Saturday, November 15, 2008

THIỀN CĂN BẢN 2

==

THIỀN CĂN BẢN
Nhà Xuất Bản Trí Thức

PHẦN II
TỌA THIỀN TAM-MUỘI
Trước Thuật: SAMGHARAKASA
Dịch Phạn-Hán: KUMÀRAJIVADịch Hán-Việt: THÍCH THANH TỪ
LỜI DỊCH GIẢ

Quyển này nguyên tên là Tọa Thiền Tam-Muội Kinh, cũng tên là Thiền Kinh. Theo quan niệm đa số Phật tử, phàm là kinh phải của Phật nói và đủ lục chủng chứng tín - Như thị ngã văn v.v. mà quyển này do Tổ y cứ trong kinh soạn ra, nên tôi giản lược chữ Kinh, chỉ đề Tọa Thiền Tam-Muội .

Nguyên nó cả thảy hai quyển - thượng và hạ - tôi thấy văn thể liên tục nên hợp chung lại làm một quyển để khi đọc khỏi phải gián đoạn.

Về nội dung, chương mục không được rõ ràng. Muốn tiện cho độc giả nghiên cứu, tôi sắp và thêm chương mục của mỗi phần cho dễ thấy.

Vì có thay đổi chút ít nên tôi ghi vào đây ít hàng để quí độc giả khỏi nghi ngờ.

Cẩn Chí Thích Thanh Từ
Phương Bối Am - Mùa Ðông Tân Sửu (1961)



===


PHẦN II
TỌA THIỀN TAM-MUỘI
Trước Thuật: SAMGHARAKASA
Dịch Phạn-Hán: KUMÀRAJIVADịch Hán-Việt: THÍCH THANH TỪ
CHƯƠNG I
PHẦN DUYÊN KHỞI

Trình bày mười ý này để rõ lối tu Chỉ, Quán. Ðây là điều kiện cần thiết cho kẻ mới học tọa thiền. Nếu người khéo hội ý tu tập, khả dĩ an tâm vượt các chướng nạn, được định sanh tuệ và chứng vô lậu Thánh quả.
TỔNG KHỞI

Phật nói khó được nghe,
Tạm hiện như điển chớp.
Thân này thuộc già, chết,
Chỗ về của các bệnh,
Da mỏng che bất tịnh,
Ngu muội bị nó lừa.
Người thường bị giặc già,
Cướp mất sắc trai trẻ,
Như cành hoa xào héo,
Rã cánh hết quí giá.
Công đức vua Ðảnh Sanh,
Ngồi chung trời Ðế Thích,
Phước báu rất rộng lớn,
Ngày nay lại còn đâu!
Vua ấy trong Trời, người,
Dục lạc đủ hơn hết,
Khi chết rất đau khổ,
Do đó khá nhận ý.
Các dục trước vui nhỏ,
Sau thảy thành khổ lớn,
Như oán trước thấy tốt,
Diệt tộc họa ở sau.
Thân này là đồ nhơ,
Chín lỗ thường chảy nhớp,
Cũng như ghẻ Na-lợi,
Thầy thuốc khôn bề trị.
Xe xương sức rất kém,
Gân, mạch ràng, thức chuyển,
Ngươi cho là xe đẹp,
Nhận thích không hổ thẹn.
Người chết gom một chỗ,
Vất bỏ đầy gò nổng,
Lúc sống cùng tiếc giữ,
Khi chết đều vất đi.
Thường phải nghĩ như thế,
Nhất tâm quán chớ loạn,
Phá ngu mê đen tối,
Cầm đuốc rạng sáng soi.
Nếu bỏ Tứ niệm chỉ,
Tâm ác nào chẳng tạo,
Như voi hăng không móc,
Trọn không theo lối khiển.
Ngày nay gây nghiệp này,
Ngày mai tạo việc kia,
Ưa thích không thấy khổ,
Bất ngờ giặc chết đến!
Lo lắng việc của mình,
Việc kẻ khác cũng tính,
Giặc chết không đợi giờ,
Ðến thì không phương thoát.
Như nai khát tìm suối,
Vì uống nên đến nước,
Thợ săn không từ bi,
Không đợi uống xong, giết.
Người ngu cũng như thế,
Siêng tạo các sự nghiệp,
Chết đến không đợi giờ,
Ai sẽ vì ngươi giữ?
Người tâm mong giàu sang,
Ngũ dục lòng chưa thỏa,
Các vị đại quốc vương,
Ðâu khỏi được nạn này.
Chư tiên giỏi chú thuật,
Cũng không thoát sanh tử,
Voi lớn vô thường đạp,
Trùng, kiến đồng với đất.
Cho đến tất cả người,
Chư Phật bậc Chánh giác,
Vượt qua dòng sanh tử,
Cũng vẫn không thường ở.
Hẳn nên sớm bỏ lìa,
Nhất tâm cầu Niết-bàn,
Sau khi mất thân này,
Ai sẽ nhận biết ta?
Kẻ được gặp Pháp bảo,
Và người chưa được gặp,
Rất lâu Phật nhật xuất,
Phá tối lớn vô minh.
Phóng ra các ánh sáng,
Chỉ người đạo, phi đạo,
Ta từ đâu mà đến?
Ði sẽ trở về đâu?
Chỗ nào được giải thoát?
Nghi này ai thấu rõ?
Phật Thánh nhất thế trí,
Lâu lắm mới ra đời.
Nhất tâm chớ buông lung,
Hay phá nghi của người,
Kia không ưa thật lợi,
Mến thích tâm tệ ác.
Ngươi là chúng sanh tốt,
Nên cầu thật pháp tướng,
Ai biết khi nào chết?
Chết rồi đến ở đâu?
Ví như đèn trước gió,
Ðâu biết khi nào tắt,
Pháp chí đạo không khó,
Ðại Thánh chỉ việc nói.
Nói trí và cảnh trí,
Hai việc không nhờ ngoài,
Ngươi nếu không buông lung,
Nhất tâm thường hành đạo.
Không lâu được Niết-bàn,
Chỗ đệ nhất an lạc,
Trí sáng gần người lành,
Hết lòng kính Phật pháp.
Nhàm chán thân bất tịnh,
Lìa khổ được giải thoát,
Chỗ vắng tu chí lặng,
Ngồi kiết già trong rừng.
Xét tâm không buông lung,
Ngộ ý, biết các duyên,
Nếu không chán cõi đời,
Yên ngủ không tự thức.
Không nghĩ đời vô thường,
Ðáng sợ mà chẳng sợ,
Hồ phiền não không đáy,
Biển sanh tử không bờ.
Thuyền vượt khổ chưa đóng,
Ðâu thể vui ngủ nghỉ,
Do đây phải giác ngộ,
Chớ để ngủ che tâm.
Trong bốn thứ cúng dường,
Biết lượng, biết vừa đủ,
Sợ lớn chưa thoát được,
Phải chuyên cần tinh tấn.
Tất cả khổ khi đến,
Hối hận không thể kịp,
Mặc y ngồi cội cây,
Ðúng như pháp được ăn.
Chớ vì tham món ngon,
Mà tự đến hư hỏng,
Món ăn qua khỏi cổ,
Ngon, dở đều không khác.
Ưa ngon sanh buồn khổ,
Bởi thế chớ nên ưa,
Hành nghiệp trong thế giới,
Ngon dở đâu chẳng trải.
Tất cả đều thọ đủ,
Phải lấy đó tự ngăn,
Nếu ở trong loài thú,
Cỏ cây là đủ ngon.
Ðịa ngục nuốt hoàn sắt,
Sắt đốt cháy hừng hực,
Nếu sanh quỉ Bệ-lệ,
Máu mủ đồ phẩn uế.
Dãi, đàm, các bất tịnh,
Lấy đó làm món ngon,
Nếu được sanh Thiên cung,
Trong cung đẹp thất bảo.
Ăn toàn thức Tô-đà,
Thiên nữ làm vui lòng,
Sanh làm người hào quí,
Món ngon đủ các thứ.
Tất cả từng trải qua,
Nay sao còn ưa thích?
Qua lại trong thế giới,
Chán trải việc khổ, lạc.
Chỉ chưa được Niết-bàn,
Phải siêng cầu lợi này.


==
PHẦN II
TỌA THIỀN TAM-MUỘI
Trước Thuật: SAMGHARAKASA
Dịch Phạn-Hán: KUMÀRAJIVADịch Hán-Việt: THÍCH THANH TỪ
CHƯƠNG II
KHẢO SÁT TÂM BỆNH

Người học Thiền lúc mới đến chỗ thầy, thầy nên hỏi rằng: "Ngươi giữ giới thanh tịnh chăng? Có phạm tội trọng, tà ác chăng?" . Nếu đáp: "Năm giới thanh tịnh, không phạm tội trọng, tà ác" . Thứ mới dạy đạo pháp. Nếu đáp: "Phạm giới". Nên hỏi lại rằng: "Ngươi phạm giới nào ?". Nếu đáp: "Trọng giới". Thầy bảo: "Như người bị cắt tai, xẻo mũi không thể soi gương, ngươi nên trở về chuyên cần tụng kinh, khuyến hóa làm phước để gieo giống nhân duyên đạo pháp đời sau, đời này coi như đã bỏ. Ví như cây đã khô, dù gắng tưới nước cũng không sanh hoa, lá và trái được". Nếu phạm các giới khác, thầy nên dạy như pháp sám hối. Sám hối đã thanh tịnh, thầy nếu được thiên nhãn, tha tâm trí xem qua, tùy bệnh nói pháp tiến đạo. Nếu thầy chưa được thông, nên xem tướng mạo đoán bệnh, hoặc lại hỏi người ấy rằng: "Trong ba độc ngươi nặng cái nào? Dâm dục nặng ư? Nóng giận nặng ư? Ngu si nặng ư?

Thế nào là xem tướng?
Tướng Người Ða Dâm:

- Người lanh lẹ, nuôi nhiều vợ, hầu, nói nhiều, tin nhiều, nhan sắc vui vẻ, nói năng dễ dàng, ít giận hờn, ít ưu sầu, giỏi kỹ thuật, ưa nghe, thích biết, yêu thích văn thơ, có tài đàm luận, hay xét biết tính người, nhiều chuyện kinh sợ. Người ấy ở trong phòng ưa mặc đồ mỏng, khát khao nữ sắc, màn, trướng, ưa trang sức hương hoa, tâm nhỏ nhẹ khiến người thương mến, nói lời bóng bẩy, ưa làm phước nghiệp, ý thích sanh cõi trời, ở trong chúng không chống kẻ tốt, xấu, tín nhiệm phụ nữ, lửa dục hừng thịnh, tâm nhiều hối hận, biến đổi, thích tự trang sức, ưa xem tranh ảnh, luyến tiếc vật của mình, ước ao đồ của người, ưa kết bạn bè, không chịu ở một mình, chỗ ở thích giống thế tục, chợt kinh chợt sợ, chỉ như khỉ vượn. Kẻ ấy nhìn rất thiển cận, làm việc không suy nghĩ, nhẹ dạ nên làm việc mong được thích ý, ưa kêu, ưa khóc, thân thể mềm yếu không kham chịu lạnh, khổ, dễ nản, dễ vui, không thể nhẫn việc, được ít vui to, mất ít sầu lớn, tự bày tự giấu, mồ hôi trong thân hôi, da mỏng, tóc mềm, nhiều nếp nhăn trắng, thường cắt móng tay, cạo râu, đánh răng trắng, đi ra thích mặc đồ thật sạch, học không chuyên cần, ưa dạo vườn cảnh, nhiều tình, nhiều cầu, ý chấp thường kiến, gần người có đức vồn vã thăm hỏi, ý nhận lời nói của người, gắng tỏ vẻ vui tươi, nghe việc mau hiểu lấy làm sự nghiệp, phân biệt tốt xấu, thương người khổ nạn, tự đại, háo thắng, không chịu người người lấn hiếp, ưa làm việc cứu giúp, tiếp dẫn người lành, có những thức ngon chia người cùng ăn, chí thích xa lớn, mắt xem sắc dục không bao giờ chán, không lo xa, biết thế gian phương tục, xem xét nhan sắc đoán được lòng người, nói lời khôn khéo, kết bạn không bền, đầu tóc ít, thưa, ít chịu ngủ nghỉ, nằm, ngồi, đi, đứng dung mạo đường hoàng, có tiền của liền đem cứu cấp về sau hối tiếc, thích nghĩa muốn chóng đặng, sau lại mau quên, chấp những hành động khó tự cải đổi, khó được ly dục, làm tội nhỏ, nhẹ. Những tác phong như thế là tướng đa dục.
Tướng Người Nóng Giận:

- Người nhiều giận, buồn, thân miệng thô xẳng, hay nhẫn các thứ khổ, gặp việc không khiếp sợ, nhiều buồn, ít vui, có thể làm việc đại ác không có lòng thương xót, thích sự tranh đấu kiện thưa, nhan mạo khô héo, mày nhăn mắt trợn, khó nói, khó vui, khó làm việc, khó thành công, tâm mình như ghẻ lở mà ưa nói lỗi người, luận nghĩa vững chắc khó chiết phục được, khó làm khuynh động, khó thân thiện, khó ngăn trở, ôm lòng độc khó bỏ, nhận lời hứa không quên, tài giỏi khéo léo, tâm không chịu lười biếng, làm việc mau chóng, ôm kỳ vọng không nói, ý sâu sắc khó hiểu, thọ ân liền lo đền, có tài chinh phục được chúng làm việc, không thể phá hoại, việc làm được trọn vẹn, khó ai can phạm, ít sợ khó ví như sư tử không thể khuất phục, một phen quyết định không hề thay đổi, thẳng tiến tạo tác, nhớ dai và nhiều suy nghĩ, chuyên cần học tập, hay bố thí, không màng lợi nhỏ, làm thầy thì khôn ngoan, ly dục ưa ở một mình, ít sự dâm dục, tâm thường nghiêng về đoạn kiến, nhìn ngay ngó thẳng, nói năng chân thật, trình bày rõ ràng, ít có bạn thân, làm việc hay chấp chặt, nhớ lâu không quên, ưa làm việc bằng tay chân, vai ngực nở to, trán rộng tóc bằng, tâm cứng rắn khó điều phục, mau được mà khó quên, có thể tự lìa dục mà ưa gây tội nặng. Những tướng trạng như thế là tướng người nóng giận.
Tướng Người Ngu Si:

- Nhiều nghi ngờ, nhiều hối hận, lười biếng không nhận thức, tự mãn không tuân theo, kiêu mạn khó dạy bảo, chuyện đáng tin không tin, không đáng tin lại tin, không biết chỗ nào đáng kính, ở đâu cũng tin theo, thường bị thầy quở không biết hổ thẹn mà cứ càn bướng, làm việc không suy nghĩ, có ai chỉ dạy lại chống đối, không biết chọn bạn, không biết trang sức, thầy lành, đạo lạ cũng không phân biệt tốt, xấu, căn tánh ngu độn chậm lụt, khó nhớ mà dễ quên, chê bai người làm việc bố thí, không có tâm thương xót, phá hư cây cầu chánh pháp, gặp việc không hiểu biết, con mắt lờ đờ không có trí tuệ, nhiều mong cầu, nhiều trông đợi, nhiều nghi ngờ, ít chánh tín, ganh ghét người tốt, cho rằng không có quả báo tội phước, không phân biệt lời lành, không biết lầm lỗi, không vâng lời khuyên bảo, xa lìa kẻ thân lại sanh oán trách, không biết lễ phép, ưa nói lời ác khẩu, râu tóc móng tay dài, răng áo nhơ nhớp, bị người sai khiến, chỗ sợ lại không sợ, chỗ vui thì âu sầu, chỗ sầu lại vui, chỗ buồn thì cười, chỗ cười lại buồn, đợi lôi mới đi, hay chịu những sự khổ nhọc, không phân biệt mùi vị, khó thể lìa dục, làm tội sâu nặng. Ðó là những tướng trạng của người ngu si.

No comments: