Thursday, November 20, 2008

198. TÁC PHẨM THỤY AN

====


TAC PHẨM THỤY AN
==

Thụy An
Chuyện bố, mẹ, bé và con búp bê




Bố chải tóc cho Bé xong, liền lấy cái gương giơ trước mặt Bé: “Con gái của bố soi xem này, có xỉnh xình xinh không nào!” Bé nhìn vào gương, lắc đầu bên phải, lắc đầu bên trái, ngoe nguẩy hai cái đuôi sam tí tẹo, ngọn thót như đuôi chuột, có buộc hai chiếc nơ đỏ, giống như hai cánh hoa rất to, đóng khuôn lấy mặt Bé. Bé nhoẻn miệng cười, vẻ bằng lòng lắm.

Bố vẫn chịu khó lồng ngón tay vào cái móc sau chiếc gương, giữ cho Bé soi. Bé nghĩ: “Phải vẽ con bé trong gương này. Một khoanh tròn to là mặt, hai chấm tròn nhỏ là mắt, một vạch dài xuống là mũi, một khoanh tròn vừa nữa là miệng. Con Bé nó lại cười, mình phải vẽ cả mấy chiếc răng. Còn hai cái nơ đỏ nữa, lấy gì mà tô màu?” Thò hộp bút chì nào mẹ mua cho, Bé cũng làm cùn cụt. Bé nhớ ra rồi. Bé bỏ gương chạy tót lên bàn, vớ cái bút chì đỏ to gộc của bố, thủ luôn vào nách rồi mới ra hỏi bố: “Cho Bé mượn chiếc bút chì đỏ bố nhé”. Bố ngần ngừ: “Ừ, nhưng mà để đấy, con đi chơi với bố kia mà”.

Lập tức Bé bỏ rơi cả cái bút chì và con bé trong gương định vẽ. Bé nhẩy cẫng lên bố: “Rồi bố mua kem cho Bé, bố nhớ.” Miệng Bé tắc lẻm, đánh choẹt một cái: Kem thì còn phải kể. Cắn khấc một cục, buốt lanh lưỡi, rụt cả đầu cả cổ, cục kem tan dần ngọt lự... Thật không gì bằng kem, vừa được ăn lại vừa được chơi với nó. Bố cũng thích kem lắm nhớ! Hai bố con, hai que kem ngồi ở ghế bờ Hồ, nhẩn nha... Chao, những lúc ấy sao mà Bé yêu bố thế. Bé không cần mẹ, mẹ cứ việc đi công tác, xa nhà bao nhiêu đêm, Bé cũng không cần, kem và bố là đủ rồi...

Mẹ thì ghét kem lắm. Mẹ bảo: “Bé ăn kem, chỉ tổ té re”. Nghĩ thế, mặt Bé đỏ đỏ. Thôi, thèm vào, chả nhớ chuyện xấu hổ ấy. Bé níu chặt bàn tay bố, thỏ thẻ: “Hôm nay bố mua kem xanh bố nhé!” Bố trả lời: “Bố mua cho bé một thứ còn thích hơn kem cơ. Đố bé biết là cái gì nào?” Trí khôn ngắn ngủn của Bé đoán làm sao được. Bé bảo: “Con chỉ thích kem thôi”. Bố quệt má Bé: “Con nhà khờ dại quá”.

Hai bố con lại ngồi trên ghế trông ra hồ. Bố cũng mua kem cho Bé như mọi khi, chiếc kem xanh mà Bé đang ao ước. Nhưng khác mọi khi, hôm nay bố không ăn. Bé nghĩ: hay tại Bé chọn kem xanh, bố không biết ăn chăng? Lập tức, Bé thẩy que kem giả chú bán kem: “Bé ăn kem “tắng” cơ, cho bố ăn mấy”. Bố hiểu lòng thảo của Bé, bố ấn lại que kem xanh vào tay bé, hôn chụt má Bé, hít hà: “Con gái tôi, con gái tôi, khôn láu quá!” Bé chẳng hiểu ra sao nữa. Hồi nãy bố vừa chê Bé dại khờ xong.

Bố ngồi bên cạnh Bé, không ngớt ngắm Bé, bố tư lự lắm. Bé có vẻ rất bằng lòng, rất sung sướng với chiếc kem. Bé không còn một đòi hỏi nào, một mơ ước nào khác! Vậy thì bố có nên cứ mua cho Bé cái mà bố bảo là còn “hơn cả kem không?” Bố bỗng thấy những nét phả phê hớn hở trên mặt Bé mờ dần, nhường chỗ cho nhũng nét phụng phịu thèm muốn hôm nào bố và mẹ dắt Bé đi xem búp bê Tiệp-khắc ở cửa hàng Mậu dịch Tràng–Tiền.

Lần thứ nhất Bé nhìn thấy những búp bê to và đẹp đến thế, biết thức biết ngủ. Bé thích nhất cái con bê có hai đuôi sam vắt vẻo như Bé. Nó cũng có áo mới bằng vải hoa như Bé. Bé bảo mẹ mở tủ lấy bê cho Bé mang về. Mẹ sùy: “Phải có tiền mua chứ”. Bé trỏ vào túi tay của mẹ: “Tiền trong ấy đấy thôi.” Bố bảo: “Ngần ấy không đủ, phải có nhiều hơn thế.” Bé đứng ngẩn người, gọi thầm bê: “Bê ơi! Bê ra đây với tôi... tôi cho ăn kem”. Bê bị nhốt trong tủ kính, không nhúc nhích. Bé thương bê quá, thèm bê hơn thèm kem. Nhưng phải nhiều tiền mới mua được bê thì… chịu thôi.

Những việc, những lời xẩy ra quanh Bé, lọt vào tai Bé đã làm cho Bé biết được rằng: những cái gì nhiều tiền thì bố, mẹ chưa mua được, còn đợi để chính phủ giàu đã, nhân dân giàu đã. Đến Bé muốn ăn hai chiếc kem, bố cũng bảo: “Hạn quà cho con chỉ có một trăm thôi, đợi chính phủ giàu, nhân dân giàu, con tha hồ ăn.” Bé quay lại hỏi bố: “Bố ơi! Thế bao giờ chính phủ giàu, nhân dân giàu hả bố?” Bố thuận miệng đáp: “Ít nữa thôi.”

Ít nữa thôi với Bé là lâu lắm. Bé thì muốn có bê ngay bây giờ. Bé cứ đứng thần ra ngắm. Bố mẹ giục không đi. Mẹ sốt ruột doạ: “Này người ta sắp đóng cửa hàng đấy. Hay Bé ở đây một mình với búp bê.” Bé yêu bê thật, nhưng ở đây một mình với bao nhiêu cái lạ này, lỡ bị nhốt vào cái tủ như bê thì Bé chịu thôi, sợ lắm. Bé đành thủi thủi theo bố mẹ đi. Chỗ lông mày giao nhau lửng đỏ, triệu chứng Bé chỉ chờ cơ hội là khóc.

Về nhà, Bé cũng còn ngơ ngẩn nhớ Búp-bê, ôm cái gối dài của Bé nựng nịu. Tối đi ngủ Bé không rời con búp bê tưởng tượng. Bố mẹ suy nghĩ lắm. Mẹ chép miệng: “Tội nghiệp, nó thèm con búp bê quá, chắc ngủ mê cũng thấy.” Vì chuyện con búp bê, bố, mẹ mới nhận ra một điều là lấy nhau chín năm rồi, đã có mụn con là bé đấy, lên bảy tuổi, đã biết về nhau tất cả mọi nỗi khổ cực vất vả, nhất là từ trong cuộc phát động quần chúng hồi đầu năm ngoái ở quê nhà, cả bố cũng được về phối hợp đấu tranh, thế mà vẫn còn một cái khổ mẹ chưa nói với bố.

Mẹ kể: “Chả phải bây giờ ra Hà Nội công tác, em mới được ngắm búp bê to như thế này đâu. Em nhìn thấy từ ngày xưa, em chỉ nhỉnh hơn cái Bé nhà ta một hai tuổi. Nhìn con búp bê của con lão chủ đồn điền ấy mà. Bố con nó về chơi đồn điền, búp bê để ngoài ô tô hòm, cửa kính đóng kín. Em trèo lên bệ xe nhìn vào. Con búp bê to như đứa bé mới đẻ. Em nghĩ giá được bế một cái, nhịn ăn cả tháng cũng được. Bất đồ, mải ngắm thì bố con thằng chủ điền ra, mở cửa xe đằng trước, leo lên. Em chỉ còn kịp ngồi thụp xuống bệ, chưa nhảy được ra thì thằng chủ mở máy cho xe chạy, hất em ngã sóng xoài xuống đường, đầu va vào đá toạc mảng to, còn cái sẹo đây này.”

Mẹ nhấc bàn tay bố, luồn qua tóc sau ót, sờ chiếc sẹo, tóc không bao giờ mọc nữa. Mẹ nghe tiếng ực ực, không biết có phải tiếng bố khóc hay tiếng Bé thổn thức trong mơ. Kết quả câu chuyện là gần về sáng, bố mẹ bảo nhau: “Thôi kỳ truy lĩnh này, hai vợ chồng thế nào cũng có hai phiếu mua hàng mậu dịch, sẽ nhịn một phần mua cho Bé con búp bê. Con đã có áo hoa, giày da, nơ buộc tóc. Con còn phải có búp bê chơi.”

Bố mẹ quyết định thì bên gối Bé thiêm thiếp giấc nồng. Nhưng càng gần ngày được nhận truy lĩnh, bố thấy mẹ hình như có vẻ giãn quyết định ra. Không hẳn là mẹ bảo không mua búp bê cho bé nữa, mẹ chỉ dáo lên nhũng thứ cần phải mua với hai phiếu mua hàng, đại để như vải, ấm nhôm, thau chậu. Mẹ bảo: “Rồi sắp một cái thau cũ không đủ đâu.” Tính nhũng thứ mẹ muốn mua thì đến bốn phiếu mua hàng cũng hết. Bố vốn tính tẩm ngẩm, cứ để cho mẹ toan tính. Bố cũng không nhắc gì chuyện con búp bê hai người đã ước hẹn thầm với Bé.

Cho đến chiều nay, bố về nhà với tấm phiếu mua hàng trong túi. Bố chải đầu làm dáng cho con gái, dắt con gái đi, lén mẹ. Thế nào bố cũng mua cho con gái bố con búp bê. Bố không sợ người khác mua mất. Chị bán hàng đã bảo bố: “Mậu dịch biết thế nào cũng có nhiều người bố mua búp bê cho con nên mậu dịch đặt mua bên Tiệp Khắc về nhiều lắm. Bố chợt mỉm cười: “Một nông dân Việt Nam mua búp bê của Tiệp Khắc cho con chơi. Du thật. Chuyện ấy ngày xưa có ai dám nghĩ đến không?” Bố bảo Bé: “Đi con!” Bé lơn tơn cạnh bố. Ăn hết que kem rồi, nghe chân đi kém dẻo dai. Bố nhấc bổng bé lên, như nhấc bổng chiếc ba-lô. Hai bố con vào Mậu dịch.

Bé nhẩy cẫng, trụt khỏi tay bố. Con búp bê của Bé vẫn ở trong tủ. Khác cái, lần này bê đứng mãi chắc mỏi chân, đã ngồi xuống rồi, chân duỗi dài ra như đang dở chơi nu na nu nống. Bé dán mũi vào cửa kính, tìm chuyện nói với búp bê. Chợt một bàn tay lạ kéo Bé lùi xa cửa kính, thò tay vào trong tủ, nhấc đúng bê của Bé ra và đặt vào tay Bé. Bé ôm lấy không chút ngỡ ngàng. Bé nhìn bố khoe: “Bố ơi! Cô này cho con búp bê”. Cô bán hàng cười: “Bố em mua cho em đấy!” Bé cuống quít dục bố: “Về bố, về bố, về khoe mẹ!”

Hai tay Bé khư khư ôm búp bê vào ngực. Có lúc Bé quên cả bố đi bên cạnh. Bé còn mải nói chuyện với bê. Rằng: “Bê về nhà phải ngoan nhé, đừng quấy mẹ, mẹ hay mắng lắm. Khi nào mẹ mắng thì túm lấy quần bố. Mẹ đi công tác đã có bố ở nhà, bố đi công tác đã có mẹ, cả mẹ cả bố cùng đi thì đã có các cô, các chú, nhiều cô nhiều chú lắm.”

Bé mới nói chuyện đến đấy thì đã lại đến Bờ Hồ rồi. Bố nói: “Nghỉ một tý, Bé ạ”. Bé đồng ý ngay, được dịp cho bê xem bờ hồ. Bê ở lâu trong tủ kính chắc nóng lắm. Bé đưa bê ra bờ cỏ sát hồ. Hai chị em ngồi giãi thẻ, ngảnh mặt ra hồ ngắm cảnh.

Bố ngồi xuống thì lấy tay vỗ đùi, một cử chỉ đã thành thói quen từ khi thương tích ở đùi của bố bị trong một cuộc xung kích đồn Tây được mổ ra lấy đạn đã lành. Vết thương cũng đồng thời đổi bố từ một chiến sĩ chiến đấu thành một thương binh chuyển ngành và làm cho bố đi một quãng đường là thấy mỏi mỏi. Nhưng bây giờ bố ngồi nghỉ, còn vì bỗng thấy ngại gặp mẹ, ngại nghe mẹ phê bình. Phê bình đúng hẳn chứ. Thực tế bố mẹ đã đến mức mua đồ chơi đắt tiền hàng vạn bạc cho con đâu. Kế hoạch 56 chưa xong, mọi người còn thắt lưng buộc bụng, nhà còn thiếu đồ thiết dụng... một vạn bạc là... hai yến rưỡi gạo. Bố nhìn Bé đang cười rúc rích với búp bê. Bố bèn nhẩm lại nhũng lý lẽ đanh thép để tự bào chữa: cái sẹo trên đầu mẹ, vết thương ở đầu gối bố, tất cả để cho Bé được sung sướng. Bố không ngại gặp mẹ nữa.

Bố vừa toan gọi Bé đi về, thì mẹ từ đâu ùa tới, đặt phịch một gói lên lòng bố, tíu tít:

“Về đến nhà không thấy bố con đâu, biết ngay lại chỉ ra đây. Anh mở xem..."

Chưa hết câu, lại gọi Bé:

"Bé ơi! Lại đây! Lại đây!"

Bé ôm con búp bê khệ nệ bước lại. Mẹ nhìn con búp bê trong tay Bé, đờ người, thốt tiếng: “Ơ hay!...” Bố mở gói ra thấy con búp bê cũng: “Ơ hay!” Duy chỉ có Bé không ngạc nhiên gì cả, reo một tràng dài: “A! Cả mẹ cũng mua búp bê cho Bé nữa!” Bé điềm nhiên dang tay ôm nốt con búp bê mẹ vừa mang lại, đi về chỗ cũ, đặt song song xuống cỏ. Con bố bên này, con mẹ bên này. Sao hai con giống nhau thế. Bé lầm rồi đây này. Bé thích con bê của bố hơn. Nó đã thân với Bé trước. Bé phải làm thế nào để khỏi lẫn với con của mẹ? Bé nghĩ nhạy lắm. Bé sẽ tháo nơ đỏ của Bé buộc sau lưng cho bê bố làm khăn quàng đỏ. Bé bảo con bê mẹ mua: “Còn mày đến sau phải quàng khăn đỏ sau nghe chưa?”

Bé liếc nhìn mẹ. Mẹ mà biết thì mẹ giận đấy. Mà mẹ đang giận thật, có điều là mẹ đang giận bố chứ không phải đang giận Bé. Mẹ nói lầm bầm. Bố cũng nói lầm bầm. Bé nghe loáng thoáng những lời gắt gưởi: lãng phí, đem giả đi, đừng trẻ con, mua rồi còn đem giả, trẻ con lắm vào.

Nghe đến câu chiều con thì Bé chán quá, không nghe nữa. Vì Bé nghe mãi rồi. Có lúc thì là bố cự mẹ thế, lúc thì mẹ cự bố thế, nguy hiểm là có lúc cả hai cùng nhận lỗi với nhau là đã chiều Bé. Thật làm Bé nghĩ phen này có dễ cả bố lẫn mẹ cùng sẽ ghét mình. Nhưng chỉ một lát, phi bố tất mẹ lại ôm bé nựng nịu, quà quà bánh bánh cho Bé. Người lớn, chịu, không hiểu họ ra sao cả.

Bố mẹ thôi không lầm bầm nữa nhưng lại thừ ra, mặt bố cau lại, mặt mẹ đỏ phừng phừng. Hai bê của bé mà cũng giống thế kia thì xấu quá. Bé không thích đâu. Bé nhìn hai bê thần người nghĩ ngợi: nếu hai bê mà cãi nhau thì Bé làm thế nào nhỉ?

Bé nghĩ một lát đứng phắt dậy ôm một con – bây giờ thì con của bố hay con của mẹ cũng chẳng hề gì. Bé phăng phăng chạy lại trước mặt mẹ, đặt vào lòng mẹ, nói một hơi:

Hai con bê này nó cứ cãi nhau con không dỗ được, con giả mẹ con này để mẹ cho em bé trong bụng.

Bố mẹ nhin nhau một giây rồi cùng phá lên cười.

Tiếng cười của bố mẹ làm sao gợn cả sóng Hồ Gươm... Mấy con chim trên cành vội cất cánh bay, đánh rơi lộp độp trên đầu Bé những đốm trắng trắng... Khách qua lại lây cái cười của bố mẹ cũng nhoẻn miệng cười theo.
Nguồn: Trăm Hoa, ngày 25 tháng 11 năm 1956.


===


====

Một bông hoa bị vùi dập: Bài thơ “Chiếc lược” của Thuỵ An

Nữ văn sĩ Thuỵ An (1916-1989) tên thật là Lưu Thị Yến, viết văn và báo từ trước năm 1945 và là một nhân vật quan trọng trong phong trào Nhân văn-Giai phẩm ở miền Bắc trong những năm 1955-1957. Mặc dù tác phẩm của bà không phê phán chế độ một cách quyết liệt hay thâm trầm như Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt, Phan Khôi…, bà chịu sự trừng phạt khắc nghiệt nhất. Cùng với Nguyễn Hữu Đang, bà bị buộc tội gián điệp và bị xử 15 năm tù. Theo báo Nhân dân (13-23/04/1958 trích trong Shawn McHale, Journal of Asian Studies 61: 1, 2002, tr. 19), bà bị kết tội có quan hệ gần gũi với gia đình tướng De Lattre de Tassigny và Giám đốc Sở Mật vụ Pháp Marty, và là nhân tình của một nhân vật trong Việt Nam Quốc dân Đảng.

Chúng tôi xin đăng lại lần lượt một số tác phẩm của Thuỵ An in trên báo Trăm hoa của Nguyễn Bính xuất bản năm 1956-1957 và những cuộc tranh luận có liên quan. Đây là những tài liệu chưa từng được phổ biến rộng rãi, cho thấy sự phản kháng của nhiều văn nghệ sĩ miền Bắc với quan điểm hẹp hòi về thẩm mĩ và sự độc đoán của tập đoàn lãnh đạo văn nghệ ở thời điểm này.
talawas
Lời toà soạn của tạp chí Trăm Hoa: Bài thơ chiếc lược của chị Thuỵ An sáng tác đã gần một năm nay. Theo lời chị thì bài này từ lâu đã được đưa cho Hội Văn nghệ và nhà xuất bản Văn nghệ. Hội Văn nghệ không có ý kiến gì. Các bạn trong nhà xuất bản thì nhận xét thấy “tương đối khá” và chuyển sang Vụ Văn hoá đại chúng đề nghị cho in vào loại phổ thông. Nhưng Vụ Văn hoá đại chúng lại cho rằng bài thơ không hay, có trả lời rằng: “Những bài thơ loại này chúng tôi có nhiều, vậy xin trả lại...”

Trăm Hoa được đọc “Chiếc lược”, nhận thấy bài thơ thể loại này rất hiếm. Thật là một bài thơ giá trị. Chúng tôi rất mong nhận được nhũng bài thơ như thế này của chị Thuỵ An cũng như của các bạn khác, để vườn hoa được thêm nhiều hương sắc.



Chiếc lược

Lược em bé nhỏ
Lược em thanh thanh
Công ai đẽo gỗ chuốt thành
Để em chải mớ tóc xanh rà rà
Tóc em nuột nà
Em chửa muốn rời tay lược
Lược với tóc vân vi thỉ thót
Những năm dài mơ ước khát khao.

Tóc khi cun cút trái đào
Chiếc lược trong ô cô hàng xén
Thường đêm hiển hiện trong mơ
Lược không đáng giá vài xu
U vẫn khất lần khất lữa
Khất ngày tóc chấm đầu vai
Đói cơm đói cháo, anh oi!
Ước gì nuôi được tóc dài cho mau
U dỗ: “Con sang hầu cụ Chánh
Kiếm cơm ăn nhẹ gánh cho u
Cuối năm công bớt vài xu
Con mua lược chải tha hồ đẹp xinh”.
Em đem mơ ước đinh ninh
Về thẳng nhà địa chủ
Em đem mái tóc xanh
Về thẳng nhà địa chủ
Hơi trâu thay hơi mẹ
Đòn vọt thay áo cơm
Đêm nằm gỡ cỏ gỡ rơm
Bám đầy trên tóc
Hẹn với tóc cuối năm mua lược
Làm tốt làm xinh
Năm lại năm tóc đã cuốn vành
Thấy cô hàng xén mà đành ngoảnh đi
Nóng tai tiếng riễu tiếng chê
Con đầu bù quạ đánh
Áo tả tơi trăm mảnh
Hở cả ngực cả vai
Em càng biết hổ ngươi
Càng xót xa tủi cực
Đầu có bao nhiêu tóc
Là bấy nhiêu tội tình
Nhưng địa chủ tàn ác
Không cấm nổi tóc xanh

Đêm kia trăng rộn mái đình
Bỗng xui em nhớ tuổi mình tròn trăng
Chỉ thô khíu vội áo quần
Em tưng bừng đi hội
Chợt nhớ đầu bù tóc rối
Chùn bước thủi thủi phận mình
Hội làng đông ả đông anh
Em muốn chút xinh, chút lịch
Mượn trộm lược của con mẹ Chánh
Chải vội chải vàng
Tóc bóng mặt gương
Đầu ngôi thẳng tắp
Ra đình che nón rách
Tìm nơi tốt nhất ngồi nghe
Tiếng hát giao duyên gió động cành tre
Gió đưa cành trúc tình ngơ ngẩn tình:
“Hỡi cô tóc tựa mây xanh
Đầu ngôi như sợi chỉ mành mới ngâm
Có duyên xa cũng như gần...”
Em thẹn cúi gầm không hát đối
Nhưng từ đấy suốt trong đám hội
Bốn mắt trộm nhìn nhau
Lòng muốn nói trăm câu
Muốn hội dài mãi mãi
Trống rã đám, ai còn hát với:
“Hẹn xuân sau ta lại với mình
Xuân sau tóc hẳn thêm xanh
Đường ngôi bắc nhịp cho mình gặp ta”

Xuân sau áo rách sơ
Không tài gì khíu vá
Tóc rối bù tổ quạ
Lấp mất cả đường ngôi
Địa chủ ăn cướp công tôi
Tiền đâu mua lược đi chơi hội làng?
Trống đình giục nhớ giục thương
Gió đưa tiếng hát trách hờn của ai:
“Hẹn lời lời lại đơn sai
Đường ngôi rẽ lệch duyên hài đôi ta”
Vẳng nghe tiếng hát
Nước mắt như mưa
Cảm thương tóc rối đầu bù
Lấy gì dáng sớm duyên trưa với chàng?
Ai ngăn được kén đừng vàng?
Ai ngăn được suốt đừng ràng với thoi?
Em nửa sợ nửa vui
Lại đi mượn trộm lược
Nghe trống giục tay run lập cập
Chiếc lược rơi đánh chát xuống sân
Thế là tai hoạ khôn ngăn
Vợ thằng Chánh túm lấy em đạp đánh
Đánh chưa đã nó còn ác khoảnh
Lấy dao cau gọt sạch tóc mai
Sót công mười mấy năm trời
Cơm thiu cháo hẩm tôi nuôi tóc thề
Ngoài đình tiếng hát não nề
“Tưởng dêm mở hội đi về có nhau
Bây giờ lược chẳng giắt đầu
Hội vui thiên hạ phải đâu của mình
Anh về tát nước thâu canh
Ngắm sao mà hỏi sao đành phụ nhau”
Em quên tóc cụt, đòn đau
Chạy vùng lên đình Thượng
Ai vì tôi ngăn cản
Cho ai đừng bỏ về
Đường đồng nhạt ánh sao khuya
In dài chiếc bóng
Dầu nửa trọc nửa buông sông tóc
Áo quần tơi tả xác xơ
Khác gì xác quỷ hồn ma
Chạy ra đám hội để mà nát ai
Em nức nở từng hồi.
Nằm vật bờ ruộng thấp
Khóc sưng vù đôi mắt
Chẳng thấy Bụt hiện lên.

Hôm nay trống nổi liền liền
Tiếng gọi đi chia quả thực
Vợ chồng thằng Chánh thất nhân ác đức
Rẽ lứa duyên em
Đã gục xuống bùn đen
Không bao giờ ngóc nữa
Em đã hồng đôi má
Em đã thắm đôi môi
Tóc em lại mọc dài
Em đi nhận quả thực
Em chọn thêm chiếc lược
Về chải mãi chải hoài
Chúng chị em chớ cười
Em se sua làm dáng
Mười mấy năm mộng tưởng
Giờ lược mới về tay
Hẳn tiếng hát từ nay
Không bao giờ đứt khúc
Mái tóc mây em cài vành lược
Em ra đồng tát nước gầu đôi
Nhịp gầu tiếng hát đầy vơi
“Ước gì anh hoá lược cài tóc em
Tóc với lược liền liền sớm tối
Như ruộng đồng ở mãi với ta”
Nước rềnh giăng ngả đầu bờ
Mạ non gặp nước đôi vừa xứng đôi...

Thuỵ An (Cuối tháng chạp năm Mùi)

Trăm Hoa, ngày 4 tháng 11 năm 1956.


==


Thụy An
Nhân xem phim “Anh gắng nuôi con”, đặt lại vấn đề “tân hiện thực”




1956 là một năm bản lề đối với toàn bộ khối XHCN trước đây. Đại hội 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô cuối tháng Hai 1956 với “Báo cáo mật” của Nikita Khrushchev về những tội trạng của Stalin mở ra một giai đoạn “tan băng” ngắn ngủi nhưng cũng đủ để dẫn đến những biến động quan trọng trong các nước XHCN. Tháng Tám 1956, Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức một lớp học 18 ngày về đường lối cải cách chống tệ sùng bái cá nhân tại Liên Xô. Trong chừng mực nào có thể xếp phong trào Nhân văn-Giai phẩm tại Việt Nam vào bối cảnh quốc tế do sự kiện nói trên mở ra, đó là đề tài còn cần được nghiên cứu. Trong loạt tư liệu do Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn sau đây, chúng tôi xin giới thiệu một số bài đăng trên báo Văn nghệ trong khoảng thời gian từ tháng Tám 1956 đến đầu năm 1957, với thư kí toà soạn là Nguyễn Đình Thi. Đây cũng là giai đoạn mà các số Giai phẩm và 5 số Nhân văn ra đời. Số Giai phẩm mùa Xuân đầu năm 1956 bị tịch thu cũng được in lại trong thời gian này.
talawas
Cuốn phim Nhật Anh gắng nuôi con chiếu tại Hà Nội giữa lúc văn nghệ ta đang có hiện tượng sôi sục dòng nhựa sống để chuẩn bị kịp tiết "trăm hoa đua nở", đã gây khá nhiều dư luận.

Có bạn đọc viết ở báo Nhân dân cho rằng "cuốn phim dù thể hiện một thực trạng nào đó của xã hội Nhật cũng không có tác dụng giáo dục gì cả cho nhân dân ta". Nhân đó tôi muốn đặt lại vấn đề: chủ nghĩa tân hiện thực có còn tác dụng trong một nước đang quyết tiến lên xã hội chủ nghĩa nữa không? Và nếu có còn thì do giá trị đặc trưng nào của nó? Nói một cách khác, trong trăm hoa đua nở của nền văn nghệ ta, tân hiện thực có còn là một bông hoa cần thiết, được ta bón xới trong số trăm hoa đua nở kia không?

Anh Phan Vũ trong báo Nhân văn số 2 quả quyết đặt phim Anh gắng nuôi con vào loại tân hiện thực vì nó "thể hiện tất cả thực trạng của một xã hội, tất cả khát vọng của một dân tộc thu vào một tấn kịch gia đình" và anh tìm thấy trong phim "một phương pháp thể hiện chủ đề, thể hiện tình cảm bằng cuộc sống, bằng con người, bằng chủ nghĩa tân hiện thực, bằng chủ nghĩa tượng trưng".

Để tới nhận định và kết luận của anh Phan Vũ, trước hết chúng ta hãy thỏa thuận lại cùng nhau về điểm: đã có một khuynh hướng tân hiện thực xuất hiện trên văn nghệ, phát sinh từ sau cuộc đại chiến thứ hai, và đặc biệt nẩy nở phong phú nhất ở các nước bại trận, vừa bị khổ nhục về vật chất, vừa bị khổ nhục về tinh thần, chồng thêm ách chiếm đóng Mỹ.

Tiên phong của khuynh hướng tân hiện thực là Ý với những cuốn phim Miếng cơm đau khổ, Kẻ cắp xe đạp, v.v… Cả một loại phim thể hiện cảnh sống của nhân dân Ý giãy dụa với miếng ăn hàng ngày, với ám ảnh món nợ Mỹ "lên tới 600 tỉ đồng lia, đổ đồng mỗi dân Ý nợ 15 000 lia, và phải trả lãi hàng năm 1500 đồng lia" thêm ám ảnh "không biết tất cả sẽ phá sản lúc nào" (Kẻ cắp xe đạp). Thể hiện bằng cách thật tàn nhẫn, dùng đủ phương tiện kỹ thuật để làm bật nổi cái tàn nhẫn chua xót của hiện trạng xã hội, nhưng không đưa một đường lối nào thoát cả. Cho nên ngay hồi tân hiện thực Ý cực thịnh, nhiều dư luận văn nghệ thế giới phê bình nó chỉ là một sự đổi tên của hiện thực đơn thuần, hiện thực phê bình. Giới điện ảnh chuyên môn Mỹ sợ sự cạnh tranh của phim Ý chỉ công nhận phần tân hiện thực của điện ảnh Ý ở chỗ đã táo bạo dùng khung cảnh ngoài giời, dùng người hàng phố để dàn cảnh và đóng các vai các nhân vật trong phim.

Nói sao thì nói, chính cái cách thể hiện tàn nhẫn thực trạng xã hội, không nhân nhượng chút nào thần kinh của con người, đã tạo nên đặc tính của tân hiện thực Ý (phim Đồng lương khủng khiếp của Pháp có thể là một ví dụ, vì tuy là phim Pháp, nhưng mang sắc thái rất trung thực của tân hiện thực Ý) song lại cũng cái cái đặc tính ấy, như con dao hai lưỡi, đã đưa tân hiện thực của Ý đến chỗ bế tắc: tới một lúc ngay chính nhân dân Ý cũng không hoan nghênh những cuốn phim phản ảnh đời sống day dứt của họ. Tâm lý đơn giản là: họ không muốn sống lại một lần thứ hai nữa với những nhân vật trên màn ảnh, cuộc sống thực tế đã quá ư đau khổ của họ. Tâm hồn của họ muốn được nhẹ nhõm hơn. Họ không muốn như một nhà phê bình đã nói lên về cuốn tiểu thuyết trứ danh Chùm nho giận dữ: "Xem xong, thì người xem chỉ còn lo ba con đường: đi tu, tự tử hay làm cách mạng". Họ không muốn đem cuộc đời họ thử thách rủi ro như thế.

Giữa lúc đó, tân hiện thực của Nhật xuất hiện trên một loạt phim mà Anh gắng nuôi con là một tân hiện thực Nhật khác với Ý ở điểm chủ chốt: tin tưởng ở tương lai, do đó tìm được một ý nghĩa cho những sự chịu đựng khốn khó của hiện tại. Tiếng thở phào mà tân hiện thực Ý muốn có sau cơn dằn vặn, đã lên tiếng ở trong tân hiện thực Nhật. Đó là lời Mễ Thái Lang nằm bò trên đường tàu dặn con ngoan ngoãn cố gắng học hành. Đó là tiếng khoa oa oa của đứa trẻ thơ trước Lã Sinh Môn, sau khi những người núp mưa trong đền đã nghe kể một câu chuyện kinh khủng chán chường. Nhưng tương lai đó được quan niệm như thế nào? Các cuốn phim Nhật in không nói và bởi thế nó mới còn trong tình trạng tân hiện thực. Tuy nhiên qua cuốn phim Anh gắng nuôi con qua hành động của Mễ Thái Lang từ chối viện trợ của Liễu Lang, ta cũng biết cái tương lai đó phải tự tay ta xây dựng, cái tương lai đó phải xây dựng bằng sự rút kinh nghiệm của những tang tóc đã qua, bằng một sự tha thứ lớn những lầm lỗi đã rồi của kẻ ruột thịt, bằng sự tự vệ chánh đáng đối với kẻ nào định xâm phạm lòng tự trọng tự hào của ta, hay như trong phim Lã Sinh Môn bằng một lòng thương yêu vô bờ bến thể hiện trong cử chỉ kẻ tiều phu nghèo nhặt lấy đứa bé đẻ hoang. Khuynh hướng tân hiện thực của Nhật còn được lồng trong một đặc tính Á Đông hay dùng những sự việc để ngụ ý, để tượng trưng, nên địa hạt sử dụng của tân hiện thực Nhật rất phong phú, rộng rãi: không cứ phải tình tiết to lớn mới thể hiện được một tư tưởng quan hệ (Anh gắng nuôi con) và kho truyền thuyết cũ kỹ về thời gian về không gian vẫn ứng dụng cho những điều muốn nói lên của thời đại (Lã Sinh Môn, Tướng cướp và gái đẹp).

Cũng do đặc tính ngụ ý tượng trưng, tân hiện thực Nhật trở nên một vũ khí tấn công ngay kẻ địch đang chiếm đóng đất nước mình (trong phim Anh gắng nuôi con, Liễu Lang tiêu biểu cho Mỹ, một tên cờ bạc bịp nhảy lên làm nhà mô phạm đòi dạy Nhật dân chủ hóa kiểu Mỹ, lại lăm le đem viện trợ đặt lại tương lai Bình) từ nhiệm vụ tố cáo thảm thiết của tân hiện thực Nhật tiến lên một bước có giải quyết bằng hướng tin tưởng vào tương lai và trong quá trình đi tới sự tin tưởng đó đã có nhận thức kẻ thù chính, có tự biến thành công cụ đấu tranh trực tiếp với kẻ thù.

Một khuynh hướng tân hiện thực như vậy tôi nghĩ trong hoàn cảnh xã hội tiến lên xã hội chủ nghĩa như xã hội ta giá trị không phải chỉ ở điểm "thị chứng thời đại", một giá trị "tĩnh". Nó còn vai trò động lực sinh hoạt xã hội của nó. Chúng ta vừa thoát khỏi một xã hội cũ mà những sự xấu xa chưa phải là chúng ta đã ý thức hết, quả quyết rời bỏ, mà lẫn lộn trong những sự xấu xa đó còn những bản chất trường tồn của con người chúng ta phải lọc lại thì tân hiện thực vẫn là một bông hoa chúng ta phải bón sới, trong vườn hoa trăm bông đua nở của chúng ta.


===
Nguồn: Báo Văn nghệ, Hà Nội, s. 142 (11.10.1956), tr. 4-5,

No comments: