Saturday, November 15, 2008

THIỀN CĂN BẢN 6

THIỀN CĂN BẢN
Ðại Sư Trí Khải; Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Nhà Xuất Bản Trí Thức
==

http://www.lotusmedia.net/unicode/ThienCanBan/u-tcb-305.html

====

PHẦN III
LỤC DIỆU PHÁP MÔN
Nguyên Tác: Ðại Sư Trí Khải. Dịch Giả: Thích Thanh Từ
LỜI DỊCH GIẢ

Gần đây những Phật tử xuất gia hoặc tại gia có thiện chí tu tập, đa số được quý Thượng tọa chỉ dạy theo pháp môn Tịnh Ðộ chuyên trì danh hiệu Đức Phật A-di-đà, hoặc tọa thiền áp dụng phương pháp Sổ tức. Riêng về pháp Sổ tức, trong khi thực tập có nhiều người băn khoăn không biết tướng kết quả thế nào? Chỉ tu pháp Sổ tức không là đủ hay phải tu pháp gì khác nữa? Chính tôi là một trong số người băn khoăn ấy.

Hân hạnh! Tôi được quý thầy trao cho quyển Lục Diệu Pháp Môn này. Ðọc xong, tôi thấy cần phổ biến để giúp những hành giả đang tu Sổ tức giải quyết thắc mắc trên.

Tuy nhiên, cầm viết phiên dịch, tôi chưa thỏa mãn, vì ngài Thiên Thai dùng quá nhiều danh từ Thiền, người ít học Phật pháp đọc khó bề hiểu hết. Nếu làm việc chú thích sẽ bằng năm bảy lần chánh văn, tôi không thể làm được. Mong quý độc giả biết cho!

Phương Bối Am, Mùa An Cư Tân Sửu 1961
Thích Thanh Từ


===


THIỀN CĂN BẢN
Ðại Sư Trí Khải; Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Nhà Xuất Bản Trí Thức
PHẦN III
LỤC DIỆU PHÁP MÔN
Nguyên Tác: Ðại Sư Trí Khải. Dịch Giả: Thích Thanh Từ
SƠ DẪN

Pháp môn này do ngài Ðại Sư Trí Khải, đời Tùy, lược nói ra ở đất Ðô Hạ, chùa Ngõa Quan.

A.- THÍCH ÐỀ:

Lục Diệu Môn là căn bản của kẻ nội hành, là lối trọng yếu của bậc Tam thừa đắc đạo. Cho nên đức Thích- ca lúc mới đến cội Bồ-đề rải cỏ ngồi kiết già bên trong suy nghĩ pháp An Ban:

1.- Sổ tức (đếm hơi thở).
2.- Tùy tức (để tâm theo hơi thở).
3.- Chỉ.
4.- Quán.
5.- Hoàn.
6.- Tịnh.

Nhân đó được muôn hạnh khai phát, hàng ma, thành đạo. Phật là mô phạm của muôn loài, chỉ bày đường lối như vậy, bậc Tam thừa Chánh sĩ đâu không đi đường ấy.

Lục là thuộc về số, y cứ số để nói Thiền. Như Phật hoặc y cứ số một để biện Thiền, là Nhất hạnh Tam-muội; hoặc y cứ số hai, là Chỉ và Quán; hoặc y cứ số ba, là Tam tam-muội; hoặc y cứ số bốn là Tứ Thiền; hoặc y cứ số năm là Ngũ môn Thiền; hoặc y cứ số sáu, là Lục diệu môn; hoặc y cứ số bảy, là Thất ý định; hoặc y cứ số tám, là Bát bội xả; hoặc y cứ số chín; là Cửu thứ đệ định; hoặc y cứ số mười, là Thập thiền chi. Như thế, cho đến trăm, ngàn, muôn, ức, vô số không thể kể các môn Tam-muội đềulà y cứ số, nói các môn Thiền. Tuy số có nhiều, ít, nhưng tận cùng pháp tướng thảy đều nhiếp nhau, do căn cơ hiểu ngộ của chúng sanh không đồng nên số có tăng, giảm phân biệt để lợi ích chúng sanh. Ở đây nói Lục là y cứ số nêu bày Thiền.

Diệu ý rất nhiều, nếu luận ý chánh tức là Diệt đế Niết-bàn, cho nên trong Diệt tứ hạnh nói: "Diệt chỉ diệu ly". Niết-bàn không phải đoạn, không phải thường, có mà khó hội, không mà dễ được, nên nói Diệu.

Sáu pháp này hay thông nên gọi là Môn. Cửa tuy có sáu nhưng nhận được chỗ nhiệm mầu thì không có khác, nên kinh nói: "Chân pháp bảo Niết-bàn, chúng sanh tùy mỗi cửa vào". Ðây là giải thích chung đại ý Lục Diệu Môn.

B.- CHÁNH THUYẾT:

Lục diệu môn đại ý có mười:

1.- Lục diệu môn qua riêng đối các Thiền.
2.- Lục diệu môn thứ lớp cùng sanh.
3.- Tùy tiện nghi tu Lục diệu môn.
4.- Tùy đối trị tu Lục diệu môn.
5.- Lục diệu môn nhiếp nhau.
6.- Lục diệu môn chung và riêng.
7.- Lục diệu môn triển chuyển.
8.- Quán tâm Lục diệu môn.
9.- Viên quán Lục diệu môn.
10.- Tướng chứng của Lục diệu môn.



====
PHẦN III
LỤC DIỆU PHÁP MÔN
Nguyên Tác: Ðại Sư Trí Khải. Dịch Giả: Thích Thanh Từ
CHƯƠNG I
QUA RIÊNG ÐỐI CÁC THIỀN

Qua riêng đối các pháp Thiền để rõ Lục diệu môn có sáu ý:

1.- Sổ tức là diệu môn.

- Hành giả nhân Sổ tức phát sanh Tứ thiền, Tứ vô lượng tâm, Tứ vô sắc định, nếu rốt sau được định Phi phi tưởng hay hiểu biết không phải Niết-bàn, người ấy quyết định được đạo Tam thừa. Vì sao? Vì định này do Ngũ ấm, Thập bát giới, Thập nhị nhập hòa hợp mà có, hư dối không thật, tuy không có phiền não thô mà vẫn còn mười món phiền não tế. Biết rồi phá dẹp không trụ, không trước, tâm giải thoát, chứng Tam thừa Niết-bàn. Nghĩa này, như trong kinh Phật dạy ông Tu-bạt-đà-la đoạn mê lầm cõi Phi phi tưởng liền chứng được quả A-la-hán. Sổ tức là Diệu môn ý tại đây vậy.

2.- Tùy tức là diệu môn.

Hành giả nhân Tùy tức liền phát sanh mười sáu thứ đặc thắng:

1- Biết hơi thở vào.
2- Biết hơi thở ra.
3- Biết hơi dài ngắn.
4- Biết hơi thở khắp thân.
5- Trừ các thân hành.
6- Tâm thọ hỷ.
7- Tâm thọ lạc.
8- Thọ các thứ tâm hành.
9- Tâm khởi mừng.
10- Tâm khởi nhiếp.
11- Tâm khởi giải thoát.
12- Quán vô thường.
13- Quán tan hoại.
14- Quán ly dục.
15- Quán diệt.
16- Quán buông bỏ.

Tại sao quán bỏ?

Pháp quán này phá mê lầm cõi Phi tưởng. Vì sao? Bởi phàm phu khi tu Phi tưởng, quán Hữu tưởng như nhọt, như ghẻ, quán vô tưởng như si mê, cái định thù thắng bậc nhất là Phi tưởng. Khởi niệm ấy rồi, liền buông bỏ hữu tưởng, vô tưởng gọi là Phi hữu tưởng, Phi vô tưởng, Cho nên Phi tưởng tức là nghĩa buông bỏ cả hai. Ðệ tử Phật quán phá dẹp như đoạn trước đã nói. Thế nên thâm quán buông bỏ không trước Phi tưởng hay được Niết-bàn.

3.- Chỉ là diệu môn.-

Hành giả nhân Chỉ tâm thứ lớp phát Ngũ luân thiền:

1- Ðịa luân Tam-muội tức là vị đáo địa.

2- Thủy luân Tam-muội tức là những thứ thiền định thiện căn khai phát.

3- Hư không luân Tam-muội là người đủ ngũ phương tiện (1) giác ngộ nhân duyên không tánh như hư không.

4- Kim sa luân Tam-muội là thấy nghĩ đều giải thoát, chánh tuệ không trước như cát vàng.

5- Kim cang luân Tam-muội là vô ngại đạo thứ chín (2) hay đoạn kiết sử trong tam giới hằng dứt sạch, chứng Tận trí, Vô sanh trí, nhập Niết-bàn.

4.- Quán là diệu môn.

- Hành giả nhân tu quán xuất sanh Cửu tưởng, Bát niệm, Thập tưởng, Bát bội xả, Bát thắng xứ, Thập nhất thiết xứ, Cửu thứ đệ định, Sư tử phấn tấn Tam-muội, siêu việt Tam-muội, luyện thiền, Thập tứ biến hóa tâm, Tam minh, Lục thông và Bát giải thoát, được Diệt thọ tưởng liền vào Niết-bàn.

5.- Hoàn là diệu môn.

- Hành giả nếu dùng tuệ hành khôn khéo phá dẹp phản bổn hoàn nguyên, khi ấy liền xuất sanh Không, Vô tướng, Vô tác, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Tứ đế, Mười hai nhân duyên, chánh quán trung đạo, nhân đó được vào Niết-bàn.

6.- Tịnh là diệu môn.

- Hành giả nếu hay thấu biết tất cả pháp bản tánh thanh tịnh liền đạt được tự tánh thiền. Vì được thiền này, người Nhị thừa quyết định chứng Niết-bàn, nếu là Bồ-tát vào vị Thiết luân đủ Thập tín tâm, tu hành không dừng liền xuất sanh chín thứ đại thiền:

1- Tự tánh thiền.
2- Nhất thiết thiền.
3- Man thiền.
4- Nhất thiết môn thiền.
5- Thiện nhân thiền.
6- Nhất thiết hạnh thiền.
7- Trừ não thiền.
8- Thử thế tha thế cọng lạc thiền.
9- Thanh tịnh tịnh thiền.

Bồ-tát y những thứ Thiền này được quả đại Bồ-đề, hoặc đã được, hiện được và sẽ được.


(1) Ngũ phương tiện: 1- Ðủ ngũ duyên. 2- Trách ngũ dục. 3- Bỏ ngũ cát. 4- Ðiều ngũ sự. 5- Hành ngũ pháp ( xem Tu Tập Tọa Thiền Chỉ Quán).

(2) Vô ngại đạo thứ chín: Là giải thoát chín phẩm Tư hoặc ở cõi Phi tưởng phi phi tưởng.


===

PHẦN III
LỤC DIỆU PHÁP MÔN
Nguyên Tác: Ðại Sư Trí Khải. Dịch Giả: Thích Thanh Từ
CHƯƠNG II
THỨ LỚP CÙNG SANH

Thứ lớp cùng sanh là thềm thang vào đạo. Nếu ở cõi Dục giới khéo thực hành sáu pháp mà chỉ riêng thành tựu pháp Tịnh tâm thứ sáu cũng được giải thoát của bậc Tam thừa, huống chi được đủ các thiền Tam-muội. Phần này với phần trước có khác. Vì cớ sao?

Như Sổ tức có hai:

1.- Tu Sổ tức.

- Hành giả điều hòa hơi thở không mạnh, không gấp, yên ổn thong thả đếm từ một đến mười, nhiếp tâm tại số, không cho dong ruổi, gọi là tu Sổ tức.

2.- Chứng Sổ tức.

- Hành giả biết tâm vận chuyển tự nhiên từ một đến mười không cần gia công. Tâm trụ duyên nơi hơi thở, biết hơi thở rỗng nhẹ, tướng tâm lần lần tế nhị. Ngại hơi thở là thô không muốn đếm, khi ấy hành giả nên bỏ Sổ tức tu Tùy tức.

Tùy tức có hai:

1.- Tu Tùy tức

- Xả pháp đếm hơi thở trước, nhất tâm nương theo hơi thở ra, vào; nhiếp tâm duyên hơi thở, biết hơi thở vào, ra, tâm trụ dứt các duyên, ý không phân tán, gọi là tu Tùy tức.

2.- Chứng Tùy tức

- Tâm đã vi tế an tịnh không có loạn, biết hơi thở dài, ngắn, khắp thân ra, vào. Tâm và hơi thở nương nhau vận động một cách tự nhiên, ý nghĩ lóng đứng lặng lẽ. Biết theo hơi thở là thô, tâm chán muốn bỏ, như người mệt nhọc muốn ngủ không ưa làm các việc, khi ấy hành giả nên xả Tùy tức tu Chỉ.

Chỉ cũng có hai:

1- Tu Chỉ

- Dứt các duyên lự không nhớ đếm hơi thở hay theo hơi thở, tâm ngưng lặng, gọi là tu Chỉ.

2- Chứng Chỉ

- Biết thân tâm đứng lặng vào định, không thấy tướng mạo trong ngoài, pháp định giữ tâm thầm chuyển không động. Hành giả khi ấy liền khởi nghĩ:Tam-muội này tuy là vô vi tịch tịnh, an ổn khoái lạc, mà không có trí tuệ phương tiện thì không thể phá hoại sanh tử.Lại khởi nghĩ: Ðịnh này thuộc về nhân duyên, do pháp ấm, giới, nhập hòa hợp mà có, hư dối không thật, ta nay không thấy, không biết, cần phải chiếu soi. Khởi nghĩ thế rồi, không đắm nơi Chỉ, mà khởi Quán.

Quán có hai:

1.- Tu Quán

- Tâm ở trong định dùng tuệ phân biệt quán tướng hơi thở ra vào vi tế như gió trong hư không; da, thịt, gân, xương v.v. ba mươi sáu vật trong thân không thật như bẹ cây chuối; tâm thức vô thường sanh diệt từng sát-na, không thật có ta và người; thân tâm và sự nhận chịu đều không tự tánh; đã không có người thì định nương vào đâu? Ấy gọi là tu Quán.

2.- Chứng Quán

- Khi quán như trên, biết hơi thở ra, vào khắp các lỗ chân lông, tâm nhãn mở sáng thấy ba mươi sáu vật và các loài trùng trong thân, toàn thân trong ngoài đều bất tịnh, biến đổi từng sát-na, tâm sanh buồn mừng được Tứ niệm xứ, phá tứ điên đảo, gọi là chứng Quán. Quán tướng đã phát, tâm duyên quán cảnh phân biệt phá dẹp, biết niệm lưu động không phải đạo chân thật; khi ấy nên xả Quán, tu Hoàn.

Hoàn có hai:

1.- Tu Hoàn

- Ðã biết Quán từ tâm sanh, hoặc từ phân tích cảnh sanh đều không hợp bản nguyên, phải phản quán, quán lại tâm năng quán. Tâm quán này từ đâu mà sanh? Là từ quán tâm sanh hay từ không quán tâm sanh? Nếu từ quán tâm sanh tức đã có quán, nay thật không phải thế. Vì sao? Vì ba pháp Sổ Tức, Tùy Tức, Chỉ trước chưa có pháp nào là Quán. Nếu từ không quán tâm sanh, cái không quán tâm diệt rồi mới sanh hay không diệt mà sanh? Nếu không diệt mà sanh tức hai tâm đồng có. Nếu diệt rồi mới sanh, nó đã diệt mất thì không thể sanh quán tâm được. Nếu chấp cũng diệt cũng không diệt sanh, cho đến không diệt không không diệt sanh đều không thể được. Phải biết quán tâm vốn tự không sanh, bởi không sanh cho nên không có, không có nên tức là không, không nên không có quán tâm. Nếu không có quán tâm thì đâu có quán cảnh. Cảnh và trí cả hai đều mất là lối trọng yếu để trở về nguồn vậy. Ðó gọi là tu Hoàn.

2.- Chứng Hoàn

- Tâm tuệ khai phát, không gia công lực mà tự thầm vận chuyển hay phá dẹp phản bổn hoàn nguyên, gọi là chứng Hoàn. Hành giả phải biết, nếu rời cảnh trí muốn về không cảnh trí, không khỏi sự trói buộc của cảnh trí, vì còn theo hai bên vậy. Khi ấy, nên xả Hoàn an tâm nơi Tịnh đạo.

Tịnh có hai:

1.- Tu Tịnh

- Vì biết sắc ấm tịnh không khởi vọng tưởng phân biệt, thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Dứt vọng tưởng cấu gọi là tu Tịnh. Dứt phân biệt cấu gọi là tu Tịnh. Dứt chấp ngã cấu gọi là tu Tịnh. Tóm lại, nếu tâm như bản tịnh gọi là tu Tịnh. Cũng không thể có năng tu, sở tu và tịnh, bất tịnh, gọi là tu Tịnh.

2.- Chứng Tịnh

- Khi tu như trên, bỗng suốt thông tâm tuệ tương ưng, vô ngại phương tiện tự nhiên dần dần khai phát, được Tam tịnh muội chánh thọ, tâm không còn nương tựa.

Chứng có hai:

1) Tương tợ chứng: Năm thứ phương tiện tương tợ, đạo tuệ vô lậu phát hiện.

2) Chân thật chứng: Ðược khổ pháp nhẫn, cho đến vô ngại đạo thứ chín v.v. tuệ vô lậu chân thật phát hiện. Những phiền não cấu trong tam giới hết, gọi là chứng Tịnh.

Lại nữa, quán chúng sanh không gọi là Quán; quán thật pháp không gọi là Hoàn; quán bình đẳng không gọi là Tịnh. Không Tam-muội tương ưng gọi là Quán; Vô tướng Tam-muội tương ưng gọi là Hoàn; Vô tác Tam-muội tương ưng gọi là Tịnh. Tất cả ngoại quán gọi là Quán; tất cả nội quán gọi là Hoàn; tất cả phi nội, phi ngoại quán, gọi là Tịnh. Cho nên Tiên ni Phạm Chí nói: "Phi nội quán cho nên được trí tuệ ấy, phi ngoại quán cho nên được trí tuệ ấy, phi nội ngoại quán cho nên được trí tuệ ấy, cũng chẳng phải không quán cho nên được trí tuệ ấy".


===


PHẦN III
LỤC DIỆU PHÁP MÔN
Nguyên Tác: Ðại Sư Trí Khải. Dịch Giả: Thích Thanh Từ
CHƯƠNG III
TÙY TIỆN NGHI TU LỤC DIỆU MÔN

Hành giả muốn được thâm thiền định trí tuệ, cho đến thật tướng Niết-bàn, sơ học an tâm cần phải khôn khéo. Thế nào là khôn khéo? Chính pháp Lục diệu môn này phải hiểu biết để điều phục tâm, tùy pháp nào thích hợp với tâm nên thường dùng. Vì cớ sao? Nếu tâm không thích hợp tu đối trị vô ích. Thế nên, khi mới tập tọa thiền phải nên học Sổ tức điều tâm, kế học Tùy tức, lại học Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh mỗi pháp trải qua vài ngày. Học rồi, trở lại từ Sổ, Tùy cho đến Hoàn, Tịnh tu tập an tâm. Mỗi pháp trải qua vài ngày, như thế đến đôi ba phen, hành giả ắt phải biết pháp nào thích hợp với tâm. Nếu Sổ tức thích hợp, nên dùng Sổ tức an tâm, cho đến Tịnh cũng như thế. Tùy tiện mà dùng không theo thứ tự. Như thế, khi an tâm nếu biết thân an, hơi thở điều, tâm tịnh và khai minh, trước sau vẫn an thì nên chuyên dùng pháp này. Nếu có sanh tâm tán loạn mờ tối, phải nên chuyển sang môn khác. An tức là tốt, nên thường lấy đó làm pháp tắc, ấy là lược nói kẻ sơ học khôn khéo áp dụng Lục diệu môn tùy tiện nghi an tâm.

Hành giả tâm được an ổn ắt có chỗ chứng. Thế nào là chứng? Nghĩa là được pháp trì thân, thô trụ, tế trụ, dục giới vị đáo địa và Sơ thiền v.v. các thứ thiền định. Ðược các định rồi, nếu tâm trụ không tiến, phải tùy định thâm thiển tu Lục diệu môn cho khai phát.

- Thế nào là định thiển không tiến tu Lục diệu môn khiến khai phát? - Như hành giả mới được pháp trì thân và pháp thô, tế trụ trải qua thời gian mà không tăng tiến, khi ấy phải nên tế tâm tu Sổ tức. Sổ tức nếu không tiến, phải tu Tùy tức. Tùy nếu không tiến, phải ngưng tâm vi tế tu Chỉ. Chỉ nếu không tiến, phải ở trong định Quán pháp ấm, giới, nhập. Quán nếu không tiến, phải Hoàn qui kiểm xét nguồn tâm. Hoàn nếu không tiến, phải lóng lặng thể Tịnh. Sáu pháp này, nếu khi được một pháp tăng tiến thì nên khéo dùng pháp ấy mà tu. Khi đã tiến vào thâm thiền định là vượt hơn cảnh Sổ tức.

Tướng Sổ tức đã mất, tiến phát thiền Tùy tức, ở trong định này nếu không tăng tiến phải khéo tu năm pháp Tùy, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh thì Tùy định tiến dần dần được thâm. Tùy cảnh đã qua liền phát Chỉ thiền. Chỉ thiền nếu không tiến phải khéo tu bốn pháp Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh thì Chỉ tướng tiến lần được thâm, quán tâm khai phát. Tuy có Chỉ pháp mà biết từ nhân duyên sanh không có tự tánh. Chỉ tướng đã qua, nếu Quán thiền không tiến phải khôn khéo tu ba pháp Quán, Hoàn, Tịnh. Quán thiền đã tiến, tiến rồi lại qua, chuyển vào thâm định, tuệ giải khai phát, chỉ biết pháp tướng của tự tâm, biết quán là hư dối không thật cũng thuộc vọng tình như việc trong mộng trông thấy. Biết rồi không thọ, trở lại phản chiếu nguồn tâm. Hoàn thiền trải lâu lại không thấy tiến, phải khéo quay lại phản quán nguồn tâm và thể tịnh lặng lẽ. Hoàn thiền đã tiến, tiến rồi lại qua liền phát Tịnh thiền. Thiền này về niệm tướng quán đã trừ, nói năng đều bặt vô lượng tội lỗi được diệt, tâm thanh tịnh thường nhất, gọi là Tịnh thiền. Tịnh nếu không tiến phải khéo đuổi cấu tâm thể nhập chân tịch không, tâm như hư không, không có chỗ nương tựa. Khi ấy, Tịnh thiền dần dần thâm tịch, thấu triệt sáng suốt, phát chân vô lậu, chứng đạo Tam thừa. Ðây là lược nói Lục diệu môn tùy nghi mà dùng, tăng trưởng các Thiền, công đức, trí tuệ cho đến nhập Niết-bàn.

Lại nữa, hành giả trong thời gian tu tập, nếu có nội chướng, ngoại chướng khởi, muốn dẹp trừ cũng y cứ Lục diệu môn tùy lấy một pháp, mỗi mỗi hiểu biết áp dụng đuổi nó. Nếu được lành liền lấy đó làm phương thuốc. Công dụng Lục diệu môn trị thiền chướng, ma sự và bệnh hoạn trong lúc tu thiền quyết được lành vậy. Ðã nói từ trước tới đây ý vẫn khó thấy, hành giả nếu dùng pháp môn này phải khéo suy nghĩ nhận cho được ý, chớ thực hành bừa.


==

PHẦN III
LỤC DIỆU PHÁP MÔN
Nguyên Tác: Ðại Sư Trí Khải. Dịch Giả: Thích Thanh Từ
CHƯƠNG IV
TÙY ÐỐI TRỊ TU LỤC DIỆU MÔN

Hành giả trong bậc Tam thừa tu hành đạo nghiệp khế hội chân lý đều do trừ chướng hiển lý, chớ không việc gì khác. Vì sao? Người Nhị thừa trừ Tứ trụ hoặc gọi là được Thánh quả, lại không có pháp nào khác. Bậc Ðại sĩ Bồ-tát phá sạch trần sa vô minh chướng hiển bày lý Bồ-đề cũng không tu pháp gì lạ. Lấy đây mà xét nếu người hay khéo dùng Lục diệu môn đối trị phá nội, ngoại chướng tức là tu đạo nghiệp, chứng đạo quả, lại không có đạo nào khác.

Thế nào là công dụng Lục diệu môn đối trị? Hành giả cần phải biết bệnh, biết thuốc. Thế nào là biết bệnh? Nghĩa là biết tam chướng:

1.- Báo chướng - Tức là Thập bát giới, Thập nhị nhập hiện đời không thiện, thô động, tán loạn làm chướng ngại.

2.- Phiền não chướng - Là các thứ phiền não Tam độc, Thập sử v.v.

3.- Nghiệp chướng - Là những chướng đạo ác nghiệp thời quá khứ, hoặc hiện tại trong khoảng chưa thọ báo hay làm chướng ngại thánh đạo.

Hành giả trong khi tọa thiền tam chướng phát khởi phải khéo biết tướng của nó, dùng pháp môn này đối trịtrừ diệt.

Thế nào trong khi tọa thiền biết tướng báo chướng v.v. khởi và pháp đối trị?

1.- Phân biệt nghĩ ngợi tâm tán động chạy theo các cảnh không tạm dừng trụ, gọi là báo chướng. Tâm phù động ngoa xảo chạy theo các cảnh, tán loạn tung hoành như khỉ, vượn gặp cây khó mà kềm chế. Khi ấy hành giả nên dùng pháp Sổ tức, Sổ tức điều tâm chính là chân đối trị vậy. Cho nên Phật nói: "Người duyên lự nhiều, dạy Sổ tức".

2.- Trong khi tọa thiền hoặc tâm cũng hôn trầm, cũng tán loạn. Hôn trầm tức là tâm không ghi nhớ, mờ mịt muốn ngủ. Tán loạn là tâm phù động dong ruổi. Khi ấy hành giả nên dùng Tùy tức, khéo điều tâm. Tùy tức soi rõ hơi thở ra, vào, tâm y hơi thở dứt các duyên không cho ý phân tán. Soi tỏ hơi thở ra, vào trị bệnh vô ký hôn trầm, tâm nương hơi thở trị bệnh dong ruổi lăng xăng.

3.- Trong khi tọa thiền nếu biết thân tâm bực bội, hơi thở thô, tâm tán loạn lộn xộn, khi ấy hành giả phải dùng Chỉ. Buông thả thân thể, phóng xả hơi thở, kềm tâm lóng đứng dứt các duyên lự, đó là pháp trị. Thế nào là phiền não chướng khởi và pháp đối trị?

Phiền não có ba thứ, pháp đối trị cũng có ba:

1.- Trong khi tọa thiền tham dục phiền não khởi, khi ấy hành giả nên dùng Cửu tưởng quán trong Quán môn và pháp Bội xả ban đầu cùng hai pháp thắng xứ, các pháp quán bất tịnh để đối trị.

2.- Trong khi tọa thiền sân nhuế phiền não khởi, khi ấy hành giả phải dùng Từ, Bi, Hỷ, Xả v.v. trong Quán môn mà đối trị.

3.- Trong khi tọa thiền ngu si tà kiến phiền não khởi, khi ấy hành giả nên dùng Hoàn môn phản chiếu Thập nhị nhân duyên, Tam không, các đạo phẩm phá dẹp nguồn tâm quay về bản tánh là pháp đối trị.

Thế nào là nghiệp chướng và cách đối trị?

Nghiệp chướng có ba thứ, pháp đối trị cũng ba:

1.- Trong khi tọa thiền bỗng nhiên cấu tâm mờ mịt, quên mất cảnh tâm duyên, đó là nghiệp chướng hắc ám khởi. Khi ấy, hành giả phải dùng Tịnh phương tiện, niệm Ứng thân Phật có ba mươi hai tướng thanh tịnh sáng suốt trong Tịnh môn mà đối trị.

2.- Trong khi tọa thiền bỗng nhiên khởi nghĩ ác, suy nghĩ tham dục v.v. không có pháp ác nào mà chẳng nghĩ, đó là tội nghiệp của đời quá khứ đã tạo. Khi ấy, hành giả nên niệm Báo thân Phật có nhất thế chủng trí hoàn toàn thanh tịnh và những công đức thường, lạc v.v. trong Tịnh môn để đối trị.

3.- Trong khi tọa thiền nếu có các thứ tướng cảnh giới ác hiện khởi, cho đến ép ngặt thân tâm, đó chính là ác nghiệp chướng do đời này, hoặc đời trước đã tạo. Khi ấy, hành giả nên niệm Pháp thân Phật bản tịnh không sanh, không diệt, bản tánh thanh tịnh, trong Tịnh môn để đối trị.

Ðây là lược nói Lục diệu môn đối trị, đoạn trừ tam chướng. Nếu nói rộng không ngoài mười lăm thứ chướng.

Lại nữa, hành giả trong khi tọa thiền nếu phát các thứ thiền thâm định, giải thoát, trí tuệ khác, hoặc các thứ chướng khởi, phải y cứ Lục môn khôn khéo dùng đối trị. Các thứ chướng thô, tế đã trừ, chân như thật tướng tự hiển, Tam minh, Lục thông tự phát, Thập lực, Tứ vô sở úy, tất cả công đức, hạnh nguyện của chư Phật, Bồ tát tự nhiên hiện tiền không do tạo tác. Cho nên Kinh chép: "Lại thấy chư Phật, tự nhiên thành Phật đạo".


==

No comments: