===
Hoàng Văn Hoan
Giọt nước trong biển cả
(Hồi ký cách mạng) 16 kì
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16
V. Hội nghị toàn quốc của Đảng và quốc dân đại hội ở Tân Trào
Vào khoảng tháng 6-1945, ở Lạng Sơn chúng tôi đang bàn việc phân phối công tác, các anh Lê Thiết Hùng, Hoàng Điền, Bế Chấn Hưng về phía Hội Hoan để chỉnh đốn và thành lập chính quyền; anh Đàm Minh Viễn, ông Ké Lộc [1] và tôi đi xuống phía Bắc Sơn để cùng các đồng chí địa phương giải phóng tỉnh lỵ Lạng Sơn.
Trong lúc đang chuẩn bị đi Lạng Sơn thì tôi được điện Trung ương gọi về Tân Trào để tham gia Hội nghị toàn quốc của Đảng đang chuẩn bị họp. Tôi giao nhiệm vụ cho anh Đàm Minh Viễn và các đồng chí, còn tôi và anh Hoàng Hữu Nam lên đường đi Tân Trào. Đi Tân Trào chuyến này không phải lén lút, mà đi công khai ban ngày có vũ trang yểm hộ, xuất phát từ Thất Khê, qua Bình Gia, La Hiên, Thượng Lung, Thần Sa, Phú Đô, Quán Vuông, vượt đèo De, đến Tân Trào.
Đến đây anh em liền đưa đi gặp Bác. Bác không ở trong nhà dân, mà ở một cái lán trên núi không xa làng lắm. Cứ vẫn một bộ quần áo chàm như ông già người Nùng, và một cái bàn đánh máy chữ. Bác làm việc không biết mệt mỏi. Lúc này Bác đã khỏe hơn trước, không sốt rét như lúc ở Trung Quốc mới về. Bác hỏi rất tỉ mỉ về tình hình Lạng Sơn. Nghe xong, Bác nói: Tình hình như thế là rất tốt, bây giờ chúng ta đã có đủ điều kiện để khởi nghĩa chính quyền. Vài hôm nữa các đồng chí Bắc, Trung, Nam đến đầy đủ rồi sẽ họp Hội nghị toàn quốc của Đảng để bàn định. Thời gian là rất khẩn cấp và rất quan trọng.
Tôi biết là Bác đang suy nghĩ và đang làm việc, nên xin cáo biệt, xuống dưới làng để xem xét.
Tôi và anh Hoàng Hữu Nam được xếp ở một nhà dân trong làng. Các anh em dưới xuôi cũng lục tục đến khá đông. Một hôm máy bay Mỹ đến thả dù lương khô và một ít quân trang xuống ngay giữa làng Tân Trào, mọi người hiểu rằng đó là sự tiếp tế của quân Đồng minh, đều rất vui mừng, nhưng vẫn chưa thấy hết sự khó khăn phức tạp do việc quân Đồng minh đến, mà Bác đang phải suy nghĩ, tính toán.
Lúc này ta đã có điện đài nên nắm được tình hình thế giới khá nhậy.
Ngày 2-5-1945, quân Liên Xô đánh thẳng vào Béc-lanh, sào huyệt cuối cùng của phát-xít Đức. Giải quyết xong phát-xít Đức, ngày 8-8-1945, Liên Xô kéo quân vào vùng Đông Bắc Trung Quốc đánh tan đội quân Quan Đông của Nhật. Nhưng Nhật thua rồi quân đồng minh vào Việt Nam thì sao? Việc Hoa quân nhập Việt đang chuẩn bị riết, Hoa quân nhập Việt thì sao? Cũng có thể là quân Anh, Mỹ, Pháp vào, thì sao? Việc phát-xít Nhật thua là một cơ hội rất tốt để giải phóng đất nước, nhưng việc quân Đồng minh vào lại là một việc rất phức tạp phải tính toán việc đối phó, phải có mưu lược.
Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp do Bác chủ tọa. Những người tham gia Hội nghị ở Bắc có các anh Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, ở Trung có anh Nguyễn Chí Thanh; ở Nam có anh Hà Huy Giáp; ở Việt Bắc có anh Võ Nguyên Giáp và tôi; ở Thái-lan và Lào về có các anh Dương Trí Trung, Trần Đức Vịnh; ngoài ra còn có một số đồng chí khác nay không nhớ rõ tên.
Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở nhà một người dân trong làng Tân Trào.
Sau khi nghe báo cáo các nơi, Bác phân tích: Lúc này tuy Nhật chưa đầu hàng, nhưng phát-xít Đức đã đầu hàng Liên Xô đánh thẳng vào Béc-lanh; sáu mươi vạn quân của Nhật ở “Mãn Châu quốc” đã bị quân Liên Xô đánh tan, thì phát-xít Nhật nhất định sẽ phải đầu hàng, đó là việc có thể biết chắc chắn. Phát-xít Nhật đầu hàng thì quân Đồng minh sẽ vào tiếp quản Đông Dương. Quân Đồng minh đây có thể là quân Anh, quân Pháp, cũng có thể là quân Quốc dân đảng Trung Quốc, vì việc Hoa quân nhập Việt đã được chuẩn bị từ năm 1940, 1941. Bất kể là quân nào vào, đứng về mặt quốc tế mà nói là ta không thể cự tuyệt và nói cho đúng là ta cự tuyệt họ cũng cứ vào. Như vậy là ta phải tiếp xúc, phải nói chuyện với họ, và nói chuyện với họ là ta phải có thế mạnh, thế mạnh đó là nước Việt Nam đã giành được độc lập từ tay Nhật. Như vậy là khi Nhật đầu hàng thì ta phải cướp lấy thời cơ làm tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Việc này ta có thể làm được vì ta đã có cơ sở quần chúng trong toàn quốc. Và quân đội của Pháp thì sau khi bị Nhật đáo chính đã tan rã, còn quân bảo an theo Nhật thì phần nhiều đã chịu ảnh hưởng của ta. Hội nghị họp ngắn gọn. Trừ một số đồng chí phải ở lại để tham gia Quốc dân Đại hội, còn nữa là về địa phương và đơn vị để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Riêng tôi được giao nhiệm vụ làm Bí thư Khu giải phóng ở lại Việt Bắc để tiếp tục củng cố và phát triển chính quyền cách mạng, đề phòng lúc lực lượng ta phải trở lại Việt Bắc.
Ngày 16-8-1945, Quốc dân Đại hội họp ở đình Tân Trào, do Tổng bộ Việt Minh triệu tập. Đại biểu các đảng phái chính trị, các đại biểu đoàn thể nhân dân và đại biểu các dân tộc độ 60 người tham gia. Tôi tham gia Đại hội với tư cách là Ủy viên Tổng bộ Việt Minh.
Ở Quốc dân Đại hội, với danh nghĩa là người lãnh đạo của Việt Minh, Bác phân tích tình hình thế giới và trong nước cũng như đã phân tích ở Hội nghị toàn quốc của Đảng. Đồng thời giới thiệu những chủ trương lớn của Việt Minh là đoàn kết tất cả các lực lượng nhân dân để đánh Pháp, đánh Nhật, xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lúc này, Nhật đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, nên Bác cũng nói đến vấn đề quân Đồng minh vào tiếp quản Đông Dương. Bác đặt câu hỏi, bất kể một nước nào của phe Đồng minh vào thì ta phải thế nào? Nếu ta chống lại, thì có nghĩa là ta cự tuyệt quân Đồng minh, như vậy là về danh nghĩa không thuận. Ta phải nói chuyện với họ, mà nói chuyện với họ thì ta phải có một cái thế mạnh, thế mạnh ấy là chính quyền, là đại biểu của nước Việt Nam đã độc lập. Chúng ta phải gấp rút phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong phạm vi toàn quốc từ tay Nhật. Nhưng đối với Nhật, chúng ta cũng phải khôn khéo thuyết phục để họ không chống lại ta. Ta có thể làm được như thế vì Nhật đã đầu hàng, vì ta có sức mạnh của nhân dân do Việt Minh lãnh đạo. Ta lại có khu giải phóng, tiến có thể công, lui có thể thủ. Chúng ta phải đoàn kết nhất trí, kiên quyết vượt mọi khó khăn giành lại độc lập cho Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam mới, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đó là phương châm chung, chúng ta phải nắm vững. Nhưng chúng ta cũng phải tính đến một tình thế khó khăn nhất có thể xảy ra là, quân Pháp vào với một lực lượng mạnh, bất chấp tất cả một mực liều lĩnh tiến công ta, lại được Anh, Mỹ hết sức ủng hộ cũng có thể được cả sự chấp thuận của Quốc dân đảng Trung Quốc, thì ta phải thế nào? Ta phải đánh, đánh với giáo mác, với tất cả vũ khí thô sơ, thà chết không chịu làm nô lệ. Đồng thời với sự kiên quyết đánh, ta vẫn phải đàm phán với Pháp. Đàm phán thế nào? Để có thể giảm bớt sự hy sinh của ta, để có thể tranh thủ được sự đồng tình của nhân dân Pháp và dư luận thế giới; ta có thể đòi Pháp phải thừa nhận nước Việt Nam độc lập trong khuôn khổ khối liên hiệp Pháp, có quốc hội, có chính phủ, có quân đội, có tài chính và chính sách ngoại giao riêng; chúng ta đảm bảo quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam; sau năm năm thì nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Ta đặt điều kiện như vậy mà Pháp không chấp nhận hoặc chấp nhận giả dối thì ta kiên quyết đánh, ta tuy yếu nhưng chính nghĩa thuộc về ta, sự đồng tình của nhân dân Pháp và dư luận thế giới thuộc về ta, thì ta nhất định thắng.
Nghe xong, mọi người đều phấn khởi, nhất trí tán thành những chủ trương lớn và mệnh lệnh tổng khởi nghĩa của Việt Minh, đồng thời cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, để kêu gọi và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa.
Quốc dân Đại hội kết thúc, mọi người gấp rút chuẩn bị về địa phương. Các đồng chí Trung ương ở miền xuôi đã về ngay sau Hội nghị toàn quốc của Đảng. Anh Võ Nguyên giáp và một số cán bộ quân sự chuẩn bị mang bộ đội về chiếm Thái Nguyên. Bác cũng chuẩn bị về xuôi, còn tôi thì như Trung ương đã quyết định, phải ở lại Tân Trào để củng cố hậu phương làm căn cứ cho cuộc khởi nghĩa do Việt Minh lãnh đạo đương chuẩn bị bùng nổ.
Về vấn đề đàm phán với Pháp là một vấn đề Bác đã nói rõ trong Quốc dân Đại hội ở Tân Trào, và sau Cách mạng tháng Tám Bác đã đàm phán với Xanh-tơ-ni đi đến Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946. Nhưng về sau trong tài liệu về Quốc dân Đại hội Tân Trào ta tránh đi không nói đến. Tôi thấy việc này cần nói rõ, đây là một chủ trương rất sáng suốt có tình có lý xuất phát từ chỗ nhìn xa thấy rộng, từ chỗ biết người, biết ta. Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi chính là nhờ có sự nhìn xa thấy rộng, sự chỉ đạo sáng suốt vừa kiên quyết chiến đấu vừa có sách lược mềm dẻo của Bác đã tranh thủ được một hoàn cảnh hết sức có lợi cho mình.
*
Cùng ở Tân Trào với tôi có anh Hoàng Hữu Nam, phụ trách điện đài để liên lạc với Trung ương, có anh Lê Giản và chị Châu giúp việc. Được mấy hôm, chúng tôi đang chuẩn bị triển khai công tác, thì được tin quân Nhật ở Thái Nguyên đã giao cho ta một số vũ khí và để cho quân ta tự do đi qua Thái Nguyên về xuôi. Tiếp đó là tin mừng liên tiếp dội đến.
Ngày 19 tháng 8, nhân dân Hà Nội vùng dậy giành chính quyền, đó là ngày mà sau này chúng ta gọi là “Cách mạng Tháng Tám”.
Ngày 21 tháng 8, Việt Minh điện vào Huế yêu cầu Bảo Đại thoái vị. Bảo Đại liền đánh điện mời Đại biểu Việt Minh vào Huế tiếp thu chính quyền.
Ngày 24 tháng 8, Bảo Đại tuyên bố xin làm công dân nước Việt Nam độc lập.
Ngày 25 tháng 8, tại Hoàng cung Huế, Bảo Đại làm lễ trao ấn kiếm cho cán bộ Việt Minh là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận.
Ngày 30 tháng 8, Bác về đến Hà Nội. Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, gồm:
Chủ tịch kiêm Bộ trưởng
Bộ ngoại giao
Hồ Chí Minh
Nội vụ
Võ Nguyên Giáp
Quốc Phòng
Chu Văn Tấn
Tài Chính
Phạm Văn Đồng
Kinh tế
Nguyễn Mạnh Hà
Lao động
Lê Văn Hiến
Thanh niên
Dương Đức Hiền
Giáo dục
Đặng Thai Mai
Tư pháp
Vũ Trọng Khánh
Giao thông công chính
Đào Trọng Kim
Y tế vệ sinh
Phạm Ngọc Thạch
Xã hội
Nguyễn Văn Tố
Tuyên truyền
Trần Huy Liệu
Bộ trưởng không bộ
Cù Huy Cận, Nguyễn Văn Xuân
Trần Huy Liệu và Nguyễn Văn Xuân trước là đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng, sau gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
Ngày mồng hai tháng chín (2-9-1945), hơn năm mươi vạn quần chúng họp mít tinh ở vườn hoa Ba Đình. Cờ đỏ sao vàng tung bay ngập trời. Đúng ba giờ chiều, Bác bước lên lễ đài với tư cách là Chủ tịch Chính phủ lâm thời, đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Phối hợp với Hà Nội, và các nơi trong toàn quốc, ngày 24 tháng 8, Sài Gòn cũng vùng dậy, treo cờ đỏ sao vàng khắp thành phố, và ngay đêm hôm đó khâm sai đại thần Hồ Văn Ngà xin giao quyền cho Việt Minh.
Ngày 25 tháng 8 ở thị sảnh Sài Gòn, Ủy ban hành chính Nam bộ, Chủ tịch là Trần Văn Giàu ra mắt nhân dân và kêu gọi toàn thể nhân dân đại đoàn kết.
Ngày 2 tháng 9, hàng chục vạn quần chúng họp mít tinh ở sau nhà thờ Đức Bà để nghe tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ tịch đọc tại Hà Nội.
Ngày 4 tháng 9, một cuộc họp Việt Minh mở rộng tại tòa thị sảnh Sài Gòn, mời đại biểu các đoàn thể nhân dân thành lập “Ủy ban nhân dân Nam bộ”, thay cho Ủy ban hành chính Nam bộ. Trần Văn Giàu hôm trước là Chủ tịch Ủy ban hành chính nay là Ủy viên của Ủy ban nhân dân, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch là Chủ tịch.
Được những tin tức như trên, chúng tôi rất phấn khởi, nhưng cũng rất nóng ruột. Để nắm tình hình cụ thể hơn, chúng tôi phái anh Hoàng Hữu Nam về Hà Nội, thì anh được lệnh Trung ương bảo ở lại Hà Nội làm Thứ trưởng Bộ Nội vụ giúp cụ Huỳnh Thúc Kháng mới được Hồ Chủ tịch mời từ Quảng Nam ra làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay anh Võ Nguyên Giáp. Thế là anh Hoàng Hữu Nam không trở lại Tân Trào nữa. Độ hơn một tuần sau, tôi lại đích thân về Hà Nội vừa gặp lúc năm mươi vạn nhân dân Hà Nội đang biểu tình phản đối việc quân đội Anh giúp Pháp chiếm Ủy ban nhân dân Nam bộ [2] . Tôi đi thẳng vào Bắc bộ Phủ, nơi Chính phủ lâm thời làm việc, gặp Bác và các đồng chí Trung ương để xin ý kiến về công tác. Bác nói: Trọng tâm công tác ngày nay là “bảo vệ chính quyền”, tôi cũng phải thu xếp về Hà Nội gấp để cùng Trung ương nắm vững thời cuộc. Thế là tôi phải quay về Tân Trào thu xếp mọi việc rồi đưa cả anh Lê Giản, chị Châu cùng về Hà Nội.
Về đến Hà Nội, tôi giới thiệu anh Lê Giản và chị Châu với anh Nguyễn Lương Bằng để phân phối công tác, còn tôi thì ở một chỗ với Bác tại nhà anh Trịnh Văn Bô, phố Hàng Đào, sau chuyển đến ngôi nhà số 8 phố Hàng Trống bên cạnh nhà hội quán “Khai trí tiến đức” cũ, trông thẳng ra nhà Thủy Tạ ở hồ Hoàn Kiếm [3] .
Không bao lâu, Trung ương quyết định anh Chu Văn Tân về Việt Bắc nắm Khu giải phóng, anh Giáp phụ trách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng tư lệnh Vệ quốc quân [4] , tôi làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Ủy viên chính tri Vệ quốc quân toàn quốc.
Lúc này quân Anh đã vào miền Nam gây tội ác. Còn quân Trung Quốc vào Việt Nam thì không phải là quân Trương Phát Khuê như đã chuẩn bị từ năm 1940-1941, mà là quân Vân Nam do tướng Lư Hán chỉ huy. Trương Phát Khuê thì chỉ phái Tiêu Văn [5] vào Việt Nam với danh nghĩa là Đoàn đại biểu chỉ đạo giúp cho Việt Nam cách mạng đồng minh hội thành lập chính phủ ở Việt Nam. Âm mưu của Tưởng Giới Thạch trong việc điều quân Vân Nam vào Việt Nam là cốt để thực hiện việc hất cẳng Long Vân ở Vân Nam cũng như trước kia đã âm mưu hất cẳng Trần Tế Đường ở Quảng Đông, Bạch Sùng Hy ở Quảng Tây v.v…
Việc quân Anh và quân Trung Quốc vào tiếp quản Việt Nam đã tạo nên một tình thế cực kỳ phức tạp sau Cách mạng Tháng Tám.
VI. Những ngày tháng sau cách mạng tháng Tám
Những ngày tháng sau Cách mạng Tháng Tám là những ngày tháng rất căng thẳng, chúng ta phải đối phó với quân Nhật, đối phó với quân Anh ở phía nam vĩ tuyến 16 và quân Tưởng ở phía bắc vĩ tuyến 16, đối phó với quân Pháp được Anh, Mỹ ủng hộ trở lại Đông Dương hòng đặt lại nền bảo hộ đối với Đông Dương như trước kia.
1. Về việc đối phó với quân Nhật
Quân Nhật tuy đã đầu hàng vô điều kiện nhưng họ nói là đầu hàng phe Đồng minh chứ không đầu hàng Việt Minh. Họ không chịu giao vũ khí cho ta, cá biệt có chỗ họ còn gây khó khăn cho việc hoạt động của ta nữa.
Đối với quân Nhật, Trung ương chủ trương chủ yếu là dùng phương pháp thuyết phục. Nói cho họ biết Việt Nam là của nhân dân Việt Nam. Trước kia Pháp xâm chiếm, và gần đây Nhật xâm chiếm, nhân dân Việt Nam đều chống lại. Ngày nay nhân dân Việt Nam đã vùng dậy giành tự do độc lập cho mình, thì các ông cần phải ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Các ông không giao vũ khí cho chúng tôi, thì khi quân Đồng minh đến, các ông cũng phải giao cho quân Đồng minh. Như vậy giao vũ khí cho chúng tôi là các ông đã làm một việc nghĩa, các ông sẽ được nhân dân Việt Nam hoan ngênh mà không mất gì hết. Nếu các ông đối chọi với nhân dân Việt Nam thì chúng tôi phải cương quyết chống lại, ít nhiều các ông vẫn phải hy sinh, và hy sinh như vậy đối với các ông ngày nay mà nói thì chỉ là một cái chết uổng trong khi đáng được sống. Nước Việt Nam ngày nay đã là một nước độc lập, các ông nên tỏ ra là người biết điều, ủng hộ nền độc lập của nhân dân Việt Nam.
Cách giải thích này làm cho người Nhật thấy có lẽ phải. Nhưng dù sao họ vẫn phải để vũ khí nộp cho quân Đồng minh. Có nơi họ kín đáo giao cho ta một số, cũng có nơi ta mua họ một số. Còn đại bộ phận là họ giữ thái độ trung lập không can thiệp đến sự hoạt động của ta. Cũng có một số người Nhật sợ bị quân Đồng minh báo thù, nên nhờ ta che chở, cho họ trà trộn vào trong nhân dân ta. Số người này tuy ít, nhưng ở đâu cũng có, có người được chúng ta đối xử tốt, sau này chúng ta kháng chiến chống Pháp, họ còn giúp ta huấn luyện quân sự, hoặc làm một số việc phục vụ như lái xe, sửa chữa máy móc v.v. . . Một vài người cụ thể mà tôi còn nhớ là Lam Sơn, đại tá quân đội Nhật và Thanh Tùng, trung úy quân đội Nhật đã giúp ta ở Nghệ An khi tôi là Bí thư Quân khu bốn và sau khi về Nhật, họ là nhân vật tích cực trong Hội hữu hảo Nhật – Việt.
Việc đối phó với quân Nhật tuy cũng phức tạp nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Khi quân Đồng minh đến thì thuộc quyền quân Đồng minh, ta không phải đối phó nữa.
2. Về việc đối phó với quân Anh ở miền Nam
Quân Anh nguyên trước kia được sự thỏa thuận của Mỹ, phụ trách chiến khu miền Nam kể từ vĩ tuyến 16 trở xuống, nên khi Nhật đầu hàng, thì tự nhiên là quân Anh có quyền giải giáp quân Nhật trong phạm vi chiến khu của mình.
Ngày 12-9-1945, tức là sau ngày quân Nhật đầu hàng (15-8) gần một tháng, quân Anh do thiếu tướng Gơ-la-xây [6] chỉ huy 1.400 quân [7] , phần lớn là người Ấn Độ, đổ bộ vào Sài Gòn.
Ngày 20-9-1945, quân Anh ra thông cáo cấm báo chí Việt Nam không được xuất bản, cấm người Việt không được mang vũ khí.
Ngày 21-9-1945, quân Anh dùng tàu chiến của mình chở quân Pháp vào Sài Gòn, đồng thời ra lệnh thiết quân luật cấm người Việt không được hội họp, không được ra phố kể từ 9 giờ tối cho đến 5 giờ sáng.
Ngày 22-9-1945, quân Anh chiếm Khám Lớn Sài Gòn và thả 5.000 tù binh Pháp trước kia bị Nhật bắt giam giữ, đồng thời cho phép người Pháp lấy súng đạn trong kho vũ khí của Nhật, thay quân Nhật đóng giữ các bến tàu, kho tàng và xưởng đóng tàu Ba Son.
Ngày 23-9-1945, quân đội Anh che chở cho quân đội Pháp chiếm Sở cảnh sát Trung ương, kho bạc; đồng thời chiếm luôn cả Tòa thị chính Sài Gòn, trụ sở Ủy ban nhân dân Nam bộ. Thành phố Sài Gòn nói chung là bị quân Pháp kiểm soát.
Ngày 5-10-1945, Pháp phái tướng Lơ-cơ-le [8] đưa quân Âu-Phi tăng viện cho Sài Gòn, đồng thời cho quân nhảy dù xuống Cam-pu-chia và Lào, với mục đích là chiếm lại toàn bộ Đông Dương.
Ngày 12 tháng 10, Pháp tung quân ra chiếm Gia Định, Gò Vấp và Phú Mỹ.
Ngày 23 tháng 10 chiếm Thủ Dầu Một và Biên Hòa [9] .
Ngày 29 tháng 10 chiếm Vĩnh Long.
Ngày 30 tháng 10 chiếm Cần Thơ.
Ngày 1 tháng 2 năm 1946, quân Pháp chiếm Ban Mê Thuột, rồi đổ bộ chiếm Nha Trang, Khánh Hòa và Đà Lạt. Mấy hôm sau thì thị trấn các tỉnh Gò Công, Mỹ Tho, Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau đều bị quân Pháp chiếm đóng.
Trước tình hình đó, Ủy ban nhân dân Nam bộ phải rút về Bến Tre, cắt đứt cầu phà, phá hoại đường sá, tổ chức cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng thời còn phải đối phó với một lực lượng tự xưng là quốc gia do một đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng là Nguyễn Hòa Hiệp cầm đầu cướp bóc nhân dân và phá hoại kháng chiến.
Để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến miền Nam, miền Bắc đã liên tiếp phái những đội quân Nam tiến do các anh Hoàng Đình Ròng [10] , Đàm Minh Viễn và sau là Nguyễn Bình dẫn đầu, sát cánh với nhân dân miền Nam chống Pháp. Các anh này đều đã hy sinh ở miền Nam trong khi làm nhiệm vụ.
3. Về việc đối phó với quân Tưởng ở miền Bắc
Ở miền Bắc hai mươi vạn quân Tưởng do tướng Lư Hán chỉ huy từ Vân Nam vào để giải giáp quân Nhật, và một đơn vị do tướng Tiêu Văn chỉ huy từ Quảng Tây vào với danh nghĩa là đại biểu Trương Phát Khuê giúp cho Việt Nam cách mạng đồng chí hội thành lập Chính phủ. Đây mới là một vấn đề cực kỳ phức tạp.
Cả hai lực lượng của Lư Hán và Tiêu Văn vào Việt Nam với một nhiệm vụ giao phó từ Trùng Khánh là “Diệt Cộng cầm Hồ”, nghĩa là “Diệt cộng sản, bắt Hồ Chí Minh” đồng thời dựng lên một chính phủ bù nhìn tay sai đắc lực cho Quốc dân đảng Trung Quốc.
Về bọn Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ thì Lư Hán cũng như Tiêu Văn đều biết từ trước là những người hoạt động với danh nghĩa Việt Nam Quốc dân đảng, nhưng là người của Trùng Khánh, ở Vân Nam là để theo dõi hành động của Long Vân, cũng như ở Quảng Tây là để theo dõi hành động của Trương Phát Khuê, cho nên lúc Lư Hán đi máy bay vào Hà Nội, Vũ Hồng Khanh xin đi theo, Lư Hán đã từ chối không cho đi theo. Mãi đến cuối tháng 9-1945, Vũ Hồng Khanh mới đi đến thị trấn Lào Cai thì chính quyền ở đó đã vào tay nhân dân và được bộ hạ của tướng Lư Hán là Lý Du Sinh ủng hộ. Vì vậy, Vũ Hồng Khanh không hoạt động gì được, bèn đổi đường đi đến Sa Pa, chỉ đạo cho bọn Triệu Việt Hùng chiếm Sa Pa, thì Lý Du Sinh cho bắt giam bọn Triệu Việt Hùng và giữ luôn cả Vũ Hồng Khanh, chỉ sau khi Trùng Khánh hạ lệnh phải thả, thì mới được thả. Tuy vậy, sau này ở một số nơi như Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ, Việt Trì, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Hải Ninh v.v…. chúng vẫn dựa vào sự ủng hộ của quân Tưởng, lập được cơ quan tuyên truyền phản cách mạng trong vòng bao vây của quân và dân ta ở chung quanh.
Ngày 20-10, khi Vũ Hồng Khanh đến Hà Nội thì các đảng viên của Việt Quốc nhưng bấy giờ đã theo Việt Minh như Nguyễn Văn Xuân, Bùi Văn Hách, Phạm Quang Chúc, Trần Ngọc Tuân, Trần Đức Chính đã đứng ra lập “Ủy ban cải tổ Quốc dân đảng”. Bọn Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ tuy không được Tiêu Văn và Lư Hán đồng tình, nhưng được Trùng Khánh ủng hộ, nên vẫn hoạt động ráo riết, đã kết hợp với bọn Nguyễn Tường Tam, Trương Tử Anh, Đỗ Tiến Hỷ, thu hút được một số quan lại, công chức và tư sản vào đảng, bọn này đã dựa vào sự che chở của quân Tưởng mà làm bậy, nên quần chúng rất ghét.
Đến như Nguyễn Hải Thần thì từ đầu tháng 9 đã vào Lạng Sơn, dựa vào uy quyền và lực lượng của Tiêu Văn, đã tước vũ khí của một số đơn vị bộ đội ta và triệu tập bọn quan lại, thân hào nói xấu Việt Minh. Khi đến Hà Nội, được bọn Đại Việt tôn làm lãnh tụ tối cao, lập trụ sở ở đường Quan Thánh và một số nơi khác, do Nhượng Tống làm Bí thư, Nguyễn Triệu Luật làm Chính uỷ, Tạ Nguyên Hối làm Ủy viên kinh tài. Các trụ sở đều treo cờ Việt Nam cách mạng đồng minh hội. Ngày song thập [11] , Việt Nam cách mạng đồng minh hội tổ chức kỷ niệm ở Nhà hát lớn, Tiêu Văn đến tham gia, đã chỉ thị cho Nguyễn Hải Thần chỉ được nói về Cách mạng Tân Hợi, không được nói lung tung ra ngoài vấn đề.
Để Tiêu Văn và Lư Hán bớt lo ngại, ngày 11-11-1945, Hồ Chủ tịch công khai tuyên bố “Đảng Cộng sản Đông Dương tự giải tán”, người cộng sản sẽ là những hội viên của “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác”. Về việc này, tôi được phái vào các tỉnh Khu bốn để giải thích cho các Đảng bộ biết, vì thời cục chúng ta phải tuyên bố như vậy, nhưng Đảng vẫn tồn tại, vẫn bí mật hoạt động để lãnh đạo nhân dân đấu tranh.
Việc tuyên bố Đảng cộng sản tự giải tán đã làm cho tình hình bớt căng thẳng.
Ngày 19 tháng 11, Tiêu Văn lấy danh nghĩa là đại biểu Trương Phát Khuê đứng ra tổ chức một cuộc hội nghị hòa giải có Quốc dân đảng, Việt Nam cách mạng đồng minh hội và Việt Minh tham gia. Sau khi bàn bạc, cả ba phái đều thỏa thuận thành lập một Chính phủ liên hiệp, quân đội các bên không dùng vũ lực giải quyết những vấn đề bất đồng, đồng thời chấm dứt việc công kích nhau trên báo chí, và cuối cùng đồng ý lập một đội quân đưa vào Nam cùng đồng bào miền Nam kháng chiến. Cố nhiên đội quân ấy đều là người Việt Minh.
Chúng ta tán thành việc thành lập Chính phủ liên hiệp. Nhưng đề nghị cứ tiến hành tổng tuyển cử đúng ngày 23 tháng 12 như đã quy định để lập ra Quốc hội, rồi Quốc hội sẽ bầu ra Chính phủ thì dân chủ hơn. Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần lấy cớ chuẩn bị không kịp, đề nghị hoãn. Ta đồng ý hoãn đến ngày 6 tháng 1 năm 1946 sẽ tổng tuyển cử. Nhưng đến ngày đó, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần vẫn nói chuẩn bị không kịp, đòi phải để 50 ghế cho Quốc dân đảng và 20 ghế cho Việt Nam cách mạng đồng minh hội mà không cần phải qua tuyển cử. Ta đồng ý và cứ tiến hành tổng tuyển cử đúng ngày 6-1-1946. Ở miền Bắc cuộc bầu cử rất thuận tiện. Ở miền Nam thì một số thành phố phải bầu cử trong khói lửa, nhưng nhân dân vẫn tích cực tham gia.
Tổng tuyển cử xong, ngày 24-2-1946, do Tiêu Văn dàn xếp một cuộc họp ba phái đã thỏa thuận và ký kết việc lập Chính phủ liên hiệp do Hồ Chí Minh là Chủ tịch. Nguyễn Hải Thần là Phó Chủ tịch, Việt Minh và Đảng Dân chủ nắm bốn bộ, còn Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ thì dành cho các nhân sĩ trung lập, không đảng phái.
Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp kỳ thứ nhất, thừa nhận 70 ghế của Quốc dân đảng và của Việt Nam cách mạng đồng minh hội và làm một số việc như sau:
Bầu ra Chính phủ liên hiệp kháng chiến gồm:
Chủ tịch
Hồ Chí Minh
Phó Chủ tịch
Nguyễn Hải Thần
Ngoại giao
Nguyễn Tường Tam
Kinh tế
Chu Bá Phượng
Y tế
Trương Đình Chí
Giáo dục
Đặng Thai Mai
Tài chính
Lê Văn Hiến
Tư pháp
Vũ Đình Hòe
Giao thông công chính
Trần Đăng Khoa
Nội vụ
Huỳnh Thúc Kháng
Quốc phòng
Phan Anh
Bộ trưởng không bộ
Bồ Xuân Luật
Thành lập Ban cố vấn do Vĩnh Thụy [12] là Cố vấn tối cao đứng đầu.
Thành lập Ủy ban kháng chiến gồm 9 ủy viên, Võ Nguyên Giáp là Chủ tịch, Vũ Hồng Khanh là Phó Chủ tịch.
Thành lập Ban thường trực Quốc hội, Chủ tịch là Nguyễn Văn Tố, thành viên gồm có Lê Tư Lành, Trần Tấn Thọ là đại biểu Việt Nam cách mạng đồng minh hội do Quốc hội thừa nhận chứ không phải do dân tuyển cử.
Tuy ta đã nhân nhượng như vậy để tranh thủ hòa bình nhưng Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh vẫn dựa vào sự che chở của quân Tưởng chống đối ta ra mặt. Ở đền Quan Thánh bên cạnh Hồ Tây chúng lập đài phát thanh nói xấu Việt Minh suốt ngày. Các ổ hoạt động của bọn Việt Quốc lập ở trường tiểu học Đỗ Hữu Vỹ [13] vẫn hoạt động ráo riết, mặc dù ngày 28-2-1946, Tưởng Giới Thạch vẫn ký hiệp ước thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương mà chúng vẫn không hay biết gì cả. Đến khi quân đội của Tưởng rút, thì chúng cũng lẽo đẽo rút theo. Một số người bị chúng bỏ rơi thì đều đầu hàng ta, ta vẫn để yên, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, quân Pháp tập kết vào dưới vĩ tuyến 17, một số trong bọn này đã đi theo quân Pháp vào miền Nam.
Vì sao theo mệnh lệnh của Trùng Khánh là phải “Diệt cộng sản, bắt Hồ Chí Minh”, mà với hơn hai mươi vạn quân đội vẫn không thực hiện được? Là vì Lư Hán cũng như Tiêu Văn đều biết Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh là phẩm chất không tốt, Nghiêm Kế Tổ là đặc vụ của Trùng Khánh được giao nhiệm vụ dò xét hoạt động của họ. Tiêu Văn là tham mưu cao cấp của Trương Phát Khuê đã chuẩn bị việc Hoa quân nhập Việt từ những năm 1940-1941, nay Tưởng không tin mà để cho quân Vân Nam nhập Việt, nên không thích thú lắm, đồng thời đối với Hồ Chủ tịch cũng đã có lòng kính nể từ lúc còn ở Liễu Châu. Riêng về Lư Hán thì biết rất rõ việc Tưởng Giới Thạch cho quân Vân Nam vào Việt Nam là âm mưu điệu hổ ly sơn để hất cẳng Long Vân và khống chế Vân Nam, nên trong lòng nhiều nỗi bực dọc, làm việc với một thái độ tiêu cực.
Nhưng điều quan trọng là chúng ta đã nắm được nhân dân, khi quân Tưởng vào, dọc đường đã gặp phải cảnh tẩy chay của nhân dân. Nếu bây giờ thẳng tay quá, Việt Minh sẽ vận động khắp nơi làm vườn không nhà trống thì quân đội sẽ gặp nhiều khó khăn. Còn bắt Hồ Chí Minh thì tất sẽ gây một mối hận thù quá lớn, toàn dân Việt Nam sẽ nổi dậy chiến đấu, thì biết đâu lại bị Tưởng Giới Thạch đổ tội vào đầu, cho là bất lực và trừng trị.
Hơn nữa, trong phạm vi toàn miền Bắc, tuy quân Tưởng đã làm nhiều việc ngang ngược, cướp bóc hãm hiếp nhân dân, nhưng cán bộ và nhân dân ta tuyệt đối tin theo Hồ Chủ tịch, tích cực chuẩn bị chiến đầu nhưng tránh tất cả mọi sự khiêu khích. Tôi còn nhớ việc cán bộ một số nơi như ở Chèm, tước súng của một trung đội quân Lư Hán, Hồ Chủ tịch liền phái Anh Nguyễn Đức Quì đến bắt buộc phải trả lại đủ số vũ khí cho quân Lư Hán và thi hành kỷ luật với người cán bộ chủ trương làm việc đó.
Nắm được dân, tích cực chuẩn bị chiến đấu nhưng không nóng nảy trước sự khiêu khích, đồng thời khéo làm công tác với Tiêu Văn và Lư Hán đó là bí quyết để phá tan cái ảo tưởng ngông cuồng “Diệt cộng sản, bắt Hồ Chí Minh” của Tưởng Giới Thạch. Phải nói rằng tình thế muôn cân một sợi tóc như thế, nếu không có Hồ Chủ tịch đứng mũi chịu sào, đưa con thuyền Việt Nam vượt qua nhiều thác ghềnh, thì không thể giữ được chính quyền non trẻ, bảo toàn và gây dựng được lực lượng để đối phó với tình thế hết sức phức tạp đang sẵn sàng diễn ra trên buớc đường đi tới của chúng ta.
Rõ ràng việc đối phó với quân Tưởng ở miền Bắc đến đây xem như là đã kết thúc thắng lợi. Nhưng nếu khi Hồ Chủ tịch bị giữ ở Liễu Châu không được Trương Phát Khuê và Tiêu Văn kính nể, không được bầu làm Ủy viên Trung ương hội Việt Cách, không được tự do về nước để kịp thời chuẩn bị tư tưởng cho cuộc khởi nghĩa; đặc biệt là sau Cách mạng Tháng Tám, trong việc đấu tranh với Việt Quốc, Việt Cách, nếu Tiêu Văn không đóng một vai trò dàn xếp đắc lực, không công nhận vai trò quan trọng của Hồ Chủ tịch trong Chính phủ liên hiệp, thì tình hình Việt Nam lúc đó có thể phát triển theo chiều hướng khó khăn cho cách mạng nhiều hơn. Vì vậy đối với thái độ của Trương Phát Khuê và Tiêu Văn trong lúc đó, đứng về lợi ích cách mạng Việt Nam mà nói, là một thái độ có tác dụng tích cực, cần được đánh giá một cách khách quan.
Tiện đây, tôi thấy cần nói một vài ý nghĩ về Trần Bảo Thương, chủ nhiệm Chỉ huy sở Quân khu bốn ở Tịnh Tây, người đã hạ lệnh bắt tôi hồi cuối năm 1941 theo đề nghị của Nguyễn Hải Thần và Trần Báo. Nếu Trần Bảo Thương như những người Quốc dân đảng phản động khác, thì từ đó tôi đã mất hết điều kiện hoạt động cách mạng. Nhưng Trần Bảo Thương đã coi tôi là một người lãnh đạo của Việt Minh và đối đãi tử tế suốt cả quá trình tôi bị bắt giữ. Cuối cùng Trần đã cấp năm trăm bạc lộ phí và phái người đưa tôi đi Quân khu bốn ở Liễu Châu để giám thị, nhưng không báo cáo gì xấu về tôi. Khi gặp Hồ Chủ tịch ở Liễu Châu, Trần cũng tỏ thái độ kính nể, nhận chuyển bài thơ của Hồ Chủ tịch có kèm theo bài họa của ông về Cao Bằng cho chúng tôi, và thông báo cho biết Hồ Chủ tịch đã được tự do. Tất cả những việc đó tỏ ra Trận Bảo Thương là một người có phong độ chính trị đúng đắn, đặc biệt là mới đây được biết, ở Đài Loan, Trần Bảo Thương đã bị xử bắn vì tội “thân Cộng”. Như vậy, chúng ta có thể nói Trần Bảo Thương là một người tiến bộ, một nhân sĩ dân chủ yêu nước.
4. Bây giờ nói đến việc đối phó với quân Pháp
Như mục V đã nói, khi ở Quốc dân Đại hội ở Tân Trào, Bác đã nêu vấn đề nếu Đồng minh cho Pháp tiếp quản Đông Dương thì thế nào? Và Bác đã kết luận: Như vậy là ta phải nói chuyện với Pháp, mà nói chuyện với Pháp thì ta phải có thế mạnh, thế mạnh ấy là chính quyền, là đại biểu của một nước Việt Nam đã giành được độc lập từ tay quân Nhật. Bác đánh giá như vậy là hoàn toàn đúng, vì cuối năm 1944 Trương phát Khuê để Bác tự do về nước, Bác đã nhân dịp đưa một phi công Mỹ từ Cao Bằng qua Côn Minh gặp Bộ chỉ huy không quân Mỹ ở đó, đã mong manh biết việc quân Pháp sẽ vào tiếp quản Đông Dương. Ngày 24 tháng 3 năm 1945, Thủ tướng Chính phủ lâm thời Pháp là Đờ-gôn lại tuyên bố ý đồ muốn trở lại cai trị Đông Dương bằng cách thành lập một liên bang gồm năm xứ Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Ai-lao, Cao Miên trước kia [14] . Như vậy, việc quân Tưởng vào tiếp quản miền Bắc Việt Nam chỉ là việc nhất thời mà ta cần phải chịu đựng và khôn khéo đối phó nhất thời, chứ đối tượng phải đối phó lâu dài ở Việt Nam cũng như ở Đông Dương là quân Pháp.
Về phía Pháp, theo sự dàn xếp của Mỹ, cũng có sự bàn bạc thỏa thuận với Tưởng Giới Thạch, để quân Tưởng rút về Trung Quốc, quân Pháp thay thế. Bối cảnh của việc dàn xếp này là vì sau khi quân Nhật đầu hàng, Mỹ muốn Tưởng Giới Thạch tập trung toàn bộ binh lực để tiêu diệt lực lượng của Đảng cộng sản và Quân giải phóng ở Trung Quốc. Muốn thế phải có sự dàn xếp thỏa thuận giữa Pháp-Tưởng. Sự thỏa thuận đó đã đi đến kết quả là ngày 28-2-1946, Tưởng ký hiệp định với Pháp thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Đông Dương, đổi lấy việc Pháp trả lại các tô giới ở Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng Châu, trả lại Quảng Châu Loan và bán lại đường sắt Vân Nam cho Trung Quốc. Còn Tưởng thì cam đoan quân Trung Quốc phải rút khỏi Bắc Việt Nam trước ngày 31 tháng 3 năm 1946. Cố nhiên quân Tưởng chây lười mãi đến tháng 5-1946 để vơ vét thêm một ít rồi mới rút hết.
Thế là việc quân Pháp tiến vào Đông Dương như Hồ Chủ tịch đã đoán trước từ lúc ở Quốc dân Đại hội Tân Trào là một sự thật đã xuất hiện và cách giải quyết cũng vẫn như Hồ Chủ tịch đã nói ở Quốc dân Đại hội là phải nói chuyện với Pháp.
Qua một quá trình bàn bạc, ngày 6 tháng 3 năm 1946, Hiệp định sơ bộ được ký kết giữa Hồ Chủ tịch và Xanh-tơ-ni, Tổng đại diện của Pháp ở Hà Nội [15] . Hiệp ước nói rõ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nước tự do trong Khối liên hiệp Pháp, có chính phủ, có nghị viện, có quân đội và tài chính riêng. Pháp được đưa vào Việt Nam thay thế quân Tưởng để giải giáp quân Nhật ở miền Bắc. Hai bên Việt, Pháp ngừng bắn ở miền Nam tạo không khí thuận lợi để mở tiếp cuộc đàm phán giải quyết vấn đề ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và vấn đề quyền lợi kinh tế văn hóa của Pháp ở Việt Nam. Việc thống nhất Nam – Bắc sẽ do toàn dân quyết định. Bản phụ lục Hiệp định còn nói rõ số quân Pháp đưa vào thay thế quân Tưởng là một vạn năm nghìn người (lúc này quân Pháp không có người Việt mà chỉ có người Âu-Phi), và chỉ được đóng ở một số nơi trên miền Bắc do ta chỉ định. Hiệp định cũng quy định rõ, mười tháng sau khi ký kết, quân Pháp phải dần dần rút hết khỏi Việt Nam nội trong năm năm.
Ý nghĩa quan trọng của Hiệp định sơ bộ là Pháp phải thừa nhận sự tồn tại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và phải được sự đồng ý của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì mới đưa quân vào và chỉ được đóng quân ở những nơi do ta qui định.
Một ý nghĩa quan trọng nữa của Hiệp định sơ bộ là một vạn năm nghìn quân Âu-Phi của Pháp vào thì hai mươi vạn quân Tưởng phải rút và bọn tay sai là Nguyễn Hải Thần và Việt Nam Quốc dân đảng cũng phải rút. Bọn tay sai này trước có một bộ phận quấy rối bằng quân sự ở một số nơi, nhưng nay đã mất hết chỗ dựa mà lại không kịp rút đi nên phải đầu hàng ta hoặc bị ta tiêu diệt.
Ta vẫn biết Pháp ký với ta như vậy, mục đích là cốt để được đưa quân vào, rồi sau sẽ từng bước dùng vũ lực mở rộng ảnh hưởng tiến tới lật đổ chính quyền của ta, trở lại thống trị toàn cõi Đông Dương. Nhưng ta vẫn ký như vậy để cho hai mươi vạn quân Tưởng rút khỏi miền Bắc, đồng thời cũng để có hoàn cảnh chuẩn bị lực lượng kháng chiến chống Pháp một khi chúng không thi hành đúng hiệp định đã ký kết.
Đi đôi với việc ký Hiệp định sơ bộ với Pháp, Hồ Chủ tịch đã có sự bố trí chiến lược tỉ mỉ: Một bộ phận các anh công tác ở các khu căn cứ cũ, nay lại về chỗ cũ để chuẩn bị chiến đấu; anh Nguyễn Lương Bằng đã tháo dỡ một số máy móc chuyển đi Thái Nguyên xây dựng binh công xưởng; tôi được phái vào Khu Bốn bàn với các anh Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Chí Thanh chuẩn bị mọi mặt, đồng thời đến Thanh Hóa bàn kế hoạch lập khu căn cứ ở núi Nưa, nơi trước kia Nguyễn Huệ đã dùng làm căn cứ tiến quân ra Thăng Long đánh bại đội quân xâm lược của Mãn Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy.
Sau khi ký Hiệp định sơ bộ, Hồ Chủ tịch đã gặp Đắc-giăng-li-ơ ở vịnh Hạ Long và đã thỏa thuận: Quốc hội Việt Nam cử một đoàn đại biểu qua Pháp, đồng thời Pháp cũng cử một đoàn đại biểu qua Việt Nam để cùng với đại biểu Chính phủ ta bàn bạc chuẩn bị mọi việc cần thiết cho việc ký một hiệp ước chính thức ở Pa-ri.
Ngày 16-4-1946, đoàn đại biểu Quốc hội ta do anh Phạm Văn Đồng dẫn đầu lên đường sang Pháp.
Ngày 17-4-1946, đoàn đại biểu Chính phủ ta do anh Võ Nguyên Giáp dẫn đầu, họp hội nghị với đoàn đại biểu Pháp ở Đà Lạt để chuẩn bị cho việc ký kết chính thức ở Pa-ri, nhưng do sự ngoan cố của Pháp, nên đã không thu được kết quả gì.
Ngày 30-5-1946, Hồ Chủ tịch với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp lên đường đi Pa-ri để thương lượng với Chính phủ pháp giải quyết vấn đề thống nhất Nam-Bắc, vấn đề ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và vấn đề quyền kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam như Hiệp định sơ bộ (6-3) đã quy định.
Nhưng trong khi Hồ Chủ tịch đang trên đường đi sang Pháp thì ngày 1 tháng 6, Cao ủy Pháp ở Sài Gòn tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nam kỳ [16] và thành lập Chính phủ Nam kỳ gồm:
Thủ tướng kiêm Nội vụ
Nguyễn Văn Thinh
Phó Thủ tướng
Nguyễn Văn Xuân
Tư pháp
Trần Văn Trọng
Tài chính
Nguyễn Thành Lập
Công chính
Lưu Văn Lang
Canh nông, Thương mại,
kỹ nghệ
Ưng Bảo Toàn
Giáo dục
Nguyễn Thanh Giang
Lao động xã hội
Khương Hữu Long
và một Hội đồng tư vấn Nam kỳ 12 người, trong đó có 4 người Pháp và 8 người Việt quốc tịch Pháp.
Ngày 6-7-1946, Hội nghị Phông-ten-bơ-lô khai mạc. Trong lời phát biểu của mình, đoàn đại biểu ta đã nghiêm khắc phê bình việc quân đội Pháp làm không đúng Hiệp định sơ bộ đã ký kết. Đồng thời kịch liệt lên án việc thành lập nước Cộng hòa Nam kỳ.
Ngày 9 tháng 7, hội nghị họp lần thứ hai thông qua chương trình hội nghị, mỗi tuần họp hai lần vào ngày thứ ba và thứ sáu; bầu ra bốn ủy ban thảo luận các vấn đề chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao.
Nhưng đến ngày 2 tháng 8, Cao ủy Pháp ở Đông Dương là Đắc-Giăng-li-ơ triệu tập hội nghị Đà Lạt có đại biểu Lào là Xa-phung, đại biểu Miên là Châu Long, đại biểu Cộng hòa Nam kỳ là Nguyễn Văn Xuân [17] tham gia, “để xác định nguyên tắc tổ chức Liên bang Đông Dương”.
Đoàn đại biểu của ta ở Phông-ten-bơ-lô tuyên bố: Nếu nhà đương cục Pháp ở Nam kỳ có quyền quyết định vận mệnh của các nước Đông Dương, thì Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 không còn giá trị và Hội nghị Phông-ten-bơ-lô cũng không còn ý nghĩa gì nữa. Đồng thời tuyên bố tạm ngừng Hội nghị Phông-ten-bơ-lô đến lúc nào sự mờ ám ở Đà Lạt được làm sáng tỏ thì sẽ họp. Đoàn đại biểu ta tỏ lòng hy vọng sẽ có lúc họp lại.
Ngày 14-8-1946, Chính phủ Pháp đưa ra một bản dự thảo thanh minh, thừa nhận Hiệp định sơ bộ 6-3 là cơ sở để bàn bạc, nhưng lại nêu ra một lô vấn đề về chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao của Việt Nam đều do Pháp khống chế.
Ngày 18 tháng 8, Đoàn đại biểu ta đưa ra một bản trả lời từng điểm, nêu rõ chủ quyền Việt Nam về các vấn đề, đồng thời đưa ra những đề nghị cụ thể về việc trưng cầu ý dân để nhân dân Nam kỳ tự định đoạt sự quy thuộc của Nam kỳ. Nhưng Pháp không chấp nhận bất kỳ một giải pháp nào của ta.
Đoàn đại biểu ta thanh minh lấy làm tiếc việc Hội nghị Phông-ten-bơ-lô không đạt kết quả mong muốn, rồi rời nước Pháp về nước. Hồ Chủ tịch vẫn còn ở lại để tiếp tục giao thiệp.
Ngày 14-9-1946, Hồ Chủ tịch đại biểu Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mút-tê [18] , Bộ trưởng Bộ thuộc địa, đại biểu Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp ký Tạm ước 14 tháng 9, hứa hẹn tháng Giêng năm 1947 có thể khôi phục Hội nghị Phông-ten-bơ-lô.
Sau khi ký xong Tạm ước, Hồ Chủ tịch cũng về nước.
Ngày 28-10-1946, Quốc hội họp kỳ thứ hai, trao toàn quyền cho Chính phủ đứng đầu là Hồ Chủ tịch để chỉ đạo việc đối phó với mọi tình thế. Đồng thời bầu Ban thường trực Quốc hội để giám sát Chính phủ, gồm 15 người do cụ Bùi Bằng Đoàn là Trưởng ban, hai cụ Tôn Đức Thắng, Phạm Bá Trực [19] là Phó ban. Cụ Tôn Đức Thắng được cử làm quyền Trưởng ban vì cụ Bùi Bằng Đoàn ốm không đến dự được kỳ họp. Tôi cũng được bầu làm một ủy viên trong Ban thường trực Quốc hội.
Ngày 20-11-1946, Pháp gây hấn ở Móng Cái, Tiên Yên, Lạng Sơn.
Ngày 21-11-1946, Pháp gây hấn ở Hải Phòng
Ngày 17-12-1946, Pháp gây vụ thảm sát ở phố Hàng Bún, phố Hàng Than và nhiều nơi khác ở Hà Nội.
Ngày 18-12-1946, Pháp cho quân đội chiếm Bộ Tài Chính và Bộ giao thông. Đồng thời Móc-li-e [20] , tướng chỉ huy quân đội Pháp đưa tối hậu thư đòi tự vệ và công an ta phải hạ vũ khí.
Tình thế đã đến lúc ta phải kháng chiến thật sự.
Ta chỉ để lại một trung đoàn bảo vệ Thủ đô, còn Hồ Chủ tịch và cán bộ cao, trung cấp đều quay lại Việt Bắc. Tôi được phái vào Khu bốn với tư cách là Bí thư Khu đảng ủy, Chủ nhiệm Việt Minh và Đại diện Chính phủ Trung ương tại Khu bốn.
Ngày 19-12-1946, Hồ Chủ Tịch kêu gọi toàn dân đứng dậy chiến đấu. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp bắt đầu.
Lần này tôi hoạt động ở Khu bốn với một hoàn cảnh khá thuận lợi là ba tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh quân Pháp không dám động tới, và được sự cộng tác đắc lực của các anh Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Chí Thanh và các anh trong Khu ủy, Tỉnh ủy, mọi mặt công tác đều được tiến hành tốt. Tháng 3 năm 1948 thì được Trung ương ủy nhiệm qua Thái-lan phụ trách một nhiệm vụ mới.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]tức Mạc Nhất Phàm
[2]4 giờ sáng ngày 23-9 quân Pháp chiếm
[3]ngôi nhà này sau đã bị bom Mỹ ném tan nay không còn nữa
[4]lúc này Giải phóng quân đổi tên là Vệ quốc quân
[5]có Nguyễn Hải Thần và hai đoàn bộ binh đi theo
[6]Douglas Gracey (1894-1964). BT
[7]Khoảng 26.000 lính thuộc Quân đoàn Ấn Độ số 20; 1.400 là số quân Pháp đi kèm. BT
[8]Philippe Leclerc de Hauteclocque (22/12/1902 -28/12/1947) BT
[9]quân Anh -Ấn chiếm rồi giao cho Pháp
[10]Hoàng Đình Giong? BT
[11]ngày 10 tháng 10. (Quốc khánh Trung hoa Dân quốc. BT)
[12]tức Bảo Đại
[13]Đỗ Hữu Vỵ? BT
[14]Tuyên bố Brazzaville
[15]Chính xác là: Cao ủy Cộng hòa Pháp tại Bắc Bắc-kỳ. BT
[16]Nước Cộng hòa Nam kỳ Tự trị.BT
[17]lúc này Thủ tướng là Nguyễn Văn Thinh đã tự sát
[18]Marius Moutet. BT
[19]công giáo
[20]Louis Morliere. BT
=====
Hoàng Văn Hoan
Giọt nước trong biển cả
(Hồi ký cách mạng) 16 kì
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16
Phần thứ năm
Nhiệm vụ mới - chỉnh đốn một số công tác ở hải ngoại (1948-1949)
Tháng 3-1948, anh Phạm Ngọc Thạch từ Thái-lan về nước báo cáo công tác và chuyển lên Trung ương Đảng lời đề nghị của các đồng chí ở Thái-lan, xin Trung ương cử tôi sang Thái phụ trách công tác.
Vừa khéo trong dịp này tôi cũng đang có mặt ở Việt Bắc để xin ý kiến Bác và Trung ương Đảng về việc chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn Đảng bộ Liên khu IV.
Tối hôm ấy, bên bếp lửa ở nơi làm việc của Bác trong rừng Việt Bắc, có cả Bác, anh Trường Chinh, anh Thạch và tôi.
Qua lời báo cáo của anh Thạch thì công tác trên địa bàn Thái-lan hồi này đang triển khai nhiều mặt. Nhưng anh em cán bộ phụ trách trong kiều bào thì có tình trạng “cá mè một lứa”, không ai chịu ai. Ở Băng-cốc tuy đã có cơ quan phái viên Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng anh em phụ trách Việt kiều ở Đông Bắc Thái-lan liên hệ không mật thiết và không hỗ trợ tích cực cho công tác của Phái đoàn, đồng thời anh em ở Phái đoàn cũng hầu như không quan tâm đến việc vận động kiều bào của anh em ở Đông Bắc. Anh Thạch nói: Các đồng chí công tác lâu năm ở Thái-lan đều biết anh Hoan là một cán bộ phụ trách của ta ở bên ấy từ trước. Anh em đề nghị Bác và Trung ương cử anh Hoan sang Thái chỉ đạo công tác thì chắc rằng sẽ đoàn kết được cán bộ, và các mặt hoạt động ở đấy cũng sẽ phát triển một cách thuận lợi hơn.
Bác và anh Trường Chinh hỏi tôi: Thế nào là đồng chí Hoan đi được chứ?
Tôi trả lời: Nếu Bác và Trung ương ủy thác thì tôi xin sẵn sàng nhận nhiệm vụ.
Thế là tôi thu xếp trở vào khu IV, tiến hành xong cuộc Đại hội đại biểu toàn Đảng bộ Liên khu, và bàn giao công tác Bí thư Liên khu ủy cho anh Nguyễn Chí Thanh rồi lại trở ra Việt Bắc để chuẩn bị các thủ tục đi Thái-lan.
Về mặt Đảng, tôi được giới thiệu là Đại diện Trung ương Đảng, có trách nhiệm chỉ đạo toàn diện công tác vận động Việt kiều ở Thái-lan, ở Ấn Độ, Miến Điện, ở Tiệp Khắc và ở Pháp. Về mặt chính quyền, Hồ Chủ tịch ký giấy ủy nhiệm tôi là Đặc phái viên Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở hải ngoại.
Khoảng cuối tháng 5 đầu tháng 6-1948, tôi trở lại Khu IV, về thăm nhà độ hai hôm rồi lên đường sang Thái-lan.
Lần này ở Thái-lan không lâu (1948-1949), nhưng qua những năm trước và sau cách mạng Tháng Tám, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bác, đối phó với tụi phản động, giải quyết những vấn đề trong tình thế nguy nan, tôi đã nắm được một số nhận thức cơ bản về chiến lược và sách lược, nên trong hoàn cảnh sóng gió, tuy là sóng nhỏ gió nhẹ, nhưng phải đứng mũi chịu sào và phải độc lập suy nghĩ, đã giải quyết được một số vấn đề trong tình hình khó khăn phức tạp như:
Chỉnh đốn công tác vận động Việt kiều ở Thái-lan.
Chỉnh đốn công tác Phái đoàn ở Băng-cốc và ở Răng-gun.
Chỉnh đốn công tác giúp đỡ cách mạng Lào, Miên.
Giải quyết một số vấn đề trên đường đi Bắc Kinh.
I. Chỉnh đốn công tác vận động Việt kiều ở Thái-lan
Trước khi đi vào vấn đề chính, tôi thấy cần nhắc lại quá trình hoạt động cách mạng của Việt kiều ở Thái-lan. Năm 1930 sau khi Đảng Cộng sản Xiêm thành lập, Việt kiều hoạt động dưới sự chỉ huy trực tiếp của Đảng Cộng sản Xiêm. Năm 1938 Xiêm ủy quyết định cách mạng Xiêm phải do nhân dân Xiên làm là chính, ngoại kiều chỉ hoạt động trong tổ chức yêu nước của mình. Năm 1941, sau khi Nhật chiếm Việt Nam một năm, Việt Minh ra đời, kêu gọi toàn dân đoàn kết chống Nhật, Pháp. Việt kiều ở Thái-lan [1] hưởng ứng lời kêu gọi đó, chuyển hướng hoạt động cách mạng về Đông Dương. Trong nhiệm vụ chống Nhật, Pháp cứu nước, kiều bào đã đóng góp phần xứng đáng của mình. Nhưng trong việc lãnh, thì Ban lãnh đạo lúc này gọi là Đặc ủy vẫn còn vướng vít một ít tư tưởng của những năm trước kia. Do đó, việc chỉnh đốn công tác vận động Việt kiều đã trở thành một đòi hỏi gấp rút.
Sang Thái-lan, thoạt đầu tôi đến Bưng-càn độ hai hôm, thì anh em đưa tôi vào U-thên, rồi đi Na-khon. Ở đây được tin anh Nguyễn Đức Quì, phái viên Chính phủ đã từ Băng-cốc ra U-bôn dự lễ khánh thành nông trường của Việt kiều mới xây dựng xong. Tôi quyết định đi U-bôn để gặp anh Quì ngay.
Các đồng chí ở U-bôn biết tôi là Ủy viên Trung ương Đảng và là Đặc phái viên của Chính phủ ở hải ngoại, thì muốn xếp đặt cho tôi ăn ở thật đàng hoàng để tỏ sự trọng thị. Nhưng tôi đề nghị cứ xếp cho tôi ở nhà một quần chúng, và giữ bí mật, tôi sẽ tham dự lễ khánh thành nông trường như một người cán bộ thường.
Anh Quì gặp tôi báo cáo tình hình công tác ở Thái. Lúc này Phi-bun Xổng-khram đã nắm chính quyền, những điều kiện thuận lợi cho hoạt động yêu nước của Việt kiều không còn nữa.
Với sự ủy nhiệm của Hồ Chủ tịch, và theo như dự kiến ban đầu khi Bác gặp tôi trước ngày sang Thái-lan, thì Bác có ý định tôi sẽ thay anh Quì làm Đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Thái, để anh Quì về nước nhận công tác khác. Nhưng sau khi nghe báo cáo tình hình, tôi cân nhắc lại vấn đề và thấy rằng cần giữ nguyên vị trí của anh Quì là Đại điện Chính phủ thì có lợi hơn. Trong lúc này nếu thay anh Quì, thì nhà đương cục Thái-lan có thể nhân lúc mình thay đổi đại điện mà phủ nhận luôn cả vai trò Đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với lý do là nước Thái-lan chưa hề chính thức công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh.
Tôi bàn với anh Quì cứ tiếp tục giữ nhiệm vụ phái viên Chính phủ. Tôi sẽ đứng phía sau, chịu trách nhiệm về mặt đường lối chủ trương và phụ trách công tác Đảng, để giúp đỡ anh hoàn thành nhiệm vụ đại diện cho Nhà nước và kiều bào ta trước chính quyền Thái-lan.
Lễ khánh thành nông trường U-bôn được tổ chức khá long trọng. Vì khi Việt kiều ở Lào mới tản cư sang Thái-lan, Chính phủ Pri-đi đã giúp đỡ rất nhiều, trong đó có việc cho đất để lập “nông trường”. Trong mấy năm thuận lợi, cán bộ Tổng hội Việt kiều cứu quốc đã tổ chức cho kiều bào tản cư đến U-bôn dựng nhà trên một khu đất rộng rãi, chia nhau mỗi gia đình một khoảnh đất bằng nhau để sản xuất. Tuy làm ăn vẫn là cá thể, nhưng cách sắp xếp nhà cửa thì đồng loạt, ngay hàng, thẳng lối, trông như một nông trường tập thể. Cán bộ và kiều bào tự hào về cách tổ chức của mình, gọi đó là “nông trường”. Nhân dân Thái-lan cũng gọi đó là “ni-khôn Duôn” [2] .
Tôi thấy sự cố gắng của anh em chăm lo đời sống kiều bào là rất đáng khuyến khích, nhưng gọi đây là “nông trường” thì vừa không đúng với nội dung vừa có hại về chính trị. Chính phủ Phi-bun có thể vì hai tiếng “nông trường” mà e ngại Việt kiều gây ảnh hưởng cách mạng trong nhân dân Thái-lan, sẽ tìm cách làm khó dễ cho ta sau này. Tôi bàn với anh Quì nên bỏ cái tên gọi là “nông trường”, và cần làm cho người Thái hiểu rõ đây chỉ là một xóm làm vườn của Việt kiều lánh nạn chiến tranh từ Lào sang.
Vấn đề “nông trường” U-bôn chỉ là một biểu hiện trong tình trạng chung. Tôi để ý điều tra nghiên cứu và thấy rằng cần phải có một sự uốn nắn chung.
*
Ở U-bôn mấy hôm, trao đổi ý kiến với anh Quì xong, tôi đi ra U-đon gặp các đồng chí Đặc ủy Việt kiều và Tổng hội Việt kiều cứu quốc.
Kết hợp những điều tai nghe mắt thấy trên đường đi từ Bưng-càn qua Na-khon, U-bôn đến U-đon, và nghe thêm báo cáo của các đồng chí phụ trách, tôi thấy rằng trong những năm từ ngày kháng chiến đến nay, cán bộ và kiều bào ta đã làm được nhiều việc, nêu cao tinh thần đoàn kết, yêu nước, và đã làm cho nhân dân Thái-lan nể phục. Nhưng trong mấy năm tình hình chính trị Thái-lan có phần thuận lợi, anh em đã áp dụng một số hình thức không thích hợp với hoàn cảnh của người lánh nạn. Đến khi tình thế chuyển sang khó khăn, sau cuộc đảo chính của Phi-bun anh em vẫn chưa nhận thức đầy đủ sự cần thiết phải chuyển hướng triệt để, nên tuy đã hạn chế bớt một số hoạt động phô trương, lộ liễu nhưng vẫn còn lại khá nhiều những biểu hiện chủ quan, hình thức, nếu không thay đổi thì có thể nguy hiểm đến cuộc vận động yêu nước của Việt kiều.
Điều đáng chú ý là anh em hoạt động trên đất Thái-lan mà ít chú ý đọc báo chí Thái-lan để theo dõi thái độ chính trị của nhà đương cục như thế nào. Ở U-đon, tôi xem mấy tờ báo Thái- lan thấy họ tung tin vu khống Việt kiều vi phạm trật tự trị an, đốt nhà và cướp của ở nơi này nơi khác. Tuy nhiên đó là những tin tức bịa đặt vu khống hoàn toàn trái ngược với sự thật. Nhưng rõ ràng họ đang chuẩn bị dư luận cho một cuộc đàn áp Việt kiều.
Tôi bàn với Đặc ủy triệu tập một cuộc hội nghị mở rộng, gồm tất cả cán bộ phụ trách các Chi bộ Đảng, các Chi hội Việt kiều cứu quốc địa phương để giải quyết một số vấn đề về nhận thức tình hình và phương hướng công tác lâu dài của Việt kiều.
Hội nghị được tiến hành trong ba ngày 15, 16, 17 tháng 8 năm 1948.
Qua báo cáo của Đặc ủy và các đại biểu địa phương đến dự hội nghị, có thể khái quát tình hình hoạt động yêu nước của Việt kiều như sau:
Tháng 3-1946, Việt kiều ở Lào tản cư sang Thái-lan, nâng tổng số Việt kiều từ 4-5 vạn lên tới 9-10 vạn người. Bà con tản cư được kiều bào cùng với nhân dân và Chính phủ tiến bộ Thái-lan tận tình giúp đỡ, nên sớm ổn định được đời sống. Trong năm 1946, Đặc ủy và kiều bào đã tổ chức được chi đội Trần Phú, đưa về Nam bộ tham gia kháng chiến. Năm 1947 tổ chức hai đoàn Cửu Long I và Cửu Long II mang vũ khí về nước. Sau ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hàng ngàn thanh niên Việt kiều xung phong tòng quân, sang mặt trận Lào và Cam-pu-chia giúp nhân dân hai dân tộc bạn đánh Pháp xâm lược. Địa bàn Thái-lan trở thành hậu phương của “Mặt trận miền Tây”. Ở nhiều tỉnh giáp biên giới Lào và Cam-pu-chia có cơ sở huấn luyện quân đội, sản xuất và sửa chữa vũ khí cho mặt trận. Nhiều khi cơ quan chỉ huy của các đặc khu đóng trên đất Thái-lan, anh em chiến sĩ sang Lào hoặc Cam-pu-chia đánh giặc rồi trở về Thái- lan an dưỡng và huấn luyện. Trong hai năm 1946-1947, Chính phủ Pri-đi rất nhiệt tình ủng hộ cuộc kháng chiến của ta, đã giúp đỡ Việt kiều tản cư có công ăn việc làm, còn giúp cả một số vũ khí cho ta đưa về nước, và mặc nhiên để cho Việt kiều hoạt động yêu nước trên đất Thái-lan với một thiện cảm rõ rệt.
Trong điều kiện thuận lợi như thế, cán bộ cũng như kiều bào không tránh khỏi chủ quan, có một số việc làm vi phạm chủ quyền của nước sở tại mà không tự biết, như treo cờ đỏ sao vàng ở nhiều nơi, cán bộ và chiến sĩ mang vũ khí đi lại tự nhiên trên đất Thái-lan. Khi anh Trần Văn Giầu ở Băng-cốc ra thăm Việt kiều ở Đông Bắc, thì bố trí đón tiếp nghi vệ, có cả bộ đội Việt kiều bồng súng chào v.v… Một số cán bộ công khai biểu thị mình là người cộng sản. Tài liệu, sách báo cộng sản được để ngay ở trụ sở Hội Việt kiều cứu quốc và ở hiệu sách “Thay-mày”. Ngay cái tên đặt cho hiệu sách: Thay-mày có nghĩa là nước Thái mới, hoặc người Thái mới, cũng tỏ rõ một ý thức chính trị không chặt chẽ.
Cán bộ cũng như kiều bào, đầy nhiệt tình yêu nước, rất tự hào về cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, về lãnh tụ vĩ đại của mình. Nhưng anh em chưa có một nhận thức toàn diện về địa bàn hoạt động của mình và về địa vị chính trị của mình trên đất Thái-lan.
*
Trong hội nghị Đặc ủy mở rộng, tôi đã nêu lên một số vấn đề để anh em thảo luận, và phát biểu một số ý kiến, tập trung vào mấy điểm chính:
Trước hết tôi nói về vị trí chiến lược của địa bàn Thái-lan:
Từ ngày Đảng ta thành lập, Đảng bộ Việt kiều Thái-lan đã có những đóng góp quan trọng, nhất là thời kỳ hoạt động của Đông Dương viện trợ bộ sau khi cao trào Xô-viết Nghệ-Tĩnh thất bại; tiếp đến thời kỳ tổ chức Việt kiều Thái-Lào tham gia cuộc cách mạng 1945 ở Lào. Ngày nay cuộc kháng chiến của nhân dân ta đang ở trong giai đoạn khó khăn, bị bao vây bốn phía, Đảng bộ Việt kiều ở Thái-lan đóng một vai trò rất quan trọng. Nhờ có cơ sở kiều bào đông đảo với truyền thống cách mạng sâu sắc, lại được mấy năm trước đây Chính phủ tiến bộ Thái-lan tạo điều kiện thuận lợi cho Việt kiều hoạt động yêu nước, nên địa bàn Thái-lan đã trở thành cửa ngõ duy nhất cho cuộc kháng chiến Việt Nam và Đông Dương thông ra quốc tế. Muốn liên lạc được với các Đảng anh em, các nước trong phe xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân, thì nhất thiết phải giữ cho được cửa ngõ này. Muốn tranh thủ được sự ủng hộ của thế giới bên ngoài, làm cho nhân dân Pháp cũng như nhân dân thế giới hiểu rõ chính nghĩa của cuộc kháng chiến Việt Nam, phản đối sự xâm lược tội ác của đế quốc Pháp, cũng phải ra sức giữ vững cửa ngõ quốc tế này. Muốn tiếp tế về nước những khí tài, vật liệu cần thiết cho kháng chiến, càng phải giữ vững cửa ngõ Thái-lan. Do đó địa bàn Thái-lan có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng đối với cách mạng Việt Nam và Đông Dương trong giai đoạn hiện tại. Cũng do đó trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi kiều bào đều phải giữ vững cái chỗ đứng của mình ở trên đất Thái-lan.
Tiếp đó tôi nói về địa vị chính trị của Việt kiều và đường lối ngoại giao nhân dân Việt-Thái thân thiện.
Muốn gánh vác được nhiệm vụ nặng nề trên địa bàn chiến lược quan trọng này, trước hết mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận rõ mình và quần chúng Việt kiều chỉ là những kiều dân ăn nhờ, ở độ trên đất nước người. Đã là kiều dân, thì dù có được điều kiện hoạt động thuận lợi đến đâu cũng phải tôn trọng pháp luật, phong tục tập quán của nước người ta. Mấy năm qua, do được Chính phủ tiến bộ Thái-lan và nhân dân Thái-lan giúp đỡ nên kiều bào đã làm được nhiều việc quan trọng. Nhưng anh em cán bộ cũng như kiều bào thường coi nhẹ vấn đề này. Một số hình thức hoạt động mà anh em đã làm từ năm 1940-1947, như treo cờ đỏ sao vàng tràn lan là không đúng đâu. Theo luật quốc tế thì bất cứ nước nào, cờ ngoại quốc chỉ được treo ở cơ quan đại diện quốc gia của mình mà thôi. Các việc đóng quân, luyện quân, lập binh công xưởng trên đất Thái-lan chỉ có thể làm được khi mà Chính phủ tiến bộ Thái-lan hoàn toàn đồng tình, ủng hộ cuộc cách mạng của nước ta. Tuy nhiên cũng phải làm một cách kín đáo. Những hình thức phô trương như cán bộ ở Mặt trận miền Tây về cứ mang vũ khi đi ngênh ngang, cho bộ đội bồng súng chào v.v… là vi phạm nguyên tắc trong quan hệ quốc gia mà các đồng chí không biết.
Trước đây Chính phủ tiến bộ và nhân dân Thái-lan thông cảm sâu sắc với ta nên mặc nhiên để cho ta làm, nhưng các hoạt động phô trương, hình thức như trên vẫn làm cho một số người không đồng tình, và có thể là mục tiêu cho những phần tử khiêu khích phá hoại mối tình Việt – Thái thân thiện.
Từ sau cuộc đảo chính 11-1947, phái phản động Thái-lan lên cầm quyền, các đồng chí đã hạn chế một phần các hoạt động phô trương nói trên; nhưng nội dung và hình thức hoạt động hiện nay vẫn còn nhiều biểu hiện chủ quan, lộ liễu, có thể gây hậu quả xấu. Ngày nay cần phải thanh toán triệt để những hình thức hoạt động xã hội không thỏa đáng nói trên.
Tránh lộ liễu, tránh khiêu khích chỉ mới là một mặt. Muốn đối phó với sức ép của thế lực phản động Thái-lan, chúng ta cần tranh thủ cho được cảm tình sâu sắc của nhân dân Thái-lan. Đây mới là biện pháp căn bản và lâu dài. Trước đây Hồ Chủ tịch đã giáo dục cán bộ và kiều bào ta gần gũi, thân thiện với nhân dân Thái-lan. Cố Đi đã thực hiện tốt và vận động kiều bào làm việc này. Ngày nay cách mạng Việt Nam thắng lợi, nhân ta đã có chính quyền, chúng ta càng phải đề cao khẩu hiệu Việt – Thái thân thiện. Một mặt chúng ta luôn tỏ rõ tinh thần yêu mến nhân dân Thái-lan, tôn trọng phong tục tập quán và pháp luật của nước Thái. Mặt khác chúng ta làm cho nhân dân bạn hiểu rõ chính nghĩa của cuộc kháng chiến Việt Nam, đồng tình và bảo vệ Việt kiều hoạt động yêu nước, phản đối sự khủng bố, đàn áp của Chính phủ Thái-lan. Chẳng những tranh thủ cảm tình của nhân dân lao động, mà còn tranh thủ cảm tình của các nhân sĩ và các quan chức. Ngày nay đương cục Thái-lan tuy đã nắm được Chính phủ Trung ương, nhưng chưa với tay đến hết các địa phương, nếu các quan chức địa phương đồng tình với hoạt động yêu nước của Việt kiều thì chúng ta vẫn giữ được một điều kiện thuận lợi rất lớn.
*
Sau khi xác định mấy phương châm lớn, tôi nêu lên cho anh em thảo luận một số biện pháp cụ thể. Có người cho rằng Phi-bun tuy bản chất chống Cộng, nhưng bấy lâu nay còn bận đối phó với tình hình nội bộ, thanh toán lực lượng chống đối trong nhân dân Thái-lan, chưa thể rảnh tay để đàn áp Việt kiều. Cách suy nghĩ hoàn toàn không chính xác, nó dẫn tới hành động chủ quan, mất cảnh giác. Qua báo chí hàng ngày, chúng ta đã thấy rõ Chính phủ Thái-lan đang chuẩn bị dư luận để đàn áp Việt kiều, chúng ta phải tích cực chuẩn bị để đối phó, và phải có ngay những biện pháp cụ thể.
Phải dẹp lại ngay các hành động phô trương, lộ liễu trước đây, nhưng vẫn phải giữ vững và phát huy tinh thần yêu nước của quần chúng Việt kiều. Cờ đỏ sao vàng và ảnh Hồ Chủ tịch là biểu tượng thiêng liêng đối với kiều bào, ta không thể bỏ hẳn đi. Nhưng để tránh khiêu khích, ta sẽ vận động kiều bào đưa cờ ảnh vào nhà, trang trí thành ra bàn thờ Tổ quốc. Nếu họ còn can thiệp, thì ta sẽ nói đó là tín ngưỡng của nhân dân, kiều bào có thể dùng lý lẽ đấu tranh để bảo vệ quyền yêu nước của mình.
Việc đi lại của cán bộ và kiều bào cần phải hết sức tranh thủ được mọi sự thuận lợi. Trước đây Đặc uỷ có chủ trương không nên để kiều bào lấy giấy “tàng đạo”, là giấy chứng nhận kiều dân, để được tự do đi lại trên đất Thái-lan, vì các đồng chí sợ rằng một khi đã lấy giấy “tàng đạo” thì sẽ mất danh nghĩa là những người dân lánh nạn chiến tranh. Chủ trương này không đúng, tự mình gây ra trở ngại cho mình và cho kiều bào trong sự đi lại, làm ăn hàng ngày. Việc lấy giấy “tàng đạo” tuy có tốn kém, mỗi giấy phải nộp mấy trăm bạc, nhưng chúng ta phải tạo điều kiện cho cán bộ và kiều bào sớm được tư thế hợp pháp để làm ăn đi lại hoạt động yêu nước.
Hình thức hợp pháp là điều rất cần thiết, cần phải làm ngay. Nhưng đó chưa phải là điều căn bản nhất. Điều căn bản nhất là phải ra sức củng cố lực lượng đoàn kết, đấu tranh của kiều bào. Về mặt tổ chức, phải vững chắc, nhưng gọn nhẹ, kín đáo. Hội Việt kiều cứu quốc ngày nay còn được hoạt động, nhưng phải dự kiến một ngày kia sẽ bị cấm, ta phải sẵn sàng chuyển sang hình thức “Việt kiều cứu tế” để tránh màu sắc chính trị. Như vậy một khi Chính phủ Thái-lan cấm Việt kiều không được hoạt động chính trị thì ta sẽ không bị động. Hiện nay một số cán bộ thoát ly phải hạn chế lại thật ít. Cán bộ đảng cũng như cán bộ Hội Việt kiều cứu quốc cần bám sát quần chúng và dựa hẳn vào quần chúng, sống và làm ăn như mọi kiều bào, không để cho người Thái nhận biết mình là người hoạt động chính trị.
Dựa vào kiều bào để giữ gìn bí mật, đồng thời mỗi cán bộ đều phải hết sức tuân theo những nguyên tắc hoạt động bí mật trong cách sống và làm việc hàng ngày. Hội nghị đã thảo luận mấy biện pháp cụ thể sau đây: Cơ quan làm việc và trong nhà cán bộ phải dọn dẹp hết các thứ vũ khí, quân trang, cũng như sách báo tài liệu “đỏ”. Chiến sĩ từ Mặt trận miền Tây trở về trong kiều bào không được mặc quần áo nhà binh, mang vũ khí như trước. Cán bộ không được mang theo trong mình các tài liệu chính trị, phòng khi bị bắt thì cảnh sát cũng không có chứng cớ để buộc tội mình. Trong vòng năm ngày, mọi cơ quan, cán bộ đều phải chấp hành triệt để các biện pháp trên. Ai không thực hiện nghiêm chỉnh, để xảy ra bắt bớ, tổn thất cho cách mạng là có tội với nhân dân, với Tổ quốc.
*
Trong khi thảo luận các chủ trương, biện pháp, các đồng chí đã liên hệ với các hoạt động cụ thể ở địa phương mình. Có đồng chí phụ trách Chi hội Việt kiều cứu quốc Na-khon nói, ngay lúc này kiều bào Na-khon đang chuẩn bị rước đuốc thật rầm rộ để kỷ niệm ngày Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8. Anh em quyết định để đồng chí về ngay địa phương mình lập tức đình chỉ cuộc rước đuốc.
Sau khi cuộc hội nghị mở rộng đã giải quyết xong các vấn đề chung, tôi họp riêng với một số cán bộ, đảng viên trung kiên, nói rõ thêm về trách nhiệm lãnh đạo của Đảng để bảo đảm cho các nghị quyết được thực hiện. Anh em đánh giá kết quả cuộc hội nghị mở rộng vừa qua là đã mở mang nhận thức cho cán bộ, đảng viên nắm được nhiệm vụ, phương châm hoạt động một cách có hệ thống.
Tôi ở lại U-đon thêm một thời gian để theo dõi tình hình. Khoảng cuối tháng 8, các đồng chí báo cáo cho biết ở một số địa phương xảy ra việc khám xét nhà cán bộ và cơ quan Hội Việt kiều cứu quốc, cảnh sát Thái-lan đón các ngả đường ra vào U-đon để kiểm soát Việt kiều, nhưng họ không bắt được tài liệu, vũ khí gì cả. Điều đó chứng tỏ anh em cán bộ địa phương đã chấp hành nghị quyết của hội nghị một cách nghiêm chỉnh.
Cuộc hội nghị tháng 8-1948 ở U-đon vừa là cơ sở cho việc duy trì, phát triển hoạt động yêu nước của Việt kiều, vừa là cơ sở để giải quyết vấn đề đoàn kết nội bộ. Thật ra những điều lủng củng trước đây trong một số cán bộ chủ chốt chẳng qua là do phong cách làm việc không hợp nhau. Nhưng trong khi mà đường lối hoạt động chưa được rõ ràng thì những sự khác nhau lặt vặt thường dẫn tới mâu thuẫn, mất đoàn kết. Một khi đường lối hoạt động đã được vạch rõ thì những điều lặt vặt không ăn ý nhau sẽ được dẹp đi.
Trong khi gần gũi các đồng chí cán bộ chủ chốt, tôi phê bình thái độ sai lầm của một số anh em không tích cực ủng hộ các hoạt động của Phái đoàn Chính phủ ở Băng-cốc. Có thể là một số đồng chí ở Băng-cốc cũng có khi có sự phóng túng trong sinh hoạt và hành động, nhưng đó không phải là vấn đề chính trị cơ bản. Tôi phải thuyết phục các đồng chí phụ trách kiều bào ở Đông Bắc khá nhiều về điểm này: Trước kia, cách mạng chưa nắm chính quyền, tất cả anh em cán bộ đều ăn ở kham khổ như nhau. Ngày nay, chún ta đã giành được chính quyền Nhà nước, những người đóng vai đại diện Nhà nước phải có cái bề thế trang trọng. Chúng ta ủng hộ các đồng chí đại diện Nhà nước không phải là vì cá nhân các đồng chí đó, mà là vì lợi ích dân tộc, vì lợi ích cách mạng. Một vài cá nhân nào đó có thể phạm sai lầm trong sinh hoạt, ta cần nghiêm khắc phê bình, xây dựng. Nhưng không nên lẫn lộn việc phê bình cá nhân với việc ủng hộ hoạt động của một cơ quan đại diện Nhà nước. Nhất là trước mặt Chính phủ và nhân Thái-lan, biểu hiện sự ủng hộ của quần chúng Việt kiều đối với người đại diện Nhà nước là một điều rất quan trọng.
Khi đã nhận rõ ý thức chính trị anh em trong cơ quan, mấy đồng chí trước kia thành kiến với anh em trong cơ quan Phái đoàn Chính phủ ở Băng-cốc đã thay đổi thái độ. Mối quan hệ được cải thiện tốt đẹp hơn.
II. Chỉnh đốn công tác phái đoàn ở Băng-cốc và ở Răng-gun
Từ U-đon, tôi đi một vài địa phương để xem xét việc thực hiện nghị quyết hội nghị vừa qua và thăm mấy gia đình cơ sở cách mạng rồi vào Băng-cốc.
Ở Băng-cốc hồi này có cơ quan của Phái đoàn Chính phủ ta, cơ quan Thông tấn xã Việt Nam và một cơ sở bí mật tiếp tế về nước trực thuộc Ủy ban kháng chiến Nam bộ.
Trong thời gian từ 1946 đến 1948, các đồng chí ở đây đã làm được một số việc góp phần vào công cuộc kháng chiến ở trong nước và tuyên truyền ảnh hưởng của Việt Nam ra ngoài nước. Nhưng nhìn chung thì công tác còn thiếu toàn diện, nơi ăn chỗ ở thì luộm thuộm chưa có bề thế một cơ quan Đại diện Chính phủ ở một nước nào đó là phải quản tất cả các hoạt động của nước mình trên đất nước sở tại, để nắm rõ tình hình và thống nhất chỉ đạo. Thế nhưng cơ quan Phái đoàn của chính phủ ta ở đây lại chỉ nắm một số hoạt động có tính chất đối ngoại, còn công việc của các ngành khác thì hầu như không quan tâm và cũng không đủ sức với tới.
Như vậy, muốn chỉnh đốn công tác của Phái đoàn, trước hết là phải có một hình thức tổ chức nào đó để đảm bảo sự liên hệ giữa Phái đoàn với các ngành khác, như bộ phận vận động Việt kiều, bộ phận quân sự miền Tây, bộ phận tiếp tế v.v… được sát sao hơn, thì công tác mới tiến hành được thuận lợi.
Tôi đưa ra ý kiến này bàn với anh Quì và một vài anh trong Đặc ủy thì mọi người đều thấy là hợp lý. Tiếp đó, tôi báo cáo Trung ương xin cho lập một ban cán sự lấy tên là Ban cán sự Trung ương ở hải ngoại để lãnh đạo toàn diện các mặt công tác phải tiến hành trên địa bàn Thái-lan. Những công tác ấy là:
Tổ chức, động viên Việt kiều Thái-lan đoàn kết yêu nước, ủng hộ kháng chiến và giữ vững “cửa ngõ” thông ra quốc tế cho công cuộc kháng chiến Việt Nam và Đông Dương.
Chỉnh đốn công việc giúp Lào và Cam-pu-chia từ phía Tây.
Chỉ đạo công tác tiếp tế về nước. Công tác này trước đây là một ngành hoạt động riêng, không tham gia sinh hoạt với Đảng bộ ở đây, nay dặt dưới sự chỉ đạo của Ban cán sự Trung ương.
Chỉ đạo công tác đối ngoại, gồm cả việc tuyên truyền quốc tế, hoạt động của các đại diện chính phủ ở Thái-lan, Miến Điện.
Liên lạc và hướng dẫn việc hoạt động của cán bộ ở các nơi khác như ở Pháp, ở Tiệp.
Ban cán sự Trung ương do tôi là Bí thư, anh Quì là Phó Bí thư và một số đồng chí phụ trách các ngành là ủy viên, như anh Hồng, anh Song Tùng trong Đặc ủy Việt kiều; anh Khanh, anh Bỉnh trong Ban chỉ đạo Mặt trận miền Tây; anh Cao Hồng Lĩnh và anh Dung Văn Phúc đang phụ trách một bộ phận tiếp tế.
*
Được sự đồng ý của Trung ương, Ban cán sự Trung ương vừa thành lập xong, đang chuẩn bị họp bàn việc chỉnh đốn cơ quan Phái đoàn ở Băng-cốc, thì phát hiện việc Lê Hy tùy tiện bỏ cương vị đi đâu không ai biết, Lê Hy trước kia hoạt động ở Nam bộ, khi Nam bộ bắt đầu kháng chiến thì chuyển sang Thái-lan, phụ trách Thông tấn xã Việt Nam, bên cạnh Phái đoàn Chính phủ.
Trong công tác, Lê Hy thường đi lại giao thiệp với Sứ quán Liên Xô ở Băng-cốc. Do sự thông cảm giữa các đồng chí Liên Xô với ta, trong hoàn cảnh hoạt động ở một nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa, mà nhiều khi các đồng chí Liên Xô không đòi hỏi thủ tục giấy tờ phiền phức, chỉ cần nói miệng là được các đồng chí giúp đỡ tận tình.
Khoảng tháng 9-1948, Lê Hy nhân lúc anh Quì đi Đông Bắc, đã lợi dụng địa vị công tác của mình tự ý đi đến Sứ quán Liên Xô nói dối là Đảng định phái anh ta đi Mạc Tư Khoa để phát hành bản thông tin Việt Nam. Thế là Sứ quán Liên Xô giúp đỡ tận tình và làm thủ tục cho anh ta đi Liên Xô.
Lê Hy đi một thời gian rồi mà anh em ở cơ quan Phái đoàn Chính phủ và ở Thông tấn xã Việt Nam vẫn không hay biết gì cả. Khi anh Quì ở Đông Bắc về, cảnh sát Thái-lan hỏi Lê Hy đi đâu, anh Quì trả lời là chưa biết.
Khi tôi đến Băng-cốc, nghe anh Quì báo cáo, tôi phán đoán có hai khả năng: Hoặc là Lê Hy đã bị cảnh sát Thái-lan bắt, nhưng họ giả vờ hỏi; hoặc là Lê Hy thấy tình thế khó khăn, đã bỏ nhiệm vụ đi ẩn náu ở một nơi nào trên đất Thái-lan.
Sau khoảng hơn một tháng, Sứ quán Liên Xô thông báo cho biết Lê Hy đã tới Mạc Tư Khoa an toàn thì anh em mới yên tâm. Có điều là anh em chỉ thấy yên tâm về việc Lê Hy không bị bắt, mà không biết đặt thành vấn đề cảnh giác trước một hành động vô kỷ luật nghiêm trọng như thế. Nhất là khi ra đi, Lê Hy còn đem theo cả một anh người Úc, nói là đảng viên cộng sản, do anh Phạm Ngọc Thạch đưa từ Xin-ga-po về, giúp ta trong việc phiên dịch Anh văn ở cơ quan Thông tấn xã Việt Nam tại Băng-cốc.
Được báo cáo về vấn đề này, tôi bàn với anh Quì rằng, việc Lê Hy bỏ cương vị công tác là một hành động vô nguyên tắc, có khi không phải chỉ vì sợ sệt, mà có thể còn có nguyên nhân chính trị gì chăng? Vậy trước mắt phải tìm cách hạn chế ngay những hậu quả xấu có thể xảy ra. Đối với đương cục Thái-lan nếu họ hỏi lại lần nữa, anh Quì sẽ trả lời là anh ta đi thăm bà con Việt kiều ở các địa phương hoặc đi công việc riêng trong khi tôi không có mặt ở Băng-cốc nên không rõ, một thời gian nữa chắc sẽ có tin. Đối với Sứ quán Liên Xô thì phải thông báo ngay cho các cho các đồng chí biết việc Lê Hy đi là một hành động tự do vô kỷ luật mà cơ quan Đại diện Chính phủ Việt Nam ở Băng-cốc hoàn toàn không biết trước, và đề nghị các đồng chí báo cáo ngay việc này về nước cho Trung ương Đảng và Chính phủ Liên Xô biết, để khỏi hiểu lầm đối với Đảng và Chính phủ ta, và ngăn chặn những việc làm vô nguyên tắc của Lê Hy ở Mạc Tư Khoa.
Về sau tìm hiểu thêm, chúng tôi được biết Lê Hy hành động vô kỷ luật như vậy là do y đã chịu ảnh hưởng tư tưởng sai lầm của Trần Ngọc Danh, Đại diện Chính phủ ta ở Pháp.
Danh và Hy là cán bộ của Đảng, xa rời thực tế cách mạng trong nước. Họ đọc nhiều sách vở lý luận, nhưng không tiêu hóa tốt, nên đã phạm sai lầm. Họ không hiểu vì sao Đảng ta đã nắm chính quyền mà chỉ nêu cao khẩu hiệu độc lập, thống nhất dân tộc, chứ chưa nói ngay đến việc làm cách mạng ruộng đất, chưa có chủ trương hạn chế chủ nghĩa tư bản ở trong nước, và chưa lên tiếng đả kích đế quốc Mỹ như các Đảng Liên Xô, Trung Quốc và các Đảng Đông Âu đã làm và đang làm. Họ không hiểu rằng từ năm 1945-1946, trong hoàn cảnh chính quyền cách mạng Việc Nam còn trứng nước, phải đối phó với nhiều loại thù trong giặc ngoài, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng đã vận dụng sách lược mềm dẻo, khôn khéo, thêm bạn bớt thù, cố tránh những mũi nhọn đả kích có thể tránh được để tập trung lực lượng vào kẻ thù cụ thể số một trước mắt là đế quốc Pháp xâm lược.
Hiểu sai lầm về đường lối của Đảng đã là nguy hiểm, họ còn đi xa hơn nữa: Một người ở Pháp, một người ở Thái-lan, bí mật trao đổi với nhau những tư tưởng hoài nghi, chống Đảng, hẹn nhau tìm cách sang Liên Xô và Đông Âu để làm một việc bậy bạ là nói xấu Đảng ta. Trong khi Lê Hy ở Băng-cốc chuẩn bị đi thì Trần Ngọc Danh ở Pa-ri đã tự ý tuyên bố giải tán cơ quan Đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Pháp và đòi sang Tiệp.
Còn Lê Hy thì vẫn tưởng rằng đã lừa được Đại sứ Liên Xô ở Băng-cốc rồi, thì mọi chuyện đều xong xuôi, không ngờ Chính phủ Liên Xô đã biết được hành động vô nguyên tắc của y nên đã không cho ở Mạc Tư Khoa và bắt buộc phải dời sang Tiệp. Ở đây, Danh và Hy lại tìm cách lung lạc mấy đồng chí đại diện Thanh niên, Công đoàn Việt Nam ở Pra-ha, nhưng anh em không nghe theo.
Việc này cuối năm 1949 tôi đi qua Tiệp thì mới có dịp gặp Trần Ngọc Danh và Lê Hy để phê bình họ.
*
Việc Lê Hy tự ý sang Liên Xô là một biểu hiện đột xuất rất nghiêm trọng, có tính cách cá biệt, nhưng phần nào cũng có liên quan đến lề lối làm việc thiếu chặt chẽ hồi này ở Băng-cốc. Một vài anh em phụ trách công tác đối ngoại ở đây cũng có phần phóng túng trong sinh hoạt. Thấy Pri-đi là người có tư tưởng xã hội, có nhiệt tình ủng hộ Việt Nam kháng chiến, có đồng chí đã tự xưng mình là cộng sản, đi đâu cũng nói chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội, phong cách này dẫn đến một kết quả trái ngược là những người cộng sản ở một số nước như Thái-lan, Mã-lai, Miến Điện, thì hoài nghi đồng chí này có phải là cộng sản chân chính không? Nhưng nhiều người trí thức tiểu tư sản lại hiểu lầm đồng chí đó là lãnh tụ quan trọng của Đảng Cộng sản Đông Dương trong khi Chính phủ phản động Thái-lan rất chú ý theo dõi và chuẩn bị tóm bắt.
Trung ương Đảng được báo cáo về tình hình này, đã quyết định điều động ngay đồng chí đó về nước. Tôi phải thuyết phục khá nhiều mới bố trí đưa được đồng chí về nước để tránh khỏi sự rắc rối trong tình hình chính trị Thái-lan đang chuyển biến ngày càng xấu.
Trong công tác đối ngoại và tuyên truyền quốc tế hồi này, các đồng chí ở Băng-cốc đã làm được nhiều việc: Đặt cơ quan Phái viên Chính phủ ở Miến Điện, do anh Trần Văn Luân phụ trách; mở rộng quan hệ ngoại giao giữa Phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Sứ quán các nước ở Băng-cốc như Liên Xô, Ấn Độ, Miến Điện, Pa-ki-xtan và In-đô-nê-xi-a; đặt liên hệ với các đoàn thể Thanh niên, Công đoàn thế giới, có bộ phận thường trực ở Tiệp Khắc; Thông tấn xã Việt Nam ở Băng-cốc ra được bản tin tiếng Anh Vietnam News gửi đi nhiều nước và gửi đến kiều bào ở các nơi trên thế giới.
Tuy nhiên trong khi làm được nhiều việc, cũng thấy có chỗ hình thức phô trương không cần thiết.
Các đồng chí đã lập ra một cơ quan gọi là “Ban liên lạc quốc tế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, có trụ sở công khai ở Băng-cốc, liên hệ rộng rãi, hoạt động sôi nổi. Báo chí phương Tây đã tung tin rằng đây là một thứ bàn giấy của “Cô-min-phooc” [3] ở Đông Nam Á. Tôi đề nghị giải tán “Ban liên lạc quốc tế” này để lấy cán bộ tăng cường cho công tác đối ngoại và thông tin ở Băng-cốc và Răng-gun, đẩy mạnh hoạt động về thực chất, để tránh khỏi sự chú ý của Chính phủ phản động Thái-lan.
Nhìn vào cách ăn ở của cơ quan Phái đoàn Chính phủ ở Băng-cốc thấy rất luộm thuộm, chưa có thể thống của một cơ quan đại diện quốc gia. Nhân viên công tác thì đi đứng, ăn mặc rất tùy tiện. Tôi bàn với anh em thuê hẳn một biệt thự tương đối đàng hoàng để tách rời Phái đoàn Chính phủ ra khỏi chỗ làm việc của cơ quan thông tin, và xây dựng một nếp sống trong cơ quan vừa bình đẳng thân ái vừa nghiêm túc, mọi người phục vụ công tác với tinh thần cách mạng cao, trong tư thế của một cơ quan nhà nước có kỷ luật chặt chẽ. Anh em đã tìm được một ngôi nhà khá tốt ở phố Xả-thon, đủ nơi làm việc và ăn ở cho vài chục cán bộ, có sân, vườn rộng rãi và kín đáo, có bộ mặt là một cơ quan của phái đoàn Chính phủ. Nề nếp sinh hoạt và công tác cũng được chỉnh đốn hơn trước.
Ở Răng-gun, cơ quan Phái viên quán của anh Trần Văn Luân còn lùi xùi hơn ở Băng-cốc. Có khi người ta mời Đại diện Chính phủ Việt Nam đi dự tiệc mà vợ chồng anh Luân phải thuê xe xích lô để đi. Muốn giữ thể diện, không để người ngoài thấy cảnh thiếu thốn của mình, các đồng chí phải xuống xe cách nơi dự tiệc khoảng nửa cây số rồi đi bộ tới.
Thật ra hồi này công quỹ của ta ở ngoài nước rất nghèo. Tiền bạc Việt kiều ủng hộ chỉ có hạn, tuy rằng kiều bào rất hăng hái đóng góp. Sự cung cấp của Chính phủ từ trong nước lại càng khó khăn. Nhưng chúng ta không thể giữ nguyên tình trạng lùi xùi như thế trong công tác ngoại giao. Tôi đề nghị Ban cán sự chuẩn y cho cơ quan Đại điện Chính phủ ta ở Răng-gun mua một chiếc ô tô nhỏ làm phương tiện đi lại trong khi hoạt động đối ngoại.
*
Khoảng cuối năm 1948 đầu năm 1949, Ban cán sự Trung ương triệu tập hội nghị cán bộ làm công tác đối ngoại ở các nơi về Băng-cốc để thảo luận một số vấn đề hoạt động ngoại giao và tuyên truyền. Anh Trần Văn Luân, Đại diện Chỉnh phủ ở Răng-gun cũng về dự.
Trong hội nghị này anh em nêu ra nhiều vấn đề, và tôi cũng có dịp trình bày một số ý kiến về nguyên tắc hoạt động đối ngoại:
Vấn đề quan trọng hàng đầu trong hoạt động đối ngoại là phải giữ vững và thể hiện được đường lối và chính sách của Chính phủ ta. Trong sự quan hệ và tiếp xúc hàng ngày, người cán bộ công tác đối ngoại phải luôn luôn giữ nguyên tắc, chống mọi biểu hiện tự do cá nhân, thoát ly đường lối, chính sách của Chính phủ. Trong công tác đối ngoại mỗi hành động sai nguyên tắc đều có thể gây thiệt hại đến việc lớn của quốc gia [4] .
Một số đồng chí thường băn khoăn về cách ăn mặc, nói năng, tiếp đãi phải như thế nào. Những điều đó đều phải chú ý, nhưng vấn đề căn bản là phải giữ được thể diện của quốc gia, không thể để cho người ta coi thường hoặc hiểu lầm về quốc gia mình. Vì vậy, có khi bề trong chúng ta hết sức tiết kiệm, dè sẻn, nhưng bề ngoài ta phải có cái bề thế của một cơ quan đại diện quốc gia, nhất là những người làm ngoại giao phải hết sức nghiêm túc và đứng đắn.
Cũng trong dịp này, tôi nói thêm về đường lối ngoại giao nhân dân. Bất cứ ở nước nào, công tác ngoại giao cũng cần tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân nước đó đối với cuộc kháng chiến chống đế quốc của dân tộc ta. Không chỉ cán bộ ngoại giao làm công tác ngoại giao, mà chính là phải vận động quần chúng Việt kiều tham gia công tác ngoại giao nhân dân. Đường lối ngoại giao nhân dân càng có ý nghĩa quyết định khi mà trên thế giới chưa có một nước nào chính thức công nhận chính phủ kháng chiến của ta. Cho đến năm 1948-1949 ngay cả Liên Xô và các nước Đông Âu cũng chưa thừa nhận chính phủ ta, còn Trung Quốc thì chưa giành được thắng lợi trong phạm vi cả nước.
Để phát triển công tác ngoại giao nhân dân, việc thông tin tuyên truyền ở Băng-cốc cũng được cải tiến một bước. Cuối năm 1948 ra thêm bản tin bằng tiếng Thái lấy tên là Khào Việt Nam, nghĩa là Tin Việt Nam, có nội dung tuyên truyền đúng mức, được các nhà chùa, các nhân sĩ Thái-lan mua nhiều. Năm 1949, các đồng chí dịch cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch ra tiếng Thái, vận động người Thái viết lời tựa và xuất bản, để giới thiệu lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta với nhân dân Thái-lan.
Nhìn chung mấy công việc đã giải quyết ở Băng-cốc đều có tính chất chỉnh đốn lề lối làm việc. Một mặt giữ vững cái thế hợp pháp và thế thống của cơ quan đối ngoại, mặt khác xây dựng một phong cách làm việc thận trọng chu đáo trong hoàn cảnh phải luôn luôn cảnh giác, đối phó với thế lực phản động có thể khiêu khích hoặc phá hoại mình.
III. Chỉnh đốn công tác giúp đỡ cách mạng Lào, Miên
Việc giúp đỡ cách mạng Lào và Cam-pu-chia là một nhiệm vụ quan trọng của Ban cán sự Trung ương. Công tác này đã được Đặc ủy ở Đông Bắc và các đồng chí phụ trách ở Băng-cốc tiến hành từ trước. Ngay khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Trung ương Đảng chỉ thị cho Đảng bộ Việt kiều ở Thái-lan tích cực chi viện mặt trận Lào và Cam-pu-chia từ phía tây. Các đồng chí đã thành lập ra “Ủy ban quân sự Mặt trận miền Tây” có anh Vũ Hữu Bỉnh phụ trách về mặt quân sự, các anh Trần Văn Giầu, và Lê Hữu Quán phụ Trách về mặt chính trị, các anh Xô, Khanh, Cung v.v… làm ủy viên.
Từ năm 1946 đến năm 1948, các đồng chí đã phân bố Mặt trận miền Tây từ Thượng Lào xuống Tây Bắc Cam-pu-chia thành 5 đặc khu. Phần lớn cán bộ Việt kiều đổ dồn sang Mặt trận miền Tây. Tiền của kiều báo đóng góp hàng triệu bạc cũng chi dùng phần lớn cho Mặt trận miền Tây.
Đối với các vị thành viên trong Chính phủ Lào Ít-xa-la lưu vong sang Thái-lan, các đồng chí ta ở Băng-cốc thường đi lại giúp đỡ cả về sinh hoạt lẫn chính trị. Nhưng khả năng giúp đỡ của ta rất có hạn, mà bọn gián điệp Pháp, Mỹ thì tung tiền ra lung lạc và lôi kéo một cách ráo riết làm cho những thành viên trong Chính phủ Lào dần dần bị phân hóa. Một số người không chịu nổi gian khổ, không nhìn thấy phương hướng kháng chiến lâu dài, đã lần lượt bỏ về Lào, như Cà-tày, Khăm-mão, Xu-va-na Phu-ma v.v… trong đó Cà-tày đã trở thành tay sai đắc lực cho Pháp chống lại kháng chiến. Chỉ còn Hoàng thân Xu-pha-nu-vông kiên trì đại nghĩa, nắm lực lượng cán bộ và quần chúng Lào ở Thái-lan, liên hệ mật thiết với anh em Việt Nam, có lúc có thắc mắc, nhưng rồi bỏ qua và tiếp tục sự nghiệp kháng chiến đến cùng. Trong khi đó ở các vùng Thượng, Trung và Hạ Lào đều có một số người tích cực chống Pháp, như Xi-thôn Cô-ma-dam, Xinh-ca-pô, Phu-mi Vông-vi-chít v.v… họ đều có sự liên hệ mật thiết với ta.
Về phía Cam-pu-chia, các đồng chí ta ở Băng-cốc đã liên hệ với một số người Khơ-me chống Pháp, bàn với họ lập ra ủy ban dân tộc giải phóng Cao Miên. Ủy ban này có lúc đã xây dựng được lực lượng đưa về đất Miên hoạt động ở vùng Biển Hồ, Bát-tăm-băng và vùng Tây Bắc Cam-pu-chia. Nhưng về sau trong nội bộ của họ mâu thuẫn nhau, mỗi người nắm một ít lực lượng, đánh lại nhau, một số trở thành người cướp bóc nhân dân.
Việt kiều ở Thái-lan cũng có một số đơn vị sang hoạt động trên đất Cam-pu-chia, anh em có khu căn cứ ở vùng núi Đăng-rếch, trên biên giới Cam-pu-chia –Thái-lan; đã tuyên truyền, vận động ở một số vùng có Việt kiều trên đất Cam-pu-chia, rồi đặt liên hệ với Ban cán sự Miên trực thuộc Ủy ban kháng chiến Nam bộ.
Khi tôi đến Băng-cốc thành lập Ban cán sự Trung ương thì các hoạt động của ta giúp đỡ kháng chiến Lào và Cam-pu-chia đang được xúc tiến. Có thể nói rằng sự cố gắng của cán bộ và kiều bào trong công tác này là rất lớn. Cuộc chiến đấu của các chiến sĩ Việt kiều trên Mặt trận miền Tây rất gian khổ và đầy tinh thần cách mạng. Tuy nhiên vấn đề tồn tại cũng còn khá nhiều.
Một hôm anh Quì cho tôi biết Hoàng thân Xu-pha-nu-vông muốn rời Băng-cốc đi nơi khác. Đây là một việc có ý nghĩa chính trị đột xuất. Hoàng thân Xu-pha-nu-vông vốn là người kiên quyết kháng chiến, liên hệ mật thiết với ta. Vì sao nay Hoàng thân lại muốn rời khỏi Băng-cốc mà đi?
Sau khi điều tra nghiên cứu, chúng tôi hiểu rằng việc này có liên quan đến một số hành động vô chính trị của anh em ta ở bên đất Lào. Việc đáng chú ý nhất là một đơn vị bộ đội ta ở Hạ Lào định tìm cách lấy súng của đơn vị bộ đội người Lào, vì anh em suy nghĩ một cách giản đơn rằng súng ấy vào tay mình sẽ được sử dụng có hiệu quả hơn. Việc này đã gây ra lủng củng to. Nguyễn Đình Hin cho biết Hoàng thân Xu-pha-nu-vông bất bình trước những hành động như thế và giảm sút lòng tin đối với sự giúp đỡ của ta.
Chúng tôi xác định rằng sự bất bình có Hoàng thân Xu-pha-nu-vông là có thể hiểu được, và bản chất của Hoàng thân không giống với những người đã bỏ cuộc trở về đất Lào trước đây. Điều đáng ngại là có một lực lượng nào đó đang lôi kéo ông, hoặc ông đang đi tìm một lực lượng nào giúp đỡ dân tộc Lào thay cho sự giúp đỡ của Việt Nam. Lực lượng này có thể là nhóm người Thái tự do vốn có quyền lợi liên quan đến vùng dân tộc Lào trên đất Thái-lan. Có thể xấu hơn nữa là bọn Mỹ đang muốn nắm những con bài để nhúng tay vào Đông Dương. Vô luận thế nào, việc tranh thủ lại lòng tin của Hoàng thân Xu-pha-nu-vông là rất cần thiết.
Tôi bàn với anh Quì phải gặp Hoàng thân ngay, tổ chức một bữa cơm thân mật như là để tiễn đưa, những phải nói rõ được hai vấn đề: Trước hết anh Quì thay mặt anh em Việt Nam ở đây chân thành thừa nhận với Hoàng thân rằng việc làm của đơn vị bộ đội tình nguyện ở Hạ Lào vừa rồi là sai lầm rất đáng tiếc, chúng tôi đã nghiêm khắc phê phán những người làm sai và đặt thành vấn đề phải trả lại số vũ khí đó.
Khi đã nói rõ được thái độ chân thành tự phê bình của ta rồi, còn làm cho Hoàng thân hiểu rằng chúng ta sẵn sàng giúp đỡ ông trong chuyến đi này, đồng thời phân tích rõ những người đang mời Hoàng thân đi với họ không phải là có thiện chí với nhân dân Lào và cuộc kháng chiến giành độc lập của Lào đâu. Ngày nay hai dân tộc Việt-Lào cùng chung một kẻ thù xâm lược là đế quốc Pháp cho nên có sự hợp tác chiến đấu Lào-Việt là đáng tin cậy hơn hết. Trong quá trình hợp tác chiến đấu, cán bộ cấp dưới có lúc phạm sai lầm, nhưng đường lối chính sách của Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam chúng tôi là hết sức chân thành, có thủy, có chung. Trong lúc này Hoàng thân tạm ra đi, chúng tôi thu xếp mua vé máy bay và phái một cán bộ cùng đi với Hoàng thân; sau này nếu gặp khó khăn xin Hoàng thân cứ trở lại để cùng nhau lo toan sự nghiệp lớn của hai dân tộc Lào- Việt.
Hoàng thân Xu-pha-nu-vông đi Mường-lơi một thời gian liên hệ và tìm hiểu thì thấy rõ những người mời Hoàng thân không phải là người thật lòng vì cách mạng Lào, nên lại quay về Băng-cốc tiếp tục liên hệ với ta, tổ chức lực lượng kháng chiến Lào. Ít lâu sau, ông trở về Lào, hợp tác chặt chẽ với cán bộ Việt Nam và các đồng chí Lào xây dựng quân đội Pa-thét Lào đẩy mạnh cuộc kháng chiến Lào đến thắng lợi.
Từ một số vấn đề trước mắt, như việc Hoàng thân Xu-pha-nu-vông ra đi, tôi tìm hiểu sâu thêm toàn bộ công tác giúp đỡ cách mạng Lào, Miên. Tôi gặp nhiều đồng chí cán bộ phụ trách các đặc khu, nghe anh em báo cáo tình hình, nêu ra những khó khăn, vướng mắc cần giải quyết. Cuối năm 1948, Ban cán sự Trung ương họp hội nghị cán bộ Mặt trận miền Tây, xác định những ưu khuyết điểm trong công tác giúp đỡ cách mạng Lào, Miên.
Hội nghị đánh giá cao những cố gắng lớn lao của cán bộ, chiến sĩ Việt kiều trên các đặc khu đã chịu đựng gian khổ, hy sinh phấn đấu vì lợi ích của cách mạng Lào, Miên cũng như vì lợi ích của cách mạng Việt Nam. Mặt khác hội nghị đã tổng kết ra một số vấn đề tồn tại như:
Ý thức về việc giúp đỡ dân tộc bạn chưa thật chính xác. Tuy nói là “giúp”, nhưng thật ra thì nặng về công việc của Việt Nam nhiều hơn. Các đồng chí còn sao nhãng việc vận động, tổ chức quần chúng, lập căn cứ địa, huấn luyện bộ đội, cán bộ cho bạn.
Nặng quân sự, nhẹ chính trị. Việc tuyên truyền quần chúng tuy có làm, nhưng thực chất là bộ đội đi làm công tác dân vận để có chỗ bao dung cho mình đánh giặc, chứ chưa đặt thành một nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng cơ sở cách mạng trong nhân dân Lào và Khơ-me.
Chủ trương “tả” và máy móc. Nhiều việc làm ở Việt Nam được anh em mang sang áp dụng ở Lào và Cam-pu-chia một cách cứng nhắc, như tổ chức “Ủy ban nhân dân”, dịch chương trình điều lệ Việt Minh để huấn luyện cho người Lào và Khơ-me.
Vụng về trong việc đối đãi với cán bộ bạn. Có đồng chí đem chương trình huấn luyện về chủ nghĩa cộng sản để lên lớp cho cán bộ người Khơ-me mà không phân biệt đối tượng nào là thích hợp. Một số người học tập xong thì hoài nghi và xa dần ta.
Sau khi báo cáo về Trung ương những nhận xét tổng quát nói trên, tôi bắt tay vào nghiên cứu một đường lối chung cho công tác giúp đỡ cách mạng Lào, Miên. Đầu năm 1949, tôi tập trung thời gian để viết bản “Đề cương công tác Lào, Miên”, với tinh thần là không những chỉ phổ biến trong cán bộ Việt Nam công tác ở Lào, Miên xem, mà còn phải để cho cán bộ chủ chốt của Lào, Miên cùng xem để phối hợp làm việc với nhau cho thật tốt.
Tháng hai năm 1949, Bản đề cương được đem ra hội nghị Ban cán sự Trung ưong mở rộng để thảo luận, bổ sung thêm ý kiến. Hội nghị này có nhiều cán bộ chủ chốt của Mặt trận miền Tây tham dự. Anh em đều nhất trí tán thành bản “Đề cương công tác Lào, Miên”, và coi đó là một tài liệu về đường lối, dùng để phê bình cho cán bộ, chiến sĩ đang công tác trên các đặc khu ở Tây Lào và Tây Bắc Cam-pu-chia. Đề cương có mấy phần chủ yếu như sau:
Phần thứ nhất, kiểm điểm “Ba năm công tác Lào, Miên” (1946, 1947, 1948), đã đánh giá tổng quát:
“Chúng ta tuy giúp được Lào, Miên gây chính quyền, gây phong trào cách mạng và tổ chức kháng chiến, nhưng Lào, Miên vẫn chưa có một cơ sở nhân dân to rộng; cơ quan hành chính kháng chiến Lào, Miên còn yếu; lực lượng vũ trang nhân dân Lào, Miên chưa có; bộ đội chủ lực Lào, Miên vẫn chưa thành. Nói tóm lại là cơ sở kháng chiến Lào, Miên chưa vững.
“Chúng ta tuy đã mở mặt trận Lào, Miên làm cho Pháp bối rối, nhưng chúng ta vẫn chưa cản hẳn được chúng. Chúng vẫn còn dùng được các phương tiện ở Lào, Miên để đánh ta, vẫn còn dùng một số tài nguyên và hàng hóa của ta cung cấp cho bộ máy thống trị của chúng ở Lào, Miên để phá hoại cuộc vận động giải phóng Lào, Miên.
“Chúng ta tuy đã gây được thiện cảm giữa Lào-Miên-Việt, nhưng trong một đôi hành động vụng về, chúng ta đã làm cho nội bộ Lào, Miên lủng củng, làm cho những phần tử có ý phá hoại bám lấy để hòng chia rẽ Việt Nam với Lào, Miên.
“Những khuyết điểm ấy bởi đâu sinh ra?
“Có thể nói là vì chúng ta chưa nhận rõ tính chất và đặc điểm cách mạng Lào, Miên, chưa có thái độ đúng trong việc giúp đỡ Lào, Miên, chưa nắm được công tác chính của Lào, Miên.
Phần thứ hai, nói về tính chất và đặc điểm cách mạng Lào, Miên có đoạn phân tích như sau:
“Nhìn bao quát ta thấy rằng Lào, Miên đang ở một mức tiến hóa thấp hơn Việt Nam…
“Bởi vậy, cách mạng Lào, Miên không thể là cách mạng xã hội hay cách mạng tân dân chủ, mà chỉ là cách mạng dân tộc giải phóng.
“Cách mạng Việt Nam cũng là cách mạng dân tộc giải phóng, nhưng vì tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của Việt Nam đã cao hơn, nên khẩu hiệu cách mạng Việt Nam là độc lập và dân chủ đi đôi. Còn khẩu hiệu Lào, Miên thì chỉ độc lập và dân chủ. Để thực hiện mục đích độc lập, Lào miên, phải đoàn kết toàn dân, phải không phân biệt phong kiến hay tư bản, không phân biệt giàu, nghèo, không phân biệt người có tư tưởng cấp tiến hay chưa có tư tưởng cấp tiến, miễn là thật lòng đánh Pháp giành độc lập là phải gắn bó nhau lại thành một khối thống nhất, cùng nhau kháng chiến.
“Nhưng nói thế không phải là cách mạng Lào, Miên sẽ mang lại kết quả “độc tài”. Chúng ta phải biết rằng, mặc dù cách mạng Lào, Miên còn thấp kém, còn non, nhưng đã là cách mạng thì dù muốn hay không muốn, thực sự cũng là đứng về mặt trận dân chủ thế giới. Hơn nữa là trong quá trình cách mạng mọi việc đều phải nhờ vào dân, cái ý thức dân chủ sẽ nảy ra trong đầu óc nhân dân cũng như trong đầu óc người lãnh đạo. Nội dung dân chủ đã có đầy đủ, thì hình thức dân chủ sẽ ứng thời mà ra. Chế độ quân chủ lập hiến, hình thức Ủy ban dân tộc giải phóng là những cái bao hàm tính chất dân chủ một phần nào, mà còn tiến bộ dần, tiến bộ nữa. Trong giai đoạn hiện thời, miễn cưỡng đưa khẩu hiệu dân chủ ra là có hại cho sự đoàn kết dân tộc của Lào, Miên, có lợi cho địch…”
Nói về đặc điểm cách mạng Lào, Miên, bản đề cương nêu lên ba điều mâu thuẫn trong quá trình phát triển vượt bực của cuộc kháng chiến của hai dân tộc bạn:
Chưa có cơ sở nhân dân mà đã có chính quyền…
Chưa có bộ đội cách mạng mà đã phải đấu tranh quân sự…
Bộ máy lãnh đạo yếu…
“Như vậy, cách mạng Lào, Miên ngày nay tuy là ở giai đoạn cao nhưng phải chú trọng lắm những công tác của giai đoạn thấp là gây dựng cơ sở quần chúng, gây dựng căn cứ địa.”
Phần thứ ba, nói về phương châm giúp đỡ cách mạng Lào, Miên gồm bốn điểm chính:
“a. Không đứng trên lợi ích Việt Nam mà làm công tác Lào, Miên… Chúng ta là một dân tộc bị xâm lăng, là một dân tộc cách mạng, trong việc giúp Lào, Miên, chúng ta phải hoàn toàn đứng trên lập trường lợi ích của Lào, Miên… Việc bộ đội đánh Xiêm-riệp rồi kéo cả về Nam, việc Quảng Trị mượn súng Lào mà trả chậm trễ, việc lấy bộ đội của ông Xi-thôn đưa về Khu V, đều là những việc cẩu thả trái với lập trường “không đứng trên lợi ích Việt Nam mà làm việc Lào, Miên”.
“b. Nắm chắc nguyên tắc dân tộc tự quyết... dân tộc tự quyết là một nguyên tắc căn bản để giải quyết vấn đề giữa hai dân tộc cũ quan hệ với nhan. Một chủ trương gì có quan hệ đến vận mệnh dân tộc Lào, Miên thì phải do Lào, Miên tự quyết định lấy. Thí dụ Lào, Miên sau này sẽ cùng với Việt Nam thành lập một liên bang Đông Dương hay tự mình lập riêng một nước độc lập… là những vấn đề chúng ta tuyệt đối không thể đặt ra một cách miễn cưỡng. Nhưng một người chân chính cách mạng Lào, Miên tuyệt đối không phải là người chỉ đánh Pháp mà lại cừu thị với Việt Nam…
“c. Không đem chủ trương Việt Nam ứng dụng vào Lào, Miên như lắp máy… Để tránh khỏi bệnh lắp máy, chúng ta phải điều tra nghiên cứu tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Lào, Miên thật kỹ càng. Với cán bộ Lào, Miên gần gũi ta, chúng ta phải hiểu biết thật rõ… Bấy giờ hỏi chính sách dịch ở Lào, Miên thế nào? Sinh hoạt của các tầng lớp nhân dân Lào, Miên thế nào? Tự hỏi rồi tự trả lời thì thấy rằng chúng ta đối với Lào, Miên còn xa lạ lắm. Đã xa lạ như vậy, thì chủ trương đưa ra làm sao mà thích hợp, làm sao mà tránh khỏi được cái bệnh lắp máy.
“d. Giúp đỡ tiến tới cách mạng Lào, Miên tự làm lấy được.
“Cách mạng không phải là một món hàng nhập cảnh, mà là cái kết quả của sự giác ngộ và sức đấu tranh của quảng đại nhân dân. Cách mạng Lào, Miên là việc của nhân dân Lào, Miên. Nếu nhân dân Lào, Miên không giác ngộ, cán bộ Lào, Miên không biết làm việc thì dù Việt Nam có đem đại bộ phận lực lượng đến cũng không thể giải quyết được. Để tiến tới Lào, Miên có thể tự làm lấy được, chúng ta cần tuyệt đối tránh bệnh bao biện là cái bệnh sinh ra từ chỗ không biết dùng người đến chỗ không dám tin người… Bất kể một công việc gì chúng ta cũng phải tìm cách gần gũi cán bộ Lào, Miên và lôi kéo cán bộ Lào, Miên gần gũi chúng ta, chịu khó bày vẽ, dìu dắt họ, đưa họ từ chỗ dễ đến chỗ khó, từ việc nhỏ đến việc to, từ chỗ thực tế tỉ mỉ đến chỗ lý luận cao xa. Như vậy là họ sẽ làm được việc, họ sẽ thành nhân tài, như vậy thì việc giúp đỡ Lào, Miên mới thật là có thể đạt đến mục đích”.
Phần thứ tư, nói về “Nhiệm vụ cần kíp của Lào, Miên ngày nay: Xây dựng và củng cố căn cứ địa”.
“Tuy tốn biết bao nhiêu công của, nhưng lực lượng kháng chiến Lào, Miên hiện này còn yếu. Về chính trị và kinh tế thì nói chung là đương bị địch kiểm soát. Về nhân dân thì tản mạn, chưa có tổ chức. Về quân sự thì chỉ có vài ba đơn vị đi phiêu lưu chiến đấu, cơm gạo phải mang từ nơi xa đến ăn, cán bộ và bộ đội lúc bị thương thì phải đi nước ngoài. Cơ quan chỉ đạo kháng chiến như Chính phủ Lào còn phải lưu vong. Ủy ban dân tộc giải phóng Miên thì lủng củng, không có tác dụng thật sự.
“Trước tình trạng này cố nhiên chúng ta phải chú trọng tổ chức nhân dân, nhưng không phải tổ chức nhân dân như trong hồi bí mật, cũng không phải chỉ lo lập chính quyền, mà lại càng không phải chỉ có tác chiến. Chúng ta phải chú ý cả ba mặt tổ chức (tổ chức nhân dân, xây dựng chính quyền, xây dựng bộ đội đánh giặc). Ba mặt công tác ấy cộng lại là thành căn cứ địa.
“Không có căn cứ địa, đội quân phiêu lưu cứ phiêu lưu, sẽ hao mòn, sẽ rời rã.
“Không có căn cứ địa, chính quyền cách mạng không thể tồn tại.
“Không có căn cứ địa thì không thể kháng chiến…”
Trong phần này có một tiểu mục nói về việc xây dựng chính đảng ở Lào, Miên:
“... bộ máy chính quyền phải làm việc chính quyền, quân đội phải chuyên tâm về quân sự; chỉ có chính đảng mới đi sâu vào nhân dân được, thật sự giác ngộ và động viên được nhân dân...Chính đảng là một đoàn thể gồm những phần tử giác ngộ hơn hết, kiên quyết hy sinh hơn hết. Nếu tổ chức quần chúng là một cái quả thì chính đảng là cái hột, nếu tổ chức quần chúng là một đội quân thì chính đảng là bộ tham mưa không thể thiếu được.
“…Tính chất cách mạng Lào, Miên là độc lập, thì chính đảng mà Lào, Miên cần có cũng là một đảng độc lập, chứ không phải là đảng dân chủ như một số cán bộ Lào đã chủ trương, cũng không phải là đảng xã hội như một số cán bộ Miên đã chủ trương.
Đề cương công tác Lào, Miên được Hội nghị cán bộ công tác Lào, Miên thông qua. Và sau đó được gửi về báo cáo Trung ương và được phổ biến rộng rãi trong cán bộ và chiến sĩ Việt kiều trên chiến trường Lào, Miên. Nhờ đó mà công tác giúp đỡ Lào, Miên được chuyển biển và phát triển mạnh hơn trước. Còn các đồng chí Lào, Miên khi được đọc Bản đề cương thì rất phấn khởi vì thấy rõ Việt Nam giúp Lào, Miên là vì lợi ích của Lào, Miên, chứ không phải vì lợi ích của Việt Nam.
Tháng 10-1949, Trung ương điện ra Băng-cốc chỉ định tôi phụ trách đoàn đại biểu Công đoàn Việt Nam tham gia Hội nghị Công đoàn Á-Úc họp ở Bắc Kinh vào khoảng cuối năm 1949. Tôi chuẩn bị lên đường đi Bắc Kinh ngay. Cùng đi với tôi có anh Bùi Các là một người giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp và rất thạo về việc giao thiệp trong lúc đi đường. Có thể nói, chuyến đi này nếu không có anh thì không thể đi đến nơi, đến chốn.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]lúc này nước Xiêm đã đổi tên là nước Thái
[2]nông trường Việt Nam
[3]Cục thông tin Cộng sản quốc tế
[4]hồi này Đảng ta chưa ra hoạt động công khai, nên khi trình bày các vấn đề trong hội nghị rộng rãi có cán bộ ngoại Đảng, tôi không nói gì về Đảng
No comments:
Post a Comment