìm kiếm, nhưng uổng thay, không gặp. Cả cuộc đời này nữa, tại sao ô uế quá vậy trong mỗi suy nghĩ, trong mỗi đam mê? Cuộc đời – xuyên qua mụ Liên dâm đãng đã bị Dương Nghiễm Mậu đồng hoá với xã hội, tạo nên nhức nhối, … Nghe tiếng động ở dưới nhà mụ Liên trườn ra ngó đầu xuống, chiếc mông trần mập đen nhô lên. Tôi đứng dậy vươn vai, buổi chiều đã xuống nhọ mặt người, đèn đường đã bật. Tiếng hát cải lương vang lên từ một nhà ở phía bên kia đường. Tôi thấy đắng miệng. Tiếng mụ Liên: “Có gì lục đục ở dưới bếp.” Tôi tiến lại giẫm chân lên mông mụ nhún nhún, ngó đầu xuống chân thang tối đen. Mụ Liên trở mình nằm ngửa nhìn lên, hai tai dang rộng như một kẻ bị căng ra. Sao tôi không là thằng Tây đen rạch mặt. Tôi rùng mình kinh tởm quay đi. Tiếng mụ Liên phía sau: “Anh khinh tôi lắm phải không?” Tôi đi đến bên chỗ bật đèn, đưa tay lên vặn, ngọn đèn sáng chói. Tôi vội tắt đi. Người đàn bà lẩn vào sàn gỗ. Sao ông Tiến (chồng mụ Liên) không về. Lúc này ông ở đâu. Nhớ tới Khang, tôi có ý muốn thăm Thục. Tiếng mụ Liên: “Anh muốn bỏ tôi rồi phải không? Tôi biết anh đang mơ mộng một con nhỏ nào đó.” “Thôi im đi.“ Tôi quát lớn rồi bật đèn sáng. Mụ Liên trở dậy đi xuống thang, tới mấy bậc mụ đứng lại, giấu người phía dưới, nhô đầu, mặt cong cớn: "Mơ mộng, mơ mộng, đứa nào chả thế, bọn họ khác gì tôi. Có điều bọn nó không để anh dùng như một khúc gỗ, bọn nó có điều kiện để dùng lại anh cùng với những đứa khác. Anh biết không?" "Câm đi, câm đi." "Anh sợ người ta nói sự thực ra, tôi không sợ, tôi không câm. Anh tưởng tôi không biết anh nằm với đứa nào sao. Nhưng anh chỉ làm cho nó hư hỏng và đẩy nó đi lấy thằng khác. Anh tưởng tôi yêu quý anh lắm hả… còn lâu… Tôi có chồng có con." Tôi cáu giận đá chiếc ghế đẩu về phía mụ Liên, mụ thụt đầu xuống rồi lại ngó lên: "Anh can đảm giết tôi đi coi. Anh là một thằng hèn. Mụ Liên thụt đầu đi xuống, mụ bật đèn sáng và đi vào nhà tắm. Căn nhà trông trải và rỗng không tôi ra lan can đứng nhìn xuống mặt đường. Mụ Liên tắm xong trở lên mặc quần áo rồi đi về. Tôi ngồi lặng lẽ trong bóng tôi nghe tiếng muỗi kêu. Tôi nhớ tới khuôn mặt êm mát của Phượng, căn nhà trong buổi sớm mai…" (Đêm tóc rối, trang 35-36) Sự lang chạ bất đắc dĩ này đã tạo nên thế đứng chênh vênh trong nội tâm nhà văn. Cuộc đời như vậy đó. Nó có đấy, mãi mãi còn đấy với những ung độc làm băng hoại tuổi trẻ. Dương Nghiễm Mậu như bị ném vào đấu trường, ở đó, toàn là thù hằn, oán hận. Con người phải chọn lựa vũ khí để tranh đấu, sinh tồn. Vóc dáng Quyên và hạnh phúc của nàng như một thách đố. Chưa giao đấu đã cảm thấy thua, trong lòng nổi hằn những vết roi rướm máu, nhà văn đành phải lừa dối mình bằng cách tự trừng phạt, tự phác hoạ trong ý nghĩ những hành động gớm ghiếc, dữ dằn của ông Tiến chồng mụ Liên, với vô vàn hoảng hốt, nhưng sự thực ông chồng bị cắm sừng chưa biết, vẫn yêu vợ, thương con. Bởi vậy, hình ảnh ông Tiến – hình phạt – luôn luôn ám ảnh Lễ – tuổi trẻ – như một số kiếp phụ thuộc, … Tôi nằm im lặng tủi thân. Tôi nghĩ đến căn gác trống không, đến vẻ bình thường vui tươi của mụ Liên bên người chồng, cùng một lúc người đàn bà vẫn yêu chồng và vẫn ngoại tình trong đời sống bình thường của họ. Có nghĩa gì một cuộc dạo chơi, một cái hôn kéo dài trong đêm hay một lần ân ái say đắm. Mỗi kẻ chia mình ra, phân mình ra. Mỗi kẻ những bí ấn tràn lan chi phối ngay trong tiềm thức và sự mù tối của trí tuệ mà hoàn cảnh mỗi giây phút có thể thay đổi xoay chiều. Giờ này mụ Liên cũng đang làm những cử chỉ âu yếm những hành động yêu đương với ông Tiến, như mụ đã âu yếm yêu đương tôi. Lúc nào là thực con người mụ, lúc nào là con người khác. Bây giờ tôi cũng có thể nằm đây nghe mình rời rã, cũng có thể tôi nằm với một người khác, nhưng tôi vẫn tỉnh táo riêng rẻ, cô đơn chừng như chẳng can dự đến vật gì… (Đêm tóc rối) Cái cuộc sống thực mà nhà văn mơ tưởng đến, nó ẩn nấp mơ hồ với mụ Liên trong khoảnh khắc phù du, hoặc Quyên, hoặc Phượng. Từng vóc dáng như hoà trộn thành chất đặc biệt dính chặt vào ý nghĩ nhà văn nên sự nói tới một sự kiện nào đó, đều ẩn nấp bên trong niềm giận dỗi xen lẫn tiếc thương. Nó là trái đào chín mơn mởn trong khu vườn yên tĩnh của Phương, trông thấy mà không ai hái cho ăn. Nó là trái bóng đỏ bơm hơi khinh khí bay lang thang trên nền mây trắng đục. Nó là chiếc xe lăn có Phượng tàn tật ngồi trong đó với ước mơ im tiếng. Nó là Quyên với nụ cười hồn nhiên nhưng kiêu kỳ ranh mãnh. Có thể nó là nỗi thống khổ của thân phận con người sinh nhầm thế hệ với oan trái ẩn khuất không tên gọi và sự hối tiếc ngày tháng trôi đi mà định mệnh vẫn bắt buộc phải chung sống, phải nhìn nhau, phải nói năng, phải thân mật với những người mình chán ngấy, hoặc ngượng ngùng vì tội lỗi đã gieo mầm, … Khuôn mặt ông Tiến có vẻ gì như khác lạ, mùi rượu nồng nặc toát ra từ người ông. Da mặt ông đỏ tía bị làm xám đi, đôi mắt trợn trừng. Tôi lúng túng chưa biết trả lời sao thì ông Tiến đã nói: “Cậu ở nhà với vợ tôi, câu có biết con mụ đó nó lang chạ, lừa dối tôi không?” Tôi rủn người toát mồ hôi: “Sao? Ông nói sao?” Ông Tiến lùi xa một chút, quay người rồi trở lại sát mặt tôi, chiếc áo xám đứt mất một chiếc khuy ở ngực hở ra một ít da màu đỏ, ông ta khoanh tay lên ngực: “Tại sao cậu không ở lại với chúng tôi nữa?” Tôi lấy lại bình tĩnh mỉm cười: “Tôi cũng định nói với ông bà, nhưng sáng nay thức dậy thì ông bà đã đi khỏi, mà tôi thấy cần phải đi ngay… tôi cũng muốn ở lại nhưng vì nay tôi có nhiều giờ dạy.” Tôi lấy bao thuốc cầm một điếu và đưa mời ông Tiến, ông ta gạt đi. Tôi đang nói dối, tôi đang lừa gạt. “Sao cậu chưa đi?” “Vì tôi vừa gặp một người bạn giữ lại một ngày nữa.” “Vậy cậu biết con vợ tôi nó mèo mỡ với ai không?” Tôi muốn nói! Chính tôi đây, tôi mỉm cười làm bộ dịu dàng: “Ông ghen rồi, ai bảo với ông vậy?” “Cả xóm người ta nói cho tôi biết. Tôi muốn mổ bụng bọn nó. Con đĩ già khốn nạn, tôi đi làm để nuôi nó làm đĩ không công.” “Sao ông không bảo họ nói thẳng xem ai. Tôi đi cả tuần mới về một chút rồi lại đi lăng nhăng. Tôi nghĩ bà nhà đứng đắn lắm…” “Láo, láo…” Bất ngờ ông Tiến thoi vào mặt tôi một đấm, tôi đau điếng liệng người đi. “Chính mày, thằng đĩ đực…” Liên tiếp ông Tiến đấm tôi thêm một cái nữa và đá tôi chúi xuống chân tường rồi xông tới nắm lấy ngực tôi chỉ vào mặt: “Tao tha chết cho, tao giao con đĩ rạc lại cho mày, về mà sống với nhau. Mai tao đi rồi…” (Đêm tóc rối, trang 127-128) Đến bây giờ, chiếc “nút” thứ nhất mới được mở để người đọc hé nhìn thấy một thoáng cuộc đời với đoạn văn vô cùng linh động, vô cùng đau đớn, căhngr phải do những cú đấm ghen tuông của ông Tiến gửi vào mặt Lễ, nhà giáo, mà hiển nhiên phơi bày một sự thực phũ phàng có thể là đích danh, có thể là nguỵ tạo để dùng nó như một hành động phản kháng của tuổi trẻ đối với những nghịch cảnh tần gian. Cái trần gian mơ tưởng nó hình thành trong tâm trí Dương Nghiễm Mậu không phải là gượng ép hay sự thoả mãn dễ dãi, rẻ tiền xuyên qua mụ Liên, mà nó phải được hình thành với những chất liệu thật trong sáng, thật rực rỡ, thật lý tưởng dù cho có là ảo tưởng đi nữa. Do đó, sự giằng co giữa thực và mộng, giữa xấu và tốt, giữa quá khứ và tương lai vẫn chưa được nhận diện. Những ngày tháng cũ nằm sâu dưới đáy tiềm thức cùng những tử thi ngổn ngang chỉ chờ đợi thức dậy và sống, sống đau xót với thực tế rồi trống rỗng. Từng ý nghĩ mệt mỏi, rã rời, từng hình ảnh u uất bủa vây xung quanh một thân phận luôn luôn khao khát tuyệt đối, muốn tìm về cho mình, cho riêng mình một giọt sương đêm tinh khiết, một thoáng hương êm ngát, một nụ cười hiền hậu và một linh hồn còn trong sáng đi vào tình yêu với mắt nhìn không e sợ tương lai. Cái hình phạt nào đó đang ẩn nấp trong lương tâm nhà văn, không mang ý nghĩa thông thường của cá nhân và kẻ khác, đúng ra, nó là lương tâm xã hội, nó là một dòng sống như vậy, như thế, đang lùa mỗi số phận đi vào luồng nước lũ, đi vào guồng máy của tập thể. Sự trốn tránh thực tại của Lễ trong Đêm tóc rối, chỉ là hành động của con đà điểu mỗi lần gặp nguy khốin, chứ không chứng minh được cái ý nghĩa chính va đúng của con người trước đồng loại. Một cái chết thê thảm của Phương, một hình ảnh Khánh ngồi tù, một kỷ niệm phảng phất trong mõi mông lung của trí nhớ và chiến tranh còn đó với những cơn đau đứt nuối, với tang tóc vây lút cuộc sống và những giá trị linh thiêng đã ngã xuống. Thực vô lý và kỳ cục! Nhưng có ai dám nói khác đấy không phải là cuộc sống đích danh mà mỗi số phận đang sống ửo mỗi vị trí dành riêng cho mình với những phản ứng cá biệt, kể cả ông Lịch – người nghiện hút – nếu có làm mật vụ thật chăng nữa, cũng do hoàn cảnh và cuộc sống đẩy đưa, ta không thể căn cứ vào dữ kiện bên ngoài mà võ đoán xấu, tốt theo ý Dương Nghiễm Mậu. Nhưng dù cuộc đời có xô đẩy mỗi cá nhân vào trường hợp nào, vào mâu thuẫn nào đi nữa thì bản chất con người vốn luôn luôn hướng thiện, vẫn muốn làm-một-cái-gì để khỏi hổ thẹn với lương tâm, dù cho sự muốn làm gì chỉ được nuôi dưỡng trong ý nghĩ. Cái đời sống giả tạo, đầy bất trắc này, mỗi con người đều muốn bứt đi, muốn vượt khỏi, để ném mình vào đời sống khác, nhưng rốt cuộc ở đâu cũng vậy, bản chất của đời sống vẫn do con người định đoạt và chi phối, vì thế, chẳng bao giờ cá nhân tìm được cho riêng mình cuộc sống lý tưởng ngay cả tình yêu mà tuổi trẻ đã luôn luôn gìn giữ như một thiêng liêng. … Tai nạn nào đã đến trong những ngày chiến tranh đó, một trái bom rớt xuống, một trái lựu đạn nổ, một mảnh mortier, một tràn đum đum, một bánh xe cán ngang, một lưỡi dao chặt xuống, một căn nhà sập đổ… Bất cứ một tai nạn bình thường nào đó của chiến tranh, Phượng đã khóc. Phượng đã buồn tủi…Và Phượng chết vì sợ tôi nói: Anh yêu em, để rồi quay đi khi hai bàn chân không còn. Tôi đã phụ lực với chiến tranh, tai nạn nào đó chôn Phượng trong lòng đất với tiếng khóc của bà mẹ. Tình yêu của Quyên mang đến tàn tật, hư nát trong thân thể tôi. Cơn lốc phản bội, phụ bạc, lật lọng xoáy ngã tôi xuống những buông trôi trong khí hậu độc dược. Tình yêu của tôi không đủ sức mạnh, phép màu để đôi chân Phượng mọc ra cho Phượng bước đi bên tôi. Tại sao thế. Mọi người được sống, được hạnh phúc ra sao… (Đêm tóc rối, trang 211) Chiến tranh, một ám ảnh đối với mỗi tuổi trẻ, vì nó, không ai dám mơ ước tương lai, ngay cả cuộc tìm kiếm số phận cũng mất biến vào vô tận, vào cõi hư không. Khuôn mặt của Quyên, tượng trưng cho thất vọng tận cùng, vóc dáng mụ Liên, với đam mê xác thịt trong tội lỗi và cái bào thai là kết quả sau những giờ phút buông trôi đã chết, đã tan vào cát bụi từ khi chưa được thành người. Khuôn mặt Phượng đã khuất chìm trong tiếng khóc của bà mẹ, khuôn mặt bạn bè nhão nhoẹt và quả bóng đỏ đã bay lên quá cao rồi vỡ! Tất cả còn gì đâu, kể cả dòng suối tinh khiết thuở ấu thơ cũng đã cạn nguồn. Tác phẩm Đêm tóc rối đã để lại trong lòng người đọc những chiếc hố. Trong mỗi chiếc hố, nhà văn đã cố tình chứa đựng những chất khác nhau. Người đọc có thể tuỳ theo cảm quan để nhận diện mình, nhận diện tuổi trẻ và cuộc đời qua một, hay tất cả những chiếc hố đã phản ánh một phần nào cái ý thức lưu đày trong tâm tư những người làm văn nghệ trẻ hôm nay. Sau Đêm tóc rối, Dương Nghiễm Mậu hiện diện ở tác phẩm Tuổi nước độc bằng một thế đứng khác, thế đứng của những người trai trẻ sống trong lòng thành phố Hà Nội “tạm chiếm” vào những năm kháng chiến chống Pháp. Cái không khí nghẹn ngào tức thở của một số người quá trẻ, vì lý do này hay lý do khác phải sống chung với quân thù trong những cây số vuông thành phố, khi đó ở ngoài kia là mông mênh, là tự do bay nhảy, là chính nghĩa. Hình ảnh những người trở về thành khi ấy, dù là người thân đi nữa, ít nhiều gì cũng được đánh giá bằng nghi ngờ và cho rằng hèn nhát, sợ gian khổ, đầu hàng giặc. Những chàng choai choai, mới được 15, 16 tuổi đời, nói cho đúng, họ chưa có một chút ý thức gì về chính trị và hoàn cảnh đặc biệt của nước Việt Nam lúc đó. Họ đi hay ở lại thành phố, đều theo quyết định của người lớn, do vậy, họ luôn luôn tin tưởng vào phán đoán của họ, và nghĩ rằng sự có mặt của họ trong thành phố Pháp chiếm đóng, lỗi không ở họ. Những cảnh ô nhục của vùng tạm chiếm làm họ tức tối, căm hận, … Chúng tôi theo Hùng đi sang phía đồn đóng ở trên đê đối diện với quận. Chúng tôi men theo con đường nhỏ dưới chân đê. Suốt dọc theo hai bên lối đi hàng rào dây thép gai và cỏ dại mọc đầy. Những lính Tây rạch mặt đen như cột nhà cháy vác súng đi đi lại lại phía trong và trên những chòi cao có đèn pha, những họng súng ngó xuống. Tôi có cảm tưởng đang ở một vùng trận địa nguy hiểm mà trận ác chiến có thể xảy ra bất cứ giờ phút nào… (Tuổi nước độc, trang 43) Hình ảnh trên kèm theo những vụ bắt bớ, đánh đập dã man và khám xét bất ngờ làm con người đã tủi nhục càng tủi nhục hơn, đã chống đối càng chống đối mạnh hơ. Những chàng trai tuy chưa thoát khỏi ghế trung học, nhưng trong lòng đã chán ngấy sách vở chỉ muốn xông vào cuộc đời để hành động vì tự ái nhiều hơn lý tưởng, … Những ngày tháng thảng thốt vây lấy tôi trong trống không vô nghĩa. Tôi lang thang ở ngoài đường nhiều hơn thời gian ở trong nhà, sách vở không còn làm tôi say mê, tôi không có vui chơi để khuây khoả, tất cả mọi điều thành dửng dưng buồn tẻ… Một ngày xuống Trương, chúng tôi đi ăn thịt chó, tôi uống rượu say, sức rượu của tôi không bao nhiêu, trong đêm khi trở về nhà tôi thấy chân tay tôi biến mất, trước mắt thì vô vàn những ánh sao đủ màu nhảy múa, thân thể tôi có lúc bay nhảy trong khoảng không. Tôi không hiểu sao tôi có thể mang được mình về và nhận ra cầu xe lửa, tôi mệt lả và muốn khuya xuống, tôi bám vào thành cầu đá mà bước. Tôi chợt thấy hai bóng trắng lung linh trước mắt, tới gần tôi nhận ra hai thân thể ôm sát lấy nhau dưới gậm cầu. Khối trăng di động lập lờ, tôi dụi mắt và nhìn thấy cái đầu tóc uốn quăn bù xù, sao trông có vẻ quen thuộc, tôi trấn tĩnh một chút, phải rồi, tôi nhủ thầm, đúng là bé Tàu lai, tôi chạy về lao lên gác, mở ngăn kéo tìm con dao nhíp, mở lưỡi dao lớn rồi chạy xuống trở lại chỗ cũ, tôi tỉnh táo một cách thái quá… Tôi cầm chắc con dao trong tay, tiến đến từ từ, hai bóng trắng vẫn còn cựa quậy như hai con rắn. Tôi tiến lên, túm lấy tóc thằng đàn ông phía ngoài, dí mũi dao vào khoảng lưng trần, tôi nhận thấy mình nó oằn lên. Tôi nói chắc giọng: Muốn sống đi ngay. Hắn luống cuống run rẩy buông đứa con gái ra, hắn lom khom nhặt quần áo rồi ù té chạy, đứa con gái cuống quýt chưa biết làm gì thì tôi ôm thốc lấy và đè vào thành cầu, nó kháng cự một cách yếu ớt, tôi thấy nóng như than và đứa con gái mát lạnh, tôi sờ soạng lên khắp thân thể nó và ép nó cứng vào cầu. Tôi nghĩ đến bộ ngực con bé Tàu lai thì đưa tay lên, tôi bắt gặp… Tôi hoảng hốt buông tay ra, lùi lại nhìn vào mặt đứa con gái, trong bóng tối lờ mờ, tôi nhận ra đó là một con đĩ già ở đầu cầu tôi quen mặt… (Tuổi nước độc, trang 59-60) Đó, cái tâm trạng trên đây phản ánh một phần tâm trạng của lớp người trẻ tuổi sống trong vòng đai Hà Nội trong khoảng thời gian mấy năm tạm chiếm. Rong chơi, rượu và đàn bà những vị thuốc giúp họ quên thực tế. Họ hành động theo bản năng, có ngoại cảnh hỗ trợ. Đôi khi họ cũng tranh luận về thái độ sống, nhưng chỉ dùng như một thứ nguỵ trang để lương tâm được yên ổn sau mỗi lần phạm lỗi lầm – cho tới một ngày, họ đã hé mở nhìn ra sự thật qua cái chết của cha Trương bị du kích xã băn chết vì ông cụ không còn tiền để ủng hộ. Thu, em Trương nhất định đăng lính dù để trả thù cho cha, trong khi Trương chưa dứt khoát nên vì tình phụ tử hay vì kháng chiến? Rồi đến những giọt nước mắt của mẹ già khóc đứa con bị công an bắt vì nghi ngờ có liên lạc với “ngoài”. Những mâu thuẫn và giằng co dồn dập đến trong kích thước trong thành phố Hà Nội, giữa lòng mỗi con người an phận hay chống đối làm tan hoàng cả một nếp sống. Trong Tuổi nước độc, Dương Nghiễm Mậu đã dùng lý trí để mổ xẻ và trình bày những uẩn khúc của tâm lý tuổi trẻ trước những nghịch cảnh do chiến tranh tạo nên. Bút pháp có lúc sôi nổi, có khi lạnh lùng nhằm mục đích đưa người đọc vào không khí của truyện. Nhưng đôi khi vì quá say mê và cũng muốn gây cảm giác “cao độ”, nên một vài sự kiện được trình bày trở thành “quá độ” làm cho nguồn bi thương của tấn thảm kịch mất đi sự chân thành, tự nhiên của nó. Những trang độc thoại nặng nề, chứa đựng nỗi dày vò tâm cảm không thoát khỏi vòng luẩn quẩn. Hình ảnh chiến tranh với những nạn nhân, những căn phòng lạnh lẽo của bệnh viện, những kẻ tàn tật kéo lê kiếp sống một cách nặng nhọc, hình ảnh tu viện nào đấy, tượng trưng tình thương và mặc cảm sát nhân của Ngạc – nhân vật xưng tôi trong tác phẩm – đã chẳng gây nên tác động sâu đậm vào trong ý thức thưởng ngoạn, cũng như sự phản bội qua khuôn mặt Lâm, với những kinh nghiệm đắng cay của bạn bè vọng kháng chiến v.v… Nhưng sau cùng, tất cả được mở ra một cách gượng ép với một người tình – người chị họ – cùng một mầm sống đang thành hình do tội lỗi và tình yêu!… Cái kết này đối với xã hội Việt Nam, đối với nền luân lý phương Đông, sự thực không ổn. Nó chứa chấp từng cơn thảgn thốt, từng niềm băn khoăn thác loạn. Đã đành, trong cuộc sống, có thể xảy ra những thảm kịch gia đình khắc nghiệt như thê hay hơn thế, nhưng nó không phải là mẫu số chung của toàn bộ nếp sống Việt Nam, nên sự hình thành của một bi kịch nào đó cũng chỉ là ngoại lệ. Đồng ý rằng, nhà văn có quyền tuyệt đối trong sáng tác, và cũng chính nhà văn chịu hoàn toàn trách nhiệm về uy quyền của mình, nhưng ít nhất, khi đặt vấn đề trước xã hội, nhà văn cũng đừng quên, sự quan trọng không phải do tác phẩm hay nhà văn, mà chính cuộc sống với những liên hệ mỗi số phận về tinh thần cũng như vật chất, đã buộc con người chịu trách nhiệm chung trong mọi tư tưởng và hành động. Do đó, khi phân tích cảm giác “phi lý” về cuộc đời, Camus cho rằng: chống đối không phải là tuyệt đối phủ nhận cuộc sống vì ở đời hai mối thiện ác vấn vít nhau, trong thiện có ác, trong ác có thiện, vậy chỉ có thiện ác tương đối. Bởi thế, dù ở trường hợp nào, sự mất thăng bằng cũng làm hại không ít đến tác phẩm, nhất là ở Tuổi nước độc với hoàn cảnh xã hội Hà Nội trong những năm 1947-1954. Người đọc tin rằng, Dương Nghiễm Mậu đã phán đoán và nhận xét nó qua lăng kính của trí tuệ một nhà văn khi viết tác phẩm này, mới ngoài hai mươi tuổi đời, do đấy, sự vội vã, không sát thực tế, và chủ quan, tất nhiên khó tránh được. Nhưng có điều cần phải nói, Dương Nghiễm Mậu hành văn rất lưu loát và không thiếu nhiệt thành trong mỗi vấn đề đặt ra trước lương tâm người cầm bút, vì nói đến quá khứ cũng để xác định thái độ trước cuộc sống hôm nay vậy. Vì có mặc cảm cô đơn trước xã hội không thuộc về mình, nên lúc nào và bất cứ ở đâu, nếu tìm được môi trường vừa đủ là Dương Nghiễm Mậu dấn thân. Nhưng sự dấn thân nào cũng chỉ đưa đến thất vọng vì lý tưởng và thực tế là hai con đường chạy song song được cách ngăn bởi một vực thẳm. Hoàn cảnh Việt Nam vào những năm 1962-1963 thật ngột ngạt. Những trái bom ném xuống dinh Độc Lập báo động một cái gì sắp xảy ra cho nền Đệ I Cộng hoà và cũng từ đấy, từng luồng gió chống đối ngấm ngầm thổi đi do những tấm lòng bất mãn với chế độ lúc đó. Bánh xe lịch sử bắt đầu chuyển động từ từ rồi thăng tiến lần lần cho đến ngày 1/11/1963, vòng quay cuối cùng đã nghiến nát một chế độ sau 9 năm hiển hách. Dương Nghiễm Mậu – người chứng cô đơn – đã viết ra để nói lên một phần cái động lực chính của lớp người trẻ tuổi đã tham gia hăng hái vào cuộc cách mạng cùng Phật giáo và quân đội với kết quả của nó. Nhà văn trình bày trước người đọc những mẫu nhân vật, tượng trưng cho vài thành phần của xã hội, vì lý do này hay lý do khác đã dám chống đối để ở tù, hoặc bất mãn chung thân, hoặc muốn an phận để thụ hưởng những gì do cuộc sống và chế độ đãi ngộ. Khuôn mặt Thạch, một thanh niên tham gia cách mạng vì lý tưởng cao đẹp, muốn cải tạo cuộc sống bằng hành động tích cực, phải trả giá bằng tù tội. Nhưng sau khi cách mạng thành công cuộc sống Thạch mơ ước với sự thay đổi để tiến hoá, nó vẫn y nguyên nếp cũ. … Một lần Thạch hỏi: “Sau đảo chính chắc có thay đổi, người mới, người cũ.” Đang ngồi, Thuần giơ cả hai tay lên: “Thay đổi cái gì, họ là công chức mà!” “ Là công chức là không có gì thay đổi?” “Thay đổi, cậu cứ nghĩ là thay đổi sao, họ là công chức thì vẫn là công chức chớ. Hồi Tây họ làm công chức, thì thời Bảo Đại họ cũng làm công chức, thời ông Diệm cũng vậy, bây giờ ông Diệm chết rồi thì họ vẫn là công chức…” (Phấn đấu, trang 20) Thật ngao ngán và bi đát – qua lời phát biểu trên – cho những ai hy vọng nhiều về cách mạng! Hoàn cảnh chẳng phải chỉ có thế. Nó còn vùi dập theo bao nhiêu số mệnh khác và làm thui chột từng nguồn hy vọng vừa được nhen nhúm trong tâm tư những người yêu nước. Hình ảnh Sương, người con gái đã hy sinh theo tiếng gọi tranh đấu để xây dựng lại một xã hội quá mục nát vì “độc tài” và “gia đình trị” này. Nàng đã chống lại tất cả, quyết sống chết với Cách mạng, để rồi bị hãm hiếp trong tù đến mang thai. Cái bi kịch, nhà văn tạo ra trong tác phẩm không phải chuyện ngẫu nhiên, đích thực, nó là những dữ kiện lịch sử, nhà văn chỉ ghi nhận rồi tiểu thuyết hoá nó một phần để gây xúc động. Lời răn dạy đầy phẫn uất của người bố, đã phản ánh trung thực tâm lý của một hạng người cầu an, tự phụ, … Mày tranh đấu cho ai, cho cách mạng, cho Phật giáo, cho dân tộc, thật là đẹp đẽ huy hoàng, nhưng ai chịu mang cái bào thai cho mày, ai chịu đánh đập, tù tội cho mày, rồi ai sẽ cưới mày làm vợ, ai nuôi con mày… Còn tao, thì tao vẫn là giáo sư, không cần tao được ư? Còn lâu con ơi? Vì tao có bằng cấp, thiếu những người như tao ai lên tiếng ủng hộ, ký kiến nghị và dạy cho bọn bay… Chúng mày muốn là anh hùng thì cho chúng mày chết, tao bảo không nghe đừng trách nữa, các con ạ, các con nên biết như thế… (Phấn đấu, trang 29) Lời nói đó đối với tuổi trẻ, không phải là bài học khôn do người lớn dạy bảo, nó là điều sỉ nhục, nhưng ác hại thay lại hợp lý! Vì mọi giá trị đã sụp đổ trong một tổ chức quá cũ, trong một xã hội không tiến bộ, việc đi tìm căn bản mới, giá trị mới, có thể còn là sự viển vông trong một giai đoạn dài nữa. Những dòng của Vĩnh – một quân nhân trẻ – viết trong tù, đã chứng minh đầy đủ những gì cần phải bày tỏ trước công luận về ý thức cách mạng và hoàn cảnh cách mạng tại miền Nam trong năm 1963 và tiếp nối, … Nhớ nhà, nhớ bạn… nằm đây tự giết mình dần dần. Cái chết của Trung: đóng trong một đồn biên giới nhận tiếp tế từ máy bay, ba tháng liền không ai rời khỏi tay súng, những lá thư của Trung còn đó, nhưng Trung không còn nữa. Đồn đã bị vây khốn. Trung chết trong đồn, quân tiếp viện lên tới nơi chỉ còn để đưa Trung về trong quan tài im lặng. Những tiếng khóc. Trung ơi! Mười mấy cái huyệt đào sẵn trong nghĩa trang, mỗi lúc đều có người chết, người hấp hối. Anh em mình đang chết dần, chết dần. Mỗi người còn sống đều có những cái tang trong chiến tranh chua xót. Mỗi người đều có thể chết bất cứ lúc nào. Chết cho cái gì? Đánh cộng sản giữ nước. Nhưng nước ấy cho ai, cho anh em ông Diệm an hưởng ư, cho một xã hội thối nát, xôi thịt, cho bọn buôn bạc giả dư tiền, dư địa vị sống sung sướng trên xương máu những chiến sĩ ngoài mặt trận ư? Trung ơi! Trung ơi! Chúng ta chết như nhau, sẽ chết hư… sẽ chết không nhắm mắt được, mãi mãi… (Phấn đấu, trang 51-52) Đây là lời trối trăn cuối cùng của một chiến sĩ đã nhìn rõ cuộc đời? Đây là tiếng ai oán, phẫn uất của một tấm lòng quá yêu nước Việt Nam đang gào thét lên sự thật cho mọi người Việt Nam cùng nghe? Đúng, nó là sự thực. Chính vì sự thực đó mới tạo nên cách mạng, còn kết quả cách mạng ra sao lại là việc khác. Do thế, khi nhìn thấy sự hy sinh của từng lớp người, của những lớp người cho đại cuộc, không gặt hái được kết quả mong muốn, Thạch – nhân vật đại diện tuổi trẻ – đã tỏ thái độ với tuổi già: Tôi mong những người già sống ở đây hãy chết đi cho chúng tôi còn được kính trọng bằng ảo tưởng. Thái độ được tỏ bày qua lời nói, một lời nói trong lúc nóng giận, để sau này, khi sự diễn tiến cuối cùng của cách mạng làm sáng tỏ quan niệm của ông Nguyễn – đại diện lớp già – là đúng. Điều này được thể hiện qua sự gặp gỡ giữa Trần Minh Đạo (người cùng ngồi tù với Vĩnh) và Thạch. Cái thế của một tiểu nhược quốc không cho phép người ta hành động quá sức của nó là như vậy. Thạch còn đó. Sương còn đó với một bào thai trong khung cảnh cao nguyên, mưa bay mờ thung lũng và tương lai nào, dĩ vãng nào, với muôn vàn nhục nhằn bùng nhùng trong tâm trí! Dương Nghiễm Mậu có cái nhìn rất sắc và rất sâu trong mỗi vấn đề được đặt ra. Nội dung đều gói ghém những đớn đau uất hận không phải được hình thành bởi sáng tạo mà do cuộc sống thực tại đã tác động vào tâm thức. Có người cho rằng, Mậu đã bi thảm hoá quá đáng cuộc sống vì cuộc sống đâu có phải chỉ gồm toàn đau thương, uất hận? Cuộc sống là kết quả của muôn vàn dữ kiện tạo nên mâu thuẫn, rồi từ mâu thuẫn qua đấu tranh để sinh tồn trong mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh dù ôn hoà hay đẫm máu. Bất cứ cuộc tranh đấu hay suy luận nào, sớm hay muộn cũng đưa con người tới mệt mỏi, nhất là khi nhìn thấy cuộc sống vẫn được tiếp nối bằng nhàm chán sau những cố gắng phải có, nhưng quả tình vô ích. Để trốn tránh sự gay gắt quá đỗi của thực tại, Dương Nghiễm Mậu đã du hồn vào vòm cong trí tuệ. Cái khung trời mộng ảo mà Mậu phác hoạ trong tâm trí, có thể, nó là quá khứ với những nhân vật và không khí thuộc lịch sử hay huyền sử, có thể, nó là những ẩn dụ nấp sau những từ nhưngữ, người đọc cần soi tỏ để nhận về phần mình sự hứng thú qua tác phẩm Nhan sắc. Nhân vật Phạm Thái trong truyện “Người tình của Trương Quỳnh Như” được dùng như biểu tượng của kẻ sĩ trong thiên hạ. Từng bát rượu lớn uống một hơi đâu còn cái thú của nghệ# thuật uống rượu, mà chỉ nhằm dùng chất men để giải toả nỗi buồn thiên thu, đang ngự trị trong một tấm lòng chứa chấp đầy ắp ưu phiền. Cuộc đời là đại mộng. Công danh, phú quý và cả cái chí hướng của kẻ nam nhin muốn đem tài năng để xoay lại vận trời, những hỡi ôi! Định mệnh đã an bài từ kiếp nào để đến nỗi kẻ anh hùng phải thốt ra lời cay đắng: chí lớn trong thiên hạ không chứa đầy cặp mắt mỹ nhân! Và túi thơ, bầu rượu, trăng nước, trời mây, sông biển, cả thời gian nữa sẽ nguôi ngoai tâm sự, làm băng hoại một thời khí phách! Dương Nghiễm Mậu đã khoác lên vai Phạm Thái chiếc áo choàng hiện tại để bày tỏ những suy tư thầm kín của tác giả. Từ kẻ sĩ bất đắc chí, nhà văn đưa người đọc qua trạng thái khác, trong câu chuyện “Một người lên núi”. Cái nhân sinh quan, nhà văn tỏ bày trong truyện, chịu ảnh hưởng của triết thuyết Lão Trang. Cái Có, cái Không, cái Còn, cái Mất đều là hư ảnh. Con người chẳng là gì đối với Vũ trụ, nếu chưa nhận thức được lẽ vô vi và câu Trời đất vô tình của Lão Tử. Hình ảnh của Vương Tiên Sinh và mẹ già, em dại, cam chịu vướng mắc vào thế luỵ tương phản với hình bóng lập lờ, huyền ảo của một con người không được nhận diện đích danh, lừng lững đi vào siêu thoát của trường mộng. Đó là ảo ảnh hay tinh thần bất biến của cái Đẹp đang chập chờn bay lang thang giữa Thực và Mông, giữa cuộc đời và nghệ thuật? Có lẽ, những thất bại thực tế đã làm Dương Nghiễm Mậu thấm đau tự đáy lòng, nên mỗi truyện trong tập Nhan sắc đều hàm chứa sự bất lực của thân phận con người trong mỗi hoàn cảnh. Làm cách mạng, yêu cách mạng với một ý hướng cao cả, như một gã si tình say mê nhan sắc. Vẻ đẹp của một bông hoa, một mỹ nhân hay cố định lý tưởng nào, khi nó đã quyến rũ và twong phù với ý muốn con người, thì dù cho có phải vì nó mà chết cũng cam lòng! Cái chết đó để dành cho những người biết đi tìm tuyệt đối trong tương đối. Nó được Dương Nghiễm Mậu mượn xác lịch sử thời Cao Bá Quát và thầy khoá Nhâm cùng người khác-vô-danh đã-biết-chết một cách anh hùng, liệt sĩ cho cái đẹp cao cả. Rồi đến truyện “Từ Hải và cuộc phiêu lưu của đời chàng”, cũng được nhà văn dùng như chất liệu để tỏ bày thái độ hay gửi gấm tâm sự? Từ Hải, vị anh hùng hay tên du côn? Từ Hải dưới nét bút Nguyễn Du, đích thực Từ Hải anh hùng “dọc ngang nào biết trên đầu có ai?” nhưng qua lý luận của nhà văn, Từ Hải có thể là tên du côn, nhưng tên du côn có ý thức, biết chống bất công và thối nát, biết yêu, biết sống. Hơn nữa, Từ Hải không chiết vì toán quân phục kích của Hồ Tôn Hiến. Từ Hải chết đứng giữa trận tiền là Từ Hải giả đó thôi. Nhưng sự trở về của Từ Hải có thực sự cần thiết đối với nhà văn? Có lẽ là một cần thiết, để nhà văn mượn có giãi bày suy nghĩ, để gợi lên ám ảnh trong tiềm thức, để chứng minh sự tiếp nôi không ngừng của lịch sử đấu tranh, và cái “biểu tượng anh hùng” như một lưỡi gươm, một hình phạt treo lơ lửng trước lương tâm mỗi con người đê tiện. Và Kim Trọng, Thuý Vân với những lời van xin, năn nỉ của Thuý Kiều có phải chăng là niềm ăn năng, sám hối của một lỗi lầm, của những lỗi lầm do bả vinh hoa cám dỗ để đưa mỗi số phận chìm sâu địa ngục?… Truyện “Kinh Kha”, “Con chuỷ thủ” và “Đất Tần bất chắc” cùng mang ước lệ, nhưng ở đây, với niềm băn khoăn chọn lựa giữa hai ngả: sống , chết. Kinh Kha người dũng sĩ thời Chiến quốc tượng trưng lòng căm thù giữa giai cấp bị thống trị và Tần Thỉ Hoàng một bạo chúa, tượng trưng cho giai cấp thống trị tàn ác, dã man. Nhưng đau đớn thay, chính vì bạo tàn mà Tần Thỉ Hoảng mới thống nhất và cai trị được nước Trung Hoa mông mệnh. Người đọc sững sờ trong những lời đối thoại giữa Tần Thỉ Hoàng và Kinh Kha qua câu chuyện kể giữa hồn ma Kinh Kha và Cao Tiệm Ly, … Nhà ngươi không sợ chết sao? Tôi bảo, nếu tôi chết sẽ có kẻ khác noi theo, cho đến khi nào giết được nhà ngươi. Vua Tần dằn giọng: Thôi ta chịu chết, nhưng ta hỏi nhà ngươi: Giết được ta rồi nhà ngươi làm gì với nước Trung Hoa này? “Bây giờ hắn ra sao? Anh chưa giết hắn?” “Chưa, nhưng hắn ở trong tay tôi, lúc nào muốn giết thì giết, có điều tôi muốn biết: Thái tử Đan sẽ làm gì với một nước Trung Hoa sau khi tôi đã giết hắn?…” Câu hỏi đó, hình như Dương Nghiễm Mậu đặt ra cho nước Việt Nam sau cái chết của ông Diệm? Nhưng cái mẫu anh hùng của Dương Nghiễm Mậu, nó chỉ là một hình thức, một biểu tượng và luôn luôn cô đơn – như tuổi trẻ hôm nay. Nó nghư ngọn nến nhỏ trong đêm tối mịt mùng với giông gió chập chùng đe doạ, bởi vậy, mỗi hành động, mỗi suy tư được tỏ bày cũng mang sẵn bên trong sự tan rã, tuyệt vọng do chính nó tạo ra. Truyện “Gậy thần và sách ước”, niềm bi phẫn cuối cùng của tập Nhan sắc, Dương Nghiễm Mậu không còn biết tin vào cái gì nữa, đứng cho vơ giữa cuộc sống bao phủ đầy giả dối, ươn hèn và độc ác. Những giá trị người đời ca tụng, sự thực nó cũng chẳng đáng gì, cũng chỉ là hư danh, phù phiếm! Nhưng chẳng lẽ ngày ngày nhìn thân phận trôi vào hư vô như kiếp sống cỏ cây, Dương Nghiễm Mậu tìm về cho riêng mình một chân lý, một ý hướng qua câu chuyện nhuốm màu triết học để đi tới kết luận: con người lành hay dữ, xấu hay tốit đều do mình quyết định không phải do hoàn cảnh và kẻ khác. Nhưng người đọc tin rằng, tập Nhan sắc chỉ là nguyên cớ để Dương Nghiễm Mậu rời xa thực tại một khoảng Thánh Thể nào đấy. Con đường đó tuy đẹp, nhưng không thuộc về Dương Nghiễm Mậu. Dù cuộc đời có mặt với bao nhiêu thê thảm, dù định mệnh là sự kiện khắc nghiệt, dù đôi khi Dương Nghiễm Mậu muốn một mình bay bổng lên cao để mặc thời gian đẩy đưa đến thì đến, dù cho thối nát, sa đoạ, bất công có làm mỗi số phận phải ê chề tủi nhục nhưng Dương Nghiễm Mậu vẫ nmuốn vì nó mà hành động, mà chung vui, chung buồn với nhân thế. Tác phẩm Ngày lạ mặt là tiếng khóc, là phẫn nộ hay sự chua xót đang len lách dày vò trong tâm cảm nhà văn. Nội dung câu chuyện do cô học trò tên Hoàng yêu thầy dạy mình, và tự nguyện thoả mãn lời ước mong của người tình – muốn có một đứa con. Thầy Lĩnh có đạo và đã có gia đình. Hoàng tôn thờ tình yêu mà nàng cho là lý tưởng, mặc kề gia đình, dư luận! Câu chuyện xảy ra ở một thành phố miền duyên hải, khi còn luật gia đình. Thầy Lĩnh ra toà, không chối cãi. Toà xử lằng nhằng. Trong khi đó Dũng – một quân nhân – bạn học xưa của Hoàng, yêu nàng tha thiết, Dũng uất hận muốn giết thầy Lĩnh – người thầy cũ – vì đã cướp tình yêu của mình. Ông nghị Vĩnh – bố Hoàng – thiếu tư cách không được kính trọng. Hoàng có mang với thầy Lĩnh. Cuối cùng, vợ chồng thầy Lĩnh điều đình với ông nghị Vĩnh, xin bãi nại. Vì quyền lợi tranh cử, ông nghị Vĩnh bằng lòng. Rồi vợ chồng thầy Lĩnh sửa soạn đi ngoại quốc. Hoàng một mình ngất ngư với cái bào thai. Sự đam mê của Hoàng – một trò gái ngây thơ – với ông thầy học đã có gia đình và đứng tuổi, phải chăng là vấn đề cần đặt ra trước xã hội – qua văn chương – một bằng chứng hiển nhiên rằng, mỗi con người chịu trách nhiệm về phần hành của nó? Không lẽ, chỉ vì lòng mơ ước có một đứa con mà thầy Lĩnh đã phá hoại đời người con gái, học trò mình? Vấn đề đặt ra ở đấy, chứ không phải ông nghị Vĩnh, hoặc Quân hay Dũng – kẻ si mê trong thất bại! Cái tâm trạng bi thương của những kẻ muốn làm anh hùng hay vĩ nhân trong khi mình chỉ là hạt cát. Tâm trạng Hoàng cũng vậy, cho rằng mình đã yêu, đã hy sinh, nhưng rốt cuộc chẳng biết sự hy sinh đó mang lại ngưỡng mộ nào, ngoài đổ vỡ. Những trang nhật ký hay lời thú tội của một hành động sai lầm? Tình yêu của tuổi trẻ là tốc độ, là đột biến không thể dự tính được, … Tôi nói: Tôi yêu thầy Lĩnh. Tôi biết thầy là người có đạo, có gia đình… nhưng tôi yêu thầy. Chính tôi đã chọn vậy… … Tôi biết đây là mối tình vô vọng, cả hai chúng tôi đều biết như thế, nhưng không ai chịu ngừng, như một chuyến xe xuống dốc, chúng tôi nhắm mắt lại, những lo âu, thảng thốt chợt đến, những hãi hùng chợt hiện, những giọt nước mắt, những lời thú tội với chính mình, chỉ có vậy. Tại sao tôi lại lựa chọn vào hoàn cảnh ấy? (Ngày lạ mặt, trang 11) Sự lựa chọn tình yêu nhiều khi do bất ngờ của định mệnh. Nhà văn Malraux khuyên con người nên can đảm trước định mệnh, nhưng tự thâm tâm, Malraux đã cảm thấy một cách thê thảm rằng: vũ trụ chẳng liên quan gì đến con người cả. Nên sự thống khổ của Hoàng trong những trang sách Ngày lạ mặt, nó không thể thực hiện bằng cách nào khác hơn là con vật tế thần, để trình bày một khía cạnh đang cấu xé lương tâm nhân loại. Cuốn sách mở đầu và khép bằng những trang nhật ký chứa chấp trọn vẹn cái đau, cái nhục và mỉa mai thay, cả cái tự ái của tuổi trẻ cố tìm những lý lẽ để bào chữa tội lỗi, … Tôi chỉ là một đứa con gái tồi tệ. Nhưng sao tôi lại không thể nói với họ, tôi tồi tệ vì tôi là con của một người tồi tệ, người của một xã hội tồi tệ, làm sao tôi không tồi tệ được trong một xã hội hoàn cảnh như thế. Tôi yêu một người, có gì đâu. Còn những ông X., ông M. những người đồng chí của cha tôi đó cùng với tên tài xế đã bắt hiếp cái con gì đó trong nhà chứa xe hồi nào thì sao. Con nhỏ phát điên vì ghê tởm chạy như con chó dại trong thị xã đó thì sao. Có thực là nó đã lao mình xuống biển rồi giạt vào bờ không, hay một kẻ nào đó muốn xoá đi dấu vết tội lỗi của mình? Họ đã xoá được và đêm ngủ mới yên tâm? Có thể lắm… (Ngày lạ mặt, trang 161) Tiếp theo là việc từ chối đề nghị phá thai để khỏi mang tiếng cho gia đình, một gia đình không mấy hãnh tiến về mặt đạo đức của ông nghị Vĩnh. Cuối cùng, Hoàng – người nữ sinh – cương quyết chọn con đường mình đã định, … Tôi không muốn sống bằng ảo tưởng. Bây giờ tôi phải lựa chọn đương đầu… Tôi sẽ là một người mẹ, tôi phải nuôi con trong tình cảnh đơn độc của mình. … Tôi nghĩ tới Dũng, bây giờ tôi muốn cầu cứu với Dũng, Dũng có còn yêu tôi, muốn sống với tôi khi biết tôi có mang không, chàng có thương yêu một đứa con không phải của mình không, tôi không muốn lừa ai, nhưng tôi muốn có một người thương yêu mình, giúp đỡ, san sẻ với mình. Tôi hiểu hoàn cảnh của thầy Lĩnh, tôi không oán trách người, tôi muốn giữ lại những gì mà người đã để lại cho tôi… Một quãng đời đã trôi qua, đã chấm dứt phải thế không, Hoàng rồi mày phải sống ra sao? Tôi đang khóc cho tôi đây… (Ngày lạ mặt, trang 170) Kết luận như tên có phải là một kết luận hợp tình? Có phải nó được giải quyết một cách thoả đáng và hợp lý? Tội lỗi cũng như hình phạt được nhà văn đặt ra như một phi lý, một bất công, quả là nặng nề đối với thân phận người con gái. Rồi còn những ngày tháng trước mặt, rồi còn những ám ảnh và mặc cảm, đã dễ gì vượt thoát được, dù cho với sức mạnh của tâm linh có tình yêu hỗ trợ!… Dương Nghiễm Mậu, nhà văn ý thức được luật sống và sau những năm dấn thân vào nghề cầm bút đã thấu rõ cương vị của văn chương trong xã hội. Viết văn không phải để thoả mãn hoặc dương danh mình trước cuộc đời, chính thực để nói lên những cái gì mà lương tâm chân chính của con người cần phải tỏ bày trước công luận. Bởi vậy, ngoài những truyện dài, Dương Nghiễm Mậu viết rất nhiều truyện ngắn đã in thành sách như: Đôi mắt trên trời, Kinh cầu nguyện, Quê người, Ngã đạn v.v… và tập bút ký Địa ngục có thật viết về cuộc tàn sát của cộng sản trong đợt tổng công kích Tết Mậu Thân tại Huế. Mỗi truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu là một bức tranh tâm cảm, ở đó, bao giờ nhà văn cũng khơi động tình thương, dù cái tình thương ấy ở trong một hoàn cảnh khó thương. Những thắc mắc và ưu tư về cuộc sống góp mặt với từng dữ kiện hiển nhiên xác thực, hằng ngày qua báo chí, nhiều khi còn tồi tệ hơn những dữ kiện được sáng chế do óc tưởng tượng của nhà văn. Tuổi trẻ và nỗi cô đơn là mối dày vò thường xuyên trong mỗi suy nghĩ của những người lớn lên trong chiến tranh và chính chiến tranh đã nuôi dưỡng, giáo dục họ bằng những ngọn roi dính máu. Lương tâm nhà văn chỉ là một chiếc gương bé nhỏ phản chiếu lại một trạng huống, một nếp sinh hoạt nào đó đã in hằn chứng tích trong mỗi suy nghĩ về sự góp mặt của mình giữa hoàn cảnh đã được hình thành như vậy. Sự chối đối hay im lặng đều vô ích! Con người cầm bút phải biết dùng khả năng và tài năng chuyên biệt để chế tạo thành chiếc gương riêng, cho xã hội nhìn vào đấy, nhận diện lẫn nhau trong một kích thước hạn định. Sứ mệnh của nhà văn hôm nay không phải là nhân chứng mà phải nhập cuộc, vì có nhập cuộc mới xác định rõ ràng rằng: chiến tranh, lo sợ, buồn rầu, đam mê và tuyệt vọng có phải là lẽ sống duy nhất của cuộc đời hôm nay không? Trích văn Dương Nghiễm Mậu … Tôi chạy xa để thoát khỏi vùng tiếng động, nhưng dư âm vẫn như còn đuổi theo quấn quít. Tôi bỏ hai tay lên ôm lấy đầu, bịt hai lỗ tai và nhắm mắt lại. Cả một khối đen như trùm lấy và ôm khít, thân thể tôi co rúm và bủn rủn, tôi níu tay ômg lấy cái bóng đen đứng cao trước mặt để dừng lại. Âm thanh kim khí, man rợ… rồi dần dần loãng và nhẹ nhàng. Một người ở thế giới nào đó tiến lên. Sân khấu là một tấm màn màu nâu, người chắp tay trước ngực, có bánh xe (có phải là một bánh xe không?) quay đều đều bởi một sức mạnh lạ mặt đứng khuất. Tiếng nói cất lên – “Vậy chứ ở đó như thế chăng?” – “Không phải như thế” – “Người bảo sao?” – “Tôi cũng từ bỏ nó” – “Có lẽ rồi không muốn, vậy người định tới đâu?” – “Hư vô” – “Tôi đã nghe ở đâu đó, có nơi nào khác thế này chăng?” – “Có, để nói cho nghe” – “Tôi muốn biết nơi nào người ta sống lâu nhất, dù sao thì cũng phải sống lâu, nhưng được chết êm ả.” – “Đúng như thế đó, có kẻ đã dạy thế. Con người ở mấy nơi, có một nơi mặt đất hình vuông, không hiểu con mắt nào nhìn xuống thấy vuông, mặt người ở cũng mang hình đó. Xin đừng cười và hỏi lại, vì tôi chỉ kể. Nơi này người ta sống dài một ngàn năm, mười thế kỷ của đời anh. Người ta sống không có một quy luật nào. Không có ai nhận mình tìm ra một thứ chỉ đạo cho đời sống, chẳng nghĩ, chẳng tin, câm điếc như loài thảo mộc. Cho nên chẳng một ý kiến, một lý thuyết nào có thể đến đó. Vùng bao la mang một phòng tuyến mong manh nhưng vững chắc là sự thản nhiên. Không phải trải qua sự khổ. Không có tiếng nói chỉ sự khổ. Còn có thể có bao nhiêu ngôn ngữ để chỉ: khổ sở, tật nguyền, ốm đau, giết chóc, tù đày… thôi tôi chẳng phải nhắc vì nếu tôi ngừng lại, và anh bắt đầu như thế chưa biết đến bao giờ anh mới nói hết… có khi đến chết cũng chưa biết nữa. Tôi kể tiếp: ở đó con người không biết khổ không ý niệm được nó nữa. Chúng ta phải làm lụng, có phải chúng ta loài vật duy nhất làm việc để kiếm ăn không? Chúng ta mệt nhọc thể xác và tâm trí – kiếm ăn uống, xây nhà cửa, chăm sóc con cái, làm ruộng, buôn bán. Nhưng ở nơi, thế giới tôi nói thì tuyệt nhiên không. Cây là nhà cửa. Khi đói họ tìm đến gốc cây, ở dưới gốc có sẵn môt cái vạc lớn, trong óc muốn ăn thứ gì tuỳ ý, chỉ việc đưa tay hái một quả bỏ vào vạc, ánh sáng mặt trời chiếu xuống đó nấu chín món ăn. Mỗi khi tắm vứt bỏ quần áo lên cây, tắm xong lấy một quả bổ làm hai lấy ra quần áo mới mà mặc. Khi đại tiện đất nứt thành hố, đi xong ập lại, ở đó mấy bông sen mọc lên toả hương thơm ngát. Từ cái lược, đôi hài, chiếc mũ, nhất nhất cái gì người ta gọi đến, cần đến cây đều sinh ra. Khi một đôi trai gái bằng lòng nhau, mong nhau đến một gốc cây, bóng cây rũ xuống che khuất để biến thành một lâu dài, đôi uyên ương chung sống với nhau ở trong đó, chỉ trải qua bảy ngày thì sinh con. Nhưng cha mẹ không phải nuôi, chỉ việc mang đứa nhỏ để ở một ngã ba đường, người qua lại cho nó mút ngón tay, ở đầu ngón tay mỗi người đều tiết ra một chất nước ngọt đủ nuôi sống đứa bé lớn lên. Chỉ bảy ngày sau đứa bé như người thường; con trai đi với con trai, con gái đi với con gái, chẳng lấy vợ lấy Chiêm hay có gia đình chi cả. Người ta sống như một loài cây cỏ, cứ đến độ có hoa thì nhuỵ đực đi tìm nhuỵ cái mà ra kết quả. Sống cho đến hến ngàn năm không vui, buồn, sầu, khổ, tật bệnh, giận ghét không biết đến. Khi nhắm mắt lại thì có loài chim đen, cánh lớn đến cắp xác tha đi. Câu chuyện là như thế”. Tôi nhìn trong bóng tối, một bánh xe quay tròn bên tiếng nói phát ra, tôi nhủ thầm: “Ở đó có bánh xe như thế kia quay không?” Tôi ôm chắc lấy bóng đen cao cất tiếng: “Không, không khí khi nào tôi tới đó, hay muốn cho nơi này như thế! họ không là người. Họ khác hẳn tôi. Tôi là người. Tôi từ giã, từ giã…” Bóng tối như siết chặt tôi mãi vào một vật cứng đứng cao lắm. Tôi đưa tay sờ soạng một làn cứng mấp mô, như một làn da sần sùi không hơi nóng, không thoi thóp thở, một thứ gì sượng sần nhớp nháp, tim tôi đập mạnh, mồ hôi đổ nóng, má tôi chạm vào một lànd dất sỏi khô. Một điệu kèn ré lên buốt nhức khoảng không quay cuồng nhồi vào trí não một hơi rượu mạnh cay xé môi, lưỡi và cuống họng. Người nhạc sĩ bước ra khỏi vùng bóng tối. Hắn đã bị bỏ rơi từ bao nhiêu thế hệ. Số kiếp họ là một cái gì – có phải nó mang chứng tích một sự thực hiển hiện nơi màu da đen bóng kia không. Màu da đen nổi b ật hẳn trước tấm màn đỏ. Điệu kèn ré lên với một nhịp điệu man rợ như ngọn lửa bốc cháy say đắm của vùng nhiệt đới. Cây cỏ hoa lá cũng cháy nơi họ sinh ra. Sự cuồng nhiệt dục tình đã thổi vào mạch máu, hiện ra đời sống mà dồn ép họ vào bóng tôi sâu thẳm từ bao nhiêu lâu nay, đến bây giờ mới đứng ra cất tiếng nói từ trong đáy lòng… “Cớ sao tôi đen và tôi sầu đến thế”… Chẳng có gì? Làm sao để tôi nói với anh khi trên môi anh cái ống đồng phụ hoạ cất lên kia? Người nhạc sĩ uốn cong thân hình, oằn oại như một con trăn ngũ sắc, vừa nuốt vào bụng một loài vật đang vặn mình tiêu hoá. Hắn cúi gập, vươn cao và những âm thanh oằn oại, tức tưởi, nghẹn ngào, uất ức, má phồng, mồ hôi vã ra đầm đìa… Tiếng trống vang theo một không khí bập bùng bao la quỷ quái… Ánh đèn chớp động vằn vèo xanh, đỏ, tím, đen, vàng chập chờn mê loạn, thế giới của hắn bắt đầu đảo điên. Cái khoảng bóng tối xung quanh loãng ra màu đỏ. Rồi những vật dưới đó cử động dần dần. Như những ma chơi, hình nộm dưới bàn tay bùa phép của một gã phù thuỷ vô hình điều khiển. Những cánh tay vươn cao cuồng loạn, chập trùng và tiếng hét, tiếng la tạo thành một khúc thánh ca. Đám người mỗi lúc đông, chuyển động mỗi lúc một nhanh. Tôi bắt đầu nhìn ra những thân thể: một chòm tóc quăn, chiếc cổ nhỏ, những thân người nhỏ như que sậy, tay khô như những dây kẽm buộc vào những chiếc que như sợi tóc. Mắt trắng dã, răng nhe ra như một vành môi và lưỡi đỏ lòm như những ngọn lửa bắt đầu bốc cháy. Tiếng kèn trên môi những nhạc sĩ vẫn ré lên xé từng chút tế bào của cơ thể. Và một thế giới chìm xuống dưới chân. Cái thân thể trong tay tôi đen thêm. Đôi mắt trắng dã mở ra một vùng biển cát bỏng cháy, có những đàn sư tử vờn nhau. Mái tóc dài cứng gió đập như quất vào mặt những ngọn roi da điếng buốt. Tôi úp mặt vào làn môi sần sùi nóng ran. Tôi giữ chắc. Tôi khẽ nói: “Buông ra anh, để anh nhìn rõ em” – “Chúng ta bắt đầu điệu múa chứ?” – “Không phải như thế. Em?” – “Bài ca còn dài, điệu kèn chưa hết, bây giờ là của em, của chúng em” – “Làm sao em dám chắc?” – “Im để em nói: Em đã tủi hổ uất ức từ bao lâu, tại sao anh không thèm biết đến em, không ôm và hôn em? Em phải chiếm anh, chiếm thế giới anh. Anh không thể chạy trốn được. Người ta không thể ngoảnh mặt mãi với sự thật súc vật nơi con người. Đừng che đậy gì, y phục, nhà cửa, lề luật, tự những sự thật xé nó trần truồng, trơ trụi, phung phá. Trả nó lại sự đó. Ôm lấy em, ôm chắc lấy em. Lửa đã bốc lên từ bao giờ bây giờ mới chiếu sáng cho anh nhìn em, em đen và em sầu”. Tôi xoa tay lên làn da sần sùi, khô cứng, bóng tối vây phủ. Tiếng kèn vẫn xoáy buốt. Người nhạc sĩ vẫn oằn người gân cổ thôi âm thanh vào thế giới vây quanh rung chuyển cùng điệu trống bập bùng cuồng loạn. “Có riêng em ở đây thôi, em có bao nhiêu” – “Ở cùng khắp, anh hãy lắng nghe ở cùng khắp, tất cả. Anh lặng im em hát cho anh nghe…” Tôi nhắm mắt và giữ cặht bóng tối. Người nhạc sĩ ôm chiếc kèn lùi vào, bỏ lại khoảng trống trần trụi. “Em, em đâu?” Tiếng gọi mất đi một khoảng im lặng. Âm thanh vọng động trườn từng đợt như một viên sỏi ném xuống mặt nước lyên tĩnh bắt đầu loãng xa những đợt sóng trùng điệp – Tôi đã bỏ nó. Sự khiếp sợ quay lộn, vật vã thân thể. Chân tay tôi như một thứ gì thừa thãi, vô ích trở thành vô tri. Tôi níu giữ sự sáng suốt của đầu óc. Tôi nhắm mắt thu sức giữ sự sáng suốt của đầu óc. Tôi nhắm mắt thu sức giữ lại khoảng tối, chút gì đó còn cứng chưa lay động ở trong vòng tay mà mặt tôi úp lên phà hơi thở nóng bỏng đứt đoạn. Tôi cố sức nghĩ xem tôi đang đứng ở chỗ nào. Nhất định không phải là nơi mang danh hư vô mà có kẻ đã hét vào tai. Nó cũng không hẳn là những sinh vật lúc nhúc chen lấn giữa cái thế giới mà người nhạc sĩ đen vừa thổi âm thanh tới – “Người đang đến với ta đây. Có một phần của hắn đấy” – Tôi muốn cất tiếng hỏi – “Người ở đâu đến? Đây là đâu? Sao có tiếng nói?” Cổ tôi khô cứng rồi mềm nhũn ra không tạo nổi âm thanh. Tôi muốn mở mắt nhưng một cái gì nặng nề chét lấy hai chút đen cần dò hỏi tìm kiếm. Tôi muốn cử động nhưng chừng như gân cốt đã bị cắt đứt, tôi cử động ở sự vướng víu của quần áo nhớp nháp bắt đầu tê lạnh ướt át. Hình như một chiếc búa đập vào óc tôi, và một mũi kim nhọn khẽ ấn vào tim tê buốt. Những đợt sóng bắt đầu vỗ về, mang một cảm giác mơ hô bao la, của một vùng nước ngủ phẳng phiu bình lặng đến ghê khiếp, hoang sơ cùng độ – “Chúng ta đang ở nơi siêu thoát này” – “Nhưng thân thể tôi đây” – “Tôi mang cái đó lên siêu thoát, hãy nhìn xem tôi đây”. Trong một vùng ánh sáng sữa loãng, một bóng trắng tiến lên, âm điệu du dương, dìu dặt, bay bổn uốn theo một hình bóng dườn dưỡn, rồi một tràng cười xé tan, một đứa con gái, nhe đôi hàm răng xõa tóc đen quay cuồng tạo nên một trận bão cát đau nhức. Nó quay cuồng ở một khoảng trống, tiếng đập đá, vỗ tay, cười cợt lạnh điếng như những thoi sắt chạm vào nhau, một đống thuỷ tinh cử động cọ xát. Nhưng cái gì cho hắn điên cuồng lên thế? Nó ở một cõi tuyệt đối nào? Âm thanh ánh sáng, mờ đi dần dần. Một thân thể vô hình ôm chặt lấy tôi – “Em là nỗi cô đơn này, lặng thinh đi cho chốn hoang đường chi phối thể xác, ôm lấy em. Hôn lên môi này. Một cõi nào mang nỗi say đắm của anh và em đó. Chúng ta thụ hưởng một mũi thuốc ma Tuý vào thân thể. Để không còn bị chi phối, thay đổi sự thực này. Chúng ta từ chối tất cả. Nó là cõi không trắng ngần trong suốt của sự thèm khát, tìm kiếm thoả mãn cổ sơ. Này anh, loài ác điểu có tám chân ăn cơm với cát, loài bò sát có hay ôm nhau nhảy luân vũ, cây cổ thụ mang những sợi tóc kim tuyến, đôi mắt của cánh lá mang tia nhìn chinh phục đến loài quạ khoang. Chúng ta mất chân tay, mọc đôi cánh, đầu thêm sừng, miệng thêm vòi. Và anh đang nghe em nói bằng hai con mắt. Thế giới tạo thành những sợi chỉ bạch kim. Và mỗi kẻ sống ở toà lâu dài cô đơn của mình. Thế giới cô độc ấy tạo nên một xã hội riêng. Xã hội của em là những người mù đang mang đôi mắt màu đỏ. Có chân màu tím đôi cánh loài rắn có lưỡi dài sẻ đôi phun nọc độc. Người ta nói bằng ngôn ngữ của loài cá thờn bơn. Thế giới và xã hội của người khai thiên lập địa mới mở cửa, chẳng lương tri, thiện ác, tốt xấu. Em mang anh đến “Nhưng cái gì làm thành xã hội đó?” – “Cái chủ lực thế giới vô thức cô đơn?” – “Thôi đừng hỏi, cái gì cho anh có chân và tay?” – “Đúng đó, anh không trả lời được, anh công nhận sự thực ngừng lại ở hạn hẹp này, không mang lên hay xuống. Cái gì đứng sau ở thực tại mang bộ mặt xa lạ, câm điếc chỉ là mối lo âu định liệu và cho cái gì anh đang có đấy là sự thực, cái thực định bằng cái hư không” – “Em là cái dồn ép tình dục, đau đớn, khổ ải, em sầu và em trắng”. Tôi tỉnh dậy ở dưới một thân cây cổ thụ, bóng tối loãng ra. Tôi đứng nơi một vũng nắng chói, mặt trời bắt đầu thiêu đốt trên da thịt. Thân cây cao nỗi cô đơn chót vót đầy ải, lần vỏ sần sùi khô cứng. Người ta giữ chúng tôi ở lại đây. Chúng tôi giống nhau bên những sinh vật khác. Một đàn kiến lửa bu trên tay tôi đốt đau ngứa lay động cảm giác, có tiếng chim kêu trên cao. Trận mưa đổ xuống. Trên mặt tôi nhớp nháp chừng như loài nhện nào đó chăng tơ. Tôi đứng nơi xứ sở này, mảnh đất thân thuộc, đồng loại gần gũi. Tiếng hát cất lên. Sự tình cờ nào mang chúng ta đến đây chung đụng với nhau. Người ta mang đến những gì bỏ lại: tù đầy, hiếp tróc, đày ải, nô lệ… Chúng tôi tự do với nhau trong mỗi tâm hồn không cùm xích, bắt bớ, giết hại. Chúng tôi công nhận kẻ đứng bên. Tôi cúi nhìn bàn tay sưng vù nhức nhôi. Chút thể xác này là nỗi thèm muốn trong lòng. Trong tôi một thế giới. Nhưng ở giữa thiên nhiên này, có người đến đây tôi công nhận một sự hiện diện cần thiết. Mọi người có mặt đông đảo. Những sự thật đời sống ngự trị đây. Kẻ tù đày, người uất ức, người hân hoan. Niềm vui đứa trẻ nhỏ, điệu ru trên môi người mẹ, người chị… Tôi trấn tĩnh để nhìn ra nơi tôi đang đứng, đang thở, đang nghĩ. Ánh nắng bốc cháy, rồi cơn mưa ập xuống một bầu không khí ngột ngạt, tức thở, oi bức. Khí hậu nhiệt đới soi vào thân thể nỗi hèn mọn con người. Chúng tôi nhận sự hèn mọn đó. Tôi đứng vững, đưa tay vuốt mặt và cất tiếng nói: “Có phải tôi đang ở đây không?” “Phải rồi.” “Có phải tôi đang ở trong đám đông này không?” “Còn gì nữa, anh ở trong đám chúng tôi.” Tôi cố sức đẩy lui thân cây, đứng ở một khoảng trống vươn vai, đưa tay níu lấy mọi người “Dù em đen và em sầu, dù em trắng và em sầu. Đó là em. Còn anh, anh sầu và anh vàng. Cái chung của chúng ta là sầu. Nhưng cái sắc vàng này là của anh. Anh vàng và anh buồn em ơi! (Trích Kinh cầu nguyện, “Buồn vàng”, trang 9-18) |
| |||||||
|
No comments:
Post a Comment