Monday, November 17, 2008

TẦNG ĐẦU ĐỊA NGỤC II

==
Aleksandr I. Solzhenitsyn
Tầng đầu địa ngục
Hải Triều dịch
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

8. Năm thứ năm sống trong lao tù

Họ để hết tâm trí vào cuộc nói chuyện tay đôi ấy đến nỗi họ không còn nghe thấy những tiếng động trong phòng hoặc tiếng nhạc phát ra từ chiếc radio ở góc phòng đằng kia. Một lẫn nữa Nerzhin xoay cái ghế anh ngồi để quay lưng vào phòng nhìn ra cửa sổ. Rubin cũng ngồi nghiêng, tay khoác lên thành ghế, bộ râu đặt trên cánh tay anh.

Nerzhin nói bằng một giọng nồng ấm, chân thành, như người nói ra những ý tưởng đã được suy nghĩ rất chín trong một thời gian rất lâu:

“Khi tôi còn tự do, tôi thường đọc những quyển sách trong đó có những người hiểu biết viết về ý nghĩa của cuộc sống và bản thể của hạnh phúc. Khi đó tôi chẳng hiểu gì nhiều về những vấn đề được viết trong những quyển sách dày đó. Tôi nghĩ: những người hiểu biết phải suy nghĩ. Suy nghĩ là nghề của họ. Nhưng còn ý nghĩa của cuộc sống? Chúng ta sống – đó là ý nghĩa cuộc sống. Còn hạnh phúc? Hạnh phúc là khi nào mọi việc xảy ra như ý mình mong muốn, ai cũng hiểu như thế. Xin cảm tạ Thượng đế đã sinh ra nhà tù. Nhà tù giúp cho tôi cơ hội và điều kiện để suy nghĩ. Để có thể hiểu được bản thể của hạnh phúc, ta cần phải phân tích tình trạng no đủ, thừa thãi, chán mứa trước. Hãy nhớ lại Lubyanka. Hãy nhớ lại những tô súp loãng không có lấy được một giọt mỡ ở đó. Anh có thể nói được rằng anh ăn thứ súp đó được không? Không, anh hòa mình với nó. Anh đưa nó vào cơ thể như một thứ bánh thánh, như hạt mè của những vị tịch cốc tu tiên. Anh đưa nó vào miệng anh chậm chạp, từng tí một, anh thận trọng khi cho nó vào miệng, thành kính như anh đang làm một hoạt động có tính cách thiêng liêng, anh ăn và nghĩ đến ăn và nó thấm trong cơ thể anh như một thứ nước hồi sinh. Anh run rẩy vì mùi vị ngọt đậm của những hạt lúa mì trôi trong chất nước sền sệt đó. Thế rồi, gần như không được ăn uông gì cả, anh tiếp tục sống sáu tháng, mười hai tháng. Anh có thể so sánh việc ăn ngấu ăn nghiến, ăn mà không biết là đang ăn, không cảm thấy mùi vị, một miếng bít tết lớn với tô súp ấy?”

Rubin không thể ngồi im để nghe người khác nói lâu được. Trong bất cứ cuộc nói chuyện nào, anh cũng là người hướng dẫn, đưa ra những đề tài mới, những nhận xét chưa được phát biểu. Giờ đây anh cũng nóng nảy tìm cách cắt ngang nhưng Nerzhin nắm lấy ngực áo anh và lắc mạnh bắt anh phải nghe:

“Vì vậy, nhờ sống ở trong tù, nhờ những đồng chí khốn nạn của chúng ta, chúng ta được biết thế nào là no đủ. No đủ không được quyết định trên sự kiện ăn nhiều chừng nào mà là ở trên việc ta ăn như thế nào. Hạnh phúc cũng thế. Lev, hạnh phúc không căn cứ trên việc chúng ta được hưởng những gì ở cuộc đời, mà là nằm ở thái độ của chúng ta đối với việc hưởng thụ những tiện nghi đó. Kinh của Đạo lão có câu: “Kẻ nào biết đủ bao giờ cũng hài lòng” [1] .

Rubin nở nụ cười mỉa mai:

“Anh trở thành chuyên viên chiết trung rồi đó. Anh nhổ những sợi lông bóng bẩy ở khắp nơi.”

Nerzhin lắc đầu. Tóc anh xõa xuống trán. Anh đang say sưa nói. Trong lúc này, trông anh giống một thiếu niên mười tám tuổi.

“Đừng lộn xộn trật tự, Lev. Tôi không phải là kẻ chuyên đi thu nhặt những tư tưởng rải rác ở khắp nơi để đúc kết lại thành của riêng tôi đâu. Tôi đi đến những kết luận không căn cứ trên những quyển sách triết học tôi đã đọc mà là căn cứ trên những chuyện về những người sống thực mà tôi gặp trong những nhà tù. Trong thế giới triết học, tất cả mọi địa hạt đều đã có người khai thác, khám phá. Tuy vậy, tôi vẫn có những phát kiến mới của riêng tôi. Đừng ngắt lời, nghe tôi nói đã. Tôi sắp cho anh một tỉ dụ. Nếu trong một nhà tù – như nhà tù đặc biệt này chẳng hạn – có một sự lạ xảy ra như là một ngày chủ nhật tự do, một ngày chủ nhật không phải làm việc. Trong ngày đó tâm hồn chúng ta sẽ không bị đông đặc như đá. Và dù rằng đời sống bên ngoài của tôi không có gì thay đổi nhiều, nghĩa là tôi vẫn bị quản thúc như mọi ngày, gông cùm ngục tù cũng nới lỏng được đôi chút trên cổ tôi, tôi có thể nói chuyện được thỏa thích với một người bạn nào đó, đọc một trang sách lương thiện, và tôi có thể thả hồn tôi trên làn sóng tư tưởng. Tôi đã không được sống thực sự là sống trong nhiều năm nhưng tôi đã quên mất tình trạng đó. Tôi ngằm ngửa trên giường, mắt nhìn lên trần. Trần phòng rất gần tôi, nó trơ trụi, nó long lở – và tôi run rẩy vì cuộc sống bên trong tôi. Tôi sẽ ngủ đi trong sung sướng, hoan lạc. Dám chắc không một ông Quốc trưởng, một Tổng trưởng nào có thể ngủ ngon và hài lòng như tôi trong ngày chủ nhật ấy của tôi.”

Rubin lại cười. Nụ cười này không mỉa mai, chế nhạo nữa. Đó là nụ cười bao dung trong đó có ý chấp nhận của một người đàn ông đối với người bạn ít tuổi hơn mình:

“Kinh Vệ đà nói gì về vấn đề này?” [2]

Rubin hỏi, môi anh trề ra như người đang vui.

“Tôi không biết gì về kinh Vệ đà” – Nerzhin trả lời bằng một giọng quả quyết – “Nhưng tôi biết có một triết thuyết Ấn Độ nói rằng: “Với những ai hiểu biết, hạnh phúc của nhân loại là đau khổ”.

Rubin nói trong bộ râu:

“Tôi chắc anh đã sắp sẵn tất cả những câu anh vừa nói. Phải anh nghe được câu đó từ Sologdin không?”

“Có thể. Không tưởng? Duy tâm? Đúng? Sai? Anh còn đợi gì nữa mà không dán nhãn hiệu? Anh râu dê. Nghe cho kỹ này – hạnh phúc vì chiến thắng, hạnh phúc vì ước ao mà được, địa phương vì thành công và vì no đủ – tất cả đều là khổ não. Đó là sự tiêu diệt của linh hồn, một thứ đau khổ tinh thần không bao giờ ngừng. Đó không phải là những triết gia Ấn Độ cổ xưa đã nghĩ ra điều ấy, đó là do tôi, do chính tôi, Gleb Nerzhin, một tù nhân chịu gông cùm trong năm thứ năm, người mà tinh thần đã vượt lên đến tình trạng thấy rằng những cái gì xấu đã bắt đầu trở thành tốt. Và tôi nắm vững quan niệm là người đời không biết rõ họ muốn thích cái gì, không biết họ mong ước gì. Họ tiêu pha đời sống của họ trong việc tranh chiếm một số những của cải vô giá trị và họ chết mà hoàn toàn không hay biết gì về đời sống tinh thần phong phú của họ. Khi Lev Tolstoy mơ đến chuyện được ở tù, đó là lúc ông lý luận như một người thực sự hiểu biết và tinh thần ông đang mạnh mẽ vô kể.”

Rubin cười thành tiếng. Anh vẫn cười thành tiếng mỗi khi anh không chấp nhận một quan niệm nào của đối tượng trong cuộc thảo luận.

“Thôi đi, chú nhỏ” – Rubin nói – “đó là cái tinh thần còn non, chưa trưởng thành ở trong chú nói lên những câu đó. Chú cho những kinh nghiệm riêng của chú đúng hơn kinh nghiệm chung của cả nhân loại? Chú đã bị lệch lạc vì đời sống ở trong tù và chú nhìn xã hội qua cảnh tù đày. Đâu có phải chỉ vì cuộc đời của chúng ta tan nát, vì số mệnh của chúng ta không may mà loài người phải thay đổi quan niệm về cuộc sống?”

“Anh mới là người kém trưởng thành. Đáng lẽ ra anh phải học được nhiều sự thật ở trong tù, trong lúc anh có thể nhìn thẳng vào đời sống và học thẳng được ở đó…”

“Anh nói đời sống nào? Đây là tù, đây đâu phải là sống?”

Nerzhin vẫn nồng nàn với ý nghĩ:

“… anh đã tự tay buộc cái khăn bịt mắt lên che kín hai mắt anh, tự đút nút lỗ tai anh, anh chọn một thái độ và anh cho đó là thông minh? Theo anh, thông minh là việc không cần biết gì thêm, không cần học hỏi nữa?”

“Thông minh là khách quan.”

“Anh… - Anh mà khách quan à?”

Rubin nghiêm giọng đáp:

“Phải. Khách quan tuyệt đối.”

“Chưa bao giờ tôi gặp một người nào thiếu khách quan như anh.”

“Anh hãy nhấc đầu anh ra khỏi cát. Hãy nhìn sự kiện theo kiến trúc lịch sử của chúng. Đáng lẽ ra tôi không nên nói những lời của chính tôi như những bằng chứng, nhưng:

Cuộc sống của con bọ nước chỉ có một ngày.
Cuộc sống của cây từng dài một trăm năm.

Luật thiên nhiên – anh có hiểu nghĩa danh từ đó không? Những điều luật thiên nhiên không sao có thể tránh được. Tất cả những gì có ở đời đều đi theo một con đường nhất định. Thật là vô ích khi chúng ta nghĩ rằng ta có thể ở lại được nếu ta hoài nghi.”

“Lev… Đừng bao giờ anh nghĩ rằng hoài nghi là một việc dễ. Với tôi, hoài nghi có thể là một chiếc quán bên đường để tôi có thể vào nghỉ khi trời dông bão. Nhưng hoài nghi là một cách để giết tinh thần con người ra khỏi những ràng buộc của giáo điều. Chỉ cần làm việc đó, ta đã thấy nó có giá trị đáng kể rồi.”

“Giáo điều? Anh thật là bậy. Tôi mà lại là người tin giáo điều hay sao?”

Đôi mắt mở lớn của Rubin nặng những hờn trách:

“Tôi cũng là một tù nhân cùng loại với anh. Tôi cũng bị bắt năm 1945: Tôi cũng sống bốn năm trên mặt trận, một mảnh đạn trọng pháo nằm ở mạng sườn và năm năm ở tù. Vì vậy tôi nhìn cuộc đời cũng giống hệt anh. Cái gì phải có là phải có. Quốc gia không thể tồn tại được nếu không có một hệ thống trừng phạt có tổ chức.”

“Tôi không chịu. Tôi không chấp nhận điều ấy.”

“Tất nhiên. Vì anh hoài nghi. Nhưng thái độ hoài nghi của anh cũng không đúng. Tại sao anh lại xúc động dữ vậy? Người hoài nghi đâu có bao giờ xúc động? Người hoài nghi không bao giờ đưa ra những quyết đoán. Người hoài nghi bất cứ trong trường hợp nào cũng thản nhiên.”

“Anh nói đúng…”

Nerzhin nói bằng một giọng buồn rầu, thê thảm như người tuyệt vọng:

“Tôi muốn có những tư tưởng thoát tục, nhưng thực tế vẫn giữ tôi lại…”

“Thoát tục? Vậy mà hồi ở Dzhezkagan, anh nổi điên lên vì nơi đó thiếu nước uống…”

“Lẽ ra anh phải sống ở đấy suốt đời anh mới phải. Anh là người duy nhất trong cả bọn nghĩ rằng người cày làm đúng, rằng những việc hắn làm đều rất thường và cần thiết. Nếu anh sống ở Dzhezkazan, anh sẽ thay đổi ý kiến ngay lập tức…”

“Anh phải nghe tôi…”

Bây giờ đến lượt Rubin nắm lấy tay áo Nerzhin.

“Ông ấy là người vĩ đại nhất. Rồi sẽ có ngày anh thấy, sẽ có ngày anh hiểu. Ông ấy là Robespierre và Napoleon nhập lại làm một của cuộc cách mạng của chúng ta. Ông ấy khôn ngoan, thực sự khôn ngoan. Ông ấy nhìn xa, thấy rộng hơn tầm mắt của chúng ta rất nhiều…”

“Anh chỉ nên tin những gì mắt anh nhìn thấy được…”

Nerzhin ngắt lời:

“Anh cũng nghe tôi… Hồi tôi còn là một chú bé, tôi đọc những cuốn sách hắn viết khi tôi đọc Lenin. Tuy ham đọc lắm nhưng tôi không sao có thể đọc hết được những gì hắn viết. Sau bút pháp của Lenin: sáng sủa, rõ rệt, nồng nàn, đi thẳng vào trái tim người đọc, bút pháp của hắn như một đống bùn. Tư tưởng nào của hắn cũng thô tục và ngu ngốc – Hắn còn tỏ ra hắn không biết hắn cần nhấn mạnh những gì, phớt qua những gì, những gì là quan trọng và những gì là phụ thuộc…”

Rubin tỏ vẻ nghi ngờ:

“Anh biết được những điều ấy khi anh còn là một chú bé?”

“Tôi biết như thế khi tôi đã học khá cao. Khi còn nhỏ, tôi mới chỉ hoang mang không hiểu. Anh không tin tôi ư? Những người thẩm vấn và làm bản tội trạng của tôi cũng không tin như anh. Thái độ kiêu căng phách lối, những luận điệu kẻ cả, bề trên trong những lời tuyên bố của hắn làm tôi điên lên vì khó chịu. Hắn có vẻ thực sự nghĩ rằng hắn thông minh hơn tất cả những người Nga khác.”

“Và sự thật đúng như thế.”

“… và hắn tin rằng hắn làm cho chúng ta sung sướng bằng cách cho chúng ta chiêm ngưỡng hắn, thán phục hắn.”

Trong cơn nồng nhiệt của cuộc tranh luận, hai người bạn trở thành quên đề phòng. Những lời họ nói lúc này có thể lọt vào tai Simochka, người ngồi gần họ nhất và cũng là người đang lắng tai nghe họ nói gì với nhau. Thỉnh thoảng Simochka lại liếc nhìn Nerzhin, đôi mắt biểu lộ sự hờn trách. Nàng hờn dỗi vì nàng thấy rõ rằng không những là Nerzhin không tỏ vẻ gì là lợi dụng sự có mặt của nàng ở cạnh chàng đêm nay, chàng còn không cả nhìn nàng, chàng như không hề biết là đêm nay có nàng ở trong phòng này.

Rubin nói bằng cái giong của người muốn kết thúc cuộc tranh luận:

“Anh lầm – anh lầm vì anh mò mẫm trong những vấn đề mà anh hoàn toàn không biết rõ. Anh là một nhà toán học, anh không hiểu biết gì về lịch sử và triết học. Sao anh dám đưa ra những lời buộc tội nặng đến như thế?”

“Nghe đây… Những huyền thoại về những người khám phá ra tiểu hòa tử và cân được Beta Sirius mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy nó nhưng con nít đến nỗi không biết giải quyết những vấn đề thường ngày của cuộc sống đã trở thành những chuyện lẩm cẩm không làm cho ai tin. Chúng tôi không còn cách nào khác. Nếu sử gia các anh không chịu tự hạn chế trong phạm vi lịch sử, còn có gì sót lại để cho chúng tôi, những nhà toán học, những chuyên viên, làm nữa? Tôi thấy những người lãnh những giải thưởng, những người được hưởng quy chế lương bổng dành cho học giả… Những người đó không viết sử, họ chỉ quỳ gối, khom lưng ở một chỗ nào đó. Vì vậy chúng tôi, những nhà trí thức khoa học, chúng tôi bắt buộc phải nghiên cứu lịch sử.”

“Ồ… Sao anh nói có vẻ thê thảm quá…”

Trên mặt bàn không người ngồi của thiếu tá kỹ sư Roitman, máy điện thoại reo chuông. Simochka đứng dây đi tới nhấc máy trả lời.

“Gleb Vikentich…”

Simochka gọi về phía Nerzhin nhưng đang mải tranh luận với Rubin, chàng này không nghe tiếng.

Simochka gọi lớn hơn:

“Gleb Vikentich…!”

“Có tôi…”

Nerzhin quay lại nhìn.

“Anh không nghe tiếng gì ư? Có điện thoại.”

Simochka nghiêm khắc nói. Nàng đứng sau bàn của nàng, đôi lông mày nhíu lại, hai tay khoanh trước ngực, chiếc khăn choàng kéo sát xuống trên vai nàng:

“Anton Nikolayevich cần gặp anh trong văn phòng của ổng.”

“Vậy ạ?”

Trên khuôn mặt Nerzhin những nét nồng nhiệt của cuộc tranh luận đã biến đi, những nếp nhăn đã trở lại:

“Cám ơn Serafima Vitalyevna. Anh nghe gì không, Lev? Yakonov muốn gặp tôi. Không biết là chuyện gì đây.”

Việc ông giám đốc Viện gọi một tù nhân lên văn phòng mình vào lúc mười giờ đêm thứ bảy là một sự kiện kỳ lạ. Mặc dù Simochka cố gắng giữ vẻ bình thản của một viên chức, ánh mắt nàng, ngay cả Nerzhin cũng nhận thấy, vẫn có vẻ lo âu.

Thế rồi, như giữa họ chưa từng bao giờ xảy ra tranh luận và bất đồng ý kiến hết, Rubin nhìn bạn bằng đôi mắt đầy những quản ngại. Khi đôi mắt của Rubin không sáng lên vì tranh luận sôi nổi, chúng trở lại dịu hiền như mắt đàn bà.

“Tôi không hào hứng khi thấy thiên hạ để ý đến mình” – Rubin nói – “Người xưa có câu: “Đừng dại dột mà làm nhà cạnh cung điện của ông Hoàng”.

“Nhưng chúng mình có gì đáng được để ý đâu? Công việc của chúng mình chỉ là một việc phụ ở đây: nghiên cứu tiếng nói.”

“Vậy mà Anton vẫn để ý đến mình… Rất có thể mình sẽ bị khiển trách về việc tập Hồi ký của Stanisvsky và quyển Diễn văn của luật sư…”

Rubin cười và nói tiếp:

“Cũng có thể là vì bản báo cáo anh vừa gửi lên không được rõ ràng…”

Nerzhin lắc đầu:

“Chắc không phải vì báo cáo đâu. Báo cáo mình gửi lên đã lâu rồi, êm ru không nghe thấy thiên hạ phàn nàn gì hết. Nếu không thấy tôi trở lại nữa, anh…”

“Đừng có vớ vẩn…”

“Vớ vẩn là thế nào? Đời là như thế. Chuyện thường xảy ra."

Nerzhin cúi xuống như để thu xếp lại những giấy tờ trên bàn, anh nổinh và nhanh với bạn:

"… đốt hết những cái đó đi giùm tôi."

Nerzhin khóa ngăn kéo bàn và đưa chìa khóa cho Rubin. Rồi anh đi ra khỏi phòng với dáng điệu khoan thai của một người tù đã sống đến năm thứ năm trong tù, người tù không bao giờ vội vã vì luôn luôn chỉ chờ đợi những gì bất hạnh hơn xảy đến.


9. Hai nhà toán học

Nerzhin đi lên thang lầu lớn, rộng, trải thảm đỏ, dưới những cây đèn bằng đồng và trần nhà bằng thạch cao đắp vòng cung. Vào giờ khuya này, thang lầu vắng tanh. Anh cố gắng trấn tĩnh để bước đi với một vẻ thản nhiên khi anh đi ngang người sĩ quan trực ở phòng gác bên ngoài và tới gõ lên cánh cửa văn phòng của ông giám đốc Viện Nghiên cứu khoa học Mavrino: Đại tá kỹ sư Bộ An ninh quốc gia Anton Nikolayevich Yakonov.

Văn phòng rộng thênh thang, trên sàn có trải thảm, bàn ghế bằng gỗ quí đánh bóng. Ở giữa phòng là một chiếc bàn hội dài trải khăn xanh. Ở trong góc phòng xa tít kia mới là bàn làm việc của Yakonov. Nerzhin từng vài lần đặt chân vào phòng này, nhưng anh chỉ đến đây với nhiều người khác để dự những phiên họp nghe chỉ thị, đây là lần thứ nhất anh một mình tới đây.

Đại tá kỹ sư Yakonov đã ngoài năm mươi nhưng trông vẫn còn trẻ và tráng kiện. Y cao lớn, khuôn mặt y thoa phớt một làn phấn sau khi y cạo râu. Y không mang kiếng trắng mà chỉ dùng một chiếc pince-nez bằng vàng. Y có cái vẻ vạm vỡ của một vương tử Obolensky hay Dolgorukov. Những cử chỉ kiểu cách, quan dạng làm cho ý nổi bật lên giữa những viên chức khác trong Bộ An ninh.

"Mời ngồi, Gleb Vikentich…"

Yakonov nói lớn và thừa thãi. Y ngồi dựa lưng trên chiếc ghế bành da quá lớn sau mặt bàn rộng, một tay mân mê cây viết chỉ đỏ thật lớn trên bàn.

Việc gọi tên riêng và tên thánh của Nerzhin chứng tỏ sự lễ độ và thiện chí của Yakonov, nhưng thực ra y không cần phải cố gắng chút nào để có thể nhớ được tên riêng của những nhà khoa học bị tù ở đây, bởi vì dưới mặt tấm kiếng trên bàn y có nằm một bản danh sách ghi tên riêng của tất cả những tù nhân. (Những ai không biết y có bản danh sách này để ngạc nhiên về khả năng nhớ được tên riêng cả trăm người của Yakonov) Nerzhin cúi đầu chào lại y và không đứng nghiêm chào, anh lặng lẽ ngồi xuống chiếc bàn nhỏ gần đó, đôi mắt anh chăm chú nhìn Yakonov, chờ đợi ý nói. Giọng nói của Yakonov có những âm thanh trầm bổng như giọng một kép hát sân khấu. Người ta không hiểu sao con người có vẻ quý phái này lại không uốn lưỡi chữ “r” như kiểu nói những nhà quý phái thời xưa.

Yakonov lên giọng:

"Gleb Vikentich… Trước đây nửa tiếng đồng hồ, tôi có dịp nói đến anh. Tôi nghĩ đến những nguyên nhân đã đưa anh tới Phòng Âm thính, tới làm việc với Roitman?"

Yakonov cố tình nói đến tên Roitman với một vẻ khinh mạn không cần che giấu. Y không cần cả gọi Roitman là thiếu tá trước mặt một tù nhân. Tình trạng ác cảm hổ tương giữa viên giám đốc viện và viên phụ tá giám đốc đã đi đến điểm không cần phải che giấu nữa.

Nerzhin cảm thấy thần kinh mình căng thẳng. Linh tính cho anh biết cuộc hội kiến đêm nay đã mở đầu bất lợi cho anh. Trước đây nhiều ngày, anh đã thấy nét mỉa mai này hiện trên vành môi Yakonov khi y nói với anh rằng mặc dù anh vẫn chăm chỉ làm việc, y biết anh coi thường những kết quả thâu lượm được ở Phòng Nghiên cứu số bảy. Phòng Nghiên cứu này là niềm kiêu hãnh của Yakonov, y đặt tất cả lòng tin của y vào đấy.

Nhưng sự làm việc ở đó lại không tiến triển như ý muốn của Yakonov.

"…Tất nhiên là tôi phải nhận rằng kết quả cuộc nghiên cứu của anh về tiếng nói rất có giá trị…"

Nerzhin nghĩ thầm: “Hắn chế nhạo mình”.

"… Và tôi rất buồn khi thấy bản báo cáo của anh không được công bố cho cả thế giới khoa học được biết, làm anh mất cơ hội trở thành một George Fetcher của Nga Xô Viết…"

Nerzhin nghĩ thầm: “Hắn nhạo mình quá sỗ sàng…”.

"Tuy vậy, tôi vẫn nghĩ cách làm sao cho anh có cơ hội làm những việc hợp với khả năng của anh hơn, để cho có lợi hơn. Chắc anh biết tôi là người rất kính trọng những khoa học trừu tượng nhưng tôi cũng là một người rất thực tế…"

Đại tá kỹ sư Yakonov tuy giữ một địa vị cao trong y không quá ở gần Lãnh tụ đến nỗi phải che giấu sự thông minh của y hoặc luyện thành thói quen không có ý kiến riêng.

"Tôi muốn thành thật hỏi anh… hiện anh đang làm gì ở Phòng Âm thính?"

Yakonov không thể nào đặt với Nerzhin một câu hỏi tàn nhẫn hơn. Y không thể có thì giờ xét kỹ đến tất cả mọi trường hợp, để ý đến riêng từng tù nhân. Nếu y chịu xét đến tình trạng của Nerzhin. Y đã có trả lời từ lâu.

"Anh mất thì giờ với việc nghiên cứu vớ vẩn ấy làm chi? Anh là một nhà toán học, một người xuất thân đại học. Quay lại nhìn coi…"

Nerzhin quay lại nhìn và anh vội đứng dậy. Trong phòng còn một người thứ ba nữa. Một người đàn ông trông có vẻ rất thường bận bộ y phục thường dân màu đen đứng lên từ chiếc ghế dài và đi đến gần Nerzhin. Khung kiếng mắt tròn của ông này sáng lấp lánh. Dưới vầng ánh sáng rọi xuống từ bóng đèn điện trên trần. Nerzhin nhận ra giáo sư Pyotr Trofimovich Verenyov. Trước chiến tranh, giáo sư Verenyov dạy ở trường đại học anh học. Tuy vậy, theo thói quen của cuộc sống trong nhà tù, Nerzhin vẫn đứng yên, không nói, không làm một cử chỉ. Anh đoán rằng giáo sư Verenyov cũng là một tù nhân và anh có thể làm hại ông bằng những câu nói vội vã. Verenyov mỉm cười, nhưng ông cũng có vẻ bối rối.

Yakonov nói bằng một giọng vừa trấn an vừa khuyến khích:

"Thật hay… những nhà toán học có khả năng tự chế ngự hơn người thật. Suốt đời tôi, tôi vẫn nghĩ là những nhà toán học đều ở trong một đạo giáo bí mật nào đó và tôi vẫn ân hận vì không có dịp khám phá sự bí mật ấy. Xin nhị vị cứ tự nhiên. Hãy bắt tay nhau và coi đây là một nơi riêng của quý vị. Tôi sẽ vắng mặt ở đây vào khoảng nửa giờ để nhị vị nhắc lại với nhau những kỷ niệm xưa và để giáo sư Verenyov nói với anh Nerzhin về công tác mà cả ba chúng ta cùng phải làm."

Yakonov đứng lên từ chiếc ghế da. Cặp cầu vai nền bạc và xanh trên hai vai áo y càng làm cho khổ người vạm vỡ của ý thêm to lớn – Y đi nhanh và nhẹ nhàng ra cửa phòng. Khi Verenyov và Nerzhin đến gần hơn để bắt tay nhau, họ chỉ còn có hai người ở trong phòng.

Người đàn ông xanh xao này, người mang đôi mắt kiếng trắng phản chiếu ánh đèn sáng lấp lánh, với tù nhân Nerzhin, như một bóng ma trở về từ một thế giới đã bị quên lãng. Giữa thế giới xưa cũ đó với thế giới đêm nay có những khu rừng ở bên hồ Hmen, những ngọn đồi và những thung lũng ở vùng Orel, những trang trại trù mật ở Ba Lan, những mái nhà ngói trong những thị trấn nước Đức. Trong khoảng thời gian chín năm chia đôi hai thế giới ấy có những xà lim nhà tù trơ trọi sáng rực ánh đèn điện đến chói lòa hai mắt, những “thùng gỗ” của khám đường Bolshây Lubyanka, những trại giam tạm trú sặc mùi hôi thối, tanh tưởi, những toa xe chở tù Stolopyn chật ních, có những cơn gió cắt da trên những cánh đồng cỏ bao la. Tất cả những cái đó làm cho Nerzhin không sao có thể trở lại được là anh sinh viên đứng viết một phương trình đại số trên bảng đen.

Và Nerzhin cảm thấy bối rối nhiều hơn là vui.

Hai người cùng đốt thuốc lá và cùng ngồi xuống mặt bàn nhỏ ngăn cách họ.

Đây không phải là lần thứ nhất Verenyov gặp lại một sinh viên cũ của ông từng học ông ở Đại học Mạc Tư Khoa. Nhưng cuộc gặp gỡ đêm nay có những yếu tố đặc biệt làm cho ông cũng cảm thấy bối rối: sự cô lập của Viện Nghiên cứu khoa học nằm ở ngoại ô Mạc Tư Khoa, nơi bí mật bao trùm, nơi có hàng rào dây thép gai bao quanh và người học trò cũ ít nói bật bộ y phục xanh đậm này thay vì bận y phục thường dân.

Sự bất ngờ xảy ra là Nerzhin, người trẻ nhất trong hai người, người thất bại không có danh vị học giả lại là người đặt những câu hỏi. Những nếp nhăn quanh miệng anh hằn sâu hơn, hiện rõ. Và người đàn ông nhiều tuổi hơn trả lời từng câu hỏi, như ông ngượng ngùng vì cuộc sống vộ sự của một nhà khoa học không có gì xuất sắc lắm: cuộc di tản trong thời chiến, cuộc di tản lần thứ nhất, ba năm làm việc với K., một luận án về toán học trắc đồ. Và Nerzhin trở thành lơ đãng đến độ gần như vô lễ, quên không hỏi rõ hơn về luận án khô khan của môn học cằn cỗi mà ngày xưa anh từng học này. Bỗng nhiên, anh cảm thấy thương hại Verenyov. Vào thế kỷ hai mươi tư may ra luận án của Verenyov có thể có ích cho vài người, còn bây giờ thì vô phương.

Tôi không còn gì để nói với mặt trời và trái đất
Tôi chỉ nhìn thấy sự đau khổ của con người.

Bằng cách nào Verenyov vào tổ chức này? Tại sao ông lại bỏ đại học? Tôi được biệt phái đến đây. Ông có thể từ chối được không? Được, có thể từ chối được nhưng lương bổng ở đây gấp đôi. Ông có con không? Bốn đứa.

Vì một nguyên nhân nào đó họ kiểm lại danh sách những sinh viên cùng khóa với Nerzhin, những người cũng như Nerzhin, thi ra trường cùng một ngày với ngày chiến tranh bắt đầu. Những người xuất sắc nhất đều đã chết trên mặt trận hoặc bị tiếng đạn, tiếng bom làm cho ngớ ngẩn. Họ là những người luôn luôn đi trước, những người không bao giờ dừng lại để nhìn mình xem mình ra sao. Và những người thời đó không ai thèm để ý, những kẻ thời đó không đáng gì cả nay đã hoàn tất được việc học cao hơn được đã giữ những chân giảng sư quan trọng ở những Viện Khoa học lớn. Còn người làm cho chúng ta sung sướng và kiêu hãnh, anh Dmitri Dmitrich Goryainov-Shakhovsky bây giờ ra sao?

Goryainov-Shakhovsky! Con người thấp nhỏ, bê bối trong tuổi già, người suốt đời mang vết phấn trắng trên tay áo, người bỏ túi chiếc khăn lau bảng vì tưởng rằng đó là ta khăn mùi soa. Ông là một huyền thoại sống của trường đại học, một huyền thoại được xây dựng bằng không biết bao nhiêu chuyện khôi hài về “nhà thông thái hay đãng trí” điển hình. Ông là linh hồn của đại học đường Warsaw. Một nửa thế kỷ làm việc cho khoa học làm ông nhận được những điện văn ca ngợi gửi đến từ Milwaukee, Captown, Yokohama. Để rồi ông bị thanh trừng trong cuộc phát động gọi là “trẻ trung hóa hàng ngũ”. Ông đi về Mạc Tư Khoa và trở lại với mệnh lệnh của Kalinin: “Đừng động đến ông già này”. Người ta đồn rằng trước đây ông già của Kalinin là tá điền của ông thân sinh ra giáo sư Goryainov-Shakhovsky.

Và không đúng đến ông thật. Họ để mặc ông muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm. Ông có thể viết một luận án về khoa học thiên nhiên trong đó ông đưa ra những bằng cứ chứng minh bằng toán học về sự có mặt của Chúa. Hoặc trong những cuộc giảng thuyết của ông về Newton, nhân vật mà ông thích nói đến nhứt, ông có thể sỉ mũi trong chòm râu vàng võ của ông và nói:

“Có người vừa đưa lên tôi câu hỏi như sau: Marx viết rằng Newton là một nhà duy vật. Sao giáo sư lại nói rằng Newton duy tâm? Tôi trả lời: Marx lầm. Newton tin ở Chúa, như tất cả những nhà khoa học lớn khác.”

Ghi chép những lời ông nói trong những buổi thuyết giảng ấy là một việc làm khủng khiếp. Cả đến những tốc ký viên cũng phát điên vì không sao ghi chép kịp. Vì hai chân ông yêu nên ông ngồi ngay trước bảng đen, quay lưng vào cử tọa, tay phải ông cầm phấn viết lên bảng trong khi cùng một lúc tay trái ông cầm khăn tay đi. Không ai có thể hiểu được tư tưởng của ông trong khi nghe ông giảng nhưng khi Nerzhin, cộng tác với một số bạn học, thành công trong việc ghi lại được trọn vẹn những lời ông nói và họ đọc, họ nghiền ngẫm những tư tưởng ấy suốt một đêm dài, họ xúc động đến nghẹn ngào khi họ thấy lấp lánh ánh sao của thiên đường.

Có chuyện gì đã xảy đến với ông? Khi thành phố R. bị oanh tạc nặng, ông già bị tiếng bom làm cho ngớ ngẩn. Ông được di tản đến Kirghizia trong tình trạng chết dở. Sau đó ông đã trở lại nhưng ông không còn dạy đại học nữa, ông dạy ở Viện Sư phạm. Vậy là ông vẫn còn sống ư? Còn sống. Hay thật. Thời gian qua, đã qua, và sẽ qua…

Vì sao anh lại bị bắt?

Nerzhin cười nhẹ:

"Còn vì sao nữa? Vì tư tưởng của tôi. Ở Nhật Bản, họ có một đạo luật cho phép người ta có thể kết tội một người chỉ vì những ý nghĩ chưa từng được nói ra của người này…"

"Ở Nhật Bản thì nói làm chi? Ở đây chúng ta đâu có luật nào như thế?"

"Có chứ. Chúng ta có. Đó là Điều 68, Khoản 10."

Nerzhin chỉ nghe loáng thoáng những lời giải thích của Verenyov về mục đích của Yakonov khi y cho hai người gặp nhau. Verenyov được đặc phái tới Mavrino để xúc tiến và hệ thống hóa cuộc nghiên cứu ám số ở đây. Họ cần thêm nhiều nhà toán học và Verenyov mừng rỡ khi biết rằng ngay ở đây có sẵn một nhà toán học từng là học trò của ông, người sinh viên mà ngày xưa ông cho là có một tương lai tươi sáng.

Nerzhin lơ đãng đặt những câu hỏi liên can đến cuộc nghiên cứu và giáo sư Verenyov, hào hứng và hoạt bát khi nói đến những vấn đề toán học, trình bày những việc phải làm và ông nói đến cả những cuộc thí nghiệm nào cần phải làm, những công thức nào phải kiểm soát lại. Nhưng trong lúc ấy Nerzhin nghĩ đến những tờ giấy nhỏ anh viết đầy những dòng li ti, những ý tưởng anh đã ghi lại với sự thanh thản của tâm hồn sau chiếc bàn dàn cảnh của anh, dưới những tia mắt canh gác chan chứa tình ái của Simochka, với những tiếng thì thầm đầy khuyến khích của Rubin. Những tờ giấy nhỏ đó là những ghi chép đầu tiên trong ba mươi lăm năm làm người của anh.

Tất nhiên anh sẽ vui và dễ chịu nếu anh trước trưởng thành trong địa hạt chuyên môn của anh. Tại sao, người ta có thể hỏi, anh lại tự đưa đầu anh vào hàm răng mở rộng và nhọn hoắt của thời gian xưa cũ khi mà ngay cả những sử gia cũng bỏ trốn đến những nơi an toàn hơn? Sức mạnh gì đã thúc đẩy anh xét đoán hành động và giá trị của Người Khổng Lồ quyền uy ghê gớm đó, chỉ một cái chớp mắt của người đó cũng đủ làm cho đầu Nerzhin lìa khỏi cổ.

Và anh, anh có nên đầu hàng trước những cánh tay dài như vòi bạch tuộc của Ám số – để làm việc mười bốn giờ một ngày, không một ngày nghỉ, đầu óc đầy nặng những lý thuyết về xác suất, lý thuyết về đại số, lý thuyết về lầm lẫn, một bộ óc chết, một linh hồn khô héo? Anh sẽ còn lại những gì để suy nghĩ? Sẽ còn những gì để anh học hỏi về cuộc đời?

Vẫn còn Viện Nghiên cứu Mavrino. Đây không hẳn là một nhà tù thuần túy. Ở đây có thịt trong bữa trưa, có bơ trong bữa ắn sáng. Ở đây hai tay không bị rã rời vì mỏi, những ngón tay không đông cứng vì lạnh, không phải nằm ngủ trên những tấm ván, thân thể chết cứng như khúc gỗ. Ở đây anh được nằm trên giường có nệm đàng hoàng, nằm ngủ với cảm giác thoải mái.

Nhưng tại sao phải sống suốt cả một đời dài? Sống chỉ để mà sống? Sống chỉ là việc giữ cho thân thể khỏi chết? Nếu sống chỉ có thế thôi và không còn gì khác cả, chúng ta cần sống để làm gì?

Sự khôn ngoan thúc giục: “Chịu đi” nhưng trái tim nói: “Satan, đem những thứ đó đi khỏi mặt ta”.

"Ông có biết đóng giày không?"

"Anh nói chi?"

"Tôi hỏi: Ông có thể dạy tôi thuật đóng giày không?"

"Xin lỗi, tôi không hiểu."

"Ông sống trong một cái vỏ. Còn tôi, sau khi sống hết hạn tù của tôi ở đây, tôi sẽ đi tới những miền rừng núi xa, tôi sẽ sống ẩn dật suốt đời. Tôi không biết cách làm việc bằng hai tay, làm sao tôi có thể sống? Ở những nơi tôi sẽ đến sống đầy loài báo rừng. Ở đây tôi sẽ không cần đến lý thuyết, công chức, đến toán học…"

"Nerzhin, anh nói gì vậy? Là một chuyên viên ám số, nếu công tác đạt thành quả tốt, anh sẽ được trả tự do trước hạn kỳ, án tích sẽ có thể xóa bỏ trong hồ sơ lý lịch của anh, anh sẽ có một căn nhà ở Mạc Tư Khoa."

"Họ sẽ xóa án tích trong hồ sơ lý lịch của tôi?"

Nerzhin giận dữ kêu lên, đôi mắt anh cau lại:

"Tại sao ông lại nghĩ rằng tôi mong họ ban cho tôi món quà nhỏ đó? “Vì anh làm việc tốt nên chúng tôi trả lại tự do cho anh, chúng tôi tha tội cho anh.” Không… Không thể như thế được…"

Những ngón tay Nerzhin gõ mạnh xuống mặt chiếc bàn nhỏ:

"Ông đi ngược… Họ phải nhận trước rằng họ không đúng, họ không có quyền bắt người khác vào tù chỉ vì người khác vào tù chỉ vì người khác không nghĩ như họ. Đến lúc đó chúng tôi sẽ xét xem chúng tôi có tha thứ cho họ hay không?"

Cánh cửa mở và viên chức chính quyền vạm vỡ với chiếc prince-nez vàng trên sống mũi bước vào.

"Sao? Nhị vị toán học gia? Các vị đã đi đến thỏa thuận rồi chứ?"

Nerzhin không đứng lên, anh nhìn thẳng vào mặt Yakonov khi anh nói:

"Ông có quyền quyết định. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng công việc tôi đang làm ở Phòng Âm thính hãy còn dở dang."

Vài phút sau đó trong phòng chỉ còn có một mình Yakonov đứng sau cái bàn lớn. Chỉ những ai biết rõ Yakonov mới biết rằng lúc đó y đang cáu giận. Y lẩm bẩm: “Đồ ngu. Có dịp tốt để khá hơn mà không biết. Cho mi chết…”

Cầm cây viết chì đỏ y viết lên quyển sổ trên bàn:

“Nerzhin sẽ phải đi”.


10. Toà lâu đài huyền diệu

Trong nhiều năm – trong thời gian chiến tranh và sau đó – Yakonov ngồi vững với địa vị kỹ sư trưởng Sở Tiếp liệu đặc biệt. Y mang với một vẻ trang trọng đáng kính đôi cầu vai nền bạc viền xanh ở giữa có ba ngôi sao mà sự hiểu biết của y đã đem lại cho y. Chức vụ của y đặc biệt đến nỗi y có thể hoạt động trên một địa bàn rất rộng: đôi khi đọc một báo cáo đầy những danh từ khoa học trước những nhân viên cao cấp trong guồng máy nhà nước, đôi khi thảo luận một cách thông minh với một ngôn ngữ đầy những danh từ chuyên môn với những kỹ sư về những phát minh mới nhất. Nhìn chung, y tự tạo cho y cái uy tín là một nhà chuyên môn nhưng không phải lãnh trách nhiệm về bất cứ một chuyện gì, và mỗi tháng y được lãnh vài ngàn đồng ruble. Yakonov chủ tọa cuộc lễ khai sinh ra tất cả những phòng chuyên môn, những cuộc phát động thực hiện kế hoạch, y biến mất trong giai đoạn khó khăn của kế hoạch để rồi lại xuất hiện trước quan tài của những kẻ thất bại hoặc để choàng vòng hoa chiến thắng lên đầu những kẻ thành công.

Anton Nikolayevich Yakonov không còn đủ trẻ và đủ tự tin để mơ tưởng đến chuyện có ngày đoạt được huy chương Sao vàng hoặc giải Stalin, hoặc mỗi khi có dịp là vồ lẫy người dự án lớn, quan trọng do Tổng thống hay do chính Thủ lãnh tối cao đưa ra. Y đã có đủ kinh nghiệm và tuổi đời để khôn ngoan lẩn tránh hệ thống rắc rối, phức tạp những xúc động, sợ hãi, âu lo do tham vọng thái quá gây ra.

Với những quan điểm đó về cuộc đời, y sống an nhàn, đầy đủ, sung sướng cho đến tháng Giêng năm 1948. Trong tháng Giêng ấy có một kẻ nào đó đề nghị với Cha chung của dân tộc Nga La Tư ý kiến chế tạo một dàn máy điện thoại đặc biệt chỉ để dành riêng cho Lãnh Tụ Tối Cao dùng mà thôi. Dàn máy điện thoại đó sẽ được chế tạo sao cho không một kẻ nào có thể hiểu được Lãnh tụ nói gì, dù cho máy có bị cắm lén nghe trộm. Với ngón tay thần thánh, ngón tay vàng vì khói thuốc lá, vị Cha hiền dân tộc chỉ lên tấm bản đồ. Ngón tay đặt đúng lên Mavrino. Lúc ấy Mavrino là một xưởng chế tạo máy truyền thanh xách tay cho cảnh sát dùng. Câu nói lịch sử của Người trong dịp này là “Ta cần những máy truyền thanh này để làm gì? Để bắt kẻ trộm à? Ai thèm để ý đến bọn ăn trộm?”

Người ra thời hạn: ngày mùng một tháng Giêng 1949. Người suy nghĩ rồi nói: “Thôi được. Cho đến mùng một tháng Năm”.

Công tác này được đặt vào hàng ưu tiên số một và quan trọng số một. Thời hạn của công tác quá chặt chẽ, quá gấp rút. Ở Bộ An ninh, người ta thảo luận lỹ và người ta lựa Yakonov để trao cho việc đích thân đốc xuất công tác này. Yakonov cố gắng một cách vô ích để trình bày rằng y đã phụ trách quá nhiều việc và y không thể nào làm tròn được hai việc cùng một lúc. Nhưng Foma Guryanovich Oskolupov, giám đốc Nha Kế hoạch Bộ An ninh, thượng cấp trực tiếp của Yakonov, chiếu cặp mắt xanh như mắt mèo nhìn thẳng vào mắt Yakonov – và Yakonov nhớ lại vết đen trên hồ sơ an ninh của y. Chính y cũng đã từng phải ở tù sáu năm. Vì vậy, y ngậm miệng lại không dám nói gì nữa.

Từ đó – đã gần hai năm trời trôi qua – văn phòng trưởng Phòng Kỹ sư ở Tổng bộ An ninh vẫn để trống không có ai ngồi. Trưởng Phòng Kỹ sư Yakonov sống suốt ngày đêm ở Viện Nghiên cứu Mavrino nằm ở ngoài thành Mạc Tư Khoa, nơi có một tầng tháp hình lục lăng nổi cao trên mái tòa giáo đường xưa cũ.

Thoạt đầu, việc một mình có toàn quyền quyết định mọi việc là một lạc thú, Yakonov cảm thấy khoái lạc trong việc đóng cánh cửa chiếc xe hơi Pobeda dành riêng cho y di chuyển với cử chỉ mệt mỏi. Y khoan khoái ngồi trong chiếc xe êm đưa y tới Mavrino, đi ngang người binh sĩ chào nghiêm với cây súng trên tay ở vọng gác ngoài cổng để vào tòa nhà chung quanh có dây thép gai. Cuộc sống thật dễ chịu trong mùa xuân, khi cảnh vật đều trẻ trung và tươi mởn, đi bộ dưới những hàng cây để từng sống cả trăm năm bao quanh Mavrino với một đám thiếu tá, đại úy tùy tùng. Trong thời gian đầu, những vị thượng cấp của Yakonov không ai đòi hỏi gì ở Mavrino – Yakonov chỉ có việc đều đặn gửi về Tổng bộ một lô những chương trình kế hoạch, sơ đồ và lời hứa sẽ làm trọn những “bổn phận đối với chế độ”. Và vật dụng đủ thứ được tới tấp đổ xuống Viện Nghiên cứu khoa học Mavrino: những bộ phận máy radio do Nga Xô chết tạo và những bộ phận do ngoại quốc chế tạo, máy điện, dụng cụ nghiên cứu, bàn ghế, tủ, tủ sắt, một tủ sách gồm ba mươi ngàn quyển sách chuyên khoa kỹ thuật, những tù nhân chuyên viên được lấy ra từ những trại tập trung, những sĩ quan mật vụ ưu tú nhất được phái đến, những viên chức lưu trữ hồ sơ được biệt phái tới làm việc và sau cùng, một đại đội binh sĩ phòng vệ đặc biệt kéo đến. Cũng trong thời gian đầu, Yakonov phải cho sửa lại tòa nhà, làm thêm phòng, chuyển những căn phòng trong nhà y thành phòng thí nghiệm và văn phòng, xây hầm đặt máy điện. Cho đến khi những hàng cây để nở hoa vàng và tỏa ngát hương thơm, tiếng nói buồn rầu của những tù binh Đức được gửi đến làm lao công vang lên trong vườn tòa nhà.

Những tên Phát xít lười biếng đang sống nằm tù thứ tư sau chiến tranh ấy không muốn làm bất cứ một việc gì. Trước mắt những người Nga, cảnh bọn tù binh Đức chuyển những viên gạch từ trên những chiếc xe vận tải xuống là một cảnh chướng mắt chịu không nổi: chúng xếp hàng một từ xe vào đến chỗ xếp gạch, chúng chuyền tay nhau từng viên gạch chậm chạp, cẩn thận, như đó là những khối vàng nén. Chúng cố tình làm chậm như thế và chúng chỉ chuyển hết số gạch trên một chiếc xe xuống là hết ngày. Trong lúc những công nhân đặt máy thông hơi, máy sưởi ở cửa sổ và lát ván lại những căn phòng trong nhà, bọn tù binh Đức đi lang thang khắp nhà, chúng vào cả những căn phòng tối mật và đứng nhìn những thùng đồ ghi chữ Đức và chữ Anh. Bất cứ một chú học sinh người Đức nào cũng có thể đoán biết phòng thí nghiệm gì được lập lên ở đó. Rubin đã ghi tất cả những chi tiết này trong một bản báo cáo gửi đến đại tá kỹ sư Yakonov, báo cáo này ghi nhận đúng nhưng cũng rất phiền cho hai sĩ quan phụ trách an ninh ở đây – Shikin và Myshkin – (bọn tù nhân gọi hai nhân vật này bằng cái tên chung là Shishkin và Myshkin) – bởi vì lúc đó, người ta chẳng còn sửa chữa gì được nữa. Họ không thể gửi báo cáo đó lên thượng cấp vì sự sơ xuất đó là lỗi của họ. Và đến lúc đó bọn tù binh Đức đã được trở về Đức quốc. Yakonov rùng mình kinh sợ khi nghĩ rằng nếu trong bọn tù binh ấy có tên nào trốn sang Tây Đức, tên đó sẽ có thể kể lại vị trí Viện Nghiên cứu này với bọn gián điệp đế quốc tư bản. Sau đó, những biện pháp bảo vệ bí mật đến tối đa được áp dụng ở Mavrino: tù nhân làm việc ở phòng thí nghiệm này không được đặt chân sang phòng thí nghiệm khác, các tù nhân không được tiết lộ những công tác nghiên cứu với nhau, trừ khi nào được ban giám đốc cho phép. Việc Yakonov được cử đi điều Viện Nghiên cứu khoa học Mavrino cũng được giữ kín ở Tổng bộ An ninh. Ở trong Bộ, hỏi đến đại tá kỹ sư Yakonov đều được yêu cầu ghi tên, cấp bậc và lý do cần gặp lên giấy và sẽ được trả lời sau. Nếu cần phải gặp những người này, bao giờ Yakonov cũng về Bộ để gặp. Y không tiếp bất cứ ai ở Mavrino.

Khi bọn tù bình Đức được gửi về nước, họ đưa tới Mavrino đám tù khác để làm lao công. Đám tù này giống hệt những tù nhân làm việc chuyên môn trong việc trừ điểm quần áo của họ dơ dáy hơn, rách rưới hơn và họ không được quyền ăn bánh mì trắng. Đám tù Nga này làm việc khác hẳn bọn tù binh Đức: họ vừa làm việc vừa chửi rủa tục tĩu những viên gạch bay tới tấp từ trên xe vận tải xuống sân và kết quả là gần như không còn viên gạch nào lành lặn hoàn toàn. Với tiếng: “Một… hai… ba…” bọ tù Nga quăng tấm mui xe bằng vải bạt chùm lên xe và chúng chui và đó để đi về nhà giam, trên đường đi chúng đùa giỡn với những nữ tù nhân. Buổi sáng chúng được đưa đến làm việc, buổi chiều đưa trả về nhà giam.

Và tòa lâu đài huyền diệu đó, nằm riêng rẽ ở một khu ngoài thành phố, một khu tuy không thấy có gì khác lạ nhưng bọn thường dân không dám tới gần, được thay đổi gần như toàn diện: lâu đài có một bồn chứa nước, một hệ thống đốt rác tối tân, một nhà máy điện riêng, những căn phòng cửa sắt được sưởi ấm vào mùa đông và những bồn hoa tươi trong vườn cỏ.

Cũng trong thời gian đó, Viện Nghiên cứu khoa học được ưu đãi đặc biệt này mỗi ngày một phát triển lớn hơn, đông nhân viên hơn. Viện tiếp nhận cả một Viện Nghiên cứu khác với toàn thể nhân viên của viện này. Đó là Viện Nghiên cứu được trao cho thiếu tá kỹ sư Roitman chỉ huy. Viện này cũng được lập lên để nghiên cứu về điện thoại và truyền tin. Thiếu tá kỹ sư Roitman trở thành vị phụ tá của đại tá kỹ sư Yakonov. Người khai sinh và bảo vệ Viện Nghiên cứu bị sáp nhập này là đại tá Yakov Ivannovich Mamurin, nguyên Trưởng Sở Liên lạc đặc biệt và nguyên là một viên chức cao cấp, quan trọng của chính phủ Xô Viết. Trước đó ít lâu, đại tá Mamurin đã biến mất trong trường hợp bi thảm như sau này.

Số là có một lần vị lãnh đạo Nguyên liệu tiến bộ nói chuyện bằng điện thoại với một người ở tỉnh Yenan và Lãnh Tụ bất mãn vì đường dây rè rè khó nghe, khó nói quá. Người bèn gọi Beria tới và nói bằng tiếng địa phương Georgian: “Lavrety… Anh để cho thằng ngu nào giữ Sở Liên lạc đặc biệt vậy? Tống cổ nó đi”.

Và như thế là Mamurin bị tống đi. Bị tống đi có nghĩa là đi tù. Họ giam Mamurin vào nhà tù Lubyanka. Họ tống y đi nhưng họ không biết sau đó phải giải quyết tình trạng của y ra làm sao, phải đối xử với y như thế nào. Họ không có chỉ thị phải làm về vụ Mamurin, không có lệnh phải xử tù Mamurin và nếu xử tù thì cho tù bao nhiêu năm. Nếu Mamurin không phải là anh em đồng chí của họ, họ đã xử y “một phần tư thế kỷ và năm năm khóa mõm”, nghĩa là tù khổ sai hai mươi lăm năm và năm năm mất quyền công dân, và tống y đi Norilsk. Nhưng họ bị ám ảnh bỏi lời nguyền: “Hôm nay tôi, mai đến bạn”, những người bạn đồng nghiệp cũ của Mamurin ngấm ngầm ủng hộ y. Khi họ biết chắc rằng Stalin đã quên Mamurin, họ dàn xếp cho Mamurin đến sống ở Viện Nghiên cứu khoa học Mavrino.

Vì vậy, trong một đêm mùa hạ năm 1948, họ đưa một tù nhân mới đến Mavrino. Tất cả mọi sự kiện liên can đến tù nhân này đều khác thường: Y được đưa tới trên một chiếc xe hơi du lịch chứ không phải trên một chiếc xe Maria Đen như tất cả những tù nhân khác. Y được viên quản đốc nhà tù đích thân đi đón về, và y được mời ăn bữa đầu tiên trong nhà tù ở trong văn phòng của viên quản đốc, bàn ăn của y đêm đó có trải khăn trắng đàng hoàng.

Những tù nhân có trước trong nhà tù này nghe biết – trên nguyên thể, họ không được nghe, thấy biét gì hết nhưng trên thực tế, họ vẫn nghe, vẫn thấy và vẫn biết hết mọi chuyện – tù nhân mới đến này nói rằng y không thích ăn xúc xích và viên quản đốc lễ phép mời y chịu khó ăn nhiều cho khỏe. Một tù nhân bị đau trên đường đi tới phòng khám bệnh nghe lỏm được những lời trao đổi này. Anh trở về kể sự lạ ấy với các bạn và đám tù nhân bán tán xôn xao một lúc về sự lạ ấy. Họ đi đến kết luận là dù sao đi nữa, kẻ mới đến cũng chỉ là một anh tù. Sau đó, họ ngủ.

Những sử gia của Nhà tù đặc biệt Mavrino không bao giờ xác định được rằng đêm đầu tiên ấy kể mới đến ngủ ở đâu. Sáng sớm hôm sau, ở một khu mà các tù nhân bị cấm không được đặt chân đến, một tù nhân chuyên viên thợ tiện, tình cờ chạm trán với một kẻ mới đến trong đêm qua.

"Ê bạn…" - người tù thợ tiện hỏi vội với ngón tay thô chọc mạnh vào ngực kẻ mới tới – "Bạn từ đâu đến? Bị vồ ở đâu? Vì sao? Ngồi đây, hút thuốc không?"

Nhưng kẻ mới đến lùi xa người tù thợ tiện với vẻ kinh hãi khinh mạng hiện rõ trên mặt. Người tù thợ tiện trợn mắt nhìn cái đầu hói và đôi mắt trắng của kẻ mới đến, anh giận dữ nói:

"Đồ phách chó. Để rồi khi anh vào ở chung với chúng tôi anh có chịu nói chuyện với chúng tôi hay không."

Nhưng “Phách chó” không bị nhốt vào phòng ngủ chung với tù nhân. Bên cạnh hành lang đưa tới những phòng thí nghiệm, ở tầng thứ ba, ban quản đốc làm được cho y một căn phòng nhỏ, trước đây phòng này được dùng làm phòng tối rửa hình, họ khiêng vào đó một cái giường, một cái bàn, một cái tủ, một chậu cây cảnh và một cái bếp điện. Họ gỡ những tám ván ra khỏi khung cửa sổ, cửa sổ này không mở ra ngoài trời mà là nhìn ra một cầu thang nhỏ. Vì vậy ngay cả những buổi trưa trời nắng nhất, ánh sáng cũng không lọt được tới khung cửa sổ căn phòng nhỏ này. Cửa sổ còn có chắn song sắt. Những chấn song này có thể gỡ ra được nhưng ban quản đốc nhà thù, sau nhiều do dự, quyết định để nguyên. Những người có quyền ở đây cũng không ai hiểu rõ về tình trạng rắc rối bao quanh tù nhân này và họ cũng không biết phải xử sự làm sao cho đúng.

Từ đó, tù nhân mới tới được đặt tên là “Người mặt nạ sắt”. Trong một thời gian rất lâu sau đó không ai biết tên y là gì. không ai có thể nói chuyện được với y. Qua khung cửa sổ, những tù nhân đi lại trên cầu thang nhỏ trông thấy y ngồi cúi đầu trong căn phòng cô đơn, hoặc đi vất vưởng như bóng một cô hồn dưới hàng cây đề trong những giờ tù nhân bị cấm ra khỏi phòng giam. Mặt nạ sắt cũng gầy gò, xanh xao như bất cứ một tù nhân nào sau hai năm bị giam cầm nhưng việc y từ chối không chịu ăn xúc xích cho người ta biết rằng không phải y gầy xanh vì thiếu ăn hay vì bị thẩm vấn.

Lại qua một thời gian rất lâu sau nữa, khi Mặt nạ sắt làm việc với phòng Số bảy, tù nhân được những viên chức tự do cho biết rằng y chính là đại tá Mamurin, người khi còn là giám đốc Sở Liên lạc đặc biệt, đã cấm không cho bất cứ ai đi ngang cửa văn phòng của y được đặt gót giày xuống sàn, nghĩa là tất cả mọi người đi qua cửa văn phòng y đều phải đi kiễng chân, nhón gót để khỏi gây ra tiếng động. Nếu không, y sẽ từ trong phòng hầm hầm chạy ra, quát lớn: “Đồ thô tục. Có biết văn phòng ai đây không? Tên là gì?”.

Về sau, người ta được biết rằng sự khổ sở của Mamurin thuộc về tinh thần. Thế giới những người tự do hắt hủi, chê bỏ y và y không thể gia nhập thế giới của những người bị tù đày. Thoạt đầu, trong cảnh cô đơn, y đọc sách. Y đọc những tác phẩm bất hủ như quyển Chiến đấu cho hòa bình của Panferov, quyển Chàng kỵ sĩ sao vàng của Babayevsky. Y đọc Sobolev, Nikulin, rồi đọc thơ của Prokofiev và Gribachev. Và trong tâm hồn y một sự chuyển biến kỳ diệu xảy ra: y bắt đầu làm thơ. Người ta biết rằng sự bất hạnh và tình trạng đau khổ về tinh thần thường sản xuất ra những nhà thi sĩ và sự đau khổ của Mamurin sắc nhọn hơn sự đau khổ của nhiều tù nhân khác. Sống trong nhà tù đã hai năm nhưng không bị thẩm vấn cũng không bị đưa ra tòa xử, không có án, y vẫn sống giống hệt như y sống trước khi bị tù, nghĩa là tuân theo đúng những chỉ thị của Đảng, tôn thờ Lãnh tụ Tối cao. Mamurin thú thật với Rubin rằng không phải thức ăn trong nhà tù tồi tàn – (những bữa ăn của y được nấu riêng) – cũng không phải vì tình trạng phải xa những người thân trong gia đình – (mỗi tháng y được bí mật đưa về nhà riêng ủa y, nơi y ngủ lại một đêm) – y khổ sở và cay đắng chính là vì tình trạng Yosif Vissarionovich Stalin không còn tin cẩn y nữa. Y đau đớn vì y không còn là một vị đại tá, vì y bị thất sủng. Chính vì vậy mà những người như Rubin và Mamurin sống khổ sở trong tù hơn là những người tù khác thù hận, chống đối chế độ.

Cơ quan là một đảng viên Cộng sản. Nhưng sau khi nghe những lời thở than, tâm sự của Mamurin và nhất là sau khi đọc tập thơ của Y. Rubin trở thành lẩn tránh y. Rubin vui vẻ sống với những người chỉ trích anh một cách bất công nhưng chịu chung cảnh ngộ với anh.

Về phần Mamurin, y bị thôi thúc vì một ý muốn, ý muốn này cũng làm cho y nhức nối, khó chịu như những cơn đau răng da diết: ý muốn chứng tỏ giá trị con người của y qua việc làm. Nhưng than ôi, những hiểu biết chuyên môn của Mamurin về liên lạc và truyền tin, mdà y từng là một viên chức cao cấp trong ngành, chỉ là việc nhấc ống điện thoại lên quay số và nói. Do đó y không sao có thể tự y làm việc được, y chỉ có thể sai khiến người khác làm việc mà thôi. Nhưng việc điều khiển một dự án nào đó do dự án của người khác làm việc ra không bao giờ có thể làm cho y chiếm lại được sự tin cẩn của Người Bạn Thân Nhất của công nhân truyền tin [3] , y cần phải nghĩ ra một dự án riêng để đệ trình lên Lãnh tụ.

Trong thời gian Mamurin phát minh ra được điều này, Viện Nghiên cứu Mavrino đang sửa soạn thực hiện hai dự án đáng kể, hứa hẹn nhiều vinh quang. Đó là dự án chế tạo máy Vocoder, một máy đo tiếng nói, và thiết lập Phòng Nghiên cứu số Bảy.

Vì những nguyên nhân sâu xa nhưng vô lý nào đó, người ta thường có cảm tình hay ác cảm với nhau, chịu nhau hay không sao chịu nổi nhau, ngay từ giây phút gặp gỡ đầu tiên, từ cái nhìn thấy mặt nhau thứ nhất. Yakonov và Roitman có ác cảm với nhau và không chịu nhau. Thời gian trôi quan, sự ác cảm này càng nặng nề, họ như hai con vật cùng bị một bàn tay mạnh hơn đưa vào kéo chùng một cái gông, họ như hai con ngựa bị ghép chung vào một cái xe, hai con ngựa không sao thoát ra được nhưng kéo đi về hai hướng khác nhau. Khi công tác chế tạo máy điện thoại bí mật được thực hiện ở Mavrino, Roitman quy tụ tất cả những tù nhân chuyên viên xuất sắc mà y có thể quay tụ được vào làm việc trong Phòng Âm thính. Để trả đũa, Yakonov cũng nhặt nhạnh tất cả những chuyên viên tài giỏi trong nhà tù về làm vệic trong Phòng số bảy do y lập ra và điều khiển. Yakonov còn đêm tất cả những dụng cụ khoa học tốt nhất tập trung về Phòng số bảy. Trong trận tranh chấp quyết liệt và tàn nhẫn này, Roitman có vẻ yếu thế hơn.

Yakonov bắt buộc phải lập lên Phòng Nghiên cứu số bảy vì y không thể để cho Roitman làm hết mọi việc ở ngay thiết bị Viện Nghiên cứu mà y được cử làm giám đốc. Y phải chứng tỏ cho thượng cấp biết là y mẫn cán, y có khả năng. Kể từ ngày đó Yakonov có thể có mặt trong Viện ban đêm hay không tùy ý. Và người tù cô đơn với đôi mắt nhiều tròng trắng hơn tròng đen, viên cựu đại tá từng giữ chức giám đốc Sở Liên lạc đặc biệt, người tù từ chối không chịu ăn uống, tạm đè nén hứng thơ để làm việc như một tên nô lệ cho đến hai giờ sáng trong Phòng số bảy. Chỉ có một mình Mamurin có thể làm việc được nhiều giờ như thế vì ý là tù nhân duy nhất không bị viên chức canh gác trong nhà tù này.


11. Số bảy

Không ai nói cho những người lính chiến trên mặt trận biết rằng những vị tướng tư lệnh dự định những gì, đặt kế hoạch ra sao nhưng luôn luôn họ biết, họ biết rõ, biết đúng nữa là khác, đơn vị của họ ở trong mũi dùi tấn công chính hay là ở cạnh sườn. Cũng giống như thế, ba trăm tù nhân chuyên viên sống trong Viện Mavrino biết rằng Phòng số bảy là nơi quan trọng nhất của Viện.

Không một tù nhân nào trong Viện được quyền biết về những việc làm trong Phòng số bảy nhưng trên thực tế, tất cả mọi người đều biết. Công tác chính của Phòng số bảy là thí nghiệm và hoàn thành một máy điện thoại đặc biệt cho Lãnh tụ Tối cao dùng. Đái khái người ta hiểu là tiếng nói vào máy này sẽ bị chia cắt thành những âm thanh hỗn độn, những âm thanh này sẽ được kết tụ lại do một cái máy kách và trở lại thành tiếng nói như khi mới được phát ra. Để làm việc này người ta bắt chwocs những dàn máy radio đã được chế tạo của người Hoa Kỳ song người ta vẫn cứ cố tình coi đó là những gì do các kỹ sư điện tử Nga chế ra. Những đặc san và những quyển sách giải thích về vô tuyến truyền thanh, trong có những họa đồ, mẫu đồ được bán đầy những tiệm sách cũ ở New York được người ta ở đây đóng bìa da, đánh số, coi là tài liệu tối mật, được cất kỹ trong những tủ sắt kiên cố để ngăn không cho bọn… gián điệp Mỹ lấy trộm.

Trong những cơ sở cưỡng bách lao động như Viện Mavrino, thông lệ đã có và ai cũng biết là những khoa học gia, những chuyên viên nào thành công trong việc phát minh được một bộ máy hữu ích có thể nhận được tất cả: tự do, một sổ thông hành không ghi án tích – Gọi là Sổ thông hành sạch – một căn nhà ở Mạc Tư Khoa trong khi những người khác không nhận được gì hết, không cả một ngày giảm án, không có cả một ly vodka nhỏ uống mừng những người thành công.

Ở đây chỉ có hai hạng người: thành công và thất bại, ở đây không có hạng người đứng giữa.

Vì vậy, ở Viện Mavrino những người tù khôn ngoan đều tìm hết cách để được vào làm việc trong Phòng số bảy. Được vào làm việc trong phòng này họ có điều kiện để thành công.

Kỹ sư Markushev lọt được vào Phòng số bảy với tinh thần ấy, bộ mặt ma cô thô tục của y biểu lộ ý muốn được chết vì những ý tưởng của đại tá kỹ sư Yakonov. Nhiều kẻ khác là việc ở Phòng số bảy cũng có tâm trạng giống như Markushev.

Nhưng Yakonov cũng không phải là người ngu, y cũng chọn vào làm việc trong Phòng số bảy cả những người không muốn vào đấy làm việc. Đó là trường hợp của kỹ sư Amantai Butalov, một người dân Tatar miền Kazan mang đôi kiếng trắng lớn gọng bằng sừng trên mắt, một người đàn ông thẳng tính có giọng cười vang nhà làm cho người khác điếc tai. Butalov bị án tù mười năm vì tội để cho quân Đức bắt được trên mặt trận và chịu cộng tác với kẻ thù nhân dân là Musa Djalil. Người thứ hai không muốn nhưng vẫn bị Yakonov đưa vào Phòng số bảy là Andrei Andreyevich Potapov, một chuyên viên siêu cao điện áp từng dự phần xây cất nhiều nhà máy điện lớn. Potapov tới Viện Mavrino vì lỗi lầm của một viên thư ký ngu dốt giữ việc sắp xếp những phiếu di chuyển tù nhân. Xong vì là một công nhân yêu việc làm và là một kỹ sư có lương tâm nhà nghề, Potapov thích hợp rất nhanh với cuộc sống ở đây và anh trở thành một chuyên viên không thể thay thế được trong việc sử dụng những dụng cụ đo lường điện tử phức tạp, chính xác và tế nhị.

Một người nữa trong nhóm người không cần xin vào làm việc ở Phòng số bảy là kỹ sư Khorobrov, một chuyên viên radio có tài. Anh được cắt vào làm việc ở Phòng số bảy ngay từ đầu, khi nó chưa phát triển lớn như bây giờ. Và trong thời gian gần đây, anh đã chán nản và không gia nhập vào cuộc hoạt động tới tấp quanh anh nữa. Cũng trong thời gian gần đây, Mamurin tỏ ra khó chịu nhiều trước thái độ của Khorobrov.

Sau cùng, từ một trại tập trung cưỡng bách lao động tàn nhẫn nhất người ta đưa về một thiên tài điện tử u sầu tên là Bobynin. Kỹ sư Bobynin lập tức được cọi là chuyên viên số một và được đặt ở trên tất cả mọi người. Anh sắp chết ở trong trại thì được lấy ra, đem về và trong trường hợp thành công, anh là người đầu tiên có hy vọng được trả lại tự do. Vì vậy Bobynin thức làm việc đến quá nửa đêm, nhưng anh làm việc với một vẻ trịnh trọng kiêu mạn đến nỗi Mamurin phải sợ anh. Bobynin là người duy nhất làm việc ở đây mà Mamurin tránh không nói động đến.

Phòng số bảy cũng là một căn phòng dài rồng y hệt Phòng Âm thính ở từng dưới. Phòng này cũng trang bị những dụng cụ không khác gì nhiều những dụng cụ trong Phòng Âm thính.

Mỗi ngày Yakonov đến Phòng số bảy nhiều lần… Vì vậy sự có mặt của y ở đây không gây ra tình trạng căng thẳng khi có Xếp lớn đến thăm. Chỉ có Markushev và bọn hạ tiện cùng loại với y là tỏ ra làm việc cần mẫn hơn, chăm chú hơn khi có Yakonov tới. Riêng Potapov, anh đặt những dàn điện tử của anh lên một kệ sắt kê ở cuối phòng và kệ sắt này trở thành bức vách ngăn anh với mọi người trong phòng. Potapov ngồi ở đó như ngồi riêng hẳn một nơi cách biệt. Anh làm việc chậm rãi, cẩn thận và đúng lúc Yakonov bước vào, anh đang chế tạo một chiếc hộp đựng thuốc lá bằng Plastic đỏ để biếu một người làm quà sinh nhật vào sáng hôm sau.

Mamurin đứng lên chào đón Yakonov như chào đón một người ngang hàng. Y không bận bộ đồng phục màu xanh đậm của tù nhân, bộ quần áo y bận là một bộ hàng len đắt tiền, nhưng bộ đồ sang trọng này cũng chẳng làm cho khuôn mặt gầy gò và dáng người xương xẩu của y sang hơn được chút nào.

Có một vẻ gì đó xuất hiện trên vầng trán bóng như trái banh và trên vành môi mỏng mím chặt của Mamurin cho Yakonov biết rằng y đang vui sướng:

"Anton Nikolaich…" Mamurin nói – "Chúng ta tiến bộ nhiều lắm rồi. Đây, ông nghe… Tôi đọc cho ông nghe…"

“Nghe” và “đọc” là hai việc thí nghiệm quan trọng được thực hiện mỗi ngày trong Phòng số bảy trong thời gian này. Không giải thích thêm nữa, Mamurin đi về cuối phòng và đứng quay lưng lại Yakonov. Y đưa ống nói lên và đọc vào đó một bài báo. Ở đầu dây đằng kia, Yakonov mắc ống nghe lên tai và chăm chú nghe. Giữa những tiếng nói the thé của Mamurin, y còn phải nghe không biết bao nhiêu tiếng động chói tai khác. Nhưng như một người mẹ âu yếm nhìn đứa con quái thai của mình, Yakonov vẫn không nhấc ống nghe ra khỏi tai, y thấy rằng những tiếng động phá hoại ấy có vẻ êm hơn, nhẹ hơn những tiếng y vừa nghe lúc trưa nay. Bài báo Mamurin đọc qua máy truyền thanh cho y nghe là một bài báo viết về sự hỗn hào của bọn lính Yugoslav gác biên giới và sự tàn ác của tên đồ tể Tito, kẻ đã biến quốc gia yêu hòa bình này thành một lò sát sinh vĩ đại [4] . Yakonov có thể dễ dàng đoán ra được những gì y không nghe rõ, y đoán nhưng không nhớ y đoán, và việc này càng làm cho y tin chắc rằng việc truyền thanh đã tiến bộ nhiều.

Yakonov muốn trao đổi ý kiến và quan điểm về sự tiến bộ của dàn máy đang được thí nghiệm này với Bobynin. Người tù này ngồi gần y. Ngay cả lúc ngồi Bobynin cũng vẫn to lớn, đôi vai anh mở rộng và mái tóc anh cắt ngắn đúng kiểu tóc tù nhân mặc dù ở đây tù nhân muốn để tóc theo kiểu nào cũng được. Bobynin không cả ngoảnh mặt nhìn lại khi Yakonov vào phòng. Cúi trên một máy dao động đồ hình, Bobynin đang chăm chú đo đạc bằng một cây thức com phương án.

Tên Bobynin này chỉ là một tên tù không đáng kể, một thứ sâu bọ mang hình người, một tên thuộc giai cấp hạ tiện cuối cùng của xã hội. Trong khi ấy Yakonov là một viên chức chính quyền cao cấp. Vậy mà Yakonov không dám làm rộn Bobynin mặc dù y rất muốn.

Người ta có thể xây dựng những tòa nhà trăm tầng như tòa Empire State, người ta có thể làm cho quân đội Phổ có kỷ luật, suy tôn Lãnh Tụ lên cao hơn cả Thượng đế nhưng người ta vẫn không có thể áp chế được tinh thần của một số người.

Có những người lính trơn làm cho những sĩ quan chỉ huy họ phải sợ họ, có những người thợ làm cho bọn cai phải bối rối và có những người tù làm cho bọn cai ngục run rẩy.

Bobynin biết như thế và anh lợi dụng tình trạng này trong việc giao thiệp và đối phó với những kẻ có quyền.

Mỗi lần Yakonov nói chuyện với Bobynin là một lần y thấy y tìm cách lấy lòng Bobynin, tránh không làm cho Bobynin khó chịu hoặc nổi giận. Y rất bất mãn về việc này nhưng y cũng nhận thấy rằng không phải chỉ riêng mình y có thái độ đó với Bobynin, tất cả mọi người đều có thái độ như thế đối với người tù tên là Bobynin.

Nhấc ống nghe ra khỏi tai, Yakonov ngắt lời Mamurin:

"Khá lắm, Yakov Ivanich, tiến bộ khá lắm. Tôi muốn nhờ Rubin nghe coi sao. Tai hắn tốt."

Một người nào đó từng được Rubin khen ngợi về một chuyện gì đó cól ần nói rằng Rubin có đôi “tai tốt”. Và lời nhận xét này được mọi người tin. Rubin là người tù trôi giạt tới Viện Mavrino cũng vì một sự lầm lẫn. Từ đó anh tự làm cho anh trở thành cần thiết bằng cách phiên dịch những tài liệu chuyên môn tiếng ngoại quốc ra tiếng Nga. Tai bên trái của anh nghe được nhưng cũng không tốt gì hơn tai những người khác, nhưng tai bên phải của anh đã bị điếc vì tiếng bom nổ tren mặt trận Tây Bắc. Sau khi được đề cao là có đôi “tai tốt”, Rubin dấu kỹ không để cho ai biết rằng tai bên phải của anh đã bị điếc. Uy tín “tai tốt” làm cho địa vị của Rubin càng thêm vững chắc trong Viện Mavrino, và anh làm cho địa vị này vững chắc thêm bằng một bài khảo cứu nhan đề Âm thanh nhân tạo và hiệu thính âm điện tử trong tiếng nói Nga Ta Lư.

Họ gọi điện thoại xuống Phòng Âm thính mời Rubin lên. Trong khi chờ đợi, họ lại học và lại nghe. Đây là lần thứ mười trong ngày họ đọc và nghe như thế. Markushev, với đôi lông mày nhìn lại và đôi mắt mệt mỏi vì chú ý, màng ống nói lên một lúc và trịnh trọng nói rằng có sự tiến bộ, rất nhiều tiến bộ. Dyrsin gượng cười như người xin lỗi và gật đầu. Bulatov nói lớn rằng họ sắp đi đến thành công lúc hai chuyên viên điện khi nghe chung một cặp ống nghe cùng nói bằng một giọng tin tưởng rằng âm thanh đã rõ hơn nhiều lắm.

Bobynin vẫn tiếp tục đo trên dao động đồ, anh vẫn không ngửng đầu lên nhìn.

Đôi kim đen trên mặt chiếc đồng hồ treo tường lớn đã chỉ 10 giờ 30. Chỉ còn nửa tiếng nữa mọi công việc trong Viện sẽ ngừng trừ Phòng số bảy, những tập đặc san được đánh số và coi như tài liệu tối mật sẽ được cất vào tủ sắt và bọn tù sẽ về phòng ngủ, những viên chức tự do sẽ vội vã đi đến trạm xe buýt. Họ sẽ phải chờ lâu mới có xe về vì ban đêm, xe buýt chạy ít.

Ilya Terentevich Khorobrov, ở cuối phòng và bên ngoài mắt nhìn của những ông xếp, nặng nề lê chân ven theo tường về phía Potapov. Khorobrov là người vùng hoang vu nhất của miền Vyatka, gần Kai, quê anh nằm cạnh một vùng đồng lầy ruộng bao la – diện tích của vùng đồng lầy này lớn hơn toàn thể diện tích lãnh thổ nước Pháp – trong đầm lầy này có những trại tập trung đáng sợ nhất của chế độ Nga Xô Viết. Khorobrov từng có dịp nhìn thấy, và biết nhiều hơn mọi người nhưng sự cần thiết phải luôn luôn giấu kín ý nghĩ và đè nén sự đòi hỏi công lý đã làm cho tinh thần và cả thể xác anh nữa, trở thành cong queo, gù xuống, lệch lạc, làm cho vẻ mặt anh trở thành khó coi và vành môi anh rúm lại trong một đường nét thật bẩn. Sau cùng, trong cuộc bầu cử thứ nhất được tổ chức sau chiến tranh, anh không còn chịu đựng được nữa và anh viết bậy những hàng chửi rủa của giới nông dân thô tục lên tấm phiếu bầu, những lời chửi rủa này được anh tặng cho vị Lãnh tụ Tối Cao, vị Thiên Tài của những Thiên Tài. Đó là thời những căn nhà đổ nát không được sửa chữa lại và ruộng nương không được cày vì thiếu người. Trong cả một tháng trường sau ngày bầu cử nhiều nhân viên mật vụ trẻ tuổi nghiên cứu nét chữ viết của tất cả những người đi bầu trong vùng và họ bắt được đúng kẻ viết bậy là Khorobrov. Anh đi tù với niềm ngây ngô là từ nay anh sẽ được dịp nói hả hê những điều anh muốn nói – ở tù rồi còn sự gì nữa – nhưng cuộc sống trong tù vẫn không cho anh tự do chửi rủa như anh tưởng. Cả đống chỉ điểm viên thi nhau báo cáo về Khorobrov và rất sớm, anh nhận thấy rằng anh nên ngậm miệng là hơn.

Trong Viện Mavrino, sự khôn ngoan tầm thường nhất cho Khorobrov biết rằng anh nên hòa mình vào số những người làm việc ở Phòng số bảy. Lọt vào đây dù anh không có hy vọng gì được trả lại tự do nếu người ta thành công, ít nhất anh cũng được hưởng một đời sống vật chất tương đối sống được. Nhưng sự bất công, vô lý của những trường hợp bị tù của những người khác mà anh đã ở thấy đây làm cho Khorobrov buồn nôn, anh đã đi tới giai đoạn một người không còn muốn sống nữa.

Đi tới chỗ Potapov ngồi, Khorobrov cúi lưng trên bàn và nói bằng một giọng bình thản:

“Andreich… Nghỉ thôi. Đêm nay là đêm thứ Bảy.”

Potapov vừa gắn cái chốt gài hai nắp hộp đngj thuốc điếu vào nhau, cái chốt này màu hồng. Anh nghiêng đầu ngắm vật thủ công do chính ta anh làm ra và hỏi:

“Thấy sao, Terentich? Hai màu này hợp nhau chứ?”

Không thấy Khorobrov trả lời, Potapov ngước mắt nhìn người bạn tù. Ánh mắt anh dưới làn kiếng trắng dày nhân từ như ánh mắt bà ngoại nhìn anh cháu.

“Vội gì, Terentich. Thời gian làm việc cho chúng ta. Anton sắp ra về và chúng ta sẽ biến vào không khí ngay lập tức…”

Anh nhấn mạnh ba tiếng “ngay lập tức” như đó là những tiếng quan trọng.

Rubin đã có mặt trong phòng. Bây giờ là mười một giờ đêm, ngày làm việc đã chấm dứt, Rubin đang muốn về giường ngủ đọc Hemingway. Nhưng muốn tỏ ra chú ý đến việc làm của Phòng số bảy, anh hoặc Markushev đọc đi đọc lại những câu mà anh cho là có nhiều âm thanh cần kiểm soát nhất. Anh ra hiệu bằng tay cho Markushev đọc to hơn, đọc nhỏ hơn, như đó là những việc rất quan trọng. Sau cùng, anh gỡ ống nghe ra khỏi tai và tuyên bố rằng theo anh sự tiến bộ tuy có rõ rệt đấy nhưng vẫn còn nhiều khuyết điểm lắm.

Mọi người ồn ào lên tiếng tán thành và bày tỏ sự vui mừng khi có tiến bộ. Đến lúc này, Bobynin mưới ngửng mặt lên khỏi bàn dao động đồ và nói bằng giọng nói trầm tĩnh, ngạo mạn đặc biệt của anh:

“Ngốc. Tiến lên được một bước. Các anh làm việc mò mẫm như thế làm sao có thể thành công được. Phải có phương pháp, phải biết trước mình sẽ làm gì, mình đi tới đâu.”

Dưới cặp mắt nhìn nghiêm khắc không chút rung động của Bobynin, tất cả mọi người trong phòng đều im lặng.

Sau bức vách sắt làm bằng kệ sắt xếp đầy máy, Potapov dán khóa gài vào nắp hộp đựng thuốc điếu. Potapov từng sống ba năm trong trại tù binh Đức và anh chỉ sống sót được ở đó nhờ tài chế tạo những chiếc bật lửa, hộp đựng thuốc điếu và tẩu gắn thuốc điếu tuyệt đẹp bằng những vật dụng vứt đi. Anh chế tạo chúng mà không cần có dụng cụ gì cả, chỉ hoàn toàn bằng những ngón tay thần diệu của anh.

Không có một ai trong phòng tỏ vẻ muốn về nghỉ mặc dù ngày mai sắp đến là một ngày chủ nhật.

Đúng lúc ấy Khorobrov đứng thẳng người lên. Anh đặt tập tài liệu được phát cho anh nghiên cứu lên mặt bàn của Potapov để chờ cất vào tủ sắt, rồi anh đi về phía cửa phòng. Anh lặng lẽ đi ngang đám người xúm xít quanh cái máy được gọi là “Máy cắt âm thanh”.

Mamurin, mặt xanh mướt trợn mắt nhìn theo Khorobrov:

“Ylia Trentich… Tại sao anh không chịu nghe? Mà anh đi đâu vậy?”

Không vội vã Khorobrov từ từ quay lại, với nụ cười méo mó trên vành môi rúm, anh trả lời rõ ràng từng tiếng:

“Tôi không muốn nói lớn nhưng nếu ông nhất định đòi biết, tôi xin nói: ra khỏi đây tôi đi tới phòng vệ sinh. Nói rõ hơn: tôi đi tiểu tiện và đại tiện. Sau đó, nếu không có việc gì bất ngờ xảy ra, tôi đi về phòng giam và nằm xuống ngủ.”

Trong bầu không khí im lặng nặng nề đè xuống gian phòng sau câu nói đó, người ta nghe tiếng cười giòn của Bobynin, người không cười mỉm bao giờ, vang lên.

Việc làm của Khorobrov được coi như một hành động nổi loạn.

Mamurin bước tới để đánh Kinh, y rít lên:

“Anh nói gì? Về ngủ? Tất cả mọi người đều làm việc trong khi anh về ngủ?”

Khorobrov đặt tay lên nắm đấm cửa, anh trả lời như người đang ở vào tình trạng gần mất tự chủ:

“Phải, đúng thế – tôi về ngủ. Hôm nay tôi đã làm việc đủ 12 tiếng đồng hồ do Hiến pháp qui định rồi. Tôi làm việc đã đủ.”

Anh có vẻ sắp nói thêm một câu gì nữa, và câu này sẽ là một câu không còn gì có thể cứu vãn được, cánh cửa phòng bỗng mở ra và người sĩ quan trực bước vào báo:

“Thưa đại tá… có điện thoại trên Tổng bộ gọi đại tá.”

Yakonov vội đứng lên và đi ra khỏi phòng trước cả Khorobrov.

Một lát sau, Potapov tắt đèn trên bàn, anh đặt tập tài liệu được trao cho anh cùng tập tài liệu của Kinh lên mặt bàn của Butatov và khập khiễng đi về phía cửa. Anh đi khập khiễng vì chân trái anh bị thương vì một tai nạn xe máy dầu xảy ra trước chiến tranh.

Phụ tá Tổng trưởng Bộ An ninh Sevastyanov gọi điện thoại tới ra lệnh cho Yakonov phải có mặt ở Bộ vào lúc 12 giờ đêm nay.

Yakonov trở về văn phòng của y. Y cho Nerzhin về và mời Verenyov cùng về thủ đô trong xe hơi của y. Y bận áo ngoài, mang bao tay và trở lại bàn viết. Dưới hàng chữ “Nerzhin sẽ phải đi”, y viết thêm:

“Cả Khorobrov nữa.”


[1] Trong đoạn này, tác giả nói đến đạo Lão của Trung Hoa. Xong các câu nói trên đây có vẻ là một cách ngông của Khổng giáo về vấn đề “tri túc” hơn là một câu trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử (Nd).
[2]Kinh Vệ đà: Một kinh sách tôn giáo có trước Phật giáo ở Ấn Độ, trước đây hơn 2.000 năm.
[3]Người Bạn Thân Nhất đây chính là Stalin. Ở Nga dưới thời Stalin ngự trị, tất cả mọi ngành công nhân đều gọi Stalin là Người Bạn Thân Nhất, cả những binh chủng cũng vậy.
[4]Yugoslav là Nam Tư và là người lãnh đạo Nam Tư, Tito, bị Stalin ghét nhất.


===

12. Một người không thể nói dối

Khi Nerzhin đi trở lại phòng âm thính với cảm giác mơ hồ rằng việc anh vừa làm không sao còn cứu vãn hay sửa chữa được, tâm hồn còn dao động, anh thấy Rubin không còn có mặt trong phòng nhưng tất cả những người khác còn nguyên trong đó. Valentulya, đứng trên lối đi hai bên xếp cao những dàn máy truyền tin, chiếu cặp mắt sáng, linh động, nhìn anh.

“Đừng vội, chàng trẻ tuổi…”

Valentulya giơ tay lên ngăn Nerzhin lại như một viên cảnh sát chặn một chiếc xe hơi đang chạy:

“Người ta gọi anh có việc gì vậy? Qu’est ce que c’est que c’est passé?"

"Đừng lắm chuyện Valentine…"

Nerzhin cau có lẩn tránh câu hỏi. Anh không thể nào nó cho gã trẻ tuổi đầy kiêu mạn này biết rằng anh vừa từ chối cơ hội hiếm có được làm việc với khả năng toán học chuyên môn của anh.

Valentine vẫn vui vẻ:

"Nếu anh có vấn đề gì nan giải, tôi khuyên anh nên mở nhạc khiêu vũ. Anh đã đọc bài thơ của anh chàng thi sĩ trên là gì đó nhỉ? Anh chàng thi sĩ chụp hình với điếu thuốc lá gắn trên môi đó…

Cảnh sát của tôi
Bảo vệ tôi
Trong khu vực hạn chế
Ôi… đời sống đẹp biết chừng nào…

Nói thực với anh, chúng ta còn đòi hỏi hơn ngoài nhạc khiêu vũ?"

Nói xong, không chờ Nerzhin trả lời, Valentine đã nghĩ ngay sang chuyện khác. Quay về cuối phòng, Valentine gọi lớn:

"Vadka… Làm ơn cắm điện vào máy cho tôi…"

Đi gần tới bàn mình, Nerzhin nhìn thấy rõ sự lo âu hiện trên mặt Simochka. Nàng trố mắt nhìn anh, dò hỏi, không cần che dấu và đôi lông mày của nàng nhíu lại.

"Gã Râu đen đi đâu rồi, Serafima Vitalyevna?"

"Anton Nikolayevich gọi anh ấy lên Phòng số bảy" – Simochka trả lời lớn để cho tất cả mọi người trong phòng cùng nghe, xong nàng lại nói lớn – "Gleb Vikentich… Chúng ta kiểm soát lại bản danh sách âm thanh này. Còn nửa giờ nữa mới hết giờ."

Nerzhin nhìn quanh và hỏi lại:

"Ồn ào như vầy làm sao có thể làm việc ấy được?"

"Ờ… vào phòng ghi âm…"

Simochka đã sắp đặt trước việc này. Nàng liếc nhìn Nerzhin để ra hiệu và cầm bản danh sách, nàng đi vào căn phòng kiếng nhỏ xíu ở cuối phòng trước Nerzhin.

Nerzhin đi theo nàng vào đó. Anh với tay đóng cánh cửa lại, gài khóa cẩn thận và buông tấm màn che xuống. Simochka bá lấy cổ anh, nàng đứng nhón gót để hôn lên môi anh.

Trong lòng căn phòng hẹp không còn chỗ để cho hai người xoay chuyển. Nerzhin nhấc bổng người thiếu nữ gầy và nhẹ lên, anh ngồi xuống chiếc ghế duy nhất trong phòng và đặt nàng ngồi lên đùi anh. Họ ngồi ôm nhau như thế trước ống micro và tập danh sách bị vứt ở góc bàn.

"Anton gọi anh lên làm gì? Có việc gì vậy?"

Nerzhin thì thầm:

"Máy phóng thanh có mở không đấy? Coi lại xem. Đừng để cho cả phòng nghe tiếng mình nói."

"Chuyện gì?"

"Sao em lại cho rằng có chuyện gì xảy ra?"

"Em biết ngay có chuyện khi họ gọi anh. Lúc anh trở về, chỉ nhìn mặt anh em biết ngay. Chuyện gì?"

Anh cảm thấy hơi nóng từ da thịt nàng chuyền sang anh, má anh chạm vào má nàng. Cảm giác này là cảm giác hiếm có với những người ở tù. Không biết bao nhiêu năm tháng đã qua trong đời anh kể từ lần cuối cùng anh được ôm một người đàn bà.

Thể xác Simochka thật nhẹ, nhẹ một cách lạ lùng, như trong nàng không có xương, như cả người nàng đều là sáp ong. Nàng như một loài chim trông thì có vẻ lớn nhưng chỉ có toàn lông.

"Em yêu… có lẽ anh sắp phải đi…"

Nàng xoay mình trong vòng tay anh và đặt hai bàn tay nhỏ bé của nàng lên hai thái dương anh, chiếc khăn len choàng trên vai nàng trễ xuống:

"Đi đâu?"

"Sao em lại còn hỏi anh đi đâu? Anh đến đây từ vực thẳm, từ địa ngục, anh lại trở về đó. Về trại tập trung."

"Nhưng tại sao…? Tại sao?"

Nerzhin nhìn vào đôi mắt mở lớn đang nhìn ngày chàng của người con gái mộc mạc này, người con gái mà anh không ngờ chiếm được tình yêu. Nàng còn xúc động vì số mệnh của anh hơn cả chính anh.

"Anh vẫn có thể ở lại được" – Nerzhin buồn rầu nói – "Nhưng anh sẽ phải sang Phòng khác. Dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, chúng mình cũng không còn được gần nhau."

Với tất cả sức mạnh của đôi vòng tay, nàng ôm ghì lấy anh, nàng đặt hết trọng lượng thân thể nhẹ bỗng của nàng lên anh và nàng hỏi anh có yêu nàng không.

Trong những tuần lễ vừa qua, sau khi hôn Simochka chiếc hôn đầu, tại sao anh lại không tiến tới việc yêu nàng? Sao anh lại thương hại nàng? Sao anh lại chỉ nghĩ đến chuyện nàng sẽ khổ sở nhiều hơn là sung sướng với cuộc tình ngắn ngủi này? Dù anh có không yêu nàng, nàng cũng khó lòng tìm được một tấm chồng, dù là chồng không ra hồn, nàng sẽ rơi vào tay một gã đàn ông nào khác, bất kể là gã nào có dịp gần gụi nàng. Nàng đến trong vòng tay anh, tự nguyện hiến dâng, sẵn sàng cho anh yêu. Tại sao lại từ chối anh và từ chối cả nàng? Mai đây anh sẽ trở về trại tập trung và cơ hội hiếm có này sẽ không thể đến với anh trong nhiều năm nữa…

Anh vội vã nói:

“Anh không muốn ra đi như thế này… Anh không muốn xa em mà không để lại cho em một kỷ niệm gì của anh… Anh muốn… anh muốn cho em một đứa con…”

Nàng giấu mặt nàng vào ngực anh và anh đặt ngón tay dưới cằm nàng, âu yếm nâng mặt nàng lên.

“Em yêu, đừng giấu mặt. Nhìn anh, xin em nhìn anh… Sao em không nói? Em không thích ư? Em không chịu ư?"

Nàng ngửng đàu lên và từ tận cùng trái tim nàng, tâm hồn nàng, nàng nói:

"Em sẽ chờ anh. Anh chỉ còn năm năm? Em sẽ chờ anh năm năm? Khi nào anh được ra, anh về với em?"

Nerzhin chưa bao giờ nói với nàng như thế. Nàng đã ước mơ, nàng đã làm cong queo sự thật, nàng làm như chàng là người không có vợ. Tội nghiệp cho nàng, người con gái có chiếc mũi dài quá khổ này, nàng ao ước được lấy chồng.

Vợ Nerzhin sống ở đâu đó trong thủ đô Mạc Tư Khoa ngay gần đây, nhưng với anh, nàng cũng xa xôi như nàng đang ở trên Hoả tinh.

Và bên cạnh người con gái đang ngồi trên đùi anh, bên cạnh vợ anh đang sống ở Hỏa tinh, anh còn những trang giấy giấu trong bàn viết của anh những trang giấy ghi những hàng chữ trừu tượng đã làm anh tốn không biết bao nhiêu công phu, tâm huyết. Đó là những ghi nhận và phê phán của anh, về thời đại hậu Lênin, những tư tưởng đẹp nhất được đúc kết trong óc anh.

Nếu anh đi khỏi đây trong một chiếc xe chở tù công cộng, tất cả những công phu ấy sẽ phải làm mồi cho ngọn lửa.

Anh nên nói dối nàng, nàng nên hứa là khi ra khỏi tù, anh sẽ đến với nàng, sống với nàng. Một lời nói dối, một lời hứa như tất cả mọi người vẫn nói, như bất cứ người nào ở trong tình trạng của anh cũng phải nói. Nói dối để khi anh phải ra đi, những tờ giấy quý báu của anh sẽ được nàng giữ cho anh. Chắc chắn, không sao có thể mất được.

Nhưng anh không sao có thể nói dối được với cặp mắt đang nhìn anh chứa chan hy vọng kia.

Để tránh tia mắt ấy, anh cúi xuống hôn lên đầu vai xương xẩu do những ngón tay anh mở lộ dưới áo nàng.

Một lát sau, anh do dự nói:

"Có lần em hỏi anh là anh viết những gì trên những tờ giấy nhỏ đó… Em nhớ không?"

"Nhớ. Mà anh viết gì vậy?"

Nàng hỏi anh với giọng tò mò y hệt lần hỏi đầu tiên.

Nếu nàng đừng hỏi lại anh câu đó, nếu nàng đừng tỏ ra tò mò, đừng có vể thúc giục anh nói, Nerzhin đã nói hết với nàng sự thật ngay lúc đó. Nhưng vẻ tò mò dục dã của nàng làm cho anh chợt nhớ đến việc đề phòng. Anh đã sống quá nhiều năm trong cuộc sống mà đề phòng trở thành một thói quen như việc hít thở khí trời, giữa những bãi mìn đầy những dây bẫy vô hình có thể làm nổ tung bất cứ lúc nào.

Đôi mắt ngây thơ, chan chứa yêu thương này có thể là đôi mắt của một nhân viên mật vụ. Lát nữa đây biết đâu nàng lại chẳng kể lại hết từng tiếng anh nói với tên sĩ quan thượng cấp của nàng.

Đột nhiên, nàng nhớ lại những chuyện đã xảy ra giữa anh và Simochka. Lần đầu tiên, chính nàng đã để má nàng chạm vào má anh trong phòng ghi âm này. Biết đâu đó lại chẳng phải là một hành động cố ý? Biết đâu nàng lại chẳng nhận được lệnh phải làm như thế? Biết đâu tất cả mối tình này lại chẳng là một cái bẫy?

"Đó là những tài liệu anh ghi về lịch sử" – Nerzhin trả lời mơ hồ – "Lịch sử nói chung kể từ đời vua Peter. Chẳng có giá trị gì với người khác nhưng có giá trị với riêng anh. Anh sẽ tiếp tục viết cho đến khi nào Yakonov tống cổ anh ra khỏi đây. Nhưng nếu anh phải đi, không biết anh có thể nhờ ai giữ giùm anh."

Đôi mắt Nerzhin bây giờ nhìn sâu vào mắt Simochka, nhưng anh nhìn không phải là để xúc động, để tỏ tình mà là để dò xét.

Simochka bình thản mỉm cười:

"Anh còn phải hỏi nữa sao? Đưa cho em, em giữ cho anh. Anh cứ viết đi. Đừng sợ."

Và nàng hỏi câu hỏi nàng muốn hỏi từ lâu nhưng vẫn sợ phải nghe câu trả lời:

"Nói cho em biết… vợ anh… đẹp lắm phải không?"

Tiếng chuông máy điện thoại nối liền phòng ghi âm với phòng thí nghiệm bên ngoài chợt reo làm đôi tình nhân giựt mình. Simochka mở máy khuếch âm trước khi nhấc ống nghe để trả lời người gọi vào bên ngoài. Nàng ngồi đó, đôi má đỏ hồng, y phục sộc sệch và nói vào máy như người đang bận rộn với việc đọc bản danh sách âm thanh “Dop, fskop, sthap”. Những người ở bên ngoài sẽ nghe thấy những tiếng nàng vừa nói.

Nàng nhấc ống điện thoại và trả lời:

“Chi đó Valentine Martynich? Ống đèn đôi diode-triode ư? Anh cần gấp không? Mình không có sẵn đèn 6G7 nhưng đèn 6G2 thì có. Được, để tôi đọc xong sẽ lấy cho anh… Droot, moot, shoot…”

Nàng tắt máy và vuốt nhẹ má Nerzhin:

“Em phải ra thôi. Họ nghi… Cho em ra…”

Nhưng nàng không có vẻ gì là muốn ra khỏi đó.

Nerzhin hôn nàng, anh ôm ghì lấy nàng chặt hơn.

“Em không đi đâu hết. Ở đây, anh… anh muốn…”

“Đừng. Họ đang chờ em. Em còn phải cất tài liệu…”

“Ngay bây giờ…”

Anh đòi hỏi. Và anh hôn nàng.

“Ngay bây giờ thì không thể được…”

“Bao giờ? Bao giờ?”

Nàng ngoan ngoãn trả lời anh như lời anh hỏi là một mệnh lệnh:

“Thứ hai. Thư hai em lại trực. Em trực thay cho Lyra. Anh đến đây sau giờ ăn trưa. Chúng mình sẽ có cả một giờ đồng hồ. Chỉ sợ gã khùng Valentulya giở trò đến làm việc.”

Trong lúc Gleb Nerzhin mở cửa, Simochka vuốt lại mái tóc, sửa lại y phục, gài lại nút áo và nàng bước ra khỏi đó trước anh, dáng điệu kiêu kỳ và vẻ mặt lạnh lùng.


13. Ánh sáng xanh

“Có đêm tôi sẽ quẳng cái giầy lên bóng đèn xanh kia. Nó làm tôi chịu không nổi.”

“Anh sẽ ném trật.”

“Gì mà trật? Sáu thước mà trật sao? Tôi cá với anh phần tráng miệng trái cây trưa mai là tôi ném trúng đây.”

“Nằm ở giường dưới này ném. Xa hơn một thước đấy…”

“Bảy thước cũng trúng như thường. Bọn quái quỉ… Không biết chúng còn nghĩ ra những gì để hành hạ mình nữa? Ánh đèn này rọi vào mắt tôi suốt đêm.”

“Đèn xanh mà?”

“Thì xanh chứ sao. Bộ anh thì không chói mắt sao? Ánh sáng cũng có sức ép. Lebedev phát minh ra chuyện ấy. Aristip Ivanich… ngủ chưa? Chưa ngủ thì làm ơn đưa cho tôi cái giầy của tôi…”

“Tôi sẽ đưa giầy cho anh. Vyascheslav Petrovich, nhưng trước hết, anh phải nói cho tôi biết tại sao anh lại không chịu ánh đèn xanh?”

“Ánh sáng xanh phát ra những làn sóng ngắn, và những làn sóng ngắn có nhiều lượng tử. Lượng tử làm hại mắt tôi.”

“Với tôi, ánh sáng xanh rất dịu, rất mát. Nó gợi cho tôi nhớ lại ánh đèn ngày xưa mẹ tôi thắp trên bàn thờ ban đêm, khi tôi còn thơ…”

“Mẹ ơi… Làm sao loài người có thể thực hiện được chế độ dân chủ? Làm sao thỏa mãn được tất cả mọi người? Vì mỗi người có một ý riêng, những sở thích riêng. Tôi nhận thấy trong một phòng giam, những vấn đề giản dị nhất thường gây ra những trận xung đột ý kiến gay cấn nhất. Chẳng hạn như việc chén đĩa, việc quét nhà. Tự do sẽ là giai đoạn cuối cùng của nhân loại. Hỡi ơi, chỉ có gậy gộc mới có thể cho loài người biết được sự thật mà thôi.”

“Đúng đấy. Nhưng việc đặt bóng đèn xanh ở chỗ này cũng được lắm chứ? Nơi đây trước kia là bàn thờ mà.”

“Không phải là bàn thờ. Đây tầng tháp tròn ở trên bàn thờ. Họ làm thêm ở đây một sàn phòng.”

“Dmitri Aleksandrovich… Anh làm cái gì vậy? Mở cửa sổ trong đêm tháng Chạp! Vừa thôi chứ?”

“Thưa các bạn… dưỡng khí làm cho những tù nhân trở thành bất tử. Có tới hai mươi tư gã đàn ông trong căn phòng nhỏ này và ngoài kia trời không có gió, không có sương tuyết. Tôi chỉ mở hé bằng một quyển Ehrenburg [1] .”

“Mở lớn hơn đi. Trong này ngạt thở lắm.”

“Bạn mở hé bằng chiều dầy một quyển Ehrenburg hay bằng chiều cao?”

“Bằng chiều cao chứ. Cửa sổ này lớn lắm mà.”

“Mình có thể phát điên lên vì phải sống ở đây lắm. Áo lạnh của tôi đâu rồi?”

“Nếu tôi có quyền, tôi sẽ cho hết những anh nghiện dưỡng khí này đến Oimyakon làm khổ sai ngoài trời. Làm việc mười hai tiếng đồng hồ một ngày ở một nơi lạnh sáu mươi độ dưới số không, các cậu sẽ chui hết vào vào chuồng dê để trốn lạnh.”

“Trên nguyên tắc, tôi không chống lại dưỡng khí, nhưng tại sao lại cứ phải là dưỡng khí lạnh? Tại sao không có dưỡng khí ấm?”

“Có chuyện gì xảy ra trong phòng này vậy? Sao tối om thế? Tại sao họ lại tắt đèn sớm quá vậy?”

“Valentulya, anh cứ làm như anh ngây thơ lắm vậy. Một giờ sáng rồi anh vẫn còn đi lang thang chưa chịu ngủ. Nửa đêm anh cần đèn để làm gì?”

“Còn anh là một tên nô lệ cho thời trang…”

“Phòng này đầy khói. Quái thật, tại sao các anh lại phải hút thuốc lá mới sống được nhỉ? Mà anh nào cũng hút. Trời, hôi quá. Bình trà lại nguội rồi.”

“Lev đâu rồi nhỉ?”

“Gì? Hắn không nằm trên giường hắn sao?”

“Trên giường hắn chỉ có mấy chục quyển sách người không có hắn.”

“Nếu vậy chắc hắn lại ở trong nhà vệ sinh rồi.”

“Sao anh biết?"

"Trong ấy có bóng đèn điện sáng, nhà bếp bên cạnh làm cho vách phòng ấm. Chắc hẳn ngồi đọc sách ở trong đó. Tôi đi rửa mặt đây, anh có cần tôi bảo gì hắn không?"

"… Sau đó chuyện như thế này: nàng trải tấm mền lên sàn cho tôi còn nàng nằm ở trên giường. Tuyệt vời… Ngon ơi là ngon…"

"Các bạn làm ơn cho tôi xin. Hãy nói sang chuyện khác, đừng nói đến đàn bà. Với tình trạng kiêng ăn thịt của bọn mình, đàn bà là một đề tài có hại."

"Thôi đi các bạn họ nhà vạc, ngừng nói và ngủ đi. Chuông tắt đèn reo từ lâu lắm rồi."

"Đúng, nhưng mà tôi chưa buồn ngủ. "

"Nếu anh muốn ngủ, anh sẽ ngủ…”

“… Ở Phi châu, tôi chiến đấu dưới quyền Rommel. Ở đó điều phiền nhất là khí hậu quá nóng mà lại không có nước.”

“… Ở Bắc Băng dương có một hòn đảo tên là Makhotkin. Makhotkin trước kia là một phi công bay thám hiểm Bắc Băng dương. Nay hắn ngồi tù vì tội tuyên truyền chống lại Xô Viết.”

“Mikhail Kuzmich… Anh làm gì mà trở mình dữ vậy?”

“Bộ tôi không còn có cả quyền trở mình hay sao đây?”

“Còn chứ, xong anh nhớ cho rằng mỗi một chuyển động nhẹ của anh dưới đó sẽ được chuyền lên trên này lớn và mạnh kinh khủng.”

“Ivan Ivanavich… anh cần phải được sống vài năm ở trại tập trung mới khá được. Ở đó mỗi lần có người trèo lên giường, nên nhớ mỗi giường nằm bốn người, là có ba anh bị xô vào nhau như đang nằm trên tàu biển. Và mỗi khi ở chiếc giường từng dưới có ai đóng cái đinh treo màn hoặc mang một chị đàn bà về là… rầm rầm, rung rinh như động đất. Vậy mà người ta vẫn cứ ngủ được như thường.”

“Tôi từng ở Auschwitz [2] . Ở đó mới thật là khủng khiếp. Họ đưa anh thẳng từ nhà ga xe lửa tới lò hơi ngạt và đốt xác, có cả ban nhạc đi theo.”

“Câu cá ở đó thì thật tuyệt. Đi săn cũng tuyệt. Vào mùa thu anh có thể đi trong một tiếng đồng hồ là có quyền trở về với cả chục con chim trĩ. Nếu anh đi vào rừng, anh bắn gấu. Nếu anh đi trong cánh đồng cỏ, anh bắn thỏ.”

“Những nhà tù đặc biệt kiểu này được bắt đầu lập lên vào khoảng năm 1930. Năm đó người ta kết tội những kỹ sư nhóm “Promparty” tội âm mưu, tư thông với người Anh. Sau đó người ta lại muốn biến những kỹ sư ấy có thể làm được những việc gì trong nhà tù. Người điều khiển nhà tù đặc biệt thứ nhất là Leonid Konstantinovich Ramzin. Cuộc thí nghiệm là một thành công lớn. Ở ngoài nhà tù, người ta không sao có thể tụ hội được hai kỹ sư lớn hoặc hai vị đại khoa học gia cùng làm việc một nơi. Nếu chẳng may có hai vị cùng ở một chỗ các vị sẽ tranh chấp nhau vì tên tuổi, danh vọng, vì giải Stalin, và vị mạnh thế hơn nhất định sẽ đá vị kia ra khỏi sở. Vì vậy nên ở bên ngoài nhà tù tất cả những viện khoa học, những sở nghiên cứu đều chỉ có một nhóm người không có gì xuất sắc bao quanh một vị dẫn đầu tài ba. Nhưng còn ở trong nhà tù? Trong nhà tù người ta không còn bận trí đến chuyện tiền tài hay danh vọng nữa. Nikolai Nikolaich mỗi ngày được hưởng nửa ly sữa và Pyotr Petrvich cũng vậy. Cả tá khoa học gia cừ khôi như những con sư tử sống chung hòa bình với nhau trong một cái chuồng. Vì không thể đi đâu được hết, vì ngồi đánh cờ hay hút thuốc mãi cũng chán, họ rủ nhau: Sáng chế cái gì cho vui đi. Được đấy. Làm thì làm, sợ gì. Rất nhiều thứ đã được chế ra bằng cách ấy. Đó là căn bản tính của những nhà tù đặc biệt.”

“Các bạn ơi… có tin mới: Bobynin vừa được họ mang đi đâu đó.”

“Valentulya… Anh nói nhỏ chứ… Tôi đè cái gối này lên mặt anh cho anh hết thở bây giờ…”

“Họ mang Bobynin đi đâu, Valentulya?”

“Họ mang hắn đi bằng cách nào?”

“Gã trung úy đến tận phòng, bảo Bobynin bận áo ngoài, đội mũ.”

“Có mang tất cả quần áo đi theo không?”

“Không. Quần áo vẫn để lại.”

“Chắc hắn được đưa đi gặp Xếp Lớn rồi.”

“Gặp Oskolupov ư?”

“Oskolupov lên đây chứ không cho gọi đến. Người gọi là người cao hơn Oskolupov.”

“Trà nguội rồi. Khó chịu quá…”

“Anh bảo tôi làm cách nào cho tan đường?”

“Làm cách nào cũng được nhưng làm trong yên lặng.”

“Chỉ có những tai họa tinh tú mới xảy ra im lặng vì tiếng động không truyền đi được ở ngoài không gian. Nếu một ngôi sao mới nổ tan ở sau lưng anh, anh cũng không nghe thấy được tiếng nổ. Ruska, mền của anh rớt xuống sàn kìa, sao anh lại nằm vắt ngang mép giường kỳ vậy? Anh ngủ sao? Anh có biết rằng mặt trời của chúng ta chỉ là một ngôi sao mới thành hình và vì vậy, trái đất sẽ bắt buộc phải tan vỡ trong một tương lai gần đây?”

“Tôi không muốn tin chuyện ấy. Tôi còn trẻ tôi muốn sống.”

“Ha… Ha… Câu nói đơn sơ đến là chừng nào. C’est le mot. Hắn muốn sống. Trà nguội uống khó chịu quá."

"Valentulya… Họ đưa Bobynin đi đâu?"

"Làm sao tôi biết. Có thể đưa đi gặp Stalin lắm ạ."

"Valentulya… Nếu người ta đưa anh đến gặp Stalin, anh sẽ làm gì?"

"Tôi hả? Hô… Hô… Tôi sẽ nói với ông ấy tất cả những lời khiếu nại của tôi. Nói từ A đến Z."

"Nghĩa là nói những gì? Kể thử vài điều ra coi…"

"Kể hết. Kể hết. Par exemple… tại sao chúng ta lại phải sống không có đàn bà. Tình trạng ấy hạn chế khả năng sáng tạo của chúng ta."

"Pryanchikov… thôi đi. Mọi anh em khác ngủ cả từ lâu rồi. Tại sao anh lại cứ phải hét lên như vậy?"

"Tôi không muốn ngủ…"

"Các bạn, ai hút thuốc đó? Giấu đi. Gã trung úy tới đó…"

"Tên đó đến đây làm chi? Cẩn thận đó công dân trung úy. Cẩn thận kẻo ngã bể mũi đó."

"Pryanchikov!"

"Cái gì đó?"

"Anh nằm đâu? Anh ngủ chưa?"

"Tôi ngủ rồi."

"Dậy mau, bận quần áo lên, lẹ lên. Nhớ bận áo ngoài, đội mũ."

"Không. Lẹ lên. Có xe chờ anh."

"Tôi đi cùng với Bobynin ư?"

"Hắn đi trước rồi. Có xe khác chờ anh."

"Xe gì, trung úy ư? Xe Maria Đen chăng?"

"Lẹ lên. Lẹ lên. Xe Pobeda."

"Ai kêu tôi vậy?"

"Thôi đi, Pryanchikov. Tại sao tôi lại phải giải thích với anh nhỉ? Chính tôi cũng không biết ai. Mau đi."

"Valentulya… Nhớ nói hết với họ nghe."

"Khiếu nại với họ về quyền được tiếp thân nhân của chúng ta. Hỏi họ tại sao những tù nhân bị bắt vì Đoạn 58 lại chỉ được quyền tiếp thân nhân một năm có một lần."

"Khiếu nại về quyền đi bộ ngoài trời của chúng mình."

"Về thư từ…"

"Quần áo nữa."

"Ha… Ha. Vĩnh biệt các bạn."

"Đồng chí trung úy… Tên Pryanchikov đâu?"

"Hắn ra đây. Đồng chí thiếu tá, hắn đâu?"

"Nói thẳng với họ hết mọi chuyện, đừng khớp nghe Valentulya."

"Đêm nay lộn xộn quá ta…”

“Chuyện gì vậy?”

“Chuyện này chưa từng bao giờ xảy ra.”

“Có thể là lại mới có chiến tranh xảy ra. Họ lôi chúng mình đi bắn.”

“Đừng vớ vẩn. Ai thèm bận tâm đến chúng mình vào giữa một hai giờ sáng? Nếu có chiến tranh, họ đã dùng đại liên đốn bọn mình cho chết hết một lúc hoặc là cho bệnh dịch vào đây…”

“Xong rồi, các bạn. Đến giờ ngủ. Sáng mai chúng ta sẽ biết rõ hết mọi chuyện.”

“… Chuyện này thường xảy ra vào năm 1930. Tới năm 1940 Beria cho gọi Boris Sergeyevich Stechkin từ nhà tù đặc biệt về. Boris không phải là loại tù trở về nhà tù tay không. Mỗi lần được gọi về như thế là phải có sự thay đổi trong nhà tù, không tên giám đốc bị thay thế thì giờ đi bộ ngoài trời được nới rộng hơn. Boris nhất định không chấp nhận sự phân chia giai cấp trong phạm vi ăn uống. Ông không chịu cái cảnh cùng sống trong tù nhưng một đại học giả được ăn trứng gà và sữa chua, một giáo sư được hưởng ba mươi gờ ram bơ trong khi một tù nhân làm lao công chỉ được hưởng một nửa thế. Boris Sergeyevich Steckhin là một người tốt, thực tốt… Cầu cho ông ấy được yên vui…”

“Ổng chết rồi sao?”

“Không, họ cho ổng ra. Họ trao cho ổng giải Stalin.”


14. Người đàn ông nào cũng cần đàn bà

Giọng nói đều đặn, mệt mỏi của Adamson tắt đi. Adamson là một trong số những người sống kỳ cựu nhất trong những nhà tù đặc biệt như Viện Mavrino. Đây đó trong phòng giam, thỉnh thoảng lại có tiếng thì thào của những kẻ nói tiếp câu chuyện bỏ dở. Có người ngáy lớn. Có những tiếng ngáy dữ dội vang lên rồi tắt đi.

Bóng đèn xanh gắn trên vòm trần nhà hình tròn ngay trên cánh cửa đôi tỏa ánh sáng nhạt mờ xuống mười hai chiếc giường hai tầng kê thành hình cánh quạt trong căn phòng lớn. Căn phòng này có lẽ là căn phòng duy nhất có hình thể cổ lỗ còn sót lại ở Mạc Tư Khoa. Trên nó là một mái nhà hình tròn và ở đỉnh mái là một cái tháp. Vòng theo hình tròn của mái nhà có nhiều khung cửa sổ. Những khung cửa sổ này bị đóng chặt lại nhưng không bị che kín. Ban ngày, người ta có thể nhìn qua những khung cửa sổ này ra con đường nhựa lớn và những công viên không được sửa sang cây cối rậm rạp như rừng. Từ đó vào những tối mùa hạ, người ta nghe thấy tiếng hát khêu gợi, khuấy động của những thiếu nữ thiếu đàn ông sống ở vùng ngoại thành Mạc Tư Khoa.

Nằm trên chiếc giường trên bên cạnh cửa sổ chính của văn phòng Nerzhin trằn trọc không ngủ được. Và chàng cũng không muốn ngủ. Ở chiếc giường bên dưới giường anh, kỹ sư Potapov, từ lâu, đã ngủ giấc ngủ yên bình của những người vừa qua một ngày dài làm việc vất vả. Trên chiếc giường trên ở bên trái Nerzhin, người tù có khuôn mặt tròn vành vạnh tên là Zemelya nằm duỗi thẳng chân tay và ngáy ròn. Trên chiếc giường trên bên phải Nerzhin là giường của Ruska Doronin, người tù ít tuổi nhất Mavrino. Ruska cũng xoay trở trên giường và có vẻ trằn trọc không ngủ được. Bên dưới chiếc giường của Zemelya là giường của Pryanchikov. Giường này trống không có người nằm vì Pryanchikov vừa được gọi đi.

Giờ đây, trong khi nằm thao thức nhớ lại từng chi tiết cuộc nói chuyện vừa qua của mình với Verenyov trong văn phòng phòng của Yakonov, Nerzhin hiểu rõ tất cả mọi chuyện một cách sáng suốt và tinh tường hơn. Việc anh từ chối tham gia công tác ám số không phải là một sự kiện ngẫu nhiên mà có, nó đánh dấu khúc rẽ quan trọng trong đời anh. Hành động từ chối của anh chắc chắn sẽ có hậu quả, và hậu quả nầy có thể đến sớm hơn là anh tưởng, anh sẽ phải làm một chuyến đi dài và gian khổ tới. Tây Bá Lợi Á hoặc Bắc Băng dương, đến cái chết hoặc đến cuộc chiến thắng cơ cực cái chết.

Nerzhin muốn suy nghĩ về ý nghĩa khác rẽ quan trọng này trong đời chàng. Anh đã làm được những gì trong ba năm sống tương đối đỡ khổ trong Viện Nghiên cứu này? Anh đã rèn luyện được anh đủ để có thể nhảy trở về vực thẳm là những trại tập trung hay chưa?

Và ngày sắp tới lại chính là ngày sinh nhật của Nerzhin. Anh đã được ba mươi mốt tuổi. (Tất nhiên là Nerzhin không nỡ nhắc nhở cho những người bạn đồng tù của anh biết sự kiện này.) Ba mươi mốt tuổi phải chăng là đoạn giữa của đời anh, là đoạn cuối cùng hay cũng là đoạn mở đầu?

Ý nghĩa của anh trở thành lộn xộn. Anh không sao có thể tập trung tư tưởng vào những vấn đề thiết yếu. Mặt khác, một cảm giác yếu đuối ám ảnh tâm trí anh: thực ra, tới lúc này anh muốn sửa đổi lại cũng chưa phải là quá muộn, nghĩa là anh vẫn còn có thể ngỏ ý muốn gia nhập công tác ám số. Anh lại cảm thấy cái đau nhói ở trái tim khi nhớ tới những tháng dài dằng dặc không được gặp mặt vợ anh, không được nhìn thoáng thấy nàng. Đã gần một năm rồi anh không được gặp vợ. Liệu anh có thể gặp nàng một lần trước khi ra đi hay không?

Và sau cùng, ở trong anh, trỗi dậy con người tinh tế, linh động, sắc sảo, con người đã sống trong anh từ lâu, từ ngày anh còn là chú thiếu niên đứng xếp hàng chờ đến lượt vào mua bánh mì trong kế hoạch ngũ niên thứ nhất. Con người bên trong kiên nhẫn và can cường này đã chuẩn bị chờ đợi những cuộc khám xét gắt gao mà anh sẽ phải chịu trong những ngày đen tối sắp tới – anh sẽ bị khám xét rất kỹ khi anh ra khỏi Mavrino, khi anh đến những trung tâm nhận tù nhân ở Butyrskaya, rồi đế Krasnaya Presnya – con người bên trong đó cũng đã thầm nghĩ đến chuyện làm cách nào để có thể dấu được những mẩu chì nhỏ lấy ra từ những cây viết chì trong nẹp áo, làm cách nào để có thể mang theo được hết số áo quần anh hiện có ở đây – với một người tù khổ sai phải làm việc ngoài trời, mỗi một lượt vải đắp thêm được lên người là một cái gì quí báu vô giá – làm cách nào chứng minh được rằng cái muỗng bằng nhôm đi theo anh từ ngày đầu anh vào tù là vật của riêng anh chứ không phải là vật do anh lấy trộm của nhà tù này – điều khó khăn là những chiếc muỗng nhôm được dùng trong nhà tù đặc biệt này cũng gần giống hệt chiếc muỗng của anh.

Nerzhin ngồi dậy và dưới ánh sáng mờ của bóng đèn xanh, anh lặng lẽ, âm thầm chuẩn bị. Anh xếp lại quần áo, tìm trước những chỗ giấu.

Trong lúc đó Ruska Doronin, người tù trẻ nhất nằm trên chiếc giường cạnh Nerzhin vẫn xoay trở không ngủ. Đột ngội, Ruska ngồi lên và đẩy cái gối sắt vào thành giường để ngồi dựa lưng trên đó, rồi chàng mở quyển Lịch sử La Mã của Mommsen ra định đọc. Nhận thấy Nerzhin chưa ngủ, hai mắt vẫn mở nhìn thẳng lên ngọn đèn xanh trên trần nhà, Ruska thì thầm:

“Gleb… Còn thuốc lá không? Cho tôi một điếu.”

Lúc thường Ruska vẫn không hút thuốc. Nerzhin thò tay vào túi chiếc áo ngoài treo ở cột giường, móc ra hai điếu thuốc lá. Họ châm lửa hút.

Ruska hút thuốc một cách chăm chú, chàng không quay lại nhìn Nerzhin. Dưới mái tóc bồng, khuôn mặt Ruska vẫn có những nét hấp dẫn mặc dù bị soi sáng bởi một làn ánh sáng ảm đạm như chết. Khuôn mặt Ruska luôn luôn thay đổi, có khi đó là khuôn mặt của một thiếu niên chất phác, thành thật, đôi khi đó là khuôn mặt của một người đàn ông hiểu biết, tự tin.

“Gạt tàn vào cái này…”

Nerzhin đưa cho Ruska một bao thuốc Belomor không.

Cả hai người cùng gạt chung tàn thuốc vào bao giấy đó.

Ruska mới đến Mavrino vào đầu mùa hè và Nerzhin có cảm tình ngay với người tù ít tuổi này từ phút đầu. Sự trẻ trung của Ruska gợi lên trong Nerzhin ý muốn bảo vệ, giúp đỡ.

Nhưng sự thực là mặc dù Ruska mới có hai mươi nhăm tuổi – (vì bị người ta kết án đúng hai mươi nhăm năm tù) – chàng không phải là kẻ cần được bảo vệ, che chở, hướng dẫn. Cá tính của Ruska và những quan niệm của chàng về cuộc đời đều đã được nhào nặn, trui rèn, thành hình trong cuộc sống tuy ngắn nhưng rất sôi động, bão tố của chàng – Ruska không biết gì về đời nhờ hai tuần lễ chàng sống ở Đại học đường Mạc Tư Khoa, cũng không nhờ hai tuần lễ chàng sống ở Đại học đường Leningrad – mà là nhờ hai năm trời chàng sống với một sổ thông hành giả trong lúc tên thật của chàng bị ghi trong danh sách tội phạm bị tầm nã trên khắp Liên Bang Xô Viết – (Gleb được chính Ruska tiết lộ cho biết sự bí mật này) – tiếp theo đó là hai năm tù ở. Với khả năng thích nghi với hoàn cảnh thiên phú, Ruska lập tức hiểu ngay và nắm được ngay những bí quyết để sống trong tù: chàng lúc nào cũng đề phòng, chỉ thành thật với một số rất í người và làm cho tất cả mọi người tin rằng chàng hãy còn ngây thơ, khờ khạo như một đứa trẻ. Ngoài những tính tốt đó, chàng còn tỏ ra nhiệt thành, muốn làm thật nhiều việc trong một thời gian thật ngắn, đọc sách là một trong những việc chính của chàng.

Gleb, bất mãn vì những ý nghĩ lộn xộn và hạ tiên của chính mình và chàng không muốn ngủ, nói nhỏ trong bầu không khí im lặng của gian phòng.

“Này… lý thuyết lịch sử đi theo vòng tròn của chú đến đâu rồi?”

Hai người từng thảo luận về lý thuyết này và Ruska đang cố ý tìm những chứng minh và công nhận trong tác phẩm của Mommsen [3] .

Ruska quay lại sau tiếng thì thầm, nhưng Nerzhin hỏi quá nhỏ và chàng nghe không rõ. Đôi lông mày chàng trẻ tuổi nhíu lại trong cố gắng tìm hiểu mình vừa được hỏi gì.

“Tôi hỏi… lý thuyết lịch sử theo vòng tròn của chú đến đâu rồi?”

Ruska thở ra một hơi dài và vẻ cố gắng biến ngay trên mặt chàng, cả những ý tưởng ám ảnh chàng trong lúc chàng hút thuốc cũng tan đi. Chàng nằm sấp chống hai cùi chỏ xuống giường, mặt hướng về phía Nerzhin và sau khi bỏ mẩu thuốc tàn vào bao giấy, chàng nói:

“Chẳng đi đến đâu hết. Tất cả làm tôi chán ngấy. Sách với lý thuyết cũng vậy.”

Họ lại yên lặng. Nerzhin muốn nằm quay mặt sang phía giường bên kia cho đỡ mỏi nhưng Ruska đã đột ngột phát lên tiếng cười nhẹ và bắt đầu nói. Càng nói, chàng càng nói nhanh hơn và thêm hào hứng:

“Lịch sử đều đều, phẳng lặng, không có sự kiện gì lạ đến nỗi làm cho tôi cảm thấy tiếc thì giờ khi đọc lại nó. Ở đâu và ở thời nào cũng vậy, mỗi người càng lương thiện, càng đức hạnh chừng nào càng bị những kẻ đồng thời đối xử tàn tệ chừng ấy. Cassius Vecellinus, Nhiếp chính quan La Mã, muốn phát đất ruộng cho quần chúng và quần chúng treo cổ ông ta. Spurius Maelius muốn làm cho dân đói bớt đói và người ta xử tử ông vì tội âm mưu chiếm đoạt ngôi vua. Nhiếp chính quan Marcus Manlius bảo vệ được điện Capitol khỏi bị tàn phá để rồi bị xử tử vì tội phản bội. Anh thấy không?”

Ruska cười cay đắng và ngạo mạn:

“Và khi nhớ lại anh hùng Hannibal, nếu không có người, chúng ta có thể sẽ không bao giờ nghe nói đến cái tên thành Carthage, bị lưu đày vì chính Carthage, sản nghiệp của ông bị tịch thu và tòa nhà ông từng sống bị đập phá thành đất bằng. Tất cả những gì đang xảy ra bây giờ đều đã xảy ra trước đây. Họ nhốt văn hào Gnaenus Naevius vào tù để ngăn không cho ông sáng tác những vở kịch can đảm đề cao tự do của con người. Và bọn Aetolia ban hành lệnh đại ân xá giả để đánh lừa những người di cư tị nạn trở về và giết họ. Ngay cả ở La Mã thời cổ người ta đã khám phá ra sự thật, nhưng sau đó người ta lại quên đi, là việc để cho bọn nô lệ đói khổ, là việc có hại cho bọn chủ nhân nhiều hơn là có lợi. Tất cả lịch sử chỉ là một chuỗi dài những thối tha liên tục, kế tiếp nhau. Ở đó không có sự thật mà cũng không có ảo vọng. Con người không thể trông đợi vào đâu và cũng không thể đi được đến đâu hết.”

Trong làn ánh sáng xanh leo lét, chết chóc, sự rung động, hoài nghi bi quan trên làn môi của người trẻ tuổi có một vẻ thê thảm đáng kinh sợ.

Chính Nerzhin đã gieo những tư tưởng hoài nghi ấy vào óc Ruska nhưng giờ đây khi nghe Ruska nói như thế, anh lại muốn chống đối. Trong số những người bạn tù đồng tuổi. Nerzhin vẫn nổi tiếng là người chuyên môn đập phá những thần tượng, nhưng ngay lúc này anh thấy anh có trách nhiệm với người trẻ tuổi này. Vì vậy, anh ngồi nhô người sang giường của Ruska để có thể nói nhỏ mà Ruska vẫn nghe rõ.

“Ruska… Tôi cần phải nói trước để chú biết, bất cứ chú hoài nghi và bi quan đến chừng nào chú cũng phải nhìn nhận rằng mục đích chính của những người bây giờ là làm cho chúng ta mất tinh thần. Họ chỉ áp dụng lại những biện pháp đàn áp xưa vì họ thấy những biện pháp ấy vẫn còn đem kết quả như ý họ muốn lại cho họ.”

“Cho tôi xin điếu nữa” – Ruska nói – “Có lợi gì cho họ khi họ ngăn cản không cho tôi học thêm? Tôi có thể tốt nghiệp đại học và học cao hơn. Tôi có thể trở thành một khoa học gia. Tôi có thể viết ra những quyển sách dày, thật dày. Tôi có thể thực hiện những cuộc khảo cứu như… khảo cứu về hệ thống hành chính quận lỵ thời cổ ở Novogrod hoặc về trận chiến tranh giữa Caesar với dân Helvetia. Có biết bao nhiêu là nền văn hóa trên trái đất này! Bao nhiêu ngôn ngữ, bao nhiêu quốc gia! Trong mỗi quốc gia có biết bao nhiêu người thông mình, biết bao nhiêu là quyển sách hay được viết ra… Và tình yêu…”

Tiếng nói của Ruska vẫn thì thầm, vẫn khàn khàn nhưng như bay vút lên trời cao khi chàng nói đến tình yêu:

“Tình yêu. Con người phải có tình yêu. Con người phải yêu. Không yêu lịch sử hay yêu lý thuyết mà là yêu một người đàn bà.”

Chàng nắm lấy tay áo Nerzhin, giọng đau đớn thê thảm và khẩn thiết:

“Họ tước đoạt của chúng ta những quyền gì? Thực sự ta bị mất những quyền gì? Nói tôi nghe coi… quyền đi dự mít tinh, quyền mua quốc trái? Điều duy nhất mà Lão Ma Đầu có thể làm chúng ta đau đớn là điều làm cho đời sống của có thể thiếu đàn bà. Và lão đã làm điều ấy. Trong hai mươi nhăm năm trời! Thằng chó đẻ! Ai có thể tưởng tượng được…”

Chàng nắm hai bàn tay lại tự đấm lên ngực:

“… một người đàn bà có nghĩa như thế nào với một người đàn ông bị tù?”

“Coi chừng. Cứ nghĩ như vậy chú sẽ phát điên đó…”

Nerzhin cố gắng tự trấn tĩnh nhưng một làn sóng đột ngột đến làm cho tâm hồn anh quay cuồng khi anh nhớ tới Simochka, tới lời hẹn hò ngày thứ Hai sắp tới của nàng, anh nói tiếp:

“Quên ngay ý nghĩ đó đi. Nó có thể làm cho óc chú tê liệt. Mặc cảm Freud hay gì đó… Mẹ kiếp không biết bọn ở ngoài gọi nó bằng cái tên quái quỷ gì. Chuyển năng lực tinh thần của chú sang những địa hạt suy tưởng khác. Tập trung vào triết học. Chú sẽ không cần đến bánh mì, đến nước, đến đàn bà khi chú suy tưởng về triết học.”

(Nhưng thứ hai này. Chuyện rất thường của những cặp vợ chồng yêu nhau trở thành sự thèm khát bốc cháy trong trái tim một người tù.)

“Óc tôi đã tê liệt rồi. Tôi sẽ không sao ngủ được cho đến sáng. Một người đàn bà. Tất cả mọi người đàn ông đều cần có một người đàn bà. Cảm thấy nàng rung động trong tay mình. Thấy… Trời ơi… trời…”

Ruska buông rơi mẩu thuốc hãy còn cháy dở trên tấm mền và không biết và quay vội đi. Chàng nằm úp mặt xuống gối, kéo mền lên phủ kín đầu.

Nerzhin lượm được mẩu thuốc trước khi nó rơi xuống giường của Potapov bên dưới. Anh dụi mắt nó và bỏ vào bao giấy. Anh chỉ còn phải sống có một ngày, một đêm nữa là được gần Simochka. Trong khoảnh khắc anh tưởng tượng ra tất cả những chi tiết những gì sẽ xảy ra trong ngày thứ Hai. Rồi anh rùng mình gạt bỏ ý nghĩ đó ra khỏi óc. Nghĩ đến nhiều chuyện đó, anh cũng có thể phát điên. Anh ghé miệng xuống tai Ruska:

“Ruska… Chú… sao? Chú có… người… nào chưa?”

“Có. Có chứ. Tôi có…”

Ruska khổ sở trả lời trong tiếng thì thào nghẹn ngào. Chàng nằm ngửa trở lại và ôm xiết cái gối trong vòng tay. Chàng thở vào đó và hơn ấm của chiếc gối, và sức mạnh của tuổi trẻ chan chứa trong cơ thể chàng, sức mạnh bị dồn ép tới chỗ héo quắt, tàn tạ – tất cả làm cho người chàng nóng ran, sứ sống trong tấm thân thể trẻ trung nhưng bị tù đày của chàng đòi hỏi được giải thoát. Chàng nói: “Tôi có”… và chàng nồng nàn muốn tin là chàng đã có… Xong, chàng biết rõ hơn ai hết là chàng vẫn chưa có. Những gì xảy ra chưa có gì đáng kể. Chàng chưa được hôn nàng lấy một cái, chưa được nghe nàng hứa hẹn một lời. Nàng chỉ là người thiếu nữ đã ngồi nghe chàng nói chuyện suốt buổi tối hôm đó với vẻ mặt thiện cảm và thích thú khi chàng kể về đời chàng, người thiếu nữ thứ nhất mà trong ánh mắt nàng Ruska thấy rằng chàng được nhìn như một người hùng trong một chuyện phiêu lưu kỳ thú. Chưa có gì xảy ra giữa họ nhưng những gì đã xảy ra cũng đủ để chàng có quyền nói “có”.

“Nàng là ai? »

Gleb hỏi. Và mở hé tấm mền, Ruska trả lời từ trong bóng tối:

“Clara…”

“Clara? Cô con gái của lão tổng biện lý ư?”


15. Tam đầu chế gian dối

Giám đốc Sở Không Một vừa trình bày xong bản báo cáo của y với Tổng trưởng Abakumov.

Cao lớn, với mái tóc đen chải ngược về sau ót, mang trên cầu vai áo cặp lon ba ngôi sao của Tướng Ủy viên Đệ nhị hạng, Abakumov uy nghi chống hai cùi chỏ lên mặt bàn rộng. Y to con nhưng không mập bự – y biết giá trị của một hình dáng đẹp và đôi khi y chịu khó chơi quần vợt. Đôi mắt của y là mắt của một người không mắc lừa ai bao giờ, không ai có thể đánh lừa được. Đôi mắt ấy biểu lộ sự nhanh trí, khả năng ứng biến và bản tính đa nghi. Mỗi khi y thấy cần nói một câu nào đó trong lúc Viên Giám đốc Sở Không Một đang báo cáo, viên này vội vã ghi những lời đó xuống giấy.

Văn phòng của Abakumov, mặc dù không quá rộng, không phải là một văn phòng tầm thường. Trong phòng có một lò sưởi bằng đá vân được để lại từ ngày xưa, lò sưởi này bây giờ không còn được dùng tới nữa, và một tấm gương soi lớn kín cả một bức tường. Trần phòng đắp bằng thạch cao đắp hình hoa lá, có một dàn đèn lớn và những hình thiên thần, tiên nữ đuổi nhau vẽ nhiều màu.

(Abakumov giữ lại những hình vẽ này, chỉ những nét màu xám bị xóa đi, vì đó là màu mắt y chịu không nổi.) Phòng có một cửa ra ban-công, cửa này bị đóng kín trong hai mùa đông và mùa hạ, và có nhiều cửa sổ lớn nhìn xuống công trường trước Bộ nhưng quanh năm không bao giờ được mở. Trong phòng có nhiều đồng hồ: một đồng hồ thường được gọi là “đồng hồ ông nội” nằm trong vỏ gỗ quý, một chiếc đồng hồ treo tường với một hình tượng nhỏ đánh chuông giờ, trên tường còn treo một đồng hồ điện, loại đồng hồ của các nhà ga xe lửa. Những chiếc đồng hồ này chỉ không đúng giờ nhau nhưng Abakumov bao giờ cũng biết đích xác thời gian là mấy giờ vì y còn có hai chiếc đồng hồ nữa mang trên người y: một đồng hồ đeo tay vàng trên cổ tay lông lá của y, một đồng hồ quả quít nằm trong túi đừng đồng hồ trong áo y.

Những văn phòng trong tòa nhà này lớn rộng hơn tùy theo địa vị và cấp bậc của chủ nhân cuộc sống. Những bàn viết cũng lớn hơn dần dần. Bàn hội nghị trên trải thảm xanh cũng mỗi phòng một lớn hơn. Tất cả những đồ đạc trong văn phòng của Abakumov đều lớn nhất trong nhà này. Nhưng bức hình Đại-Thống-Chế được đặt trong phòng này lớn nhất, rực rỡ nhất và nổi bật hơn tất cả. Ngay cả trong những phòng thẩm vấn tầm thường nhất cũng có treo những tấm hình Lãnh tụ lớn hơn người thật, nhưng trong văn phòng của Abakumov, bức hình vẽ này trở thành vĩ đại. Vị Chiếc Lược Gia Tài Ba Vô Song của Muôn Đời và Muôn Dân Tộc được vẽ trong một bức tranh cao mười thước, toàn thân, từ đôi giày ủng tới chiếc mũ Thống Chế lưỡi trai, trên ngực áo rực rỡ tất cả những huy chương và biểu chương. (Thực ra, trong đời sống thực, Stalin chưa từng bao giờ mang những huy chương này trên ngực, một số những huy chương này là do Stalin tự phong, số còn lại do những Sứ thần và Tổng thống các quốc gia khác trao tặng.) Chỉ có những huy chương của Yugoslav là không thấy vẽ lên tranh mà thôi.

Tuy vậy, như để xác nhận rằng ngay cả bức tranh vẽ vĩ đại ấy đứng trong phòng cần phải có hình ảnh Người Bạn Thân Nhất của Chuyên-Viên-Phản-Gián-Điệp ở luôn luôn trước mặt để gợi hứng, y đặt một bức hình chân dung nữa của Stalin trên bàn viết của y.

Trên một bức tường khác trong phòng treo một bức hình Beria khá lớn. Beria là thượng cấp trực tiếp của Abakumov.

Sau khi Viên Giám đốc Sở Không Một ra khỏi phòng, có ba người đến trước cửa vào văn phòng Abakumov. Ba người đó là: Ủy viên Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov, Thiếu tướng Oskolupov, Giám đốc Sở Kỹ thuật Đặc biệt và Đại tá Kỹ sư Yakonov, Giám đốc Viện Nghiên cứu Khoa học Mavrino.

Để biểu lộ lòng tôn kính vị chủ nhân văn phòng này, ba người vào đi theo hàng một, theo cấp bậc. Họ bước theo nhau trên tấm thảm dày, gần như nối gót vào nhau và chỉ có tiếng giày của Sevastyanov là thấp thoáng vang nhẹ.

Là một ông già bận bộ y phục mà xám, mái tóc cắt ngắn lẫn nhiều sợi bạc, Sevastyanov là ủy viên duy nhất trong số mười ủy viên của Bộ An ninh là thường dân. Trách nhiệm của Sevastyanov ở đây không phải là việc điều tra hoặc hành chánh. Y giữ về liên lạc và kỹ thuật. Vì vậy y ít khi phải chịu đựng những cơn thịnh nộ lôi đình của Tổng trưởng trong những phiên họp kiểm điểm công tác hoặc trong những buổi trình diện nhận chỉ thị, có thể nói Sevastyanov là người thần kinh ít bị căng thẳng nhất Bộ An ninh mỗi khi phải đặt chân vào văn phòng này. Y ngồi ngay xuống chiếc ghế bọc da dày và êm đặt trước bàn.

Sau khi Ủy viên Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov ngồi xuống, Oskolupov trở thành người dẫn đầu. Yakanov đứng sát ngay sau lưng Oskolupov như để giấu đi thân hình vạm vỡ của y.

Abakumov nhìn thẳng vào mặt Oskolupov – người mà y chỉ mới gặp có chừng ba lần từ trước đến giờ – và y thấy trong con người của Oskolupov có một vẻ gì đó làm y có cảm tình. Oskolupov cũng có khuynh hướng trở thành to lớn về thân xác. Cổ y phình ra trên cổ áo và lúc này y cố ý ngửa mặt để cho cái cằm đôi của y khỏi xệ xuống. Bộ mặt nhẵn và trơ như gỗ của Oskolupov là bộ mặt của một người đàn ông chất phác, đơn sơ chỉ biết hành động, không phải là bộ mặt thâm trầm, khinh khỉnh của kẻ tự cho mình là trí thức.

Chiếu cặp mắt qua vai Oskolupov để nhìn Yakanov, Abakumov hỏi đột ngột và buông thõng:

“Anh là ai?”

“Thưa… tôi ạ.”

Oskolupov cúi mình về phía bàn, hoảng loạn và khổ sở khi thấy đồng chí Tổng trưởng không nhận ra mình là ai.

“Thưa… tôi ạ.”

Yakanov cũng nhô người về đằng trước, nhưng y chỉ nhô một chút thôi để ngực y khỏi chạm vào lưng Oskolupov, vì y vẫn đứng sát sau lưng Oskolupov. Lúc này y đang cố gắng giữ cho cái bu nguyện phệ của y khỏi phình ra nhưng y bối rối nhận thấy bụng y mỗi lúc một nở lớn bất chấp những cố gắng kềm giữ của y. Trong đôi mắt mở lớn của Yakanov không có qua một ý nghĩa nào được hiển lộ.

“Anh và anh…“

Ngón tay trỏ to tướng của Abakumov đưa ra điểm hai cái vào không khí:

"Hai anh phụ trách dự án Mavrino phải không? Ngồi xuống."

Hai người còn đứng trước bàn líu ríu ngồi xuống.

Tổng trưởng Abakumov đưa cây rọc giấy làm bằng plastic màu hồng ngọc lên gãi nhẹ sau tai và nói:

"Sao? Các anh đã đùa giỡn với tôi bao nhiêu lâu rồi? Hai năm? Theo chương trình, các anh chỉ có mười lăm tháng để hoàn thành công tác. Bao giờ có máy điện thoại?"

Và y tiếp bằng một giọng đe dọa.

"Đừng nói dối. Tôi không thích nghe nói dối."

Đây chính là câu hỏi mà ba viên chức cao cấp ngành dối trá đã chuẩn bị để trả lời ngay từ khi họ được biết là họ được gọi tới cùng một lúc để hỏi. Theo sự xếp đặt trước, Oskolupov là người đầu tiên lên tiếng nói. Y nói với đôi bờ vai vuông đẩy đẩy ra đằng trước như chính đôi vai vuông ấy đẩy tiếng nói ra khỏi miệng Y:

“Thưa đồng chí Tổng trưởng… Thưa đồng chí Đại tướng… Xin đồng chí cho tôi được trình bày trước hết rằng toàn thể nhân viên đều phục vụ với một tinh thần…”

Bộ mặt Abakumov để lộ vẻ ngạc nhiên:

“Anh tưởng anh đang ngồi ở đâu đây? Đây đâu phải là hội nghị. Tôi cần tinh thần của anh để làm cái gì? Để xuống đít ngồi lên ư? Tôi hỏi anh: Bao giờ? Ngày nào?”

Bây giờ, cũng theo như xếp trước, đến lượt Yakanov. Lối nói và nhất là giọng nói trầm, nhỏ của y cho người nghe hiểu rằng y nói với tư cách là chuyên viên kỹ thuật chứ không phải là một nhân viên điều hành:

“Kính thưa đồng chí Tổng trưởng… trong một hệ thống siêu tần cao tới 2.400 chu kỳ cho ta một cường độ truyền thanh ở mức zéro điểm chín…”

“Chu kỳ, chu kỳ…! Zéro điểm chu kỳ… Zéro … Các anh sản xuất ra… Zéro… Siêu tần… zéro… Mẹ kiếp… Tôi muốn có máy điện thoại. Hai giàn máy. Bao giờ tôi có? Hả?”

Bây giờ đến lượt Sevastyanov lên tiếng. Y nói chậm và nhỏ, vừa nói vừa lùa những ngón tay vào mái tóc thưa và xám:

“Xin cho chúng tôi biết đồng chí nghĩ như thế nào? Về máy điện thoại, chúng tôi đang chế tạo máy thâu phát ám hiệu…”

Abakumov trừng mắt:

“Đồng chí coi tôi là một thằng ngu hay sao? Máy thâu phát ám hiệu là cái quỷ gì? Tôi cần gì biết đến chuyện các người đang làm gì hay mấy người ăn không.”

Mười lăm năm trước đây, khi không một ai trong cõi đời này, kể cả Abakumov, lại nghĩ rằng có ngày y trở thành Tổng trưởng, khi y còn là một tống thư văn của Sở Mật vụ – thời đó Abakumov là một gã trai khoẻ mạnh, rắn rỏi, có cặp chân dài và đôi tay dài – bốn năm trời học ở bậc tiểu học đã cung cấp cho y có được số vốn học vấn đủ dùng. Từ đó y “tự tiến bộ” hoàn toàn nhờ ở những đòn Jiujitsu và trường huấn luyện chuyên môn của y là phòng tập võ của Hội quán Thể thao Dynamo.

Thế rồi, trong những năm ngành mật vụ phát triển và nhân viên mật vụ được thay mới, tăng thêm người ta thấy rằng Abakumov là một chuyên viên thẩm vấn có biệt tài và làm việc thật hữu hiệu, đôi tay dài và cứng của y là những lợi khí khi cần phải tra tấn người khác. Sự nghiệp lớn của y bắt đầu thành hình. Sau bảy năm hành nghề tra tấn người, Abakumov trở thành Chánh sở Phản gián SMERSH và bây giờ, y trở thành Tổng trưởng. Không một lần nào trong cuộc trèo dài dằng dặc ấy y cảm thấy y thiếu thốn về học vấn. Ngay cả bây giờ ngồi ở chức vụ cao nhất cái Bộ quan trọng nhất này, những thuộc cấp của y cũng không một người nào có thể lừa được y hay ngầm coi thường y.

Và khi nghe Sevastyanov nói ra câu trên đó, cơn giận của Abakumov nổ ra. Y giơ nắm tay lớn như cái búa sắt lên định nện xuống mặt bàn. Cánh cửa phòng bỗng mở ra và một gã đàn ông thấp nhỏ với đôi má trắng hồng bước vào phòng không cần gõ cửa. Gã này là Mikhail Dmitriyevich Ryumin. Nhân viên cả Bộ gọi gã là “Minka” – Nhưng ít có người dám gọi gã bằng cái tên này trước mặt gã.

Gã lướt đi nhanh và êm như một con mèo. Khi đến gần bàn, gã bao bọc cả ba người ngồi đó trong một tia nhìn. Gã bắt tay Sevastyanov và Sevastyanov nhổm người dậy, rồi gã đi tới đứng ở đầu bàn, cúi người xuống gần Abakumov, gã nói với vẻ mặt suy nghĩ:

“Victor Semyonovich… ông nên nghe tôi. Nếu chúng ta phải phụ trách vụ này, chi bằng giao hết cho Sevastyanov. Tại sao mình lại để cho họ ăn không nhỉ? Họ có thể nhận ra được tiếng một người ghi trên băng nhựa hay không? Nếu không, tống cổ họ ra hết…”

Trong khi miệng nói những câu đó, gã vẫn cười ngọt ngào như khi gã mời một cô bé ăn kẹo sô-cô-la. Gã nhìn ba kẻ có thể là nạn nhân của lời gã ngồi đó bằng đôi mắt vuốt ve, trìu mến.

Trong nhiều năm trời Ryumin sống hoàn toàn là một gã vô danh không được ai biết đến. Gã từng giữ chân ủy viên kích thước của Hợp tác xã Tiêu thụ Tỉnh Archangel. Má hồng và trắng trẻo, gần như mũm mĩm, với đôi môi mỏng luôn luôn mím chặt, hờn giận, gã hành hạ tận tình những nhân viên dưới quyền gã bằng những câu nói đểu giả, tàn nhẫn nhất mà gã có thể nghĩ ra được, trong lúc đó gã chia phần bớt xén, biển thủ với bọn chuyên chở, thảo luận chính trị với những bác tài xế xe hơi, tỏ ra khinh mạn những người đánh xe ngựa lạc hậu và đặt những bản thống kê thành tích toàn hảo lên bàn ông Chủ tịch Hợp tác xã đúng lúc cần đến.

Chiến tranh xảy ra, Ryumin được thâu nhận vào Hải quan và ở đây, người ta làm cho gã trở thành chuyên viên thẩm vấn của Sở An ninh Đặc vụ. Gã thích thú việc làm này và chẳng bao lâu gã thành công trong việc dựng đứng lên cả một vụ gián điệp vu cáo cho một phóng viên nhật báo hoàn toàn vô tội được phái đi viết phóng sự về Hạm đội Miền Bắc. Nhưng đây là vụ vu cáo đầu tiên trong đời gã, gã thực hiện nó lộ liễu và trắng trợn quá đến nổi Văn phòng Tổng Biện lý – vì không dính líu tới việc làm của ngành mật vụ – yêu cầu Văn phòng Tổng trưởng Abakumov điều tra vụ này. Chú chuyên viên thẩm vấn bé nhỏ của Ban SMERSH trên Hạm đội miền Bắc bị gọi về Tổng Bộ để chịu khiển trách. Gã sợ hãi bước vào văn phòng Abakumov để nhận lãnh những gì ghê gớm chờ đợi gã ở đó. Cánh cửa đóng lại. Khi cánh cửa mở ra cách đó một tiếng đồng hồ, Ryumin từ bên trong bước ra với vẻ mặt quan trọng – y vừa được Tổng trưởng cử giữ chức chuyên viên tình hình chính thức của SMERSH Trung ương, chuyên phụ trách thẩm vấn những vụ tối quan trọng. Kể từ ngày đó, ngôi sao của gã sáng đều và lên đều.

“Tôi sẽ lo cho họ, Mikhail Dmitriyevich Ryumin. Ông tin đi. Tôi sẽ đặc biệt lo chọ họ. Thân nhân họ sẽ không còn nhận ra họ được nữa…”

Abakumov gằn giọng nói, mắt y nhìn trừng trừng đe dọa ba gã đàn ông ngồi rúm ró trước mặt y.

Cả ba gã này đều cúi mặt xuống như những kẻ phạm tội.

“Tôi sẽ đưa cho họ những băng nhựa thâu tiếng nói. Họ có thể nghe lại và so sánh, tìm ra…”

Ryumin nói và Abakumov hỏi vội:

“Ồ… bắt được ai chưa?”

“Rồi. Nhất định là phải rồi chứ” – Ryumin trả lời với nụ cười ngọt – “Chúng tôi bắt được bốn tên tình nghi ở gần ga xe điện ngầm Arbat.”

Nhưng bộ mặt tươi tỉnh của Ryumin thoáng trầm xuống. Gã biết rõ hơn ai hết là những kẻ bị bắt đó đã bị bắt quá muộn, họ đều là những người bị nghi oan và bắt oan. Tuy nhiên, một khi đã bị bắt, dù có tội hay không những kẻ đó sẽ không bao giờ, mãi mãi không bao giờ còn được thả ra nữa. Họ sẽ bị giữ mãi và khi cần đến, họ sẽ phải nhận tội chỉ vì chấp nhận tình trạng có vụ án không tìm ra manh mối.

Giọng nói của Ryumin vừa có những âm thanh bất mãn vừa đề nghị:

“Tôi có thể ghi tiếng nói của một nửa tổng số nhân viên Bộ Ngoại giao lên bằng nhựa nếu ông Tổng trưởng muốn. Xong tôi nghĩ việc đó không cần thiết. Chỉ có sáu hoặc bảy người ở đó khả nghi mà thôi – họ là những người duy nhất được biết vụ đó.”

Abakumov giận dữ:

“Sao không bắt hết lũ chó ấy đi? Còn chờ gì nữa? Bảy người, Liên bang mình vĩ đại lắm, mất đi bảy tên đâu có ăn thua gì.”

“Ông không thể bắt họ như thế được” – Ryumin phản đối. “Đó là một Tổng Bộ trong chính phủ, đó không phải là một xưởng máy chế tạo thực phẩm và làm thế, chúng ta sẽ mất hết dấu vết. Trong vụ này, chúng ta cần phải tìm đúng kẻ có tội là ai. Và phải tìm ra cho mau.”

“Hừm…”

Abakumov suy nghĩ và nói lớn lên ý nghĩ:

“So sánh băng ghi âm này với băng ghi âm kia, tìm xem hai tiếng nào cùng của một người nói. Hay đấy. Sẽ có ngày mình phải nắm vững được kỹ thuật này. Sevastyanov, ông làm nổi việc này không?”

“Thưa… tôi vẫn chưa hiểu gì cả…”

“Có gì rắc rối đâu mà không hiểu. Không có gì hết. Có một thằng chó đẻ, một thằng khốn nạn nào đó – chắc chắn phải là một nhà ngoại giao nếu không hắn không sao có thể biết được chuyện này, gọi điện thoại đến cho một lão giáo sư. Tên lão giáo sư ấy là gì nhỉ?”

“Dobroumov…” Ryumin nhắc.

“Ừ, Dobroumov. Một lão bác sĩ. Nói vắn tắt là lão bác sĩ ấy vừa mới xuất ngoại sang Pháp trở về, trong khi ở trên đất Pháp lão có hứa sẽ gửi cho bọn bác sĩ Pháp một thứ thuốc mới do lão sáng chế – lão ôn dịch gọi đó là trò trao đổi kinh nghiệm và kiến thức y học. Nhưng lão quên rằng tổ quốc lão phải được hưởng ưu tiên thứ thuốc sáng chế đó. Chúng tôi muốn cho lão gửi đi số thuốc đó để bắt lão quả tang. Vụ án của lão sẽ là một vụ án chính trị lớn làm gương cho bọn khoa học gia hèn hạ nịnh bợ ngoại quốc. Nhưng có một thằng chó đẻ nào đó biết chuyện này và đã gọi điện thoại đến cho lão bác sĩ, bảo lão đừng gửi thuốc cho. Chúng ta vẫn sẽ bắt lão bác sĩ và lão phải nhận tội như thường, nhưng vụ này như vậy là đã mất một nửa giá trị. Sao? Các người nghĩ sao? Nếu các người tìm được ra tên này, các người sẽ nổi tiếng ghê gớm.”

Sevastyanov nhìn qua mặt Oskolupov sang Yakanov. Yakanov để mắt y chạm vào tia nhìn của Sevastyanov và lông mày của y hơi nhếch lên. Với cái nhếch lông mày này Yakanov muốn nói rằng việc tìm tiếng người nói điện thoại được ghi lên băng nhựa là một nghệ thuật mới lạ cần có một thời gian dài để nghiên cứu, tìm hiểu, thí nghiệm, và hiện lúc này Viện Mavrino còn đang chết dở vì công tác chế tạo máy điện thoại đặc biệt, không nên nhận thêm công tác mới. Sevastyanov cũng thông minh để hiểu ý nghĩ cái nhếch lông mày của Yakanov và tình thế khó khăn y chuẩn bị để trả lời lửng lơ câu hỏi của Abakumov.

Nhưng Foma Guryanovich Oskolupov lại có những ý nghĩ riêng về việc làm của y. Y không muốn y chỉ là anh giám đốc bù nhìn. Ngay từ khi y được tin y được cử làm Giám đốc, y đã tin chắc ở tài năng của y, ở giá trị cá nhân của riêng y và nghĩ rằng y làm chủ tất cả mọi vấn đề và có thừa khả năng giải quyết những vấn đề rắc rối nhất khéo léo hơn tất cả mọi người khác. Nếu không thế, người ta đã chẳng đề cử y. Tuy ngày xưa, y chưa học được đủ bảy năm ở nhà trường, nhưng bấy giờ không bao giờ y chịu rằng những thuộc cấp của y lại có thể hiểu biết về những việc làm hơn y. Họ có thể biết rõ hơn y về một phần nào đó của vấn đề, về chi tiết của bộ máy, về một đồ hình, nhưng họ không thể biết hơn y về đại thể. Cách đây không lâu, y từng có dịp đến nghỉ mát ở một khu nghỉ mát hạng nhất dành riêng cho những viên chức cao cấp và những khoa học gia làm việc với chính phủ. Ở đây y tự giới thiệu với mọi người y là một giáo sư điện tử. Y gặp ở đây một văn sĩ nổi tiếng và nhà văn này không sao có thể rời mắt nhìn Foma Guryanovich, nhà văn quan sát y và ghi những điều nhận xét vào cuốn sổ tay. Nhà văn cho y biết là ông sẽ diễn tả hình dáng của một nhà khoa học thời đại này theo hình dáng của Foma Guryanovich. Từ đó, Foma biết chắc rằng y là một nhà khoa học chính cống.

Đột ngột, Foma Guryanovich nhảy vào cuộc đối thoại:

“Thưa đồng chí Tổng trưởng… chúng tôi có thể làm được.” Sevastyanov nhìn y ngạc nhiên:

“Làm ở đâu? Ở phòng thí nghiệm nào?”

“Ở phòng thí nghiệm Âm Thính của Viện Mavrino. Ở đó chúng ta đang nghiên cứu về điện thoại. Họ cũng gọi điện thoại cho nhau mà.”

“Nhưng Mavrino đang bận thực hiện dự án khác quan trọng hơn…”

Oskolupov quả quyết:

“Không sao. Chúng ta sẽ tìm được người. Chúng ta có những ba trăm người ở Mavrino kia mà. Ta có dư người để phụ trách thêm vụ này.”

Và y nhìn ông Tổng trưởng của y với vẻ mặt của kẻ sẵn sàng thi hành mệnh lệnh.

Tuy Abakumov không hề mỉm cười nhưng một lần nữa trên mặt y hiện ra vẻ hài lòng, một lần nữa y thấy có cảm tình với Oskolupov. Thái độ này cũng từng là thái độ của y trong thời gian y hãy còn trẻ và đang xây dựng sự nghiệp – nghĩa là hăng hái, sẵn sàng làm tất cả mọi việc cấp trên muốn, giết bất cứ ai nếu cần. Một người trẻ hơn mình mà giống mình bao giờ cũng làm cho mình có cảm tình.

“Được lắm. Khá lắm” – Abakumov nói. “Đó là thái độ đúng: quyền lợi của quốc gia trên hết, những cái khác dẹp lại sau. Đúng không?”

“Thưa đúng. Đồng chí Tổng trưởng nói rất đúng.”

Ryumin không tỏ vẻ gì là ngạc nhiên, gã cũng không có vẻ nể nang hay chú ý đến Oskolupov hơn trước. Mặc dù Oskolupov là người nhận làm công tác này và Sevastyanov có vẻ muốn từ chối, Ryumin vẫn nói với Sevastyanov:

“Sáng mai sẽ có tin mới cho ông.”

Gã liếc nhìn Abakumov rồi lặng lẽ ra khỏi phòng.

Vị Tổng trưởng đưa món tay vào miệng cạy một miếng thịt dắt ở chân răng từ bữa ăn tối:

“Bây giờ trở lại vụ máy điện thoại. Bao giờ đây? Các anh đã lẩn trốn tôi quá nhiều. Không biết bao nhiêu lần khất – mùng một tháng tám, rồi ngày nghỉ tháng chín, rồi ngày đầu năm. Sao?”

Y chiếu cặp mắt của Yakanov, bắt buộc Yakanov phải trả lời.

Yakanov có vẻ như đang khó chịu dữ dội vì cần cổ của y. Y nhích cổ sang bên trái, rồi nhích cổ sang bên phải, đôi mắt xanh của y nhìn vào mắt Abakumov trong vài giây rồi nhìn xuống.

Yakanov biết y là người có tài. Yakanov biết rằng nhiều kẻ khác còn có nhiều tài hơn y đang tập trung hết tư tưởng và tài năng để làm việc mỗi ngày mười bốn tiếng đồng hồ không hề có một ngày nghỉ từ hơn một năm trời nay để chế tạo ra dàn máy điện thoại mà Abakumov đang đòi hỏi. Và còn có không biết bao nhiêu là nhà khoa học ngoại quốc sống rải rác khắp nơi trên mặt đất này, những người công bố những phát minh của họ với đầy đủ chi tiết trên những tờ đặc san chuyên khoa, cũng đang tìm cách chế tạo dàn máy đó. Yakanov cũng biết rõ về cả ngàn những khó khăn đã được vượt qua nhưng đó cũng mới chỉ là bước đầu. Giữa cả chục ngàn những khó khăn đang phải đối phó, giải quyết, nhưng kỹ sư làm việc dưới quyền điều khiển của y ở Mavrino như người người đang bơi qua biển. Chỉ còn sáu ngày nữa là đến hạn chót, hạn chót của tất cả những hạn chót mà y đã năn nỉ, đã xin được ở đống thịt bận bộ quân phục kia. Y đã bị kẹt cứng vì một chỗi những hạn kỳ ngu xuẩn bởi vì bị Lãnh tụ Anh minh, Người Hướng dẫn Khoa học của Thế giới Cộng sản đã ngay từ đầu, đặt thời hạn một năm cho một công việc cần đến mười năm để thực hiện.

Hồi nãy khi gặp nhau trong văn phòng của Sevastyanov, họ đã đồng ý xin hoãn lại mười ngày. Họ hứa sẽ giao hai giàn máy điện thoại đặc biệt vào ngày mười tháng giêng, Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov quyết định như thế. Oskolupov cũng muốn như thế. Họ tính toán rằng từ nay đến đó họ sẽ có thể làm xong được hai giàn máy điện thoại, tuy chưa hoàn hảo, ngh cũng đã có hình thể, cũng có thể kể là một phát minh mới. Họ sẽ xin thí nghiệm thêm cho thật hoàn hảo trước khi đưa máy được trước mặt Lãnh tụ. Trong thời gian ấy, việc nghiên cứu ở Mavrino vẫn tiếp tục và rồi họ sẽ viện ra những khó khăn mới để xin triển hạn. Nhưng Yakanov cũng lại biết rằng những vật vô tri, nhất là những máy móc, không hề biết đến những hạn kỳ, những mệnh lệnh, và tới ngày mười tháng giêng, hai giàn máy điện thoại được y đệ trình sẽ không truyền đi tiếng người, chúng sẽ chỉ truyền đi những tiếng động chói tai và những gì đã xảy đến với Mamurin nhất định sẽ lại xảy đến với Yakanov. Lãnh tụ sẽ gọi Beria và nói: “Thằng khùng nào làm ra cái máy này đây? Tống cổ nó đi…”. Và Yakanov sẽ trở thành một Người Mặt Sắt nếu y còn may mắn, rất có thể y sẽ chỉ là một tù nhân thường.

Dưới mắt nhìn của Abakumov, với cảm giác nút thòng lọng đang thắt chặt dần cổ, Yakanov vượt lên được cơn sợ hãi khốn khổ, khốn nạn của y và cũng tự nhiên như khi y hít thở khí trời vào phổi, y thốt lên:

“Xin cho thêm một tháng nữa. Thêm một tháng nữa. Tới mùng một tháng hai.”

Y nhìn Abakumov bằng đôi mắt van xin của một con chó.

Những người có tài ở cõi đời này thường tỏ ra tàn nhẫn và bất công với những người có tài khác. Thực ra, Abakumov tinh khôn hơn là Yakanov tưởng nhiều nhưng sau một thời gian dài không dùng đến, trí óc đã trở thành một cái gì vô-giá-trị với Abakumov. Trong suốt sự nghiệp của y, Abakumov đã thua, đã thất bại mỗi lần y suy nghĩ và làm theo ý của y, đã thắng khi y làm theo lòng trung thành và theo lệnh. Vì vậy Abakumov chỉ làm bận đến trí óc y càng ít chừng nào càng tốt.

Y có thể hiểu rằng sáu ngày hay một tháng không có nghĩa lý gì hết so với hai năm trời đã qua. Nói cách khác, nếu trong hai năm trời mà không làm xong thì cho thêm một tháng nữa cũng vô ích. Nhưng trước mắt y, bộ tam-đầu-chế dối trá này là những kẻ có lỗi – Sevastyanov, Oskolupov, Yakanov là ba tên có lỗi và phải chịu lỗi. Nếu công tác khó khăn như thế, tại sao khi chúng nhận việc trước đây hai mươi ba tháng, chúng lại nhận hạn kỳ một năm? Tại sao chúng không đòi ba năm? (Bây giờ y đã quên rằng chính ý đã ra hạn một năm và ép buộc ba người kia phải nhận.) Nếu chúng nhất định không chịu nhận hạn kỳ một năm thì y cũng đã không chịu hạn kỳ một năm với Stalin, y đã đòi cho bằng được hạn kỳ hai năm để rồi kéo dài ra thành ba năm.

Nhưng y quên rằng chính y, y cũng không dám nói gì hết về những hạn kỳ do Stalin đưa ra. Nỗi sợ hãi tiêm nhiểm vào óc họ quá nhiều trong quá nhiều năm quen vâng lệnh như những tên nô lệ nên không một ai trong bọn họ, trước kia cũng như bây giờ, dám có can đảm chống lại can đảm ý muốn của cấp trên.

Abakumov cũng đã lo xa để dành riêng cho y được vài tháng. Y hứa với Stalin là máy điện thoại đặc biệt sẽ được trình vào ngày một tháng ba. Vì vậy, y có thể cho bọn này thêm một tháng và y cũng vẫn còn một thán để xoay trở.

Cầm cây viết máy lên, Abakumov hỏi:

“Anh nói một tháng là thế nào? Một tháng đúng hay anh lại nói láo lần nữa?”

“Một tháng. Một tháng đúng…”

Người nói câu này là Oskolupov. Mặt y tươi lên khi thấy cấp trên chấp thuận. Y có vẻ hăm hở như người ra khỏi đây là lập tức đi thẳng tới Mavrino ngồi vào bàn làm việc.

Với một cái ngoáy bút, Abakumov viết lên tập lịch để bàn:

“Rồi. Cho các người đến ngày 21 tháng giêng, ngày Kỷ niệm Lênin qua đời. Đúng ngày đó các người sẽ được lãnh giải Stalin. Sevastyanov… ngày đó có máy không?”

“Dạ… có.”

“Oskolupov … Có không? Đến ngày đó mà không có, tôi lấy đầu anh thế cho máy ạ…”

“Dạ… có. Thưa Đồng chí Tổng trưởng… tất cả những gì cần làm chỉ là…”

“Còn anh? Anh có biết những gì sẽ xảy đến với anh nếu anh hứa láo không? Đến ngày 21 tháng Giêng có máy không?”

Thâu hết can đảm, Yakanov nằn nì:

“Xin cho một tháng. Ngày mùng một tháng hai…”

“Nếu đến ngày mùng một tháng hai vẫn không có máy thì sao? Cẩn thận. Nói phải đúng. Tôi biết anh đang nói dối…”

Tất nhiên là Yakanov đang nói dối. Đáng lý ra y phải xin thêm hai tháng nữa, nhưng đã lỡ rồi, y đành hứa bằng một giọng âu sầu:

“Thưa… có.”

“Được rồi. Nhưng các người nhớ nghe… Tôi không có bắt các người phải hứa với tôi như thế. Tôi có thể tha thứ được hết trừ những kẻ nào lừa dối tôi. Cho các người đi.”

Ba kẻ thoát nạn líu ríu đi ra. Họ cũng đi theo hàng một, kẻ nọ nối gót kẻ kia, mắt họ nhìn xuống trước bức tranh Stalin cao kín bức tường.

Nhưng họ đã mừng quá sớm. Họ không biết rằng vị Tổng trưởng của họ đã giương một cái bẫy cho họ chui vào.

Ba người này vừa ra khỏi phòng được vài phút thì một người khác được đưa tới văn phòng. Tên người này được báo trước với Abakumov:

“Kỹ sư Pryanchikov.”



[1]Ilya Ehrenburg, văn sĩ Nga, tác giả những quyển tiểu thuyết Cơn bão, Cuộc sa đọa (La Tempete, La Chute) viết về đời sống của dân Nga và dân Đức trong Thế chiến thứ hai, được giải Văn chương Stalin.
[2]Auschwitz, tên một lò sát sinh do Đức Quốc xã lập lên để giết người Do Thái. Lò nằm trên đất Đức. Trong đó có lò hơi ngạt kiêm lò đốt xác người. Nạn nhân bị lùa vào phòng cả ngàn người cùng một lúc, bị xì hơi ngạt cho chết rồi xịt lửa đốt ra tro than ngay trong đó.
[3]Theodor Mommsen, sử gia người Đức, sinh năm 1817, mất năm 1903, tác giả nhiều bộ sử về văn minh cổ Hy Lạp và La Mã.



====

No comments: