Monday, November 17, 2008

TẦNG ĐẦU ĐỊA NGỤC V

====

Aleksandr I. Solzhenitsyn
Tầng đầu địa ngục
Hải Triều dịch
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

31. Cuộc gặp

Tuy trong lúc ngồi chờ, Nadya khóc ròng, nhưng khi đến lượt nàng được vào gặp chồng, lòng nàng vui như mở hội.

Khi nàng hiện ra giữa khung cửa, Nerzhin đứng lên đón nàng và môi chàng mỉm cười. Nụ cười chỉ ở trên môi chàng khoảnh khắc nhưng Nadya cảm thấy tình yêu và hạnh phúc dào dạt trong tim nàng. Chồng nàng vẫn gần nàng như ngày xưa. Với nàng, chàng không thay đổi.

Người đàn ông thứ hai trong phòng có cái cổ bự như cổ trâu, bận bộ quần áo xám, trông như một tay găng-tơ về già giải nghệ, đi tới đứng ở đầu chiếc bàn nhỏ, nơi hai vợ chồng sẽ ngồi nói chuyện. Cái bàn và sự có mặt của gã này trong căn phòng nhỏ ngăn không cho họ chạm tay vào người nhau.

Nerzhin bực dọc nói:

"Thôi mà… Để cho tôi cầm tay vợ tôi chứ…"

"Trái luật…"

Gã an ninh nói. Gã chỉ hé quai hàm nặng của gã đủ để hai tiếng đó lọt ra ngoài miệng.

Nadya nở nụ cười vô hồn và ra hiệu cho chồng đừng cãi cọ. Nàng ngồi xuống chiếc ghế có tay dựa trước bàn. Mặt da bọc nệm ghế đã rách. Nhiều thế hệ thẩm vấn viên đã ngồi trong chiếc ghế này và đã cho nhiều trăm người đi xuống mồ để rồi sau đó không lâu, chúng cũng đi theo những nạn nhân của chúng.

"Chúc mình một ngày sinh nhật thật vui…"

Nadya cố lấy giọng vui và vẻ mặt vui.

"Cám ơn em".

"Thật là tình cờ, vợ chồng mình được gặp nhau đúng vào hôm nay".

"Nhờ tinh tú dàn xếp…"

Hai vợ chồng đã bắt đầu quen nói chuyện với nhau.

Nadya cố gắng không để ý gì đến sự có mặt nặng nề của gã an ninh canh chừng vợ chồng nàng. Nerzhin cố gắng ngồi nghiêng để khỏi nhìn thấy mặt gã.

Chiếc bàn nhỏ từng đứng trước mặt nhiều thế hệ tù nhân bị thẩm vấn giờ đây chia cách đôi vợ chồng.

"Em có đem tới cho anh cái bánh ngọt. Bánh như má em vẫn làm cho anh ăn ngày xưa. Em rất tiếc – em chẳng có gì khác…"

"Em kỳ quá. Em không cần phải mang đến cho anh cái gì hết. Anh đã có đủ".

"Nhưng chắc là không có bánh ngọt loại này. Anh bảo em đừng mang sách đến nên em không mang. Anh vẫn đọc tập thơ Yesenin chứ?"

Nét mặt Nerzhin trầm xuống. Trước đây hơn một tháng có một tên chỉ điểm nào đó trong số tù nhân đã báo cáo với Shikin về việc chàng có tập thơ đó và Shikin đã đến tịch thu tập thơ, viện lẽ việc tù nhân đọc thơ là vi phạm luật cấm.

"Có. Anh vẫn đọc".

Chỉ được gặp nhau trong ba mươi phút, làm sao họ có thể nói với nhau vào chi tiết của từng chuyện?

Mặc dù không khí trong phòng không nóng, trái lại, còn lạnh giá, Nadya cũng mở nút áo cổ ngoài, nàng muốn cho chồng nàng nhìn thấy chiếc áo mới bên trong của nàng. Nàng hy vọng ánh hồng của màu áo sẽ làm hồng khuôn mặt của nàng. Nàng sợ chồng nàng thấy nàng quá gầy.

Với một cái nhìn bao bọc, Nerzhin ghi toàn thể hình ảnh của vợ vào tâm khảm – khuôn mặt nàng, cổ nàng, một chút làn da trắng trên ngực nàng. Dưới cái nhìn ấy, Nadya xúc động cả hồn lẫn xác – đây là sự kiện quan trọng nhất trong cuộc gặp – và toàn thân nàng như dâng lên để ôm ghì lấy chàng.

"Em có cái áo mới. Mở thêm áo ngoài cho anh ngắm".

"Còn áo ngoài của em?" Mặt nàng thoáng hiện nét thất vọng.

"Áo ngoài của em làm sao?"

"Áo ngoài của em cũng mới".

"Ồ, áo ngoài của em cũng mới…"

Gleb nhìn kỹ mặt vải caracul. Chàng nhìn nhưng không thể biết đó là vải tơ thiên nhiên hay nhân tạo, chàng là người đàn ông cuối cùng trên trái đất này có thể phân biệt được một chiếc áo giá năm trăm ruble với chiếc áo giá năm ngàn ruble.

Nadya cởi hẳn chiếc áo ngoài vắt lên thành ghế và Gleb nhìn thấy nàng, cần cổ thanh như cổ của một thiếu nữ – từ ngày chàng gặp nàng, lúc nào cổ nàng cũng thanh, cũng đẹp và trẻ như thế – và bờ vai thon chàng từng muốn làm cho vỡ ra khi chàng hôn nàng, và dưới làn vải áo, đôi gò ngực đã mềm đi vì năm tháng.

Ý nghĩ oán trách về việc nàng có áo mới, nàng quen biết nhiều người mới… chỉ thoáng hiện trong óc Gleb, ngay sau đó chàng nghĩ rằng nàng cũng đau khổ nhiều dù nàng không bị tù, đời nàng cũng bị tan nát, và chàng nói, giọng âu yếm:

"Em gầy quá. Em nên ăn nhiều. Em có điều kiện ăn uống khá hơn không?"

Trông em có còn được không? Ánh mắt nàng hỏi.

Em vẫn tuyệt vời như ngày nào. Ánh mắt chồng nàng đáp.

Mặc dù những lời trên đây không bị ông Trung tá An ninh cấm, họ cũng không thể nói với nhau được trước mặt một người khác.

"Em ăn được. Em vẫn ăn uống đều" – Nadya nói dối – "Chỉ vì em bận nhiều, phiền muộn nhiều".

"Em sống ra sao? Nói cho anh nghe đi…"

"Không. Anh nói trước…"

Gleb mỉm cười:

"Anh có thể nói gì với em? Chẳng có gì hết…"

"Để em nói vậy…"

Nàng bối rối, do dự như người không muốn nói.

Ở đầu bàn, gã an ninh mập lùn đứng gù bờ vai ụ nhìn xuống cặp vợ chồng như con chó săn nhìn xuống hai con mèo.

Bộ mặt gã lạnh như đá.

Họ phải lựa giọng nói đúng để cho nhau có thể hiểu sự thật lẩn trong những câu nói vô vị đó. Họ phải dùng đến lối nói bóng gió. Ngôn ngữ đặc biệt của những sinh viên đại học giúp họ thực hiện việc này.

"Bộ quần áo này phải của anh không?" Nàng hỏi.

Nerzhin nhăn mặt và lắc đầu.

"Trong ba tiếng đồng hồ. Em đừng để ý đến chuyện vặt ấy".

"Em phải để ý chứ".

Nàng nói, làn môi dưới hơi trề ra, làm điệu, như cô gái đang làm dáng trước mặt người yêu, nàng sung sướng vì nàng đã có lý do tin chắc chồng nàng vẫn còn yêu nàng, vẫn thèm muốn nàng.

"Bọn anh quen rồi. Bọn anh chỉ thấy khía cạnh khôi hài của mọi vấn đề".

Nadya nhớ lại những lời bà vợ của tù nhân Gerasimovich nói với nàng và nàng thở dài:

"Nhưng bọn đàn bà không thể…"

Nerzhin phải cố gắng tự chế ngự nhiều lắm để khỏi dùng chân mình khỏi chạm vào chân vợ dưới gầm bàn, nhưng thực ra, nếu chàng có muốn chạm cũng không được. Thanh gỗ đóng ngang dưới gầm bàn được đóng với mục đích không cho họ làm việc ấy. Chàng chống hai cùi chỏ trên mặt bàn và nhô người ra giữa bàn để được gần vợ hơn một chút nữa và giọng chàng đầy những âm thanh thất vọng:

"Chướng ngại ở khắp nơi…"

Em còn là của anh không? Của riêng anh? Ánh mắt chàng hỏi.

Em vẫn là người đàn bà anh yêu và yêu anh. Em không thay đổi. Em không xấu hơn. Tin em. Ánh mắt xám, rực sáng của nàng trả lời.

"Về việc học của em? Em đang phải giải quyết những vấn đề gì? Theo anh tính thì em không còn là sinh viên nữa?"

"Dạ".

"Em trình luận án chưa?"

"Chưa".

"Sao vậy?"

"Tình trạng như vầy…" - Nàng bắt đầu nói vội, nói nhanh, sợ hãi đến cuống quít vì sự nhận thức thời gian đã trôi qua quá nhiều - "Từ ba năm nay không còn ai trình luận án nữa. Họ tạm đình tất cả. Tỉ dụ một sinh viên bỏ ra hai năm để viết luận án về đề tài "Những vấn đề của việc phân phối thực phẩm" và khi viết gần xong, người ta bảo bỏ đi, viết về đề tài khác. (Sao mình lại nói về chuyện này? Có gì đáng để mình nói đâu?). Luận án của em đã viết xong từ lâu nhưng người ta không nhận… (Em viết đề tài "Chống lại thói a dua")… Người ta bảo em sửa lại nhưng em không biết mình phải sửa như thế nào. Nhiều chuyện rắc rối lắm".

"Nhưng em vẫn còn được hưởng học bổng?"

"Hết rồi".

"Thế em sống bằng gì?"

"Tiền lương của em".

"Em đi làm rồi sao? Làm ở đâu?"

"Ở ngay trong Viện Đại học".

"Em làm gì?"

"Việc em làm không thường trực, không hẳn là việc. Em sống tạm bợ, cả trong ký túc xá em cũng chỉ là sống tạm… Thực ra, em…"

Nadya liếc nhìn người gác. Chuyện mà nàng muốn nói là Nha Công an đã gửi giấy báo cho nàng biết là nàng không còn được phép ở lại Mạc Tư Khoa nữa nhưng cùng một lúc, Bộ Giáo dục lại cho phép nàng được học thêm sáu tháng. Sự lầm lộn này có thể được người ta phát giác và sửa lại cho thống nhất bất cứ ngày giờ nào. Chính vì vậy nàng lại càng không thể nói với chồng chuyện đó ở trước mặt nhân viên an ninh này.

Nàng rầu rĩ nói tiếp:

"Em cũng chỉ được phép gặp anh lần này vì… Chuyện xảy ra như thế này…"

Làm sao nàng có thể kể lể được tất cả trong vòng nửa giờ?

"Đừng. Để chuyện đó nói sau. Anh muốn hỏi em: Có phải những rắc rối đó là vì anh không?"

"Em gặp nhiều khó khăn lắm. Họ muốn em làm… việc ấy, nhưng em cố không làm".

"Việc ấy" là việc gì?"

Nadya thở dài khổ sở và một lần nữa, nàng lại liếc nhìn gã nhân viên an ninh. Bộ mặt hung hãn của gã, như sẵn sàng sủa lên những tiếng đe dọa hoặc đớp nàng như một con chó dữ, chỉ ở xa mặt vợ chồng nàng chưa đầy hai thước.

Nàng giơ tay lên trong một dáng điệu bất lực. Nếu nói, nàng phải nói rằng ở trường đại học, nếu muốn xin theo học một khóa mới, nàng phải khai lại lý lich, những tờ khai lý lịch bây giờ nhiều câu hỏi hơn trước, chẳng hạn nàng phải khai về chồng, về họ hàng của chồng nàng, về họ hàng của những người họ hàng này. Nếu nàng khai "Chồng tôi bị tù vì Điều 58" thì không những là họ chỉ từ chối không cho nàng học mà họ càng không cho nàng sống thêm một ngày trong ký túc xá sinh viên của trường. Nếu nàng khai dối "Chồng tôi là sĩ quan bị mất tích" nàng vẫn phải khai tên chồng, số quân nhân của chồng và họ chỉ cần làm một cuộc sưu tra là nàng sẽ bị đưa ngay ra tòa vì tội khai gian. Nàng còn có thể làm được một việc nữa để giải quyết tình trạng của nàng nhưng trước mắt nhìn chăm chú của chồng, nàng không thể nói ra được.

Và nàng hấp tấp nói sang chuyện khác:

"Em chơi nhạc trong ban nhạc của trường. Em đi trình tấu nhiều nơi. Mới tháng trước ban nhạc của em được trình tấu ở Đại Hí Viện cùng một đêm với Yakov Zak…"

Gleb mỉm cười gật đầu, như chàng không hào hứng lắm trong việc tin đó là sự thật.

"Em gặp một chuyện tức cười lắm trong đêm ấy… Em bận bộ y phục đẹp nhất của em nhưng người ta bảo là bận bộ ấy lên sân khấu không được. Họ mượn ở kho y phục của Hí Viện cho em một bộ áo, đẹp lắm, dài đến mắt cá chân".

"Trình tấu xong, họ lại bảo em trả?"

"Dạ. Các bạn em thường trách em mất thì giờ vì âm nhạc, em trả lời họ là thà em mất thì giờ vì âm nhạc còn hơn là mất thì giờ vì người nào…"

Sự cám ơn hiện rõ trong ánh mắt của Gleb, rồi chàng hỏi bằng một giọng thắc mắc, chú ý:

"Em nói cho anh biết về "việc ấy"? Việc mà em nói em cố không làm?"

Mắt Nadya nhìn xuống:

"Em muốn nói… Nhưng anh phải hứa là anh đừng coi đó là chuyện quan trọng em mới nói… Có lần trước đây anh bảo em ly dị đi".

Nàng cố gắng giữ thản nhiên để nói những lời này. Đây là giải pháp cuối cùng có thể giúp cho nàng sống. Trong bản khai lý lịch, nàng vẫn phải khai tên tuổi, chức vụ nghề nghiệp của chồng cũ, địa chỉ cũ và hiện tại, bà con thân quyến và cả ngày sinh, tháng đẻ, địa chỉ của thân quyến. Nàng chỉ có thể khai là "không có chồng" và khai như thế, nàng cũng vẫn có thể bị nguy hiểm nếu bị phát giác.

Đúng như Nadya vừa nói, có lần Gleb đã thúc giục nàng ly dị, ly dị đi để sống, đợi bao giờ chàng ra khỏi tù sẽ tính lại. Nhưng lúc này khi nghe nàng nói đến hai tiếng ấy, Gleb run lên. Và chỉ đến giây phút này chàng mới nhận thấy là chiếc nhẫn cười nàng vẫn đeo không còn trên ngón tay nàng nữa.

Nhưng chàng vẫn quả quyết nói:

"Phải, phải. Anh có bảo em như thế. Em nên làm thế…"

"Anh sẽ không buồn lắm, anh sẽ không chống lại… nếu em… bắt buộc phải làm như thế?"

Nadya cố gượng ngẩng mặt lên nhìn chồng. Đôi mắt nàng mở lớn. Ánh cầu vồng ngũ sắc trong đôi mắt nàng sáng lên với ý van xin chồng tha thứ và thông cảm. Nàng nói tiếp trong hơi thở, tiếng nói gần như thì thầm:

"Chúng ta không làm thật…"

"Em yêu… Lẽ ra em phải làm việc ấy lâu rồi mới phải".

Gleb nói bằng một giọng quả quyết và tin tưởng mặc dù trong lòng chàng không có chút quả quyết hay tin tưởng nào – chàng gác lại sau cuộc gặp gỡ này tất cả những suy tư về hậu quả của những lời chàng nói. Và về những gì đã xảy ra, sẽ xảy ra.

"Em vẫn muốn em không phải làm thế. Em vẫn hy vọng sự việc sẽ không đến nỗi phải như thế…"

Nadya nói như năn nỉ, như van xin, nàng kéo cổ áo che kín ngực và trong lúc đó, nàng có vẻ mệt mỏi, rã rời, già đi, nàng như người sắp phải khóc:

"Em chỉ muốn nói chuyện đó với anh… để anh biết, để anh thuận cho… trong trường hợp em không làm không được. Nhưng em vẫn hy vọng nó sẽ không xảy đến…"

"Dù có cũng đã sao? Không sao hết. Em yêu… Em làm vậy là đúng… Đúng lắm…"

Nerzhin thẫn thờ nói. Trong lúc đó tâm trí chàng đã chuẩn bị nói với nàng những lời ghê gớm: "Đó là việc quan trọng. Bởi vì… em yêu, em đừng hy vọng quá ở việc anh sẽ về với em khi anh mãn hạn tù này…".

Chàng đã chuẩn bị chờ đón hạn tù thứ hai và tiếp đó là án tù chung thân, tù vĩnh viễn không bao giờ được trả lại tự do. Trường hợp đó xảy ra với nhiều người bạn cùng tù với chàng. Những người ngay cả trong tù đày vẫn không chịu khuất phục. Chàng không thể viết chuyện đó trong thư gửi ra cho vợ và ngay cả trong buổi gặp mặt này, chàng cũng không thể nói.

Cảm giác kinh hãi hiện trên khuôn mặt Nadya:

"Hạn tù có thể kéo dài…" Nerzhin nói vội vã, chàng nhấn mạnh những tiếng không cần nhấn mạnh để cho gã an ninh không theo dõi được, không kịp hiểu chàng nói gì nhưng vợ chàng sẽ hiểu khi nàng nhớ lại, nàng hiểu vì nàng chăm chú nghe, vì chuyện đó quan hệ đến đời nàng – "Thời hạn có thể kéo dài mãi mãi. Lịch sử đầy những trường hợp như thế. Mà dù cho có mãn vì một phép lạ nào đó, đừng tưởng tượng hão huyền anh và em sẽ có thể trở lại được đời sống như xưa, trở về thành phố… Em phải hiểu và em phải ghi nhớ: họ không cho ta trở về dĩ vãng. Điều anh ân hận nhất là anh đã không học nghề đóng giày. Một nghề như thế sẽ có ích cho chính mình biết chừng nào khi chính mình sống ở một làng quạnh hiu nào đó miền Bắc Tây Bá Lợi Á, ở Krasnoyark, hay ở miền hạ lưu Angara. Chúng ta nên chuẩn bị để sống một cuộc đời như thế. Ở đó ai cần đến những công thức toán học Euler?"

Chàng thành công: gã găng-tơ về hưu không làm một cử động, gã chỉ nháy mắt khi những tư tưởng của Nerzhin bay qua mặt gã.

Nhưng Nerzhin đã quên – không, thực ra chàng không quên, chàng chỉ không hiểu, như đa số những người ở tù không hiểu – là những người quen đi trên mặt đất bằng không thể nào vượt qua ngay được những ngọn núi lớn. Chàng không biết rằng cho đến bây giờ vợ chàng vẫn còn đếm, như trong những tháng đầu tiên, từng ngày, từng tuần chàng còn phải sống trong tù. Với chàng, hạn tù là một chuỗi dài ngày tháng vô tận nhưng với nàng, thời gian đó là 264 tuần lễ, là 61 tháng, là hơn 5 năm, bởi vì trước khi ở tù chàng đã xa nhà để lên mặt trận, chàng đã xa nàng từ lâu lắm.

Trong lúc Nerzhin nói, vẻ kinh hoàng trên mặt Nadya càng lúc càng nặng.

"Đừng, mình…" - Nàng kêu lên - "Mình đứng nói thế…"

Nàng đã quên người gác, nàng không còn xấu hổ khi để lộ những cảm nghĩ thực của nàng:

"Đừng làm em mất hết hy vọng. Em không muốn tin. Không thể như thế được. Hay là mình nghĩ rằng em có thể bỏ được mình?"

Môi trên nàng run run, nét mặt nàng nhăn nhúm, mắt nàng hiển hiện sự trung thành, chỉ có chung thủy trong mắt nàng.

Nerzhin nói, giọng chàng khác đi:

"Anh tin em, anh tin em, Nadya … Anh hiểu lòng em…"

Nàng ngồi im và rũ rượi trong lòng ghế.

Trong khung cửa mở hiện ra bóng dáng tối và vạm vỡ của người sĩ quan an ninh. Y lặng lẽ nhưng sắc sảo đứng nhìn ba người tụm gần vào nhau trong phòng. Rồi y ra hiệu gọi người gác.

Gã côn đồ giải nghệ, với vẻ bất đắc dĩ như người đang ăn ngon phải rời khỏi bàn, đi về phía Trung tá. Bốn bước sau lưng Nadya chúng chỉ nói với nhau có hai tiếng ngắn nhưng trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy Nerzhin cũng kịp hạ giọng nói với Nadya:

"Em biết vợ Sologdin không?"

Đã quen với những cuộc thay đổi đề tài đột ngột như thế này, Nadya đáp:

"Có".

"Biết chỗ ở?"

"Có".

"Họ không cho anh ấy gặp vợ. Em hãy đi tìm và nói với chị ấy…"

Gã côn đồ trở lại.

Gleb nói rõ và lớn:

"Ảnh yêu, ảnh tin và ảnh hy vọng".

"Yêu, tin và hy vọng…" Nadya nhắc lại trong một tiếng thở dài. Nàng nhìn ngay lên khuôn mặt chồng. Nàng từng quan sát chàng trong nhiều năm nhưng giờ đây, nàng vừa nhìn thấy chồng nàng có một khía cạnh mới.

Nàng cũng dời lại tất cả những suy tư đến sau cuộc gặp, nàng sẽ nhớ lại và phân tích tỉ mỉ tất cả những lời chàng nói và nàng cũng không biết sẽ có những gì xảy đến, nhưng ngay lúc này trái tim nàng khao khát được thấy người đàn ông nàng yêu để lộ sự yếu đuối, sự ao ước được giúp đỡ, sự kêu gọi mà người đàn bà cần thấy để có thể hy sinh cả đời mình, để có đủ sức đợi chờ mười năm nữa và theo người yêu đi đày.

Nhưng nàng chỉ thấy chàng mỉm cười, chàng mỉm cười tự tin như bất cứ lúc nào. Bao giờ chàng cũng tự tin. Chàng không cần cảm tình của bất cứ ai. Chàng thoải mái ngồi trên chiếc ghế đẩu. Chàng có vẻ như hài lòng nhìn quanh gian phòng. Chàng có vẻ khoẻ mạnh và ánh mắt chàng long lanh sáng. Chàng có thực sự cần sự chung thủy của một người đàn bà để sống hay không?

Nhưng Nadya không có đủ thì giờ để trả lời câu hỏi ấy.

Và Nerzhin không biết rằng vợ chàng cần thấy những gì, vợ chàng đang nghi ngờ.

"Hết giờ rồi…"

Klimentiev nói vào từ ngưỡng cửa.

Nadya ngạc nhiên:

"Đã hết rồi sao?"

Nerzhin nhíu đôi lông mày, chàng cố gắng nhớ lại điều quan trọng nhất trong số những điều quan trọng chàng đã dự định sẽ nói với vợ.

"Em đừng ngạc nhiên nếu họ cho anh đi xa, thật xa và anh không gửi được thư cho em…"

Nadya kêu lớn:

"Tại sao? Họ đưa anh đi đâu?"

Chàng nhún vai:

"Đi đâu? Chỉ có Chúa biết…"

"Mình bắt đầu tin ở Chúa ư?"

Chàng mỉm cười:

"Như Pascal, Newton, Einstein…"

Gã an ninh sủa:

"Không được nói tên người. Thôi đi…"

Người chồng và người vợ cùng đứng bật dậy. Giờ đây, khi họ không còn sợ cuộc gặp mặt của họ bị cắt ngang nữa, người chồng nhoài người qua mặt bàn để ôm vợ. Nerzhin hôn Nadya lên má rồi lên môi. Toàn thân chàng như níu chặt lấy môi nàng, đôi môi mà chàng đã quên. Một năm sau nữa chàng không còn hy vọng được ở Mạc Tư Khoa để có thể lại hôn nàng. Giọng chàng run lên vì trìu mến: "Em cứ làm tất cả những gì em thấy tốt cho em. Còn anh…". Chàng không nói được hết câu.

Họ nhìn vào mắt nhau.

"Làm cái gì vậy?"

Gã an ninh nắm lấy vai Nerzhin và kéo chàng ra.

"Tôi hủy cuộc gặp này của anh…"

Nerzhin giằng mạnh:

"Hủy đi, đồ khốn…"

Nhưng chàng chỉ nói lớn câu đó trong cổ họng chàng.

Nadya lảo đảo lùi về phía cửa, với những ngón tay của bàn tay không đeo nhẫn, nàng vẫy chào từ biệt chồng.

Và nàng biến mất giữa khung cửa.


32. Một cuộc gặp mặt khác

Gerasimovich hôn vợ.

Người canh chừng họ là một gã trẻ tuổi, ít nói và có vẻ hơi đần. Gã không coi chuyện vợ chồng tù nhân hôn nhau là quan trọng. Gã còn bối rối vì gã thấy gã xen vào cuộc gặp gỡ của vợ chồng người ta, gã muốn ngồi quay mặt vào tường trong suốt nửa tiếng đồng hồ nhưng không thể được, Trung tá Klimentiev đã ra lệnh là không một giây nào gã rời mắt nhìn tù nhân và cửa vào bảy phòng thẩm vấn phải mở rộng để ông có thể đi lại ngoài hành lang và nhìn được vào phòng để kiểm soát.

Thực ra, Trung tá Klimentiev cũng không coi việc vợ chồng tù nhân hôn nhau hay nắm tay nhau là quan trọng và cần phải cấm đoán. Y biết rằng những bí mật quốc gia không thể nào truyền đạt từ người này qua người khác nhờ những chiếc hôn nhưng mệnh lệnh của thượng cấp, y phải thi hành. Và y còn phải đề phòng cả những thuộc viên dưới quyền y, cả những tên tù, trong bọn này có những tên làm chỉ điểm cho thượng cấp và có thể báo cáo cả về y.

Gerasimovich và vợ hôn nhau nhưng đây không phải là chiếc hôn làm cho người hôn xúc động như thời họ còn trẻ mạnh. Chiếc hôn vụng trộm, ăn cắp từ những người có quyền, từ định mệnh không có màu sắc, không hương vị, không có mùi – đó là chiếc hôn xanh xám mà người ta thường trao đổi với một người thân đã chết ở trong giấc mơ.

Rồi vợ chồng họ ngồi xuống, ngăn cách bởi mặt bàn vẫn dùng để hỏi cung tù nhân.

Cái bàn nhỏ này có thể có một tiểu sử nhiều chi tiết hơn nhiều cuộc đời loài người. Trong nhiều năm, không biết bao nhiêu người đã ngồi cạnh nó, đã khóc, đã rùng mình vì kinh sợ, đã cố gắng chống cự mặc dù tuyệt vọng với cơn buồn ngủ rã rượi, đã nói lên những lời hào hùng, kiêu ngạo hoặc giận dữ, hoặc líu ríu cầm lấy bút ký lên những bản tố cáo những người thân của họ. Những người ấy không có bút chì hay bút mực, họ chỉ được cầm bút những khi họ phải ký hoặc trong vài trường hợp họ phải viết, nhưng họ vẫn để lại được trên mặt bàn này những vết tích của họ.

Gerasimovich nhìn vào mặt vợ.

Ý nghĩ đầu tiên của anh là vợ anh đã trở thành quá xấu xí. Hai mắt nàng nhỏ lại. Có nhiều vết nhăn ở hai đuôi mắt và quanh miệng nàng. Làn da mặt nàng nhão, chảy xuống và Natasha như người lâu rồi không còn biết trang điểm là gì. Chiếc áo ngoài của nàng ra đời từ trước thời chiến tranh và cần được lộn mặt trong ra ngoài từ lâu. Những sợi lông thú trên cổ áo xác xơ và dính bết vào nhau, chiếc khăn choàng trên tóc nàng phải già đến cả mấy chục năm. Gerasimovich nhìn chiếc khăn choàng cũ kỹ ấy và anh lờ mờ nhớ rằng dường như anh đã mua cho vợ chiếc khăn choàng này bằng một phiếu trưng thu và vợ anh từng đội nó trong thời gian thành phố Leningrad bị quân Đức bao vây những khi nàng đi ra sông Neva lấy nước.

Gerasimovich cố ngăn chặn ý nghĩ chính nổi lên từ trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn anh. Đó là ý nghĩ vợ anh trước kia trông hấp dẫn và gợi tình đến chừng nào. Trước mặt anh bây giờ là một người đàn bà, người đàn bà duy nhất trên đời này là một phân nửa của anh. Trước mặt anh bây giờ là người đàn bà chia sẻ những ký ức của anh. Những người thiếu nữ tươi trẻ nhưng hoàn toàn xa lạ với anh, những người có những kỷ niệm riêng, những ghi nhớ riêng, làm sao có thể có giá trị với anh bằng người đàn bà này?

Natasha chỉ mới bắt đầu bước vào tuổi mười tám khi họ gặp nhau lần đầu tiên trong một căn nhà ở Srednaya Podyacheskaya, gần cầu Livniny. Ngày đó là đầu năm 1930. Chỉ còn sáu ngày nữa là đúng hai mươi năm.

Năm Natasha mười chín tuổi, anh bị bắt lần đầu vì tội phá hoại.

Gerasimovich bắt đầu làm việc như là một kỹ sư trong một giai đoạn mà danh từ "kỹ sư" được coi là đồng nghĩa với danh từ "kẻ thù". Và trong giai đoạn ấy người ta sẵn sàng nghi cho những kỹ sư làm công tác phá hoại. Ngày đó Gerasimovich vừa mới tốt nghiệp, anh mang kiếng trắng vì mắt kém và cặp kiếng trắng này làm cho anh giống hệt với hình vẽ những tên trí thức làm gián điệp cho địch in trên những tờ bích chương dán khắp nơi trong những năm 30. Anh gật đầu chào tất cả mọi người, kể cả những người anh không cần phải chào, và anh luôn miệng nói: "Tôi xin lỗi" bằng một giọng dịu dàng, lễ độ. Trong những cuộc mít-tinh, anh hoàn toàn im lặng và ngồi như con chuột. Anh không hiểu cả rằng anh làm cho người ta khó chịu đến là chừng nào.

Nhưng dù họ có chuẩn bị buộc tội anh kỹ càng đến thế nào đi nữa, họ cũng chỉ có thể ghép anh vào tội phá hoại mơ hồ và kết án anh ba năm tù. Khi anh đi đến sông Amur, anh được sống tự do không bị kiểm soát. Vợ chưa cưới của anh theo anh đến đó và họ trở thành vợ chồng.

Trong thời gian họ sống ở bên sông Amur, gần như là không đêm nào hai vợ chồng không mơ thấy thành phố Leningrad. Họ bắt đầu chuẩn bị để trở về Leningrad vào năm 1935, nhưng cũng đúng năm ấy, nhiều làn sóng tù nhân mới đổ dồn về phía họ.

Natasha Pavlona cũng quan sát chồng nàng rất kỹ. Từng có thời gian nàng trông thấy khuôn mặt chồng nàng có đổi khác. Nàng từng thấy đôi môi Gerasimovich trở thành cứng rắn, đôi mắt anh trở thành lạnh lùng, gần như tàn ác, sau làn kiếng trắng. Illarion Pavlovich thôi không còn chào người lạ nữa, thôi không nói: "Tôi xin lỗi" nữa. Anh luôn luôn bị người ta chê bỏ vì quá khứ của anh. Anh bị người ta cho nghỉ việc liên tiếp và sau đó, anh bị người ta trao cho làm những việc không xứng đáng với tài năng và học thức của anh. Vợ chồng họ lang thang, phiêu bạt khắp nơi, sống đói khổ và nghèo nàn, thiếu thốn đủ thứ. Họ chết mất đứa con gái, rồi con trai họ cũng chết. Cuối cùng, họ đánh nước liều: đằng nào cũng chết, họ trở về Leningrad. Họ về tới đó vào tháng sáu năm 1941.

Ở đó họ lại càng khó sống, những bản khai lý lịch làm cho Gerasimovich không sao tìm được việc làm trong những cơ xưởng, những phòng thí nghiệm. Anh phải làm những việc lao động chân tay để sống. Suốt một mùa thu năm ấy anh đào chiến hào, giao thông hào và hầm hố quanh Leningrad. Chiến sự lan đến. Khi những bóng tuyết đầu tiên của mùa đông rơi xuống, anh trở thành phu đào huyệt chôn người chết.

Trong thành phố bị bao vây, nghề phu đào huyệt là nghề cần đến nhiều nhân công nhất và cũng là nghề kiếm ăn dễ nhất. Để đền ơn cho những kẻ chôn những người bạn của mình, những chiến sĩ chưa chết đưa cho những người đào huyệt những phần bánh mì của họ.

Người ta không thể không xúc động đến run rẩy khi ăn những mẩu bánh ấy, xong Gerasimovich tìm được một lý do để tự bào chữa, anh nói: "Người ta thương hại mình nhưng mình không cần ai thương hại hết".

Và vợ chồng họ sống sót. Nhưng trước khi thành phố được giải tỏa hoàn toàn, Gerasimovich đã bị bắt lại vì tội mưu toan phản quốc. Năm đó ở Leningrad, rất nhiều người bị bắt vì tội mưu toan như thế.

Natasha Pavlovna nhìn kỹ lên khuôn mặt chồng nàng, nàng ngạc nhiên khi không tìm thấy trên khuôn mặt ấy những dấu vết của cuộc sống tù tội. Đôi mắt anh vẫn biểu lộ sự thông minh bình thản sau làn kiếng trắng. Hai má anh không nhăn, mặt anh không có một vết nhăn. Bộ y phục anh mang trên người là một bộ đắt tiền. Chiếc cravatte anh thắt trên cổ áo thẳng và gọn.

Người ta có thể nghĩ trong hai vợ chồng, người vợ là người ở tù chứ không phải là người chồng.

Và ý nghĩ không đại lượng đầu tiên hiện lên trong óc Natasha là chồng nàng thực sự sống sung sướng trong cái nhà tù đặc biệt ấy. Anh không bị hành hạ, anh bận rộn với công tác khoa học mà anh thích làm và anh không bận tâm gì đến người vợ sống khổ sở bên ngoài.

Nàng cố đè nén ý nghĩ oán trách đó.

Nàng hỏi bằng một giọng yếu ớt:

"Mình sống trong đó ra sao?"

Như là nàng đã chờ đợi mười hai tháng để được gặp mặt chồng, đã nghĩ đến người chồng trong 360 đêm dài nằm lạnh trên chiếc giường nhỏ kê bên khung cửa sổ bám đầy băng tuyết chỉ để hỏi chồng: "Mình sống trong đó ra sao?".

Và Gerasimovich, người mà cuộc đời chỉ là một chuỗi ngày tù đày dài và liên tiếp, bình thản trả lời:

"Không đến nỗi nào…"

Họ chỉ có ba mươi phút đồng hồ để ngồi trước mặt nhau. Những giây phút đó đang trôi qua. Họ có cả trăm câu hỏi để hỏi nhau, cả ngàn ao ước và than thở để thổ lộ với nhau. Và Natalya Pavlovna hỏi chồng:

"Mình biết cuộc gặp này từ bao giờ?"

"Cách đây hai ngày. Còn em?

"Hôm thứ ba. Ông Trung tá hồi nãy còn hỏi em là có phải em là em gái của mình không".

"Bởi vì chính mình trùng tên thánh?"

Natalya gật đầu.

Khi họ bắt đầu hứa hôn với nhau, và nhất là trong thời gian họ sống với nhau trên sông Amur, mọi người đều tưởng rằng họ là anh em. Họ có cái vẻ bên ngoài sung sướng, hồn nhiên và sự giống nhau trong tâm hồn làm cho họ gần nhau hơn cả vợ chồng.

"Còn em sao? Có khổ sở lắm không?"

"Sao anh lại hỏi em thế?" – Nàng lo âu hỏi lại – "Anh biết ư?"

"Biết gì?"

Anh biết, nhưng anh không biết rõ, không biết hết. Anh biết rằng ở bên ngoài, cuộc đời những người vợ tù khổ sở ghê gớm. Họ bị hành hạ, họ bị tẩy chay vì chồng họ là tù.

Nhưng làm sao anh có thể biết rằng trong ngày thứ tư vừa qua vợ anh đã bị đuổi khỏi sở làm vì nàng là vợ anh? Và từ ba ngày nay, sau khi nhận được giấy gọi đi thăm chồng, nàng đã ngừng không còn đi tìm việc nữa. Nàng chờ đợi cuộc gặp mặt này như nó sẽ gây ra một phép lạ, và nó sẽ đem ánh sáng đến chan hòa đời nàng, chỉ cho nàng biết nàng phải làm gì.

Xong làm sao chồng nàng có thể khuyên được nàng nên làm gì, vì chồng nàng là người đã ở tù quá nhiều năm, chồng nàng hoàn toàn không còn quen thuộc gì với những cách sống của người thường.

Natalya phải chọn một quyết định: ly dị chồng hay không.

Trong căn phòng lạnh, xám và trơ trụi mà ánh sáng chỉ yếu đuối len vào được qua khung cửa sổ có chấn song sắt, cuộc gặp mặt và hy vọng ở một phép lạ của nàng đã trôi đi.

Natalya Pavlovna, trong nửa tiếng đồng hồ ngắn ngủi này, hiểu rằng nàng không thể diễn tả được sự cô đơn và đau khổ của nàng với chồng nàng. Nàng thấy rõ chồng nàng đi theo một dòng đời riêng, sống một cuộc đời riêng. Đằng nào chồng nàng cũng không thể hiểu, làm cho chồng nàng hoảng loạn nào có ích lợi gì?

Người gác đi tới gần tường và đứng chắp hai tay sau lưng nhìn ngắm màu vôi quét trên đó.

"Nói cho anh biết em sống ra sao đi…"

Illarion Pavlovich nắm bàn tay vợ trên mặt bàn. Ánh mắt anh sáng lên niềm trìu mến từng an ủi nàng nhiều trong thời gian đôi vợ chồng sống cực khổ trong thành phố bị bao vây.

"Larik… Mình có thể… Mình có cách nào ra khỏi đó sớm hơn không?"

Nàng muốn hỏi chồng về những biện pháp để có thể sớm ra khỏi tù. Trước đây, hồi sống trong trại tập trung bên sông Amur, anh đã làm việc mỗi ngày nhiều bằng hai người và nhờ vậy, hạn tù của anh đã được giảm đi.

Illarion lắc đầu:

"Không có cách nào thâu ngắn hạn tù cả. Công việc ở đây không giống như việc anh làm trước kia. Ở đây người ta phải phát minh ra được một cái gì lớn, quan trọng mới hy vọng được ra sớm. Nhưng có điều đáng nói là ở đây" – anh liếc nhìn người gác - "…không ai muốn phát minh gì hết".

Anh không còn có thể nói được rõ hơn.

Anh đưa bàn tay vợ lên áp vào má anh.

Ở trong thành phố Leningrad băng giá năm xưa anh có thể nhận những mẩu bánh mì của những người sắp chết trong ngày mai. Nhưng ở đây anh không thể…

"Em có cô đơn lắm không? Em có buồn lắm không?"

"Buồn?"

Trái tim Natalya se thắt lại vì giờ đây cuộc gặp mặt đã gần chấm dứt và nàng sắp phải đi một mình trên những đường phố vắng của khu Lefortovo, tâm hồn không được thêm một điều gì mới, không một khuyến khích, một an ủi, nàng sẽ lại trở về với cô đơn. Về với cuộc sống không mục đích, vô nghĩa, cuộc sống như bông xám.

"Natalochka…! Em nên nghĩ đến chuyện hạn tù của anh đã qua được nhiều rồi. Chỉ còn ba năm nữa. Ba năm nữa thôi…"

"Chỉ còn ba năm…"

Natalya ngắt lời chồng, giọng nàng run lên và nàng biết nàng không sao còn tự chế ngự được nữa:

"Chỉ còn ba năm? Với anh… thì đúng là chỉ còn ba năm. Người ta có cho anh ra ngay bây giờ anh cũng không muốn. Anh sống với những người bạn của anh, sống với công việc anh thích. Anh không bị ai xô đuổi… Còn em… Em đã mất sở làm, em không còn gì bám víu để sống. Em hết sức rồi, em không còn chịu đựng được nữa. Em chết ngay đi còn hơn. Bọn sống cùng một nhà với em hành hạ em đủ cách. Họ liệng rương của em ra sân, họ phá đồ đạc trong phòng em. Họ biết em không dám nói nửa tiếng. Họ biết họ có thể đuổi em ra khỏi Mạc Tư Khoa. Em không còn đi lại với các em của em, với dì Zhenya. Họ bảo em là con ngu. Họ khuyên em ly dị và làm lại cuộc đời. Bao giờ thì em hết khổ? Anh thấy em tàn tạ như thế nào không? Em mới có ba mươi bảy tuổi nhưng ba năm nữa em sẽ là bà già. Em về nhà nhưng em không còn sức nấu ăn cho em, em không còn sức dọn dẹp trong phòng. Em nằm xuống và em không còn dậy nổi. Larik… anh yêu… nếu còn thương em, anh hãy nghĩ cách làm sao mau ra khỏi đó. Anh có thể nghĩ được cách nếu anh muốn. Hãy sáng chế cái gì cho họ đi. Cứu em với. Cứu em!"

Nàng không muốn nói như thế nhưng nàng đã nói. Tim nàng như vỡ trong ngực nàng. Nàng run lên vì những tiếng nấc nghẹn và nàng hôn lên bàn tay chồng. Rồi nàng gục đầu xuống mặt bàn, nơi từng hứng không biết bao nhiêu giọt lệ.

"Xin đừng làm ồn…"

Người gác nói như chính y là người có lỗi, y lấm lét nhìn ra cửa.

Nét mặt Gerasimovich sắt đanh lại. Những tiếng nức nở nghe không êm tai, không đẹp chút nào vang ra tận hành lang. Bóng dáng Klimentiev hiện ra giữa khung cửa. Y trợn mắt nhìn vào lưng người đàn bà đang khóc. Y muốn bước vào nhưng lại do dự. Sau cùng, y đưa tay ra với cánh cửa, đóng lại.

Trong những điều cấm không có điều nào cấm khóc. Tuy nhiên nếu những cuộc gặp gỡ này không có nước mắt vẫn tốt hơn.


33. Chuyện vặt trong tù

Nerzhin đến giúp Potapov chế tạo cái bánh ngọt. Trong những năm dài đói khát vì bị quân Đức bắt làm tù binh rồi ở tù trong những nhà tù Xô Viết, Potapov đã học được sự thật là ăn không phải là một cái gì đáng để cho con người xấu hổ, chê bỏ, chán ghét, ngược lại, ăn là một thống khoái của đời sống, ăn là tinh hoa của đời sống con người.

Tôi muốn biết thì giờ
Qua những bữa ăn…
Ăn sáng, ăn trưa, ăn tối…

Người kỹ sư điện cao thế hát nho nhỏ. Mặc dù anh đã dâng hiến trọn vẹn cuộc đời cho những dòng điện tới cả ngàn kilowatt, Potapov, nhờ khéo tay và thông minh, rất sớm đã trở thành một chuyên viên nấu bếp cừ khôi: anh có thể chế tạo những chiếc bánh cam bằng vỏ khoai tây và trong Viện Mavrino, anh nổi tiếng với tài làm bánh ngọt và những món tráng miệng.

Lúc này, Potapov đang bận rộn trước hai cái bàn nhỏ kê liền lại, đặt giữa giường anh và giường của Pryanchikov. Khi Nerzhin tới Potapov đang long trọng pha sữa đặc, sô-cô-la và hai quả trứng gà (đa số những món này do Rubin cung cấp, Rubin thường được nhận được đồ tiếp tế và bao giờ cũng ăn chung với anh em) thành một thứ dung dịch không có tên trong ngôn ngữ của nhân loại. Potapov đưa ra nhận xét là Nerzhin đến muộn và sau đó, ra lệnh cho Nerzhin đi tìm ngay hai cái ly sắt có thể dùng làm khuôn bánh. Nerzhin đề nghị để anh đi mượn hai cái ca dùng để cạo râu, anh sẽ rửa hai cái ca sắt này bằng nước nóng.

Cảnh nghỉ ngơi thảnh thơi của ngày Chủ nhật ngự trị trên gian phòng đầy những giường ngủ. Nhiều người nằm trên giường nói chuyện với bạn, nhiều người khác đang đọc sách, những mẩu đối thoại bay đi, bay lại quanh họ. Nhiều người khác nằm yên, hai tay đặt dưới đầu, nhìn ngay lên trần phòng.

Tất cả những thứ tiếng ấy hòa hợp thành một âm thanh hỗn độn.

Tù nhân Zemelya, nằm phây phây trên chiếc giường trên, anh bận quần cụt, ở trần, tay mân mê những sợi lông trên ngực, miệng mỉm nụ cười vui và hiền lành thường trực, đang kể một câu chuyện với tù nhân Miska Mordvin nằm cách anh hai giường:

"Nếu chú muốn biết sự thật… Tất cả những bê bối này bắt đầu bằng một nửa đồng kopeck". [1]

"Sao? Liên can gì đến đồng kopeck?"

"Trước đây, trong năm 1926, 1928 gì đó – năm đó chú còn nhỏ xíu – ở trước những ghi-sê phát tiền người ta có treo tấm bảng "Nhớ lấy cả những đồng một nửa kopeck tiền lẻ". Thời đó có đồng nửa kopeck. Bọn phát tiền có bổn phận phải trả đủ cả từng đồng. Đó là thời thanh bình…"

"Thời đó không có chiến tranh sao?"

"Không có chiến tranh – chú có thể tưởng tượng được không? Đó là thời trước chiến tranh. Thanh bình. Phải đó, thanh bình. Trong những công sở người ta làm việc sáu tiếng đồng hồ một ngày, không phải làm quá nhiều giờ như bây giờ. Và mọi việc đều êm đẹp. Mọi người làm việc tốt. Chỉ cần chú phải làm việc thêm mười lăm phút là người ta trả chú tiền phụ trội liền. Chú nghĩ coi cái gì biến mất trước nhất? Những đồng nửa kopeck. Tình trạng bê bối bắt đầu. Rồi đến những đồng tiền biến mất. Tới năm 1930, những đồng bạc biến nốt. Không còn tiền lẻ nữa. Đôi khi, họ không thèm trả chú cả những đồng ruble lẻ. Kể từ đó, những sai lầm theo nhau đến. Ở ngoài phố, bọn hành khất không thèm hỏi xin đồng kopeck nữa, họ nói: "Bạn công dân, cho tôi một đồng ruble…". Khi lãnh tiền lương do nhà nước trả, chú chớ dại mà đòi họ trả cho chú cả những đồng kopeck ghi trên sổ lương – họ sẽ cười vào mũi chú, họ sẽ gọi chú là… đồ bần tiện, bủn xỉn. Nhưng họ đã lầm: đồng nửa kopeck tuy nhỏ nhưng nó tượng trưng cho sự lương thiện của con người, cho sự kính trọng con người. Nói cách khác, họ coi thường con người, họ đái lên đầu con người. Không ai đòi hỏi quyền được hưởng những đồng nửa kopeck. Và con người mất giá trị vì thế".

Trên một chiếc giường khác, một tù nhân đang đọc sách ngừng lại để nói với người nằm ở giường bên:

"Chính phủ của Nga Hoàng thối nát. Một chính phủ yếu xìu như thế không đổ sao được. Anh nghe này: Một thiếu phụ cách mạng tuyệt thực trong tám ngày để bắt một anh quản đốc nhà tù phải xin lỗi… [2] . Và anh quản đốc ngu đần này chịu xin lỗi… Bây giờ làm gì có ai dám nghĩ đến chuyện đòi Quản đốc Nhà tù Krasnaya Presnya xin lỗi…?"

"Bây giờ họ sẽ nhét thức ăn vào ruột bà ta vào ngày tuyệt thực thứ ba. Sau đó, họ cho bà ta thêm một hạn tù nữa vì tội khiêu khích. Anh đọc chuyện đó ở đâu vậy?"

"Trong tiểu thuyết của Gorki".

Tù nhân Dvoyetyosov nằm gần đó ngóc đầu lên:

"Ai đọc Gorki đó?"

"Tôi".

"Đọc làm chi vậy?"

"Đọc để biết chuyện ngày xưa ra sao, cũng có lợi lắm chứ. Như những chi tiết Gorki tả về khám đường Niznhy Novgrod chẳng hạn. Ở khám đường này, anh có thể bắc thang trèo qua tường mà không ai ngăn cản anh hết. Anh có thể tưởng tượng nổi chuyện ấy không? Về bọn giám thị thì Gorki tả cho ta biết rằng họ có súng lục nhưng lâu quá không được dùng đến nên súng rỉ hết, họ chỉ có thể dùng súng vào việc thay búa đóng đinh lên vách. Biết được những chuyện ấy cũng có lợi lắm chứ?"

Ở bên dưới họ, đề tài thảo luận được nói đến luôn trong những nhà tù đang được nhiều người tham dự. Đó là đề tài Người ta nên ở tù lúc nào nhất? Cách đặt câu hỏi này cho người ta thấy quan niệm chung là ở đời này không ai tránh khỏi việc ở tù, chẳng sớm thì muộn ai cũng phải tù. Những người ở tù thường có khuynh hướng phóng đại số người ở tù. Thực ra hiện giờ chỉ có khoảng từ mười hai triệu đến mười lăm triệu người đang ở tù song những tù nhân tin rằng có tới hai mươi triệu đến ba mươi triệu người đang ở tù. Họ cho rằng bên ngoài nhà tù gần như không còn đàn ông nữa. Câu hỏi "Người ta nên ở tù lúc nào nhất?" ngụ ý muốn hỏi người ta nên ở tù khi còn trẻ hay ở tù khi đã già? Nhiều tù nhân thường là những anh trẻ. Ở tù trẻ, người ta có dịp tìm biết nghĩa lý của đời sống, biết những gì có giá trị thực trong đời và những gì tầm thường, để tới năm ba mươi nhăm tuổi, sau khi đã ở tù mười năm, người đàn ông vừa trưởng thành có thể xây dựng đời mình trên những căn bản hiểu biết khôn ngoan và đứng đắn. Những người ở tù khi đã già có thể khổ sở khi thấy rằng đời mình là một chuỗi dài những sai lầm đó. Nhiều tù nhân khác – đa số là những ông tù già – cũng lạc quan không kém khi nói rằng người ta nên ở tù khi về già, về già đi tù là nhất. Vì khi đã già, người ta vào tù như vào Viện Dưỡng Lão vậy. Lúc đó người ta đã tận hưởng được tất cả những lạc thú ở đời. (Trong ngôn ngữ của tù nhân, "tất cả" có nghĩa là việc có một tấm thân đàn bà, quần áo tốt, thức ăn tốt và rượu mạnh). Họ đưa ra nhận xét là đời sống trong tù không làm hại gì được những người già trong khi nó có thể làm hại rất nhiều những người trẻ. Có những người trẻ, sau khi được ra khỏi tù, trở thành "không còn thích đàn bà".

Đó là đề tài đang được bàn cãi sôi nổi nhất trong phòng. Tù nhân thường rất ham nói. Nhiều người nói để trấn an mình, để an ủi mình, nhiều người nói để tự hành hạ mình, tự làm mình thêm khổ sở. Nhưng rốt cuộc, vấn đề vẫn không được sáng tỏ hơn, vẫn không ai nắm được sự thật. Trong những buổi chiều Chủ nhật người ta thấy ở tù là một lạc thú, nhưng khi họ trở dậy vào sáng thứ Hai, ở tù bao giờ cũng là một cực hình.

Nhưng việc thảo luận về đề tài ở tù vào tuổi nào tốt trên đây tuy có nhiều người tham dự nhưng không bao giờ đưa những người tham dự đến chỗ kích động, to tiếng. Trái lại, cuộc trao đổi ý kiến đưa họ đến gần nhau hơn trong nỗi buồn chung. Cuộc thảo luận không dẫn người ta đến đâu hết, nhất là không làm cho người ta cáu giận.

Cuộc thảo luận về đề tài ở tù tàn đi, gian phòng im lặng trong một lúc, sau đó người ta nghe tiếng Khorobrov nói:

"Khi người mình bắt đầu chuyến bay đầu tiên lên mặt trăng, tự nhiên là sẽ có một cuộc họp cuối cùng trước khi hỏa tiễn khai hỏa. Phi hành đoàn sẽ nguyện tiết kiệm đến tối đa nguyên liệu, nguyện phá kỷ lục tốc lực, nguyện không ngừng phi thuyền đang bay lại để sửa chữa… Một trong ba phi hành gia phải là một cán bộ chính trị. Trong chuyến bay, cán bộ này sẽ yêu cầu hai phi hành gia kia học tập chính trị và lấy lời tuyên bố của họ gửi về đăng báo".

Pryanchikov nghe được lời tiên đoán này trong lúc anh đi ngang gian phòng với chiếc khăn tắm và hộp đựng xà bông. Như người biểu diễn một động tác vũ điệu, anh nhảy tới bên giường Khorobrov và nghiêm trọng nói:

"Ilya Terentich… cho phép tôi được cải chính: việc xảy ra sẽ không như anh nói đâu… Bởi vì…"

Pryanchikov đưa ngón tay trỏ lên môi với vẻ bí mật như một diễn viên trong một phim trinh thám:

"… người Hoa Kỳ sẽ lên mặt trăng nước".

Chàng cười, tiếng cười trong như tiếng của một đứa trẻ, rồi nhảy đi.

Anh thợ khắc ngồi cạnh Sologdin trên giường. Anh và Sologdin đang say mê thảo luận về đề tài đàn bà. Anh thợ khắc đã ngoài bốn mươi, tuy nét mặt anh còn trẻ, tóc anh đã có nhiều sợi bạc. Mái tóc ấy hợp với anh.

Hôm nay, anh thợ khắc đang hài lòng. Quả thực là anh đã lầm khi anh vội nuốt bản truyện ngắn của anh trong phòng khám trước khi lên xe đi gặp vợ, nếu anh đừng quá vội, anh có thể đem được truyện ra ngoài và trao cho vợ anh. Nhưng trong cuộc gặp mặt, vợ anh có nói cho anh biết rằng chị đã đưa cho nhiều người tin cẩn và có uy tín đọc những truyện ngắn gửi ra trước đây của anh và tất cả mọi người đều khen là hay, là truyện rất giá trị. Anh cũng biết rằng vợ anh có thể phóng đại những lời khen và những người thân được chị cho coi những đoản thiên ấy thường chỉ khen chứ không chê, nhưng dù sao anh vẫn thấy sung sướng. Anh nghĩ rằng dù anh viết hay hoặc viết dở, anh cũng đã ghi lại được cho hậu thế những sự thật về sự đối xử của Stalin với những chiến sĩ Nga bị Đức bắt làm tù binh trong trận thế chiến thứ Hai, anh nói lên tiếng kêu thương ai oán của cả triệu người không may đó Anh cảm thấy kiêu hãnh và anh tự nguyện sẽ tiếp tục viết truyện. Cuộc gặp gỡ hôm nay còn đem lại cho anh nhiều tin vui: vợ anh vẫn trung thành với anh, vẫn chờ đợi anh, chị đã gửi nhiều đơn xin cho anh được tự do, chị đã nhờ nhiều luật sư uy tín biện hộ cho anh và chắc chắn là trong thời gian tới, họ sẽ có tin vui hơn nữa.

Trước hết, anh thợ khắc nói về hai chị vợ người Nga của anh, sau đó anh nói đến cuộc sống của anh khi anh là tù binh Đức ở trên đất Đức và những chị đàn bà Đức khả ái mà anh được gần ở đó. Anh so sánh đàn bà Nga với đàn bà Đức và đây là lần đầu tiên Sologdin được nghe nói đến sự cách biệt này. Anh thợ khắc nói rằng đàn bà Nga quá tự lập, quá tự tin, không chịu chấp nhận thiệt thòi khi yêu, họ quan sát người đàn ông họ yêu, tìm hiểu những nhược điểm của người yêu, và tấn công vào những lúc người họ yêu ít can đảm nhất. Đàn bà Nga bao giờ cũng ngang hàng với đàn ông trong tình yêu. Trong khi ấy, người đàn bà Đức mềm như một cây lau trong bàn tay người đàn ông họ yêu. Đàn bà Đức coi người đàn ông họ yêu là ông chúa, là người đàn ông duy nhất trên trái đất, người tốt nhất, đáng quý nhất. Họ hoàn toàn lệ thuộc và theo ý muốn người họ yêu. Họ chỉ mơ đến chuyện làm sao làm cho người họ yêu hài lòng. Vì vậy, anh thợ khắc thấy rằng với đàn bà Đức, anh sung sướng hơn, anh là ông chủ, là ông chúa.


[1]Kopeck: Đơn vị tiền tệ nhỏ nhất của Nga, cũng giống như đồng trinh của ta cách đây 30 năm.
[2]Những người tù này đang nói đến cuốn tiểu thuyết Người mẹ của Maxime Gorki.


====


Aleksandr I. Solzhenitsyn
Tầng đầu địa ngục
Hải Triều dịch
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

34. Cái thùng sắt

Buổi sáng thứ Hai ấy trong Phòng Đồ hình của Viện Khoa học Mavrino cũng có một phiên họp học tập chính trị. Những tù nhân và viên chức tự do ngồi lẫn nhau trong phòng.

Mặc dù phòng này ở trên lầu và có những khung cửa sổ mở về hướng nam nhưng ánh sáng xanh xám của buổi sáng cũng không chiếu được nhiều vào phòng, đây đó trên những mặt bàn vẽ, người ta bật sáng những ngọn đèn điện.

Ông Trưởng phòng, một Trung tá, không đứng lên khi nói với mọi người. Ông ngồi như mọi người và ông nói không được hùng hồn, quyết liệt mấy về sự thực hiện kế hoạch, về những kế hoạch mới và sự nhất định phải thành công của "chủ nghĩa xã hội", về trách nhiệm của những người xã hội trong cuộc thách đố này. Ông ta nói, mặc dù chính ông ta là người không tin tưởng hơn ai hết, là vào khoảng cuối năm sắp tới, họ sẽ thành công rực rỡ trong địa hạt phát minh về âm thanh, những phát minh của họ sẽ làm chấn động thế giới.

Sologdin ngồi ở hàng ghế cuối cùng, mắt anh nhìn ngây lên bức tường sau lưng ông Trưởng phòng. Ánh mắt anh sáng trong, nét mặt anh dịu dàng và tươi tỉnh. Chỉ nhìn ánh mắt và nét mặt đó không ai có thể ngờ rằng tâm trí anh không được thanh thản hoặc anh đang có chuyện suy nghĩ, bối rối, lo âu. Ngược lại, người ta có thể nghĩ là anh đang lợi dụng cuộc học tập này để không suy nghĩ gì cả.

Nhưng Sologdin đang suy nghĩ rất nhiều. Anh không thể biết chắc là anh còn nhiều giờ đồng hồ – hay là chỉ còn có vài phút – để suy nghĩ và giải quyết vấn đề lớn của đời anh, giải quyết thỏa đáng và không lầm lỗi. Suốt buổi sáng hôm nay, Sologdin đã đứng chặt những khúc cây làm củi đun ở ngoài sân Viện – anh không bắt buộc phải làm việc này nhưng anh tự ý làm để có dịp hoạt động – và trong lúc làm việc ấy, óc anh đã suy nghĩ ráo riết.

Cũng buổi sáng nay, anh đã nghe Thiếu tá An ninh Shikin đọc những điều luật mới áp dụng cho tù nhân về việc gửi thư cho thân nhân và thăm viếng. Anh nghe với nụ cười mỉa mai trên môi vì anh đã nhìn thấy trước những luật lệ ấy từ lâu rồi. Và anh là người đầu tiên trong nhà tù này chuẩn bị đón chúng: chính anh đã cắt đứt mọi liên lạc với thân nhân bên ngoài. Việc ban hành những luật lệ này chỉ là sự chứng minh những gì anh xét đoán là đúng: chế độ lao tù sẽ càng ngày càng khắt khe hơn, con đường đi trở về với tự do được gọi là "mãn hạn tù" đã bị đóng lại.

Cuộc học tập chính trị chấm dứt, mọi người trở về chỗ làm việc của mình.

Sáng nay, Larisa Emina không có mặt trong phòng. Nàng được nghỉ bù vì ngày Chủ nhật hôm qua nàng đi làm. Sologdin cảm thấy ngầm hài lòng vì hôm nay Emina không có mặt ở bên anh. Một người đàn bà thân thiết với mình hôm qua có thể trở thành kẻ hại mình trong hôm nay.

Đứng trước bàn vẽ, Sologdin gỡ một đồ hình ra khỏi mặt bàn. Đồ hình kiểu mẫu giàn máy Âm thính do anh sáng chế và đã được Giáo sư Chelnov kiểm soát, xác nhận có giá trị, hiện lên trên mặt giấy.

Anh đứng im một lúc lâu nhìn xuống đồ hình.

Càng nhìn lâu sáng chế của mình, trái tim Sologdin càng hồi hộp. Anh không còn bối rối nữa, anh đã biết chắc anh phải làm gì.

Hai viên chức tự do, cả hai cùng là phụ nữ làm việc trong phòng, theo đúng luật, mỗi tuần một lần đi khắp các bàn thu thập, những giấy tờ cũ, không cần thiết, đem đi đốt bỏ. Tất cả những giấy tờ trong phòng Đồ hình đều không được vò xé vứt vào giỏ đựng giấy vụn mà là phải nộp cho viên chức phụ trách thiêu hủy. Những tờ giấy này được đếm kỹ, ghi số lại trước khi đem đốt trong thùng sắt ở ngoài sân Viện.

Trước khi hai viên chức phụ nữ tới bàn mình, Sologdin cầm cây viết chì mỡ mạnh tay gạch nhiều nét lên mẫu đồ hình giàn máy do anh sáng tạo. Xong, anh tháo nó ra khỏi bàn vẽ, đặt nó vào giữa hai tờ giấy có vẽ hình khác và đưa cho một trong hai chị đàn bà:

"Tôi có ba tờ".

Rồi anh ngồi xuống mở một quyển sách nhưng không đọc, anh lặng lẽ nhìn xem có những chuyện gì sẽ xảy đến với ba tờ giấy của anh.

Hai chị đàn bà đếm lại tất cả những tờ giấy thâu được để đem đi thiêu hủy và ghi con số này vào sổ lưu trữ. Sologdin chú ý nhìn kỹ để biết chắc rằng không có một nhân viên nào khác của phòng này xem kỹ những tờ giấy bỏ đi ấy. Cũng không có ai cần đến gần hai chị đàn bà cầm tập giấy này.

Hai sĩ quan an ninh Shikin, Myshkin, với việc thiêu hủy tất cả những giấy tờ trong phòng Đồ hình, đã tỏ ra cẩn thận nhưng không khôn ngoan. Ít nhất, sự kiểm soát này cũng chưa hoàn toàn hữu hiệu. Đã quá tin tưởng ở sự lương thiện của người đời. Họ không ngờ rằng có những người sáng tạo nhiều khi muốn đốt đi những sáng tạo của mình. Nếu Shikin và Myshkin thật khôn ngoan lập một ban kiểm soát lại từng tờ giấy, xem có mẫu hình nào có giá trị bị đưa đi thủ tiêu hay không, Sologdin sẽ gặp rắc rối nhiều.

Sau cùng, hai chị đàn bà cuộn những tờ giấy lại thành nhiều cuộn và mượn bao quẹt của một người hút thuốc lá, đi ra khỏi phòng.

Sologdin cầm cây viết vạch những vòng tròn đều nhau trên mặt giấy nhưng tâm trí anh theo dõi bước đi của hai chị đàn bà, đếm từng giây đồng hồ: họ đang đi trên thang, họ xuống tới cửa sau, họ đang bận áo lạnh trước khi ra sân… Và bây giờ họ đã ra tới sân…

Sologdin ngồi sau bàn vẽ để không một ai trong phòng có thể nhìn thấy anh nhưng anh nhìn được xuống sân, nơi có chiếc thùng sắt lớn dùng làm lò đốt giấy tờ. Hai chị đàn bà bỏ những cuộn giấy vào thùng và lúi húi đánh diêm. Nhưng họ lúng túng mãi vẫn chưa đốt được tờ giấy nào, khi thì diêm tắt, khi thì diêm gãy, khi thì lửa bốc quá nhanh làm họ phải liệng cây diêm đi. Sau cùng, lão gác cửa Spiridon được gọi tới giúp. Sologdin thở ra một hơi dài khi thấy có ánh lửa và khói xanh bốc len từ miệng thùng sắt.

Cũng vừa đúng lúc ấy có tin gọi xuống bằng điện thoại: Sologdin phải lên trình diện ngay ở Phòng Viện trưởng Yakanov.


35. Hai kỹ sư

Yakanov chưa từng bao giờ nói chuyện nhiều với Sologdin, cũng chưa bao giờ Sologdin được mời tới Phòng Viện trưởng. Đôi khi có việc đến Phòng Đồ hình, Đại tá Kỹ sư Yakanov chưa từng bao giờ để ý đến nhân vật không cò đáng để ý làm việc ở đó là Sologdin. Nhưng giờ đây, sau khi đã nhìn bản danh sách tên họ tù nhân để dưới mặt kiếng trên bàn, Yakanov, như một vị chủ nhân hòa nhã, lịch thiệp hết sức, ngước mắt nhìn người tù vừa bước vào phòng mình và nói lớn bằng một giọng thân mật:

"Dmitri Aleksandrovich… mời ngồi… mời ngồi… Tôi rất vui được tiếp riêng anh hôm nay…"

Hai cánh tay áp chặt hai bên mình, Sologdin đến gần bàn, anh lặng lẽ cúi đầu chào, nhưng sau đó, anh vẫn đứng thẳng, cứng ngắc.

Yakanov vẫn vui vẻ nói:

"Theo tôi được biết… anh đang dự định dành cho chúng tôi một ngạc nhiên lớn. Mới cách đây hai ngày, vào sáng thứ Bảy – đúng không nhỉ? Tôi nhìn thấy mẫu hình giàn máy Âm thính của anh trên bàn Giáo sư Chelnov. Sao anh không ngồi? Tôi có nhìn qua mẫu hình ấy và hôm nay, tôi mời anh tới đây để chúng mình thảo luận vào chi tiết…"

Vẫn không rời mắt nhìn vào mắt Yakanov – cặp mắt đầy những thiện cảm và thông cảm – Sologdin vẫn đứng thẳng và bất động, như một trận bắn lộn bằng súng đã bắt đầu và anh đang chờ địch thủ nổ súng trước. Anh nói rõ ràng:

"Thưa ông Viện trưởng, ông lầm mất rồi. Tôi cũng cố gắng làm việc hết sức tôi để góp công vào việc chế tạo giàn máy điện thoại, xong tôi bất tài, tôi không thành công. Vật mà ông nhìn thấy đó chỉ là một sản phẩm do bộ óc ngu xuẩn của tôi tạo ra, nó không có giá trị gì cả…"

Yakanov ngồi ngả lưng lên thành ghế và phản đối bằng một giọng vừa vui vừa lạc quan:

"Thôi mà bạn, bạn đừng tỏ ra khiêm tốn quá. Mặc dù tôi chỉ mới nhìn qua mẫu hình đó, tôi cũng đủ biết giá trị của nó. Hai nữa, Giáo sư Chelnov, người có thẩm quyền hơn chúng ta nhiều, đã kiểm soát nó và ca tụng nó hết lời. Tôi đã ra lệnh không cho bất cứ ai vào đây làm phiền chúng ta. Anh đi lấy mẫu hình tới đây, chúng ta cùng thảo luận vào chi tiết. Anh có muốn tôi mời cả Giáo sư Chelnov tới giúp chúng ta không?"

Yakanov là một kỹ sư, Sologdin cũng làm một kỹ sư. Giữa hai người chỉ có điều khác là lâu rồi Yakanov không phải làm việc như một kỹ sư trong khi Sologdin đã phải sống trong tù mười hai năm.

Cổ họng Sologdin như nghẹn lại làm anh khó nói:

"Thưa ông Viện trưởng, tôi xin nhắc lại là ông lầm. Mẫu hình của tôi không có gì cho ông phải để ý".

Yakanov nhíu mày. Y bắt đầu bực tức trước vẻ ngoan cố của kẻ y cố tình lấy cảm tình:

"Được rồi. Để coi. Anh cứ về lấy nó tới đây".

Trên cầu vai áo nền vàng viền xanh của Yakanov có ba ngôi sao lớn nằm theo hình tam giác. Trên cầu vai áo của Trung úy Kamyahan, người cố tình đánh cho Sologdin phải chết ở trại tập trung Gornaya Zakrytka năm xưa, cũng có ba ngôi sao như thế, chỉ khác là ba ngôi sao của Trung úy Kamyashan nhỏ hơn ba ngôi sao của Đại tá Yakanov.

Giọng nói của Sologdin bắt đầu rung động:

"Mẫu hình ấy không còn nữa. Vì thấy nó không có giá trị gì… nên… tôi đã đốt nó đi rồi…"

Yakanov xanh mặt. Trong cái yên lặng khủng khiếp của căn phòng, tiếng thở của y nổi rõ. Song y cố gắng thở nhỏ hơn.

"Anh nói sao? Tự tay anh đốt?"

"Thưa không. Tôi nộp cho người phụ trách đốt. Tôi theo đúng luật".

Sologdin nói lí nhí khó nghe. Vẻ tự tin và thản nhiên của anh đã biến mất hoàn toàn.

Yakanov choàng đứng dậy:

"May ra vẫn còn chưa bị đốt…?"

Với vẻ ngoan cố rõ rệt, Sologdin làm Yakanov tiêu tan hy vọng vừa chớm:

"Đã đốt rồi. Tôi nhìn thấy họ đốt…"

Một tay nắm vào thành ghế, một tay nắm chặt cây chặn giấy bằng đá, Yakanov nhô người qua mặt bàn. Y như có vẻ muốn bửa đôi đầu Sologdin bằng cây chặn giấy.

Đầu hơi rụt xuống hai vai, Sologdin đứng như pho tượng bận bộ y phục xanh.

Giữa hai người kỹ sư những câu hỏi thêm và những lời giải thích đều không còn cần thiết. Hai đôi mắt họ chiếu vào nhau những tia sáng điên cuồng.

"Tôi sẽ giết anh…", đôi mắt ông Đại tá gầm lên.

"Cứ việc làm đi. Cho tôi một hạn tù nữa, đồ khốn…", ánh mắt người kỹ sư tù nhân trả lời".

Nhưng không ai to tiếng, họ không cả nói lớn. Bỗng dưng Yakanov buông cây chặn giấy và đưa bàn tay lên che mắt như ánh sáng làm mắt y chói và y lảo đảo đi ra đứng bên cửa sổ.

Sologdin cũng cảm thấy hai chân mềm nhũn làm anh đứng hết nổi, anh vịn tay lên thành ghế.

"Mình chỉ còn sống được có một tháng nữa thôi. Lần này, mình phải chết thật sao?". Đứng bên cửa sổ, ông Đại tá nghĩ.

"Một hạn tù nữa? Mình phải chết, không thể sống nổi…". Vịn tay vào thành ghế, người tù nghĩ trong ghê rợn.

Yakanov quay lại. Mắt y nhìn Sologdin với câu hỏi: "Kỹ sư. Anh có thể hủy được sáng chế của anh sao?"

Đôi mắt Sologdin trả lời: "Tôi là tù nhân. Đừng quên tôi là tù nhân".

Họ nhìn nhau thù hận – người nọ biết rằng vì người kia mà mình phải chết – nhưng họ vẫn không sao có thể rời mắt nhìn nhau.

Hắn sắp la hét, sắp đập bàn, hắn sắp nhấc điện thoại ra lệnh cho mình vào xà lim. Sologdin nghĩ như thế và chờ đợi những việc đó xảy ra.

Nhưng Yakanov rút trong túi ra chiếc khăn tay trắng, sạch đưa lên lau mắt. Rồi một tay vịn vào thành cửa sổ, tay kia y vẫy tù nhân đến gần.

Sologdin bước ba bước tới cửa sổ.

Lưng hơi gù xuống như một ông già, Yakanov hỏi:

"Sologdin, anh từng sống ở Mạc Tư Khoa, phải không?"

Sologdin nhìn vào mặt y:

"Thưa phải".

"Anh nhìn xuống dưới kia" – Yakanov chỉ tay qua khung cửa sổ – "Anh nhìn thấy trạm xe buýt trên đường kia không?"

Sologdin nhìn và thấy rõ trạm xe buýt.

Yakanov dịu dàng nói:

"Lên xe ở trạm ấy, chỉ mất có nửa giờ là về đến trung tâm Mạc Tư Khoa".

Bỗng dưng, như người sắp ngã, Yakanov đặt vội cả hai tay lên vai Sologdin. Y nói vội vàng, nồng nàn, như thúc giục, như năn nỉ:

"Sologdin … Anh có thể đàng hoàng bước lên chiếc xe buýt ấy vào một buổi sáng tháng Sáu hay tháng Bảy tới. Anh không thích như vậy sao? Rồi đến tháng Tám, anh có thể được đi nghỉ phép – tới Hắc Hải. Tắm biển, anh có thể tưởng tượng được tắm biển là thế nào không? Đã bao năm rồi anh không được trầm mình dưới làn nước? Tù nhân có bao giờ được tắm ở ngoài trời đâu?"

"Có chứ" – Sologdin phản đối – "Đi chặt củi trong rừng, chúng tôi được tắm suối".

Vẫn đặt hai tay trên vai Sologdin, y lắc đầu:

"Không phải việc tắm khốn khổ khốn nạn ấy. Tắm biển khác. Nhưng mà thôi, anh không thể hiểu được. Bởi vì anh sẽ kết liễu đời anh ở Bắc cực, nơi những con sông không bao giờ có nước chảy. Này, tôi không thể tin được rằng ở đời này lại có những người không muốn được sống sung sướng. Anh hãy nói cho tôi biết tại sao anh lại đốt mẫu hình đó?"

Trong tròng mắt đen láy của Sologdin, Yakanov nhìn rõ cái đầu tròn của y. Trong tròng mắt ấy là thế giới sâu thẳm của một cá nhân, thế giới không người nào khác có thể vào được.

"Ông nghĩ vì sao tôi lại làm thế?"

Sologdin trả lời bằng một câu hỏi khác. Giữa hàng ria và bộ râu, vành môi ướt của anh rung động như chế giễu.

Yakanov nhấc tay ra, quay lưng lại và bắt đầu bước đi:

"Tôi không thể hiểu được. Làm như vậy là anh tự tử. Làm sao tôi hiểu…"

Và sau lưng y, Yakanov nghe thấy giọng nói vững vàng, trong lanh lảnh cất lên:

"Đồng chí Đại tá… Tôi làm thế là bởi vì tôi là một gã không quan trọng, ở đây không ai biết tôi. Tôi không muốn đánh mất cơ hội tôi có thể được tự do một cách ngu xuẩn…"

Yakanov quay phắt lại.

"Nếu tôi không đốt sáng chế của tôi, nếu tôi đặt nó nguyên vẹn trước mặt ông… thì ông Trưởng phòng tôi, hoặc ông, hoặc Oskolupov, hoặc bất cứ ai… ngay sáng mai sẽ đẩy tôi lên xe bít bùng và ngồi vào bàn ung dung ký tên lên sáng chế của tôi. Chuyện ấy từng xảy ra. Và, ở những nơi tôi được đưa đến, tôi không sao có điều kiện khiếu nại, họ tịch thâu từ mẩu bút chì cùn, tôi không có nổi một mảnh giấy, làm sao tôi làm đơn? Mà có làm được đơn, họ cũng chẳng thèm gửi đi…"

Yakanov nghe Sologdin nói với một cảm giác gần như sung sướng. Y đã thầm có cảm tình với Sologdin ngay từ phút tù nhân này bước vào đây.

"Như vậy có nghĩa là anh bằng lòng tạo lại mẫu hình?"

Người hỏi câu đó không phải là ông Đại tá Viện trưởng mà là một người tuyệt vọng, mệt mỏi, không có chút quyền hành.

"Sẽ làm lại một bản mẫu giống hệt như bản tôi đã nhờ Giáo sư Chelnov kiểm soát… trong ba ngày".

Đôi mắt Sologdin sáng rực lên:

"Và trong năm tuần lễ nữa, tôi sẽ thực hiện cho ông một mẫu hình đầy đủ chi tiết, một mẫu hình hoàn hảo về kỹ thuật chỉ còn có việc ráp lại là dùng. Được không?"

Yakanov nói như rên rỉ:

"Một tháng. Một tháng. Phải xong nó trước một tháng".

Sologdin thản nhiên gật đầu:

"Thì một tháng. Tôi sẽ làm xong cho ông trong một tháng".

Yakanov bỗng trở thành nghi ngờ:

"Sao vừa rồi anh nói với tôi là mẫu hình ấy không giá trị gì?"

Sologdin cười thành tiếng:

"Ha… ha… Đó là cái bệnh riêng của tôi. Tôi có bệnh hay quên. Sống quá lâu trong tù, tôi thiếu sinh tố và dưỡng khí nên lâu lâu tôi quên. Song bây giờ tôi nhớ kỹ lắm rồi. Bây giờ tôi hoàn toàn đồng ý với Giáo sư Chelnov: đó là một sáng chế hoàn hảo về mọi mặt".

Yakanov cũng mỉm cười. Y ngồi xuống ghế và thở ra một hơi dài như để đuổi hết ưu tư ra khỏi lồng ngực. Y bị hấp dẫn vì thái độ tự chủ của Sologdin, vì cách thức chỉ huy cuộc nói chuyện theo ý mình của người tù hãy còn trẻ này.

"Bạn chơi cái trò hơi liều đấy. Nếu gặp người khác, bạn có thể bị nguy…"

Không cần để ý tới lời trách của Yakanov, Sologdin ngồi xuống ghế và nhìn Yakanov với ý cười trong mắt:

"Bây giờ chúng ta làm gì?" Yakanov hỏi.

Sologdin nói như người đọc trên một tờ giấy:

"Trước hết, tôi không chịu giao thiệp với Oskolupov. Hắn là người thô tục và rất có thể, chuyên môn thích đòi đứng tên chung với người sáng chế. Tôi tin rằng ông không như hắn. Đúng không?"

Yakanov gật đầu. Sologdin nói gì y cũng thấy là đúng.

"Tôi cũng cần nhắc lại và nhấn mạnh để ông biết rằng mẫu hình của tôi đã thực sự bị đốt. Nếu ông thực lòng muốn cho việc tôi làm tiến triển mau lẹ, ông phải tìm cách nói riêng với ông Tổng trưởng Abakumov về tôi. Nếu không thể nói với ông Tổng trưởng được, ông nói với ông Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov. Ông ấy phải đích thân ký một Sự vụ lệnh chỉ định tôi làm Trưởng ban Chế tạo Đặc biệt cho công tác này. Đó sẽ là vật bảo đảm cho tôi và tôi sẽ hăng hái bắt tay vào việc. Tôi cần chữ ký của ông lớn bởi vì tôi cần tuyển chọn chuyên viên và làm việc theo ý tôi, lề lối làm việc của tôi sẽ khác hẳn với lề lối quen được áp dụng ở đây. Nghĩa là… tôi không chấp nhận chuyên viên làm việc đêm, làm thêm cả ngày Chủ nhật. Tôi chống lại việc biến những chuyên viên khoa học thành những hồn ma lờ đờ, ngái ngủ. Chuyên viên khoa học phải đến với công việc của mình với sự say sưa, hào hứng, sung sướng… như khi họ đi đến nơi hẹn ân ái với một người đàn bà đẹp, đa tình…"

Càng nói, Sologdin càng nói dễ dàng, trôi chảy hơn. Giờ đây anh thân mật với Yakanov như hai người từng chơi thân với nhau từ thuở nhỏ:

"Hãy để cho người ta ngủ, cho người ta nghỉ ngơi, cho người ta ăn uống đầy đủ để người ta làm việc. Đừng làm bận trí người ta với những lời vớ vẩn. Ông phải lo cho người ta những chuyện đó. ông cũng phải lo cho người ta cả chuyện ăn uống nữa. Đồng ý?"

Yakanov gật đầu.

"Như vậy là mọi việc đã được giải quyết xong? Tôi chỉ còn chờ đợi có đủ điều kiện là bắt tay vào việc?"

Yakanov lại gật đầu.

Kỹ sư Sologdin bước ra khỏi phòng. Chân anh đi những bước đi nhẹ nhàng, thơ thới nhưng vẫn vững chắc.


36. Không phải nghề tôi

Yakanov đi sau Foma Oskolupov lên cầu thang, nhưng khi tới hành lang, y tiến lên đi cạnh Oskolupov. Oskolupov không ưa phải đi cạnh Yakanov vì hắn vừa mập vừa lùn, thân thể hắn chỉ có bề ngang. Dù đội mũ, hắn cũng chỉ cao tới vai Yakanov.

Yakanov có thể chọn lúc này để báo cho Oskolupov biết về chuyện kỹ sư tù nhân Sologdin đã chế ra được mẫu hình giàn máy điện thoại bí mật. Y biết nếu ý nói ra, thái độ bất nhã và hung hăng của Oskolupov sẽ biến đi ngay. Kể từ đêm oan nghiệt cả hai cùng bị Tổng trưởng Abakumov đe dọa, Oskolupov gần như không còn nể nang gì y nữa.

Nhưng Yakanov vẫn chưa nắm được mẫu đồ hình nhưng sự can đảm cùng vẻ mặt, lời nói của Sologdin có một cái gì làm cho y tin chắc rằng Sologdin sẽ chịu chết chứ không chịu cho không sáng chế của mình. Sự tin chắc làm cho Yakanov thấy rằng y phải giữ lời hứa với Sologdin, phải làm theo những điều kiện của Sologdin. Đêm nay, y sẽ báo cáo vụ này với Sevastyanov, làm như vậy là y qua mặt Oskolupov. Oskolupov sẽ giận điên lên, chắc chắn như thế, nhưng rồi hắn cũng sẽ phải dịu ngay. Hắn sẽ xun xoe tìm cách chia phần, không ai dám gây sự với những người thành công. Chỉ cần thành công là xong hết.

Hai nữa, Yakanov đã có dịp thấy rõ Oskolupov lo âu, sợ hãi, cuống quít là chừng nào khi bị Tổng trưởng Abakumov đe dọa. Vì y quyết định để mặc cho Oskolupov sợ hãi thêm ít ngày nữa. Y thấy Sologdin đã nhận xét đúng khi nói rằng Oskolupov là hạng người thể nào cũng đòi ký tên chung với người sáng chế. Chỉ cần Oskolupov biết được rằng Sologdin đã sáng chế ra được mẫu hình giàn máy điện thoại, hắn sẽ lập tức nhốt riêng Sologdin vào một phòng, ngăn trở những người ra vô, sẽ đe dọa Sologdin, sẽ gọi điện thoại đến giục Sologdin cả ngày lẫn đêm để rồi sau cùng, hắn sẽ huênh hoang khoe rằng chính là nhờ sự đốc thúc của hắn mà công tác này thành công.

Tất cả những chuyện đó đều không phải là chuyện lạ với Yakanov – Y buồn nôn mỗi khi nghĩ đến những người thô bỉ như Oskolupov và những nghi kỵ, tranh giành, chèn ép ở trong ngành – nên y lặng yên không tiết lộ gì hết với Oskolupov. Tuy vậy, như để đền bù cho Oskolupov, khi vào văn phòng Viện trưởng, Yakanov làm một việc y chưa bao giờ làm trước mặt thuộc cấp là đứng ra đỡ cho Oskolupov cởi áo khoác ngoài.

Vẫn đội mũ, Oskolupov ngồi vào chỗ của Viện trưởng:

"Tên Gerasimovich làm gì ở đây?"

Yakanov ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh:

"Gerasimovich? Thưa để tôi coi… Hắn tới đây từ Stesnhevka từ tháng Mười. Từ ngày đó, hắn đã làm cái máy Tivi để biếu Đồng chí Stalin làm quà mừng sinh nhật".

"Gọi hắn đến đây".

Yakanov ra lệnh bằng điện thoại.

Stresnhevka cũng là một nhà tù đặc biệt giống như Viện Mavrino nằm trong vùng Mạc Tư Khoa. Mới đây, kỹ sư Bobyer, một tù nhân ở đó, đã thành công trong việc sáng chế một bộ phận điện tử gắn vào máy điện thoại tư nhân để nhân viên mật vụ nghe kiểm soát. Nhớ sáng chế này, kỹ sư Bobyer đã được giảm án và trả tự do ngay.

Viên sĩ quan trực mở cửa thò đầu vào:

"Thưa… tù nhân Gerasimovich xin vào".

Yakanov gật đầu:

"Cho vào".

Gerasimovich bước vào phòng. Anh vừa đi vừa sửa lại cặp kiếng trắng trên sống mũi, chân anh vướng vào mép thảm trải trên sàn phòng. Đứng trước hai viên chức cao cấp mập bự, hồng hào, Gerasimovich càng có vẻ gầy ốm, xanh xao.

"Các ông cho gọi tôi?"

Gerasimovich vừa đi gần tới gần vừa hỏi, mắt anh nhìn vào khoảng tường ở giữa Oskolupov và Yakanov.

"Ờ… ờ…" - Oskolupov đáp - "Ngồi xuống đây".

Gerasimovich ngồi xuống. Tấm thân xương xẩu lép kẹp của anh chưa đầy một nửa lòng chiếc ghế.

"Anh… Gerasimovich… Anh là một chuyên viên nhãn quang học? Địa hạt chuyên môn của anh không phải là tai mà là mắt, phải không?"

"Thưa phải".

Oskolupov tiếp tục hỏi. Hắn lướt đầu lưỡi trên hàm răng y như muốn chùi răng bằng lưỡi:

"Và anh là một người khá, hạnh kiểm tốt. Không ai than phiền gì anh, hả?"

Gerasimovich giữ yên lặng.

Oskolupov nheo một mắt lại để nhìn Gerasimovich:

"Anh có được biết gì về tình trạng của kỹ sư Bobyer, người cùng ở tù với anh trước đây ở Stresnhevka không?"

"Tôi có được nghe nói".

"Nhờ sự đề bạt và bảo đảm của chúng tôi. Bobyer đã được giảm án và trả tự do ngay. Anh biết chuyện ấy chưa? Anh còn phải ở bao nhiêu năm nữa?"

"Ba năm".

"Ba năm? Lâu dữ vậy sao?"

Oskolupov làm ra vẻ ngạc nhiên, như chuyện tù nhân còn phải ở vài ba năm nữa là chuyện hiếm có, như hắn chỉ gặp toàn những tù nhân ở tù vài ba tháng. Cách đây không lâu, hắn cũng hỏi thăm một tù nhân về hạn tù, và với mục đích làm tù nhân này đỡ buồn, Oskolupov đã nói: "Ở tù có mười năm? Ăn thua gì, người ta ở tù hai mươi nhăm năm kia…"

Và hắn hỏi tiếp:

"Bây giờ nếu có dịp có thể được ra trước bạn ấy, anh có thích không?"

Trái tim mà Gerasimovich tưởng đã chai cứng trong lồng ngực anh bỗng nhiên rung động. Câu hỏi này của Oskolupov trùng hợp một cách lạ kỳ với lời năn nỉ của Natasha, vợ anh, trong cuộc gặp ngày hôm qua.

Gerasimovich thực hiện sự tự chủ của anh, từ lâu rồi anh đã quyết định sẽ không hòa nhã, không vui vẻ với những kẻ có quyền, vành môi anh chỉ hơi nhếch trong một nụ cười ngạo mạn:

"Làm sao tôi thích cho được? Tôi không thấy có dịp nào để tôi có thể ra khỏi đây trước hạn…"

Oskolupov gật gù cái đầu vuông:

"Ha… Anh sẽ không thể ra sớm được nếu anh chỉ ngồi chế máy Tivi. Tôi dự định đưa anh trở về Stresnhevka trong ít ngày nữa và đặt anh cầm đầu một công tác. Nếu anh hoàn thành được dự án công tác ấy trong sáu tháng, anh có thể về nhà với vợ anh vào cuối mùa thu này".

"Tôi có thể được biết việc đó là việc gì không?"

"Nhiều việc lắm. Tôi có thể cho anh biết là tất cả những dự án đó đều đích thân do đồng chí Beria đặt ra. Chẳng hạn như có việc chế tạo và đặt những máy nghe ở những hàng ghế công viên. Người ta thường quen nói chuyện tự do, bừa bãi ở ngoài công viên. Nhờ những máy nghe ấy, ta có thể nghe được tất cả mọi chuyện. Nhưng việc chế tạo máy nghe không phải là nghề của anh phải không?

"Dạ phải. Không phải nghề tôi…"

"Hiện có hai dự án công tác này hợp với khả năng của anh. Cả hai dự án đều quan trọng và cấp thiết. Một là việc chế tạo những máy chụp hình có thể chụp được ban đêm mà không cần ánh sáng. Người ta gọi là … cái gì nhỉ? Hồng ngoại tuyến gì đó. Nhờ máy đó, mình có thể chụp hình một người ban đêm, ở trong nhà hoặc ngoài phố, tìm ra kẻ mà người đó liên lạc, gặp gỡ và bắt luôn cả hai. Tên bị chụp hình sẽ không bao giờ có thể biết vì sao những cuộc gặp gỡ ban đêm của hắn lại bị bại lộ. Ở ngoại quốc, người ta đã bắt đầu sáng chế những máy chụp hình hồng ngoại tuyến này nhưng chưa được hoàn hảo. Mình có thể tiến nhanh hơn họ. Điều cần nhớ là những máy chụp hình kiểu này phải đơn giản, dễ sử dụng, những nhân viên điều tra không phải ai cũng là khoa học gia. Đây là việc thứ hai. Tôi tin chắc anh có thể thực hiện nó dễ dàng. Ngành an ninh của ta đang rất cần có những chiếc máy này. Đó là máy chụp hình, cũng là máy chụp hình, nhỏ thôi để có thể gắn ở những cánh cửa mà không ai biết. Mỗi lần cửa mở là một lần máy tự động chụp hình. Như vậy là khỏi cần canh gác phiền phức, chỉ cần gắn cái máy nhỏ đó, ta có thể kiểm soát được hữu hiệu những nhà khả nghi. Bao nhiêu kẻ ra vào nhà đó sẽ bị chụp hình hết. Ta nắm được luôn bằng chứng. Máy này chỉ cần chụp ban ngày. Anh khỏi lo việc chụp hình ban đêm. Chúng tôi đang cần sản xuất thật nhiều loại máy này.

Gerasimovich đã hướng khuôn mặt gầy, khô héo của anh về phía cửa sổ, anh không còn nhìn vào bộ mặt vuông của Oskolupov.

Người tù thấy hiện ra trước mắt bộ mặt nhăn nheo của vợ anh, anh nhìn thấy những giọt nước mắt khô hoen trên gò má tái nhợt. Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm dài ý nghĩ sớm được trở về với cuộc sống tự do cuồn cuộn nổi lên trong tim anh.

Việc mà anh cần làm để có thể được trở về là nhận lời đề nghị đến rất đúng lúc này, anh chỉ cần làm như kỹ sư Bobyer đã làm: chế tạo một số máy làm cho một số dân ngu đần, không đề phòng bị bắt vào tù.

Làm thế, anh sẽ được ra khỏi tù nội trong năm nay, vợ anh sẽ còn sống…

Do dự, bối rối, Gerasimovich hỏi:

"Tôi có thể… ở lại đây với việc chế tạo máy Tivi?"

"Anh từ chối ư?"

Oskolupov bất mãn hỏi lại. Mặt hắn cau có. Với bộ mặt hung hãn ấy, hắn dễ biến thành giận dữ hơn là hòa nhã:

"Tại sao?"

Oskolupov gằn giọng hỏi.

Luật tù đày cho Gerasimovich biết rằng anh sẽ bị coi là lố bịch nếu anh tỏ ra thương hại những người dân ngu ngốc, khinh bạc sống lúc nhúc ở bên ngoài, cũng như khi anh từ chối giết một con heo thịt. Bọn dân ngu bên ngoài không biết hưởng tình trạng tự do của họ. Họ tự làm họ mất phẩm giá bằng những trò ganh tị, tranh giành bần tiện.

Natasha là người bạn đời của anh, nàng đã hy sinh cho anh cả tuổi xuân của nàng, nàng đang chờ đợi anh, đang mong đợi anh về với nàng. Nàng sắp chết, nàng đã sắp hết sức sống và khi nàng chết, anh cũng chết theo nàng.

"Lý do của tôi ư? Sao ông lại còn phải hỏi? Tôi không thể làm được việc đó!"

Gerasimovich trả lời thản nhiên, minh bạch.

Yakanov ngạc nhiên, nhìn ngay vào mặt người tù.

Oskolupov cố gắng dịu giọng để thuyết phục:

"Từ lâu rồi anh không được làm những việc quan trọng, nên anh sợ? Phải không? Anh nhút nhát quá đấy. Tôi biết anh thừa sức làm được việc này. Không cần anh nhận lời ngay, về suy nghĩ đi…"

Gerasimovich ngồi yên lặng, hai bàn tay gầy guộc như ôm chặt lấy hai thái dương.

Yakanov xen vào:

"Có gì mà cần anh suy nghĩ? Đó là nghề của anh mà?"

Gerasimovich có thể cứ nhận lời để rồi không làm, theo như lối phản đối tiêu cực của những tù nhân, nhưng anh đứng dậy, anh chiếu cặp mắt sáng rực nhìn khinh bỉ xuống bộ mặt vuông, phì nộn, đỏ au, ngu độn của tên đàn ông ngồi phì phị sau bàn:

"Không. Đó không phải là nghề của tôi…"

Giọng anh vút cao:

"Cho người ta vào tù không phải là nghề của tôi. Tôi không thể giăng bẫy bắt người. Họ bắt chúng tôi vào tù, vào tù đã là một điều bậy rồi…"


37. Không, không phải em…

Tất cả những người dự cuộc học tập chính trị buổi tối này đều nóng ruột muốn được ra sớm để về nhà. Họ đều đi ra khỏi nhà họ vào lúc bảy giờ hoặc tám giờ sáng nay để hấp tấp đến những trạm xe lửa, trạm xe buýt đón xe đi đến đây, và bây giờ họ biết chắc họ không thể nào về được đến nhà họ trước 9 giờ 30 tối.

Simochka còn nóng ruột mong cho cuộc học tập này sớm chấm dứt mặc dù đêm nay nàng ở lại viện làm nhân viên trực nhật và nàng không phải bận tâm với việc đón xe về nhà. Những làn sóng sợ hãi và sung sướng theo nhau dồn dập đến trong nàng và hai chân nàng run run, hai đầu gối nàng yếu như khi nàng say hampagne. Cuộc hẹn ái ân giữa nàng với Nerzhin sẽ đến trong vài giờ đồng hồ nữa. Nàng không thể để cho giây phút quan trọng nhất đời nàng trôi qua một cách cẩu thả, không chuẩn bị, chính vì vậy nên cách đây hai ngày nàng mới không gặp Nerzhin và hẹn chàng đến hôm nay. Suốt ngày hôm qua và cả nửa ngày hôm nay nàng chuẩn bị như người sắp đi dự một đại lễ. Nàng ngồi ngay bên cạnh bà thợ may để thúc giục bà này hoàn thành cho nàng chiếc áo mới – chiếc áo thật đẹp. Nàng đã tắm thật lâu, tắm toàn bộ, trong cái bồn thiếc để gần chật cả căn phòng nhỏ xíu của nàng ở Mạc Tư Khoa. Đêm qua, nàng đã để ra nhiều giờ để uốn tóc trong những chiếc kẹp và sáng nay, nàng mất nhiều giờ nữa để mở kẹp, chải tóc trước gương, nàng nghiên mặt nhìn nàng trong gương, cố gắng tìm những góc cạnh để có thể nghĩ rằng nàng cũng có những nét đẹp, quyến rũ.

Nàng nghĩ nàng sẽ gặp Nerzhin vào lúc ba giờ trưa, ngay sau đó nghỉ trưa, nhưng vào giờ đó nàng không thấy chàng đến. Rồi nàng bị gọi gia nhập vào một toán kiểm soát những bộ phận rời trong các phòng thí nghiệm. Sáu giờ tối nàng trở lại Phòng Âm thính nhưng vẫn không thấy Gleb. Rồi nàng phải dự cuộc học tập chính trị này. Suốt một ngày dài, nàng hay biết rằng trong ngày Chủ nhật hôm qua, Gleb Nerzhin đã được đưa đi gặp vợ, người vợ mà suốt một năm dài vừa qua chàng không được gặp.

Nhờ thân hình nhỏ bé, Simochka dễ dàng tìm được một chỗ ngồi chìm mất trong hàng ghế đông người nhất. Nàng cảm thấy hai má nàng mỗi lúc một nóng hơn mỗi lần nàng nhìn lên đôi kim của chiếc đồng hồ điện treo trên tường. Sau 8 giờ, nàng sẽ được gần Gleb.

Cuộc học tập nặng nề rồi cũng tan, mọi người vội vã ra về. Đến phút cuối cùng, Simochka cảm thấy hết can đảm, nàng chần chừ mãi với việc đi tới chỗ hẹn gặp người yêu.

Mãi tới 8 giờ kém 2 phút, trái tim đập liên hồi – mặc dù những lời khen chiếc áo đẹp do những bạn đồng nghiệp thốt ra đã đem lại cho nàng thêm nhiều can đảm – Simochka mới bước vào Phòng Âm thính. Những tù nhân làm việc buổi tối ở đây đã đệ nạp những hồ sơ, tài liệu để cất vào tủ sắt. Bàn làm việc của Gleb nổi bật lên: chàng không có ở đó. Tại sao chàng không nhớ? Chàng đi đâu? Ngọn đèn bàn vẫn bật sáng, chàng đã nộp những tài liệu để cất đi nhưng nàng thấy có một điểm khác thường: những giấy tờ trên bàn chàng chưa được xếp dọn gọn ghẽ như mọi tối, một tập san khoa học của Hoa kỳ còn mở rộng trên bàn. Phải chăng đây là ám hiệu của chàng để riêng cho nàng: "Anh sẽ trở lại ngay".

Trung tá Roitman đưa cho nàng chìa khóa phòng và cục si dùng để gắn cửa – đêm nào các cửa phòng thí nghiệm cũng phải niêm phong. Nàng thấy tối nay Trung tá Roitman có vẻ âu sầu:

"Serafima Vitalyevna… đêm nay có trực ư?"

Ông ta hỏi nàng câu đó trong lúc ông mặc áo ngoài và đội mũ.

Một hồi chuông điện dài vang dội trong những hành lang và tất cả những căn phòng trong Viện. Những người tù cuối cùng ra khỏi phòng. Simochka, với nét mặt nghiêm trọng, đi đi lại lại trong phòng. Những khi nàng không mỉm cười như thế, nàng để lộ vẻ nghiêm khắc và không chút hấp dẫn – nét xấu chính trên mặt nàng là sống mũi quá dài, quá nhọn của nàng.

Bây giờ chỉ còn có một mình nàng ở đây.

Bây giờ là lúc chàng phải đến.

Simochka đi khắp phòng, hai bàn tay khổ sở nắm chặt lại với sự bất lực. Nàng vừa phát giác ra một sự ngẫu nhiên tai hại: những tấm màn vẫn che những khung cửa sổ phòng này hôm nay được tháo xuống đem đi giặt, cả ba khung cửa sổ đều trần trụi. Bất cứ ai đứng ngoài bóng tối ngoài sân cũng có thể nhìn rõ khắp cả phòng này, trừ một khoảng nhỏ cuối cùng. Đó là chưa kể tháp canh ở đầu bức tường kia, người lính canh trên đó nhìn rõ mọi vật, mọi người trong phòng này.

Nàng có nên tắt hết đèn trong phòng không? Tắt thì được nhưng lỡ có người đi qua, tò mò vì chuyện có nhân viên trực trong phòng mà phòng lại tối om thì sao?

Không sao, không cần tắt đèn, mặc cho thiên hạ nhòm ngó. Nàng và Gleb vẫn có một chỗ kín đáo không ai thấy được. Đó là phòng ghi âm. Simochka đi tới đứng dựa vào khung cửa căn phòng nhỏ xíu này, nàng nhắm mắt lại. Lát nữa, nàng sẽ không tự ý bước vào đây. Chàng sẽ ôm nàng, kéo nàng, bồng nàng vào.

Do những cô bạn gái đã có kinh nghiệm của nàng kể lại, Simochka đã biết sẽ có những gì xảy ra. Nhưng đó chỉ là hình ảnh mơ hồ. Cơn xúc động trong nàng mỗi lúc một tăng, hai gò má nàng nóng rát như bị hơ lửa.

Cái mà nàng giữ gìn quá lâu nay trở thành một gánh nặng mà nàng cần bỏ đi. Nàng ao ước nàng sẽ có một đứa con với Gleb. Nàng sẽ đi làm nuôi con chờ đợi ngày chàng ra khỏi tù. Chỉ có năm năm nữa thôi, năm năm ngắn ngủi.

Những bước chân đi vững chắc, nhanh mau của Gleb vang lên ngoài hành lang, Simochka vội đi về bàn nàng, ngồi xuống ghế, tay cầm cây vặn đinh vít, nàng nhìn xuống giàn máy radio đặt sẵn trên bàn như nàng đang bận rộn làm việc.

Nerzhin đóng nhẹ cánh cửa để tiếng cửa đóng khỏi vang trên hành lang. Chàng nhìn ngay thấy Simochka cúi mặt trên bàn như một con chim nhỏ.

"Chim cút…", đó là danh từ âu yếm chàng vẫn gọi nàng.

Nerzhin đi thẳng tới chỗ nàng, chàng tới để nói với nàng những lời chàng phải nói, chàng tới để lạnh lùng và tàn nhẫn giết nàng.

Simochka ngẩng lên nhìn Gleb với đôi mắt rực sáng yêu đương, toàn thân nàng lạnh giá ngay lập tức. Nét mặt Gleb lúc đó không phải là nét mặt của người đàn ông đến để yêu đương.

Cho đến lúc này Simochka vẫn tin chắc khi vào đến phòng, Gleb sẽ hôn nàng và nàng sẽ chống cự, không phải nàng không chịu mà vì sợ người lính gác trên tháp canh nhìn thấy.

Nhưng chàng không nhào đến ôm nàng như nàng tưởng, chàng là người đầu tiên lên tiếng nói, giọng càng nghiêm trọng và buồn rầu:

"Cửa sổ không có màn che. Anh sẽ không đến gần em quá…"

Chàng đứng ở bàn làm việc chàng, hai tay chống lên mặt bàn, nhìn về phía nàng như ông quan tòa:

"Nếu không có ai đến làm phiền chúng ta, anh với em có đủ thì giờ thảo luận một chuyện quan trọng…"

"Thảo luận?"

Simochka ngơ ngác hỏi. Nàng quay mặt nhìn Gleb trong lúc chàng ngồi xuống bàn. Có sự việc vừa xảy đến với chàng mà nàng không hay biết? Sự việc này chắc là liên hệ với vụ Viện trưởng Yakanov gọi chàng lên văn phòng tối hôm thứ Bảy? Chàng sắp đi khỏi đây? Nhưng tại sao chàng lại không tới hôn nàng?

Cổ họng Simochka nghẹn lại khi nàng hỏi:

"Có chuyện gì?... Chuyện gì…?"

Yên lặng như chết bao vây họ. Không một tiếng động nào từ ngoài vang tới họ.

"Simochka … Anh không thể giấu không nói cho em biết…"

Nàng chờ đợi.

"Anh có lỗi với em, anh đã hành động thiếu suy nghĩ…"

Nàng vẫn không nói.

"Hôm qua… anh gặp vợ anh. Hôm qua anh được đi thăm".

Simochka rúm người lại trong lòng ghế. Thân hình đã nhỏ bé của nàng càng thêm nhỏ xíu.

"Sao anh không cho em biết trong ngày thứ Bảy?"

Giọng nàng lạo xạo như tiếng thủy tinh vỡ vụn.

"Simochka … Em nghĩ rằng anh có thể giấu em một chuyện như thế sao?"

"Tại sao không?", nàng nghĩ nhưng không nói.

"Mãi tới sáng qua anh mới biết. Thật bất ngờ. Anh được họ cho biết một tiếng đồng hồ trước khi đi. Suốt một năm nay anh không được gặp vợ anh nhưng sau lần gặp nhau hôm qua, anh… anh… thấy rằng…"

Chàng nói khổ sở, khó khăn, và chàng biết rằng người đàn bà kia còn khổ sở, đau đớn hơn chàng vì những lời này:

"…anh chỉ yêu có một mình nàng. Em không biết có những gì đã xảy ra giữa vợ chồng anh. Khi anh ở trại tập trung, nàng cứu sống anh. Không có nàng, anh đã chết. Nàng đã chết. Nàng đã hy sinh tuổi xuân cho anh, nàng cho anh cả đời nàng. Em nói em chờ anh nhưng… không thể được. Anh phải trở lại với nàng. Anh không thể… không thể…"

Gleb không còn có thể ngừng nói. Chàng đã nói rồi, chàng phải nói hết, như người bắn ra phát súng không thể hối hận chạy theo níu viên đạn lại. Phát súng giết người đã trúng đích, nạn nhân đã chết. Nói nữa hay ngừng cũng vậy thôi. Simochka gục xuống trên bàn, nàng gục xuống theo nghĩa đen, mặt nàng úp trên bàn và tóc nàng xõa vào giàn máy vô tuyến vẫn còn đỏ đèn.

Gleb nghe thấy những tiếng nức nở vang lên.

"Simochka… con chim cút của anh… Đừng khóc. Xin em đừng khóc".

Chàng âu yếm nói, nhưng chàng vẫn ngồi xa nàng hai mặt bàn, chàng vẫn không thèm xê dịch.

Nếu nàng phản ứng bằng cách dữ dội, sỉ nhục chàng, chàng đã thản nhiên bỏ đi, thoải mái, nhẹ người. Nhưng sự yếu đuối không chút tự vệ của nàng làm cho tim chàng thắt lại vì hối hận.

"Đừng khóc. Em đừng khóc. Lỗi tại anh. Hoàn toàn do lỗi ở anh. Anh đã làm em khổ nhưng anh không còn cách nào khác. Em bảo anh phải làm sao bây giờ?"

Chàng đau khổ khi thấy người đàn bà này khóc nhưng chàng cũng không sao có thể làm cho Nadya, vợ chàng, phải khóc. Sau cuộc gặp mặt Nadya hôm qua, chàng không còn có thể nghĩ đến chuyện ôm, hôn một người đàn bà nào khác, dù người đó có là người đàn bà chàng đã hẹn hò như Simochka.

Nàng khóc mãi và sau cùng, Gleb cũng ngừng việc yêu cầu nàng thôi khóc, chàng đốt điếu thuốc lá và đi ra đứng bên cửa sổ nhìn trời đêm.

Khi chàng quay lại, Simochka mở lớn đôi mắt nhìn chàng. Mặt nàng ràn rụa nước mắt và nàng không lau đi, nhưng ánh mắt nàng rực sáng. Lúc ấy, đôi mắt nàng thật đẹp:

"Anh và vợ anh chưa ly dị ư?"

Nàng hỏi, rõ ràng, và nàng đã hỏi đúng vào câu nàng cần hỏi. Gleb sẽ không còn có trách nhiệm gì nữa nếu vợ chàng đòi ly dị – trường hợp ấy thường xảy ra với các tù nhân – Hôm qua, Nadya cũng có nói đến chuyện ly dị nhưng chàng không nên nói lại với Simochka.

"Không…"

Chàng đáp nhưng cố không để cho Simochka cảm thấy là chàng tránh nói đến tiếng "ly dị".

"Vợ anh chắc là đẹp lắm?"

"Với anh thì nàng đẹp…"

Simochka thở dài:

"Nếu nàng đẹp, nàng sẽ không chờ đợi anh…"

Simochka không thể nào chấp nhận được quyền làm vợ của người đàn bà xa lạ nào đó mà nàng chưa hề gặp. Người đàn bà đó chỉ sống với Gleb một thời gian nào đó thôi, nhưng đã lâu lắm rồi, đã tám năm người đàn bà đó không ở gần Gleb, không chia sẻ buồn vui với Gleb, chắc chắn thị phải đi lại với nhiều người đàn ông khác. Không một người đàn bà trẻ đẹp nào lại có thể chịu đựng nổi tám năm. Gleb phải thuộc về nàng, về Simochka. Đêm nay, nàng có quyền làm vợ Gleb.

"Nàng sẽ không chờ anh đâu…"

Simochka nhắc lại. Lời nàng nói như mũi kim nhọn đâm vào tim Gleb.

"Nàng đã chờ trong tám năm…"

Gleb phản đối, nhưng bản tính lý luận của người khoa học trong chàng bắt buộc chàng phải nói thêm:

"Tất nhiên những năm cuối cùng là những năm khó khăn nhất…"

Simochka đưa mu bàn tay lên chùi nước mắt, nàng nhắc lại, thì thầm như nói một mình:

"Nàng sẽ không chờ…"

Nerzhin nhún vai. Quay lại nhìn ra những điểm sáng rải rác trong vùng trời đêm bên ngoài, chàng cũng nói như người nói một mình:

"Nếu nàng không chờ cũng không sao. Điều quan trọng là mình không có lỗi…"

Đột nhiên, luồng tư tưởng lôi cuốn chàng, Gleb nói đều đều:

"Simochka… tôi không tự cho tôi là người tốt. Khi nhớ lại những gì tôi đã làm – như nhiều người khác đã làm – ở trên đất Đức, tôi thấy rõ tôi không phải là người tốt. Lúc ấy, tôi không biết thế nào là tốt, xấu, tôi chưa hề nghĩ đến chuyện con người có thể làm những việc gì và không nên làm những việc gì. Nhưng từ ngày ở tù, tôi thấy, tôi biết. Càng sống mất phẩm giá chừng nào, tôi càng thấy giá trị của con người… Nếu vợ tôi không chờ tôi? Nếu vợ tôi không chung thủy với tôi? Cũng không sao. Không có gì thay đổi. Tôi sẽ chết vô ích ở Bắc cực. Nhưng khi nào ta chết, ta được biết chắc rằng ta không phải là một thằng đểu, ta còn là một người, đó là một điều làm ta hài lòng. Ta chỉ cần có thế mà thôi…"

Chàng có thể nói dài, nói lâu về đề tài trừu tượng này, nhất là khi chàng chẳng còn chuyện gì để nói. Nhưng Simochka không còn nghe bài giảng của chàng. Nàng đang kinh hoàng tưởng tượng đến cảnh thê thảm của đời nàng, nàng sẽ về nhà tả tơi như cái mền rách, nằm vật xuống giường – chiếc giường trong nhiều đêm nàng ngủ với cảm giác có chàng nằm bên – Nàng đã chuẩn bị long trọng đến chừng nào cho đêm nay. Nàng đã tắm kỹ, đã thoa nước bông… Thật nhục nhã và cay đắng.

Nhưng nếu một cuộc gặp gỡ chớp nhoáng diễn ra trong nửa giờ, với sự có mặt của nhân viên an ninh, có sức mạnh hơn cả một năm dài nàng ngồi cạnh chàng, hơn cả sự hy sinh của nàng, nàng đành chịu thua, đành bất lực.

Nerzhin ngừng nói khi thấy rằng Simochka không nghe, và nàng không cần chàng giải thích, an ủi. Chàng lén nhìn lên đồng hồ: còn những hai mươi nhăm phút nữa mới đến 9 giờ.

Simochka không thể bảo chàng đi đi, và Nerzhin cũng không thể bỏ ngay đi được, mặc dù cả hai người cũng biết rõ là họ chẳng còn có gì để nói với nhau, họ ngồi bên nhau vô ích và chỉ làm cho nhau thêm khó chịu.

Những ngón tay vô hồn của Simochka vặn một nút điện trên giàn máy radio và tiếng nhạc bỗng tràn đầy gian phòng. Giữa tiếng đàn dây rền rĩ họ nghe tiếng hát ấm và nồng nàn của danh ca Obukhova:

Không…! Không phải em là người tôi yêu…
Nhan sắc em không làm tôi xúc động…

Thật là lạ lùng. Như người ta cố ý hát lên bài này để làm tăng thêm nỗi đau khổ của Simochka. Nàng run rẩy lắng nghe…

Tuổi trẻ…
Tuổi trẻ qua đi…
Chúng ta mất hết…
Không còn gì…
Không…! Không phải em là người tôi yêu…

Nerzhin đến gần đưa tay ra định tắt máy, nhưng với vẻ cương quyết hiếm có, Simochka nói lớn:

"Đừng. Mở lớn hơn đi!"

Và nàng lại khóc.

Gleb rung động, khẽ nói:

"Em tha lỗi cho tôi".

"Không sao…"

Simochka can đảm gượng cười nhưng những giọt nước mắt vẫn rơi trên má nàng.

Và lạ lùng thay, Obukhova càng hát, cả hai người cùng cảm thấy dễ chịu. Mười phút trước, họ xa cách nhau đến nỗi họ không còn đủ ý chí để chào từ biệt nhau. Giờ đây một cái gì dịu dàng tươi mát đã đến với họ.

Khi nào chúng ta xa nhau…
Hãy hôn nhau…
Dù chỉ là chiếc hôn…
Rất nhỏ…

Không nghĩ đến việc người lính canh bên ngoài có thể nhìn thấy, Nerzhin cúi xuống, nâng mặt Simochka bằng hai bàn tay, hôn lên trán nàng.

"Simochka… Em đi rửa mặt đi. Họ sắp tới xét tù đấy…"

Nàng giật mình, nhìn lên đồng hồ và hiểu. Đôi lông mày mỏng của nàng nhếch lên, như đến giây phút này nàng mới thật hiểu có những gì đã xảy đến với nàng tối nay. Ngoan ngoãn và buồn rầu, nàng đi tới bồn sứ có vòi nước ở cuối phòng.


38. Hãy bỏ lại hy vọng, hỡi những ai vào đây

Một ngày nữa lại trôi qua, mặc dù sự lo âu của Innokenty không giảm, vẫn không có gì khả nghi là việc làm của chàng bị bại lộ xảy ra hết. Tuy vậy, Innokenty biết rằng đêm xuống, chàng sẽ lo sợ nhiều hơn, bởi vậy chàng quyết định sẽ đi coi hát cùng với Dotty, vợ chàng. Chàng sẽ trốn trong rạp hát để khỏi phải giật mình mỗi khi có tiếng chuông cửa.

Bỗng tiếng chuông điện thoại reo vang. Đây là lúc vợ chồng Innokenty sửa soạn đi coi hát. Dotty, tươi trẻ và quyến rũ trong bộ áo tắm mặc sơ trên người, vừa đi ra khỏi phòng tắm.

Innokenty đứng đó, chàng mệt mỏi nhìn xuống máy điện thoại:

"Dotty" – chàng bảo vợ – "em trả lời cho anh. Có ai hỏi anh em trả lời anh không có nhà, không biết đến bao giờ anh về. Họ có thể làm hỏng đêm nay của vợ chồng mình".

Một tay nắm ngực áo. Dotty nhấc ống nói:

"Alô? Nhà tôi không có nhà… Ai? Ai đó?"

Bỗng dưng giọng nói và vẻ mặt của nàng đổi thành thân thiện:

"Alô… Kính chào Đồng chí Đại tướng… Dạ… dạ…để tôi hỏi lại xem… Xin chờ…"

Nàng che ống nói và đôi mắt sáng lên, nhìn chồng:

"Đại tướng muốn nói chuyện với anh. Ông ấy có vẻ vui lắm…"

Nghi ngờ nổi lên trong Innokenty. Việc ông Đại tướng đích thân gọi tới nhà một nhân viên dưới quyền ban đêm, và ông lại tỏ ra vui vẻ nữa, là một việc ít có.

Dotty ghi nhận sự do dự của chồng, nàng linh động nói vào máy:

"Có người mở cửa. Chắc là nhà tôi về… Dạ, đúng là nhà tôi. May quá…. Ini… lại đây mau… Đại tướng gọi anh…"

Mặc dù Dotnara chưa từng bao giờ học về diễn xuất, nàng cũng chưa bao giờ lên sân khấu đóng kịch nhưng giọng nói của nàng làm cho kẻ đa nghi nhất ở đầu dây nói bên kia cũng phải nhìn thấy cảnh Innokenty vừa mở cửa vào nhà, giơ tay định cởi áo ngoài và trước tiếng gọi của vợ, đi tới chỗ đặt máy điện thoại.

Giọng nói của ông Tướng đúng là giọng nói vui vẻ như Dotty đã nhận thấy. Ông hiền hòa báo cho Innokenty biết rằng sự ủy nhiệm của chàng đã được cấp tối cao chấp thuận: sáng thứ Tư, chàng sẽ ngồi phi cơ bay đi Paris, ngày mai chàng sẽ bàn giao chức vụ ở Bộ và ngay bây giờ, chàng phải tới sở để nhận những chỉ thị mật cuối cùng. Chàng sẽ mất chừng nửa tiếng đồng hồ. Một chiếc công xa đã được Bộ Ngoại giao cho tới nhà chàng để đón chàng.

Innokenty đặt máy xuống. Chàng thở ra một hơi dài, hài lòng, nhẹ người. Cùng với hơi thở này, chàng trút hết cơn sợ hãi và nghi ngờ dồn ép ở trong ngực chàng kể từ phút chàng gọi điện thoại đến nhà Giáo sư Dobroumov.

"Dotty… anh sẽ bay đi Paris vào sáng thứ Tư. Ngay bây giờ anh phải tới sở…"

Vợ chàng đã ghé tai vào ống nghe và nàng cũng đã nghe rõ tất cả, nàng nghiêng đầu, duyên dáng hỏi chồng:

"Chỉ thị mật là những chỉ thị gì? Có chỉ thị nào liên can đến em không?"

"Có thể".

"Anh sẽ nói gì với họ về em? Không có em, làm sao anh đến Paris được? Anh cứ nói là không có em, anh không thể làm việc được. Em muốn đi Paris với anh".

"Tất nhiên là em cũng đi chứ, nhưng không đi ngay thôi. Anh phải đến Paris trước, làm quen với mọi việc, mọi người…"

"Nhưng em muốn đi Paris ngay kia".

Innokenty mỉm cười, chàng hôn nhẹ lên má vợ:

"Để anh gắng xem, cũng có thể là em cùng đi ngay với anh, có thể là em phải đi sau. Chưa thấy họ quyết định gì cả. Bây giờ anh tới Bộ. Họ cho xe đón anh, em cứ sửa soạn, nhưng từ từ thôi. Đừng vội. Chúng mình sẽ bỏ màn đầu. Đêm còn dài. Trước khi về, anh sẽ gọi điện thoại từ Bộ cho em biết".

Chàng vừa bận xong bộ sắc phục ngoại giao thì có tiếng chuông cửa, người tài xế của Bộ đem xe đến đón. Người tài xế này không phải là Victor, người vẫn thường đến đón chàng mọi ngày. Hắn hơi gầy, cử chỉ nhanh nhẹn, nét mặt vui và có vẻ có học. Hắn đi sát sau Innokenty trên đường xuống thang lầu, tay hắn quay quay dây chìa khóa xe.

"Tôi không nhớ mặt anh…" Innokenty vừa gài nút áo ngoài vừa nói.

"Tôi có được đến đón ông hai lần…"

Gã tài xế nhanh nhẩu đáp. Nụ cười của hắn vừa ngây thơ vừa tinh quái. Innokenty nghĩ rằng hắn thuộc tài xế khôn lanh rất được việc và làm được nhiều việc khác ngoài việc lái xe.

Họ vào chiếc xe đen đậu trước cửa và xe mở máy chạy đi. Innokenty ngồi ở băng sau. Hai lần, gã tài xế gợi chuyện nói với chàng nhưng chàng không nghe. Bỗng chiếc xe quẹo gấp vào vỉa hè và dừng lại. Innokenty nhìn thấy một người đàn ông hãy còn trẻ đứng ở bên hè với ngón tay giơ lên:

"Ông này là Ủy viên Kiểm soát Công xa…" - gã tài xế giải thích - "chúng tôi bắt buộc phải cho ổng đi nhờ…"

"Được. Được. Không sao…"

Gã tài xế nhoài người ra mở cánh cửa băng trên, nhưng khóa cửa bị kẹt, hắn tắc lưỡi rồi ngoảnh lại nói:

"Đồng chí Cố vấn… xin phép đồng chí cho ông ấy được ngồi băng sau… Tôi bị bắt buộc…"

"Được. Được. Không sao".

Innokenty nhắc lại. Chàng đang ở trong trạng thái tâm hồn phơi phới, chàng như đang nhìn thấy chàng nhận sổ thông hành, chiếu khán, đi theo đoàn hành khách vô tư lên phi cơ, bay vút lên trời, bỏ hết mọi nguy hiểm, âu lo lại sau lưng.

Gã Ủy viên Kiểm soát Công xa, một điếu thuốc dài gắn trên vành môi, cúi mình vào xe. Gã nói: "Xin lỗi" và buông mình ngồi phịch xuống.

Chiếc xe chồm trên mặt đường.

Trong khoảnh khắc, Innokenty cảm thấy cái cảm giác ghê tởm phải ngồi ăn với một gã đàn ông lạ mà chàng nghi là không được sạch sẽ lắm. Chỉ trong nửa phút xe chạy, gã đàn ông lạ đó đã làm không khí trong xe tràn đầy khói thuốc lá.

Innokenty nói, giọng hơi gay gắt:

"Hạ cửa xe cho khói ra chứ".

Nhưng gã đàn ông lạ như không nghe rõ chàng nói gì. Gã không hạ cửa kiếng xe, thay vì làm thế, gã nghiêng người móc trong túi ra một tờ giấy, mở rộng, đưa cho Innokenty:

"Này, đồng chí, đọc giùm tôi cái này, để tôi chiếu đèn cho sáng".

Xe chạy vào một con đường tối, có thể là đường Pushecnhaya. Gã đàn ông lạ móc túi lấy ra cây đèn bấm làm theo kiểu cây viết. Gã chiếu vòng ánh sáng vàng lên mặt giấy xanh. Innokenty nhún vai, chàng đỡ lấy tờ giấy với cảm giác ghê tởm và bắt đầu lơ đãng đọc:

"Tôi, Chưởng lý Công tố viện Liên bang Xô Viết ra lệnh…" Vừa đọc chàng vừa nghĩ đến chuyện tại sao gã lạ mặt này lại đưa cho chàng đọc tờ giấy này, bộ gã không biết chữ hay sao, hay là gã say rượu? - "bắt giam" – chàng đọc nhưng vẫn chưa hiểu là chàng đang đọc gì – "tên Volodin, Innokenty Aratemyevich, sinh năm 1919…"

Chỉ đến lúc đó, khi thấy tên mình hiện lên trên tờ trát tống giam, Innokenty mới thấy chàng bị đâm suốt từ đầu đến chân, bằng một mũi kim dài và nhọn hoắt. Chàng mở lớn miệng, nhưng không một âm thanh nào thoát ra được. Bàn tay, vẫn cầm tờ giấy, rơi xuống đùi chàng và gã đàn ông lạ mặt, đưa tay trái lên nắm cổ áo chàng, chiếu đèn bấm vào mặt chàng, gằn giọng:

"Ngồi im. Ngồi im. Đừng làm bậy. Chết ngay lập tức…"

Gã làm Innokenty hoa mắt vì ánh đèn và thở khói thuốc mù mịt mặt chàng.

Mặc dù Innokenty vừa đọc lệnh bắt giam chàng, và mặc dù chàng hiểu rằng đời chàng đến đây là hết, ngay lúc đó, điều làm chàng không sao chịu nổi là những ngón tay cứng như sắt của kẻ lạ túm lấy cổ áo chàng, và ánh đèn, khói thuốc phà vào mặt chàng:

"Buông ra…"

Chàng đưa những ngón tay run rẩy lên gỡ bàn tay nắm cổ chàng, tuy chàng biết hơn ai hết rằng trát bắt giam không phải là trát giả mạo, chàng bị bắt thực sự nhưng chàng vẫn còn tin rằng nếu chàng tới được Bộ Ngoại giao, gặp được những thượng cấp quen biết của chàng, lệnh này sẽ được hủy bỏ. Chàng run rẩy mở cửa xe, nhưng khóa cửa không mở.

"Tài xế…" - chàng giận dữ kêu lên – "thế này là nghĩa lý gì? Các người định làm gì tôi?"

Gã tài xế thay đổi hẳn thái độ, vừa gia tăng tốc lực cho xe chạy mau hơn, gã vừa hung hãn trả lời:

"Tôi phục vụ Liên bang Xô Viết…"

Xe chạy qua công trường Lubyanka sáng trưng ánh đèn như cố ý để cho Innokenty nhìn thấy lần cuối cùng không những là thế giới mà chàng sắp rời bỏ mà còn cho chàng thấy cả hai tòa nhà Lubyanka Cũ và Mới, một trong hai tòa nhà đó, năm tầng cao, là nơi kết liễu cuộc sống của chàng.

Nhiều dãy xe hơi dừng lại khi đèn đỏ và từ từ chuyển bánh khi đèn đổi màu xanh. Những chiếc xe buýt chở đầy người. Hai bên vỉa hè, người ta chen vai nhau đi. Không ai biết gì đến nạn nhân đang bị bắt đi đến chỗ chết thê thảm ngay ở trước mắt họ.

Chiếc xe chạy tới ngang mặt tòa nhà nổi tiếng khắp thế giới và quẹo vào đường Lubyanka Bolshaya. Những cánh cổng sắt đen mở ra khi xe vừa tới và đóng ngay lại khi xe vừa đi qua.

Khi xe chạy qua cổng sắt, nắm tay trên cổ áo Innokenty mới nới lỏng, khi xe vào đến sân, gã lạ mặt mới hoàn toàn buông chàng. Gã nhanh nhẹn mở cửa xe bên phía gã và bước ra:
"Đi ra…"

Gã tài xế cũng xuống xe. Gã mở cánh cửa xe phía Innokenty. Rõ ràng là ở trong xe mở không được cửa nhưng ở ngoài thì mở được.

"Đi ra. Tay để ra đằng sau".

Gã cũng nói bằng giọng ra lệnh. Lúc này, gã không còn giống chút nào với gã tài xế tươi tỉnh, vui vẻ khi Innokenty mới nhìn thấy gã.

Innokenty ra khỏi xe. Chàng đứng thẳng người lên và làm theo lời ra lệnh, mặc dù chàng không biết tại sao chàng lại làm theo, chàng đặt hai tay ra đằng sau.

Bọn đi bắt chàng đã đối xử với chàng một cách thô bạo nhưng dù sao, việc bị bắt, đối với chàng, cũng không đến nỗi ghê khiếp quá như chàng tưởng tượng trong thời gian chờ đợi bị bắt. Chàng có cái cảm giác gần như là dễ chịu. Như vậy là chàng không có cái gì phải sợ nữa, không còn gì để phải chiến đấu, phải giả vờ. Chàng có cảm giác tê dại như người lính khi bị thương.

Chàng nhìn quanh mặt sân nhỏ, tăm tối. Mặt sân này là đáy một cái giếng sâu, thành giếng là những tòa nhà cao bao quanh.

"Không được nhìn" – gã tài xế đẩy chàng – "Đi".

Họ đi thành hàng một, Innokenty đi giữa, qua những nhân viên mật vụ bận đồng phục MGB thản nhiên, qua một cổng đá thấp, xuống vài bậc đá, vào một mặt sân nhỏ khác – sân này có mái che nên u tối hơn – rồi rẽ trái. Gã tài xế mở một cánh cửa, cánh cửa này trông sang và đẹp như cửa phòng mạch bác sĩ nhà giàu.

Cửa mở vào một hành lang nhỏ, sạch, sáng đèn. Gã tài xế đi đầu bắt đầu tắc lưỡi như để gọi chó mặc dù không thấy bóng một con chó nào hết.

Hành lang ngừng trước một cánh cửa khác. Nửa trên của cánh cửa này là kiếng nhưng có màn nhung che bên trong. Trên tường có tấm bảng đồng khắc hàng chữ: PHÒNG TIẾP NHẬN NGƯỜI BỊ BẮT.

Gã tài xế nhấn chuông cửa. Tấm màn bên trong được vạch ra và bộ mặt dài như mặt ngựa của người gác, bận đồng phục mang cấp bậc Trung sĩ, thản nhiên nhìn ra. Rồi y mở cửa và gã tài xế một mình bước vào phòng. Cánh cửa đóng lại sau lưng chúng.

Innokenty và gã mặt lạ đứng im lặng trước khung cửa.

Tấm bảng PHÒNG TIẾP NHẬN NGƯỜI BỊ BẮT là thứ bảng giống như bảng NHÀ XÁC hoặc PHÒNG TIẾP NHẬN XÁC CHẾT – và nghĩa của nó cũng như thế. Innokenty không còn có cả ý lực để tỏ thái độ bất bình với gã đàn ông lạ mặt đã đóng kịch để bắt chàng, gã đàn ông đầy hỗn xược. Chàng nên phản đối, la hét, đòi hỏi pháp luật và công lý, nhưng lúc này, chàng quên mất cả việc chàng vẫn giữ hai tay sau lưng. Tâm trí chàng đã ngừng hoạt động và chàng nhìn ngây, như bị thôi miên, lên tấm bảng PHÒNG TIẾP NHẬN NGƯỜI BỊ BẮT.

Cánh cửa lại mở và gã nhân viên mặt dài ra hiệu cho họ bước vào. Gã đi trước họ, lưỡi tặc tặc như gọi chó.

Trong phòng này cũng không có chó.

Phòng có đèn sáng và sạch như phòng bệnh viện.

Trong phòng có hai cửa sơn xanh, gã nhân viên mở một cánh cửa và nói:

"Vào đây".

Innokenty bước vào. Chàng vừa vặn kịp nhìn quanh để biết rằng phòng này không có cửa sổ và đồ đạc trong phòng chỉ là một cái bàn gỗ dài và hai cái ghế đẩu, hai tên mật vụ đi bắt chàng đã tới sau lưng chàng. Một tên khóa hai tay chàng ra sau lưng, tên kia lục soát các túi chàng.

"Các người ăn cướp à?" – Innokenty kêu lên, nhưng tiếng kêu của chàng đã yếu "…Ai cho các anh có quyền khám tôi…?"

Chàng yếu đuối chống cự, nhưng tự biết rõ rằng đây không phải là bọn cướp bóc và hai gã mật vụ này chỉ làm công việc được giao phó cho chúng làm sức lực của chàng tiêu tan và giọng nói của chàng thiếu những thanh âm quyết liệt.

Họ lấy chiếc đồng hồ vàng ra khỏi túi chàng cùng hai cuốn sổ tay, một cây bút bằng vàng, và một chiếc khăn tay. Chàng nhìn thấy trong tay chúng cái phù hiệu đeo ở vai áo của nhân viên ngành ngoại giao nhưng ngay lúc đó chàng không biết đó chính là phù hiệu của chúng lột ra ở vai áo của chính chàng. Cuộc giằng co tiếp tục. Gã mật vụ đóng vai Ủy viên Kiểm soát đưa trả chàng cái mùi-soa.

"Cầm lấy".

"Bàn tay bẩn thỉu của các anh đã cầm nó…"

Innokenty rít lên và lùi lại, như chàng bị bắt cầm một vật gì ghê tởm.

Chiếc khăn rơi xuống sàn.

"Người ta sẽ cho anh một tờ biên nhận những vật này…"

Gã mật vụ lái xe nói, sau đó cả hai đi vội ra khỏi phòng.

Gã Trung sĩ mặt dài, trái lại, đủng đỉnh không chút vội vàng. Nhìn chiếc khăn tay nằm dưới sàn, gã khuyên:

"Nên nhặt lên là hơn".

Nhưng Innokenty vẫn không chịu cúi xuống.

"Chúng nó lột phù hiệu của tôi…"

Chàng điên lên vì giận. Đến lúc này chàng mới biết là cặp phù hiệu trên vai áo của chàng đã bị hai tên mật vụ lột mất.

"Hai tay sau lưng" – gã Trung sĩ nói bằng một giọng máy móc – "Đi".

Và gã tắc lưỡi.

Hành lang đi vòng và mở vào một hành lang khác, hai bên có những ô cửa nhỏ sơn màu xanh ô-liu. Mỗi ô cửa có một bảng số ghi hình bầu dục. Trong lúc Innokenty và gã Trung sĩ đi qua hành lang, một cô nữ nhân viên mật vụ đã có tuổi, cũng bận đồng phục MGB, cũng mang cấp bậc Trung sĩ, đang đứng nhìn qua lỗ nhòm đục trên cánh cửa vào một văn phòng. Mụ thản nhiên buông miếng gỗ che lỗ nhòm xuống và quay lại nhìn Innokenty như chàng từng đi qua đi lại trước mặt mụ cả trăm lần trong ngày và không hề có gì lạ đáng để ý trong việc chàng đi trước mặt mụ một lần nữa. Mụ tra một chìa khóa dài vào ổ khóa thép của ô cửa ghi số 8, đẩy cánh cửa và ra hiệu cho chàng:

"Vào đi".

Innokenty bước qua cánh cửa vào phòng. Trước khi chàng kịp quay lại để hỏi, cánh cửa đã đóng lại.

Như vậy đây là nơi chàng phải sống? Một ngày? Một tháng? Một năm? Nhiều năm? Không thể gọi đây là một căn phòng, cũng không thể gọi đây là một xà lim, bởi vì, qua những gì ta biết nhờ sách vở, một căn phòng ít nhất cũng phải có một cửa sổ, và có chỗ để có thể đi đi lại lại, dù rất nhỏ, rất hẹp. Ở đây Innokenty không thể bước đi, cũng không thể nằm xuống được, chàng chỉ có thể ngồi. Một cái bàn gỗ và một cái ghế đẩu chiếm hết chỗ. Ngồi lên ghế, chàng không duỗi thẳng chân ra được.

Không còn gì nữa trong cái ô nhỏ này. Tường và trần sơn trắng được chiếu sáng rực bởi một bóng điện 200 nến nằm trong cái giỏ dây thép trên trần.

Innokenty ngồi xuống. Hai mươi phút trước chàng còn đang tưởng tượng ra cảnh chàng đến Paris nhận chức vụ mới. Hai mươi phút trước cuộc đời chàng là một dòng sự kiện êm đẹp, trôi chảy nhịp nhàng, những sự kiện ăn khớp với nhau, soi sáng cho nhau và mỗi sự kiện đánh dấu một thành công. Nhưng hai mươi phút đã qua, giờ đây trong cái bẫy nhỏ hẹp này, cuộc đời cũ đối với chàng chỉ là một xâu những lỗi lầm, những thất bại.

Không có tiếng động nào vang từ ngoài hành lang vào, trừ đôi khi có tiếng mở cửa đâu đó. Chừng hai phút một lần, một số gỗ che lỗ nhìn được nhấc lên và một con mắt nhìn qua làn kiếng vào chỗ chàng. Ở trong nơi nhỏ hẹp này, người tù không thể có chỗ tránh được mắt nhìn soi mói của người canh.

Innokenty bắt đầu cảm thấy nghẹt thở và nóng bức. Chàng cởi chiếc áo ngoài và buồn rầu nhìn vai áo bị lột mất cầu vai. Không có đinh treo áo trên tường, chàng phải để áo và mũ lên bàn.

Một chuyện kỳ lạ nữa xảy ra, giờ đây cuộc đời chàng đã bị sét đánh trúng, Innokenty vẫn không thấy trí óc mình tê liệt vì sợ hãi. Thực ra, trí óc chàng lại bắt đầu làm việc, nó tập trung vào những lầm lỗi chàng đã phạm. Tại sao chàng không đọc kỹ, đọc hết trát bắt giam? Tờ trát ấy có hoàn toàn hợp pháp không? Có con dấu của nhà nước trên đó không? Có chữ ký của ông Biện lý không? Có. Chàng nhớ rằng chữ ký ở ngay trên đầu tờ giấy. Nhưng chàng không nhớ trát được ký vào ngày nào. Và chàng bị kết tội gì? Không biết ông Đại tướng có biết vụ này hay không khi ông gọi điện thoại cho chàng? Chắc chắn là ông phải biết. Như vậy nghĩa là cuộc điện đàm đó cũng chỉ là một phần trong màn kịch bắt chàng. Tại sao họ phải bày ra hai tên tài xế và Ủy viên Kiểm soát?

Chàng cảm thấy có vật gì nhỏ và cứng nằm trong một túi áo. Móc ra xem, chàng thấy đó là cây viết chì nhỏ rơi ra từ một quyển sổ tay của chàng. Innokenty mừng rỡ khi tìm thấy cây bút. Nó có thể hữu dụng với chàng. Bọn này thật tồi. Ngay cả trong khám đường Lubyanka bọn mật vụ cũng không thực hiện được một cuộc khám xét chu đáo. Sau khi lựa chỗ tốt nhất để giấu cây bút, Innokenty bẻ bút làm hai, đặt mảnh bút vào trong giày, chỗ giữa lòng bàn chân.

Ồ, chàng đã quá vội vã. Lẽ ra, chàng phải đọc hết trát lệnh bắt giam để xem họ bắt chàng vì tội gì. Rất có thể chàng bị bắt không phải vì tội chàng gọi điện thoại đến báo tin cho Giáo sư Dobroumov. Rất có thể là họ bắt lầm, cũng có thể là sự tình cờ. Chàng phải có thái độ gì bây giờ?

Chỉ có một thời gian ngắn trôi qua, nhưng chàng đã nhiều lần nghe thấy có tiếng kêu của một thứ động cơ nào đó sau bức vách đối diện với cánh cửa. Giàn máy nào đó nổi lên, chạy đều chừng hai phút, rồi ngừng bặt. Innokenty bị ám ảnh với việc tìm hiểu cái máy đó là máy gì? Đây là một khám đường, đây không phải là một xưởng máy. Với một người đàn ông bắt đầu lớn lên trong những năm 40, từng nghe nhiều chuyện đồn đại về những giàn máy giết người, ý nghĩ về cơ khí lập tức gợi cho người nghĩ một cái gì ghê gớm. Ý nghĩ đến trong óc Innokenty – chàng biết nghĩ vậy là vô lý nhưng cùng một lúc, chàng vẫn nhận là rất có thể như thế – rằng giàn máy mà chàng nghe tiếng đó là giàn máy nghiền nát bộ xương của những người tù bị giết chết. Chàng bắt đầu kinh sợ.

Cùng một lúc, một ý nghĩ khác đến như mũi kim nhọn đâm sâu vào trái tim Innokenty: chàng đã phạm một lỗi lầm sơ hở quá nặng, một lỗi lầm ghê rợn, không những là chàng chỉ không đọc trát bắt giam từ đầu đến cuối mà thôi, tệ hơn nữa là chàng đã quên không phản đối mà là trình bày, là kêu la – rằng chàng vô tội. Chàng chịu đựng cuộc bắt bớ này với thái độ quá mềm yếu làm cho họ có lý để tin rằng chàng có tội. Tại sao chàng lại có thể quá mềm yếu như thế được? Sao chàng lại có thể để cho họ bắt chàng mà không kêu lớn là chàng oan? Thái độ của chàng cho họ có lý khi nghĩ rằng chàng đã chờ đợi để bị bắt, chàng đã chuẩn bị để bị bắt!

Chàng điếng người vì sự sơ hở oan nghiệt này. Ý nghĩ đầu tiên của chàng là phải chồm ngay lên, đập cửa, đá mạnh vào cánh cửa, hả họng la lớn là chàng vô tội, đòi hỏi phải mở cửa… Nhưng ngay sau đó một ý nghĩ khác tới trong óc chàng, ý nghĩ thứ hai này sáng suốt hơn: dù chàng có làm như vậy ở đây cũng sẽ chẳng có ai ngạc nhiên, chắc chắn là đã có nhiều người trước chàng từng đập cửa, từng kêu oan, và sự im lặng của chàng từ nãy đến giờ đã làm hư hỏng tất cả.

Ồ… Tại sao chàng có thể tự để cho chàng rơi vào tay họ một cách quá dễ dàng như thế? Không một cử chỉ chống cự, không cả một lời phản đối, một nhân viên ngoại giao cao cấp đã để cho mình bị thiên hạ đến tận nhà riêng bắt đi, bị tóm cổ trên đường phố Mạc Tư Khoa đưa tới nhốt trong phòng giam nhỏ xíu này.

Tới đây chàng không còn lối thoát. Từ đây chàng hết lối thoát.

Rất có thể, những vị thượng cấp của chàng vẫn chờ chàng đến ở Bộ Ngoại giao? Bằng cách nào chàng có thể tới được đó bây giờ? Dù là tới đó với sự áp giải của nhân viên mật vụ?

Giàn máy bí mật ở bên kia bức tường lại chuyển động, gừ lên rồi lại ngừng.

Hai mắt Innokenty mỏi và đau nhức vì ánh đèn điện quá sáng trong phòng giam quá hẹp, dừng lại ở một khung đen trên trần – đây là khung đen Chúa nhật trong phòng giam này – đó là một ô vuông nhỏ có lưới sắt, có vẻ là ống thông hơi.

Đột nhiên, chàng nghĩ rằng đó không phải là ống thông hơi, ô vuông đó là lỗ người ta xì hơi độc vào phòng này, và giàn máy chàng nghe thấy chuyển động đó là máy thổi hơi độc, và hơi độc đã được xì vào phòng này ngay từ lúc cánh cửa đóng lại sau lưng chàng, gian phòng nhỏ xíu, kín mít, với cánh cửa đóng khít chặt này chỉ có thể là một phòng dùng để giết người bằng hơi độc.

Chính vì vậy mà họ luôn luôn nhìn vào phòng này qua ô kiếng trên cánh cửa: họ nhìn để xem chàng còn tỉnh hay đã chết.

Vì hơi độc mà trí óc chàng không còn được minh mẫn. Chàng sắp bị mê man. Vì hơi độc mà chàng khó thở. Vì hơi độc mà đầu chàng nhức như búa bổ.

Hơi độc đang tràn vào – không màu, không mùi.

Kinh sợ, niềm kinh sợ hoàn toàn thú vật, niềm kinh sợ từng làm cho những con thú dữ săn mồi và những con mồi cùng cuống cuồng chạy trốn lửa rừng, ào đến chụp lấy Innokenty. Không còn suy nghĩ, tính toán gì nữa, chàng đấm loạn lên cánh cửa, đá rầm rầm lên cửa và miệng chàng kêu lớn:

"Mở cửa… Mở cửa… Tôi ngạt…"

Đề phòng tù nhân đập cửa, người ta đã đặt mặt kiếng của lỗ nhìn nằm sâu trong lòng gỗ, nắm tay của tù nhân không thể chạm được vào mặt kiếng để có thể làm vỡ kiếng.

Một con mắt man rợ, quái đản, một con mắt mở không chớp, hiện ra ở mặt kiếng bên ngoài, con mắt đó nhìn cơn hoảng loạn của Innokenty với vẻ thú vị tinh quái.

Đó là một sự xuất hiện đáng sợ: một con mắt rời khỏi mặt người, một con mắt đứng riêng rẽ, một con mắt có tinh thần riêng nhìn ngắm cảnh người sắp chết.

Không còn lối thoát.

Innokenty gục xuống ghế.

Hơi độc làm cho chàng ngạt thở.



====

No comments: