====
Trần Lê Văn
Bức thư gửi một người bạn cũ Hà Nội tháng 8 năm 1956 Thân gửi anh Nguyễn Vinh Hoa Tiết trời vừa mới vào thu. Tối nay lại là tối thứ bảy. Tôi định ngồi vẩn vơ trên ghế công cộng, thưởng thức cảnh ái tình… của người khác và trở về làm thơ ca ngợi cuộc đời. Thế mà, chẳng biết nghĩ ngợi ra sao, tôi rảo cẳng về nhà cặm cụi ngồi trong gian phòng vừa hẹp vừa thấp, không khí oi bức như trong một cái hầm, viết thư này cho anh. Bức thư này, tôi băn khoăn đã lâu lắm, hôm nay mới hạ bút viết. Những điều sắp nói với anh, tôi đã định trình bày dưới một hình thức khác: thơ ngụ ngôn kiểu La Phông-ten hay chuyện cổ tích kiểu An-đéc-sen. Tôi không có tài làm thơ ngụ ngôn hay viết chuyện cổ tích. Vả tôi nghĩ: viết như vậy có lẽ sẽ là một thái độ úp mở. Tính rụt rè đã từng làm cho tôi có thái độ úp mở đó. Chính anh và một số ít người giống anh đã tạo cho tôi cái tính rụt rè đáng bỉ ấy. Tôi không giận anh nữa đâu. Lúc này tôi thấy lòng mình bình tĩnh như mặt biển sau trận bão. Ví như vậy chắc anh thấy là quá đáng vì mấy ai ở đời dám ví lòng mình như biển cả. Và chính biển cả, ngay giữa lúc mặt nó bình tĩnh nhất, biết đâu lòng nó chẳng quay cuồng những luồng sóng ngầm! Tôi biết do thói quen lâu năm, anh sẽ nhíu đôi mày, nghiêm sắc mặt, nhô gò má lên để làm cho tôi “biết điều hơn”, nghĩa là co rúm người lại chui vào cái vỏ như một con ốc sên hoặc anh sẽ ban tặng một cái cười rất có nghiên cứu, một cái cười khoan dung độ lượng để tôi thấy “mọi sự đều vui vẻ” và đêm ngủ khỏi giật mình. Thực ra, hai vẻ mặt khác nhau của anh đều đưa nhầm tới một kết quả là làm cho người khác giấu diếm ý kiến thực của mình. Một nhà văn bi quan nào của thời xưa có nói: “Ngôn ngữ vốn dùng để che đậy những ý nghĩ thực”. Tôi không cho câu ấy là đúng, nhất là trong thời đại của chúng ta. Người ta lúc còn sống cạnh nhau nếu không nói thật với nhau thì đợi đến cuộc Phán xét Cuối cùng mới nói thật hay sao? Trải bao thế kỷ, nhất là trong cái phần đã qua của thế kỷ này, máu đã đổ nhiều, xương đã rơi nhiều cũng chỉ là để đưa tới một cuộc sống thật, với những con người thật biết cảm nghĩ thật. Anh định góp sức với loài người tạo nên cuộc sống thật, sao anh lại cứ làm một người giả trong cái xã hội đang hy sinh nhiều để vươn mạnh lên cái thật này? Thời cũ, có những kẻ coi cuộc đời như một hí trường, rắp tâm đội mũ đeo râu chứ không thích làm một vai chạy hiệu. Lại có những kẻ coi cuộc đời như canh bạc, muốn xông vào thi thố những ngón xảo trá để ăn to. Thậm chí có kẻ quan niệm cuộc sống là một thương trường. Từ những cái rẻ giá nhất như áo cũ, đồng nát cho đến những cái cao siêu nhất như đạo lý của các đấng triết nhân, bọn họ đều có thể dùng để làm ra lợi lộc được cả. Tôi nói cho văn vẻ theo kiểu Vũ Trọng Phụng thế thôi, chứ chẳng có dụng tâm ám chỉ gì anh vì anh cũng không đến nỗi mang đủ các tàn tích xấu xa đến thế. Mặt khác, tôi không ưa gì cái thói ám chỉ, nó là thói quen của thời nô lệ. Trong thư này, tôi gọi anh bằng cái tên cũ Nguyễn Vinh Hoa, anh cũng đừng nên lấy thế làm mếch lòng. Chỗ bạn bè thân tình, tôi mới dám suồng sã thế. Anh cho phép nhắc lại một kỷ niệm: hồi chúng ta cùng học trường Bưởi, có lần anh kể tôi nghe rằng nhà ta vốn dòng trâm anh thế phiệt. Ông cụ nhà ta đêm đêm nằm cạnh khay đèn hay kể hai câu Kiều:
Vinh hoa phú quý ai bì Vườn xuân một thuở để bia muôn đời.Khi anh ra đời, ông cụ đặt cho anh cái tên đẹp đẽ ấy, làng xóm ai cũng phục. Anh lớn lên hãnh diện vì cái tên ấy, kiêu kỳ với mọi người và vì cái gia thế ấy. Là bạn cùng đèn, cùng sách mà hồi đó đối với anh tôi đã thấy tủi thân lép vế trước thái độ mục hạ vô nhân của anh. Ấy là vì tôi chưa được Cách mạng dạy cho hiểu rằng: giá trị con người đâu phải ở cái tên đẹp và dòng họ sang! Sau tháng Tám 45, gặp anh thì anh không còn là Nguyễn Vinh Hoa nữa mà đã trở thành Lê Hùng Tiến. Giả sử một nhà cách mạng chân chính đổi tên đổi họ để kẻ địch khỏi tìm ra tung tích thì ai cũng thấy phải lẽ. Nhưng đằng này, anh đổi tên, xét ra chỉ để có một cái nhãn hiệu mới thay cho cái nhãn hiệu cũ mà anh cho là quá thời. Với cái nhãn hiệu mới này, anh nghênh ngang, nghễu nghện bước vào cuộc đời mới, che mắt thế gian bằng một thứ trang sức mạ vàng. Anh cắt nghĩa cho tất cả mọi người: Hùng là anh hùng, Tiến là tiến bộ. Thiên hạ bắt đầu nể anh. Anh lại phân bua với quần chúng rằng anh đã tự ý chia cả gia sản cho dân nghèo ngay khi giành chính quyền ở huyện Thái Ninh, quê nhà anh, và hôm nhân dân xông vào chiếm lấy huyện đường, anh vác khẩu súng chim đi đầu... hô khẩu hiệu. Thiên hạ càng nể anh hơn nữa. Thế là, mập mờ đánh lận con đen, dùng danh từ, khẩu hiệu làm lá chắn và bùa hộ mệnh, anh có đủ can đảm chơi trò trịch thượng với đời. Cái chất sống bừng bừng chứa đựng trong các danh từ khẩu hiệu của thời đại mới, anh đang tâm bóp méo, vắt kiệt nó đi theo trí tưởng tượng kỳ quặc, bệnh não của anh, hòng bóp méo con người, vắt kiệt chất sống của con người mà Cách mạng đã đổ bao nhiêu máu mới giành lại được. Anh thường hay bảo người khác “liên hệ bản thân”. Bây giờ anh thử “tự liên hệ” xem sao? Ở đây tôi không có đủ quyền hạn làm một việc kiểm thảo hay lên mặt quan toà buộc tội anh như anh vẫn thường buộc tội người khác. Nhưng là một con người, lại là bè bạn anh, tôi tưởng có quyền góp một vài “hiện tượng” giúp anh nhìn lại con người mình. Dụng ý tốt nhưng lời nói có vụng về, xúc phạm đến lòng tự ái cũng mong anh thế tất cho. Nhớ lại còn thấy buồn cười với cái tên “Ông Khẩu hiệu” người ta tặng cho anh. Ngày đầu kháng chiến có khẩu hiệu “quần chúng hoá sinh hoạt”. Anh nắm luôn lấy nó để đóng một vai kịch khá lý thú. Hồi ấy mới về nông thôn, anh tuyên bố ầm ỹ là “cương quyết bỏ cái khoản xà-phòng trong sổ chi tiêu riêng” vì cớ “nông dân có dùng xà-phòng đâu mà vẫn sống được”. Ra đường, anh ăn mặc tồi tàn và đi chân đất, tối về không rửa chân trước khi đi nằm. Chủ nhà vốn người chất phác, tin ngay anh là người tốt và nhường cho anh căn nhà rộng nhất, cái giường vững nhất, tấm chiếu lành nhất, lại để anh sai khéo con người ta làm những công việc vặt cho anh. Mặc áo vá, đi chân đất, ly dị với… xà-phòng, trút bỏ cái lốt “Vinh Hoa” cũ với cổ cồn ca-vát, anh đã tự nhủ thấy mình là hiện thân của đạo đức mới, đạo đức của quần chúng và thấy có quyền phẫn uất với mọi cái mà anh cho là trái với nền đạo đức ấy. Vì hay phẫn uất, anh hay lên giọng kẻ cả mắng người. Người bị mắng đầu tiên là chủ nhà, kẻ đã nhường nhà cho anh ở. Nhân ngày giỗ mẹ, ông bà ấy mời chúng ta ăn cỗ. Cỗ đây có nghĩa là cơm không độn như thường lệ, lại có vài đĩa thịt và cả tí “nước cay” nữa. Chủ khách đang vui vẻ, anh mượn hơi men, nửa đùa nửa thật, luận thuyết về sự “không nên phạm chính sách tiết kiệm – cần phải ăn cơm độn – một giọt rượu là một giọt máu”. Bà chủ nhà thừa lúc anh ra ngoài, ghé tai tôi nói bằng một giọng sợ sệt: “nhà cháu có điều gì sai phạm, ông làm ơn nói với ông Tiến bỏ quá đi cho”. Tôi phải lấy lời lẽ giải thích, an ủi mãi người ta mới yên lòng. Đó là một lối: “quần chúng hoá” đặc biệt của anh. Anh căm thù nhất “cái bệnh tiểu tư sản”. Tôi cũng biết anh đã hiểu rộng câu “tẩy rửa đầu óc tiểu tư sản” trong sách vở. Những tàn tích tiểu tư sản như đồng hồ, bút máy, nhẫn vàng, anh giấu biệt một chỗ. Một buổi sáng, chị ấy lấy hộp gíp ra đánh răng, tự nhiên anh thấy nộ khí xung thiên, quẳng luôn hộp gíp xuống ao vì “dùng gíp đánh răng là đầu óc tiểu tư sản”. Chủ nhà nhìn anh, kinh ngạc. Dần dần ba tiếng “tiểu tư sản” trở nên những tiếng anh quen dùng để kháng cự mọi sự anh không đồng ý. Đại khái người ta mặc cái áo đẹp, hoặc giữ ảnh nhân tình trong túi hay buổi tối chơi ngắm trăng đều là “tác phong tiểu tư sản cả”. Thậm chí cô bé con nhà hàng xóm chạy sang khoe với bạn cái mùi xoa thêu cành hoa con bướm cũng bị anh phê bình ngầm là “ảnh hưởng tiểu tư sản”. Anh quên hẳn cái áo gấm lam của anh còn giữ từ ngày cưới vợ cất ở đáy hòm, thỉnh thoảng vắng người anh đem ra phơi. Giá lúc ấy phát động quần chúng rồi thì khối người vô cớ bị anh liệt phăng vào loại địa chủ gian ác chứ không bỡn! Anh có thấy không? Lối sống giả tạo ấy cứ theo cái đà tự phụ, tự mãn của anh mà phát triển lên. Năm bắt đầu có chỉnh huấn, anh xung phong đi ngay. Khi đó chúng ta cùng công tác ở một cơ quan. Anh là một trưởng ban, tôi là một nhân viên. Tôi cùng đi dự lớp chỉnh huấn với anh. Trong lớp có khẩu hiệu “Thành khẩn phê bình và tự phê bình”. Một số đồng chí có khuyết điểm nặng, can đảm nói ra. Có người khóc vì hối hận. Ai chẳng cảm động trước sự nói thật, khóc thật. Anh ngồi lầm lì mấy ngày trời, tỏ ra nung nấu ghê lắm. Một đêm mọi người đang ngủ yên, anh tung chăn vùng dậy, lay gọi đồng chí tổ trưởng và khóc thét lên, bộc lộ một tội tầy đình: một năm nào đó, sau Cách mạng tháng Tám, anh có tổ chức một đáng phát-xít lấy tên là đảng “Quạ đen” âm mưu làm những việc khuynh đảo. Sau khi “tranh đấu bản thân” anh nói ra “sự thật” với một niềm đau xót vô cùng. Anh xếp đặt câu chuyện có tình tiết hẳn hoi, ly kỳ như chuyện trinh thám. Hôm sau được “báo cáo điển hình” ở hội trường. Thỉnh thoảng anh khóc nấc lên, oằn người như con sâu bị ném vào lửa, tỏ vẻ ăn năn hối lỗi đến cao độ. Gần hết báo cáo, tự nhiên huỵch một cái, anh ngã lăn xuống đất, ngất đi. Anh em xúm lại vực anh dậy, gọi y tá đến tiêm thuốc hồi sinh. Người đời vốn tốt bụng nên cả tin, xôn xao khen ngợi, “anh học viên thành khẩn gương mẫu”. Tôi cũng có tính cả tin, đâu dám ngờ anh bịa chuyện cho ra dáng yêng hùng. Tôi lại phục anh về cả hai mặt: một là “to gan lập đảng phát–xít” hai là “lầm lỗi đến thế mà dũng cảm nói ra”. Tuy nhiên, tôi cứ loay hoay tự hỏi: “Quái, hắn lập đảng phát-xít lúc nào mà mình ở sát nách cũng không biết?”. Ngày qua tháng lại, anh cũng làm đến chức trưởng ty. Chẳng hiểu duyên nợ tiền kiếp thế nào mà tôi cứ phải ở gần anh mãi. Chuyến này anh lập nghiêm hơn trước nhiều. Trước anh cũng có những lúc vui tính và biết cười to như mọi người. Nhưng khi tự cảm thấy mình quan trọng quá rồi thì anh cười càng ngày càng ít. Khi chào ai thì chỉ vừa kịp nhếch nửa cái mép lại đóng lại ngay. Đây cũng lại là một cách anh áp dụng bốn chữ “thái độ nghiêm túc”. Trình độ “nghiêm túc” của anh càng lên cao thì hình thù anh càng thay đổi. Người khô đét lại, thẳng đuỗn như một cái áo quan, mắt chỉ biết trợn chứ không biết nhìn, mặt tái đi vì luôn luôn giận dữ với các loại khuyết điểm trên đời, hai hàm răng xít lại, dẫu có cậy cũng chẳng ra một nụ cười. Từ khi trong phòng anh dán khẩu hiệu “đặt lợi ích chung trên lợi ích riêng” thì quả anh tỏ ra gương mẫu không ai bì kịp. Ở đâu và lúc nào anh cũng chỉ nói toàn chuyện công tác, không bao giờ đả động tới chuyện vợ con, gia đình. Anh kiêng những chuyện đó như bậc chân tu kiêng phạm giới. Thành thử chúng tôi mỗi khi thèm khát nói về đời tư của nhau một chút, thường phải chờ khi vắng mặt anh mới dám nói vì ngại bị phê bình là “cá nhân chủ nghĩa”, “gia đình chủ nghĩa” và nhiều chủ nghĩa tồi tệ khác nữa. Cũng vì thế mà trong năm sáu năm trời công tác ở cơ quan, dưới quyền điều khiển của anh, tôi chỉ dám đánh bạo xin về thăm nhà một lần, khi nghe tin đứa con đầu lòng của tôi bị thương hàn nặng. Quả thực trông bộ mặt thiểu não của tôi lúc ấy, anh cũng cho phép nhưng không quên kèm theo một câu: “đồng chí không nên nặng đầu óc gia đình nhiều quá!”. Tôi về đến nhà, thằng bé suýt qua đời. Nếu không nhờ hàng xóm láng giềng cứu sống nó thì tôi oán hận anh biết ngần nào! Thú thật có một lần tôi bắt gặp anh cũng “nặng đầu óc gia đình” nghĩa là anh viết thư gửi về nhà cho chị ấy. Đang đề phong bì, chợt trông thấy tôi, anh giấu bức thư xuống dưới một chồng sách. Tôi suýt phì cười nhưng cũng hơi mến anh, chính vì cái việc nhỏ mọn “viết thư cho vợ” đó. Chừng cảm thấy mình cô độc, bất giác một hôm anh dán trên tường một khẩu hiệu mới “phải hoà mình với quần chúng” và lập tức thực hiện ngay. Mỗi ngày anh để ra mười lăm phút (có ghi trong thời khoá biểu) để săn sóc mọi người. Săn sóc đây có nghĩa là đến vỗ vai từng người rồi hỏi: “ăn cơm chưa?” hoặc “có khỏe không?” hoặc chỉ gọn lỏn có hai tiếng “thế nào?”. Người được hỏi, thấy cảm động, sắp bắt đầu kể lể tâm sự thì anh đã vội chạy sang phía người khác và hỏi nhưng câu đúng như vậy. Chẳng lẽ những lúc ấy chúng tôi lại nói thật với anh rằng: thà anh tặng chúng tôi mỗi thằng một nhát dao còn hơn ngày nào cũng vỗ vai thăm hỏi kiểu ấy. Chiều chiều cơm nước xong là có một giờ để dân vận (cái này cũng được ghi trong thời khoá biểu). Đồng bào đã thuộc lòng những câu dân vận của anh: cụ bao nhiêu tuổi? Cụ có mấy con? Con cụ làm gì? Người ta chưa kịp đáp câu này, anh đã hỏi sang câu khác. Có người đã bị anh hỏi như vậy hàng mấy chục lần. Sau những giờ dân vận, anh về ngủ yên giấc như đã làm tròn một nghĩa vụ lớn đối với giống nòi. Hồi ấy anh cũng có một người bạn thân. Đó là một sự lạ. Bạn anh tôi không nhớ tên là gì. Anh chàng ấy giống anh như tạc. Hai anh em gặp nhau mỗi tuần một lần vào chiều thứ bảy, rất đúng giờ (chắc là việc này cả hai đều có ghi trong thời khoá biểu). Trò chuyện tâm giao giữa hai anh cũng có “chương trình nghị sự”. Phần thứ nhất: phân tích tình hình thế giới, phần thứ hai: phân tích tình hình trong nước, phần thứ ba: phàn nàn về những kẻ sai lập trường. Khi các anh có vẻ đã ngấy nhau rồi thì bắt tay nhau và hẹn chiều thứ bảy sau lại gặp nhau. Thường lệ cứ sau đúng một tiếng rưỡi đồng hồ tâm sự là các anh ngấy nhau. Tôi vừa nói tới hai chữ “lập trường”. Ái chà! Về vấn đề này thì thiết tưởng cả thế giới dân chủ khó lòng tìm ra một người “đúng lập trường” như anh. Tôi có nhiều dịp thấy rõ điều này. Anh thường nói: lập trường tỏ rõ nhất trong ngôn ngữ. Vì vậy ở điểm này anh ráo riết lắm. Đồng chí cấp dưỡng một hôm kho thịt, gọi món ấy là “thịt kho Tàu”, anh “chỉnh” đồng chí ấy ngay tại chỗ: “sao không gọi là thịt kho Trung Quốc?” Những tiếng ghép quen dùng như chè Tàu, giày Tàu… anh đều nhất thiết đổi là chè Trung Quốc, giày Trung Quốc v.v… Có lúc tôi đánh bạo góp ý kiến: “Ta gọi nước bạn là Trung Quốc thì đúng lắm rồi, nhưng có một vài trường hợp thiết tưởng có thể linh động được chứ!”. Anh trừng mắt: “tư tưởng này là tư tưởng phá hoại tinh thần hữu nghị!”. Trong một phút đùa cợt, tôi ví cái dáng điệu lấc cấc của một anh bạn như dáng điệu “ét ô tô” thời Pháp. Thế là tôi bị phê bình nghiêm khắc ngay là “xúc phạm tới giai cấp công nhân”. Chẳng những chúng tôi mà cả quần chúng đông đảo cũng lắm phen được anh giáo dục về lập trường rất chu đáo. Từ sau phát động quần chúng có những vở kịch trình bày những cảnh địa chủ áp bức nông dân. Khán giả nhiều khi cảm động không cầm được nước mắt. Nghe nói thế, anh cũng chuẩn bị nước mắt từ ở nhà mỗi khi đi xem kịch. Thường thường anh khóc đúng lúc. Nhưng cũng đôi khi khóc hơi bừa bãi. Thí dụ một buổi đi xem chèo, giữa lúc tên địa chủ trên sân khấu đánh nông dân mạnh quá, rơi cả râu thì anh hu hu khóc. Những người xung quanh đang cười thì bị anh mắng ngay là “thương địa chủ, giễu nông dân”. Mọi người lấm lét nhìn anh và cho đến khi hạ màn không ai dám cười nữa. Về vấn đề phê bình và tự phê bình, anh cũng rất triệt để và có nhiều sáng kiến. Mỗi tối trước khi đi ngủ, có mười lăm phút “tự tu” nghĩa là kiểm điểm lời ăn, tiếng nói, việc làm trong một ngày: anh này chót chê tác phẩm của một nhà văn nước bạn là kỹ thuật kém, anh kia chót để cho một người bạn thân ở xa biết địa chỉ cơ quan, anh thứ ba chót sang xin nước uống của một bà hàng xóm, hại cho chính sách dân vận, đều phải kiểm điểm và truy động cơ tư tưởng cả. Chúng tôi ngồi xếp chân bằng tròn như những pho tượng trên chùa xung quanh ngọn đèn dầu lạc, ánh sáng hắt lên những nét mặt đăm chiêu, tiếng nói lầm rầm như đọc kinh sám hối. Ngày chủ nhật thường được nghỉ nửa buổi. Còn nửa kiểm thảo hàng tuần. Việc này làm kỹ hơn tự tu hàng ngày và phải vận dụng lý luận để phê phán lỗi lẫm. Anh ngồi điều khiển, mặt đầy sát khí, cất tiếng rè rè như cái máy hát cũ đem những bài lý luận ra “đối chiếu với thực tế” và phê phán những khuyết điểm để xây dựng cho từng đồng chí. Anh có một lối “phân tích, tổng hợp, quy kết” các loại tư tưởng một cách rất khoa học. Một anh có bệnh ngủ gật trong khi học tập, bị anh phê phán như thế này: ngủ gật là coi nhẹ học tập, coi nhẹ học tập là coi thường lý luận của ta, coi thường lý luận của ta là đứng về phe phản động. Kết luận: ngủ gật là phản động. Tôi không tin rằng thâm tâm anh cũng nghĩ như thế. Tôi nhớ chuyện người của ông Goóc-ki cứ cuối tuần lễ tập trung các cháu lại hỏi tội và vác roi quật những đứa nghịch ngợm. Ở điểm này quả anh giống người ông của Goóc–ki. Nói đến Goóc-ki, tôi lại nhớ chuyện văn nghệ. Nói cho công bằng anh cũng là người có khiếu văn nghệ và có quan điểm văn nghệ riêng. Anh chủ trương rằng: văn Liên Xô nhất thiết hay hơn văn Trung Quốc, văn Trung Quốc nhất thiết hay hơn văn Việt Nam. Ở trong nước thì văn sĩ cấp khu giỏi hơn văn sĩ cấp tỉnh, văn sĩ cấp tỉnh giỏi hơn văn sĩ cấp huyện. Hay hơn tất cả văn chương các cấp là ca dao ở các bích báo. Lý luận như thế cũng hơi đảo lộn trật tự nhưng thấy đúng quan điểm quần chúng anh lại yên tâm. Chúng tôi sống luẩn quẩn với anh trong sáu năm trời đằng đẵng. Cơ quan cũng có chuyển địa điểm nhiều lần. Nhưng bất cứ ở đâu, con người anh cũng lù lù như một cái bóng đen đè nặng lên cuộc đời chúng tôi. Chúng tôi đếm từng bước đi, nén từng hơi thở, ghìm từng lời nói. Chúng tôi sống thầm lặng, khép nép, như những người đàn bà tu kín, sắc mặt vàng vọt dần, mạch máu khô kiệt dần ở một nơi thiếu ánh sáng mặt trời. Không biết trong bấy nhiêu năm, chúng tôi đã làm lợi gì cho ai? Và chính anh nữa, anh đã làm lợi gì cho ai? Chúng tôi hồi đó chỉ có cái thú tai ác là rình lúc nào rảnh việc, tìm chỗ nào vắng nhất cùng nhau bàn về anh để giải trí. Có lúc chúng tôi ví anh như “ông Hít-le” (vì anh cũng đã bộc lộ là đã có phen định làm ông Hít-le con cơ mà) có lúc ví anh như một gã thơ lại hách dịch, hoặc một cụ đồ gàn tưởng cách mạng toàn là chuyện chi, hồ, giả, dã… Chúng tôi vẽ bức biếm hoạ ngộ nghĩnh: anh xếp các khẩu hiệu làm bực thang leo lên ghế thủ trưởng. Chúng tôi còn làm vè đề dưới bức hoạ. Anh định làm cho chúng tôi sợ thì quả thật anh đã đạt được kết quả mỹ mãn: chúng tôi hàng ngày ngồi trước mặt anh làm việc như những cái máy, nói đúng hơn như những viên tiểu thơ lại. Nói chuyện với anh thì chỉ biết xã giao bằng những câu rất “đúng lập trường” rồi mong mỏi những phút được bá cổ nhau chạy ra chỗ vắng nói tếu cho nở phổi. Cộng lại những phút này cũng hiếm lắm. Trong giấc ngủ hình ảnh của anh cũng không để chúng tôi được nghỉ ngơi thật sự. Có đêm tôi mơ thấy hai cánh tay gầy guộc của anh có móng nhọn nắm cổ tôi lôi xuống một cái hầm tối om, đậy nắp lại. Có đêm lại thấy anh hoá ra con quạ đen quắp tôi bay đi như con đại bằng quắp nàng công chúa trong truyện cổ tích. Tôi thường kêu ú ớ hoặc nghiến răng trong những giấc mơ kinh hãi đó… Hồi tưởng lại cho kỹ trong ngần ấy năm cũng có một đôi lần, tôi thấy có cảm tình với anh. Cái lần đồng chí Mẫn ở Khu về có việc ở Ty, làm cho chúng tôi và cả anh ngẫm nghĩ. Đồng chí ấy, kể ra không “oai nghiêm” bằng anh. Đồng chí ấy xuề xoà vui tính, thỉnh thoảng cũng nói tếu như chúng tôi. Tôi lấy làm lạ rằng trong những ngày tiếp đồng chí Mẫn, hình thù dáng dấp anh có đổi khác. Anh nhũn nhặn lắm. Bộ mặt trở nên hiền lành lại có vẻ đứa trẻ ngoan ngoãn. Đồng chí ấy nói đùa anh cũng vâng vâng dạ dạ vì lâu ngày anh quên cả nói đùa. Sau khi đồng chí Mẫn đi, anh bắt chước tác phong của đồng chí ấy được vài hôm nhưng ngượng ngập trông thật tội nghiệp. Trước kia anh đã lên cấp bằng con đường nghiêm khắc nay anh lại định lên cấp bằng cách vui tính nhưng than ôi! tre già uốn dễ gẫy, lụa đen khó nhuộm hồng. Một kỷ niệm khó quên nữa là cái lần anh ốm nặng. Ngồi bên giường bệnh săn sóc anh, tôi được nghe anh kể chuyện nhà chuyện cửa. Anh nhớ bà cụ, nhớ chị và các cháu. Lại tả cảnh quê hương với những con đê rặng nhãn. Tôi có ý nghĩ hơi tệ: giá anh ốm mãi lại hoá hay. May sao khi anh khỏe lại thì tôi được điều động sang cơ quan khác… Bây giờ nửa mừng nửa sợ được biết tin anh. Tôi hỏi chuyện anh em, có người tặc lưỡi nói: “Hắn vẫn như trước…”. Tôi không tin nhưng vẫn thấy ngài ngại. Đêm nay tôi cố gắng bình tĩnh để quên mọi bực dọc cũ, viết thư cho anh. Việc đã qua thuộc về dĩ vãng. Tôi không trách anh đã làm phao phí tuổi trẻ và năng lực của một số người trong bấy nhiêu năm. Vì trách nhau cũng chẳng có lợi gì. Anh không phải là một người lẩm cẩm đâu. Anh rất khôn ngoan nhưng đã tính toán lầm. Dựa vào một danh nghĩa lớn, anh làm toàn những việc tủn mủn. Cách mạng đấu tranh cho cái thật, anh dựa vào đấy để làm cái giả. Cách mạng yêu con người, anh không biết yêu con người. Cho nên có lúc xung quanh anh như lạnh lẽo toàn là tử khí. Xác chết toát ra thế nào được hơi nóng. Người khỏe mạnh, ai thích đến gần xác chết, kể cả xác chết người yêu. Anh chưa phải là một xác chết hẳn đâu. Thời đại còn có thể tiêm thuốc hồi sinh cho anh được. Anh nên sống cho trọn vẹn, cùng với mọi người xây dựng cuộc sống. Người ta sẽ yêu mến anh, anh cũng sẽ biết yêu mến mọi người. Cuộc sống sẽ thú vị biết bao! Tôi nói có vẻ nhà mô phạm lắm nhỉ! Đó là thói quen của nghề nghiệp. Anh hiểu cho lòng chân thành là quý.
(Trích Giai phẩm mùa Thu - Tập I) [2]
[1]Đoạn này giễu lối thú tội và ăn năn trong các lớp chỉnh huấn.[2]Bản đăng trong sách này thiếu một số câu. Xem toàn văn trong Giai phẩm mùa Thu - tập I
==
Cần mở rộng phê bình để đẩy văn nghệ tiến lên
Trong lớp nghiên cứu lý luận văn nghệ vừa qua, [1] anh chị em chúng ta đặc biệt chú ý đến tài liệu "Trăm hoa đua nở" của Lục Định Nhất.
Thực tế khách quan ngày một lớn mạnh đòi hỏi văn nghệ phải tiến lên một bước nữa. Muốn phục vụ tốt, muốn xây dựng một nhân văn mới, người làm văn nghệ cần được tự do sáng tác, phát huy đến tận độ mọi khả năng của mình. Tất nhiên hai chữ tự do phải quan niệm theo chiều hướng tiến bộ, chiều hướng cách mạng. Có tự do sáng tác thì mọi khuynh hướng tốt mới thi nhau phát triển như "trăm hoa đua nở".
Muốn "trăm hoa đua nở", theo ý chúng tôi, cần mở rộng phê bình và tranh luận, không nên gò bó, câu nệ. Trong bản báo cáo nhan đề "Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam" đọc ở Đại hội Văn hóa Toàn quốc tháng 7 năm 1948, ông Trường Chinh có nói: "Một điều ai cũng nhận thấy là cuộc sống văn nghệ của dân tộc ta lành quá. Một tác phẩm văn nghệ mới, hay hay dở, công chúng hoan nghênh hay phản đối, phần nhiều ta không biết. Có ai phê bình đâu, có ai khen chê đâu! Một chủ trương, một tư tưởng đề ra thường bị rơi thõm vào trong quên lãng và lạnh nhạt như thế. Thành ra tác giả ít được nâng đỡ, khuyến khích hoặc sửa chữa, bổ khuyết cho.
Không có phê bình, không có luận chiến, phong trào văn nghệ nước ta êm đềm trầm mặc quá! Nó như con ngựa đi bước một, rũ cổ xuống đất, thiếu một cái roi phê bình quật cho nó lồng lên". Kể ra từ 1948 đến nay, nhất là từ sau khi hòa bình được lập lại, cũng có phê bình, cũng có tranh luận, nhưng cần phải thẳng thắn nhận rằng: có những hiện tượng không thuận lợi cho sự phát huy tự do tư tưởng trong phê bình văn nghệ. Một vài quan niệm hẹp hòi làm cho chúng ta có thái độ e dè thế này, khắc nghiệt thế kia, thậm chí có khi "áp chế phê bình" nữa. Cần phải cảnh giác, cần phải thận trọng là đúng, nhưng băn khoăn quá đáng về thái độ phê bình thường làm trở ngại cho sự phê bình. Chúng ta lo lắng hơi nhiều. Nào là "hại uy tín lãnh đạo", nào là "xâm phạm đến khối đại đoàn kết", nào là "sợ địch xuyên tạc hoặc lợi dụng", v.v… Nhiều sự lo xa thái quá khiến cho "cái roi phê bình" không dám "quật" mạnh, có khi lại "quật" sai nữa. Ở đây tôi chỉ lướt qua mấy cuộc phê bình tương đối có tiếng vang trong quần chúng để thấy nhược điểm mà khắc phục.
Trước hết là cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Việc này xảy ra vào khoảng tháng 2 tháng 3 năm ngoái. Có thể nói đó là một triệu chứng tốt cho văn học, văn nghệ nước nhà. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam có một cuộc phê bình, tranh luận thu hút đông đảo quần chúng. Đúng như tác giả A.T. nhận định trong báo Văn nghệ (số 65, tháng 3/55): "không khi bằng phẳng, thiếu phê bình của văn nghệ được khuấy động, hứa hẹn nhiều kết quả… Phê bình đấu tranh là một điều kiện sống còn của tiến bộ, của cách mạng". Hoàng Trung Thông cũng thấy rằng: "Cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc là cuộc phê bình rộng lớn đầu tiên trong phong trào văn nghệ nước ta. Đã mấy tháng nay nhiều cuộc họp trong trường học, trong xí nghiệp, trong đơn vị bộ đội thảo luận về thơ Tố Hữu. Hàng trăm bài phê bình từ khắp nơi gửi về báo Nhân dân và báo Văn nghệ…" Ngay trên báo Văn nghệ hồi đó, những bài phê bình của Hoàng Yến, Minh Tranh, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Nguyễn Văn Phú, v.v… được đăng liên tiếp. Khen cũng có, chê cũng không ít. Ý kiến chưa ngã ngũ ra sao thì cũng trên báo Văn nghệ có một loạt bài có khuynh hướng rõ rệt bảo vệ tập thơ Việt Bắc như dựng xung quanh nó một thành trì kiên cố, bất khả xâm phạm.
Những bài này lại phần nhiều là của những đồng chí có trách nhiệm lãnh đạo văn nghệ. Sốt ruột trước sự huyên náo của quần chúng, Trần Độ phát biểu vài "cảm tưởng của một độc giả thông thường" (Văn nghệ số 72, tháng 6/55): "đề nghị với các nhà phê bình bớt lý luận dài dòng, phân tích chủ quan, trừu tượng, đôi lúc bộc lộ ý xấu…" Trần Độ bộc lộ ý tốt của mình bằng cách thỉnh thoảng reo lên: "Thích lắm… hay lắm… cũng hay lắm". Tiếp đó, nhà phê bình Hoài Thanh nói về "Tình yêu quê hương đất nước trong tập thơ Việt Bắc" (Văn nghệ số 74) cho chúng ta biết rằng: "Thơ của anh Tố Hữu như một cây súng, luôn luôn anh nhắm cho thật trúng, bắn cho thật trúng… Những câu thơ của anh sẽ giúp ta xây dựng lại cho bản thân ta một trời đất mới, một cuộc đời mới". Lại tiếp đó, nhà văn Nguyễn Đình Thi, trong bài "Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng" (Văn nghệ số 77) ví những bài thơ của Tố Hữu như "măng mọc sau mưa xuân", như "những đóa hoa hồng tươi thắm". Vài tuần sau nhà thơ Hoàng Trung Thông, theo ý kiến của ban Văn, hội Văn nghệ Việt Nam, viết bài "Kết thúc cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc" (Văn nghệ số 81, tháng 8/55) Tác giả bài này nhắc nhở mọi người "phải biết phân biệt bạn thù… nhiều bài phê bình, nhiều ý kiến phát biểu đã rơi vào lối tranh cãi tư sản lỗi thời, có khi đã dùng những lời độc ác hoặc thô bỉ để mạt sát lại ý kiến của người khác". Điều đáng chú ý là bài "kết thúc" ấy không đả động tới một số lớn ý kiến đã được nêu ra trong những cuộc tranh luận rộng rãi. Nó chỉ có tính cách một bài nhận định của Thường vụ Hội về giá trị của thơ Tố Hữu mà thôi.
Như vậy hà tất còn phải mất nhiều thì giờ cãi vã nhau vô ích. Thậm chí có người lại nói "địch nó không mong gì hơn chúng ta chê thơ anh Tố Hữu". Tôi thiết tưởng nên nói rằng: "Một nhà thơ như Tố Hữu mà chúng ta còn được tự do phê bình, tự do nêu ưu điểm để học tập, nêu khuyết điểm để sửa chữa, như thế địch nó mới sợ chứ". Phê bình thơ Tố Hữu có hại gì cho uy tín của Tố Hữu. Trái lại thế. Còn vấn đề thái độ? Tôi không tán thành những "lời độc ác hoặc thô bỉ", nhưng cũng cần quan niệm rằng trong không khí tranh luận gay go sôi nổi tránh sao được những câu nói quá hăng, những lời lẽ vụng về. Miễn là dụng ý tốt. Dăm ba người bạn ngồi uống trà, tán thưởng nhau còn có thể to tiếng được, nữa là… Nếu cứ thấy to tiếng là quy luôn cho cái tội "bộc lộ ý xấu" thì vấn đề tranh luận khó thực hiện lắm thay!
Kết quả là sau bài "kết thúc" ấy, quần chúng cũng không thỏa mãn. Ngoài những điều đã biết, chẳng biết thêm được điều gì mới. Và phong trào phê bình tranh luận xẹp xuống. Con ngựa lại rũ cổ xuống đất.
Cuộc tranh luận về cuốn Vượt Côn Đảo cũng tương tự như vậy. Bài “Kết thúc” của Vũ Tú Nam (Văn nghệ số 87, tháng 9/55) răn người ta "cần phải chống lại thái độ phê bình đả kích moi móc khuyết điểm, cố chấp lẫn lộn thù bạn…" Muốn khỏi mang tiếng moi móc, cố chấp, các nhà lý luận chúng ta trở lại xuê xoa "dĩ hòa vi quý". Thật là một cảnh tượng "thiên hạ thái bình" trong văn nghệ giới.
Việc đời đang vui vẻ thì xảy ra "vụ Trần Dần". Về "vụ" này người ta bình luận đã nhiều, tôi chỉ mạn phép nói qua thôi. Số là Trần Dần có làm bài thơ nhan đề “Nhất định thắng”. Hay dở thế nào, thiết tưởng cứ tổ chức một cuộc tranh luận tự do, ai thấy hay thì khen, ai thấy dở thì chê. Quần chúng lầm sao được. Đằng này lại tổ chức một cuộc… chẳng lẽ lại goi là "đấu", bao nhiêu sấm sét, búa rìu đổ vào đầu một bài thơ. Nói của đáng tội gần hết giờ họp, anh Hoài Thanh có đề nghị với anh em: "Ai có ý kiến gì bênh vực bài thơ ‘Nhất định thắng’ thì cứ tự do phát biểu". Nhưng trong không khí ấy "nào ai còn dám nói năng nửa lời". Vài hôm sau trên báo Văn nghệ (số 110, ngày 25/2/56) nhà phê bình Hoài Thanh lên án "Trần Dần đã xuyên tạc và vu khống miền Bắc… Bài của Trần Dần đã làm cho hầu hết mọi người đọc đều phẫn nộ… Không khí buổi họp rất sôi nổi… ai cũng muốn được phát biểu ý kiến để nói lên sự phẫn nộ của mình… Bài ‘Nhất định thắng’ chứa đựng những tư tưởng phản động, đứng về phía địch chống lại nhân dân ta, chống lại cuộc đấu tranh thống nhất đất nước".
Tôi nghĩ mãi: thái độ phê bình ấy không biết có phải là thái độ phân biệt bạn, thù hay không? Có người bảo đó là cái lối "đập một gậy chết tươi". Con ngựa còn làm sao ngóc đầu lên được.
Thế mà chẳng bao lâu, trong và cả ngoài giới văn nghệ lại thấy xôn xao về một "vụ" mới: "vụ" phê bình giải thưởng văn học. Chuyện này người ta nói nhiều rồi, tôi lại cũng chỉ nó rất vắn tắt. Nguyên ở Hà Nội có một tờ báo là tờ Trăm hoa có ba bài phê bình tập thơ Ngôi sao của Xuân Diệu, cho rằng không xứng đáng với giải nhì. Có thế thôi! Vậy mà dư luận cũng sôi nổi một dạo. Dư luận khá phức tạp. Tuyệt đại đa số tỏ sự đồng tình. Một số nhỏ cho là đố kỵ. Một số nhỏ nữa cho là "không lợi cho đoàn kết", v.v… Trên báo Văn nghệ lại có một bài của anh Hoài Thanh khen thơ Ngôi sao "sang sảng như lời hịch" dường như không muốn nghe những lời "eo xèo" của quần chúng nữa.
Đưa những sự việc cụ thể trên đây, tôi không hề có dụng ý "vạch áo cho người xem lưng". Vả lại nếu lưng mình có vết cũng nên vạch ra lau cho sạch chứ sao! Tôi chỉ nhắc lại: cần tạo điều kiện thuận lợi cho tự do phê bình. Có như vậy mới định giá được một cách thật chính xác tác phẩm của văn nghệ sĩ. Có như vậy mới xây dựng được thành khẩn cho lãnh đạo, chấn chỉnh tổ chức. Có như vậy mới vạch được một đường lối đúng dẫn dắt văn nghệ sĩ sáng tác văn nghệ và quần chúng thưởng thức văn nghệ. Có như vậy mới tạo khí hậu tốt cho "trăm hoa đua nở".
[1]Chỗ này tác giả muốn nói đến lớp nghiên cứu lý luận văn nghệ do Hội Văn nghệ Việt Nam mở từ ngày 01 đến 18/8/1956 cho trên 200 văn nghệ sĩ và những người công tác văn nghệ tại Hà Nội. Nội dung là trao đổi thảo luận về một số vấn đề lý luận căn bản về văn học, nghệ thuật, liên hệ với thực tế hiện tại để đề xuất một số vấn đề lớn, góp ý kiến vào việc chuẩn bị Đại hội Văn nghệ Toàn quốc lần thứ 2. Phóng viên của báo Văn nghệ ghi nhận: “Trong khi nghiên cứu lý luận, anh chị em đã liên hệ phê bình đường lối và phương pháp lãnh đạo của các cơ quan có trách nhiệm về văn nghệ. Khi nêu lên những sai lầm của lãnh đạo, anh chị em đã có một thái độ rất thẳng thắn, kiên quyết, và có nêu lên những trường hợp cụ thể như: nhận định sai lầm đối với cải lương của Hội nghị sân khấu [chỗ này ý nói Hội nghị tranh luận sân khấu ở Việt Bắc từ 20 đến 22/3/1950 − L.N.A. chú]; vấn đề giải thưởng văn học 1954-1955; vấn đề tập Giai phẩm mùa Xuân 1956, v.v…. Nói chung tất thảy đều biểu lộ mối nhiệt tâm xây dựng, một thái độ thực sự cầu thị và một tinh thần thành thực lo lắng cho sự tiến bộ của nền văn học và nghệ thuật cách mạng của chúng ta” (trích bài tường thuật của P.V., Văn nghệ, s. 135, ra ngày 23/8/1956, tr. 7) − L.N.A. chú.
Nguồn: Báo Văn nghệ, Hà Nội, s.136 (30.8.1956), tr. 9, 11. LạI Nguyên Ân biên soạn.
===
Trần Lê Văn
Viết bài báo Tết
(truyện ngắn)
Cần là một nhà văn có tiếng ở Thủ đô. “Có” tiếng chưa hẳn “nổi” tiếng, nhưng đối với bà con độc giả, tên anh nghe quen thuộc và gợi cảm tình như tên một người bạn tốt, vui tính và hay bàn bạc với đời những chuyện có ích. Văn anh ta có nhiều lối: thơ đứng đắn, thơ hài hước, truyện ngắn, truyện dài, hồi ký, tuỳ bút, lại cả luận thuyết nữa… Vì vậy có người đùa nịnh anh là nhà văn “bách khoa”, có người đùa sỏ là nhà văn “bách hoá”. Kể ra đầu óc anh ta cũng chứa đựng nhiều thứ khác nhau như cái kho tàng bách hoá, nên trong sự viết lách, anh ta không đến nỗi cạn vốn. Bạn bè nhận thấy anh ta thường may tay trong công việc “làm ăn”.
Nhà Cần ở phía trong cùng một cái ngõ hẻm ngoại ô. Lối đi lát gạch, nhỏ và quanh co như cái ruột mèo. Trong ngõ có hàng giò chả, hiệu thợ may và nhiều gia đình thuộc các thành phần linh tinh. Nhờ những cuộc tổng vệ sinh đều đặn, cái ngõ cũng khá sạch. Tuy nhiên, do sự chật hẹp của cái buồng ở sát bếp, do sự bừa bãi của bà hàng xóm hay vứt rác rưởi làm tắc cống rãnh, do thói quen hay đái bậy của một số người qua đường mà nhà Cần phải chịu đựng những thứ có thể trở ngại cho hạnh phúc: chuột, gián, muỗi, khói và mùi khai.
Cả gia đình ở một gian. Bàn làm việc là một cái bàn thờ thải ra của một người quen cho mượn. Nó đã bong lớp sơn đỏ, hình thù to tướng và cao lêu đêu, phải cưa bớt bốn chân cho vừa tầm. Nó kiêm nhiệm làm bàn ăn, bàn ngủ và sân khấu để nhảy văn công của con cái những lúc chúng cao hứng. Còn ghế là sự gặp nhau bất ngờ của các kiểu ghế (tuy chỉ có bốn cái). Có thứ ghế tay ngai của thợ cúp, có thứ ghế đẩu cao và nhỏ vốn dùng để kê chậu hoa, có thứ ghế gấp của rạp xi-nê v.v…
Minh hoạ của Bùi Xuân Phái
Cần làm phóng viên cho một tờ báo hàng ngày. Công việc của anh là đi nhặt tin, phỏng vấn và thỉnh thoảng đại diện cho toà báo đi dự những cuộc đón tiếp bình thường, những tiệc trà nhỏ không mấy ngày không có ở đất Thủ đô. Vì nhiệm vụ, anh ta được dịp mài lốp xe đạp suốt ngày ở các đường phố để thở không khí trong sạch và bồi dưỡng cơ thể bằng các thứ kẹo bánh có giá trị mà nếu cứ tích luỹ lại, tính thành tiền có lẽ chẳng kém gì số thu hoạch hàng tháng của anh. Vợ Cần làm cấp dưỡng kiêm mẫu giáo ở gia đình hay nói nôm na là chị ta chỉ có việc bếp nước và trông nom năm đứa trẻ sàn sàn đầu nhau, đứa bé nhất đang tập đứng. Thằng bé cứ nhổm lên ngã xuống oanh oách, mẹ nó không thể rời tay ra lúc nào. Chị ta liên tục tranh đấu với chồng để có “công việc làm”, góp phần “xây dựng kinh tế” gia đình. Công ăn việc làm thực ra cũng không thiếu. Bạn bè sẵn sàng giới thiệu những việc mà bất cứ người phụ nữ nào cũng làm được: se đay cho mậu dịch, dệt bí tất cho một xưởng tư nhân, thùa khuy đơm cúc cho một hiệu thợ may, bóc chanh thuê cho một xưởng làm mứt… Việc nào cũng có thể kiếm được độ vài vạn một tháng, tạm đủ một miệng ăn. Thế mà rút cục chẳng làm được việc nào cả vì chị ở vào một thế bí: đi làm thì không ai trông con, trông con thì không thể đi làm. Người vợ nẩy ra tâm trạng bực bội thường xuyên: chán cảnh con cái, bếp nước, lại có những cơn tự ái vặt về sự lệ thuộc kinh tế đối với chồng, sự thiếu tự do “mở mày mở mặt với chị em”. Cần trở nên đối tượng đấu tranh của vợ. Anh ta nhảy từ tả khuynh sang hữu khuynh.
Thoạt đầu anh ta đối phó bằng cách dùng quyền làm chồng, lớn tiếng trấn áp. Biện pháp này không công hiệu, anh ta xoay ra dùng lý luận để thuyết phục “đối phương” về sự phân công trong gia đình, về trách nhiệm thiêng liêng của người vợ, người mẹ. Vợ anh cho đó là một chính sách lừa bịp, càng đấu tranh già. “Cứ giam hãm mãi người ta trong xó nhà để lũ ranh này làm tình làm tội người ta mãi thì chịu sao được hở trời!”. Cái điệp khúc kém phần du dương ấy cứ quát vào tai Cần làm cho anh chàng nao núng. Anh ta phân tích tình hình, tìm ra một câu sách để cắt nghĩa sự lủng củng ấy: “kinh tế quyết định hết thảy”. Khi đã thấy chân lý rồi, anh ta giữ thái độ chịu đựng trước những cơn bão táp của vợ. Mỗi khi chị làm rầy ra, anh cứ lặng thinh như đức Phật tổ thản nhiên trước sự sỉ vả và khiêu khích của Ma Vương và miệng lẩm nhẩm như niệm thần chú “kinh tế quyết định hết thảy”.
Ít lâu nay Cần mím môi mím lợi giữ một lời nguyền “làm việc để nâng cao kinh tế gia đình”. Thế là trông vào vốn văn chương chữ nghĩa ở trong bụng, anh lao vào sáng tác như người thuỷ thủ lao vào sóng gió, tin ở sự vững chắc của buồm lái và sức mạnh của hai cánh tay mình. Anh viết, viết nữa và viết mãi. “Nhờ trời” hồi này “làm ăn” cũng đã dễ dãi hơn trước nhiều.
Tết sắp đến rồi. Chuyến này thì phải mở một chiến dịch viết lách. Bao nhiêu thời gian bỏ phí mất rồi! Ý định của Cần trở nên một sự quyết tâm bướng bỉnh và đáng sợ. Anh ta chắc mẩm trong bụng là “com-măng” sắp sửa đến tới tấp. Điều dự đoán ấy quả không sai. Tay nhà nghề vốn có cái “phờ-le” rất thính như vậy. Chẳng biết do cái nền nếp có tự bao giờ, cứ vài ba tháng trước khi tất niên là các nhà báo, các nhà xuất bản bắt đầu làm cái việc rất công thức mà rất cần thiết là chuẩn bị báo tết, sách tết. Âu cũng là một cái mỹ ý của những người lo lắng cho thiên hạ có những món ăn tinh thần để thưởng xuân ngoài những món ăn vật chất là thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng, chè kho v.v… Đầu tháng Mười âm lịch, nhà văn Nguyễn Trọng Cần nhận được vừa đúng một chục cái “com-măng”. Xin kể cụ thể mấy cái đặc biệt:
* Nhà xuất bản Tiếng còi đặt một truyện châm biếm để in vào tập san Nụ cười Xuân. Ông chủ nhà xuất bản không quên dặn đi dặn lại: “Thật cười nhé! không cười không đăng”.
* Nhật báo Ngọn lửa hồng đặt một bài thơ đại hài hước để riễu những thói hư tật xấu còn sót lại của xã hội.
* Tuần báo Điều độ cũng đặt một bài văn vui, nhưng vui độ 50% nghĩa là vui một cách vừa phải; rất mực vừa phải. Ông chủ nhiệm báo này hẹn trước với tác giả: “Nếu văn của anh buồn cười quá, người đọc chết vì cười thì anh phải chịu trách nhiệm. Nếu cười mà đụng chạm đến người này người khác, việc này việc khác, anh cũng phải chịu trách nhiệm. Nếu cười mà bị người đọc hiểu lầm là châm chọc và phản ứng với toà báo, trách nhiệm cũng về anh…” Cần nghĩ bụng: “Nếu vậy chỉ có một cách là viết thật buồn. Nhưng viết buồn thì không có hướng đi lên, làm u ám cả ngày xuân tươi đẹp. Thế cũng chết. Hay là không
Ngoài ra còn những cơ quan ngôn luận khác như báo Nửa nạc nửa mỡ, tuần san Đời tươi, báo Hoàn tán, báo Đoan trang cũng đều đặt những bài văn theo tôn chỉ mục đích của họ. Ý muốn của các cơ quan ngôn luận ấy rất phức tạp, đôi khi trái ngược nhau, nhưng thống nhất ở một điểm, ấy là viết về tết, về xuân cho cừ, cho khéo, cho hay.
Thế là vị chi mười cái “com-măng”. Và xin nhắc lại là sự ám ảnh bắt đầu từ ba tháng trước tết. Giống như nhà quân sự trước khi xông vào trận địa phải bố trí kế hoạch tỉ mỉ, Cần loay hoay tính toán trước khi dốc hoả lực vào cái việc viết bài cho báo tết. Anh ta vốn kém về khoa toán học nhưng câu tục ngữ đã nói rằng “Sự nhu cầu làm cho người ta trở nên khôn khéo”. Cần bỗng dưng hoá thành một tay tính toán có tài. Anh ta tính toán về nhiều mặt. Trước hết là về thời gian. Ba tháng có độ 90 ngày. Trừ 30 ngày của tháng Chạp là tháng không báo nào nhận bài nữa còn 60 ngày. 60 ngày chia cho 10 bài, mỗi bài được 6 ngày. Kỳ thực, ngày hai buổi đi làm, trưa và chiều trông con giúp vợ, không thể nào viết ban ngày được.
Như vậy chỉ có thể dành cho mỗi bài 6 buổi tối. Những buổi tối trẻ con đùa nghịch, nhà cửa ồn ào, bè bạn đến chơi, cũng chưa viết được. Như vậy chỉ có thể dành cho mỗi bài 4 đêm, mỗi đêm làm việc từ 10 giờ tối đến 2 giờ sáng tức là 4 tiếng đồng hồ liền. Thế là mỗi bài cả nghĩ, cả viết, cả chữa, cả chép lại, cả nghỉ ngơi, cả hút thuốc lào vặt được 24 tiếng. Riêng bài viết cho tuần báo Điều độ phải 48 tiếng, bài cho báo Đoan trang mất ít ra 36 tiếng vì cái khó là ở chỗ “tươi ít, khô nhiều, nặng về đứng đắn, nhẹ về tình tứ”. Phải thêm thì giờ bằng cách thức khuya hơn nữa mới được!
Bây giờ xét về mặt tài chính. Cái này tối ư quan trọng. Mười bài may ra đăng được sáu. Nhuận bút hồi này đã khá. Mỗi bài trung bình cho là 1 vạn. Tổng thu là 6 vạn. Các khoản chi tiêu hàng ngày đã trông vào lương tháng. 6 vạn tạm phân phối như sau: 1 vạn bồi dưỡng cho những đêm thức khuya quá mức (chè tàu, thuốc lá, thuốc lào, kẹo lạc); 2 vạn giả các khoản nợ linh tinh và mua đôi chiếu mới; 3 vạn để sắm tết. Nếu “tirage” sách báo Tết tăng hơn ngày thường và nhuận bút tăng thì sẽ may vài cái áo mới cho lũ trẻ và cả mẹ chúng nó nữa. Nhà văn vốn giàu tưởng tượng. Trong một cơn gió lạc quan thổi đến bất ngờ, Cần tính bừa số tiền nhuận bút tương lai thành 10 vạn và anh tự cho phép mình tiêu pha bừa bãi một chút. Anh vay trước vào lương tháng 3 vạn, tức tốc ra mậu dịch mua một đôi giày Tiệp Khắc màu da cam chín đế kếp giá 1 vạn 6, một cái bút máy Đông Đức giá 1 vạn, còn bao nhiêu rủ mấy “ông” bạn đi thù tạc một chầu phở. Nhuận bút giải quyết cả, không lo!
Minh hoạ của Bùi Xuân Phái
Cần tin vào kết quả vật chất của văn chương như một nhà quân sự bách chiến bách thắng tin vào chiến công tất yếu của mình. Mặt anh ta lộ một vẻ tự hào rõ rệt. Anh không hay càu nhàu như trước nữa. Đi làm về đến nhà là đăm chiêu suy nghĩ, cả trong những lúc bế con, giặt quần áo. Thằng bé tha hồ nghịch mũi nghịch tai bố, vợ tha hồ gắt về sự lơ đễnh của chồng, anh ta đối phó với mọi sự bằng một vẻ im lặng rất hiền triết. Vợ con cũng đâm nể. Đêm nào cũng vậy, giữa lúc đường ngõ đã vắng lạnh, xa xa có tiếng rao mời mọc van lơn “Ô mai, cam thảo, gừng đi…i…!” là lúc trận bão sáng tác của Cần bắt đầu. Cái chao đèn cũ kỹ bụi bậm toả một khoảng sáng tròn trên mặt bàn: cái tranh cắt ở một tờ hoạ báo, dán trên tường, vẽ hai thanh niên nam nữ đang kề vai nhau âu yếm; bó hoa cúc khô quăn cắm trong cái bình thuỷ tinh; chị vợ lẳng lặng ngồi vá quần áo đang nhìn chồng với một vẻ kính cẩn tín ngưỡng… tất cả người và vật đó như ở một thế giới khác, Cần không nhìn thấy gì. Cả cái bóng của chính mình đang đi lại trên tường hay ngồi im như bóng một pho tượng, Cần cũng không trông thấy. Uống nước hút thuốc cũng trở nên những cử chỉ máy móc, không có ý thức. Cần đang sống lại những ngày Tết ở làng Mèo có rừng đào đỏ rực, Tết ở Thái Bình, bị Tây vây, ăn dưa hành trừ bữa… Anh hình dung những nhân vật nghiêm trang hay ngộ nghĩnh, những sự việc bình thường hay lố lăng, những chuyện hỉ, nộ, ai, lạc… để tạo nên những món ăn hợp “khẩu vị” khác nhau của những tờ báo khác nhau.
Anh khổ sở dằn vặt về mấy câu chữ đánh lộn nhau trong đầu: “bôi đen”, “tô hồng”, “nhuôm nhuôm”. Anh buồn cười tự ví mình như một người thợ ruộm thận trọng đến lẩm cẩm. Anh không thể nào, vì chiều sở thích của tất cả mọi người, làm cái việc trái lương tâm là mình lại tự phản mình trong những bài văn viết cho những khách hàng khác nhau, nên anh quyết định lấy lẽ phải làm cái tiêu chuẩn viết bài. Thường thường những phút gay go, Cần hay nheo mắt lại, gãi gãi cái trán. Mỗi khi gãi, tóc anh lại rụng vài sợi xuống trang giấy trắng. Thỉnh thoảng, Cần chợt nghe thấy tiếng mình thở, tiếng ngòi bút chạy soàn soạt, tiếng một con chuột đang gặm sách trong tủ. Có lúc gặp một hình ảnh trào phúng anh phá lên cười, tiếng cười bất ngờ làm cho chính anh ghê rợn. Thế rồi những bài văn làm rụng khá nhiều tóc nhưng đượm màu xuân vị Tết cũng dần dần thành hình. Có những bài đêm hôm trước viết xong lấy làm khoái, sáng hôm sau trên giường bước xuống, mắt còn nhập nhèm, đọc lại thấy dở quá lại xé đi, viết lại hẳn.
Các ông nhà xuất bản, nhà báo chẳng ngày nào là không đến giục bài. Mỗi sáng bóc một tờ lịch lại thấy sốt ruột. Một hôm thằng con nghịch bóc năm tờ lịch một lúc, Cần sợ quá phải quay tấm lịch vào phía trong, không dám trông thấy ngày tháng qua nữa. Cứ trao được một bài đi là Cần nhẹ người như trút được một gánh nặng nhưng soi gương lại thấy mắt sâu vào, mặt dài ra một chút. Cần tự an ủi: “Sẽ tẩm bổ sau, cần gì!”.
Chị Cần thấy chồng làm việc mệt, ý chừng cũng ái ngại, không mè nheo gì nữa. Chị lại đóng vai trò giám thị sức khoẻ của anh, đêm nào cũng bức bách anh phải đi ngủ sơm nhưng vô công hiệu. Sự làm việc của anh có một trạng thái ngoan cố. Những lúc đầu óc mệt mỏi quá, anh tìm thấy một cách giải trí bằng tinh thần rất thú vị. Ấy là tưởng tượng trước sự giàu thịnh của gia đình anh khi các món nhuận bút đã thu về. Lại luẩn quẩn với những con tính cộng trừ phức tạp. Anh lim dim con mắt tưởng tượng thằng cu nhớn thằng cu bé mặc áo bông hoa xanh, hoa đỏ tranh nhau đốt pháo lẻ ở ngoài sân hôm mồng một Tết. Hôm ấy vợ anh sẽ mặc một cái áo dài màu tím cho ra vẻ phụ nữ Thủ đô. Ai cấm thoa một tí son phơn phớt ở gò má cho nó xuân sắc. Vợ chồng con cái sẽ rủ nhau đi chụp ảnh kỷ niệm rồi lúc về cho lũ trẻ đi xe xích lô cho chúng nó thích. Nhất định phải mua nhiều kẹo cho chúng nó khỏi đánh nhau. À, trong ba ngày Tết, cái gì chứ cái khoản thịt phải cho chúng nó ăn thả cửa, ăn chán thì thôi. Anh nhớ tới một câu thơ nghe có vẻ trào phúng, không biết của ai:
Đời tươi như buổi bình minh nạm vàng
Cần làm việc và thấy hi vọng chứa chan, vì hi vọng chứa chan nên Cần lại càng say sưa làm việc. Nhuận bút, nhuận bút! Đó là cây đũa thần gõ vào đâu là cũng biến cái thiếu thành cái đủ, cái lủng củng thành cái yên vui. Nó làm cho anh vững tâm nhìn vào cuộc sống hàng ngày của anh và những người có quan hệ kinh tế với anh. Anh cảm thấy mình có ưu thế tuyệt đối mỗi khi trả lời những sự đòi hỏi của “thiên hạ” về vấn đề tiền nong. Sắp đến bữa cơm, vợ anh chất vấn: “Này, bát đĩa lũ trẻ nó đập hết rồi, không mua thì ăn bằng cùi tay à?” Anh thủng thẳng trả lời bằng một giọng chắc nịch và hơi hách: “Yên chí! rồi đâu có đấy.” Giữa trưa, đang lơ mơ ngủ bù mắt vài phút, bà hàng xóm đột nhập vào nhà hỏi món nợ vay từ 6 tháng trước, anh thò cổ ra ngoài chăn, ném ra một câu đúng như thế. Một hôm khác, có anh bạn đến bàn việc sang năm mua một cái nhà lá ở bãi Phúc Xá để ở chung cho nó thoáng, anh cũng vẫn trả lời bằng cái giọng ấy. Bảo người khác “yên chí” nhiều lần, nên tự bản thân anh cũng thấy “yên chí” về mọi việc. Cứ cái đà này thì tương lai khá lắm.
Từ nay trở đi, phải viết văn với cái tốc độ này mới được. Người ta thường kể chuyện có những ông danh nhân làm việc mỗi ngày 16 tiếng, 18 tiếng. Cần chưa phải là danh nhân nhưng có hôm anh làm việc đến 20 tiếng. Đôi mắt có sâu vào, cái mặt có dài ra nhưng “rồi tẩm bổ sau, cần quái gì!”. Cái bệnh sốt rét kinh niên của anh hồi này cũng phải nhượng bộ. “Nhân cường tất nhược”, ông cụ nhà anh vẫn bảo thế. Nói cho đúng, thỉnh thoảng nó cũng đùa anh một chút. Anh thuộc quy luật của bệnh anh như một anh chàng thuộc các tính xấu của một cô tình nhân khó chiều. Thức vài đêm liền, làm việc nhiều, ăn ít là “nó” quắt. Mỏi các khớp xương, vươn vai và ngáp vặt liên hồi, thế là “nó” giở quẻ đấy! Hồi này thỉnh thoảng Cần cũng bị nó lai vãng vài bận nhưng uống vài viên ký ninh, vác xe đạp đạp vài tua cho toát mồ hôi là lại khoẻ như thường.
Ấy thế mà “nó” nhớ anh quá! Đúng ngày 21 tháng Mười Một âm lịch, nghĩa là vào ngày anh viết vừa xong bài văn “com-măng” thứ chín thì bệnh sốt rét lại đến và chuyến này thì nó đùa dai. Thoạt tiên còn rét xoàng, rồi rét dữ, chăn chiếu quần áo trong nhà đè cả lên người vẫn run bắn lên đến nỗi con cái được lệnh cưỡi lên mình bố như chúng nó vẫn chơi ngựa gỗ. Rồi đến cơn nóng. Nóng đến nỗi cái khăn mặt đẫm nước đắp trên trán anh chỉ vài phút là ráo hoảnh và những người ngồi cạnh phải toát mồ hôi như giữa trưa mùa hè. Anh phát điên, giữa tiết đại hàn, cởi cả quần áo chạy ra sân, trèo lên cây khế định nhảy xuống như nhà thể thao lành nghề, mọi người phải giằng co như người ta bắt kẻ trộm.
Mắt anh long sòng sọc, nổi lên những tia lửa dữ dội, bọt mép sùi ra, hét tướng lên làm cho chị Cần nửa thương nửa sợ khóc hu hu và trẻ con chạy tán loạn. Anh y tá gần nhà chạy đến thăm, gọi cái bệnh ấy là sốt rét ác liệt hay ác chứng gì đó. Anh vật vã suốt ngày đêm, lúc mê lúc tỉnh, miệng lảm nhảm đọc từng đoạn thơ xuân, văn tết. Chị Cần cuống cuồng, anh em bạn cũng cuống cuồng chạy thầy thuốc. Con cái thì nhớn nhác, có lúc chúng thấy vui như nhà có đám, tha hồ phá phách, không ai ngăn cấm. Thấy anh sốt mãi không cất cơn, người ta ngờ anh mắc thương hàn, cố chạy vạy, mỗi người đi một ngả, mua các thứ thuốc đắt tiền, tên ngoại quốc rất khó nhớ, người ta tiêm cho anh, bắt anh uống thuốc, lại bắt nhịn liền 3 tuần lẻ. Các nhà báo và nhà xuất bản đều tử tế cả, thấy Cần ốm đau về nghề nghiệp, chạy đến thăm hỏi và trả tiền nhuận bút trước kỳ hạn. Công lại được xấp xỉ 6 vạn đồng.
Việc đời vốn trước xấu tốt sau như Cần vẫn thường nói, nên đúng ngày tiễn ông Công thì cơn sốt của anh lui hẳn. Người anh gầy đét, dán xuống chiếu, hai mắt càng sâu, mặt càng dài ra, nhưng anh bắt đầu ăn giả bữa. Lúc này cũng gay go lắm đây! Chín bài văn đã biến thành thuốc men và chi phí lặt vặt hết cả. Chỉ mong sao bồi bổ cho khoẻ…như lúc chưa nhận cái “com-măng” nào là may!
Năm hết Tết đến, bà hàng xóm thấm nhuần tinh thần tương trợ, hoãn món nợ năm cũ, vợ không đòi mua sắm gì cả, lũ con cũng ngoan ngoãn với thói quen chịu đựng, đành xem trẻ con ngoài phố đốt pháo và mặc áo mới chơi đùa tung tăng với nhau. Đêm giao thừa, chị Cần pha một cốc nước đường, tự tay nâng lên miệng cho chồng uống và nói nửa âu yếm nửa ngượng ngùng: “Thôi! sang năm mới, tôi sẽ không gắt mình nữa. Tôi có bắt mình làm việc khổ đến thế đâu!”. Cần nằm không ngủ được, nghe tiếng pháo nổ xa gần, nghĩ đến những người độc giả vừa thưởng xuân bằng cỗ bàn, kẹo bánh ê hề, vừa đọc thơ văn mình ở các báo chắc cũng có những phút vui thú. Anh nói thầm với mình một cách triết lý: “Thôi Tết người ta cũng như Tết mình. Với lại lỗi tại mình, tính toán đủ thứ mà quên mất cái sức khoẻ. Tưởng chuyến này “làm ăn” khá to, ai ngờ ốm một trận, đâu lại hoàn đấy. Nhưng thôi vợ con hiểu mình hơn trước cũng là tốt rồi!”. Bất giác, anh ngâm một câu thơ cổ:
“Đào hoa y cựu tiếu đông phong”
Hai chữ “y cựu” gợi một cái gì buồn buồn. Chữ “tiếu”, trái lại, gợi một âm hưởng vui vui…
Cuối năm Bính Thân
Nguồn: Sách Tết 1957, Nhà xuất bản Minh Đức, 1957.
====
Trần Lê Văn
Chúng ta đã bàn tới những vấn đề gì trong Đại hội?
==
Để chuẩn bị Đại hội Văn nghệ Toàn quốc, báo Văn nghệ đã mở mỗi đợt phỏng vấn, một đợt tranh luận thu lượm ý kiến của các bạn văn nghệ sĩ và các bạn có cảm tình với văn nghệ về những vấn đề liên quan tới phong trào văn nghệ nước nhà.
Trong quá trình công tác văn nghệ, anh chị em chúng ta đã rút ra từ phong trào, từ hoạt động nghiệp vụ của mình nhiều kinh nghiệm, cảm thấy nhiều băn khoăn, ấp ủ nhiều mong ước. Những điều đã nói trong ngót năm tháng nay (từ số báo 122 đến số báo 144) mới chỉ là một phần những điều chúng ta muốn nói để xây dựng Đại hội. Trong bài báo này, chúng tôi không làm nhiệm vụ sơ kết, tổng kết gì, chỉ tạm hệ thống hóa và tóm tắt một số vấn đề chính để chúng ta cùng nhìn lại một cách khái những đợt thảo luận vừa qua. Trên trang Đại hội, chúng ta đã phát biểu ý kiến nhận định ưu điểm, nhất là nhược điểm và khuyết điểm của phong trào; bàn về phương châm đường lối sáng tác; phê bình lãnh đạo, tổ chức; có một số đề nghị cụ thể về chấn chỉnh tổ chức; bắt đầu đề cập tới những vấn đề cấp thiết nảy ra trong phong trào tranh luận sôi nổi hiện nay. Báo Văn nghệ còn thiếu sót, rụt rè trong việc khêu gợi ý kiến anh chị em, khuyến khích sự phê bình tranh luận mạnh dạn, bố trí từng đợt phát biểu cho có kế hoạch. Thành thử trang Đại hội từ trước tới nay không tránh khỏi tình trạng luộm thuộm, tắc trách và kém "kịp thời". Tuy nhiên, qua những ý kiến phát biểu chúng ta cũng thấy nổi lên một số vấn đề quan trọng. Một số ý kiến đã có khuynh hướng thống nhất với nhau. Ngoài ra còn những ý kiến khác nhau, trái nhau hoặc nêu ra mà chưa có sự bàn bạc, tranh luận. Sau đây là những vấn đề tương đối nổi rõ:
Vấn đề dân tộc tính
Chúng ta đều hiểu rằng văn nghệ của dân tộc nào phải mang cái bản sắc đặc biệt của dân tộc ấy mới góp phần xứng đáng vào kho tàng văn hóa chúng của nhân loại. "Cuộc sống tương lai là cuộc sống trong đó các dân tộc, các ngôn ngữ, các nền văn hóa đều nẩy nở phồn thịnh… Chủ nghĩa quốc tế vô sản xác nhận con người trong đặc tính dân tộc của mình, đồng thời nâng cao đời sống dân tộc tới một chừng mực mà xã hội tư sản không thể có được!” (báo cáo về thơ của Vuốc-gun ở Đại hội các nhà văn Liên-Xô lần thứ 2). Ở nước ta, trong một số ngành nghệ thuật còn cần phải tìm hiểu và phát huy mạnh thêm bản sắc dân tộc. Về mặt này các ngành họa, nhạc, kiến trúc đã lên tiếng…
Cuộc tranh luận về dân tộc tính trong hội họa có lẽ là cuộc tranh luận kéo dài nhất trên trang Đại hội từ trước đến nay. Thoạt tiên bạn Huy Toàn nêu thắc mắc: Dân tộc tính trong tranh của ta có những đặc điểm gì? Hướng phát triển của nó ra sao? Bạn Quang Phòng nói về "bản sắc dân tộc của hội họa Việt Nam", cho rằng "di sản của ông cha, gần như không có gì để lại", "bản sắc dân tộc của hội họa Việt Nam nói chung, kể từ Cách mạng tháng Tám ngược lên 20 năm trước có thể nói là chưa có… mặc dầu (trong thời Pháp thuộc) ta cũng có thể tìm thấy một số tranh, tuy rất ít, đã có ít nhiều bản sắc dân tộc", "trong Cách mạng và Kháng chiến, rất hiếm tranh có bản sắc dân tộc rõ rệt". Từ hòa bình trở lại − theo bạn Quang Phòng − "tranh có nhiều triển vọng vươn tới bản sắc dân tộc". Nhiều bạn họa sĩ (Phạm Văn Đôn, Sĩ Ngọc, Văn Bình,…) đã tiếp tục góp ý kiến nhưng vấn đề vẫn chưa ngã ngũ ra sao. Cuối cùng, Quang Phòng và Đức Nùng cho biết "có nhiều điểm, trên chi tiết (các họa sĩ) đã đồng ý với nhau, thí dụ: sự liên quan giữa hội họa, kiến trúc, điêu khắc và các ngành nghệ thuật khác; sự chống đối của các họa sĩ ta (trong thời Pháp thuộc) không muốn chịu ảnh hưởng Âu tây…" Hai bạn Phòng và Nùng đặt lại vấn đề để thảo luận:
1. Bản sắc dân tộc phải dựa trên cơ sở nào?
2. Tiêu chuẩn bức tranh có bản sắc dân tộc?
3. Bản sắc dân tộc của hội họa trong Cách mạng và Kháng chiến đã có đến mức nào?
4. Nhận định đúng mức về vốn cổ. Khai thác và áp dụng vốn cổ như thế nào?
Như vậy là vấn đề còn cần được đào sâu thêm nữa, lý luận cần được vận dụng để soi sáng vào thực tế của ngành hội họa cũng như những ngành nghệ thuật khác ở nước ta, nêu thành những tiêu chuẩn, những nguyên tắc để định giá đúng dân tộc tính trong những sáng tác cũ và phát huy dân tộc tính trong những sáng tác mới.
Về nhạc và kiến trúc, cũng mới chỉ có những ý kiến bắt đầu. Các bạn nhạc sĩ, kiến trúc sư chưa phân tích cho chúng ta thấy rõ dân tộc tính trong hai ngành đó như thế nào. Tuy nhiên các bạn cũng đã góp ít nhiều ý kiến có ích chung cho mọi ngành.
Bạn Nguyễn Cao Luyện đề nghị Hội Văn nghệ chú ý hướng dẫn cho những công trình kiến trúc mới giữ vững và nâng cao được dân tộc tính, đối với những công trình cổ cần trân trọng bảo vệ. Việc này chắc Hội sẽ phối hợp lãnh đạo với những cơ quan hữu trách khác. Bạn Hoàng Việt nhạc sĩ Nam Bộ quan tâm đến việc khai thác vốn nhạc dân tộc, việc tìm hiểu đặc tính của nhạc miền Bắc, nhạc miền Nam để tiến tới bồi đắp một nền nhạc thống nhất của Việt Nam và nâng cao vốn dân tộc đó lên bằng cách áp dụng kỹ thuật tiền tiến của thế giới. Bạn Đặng Đình Hưng cho rằng "việc thể hiện dân tộc tính trong âm nhạc rơi vào khuynh hướng dân tộc một chiều". Nếu những bản nhạc của ta "chỉ phảng phất một số âm điệu cũ" thì chưa thỏa mãn được yêu cầu của quần chúng ngày nay. Cần phải "phát triển (dân tộc tính) theo chiều hướng khoa học". Bạn Hưng đặc biệt chú ý đến nhiệm vụ đề cao (bên cạnh nhiệm vụ phổ cập) của văn nghệ; "Nghệ thuật không thể tự thỏa mãn ở chỗ được sự hoan nghênh bằng cách khêu gợi vào khía cạnh thấp và lạc hậu của quần chúng. Phải phát huy những đức tính cao nhất dù mới chỉ là nẩy mầm. Đó là khoa học…". Tóm lại trong phương châm Dân tộc, Khoa học, Đại chúng, ba nhân tố cần phải kết hợp chặt chẽ với nhau, không thể nói đến dân tộc tính mà tách rời hai nhân tố kia.
Vấn đề phục vụ kịp thời
Khẩu hiệu "phục vụ kịp thời" có từ đầu kháng chiến. Chúng ta đều quan niệm rằng văn nghệ phục vụ chính trị, văn nghệ là một thứ binh chủng trong cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù. Nhưng hai chữ "kịp thời" áp dụng một cách gò bó, máy móc đã gây ra tình trạng "đẻ non", lóc cóc chạy theo chính sách, sự vụ chủ nghĩa, v.v… Cái vội vàng hấp tấp làm cho văn nghệ kém chiều rộng, chiều sâu và vì thế tác dụng phục vụ của nó cũng kém đi. "Có nhiều bạn viết lia lịa, viết theo yêu cầu của khoa mục luyện quân của đơn vị mình để mỗi tuần lễ nhất định phải kịp thời có một bài hát động viên chiến sĩ ném lựu đạn bắn trúng điểm đen hay bò, lăn, lê, toài… Về công việc chống hạn có những bạn chưa viết xong, hoặc viết ra vội vã, còn chưa ráo mực, chưa kịp in để phổ biến thì công việc chống hạn đã qua, nông dân ta đang gấp rút đắp đê phòng lụt, nghiêng đồng đổ nước ra sông…" (Văn Chung). "Sở dĩ có những bài thơ đọc xong người ta quên ngay, không để lại một âm hưởng gì vì nhà thơ sự vụ lầm cái kịp thời với cái nhất thời, tháng này làm một bài thơ là thấy xong một việc, tháng sau lại làm một bài khác hợp với "trọng tâm" mới rồi chính mình cũng không bao giờ muốn đọc lại những bài mình đã viết" (Trần Lê Văn). Nói chung chúng ta đều đồng ý với nhau rằng: vấn đề chính là văn nghệ sĩ cần có cái vốn sống súc tích, cần rung động với đề tài, cần thấm nhuần đường lối của Đảng thì sáng tác mới có thể thành công được. Sáng tác không phải là làm công việc minh họa chính sách, diễn ca chính sách. Công tác nghệ thuật là công tác xây dựng tình cảm con người.
Làm cho con người biết yêu biết ghét đúng để thêm sức mạnh đấu tranh cho xã hội tiến lên, thế là phục vụ chính trị, phục vụ chế độ. Hai chữ "kịp thời" cần được quan niệm một cách rộng rãi. Nhưng rộng rãi đến chừng mực nào? Theo ý kiến của Hoàng Huế: "Những nghệ sĩ lớn như Nguyễn Du, Ban-dắc, Goóc-ki đã thể hiện được thời đại, con người thời đại và những vấn đề lớn của thời đại. Như thế nên tác phẩm của các bậc thiên tài ấy vẫn còn sống mãi và bao giờ cũng vẫn kịp thời". Hiểu rộng nghĩa như vậy thì khẩu hiệu "phục vụ kịp thời” có nên xóa hai chữ "kịp thời" mà chỉ để hai chữ “phục vụ” chăng? Hoặc giả cứ để hai chữ “kịp thời” nhưng hiểu ngầm chữ "thời" là thời đại chứ không phải là thời sự chăng?
Vấn đề "phục vụ kịp thời" còn làm nẩy ra vấn đề "tuyên truyền và nghệ thuật". Một số chủ trương rằng công tác tuyên truyền thời sự nên dành cho các cơ quan chuyên trách như Ty Văn hóa, Ty Tuyên truyền, còn những người sáng tác chuyên nghiệp thì không nên gò bó vào việc tuyên truyền thời sự. Ngược lại có người cho rằng tuyên truyền thời sự cũng là công tác của văn nghệ sĩ và có thể đạt tới mức nghệ thuật được (ý kiến của Phạm Quang Trân). Những vấn đề trên đây cũng cần được tiếp tục thảo luận nữa.
Vấn đề chống công thức
Bên cạnh một số tác phẩm tương đối thành công, phần lớn những tác phẩm văn nghệ của chúng ta mắc phải hai nhược điểm khá nghiêm trọng: công thức và sơ lược.
Một tác phẩm công thức là một tác phẩm viết theo một khuôn sáo nhất định, khuôn sáo trong cách nhìn nhận thực tế và thể hiện thực tế. Tác phẩm đó "mang sách vở giáo điều đóng khung cho đời sống sinh động, lấy lý luận chụp mũ cho tình cảm, đem ý muốn chủ quan gán ghép cho thực tế khách quan, gò bó nhân vật thành những điển hình giả tạo, méo mó gầy còm. Cuốn truyện công thức thường không sai đường lối chính trị nhưng nghèo nàn đến nỗi làm cho người đọc mất hết nguồn xúc cảm, và thực ra làm hại chính trị ở chỗ sống sượng đem khẩu hiệu tuyên truyền thay thế cho cuộc sống muôn màu muôn vẻ" (Lý Đăng Cao). "Đem khẩu hiệu tuyên truyền thay thế cho cuộc sống muôn màu muôn vẻ" là sơ lược hóa thực tế trong tác phẩm.
Bệnh công thức và bệnh sơ lược thường đi đôi với nhau như bóng với hình. Nguyên nhân của những bệnh đó cũng khá phức tạp. Về phía chủ quan, người văn nghệ sĩ công thức vốn nghèo chất sống lại quan niệm vấn đề phục vụ chính trị một cách thiển cận, tưởng rằng phục vụ chính trị có nghĩa là theo sát từng câu từng chữ của chính sách trong khi sáng tác. Thí dụ: nông dân tất nhiên phải trong sạch, địa chủ tất nhiên phải độc ác, cải cách ruộng đất xong tất nhiên nông thôn phải vui tươi sung sướng ngay, v.v…. Viết gì, vẽ gì cũng cứ theo đúng cái mẫu mực có sẵn ấy chẳng khác gì anh thợ mũ làm trăm cái mũ giống nhau cả trăm vì cùng rập theo một cái khuôn. Về phía khách quan, một số khá đông cán bộ chính trị và cán bộ văn nghệ non nớt về lý luận, độc đoán trong tác phong đã kìm hãm phong trào văn nghệ trong cái lồng công thức suốt một thời gian khá dài.
Chúng tôi đồng ý với bạn Vĩnh Mai là "về phía anh em văn nghệ sĩ, phải hòa mình vào một cuộc đấu tranh (của nhân dân), học tập trau dồi kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu của nhân dân; mặt khác phải đấu tranh với quan niệm hẹp hòi, máy móc của một số cán bộ chính trị. Bề ngoài, số anh em ấy vẫn nói là văn nghệ phục vụ chính trị nhưng trên thực tế công tác cũng như đi sâu vào tư tưởng, số anh em ấy đánh giá không đúng tác dụng của văn nghệ là giáo dục tư tưởng và tình cảm, mà xem văn nghệ là một trò mua vui sau những lúc công tác và hội nghị".
Hiện nay phong trào tranh luận để mở rộng đường lối sáng tác, thực hiện phương châm trăm hoa đua nở đang sôi nổi. Nó hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này ở một phần dưới.
Vấn đề phê bình văn nghệ
Phê bình văn nghệ là một công tác rất cần thiết để thúc đẩy văn nghệ tiến lên. Nó đánh giá đúng những tác phẩm của văn nghệ sĩ. Nó hướng dẫn quần chúng trong việc thưởng thức văn nghệ. Nó đại diện cho quần chúng vạch đường lối văn nghệ. Công tác phê bình văn nghệ của ta từ trước tới nay còn yếu. Nguyên nhân chính có lẽ không phải là tại chúng ta thiếu những cây bút phê bình sắc bén mà là tại chúng ta còn coi nhẹ công tác phê bình. Khuyết điểm của lãnh đạo là chưa tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phê bình. Ở điểm này, ý kiến của bạn Trần Thanh Mại có nhiều phần xác đáng: "Những khi ấy (khi phê bình văn nghệ) chúng ta chỉ nhằm một nhiệm vụ chính trị trước mắt: nào như cần lái lại một vài dư luận, đánh thông một vài thắc mắc, ổn định một vài hoang mang thế thôi". Một bạn nói thêm rằng: "Có những hiện tượng không thuận lợi cho sự phát huy tự do tư tưởng trong phê bình văn nghệ. Một vài quan niệm hẹp hòi làm cho chúng ta có thái độ e dè thế này, khắc nghiệ thế kia, thậm chí có khi áp chế phê bình nữa". Xét lại từ cuộc phê bình thơ Tố Hữu bị chặn lại đến cuộc phê bình thơ Trần Dần biến thành cuộc "đấu" thì ta thấy rõ sai lầm khuyết điểm của lãnh đạo đối với công tác phê bình.
Muốn đẩy mạnh phong trào phê bình văn học cũng như phê bình nói chung, sự phát huy tự do tư tưởng, tinh thần chí công vô tư là những điều kiện không có không được.
Vấn đề bồi dưỡng chuyên môn
Nói chung các ngành, văn nghệ sĩ ít được bồi dưỡng về chuyên môn. Phần đông làm nghiệp vụ mò mẫm theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa. Muốn nâng cao phẩm chất của sáng tác theo kịp với nhu cầu của thời đại, việc học tập lý luận, trau dồi kỹ thuật là một trong những việc trọng yếu của văn nghệ sĩ. Các bạn Lan Sơn, Thụy An (ngành văn), Trần Công (điện ảnh), Sĩ Ngọc (họa), Trung Vũ (đoàn ca múa nhân dân), Nguyễn Thị Kim (điêu khắc), Nguyễn Hữu Hiếu (nhạc)… đều tha thiết đề nghị Đại hội chú ý đến việc này. "Cần bồi dưỡng cả cho già lẫn trẻ. Già thi tiêm thuốc cải lão hoàn đồng, trẻ thì dùng thuốc bổ cho phát triển sức nhớn. Đừng để già lụi dần, mà trẻ thì dường như không cần thuốc bổ cho nhớn hơn nữa." (Sĩ Ngọc).
Chúng ta cần phải luôn trao đổi với nhau những hiểu biết về lý luận văn nghệ, những kinh nghiệm sáng tác, tổ chức những cuộc học tập tranh luận có tính chất nghiệp vụ một cách thật chu đáo.
Trên trang Đại hội, trong những số báo gần đây, có một đôi bài đi vào hướng đó một cách tương đối sâu sắc và có suy nghĩ. Huy Phương nêu lên vấn đề "phê bình và đả kích, một mặt của chủ nghĩa hiện thực". Những tác phẩm công thức, ca ngợi hời hợt và một chiều phần nhiều không hiện thực. "HIện thực xã hội chủ nghĩa gồm có hai mặt: một là ca ngợi cuộc sống mới, đề ra triển vọng và hướng đi lên của xã hội v.v… đó là mặt tạm gọi là xây dựng và lãng mạn cách mạng; thứ hai là: phê phán những tàn tích của xã hội cũ, đả kích những tệ tục còn tồn tại hoặc mới nẩy nở ngay trong quá trình phát triển của cách mạng, v.v… đó là mặt phê bình, (hoặc gọi là phê phán đả kích). Lác đác gần đây trên báo Văn nghệ có thấy đăng một số thơ của Mai-a, truyện của Sê-khốp đả kích những kẻ nịnh hót, đạo đức giả. Rồi đến những mẩu châm biếm nhỏ trong mục “Nụ cười”. Những "nụ cười" này chỉ mới là những cái cười hiền lành cũng đã gây phản ứng trong một số người đọc… Sự phản ứng của một số chúng ta đôi khi hơi khe khắt, thiếu độ lượng, thậm chí đi đến chỗ qui kết chụp mũ cho nhau chứng tỏ chúng ta đã "mất thói quen" đối với loại văn đó".
Bạn Huy Phương đề nghị đặt thành vấn đề tranh luận rộng rãi để đi đến chỗ thống nhất ý kiến. Chúng tôi rất đồng ý với bạn Huy Phương. Nếu không thông với nhau ở điểm này thì sáng tác sẽ còn mắc míu nhiều, vấn đề hiện thực trong văn nghệ của ta sẽ còn mắc míu nhiều. Bạn Quang Dũng góp "mấy ý nghĩ về thơ" cũng đi sâu vào những nguyên nhân làm cho "nguồn thơ chưa bắt được vào mạch sống, chưa có chất máu đỏ tươi, hơi thở khổng lồ của cuộc đời hiện tại" làm cho "tiếng nói chỉ là phụ họa mà không có được cái giá trị sáng tạo đóng góp cho cách mạng". Chúng ta cần nghiên cứu phê bình thêm nữa, thêm nhiều nữa để đánh giá đúng thơ ca của ta hiện nay và gạt bỏ những trở ngại đã làm cho thơ ca (cũng như các bộ môn khác) chậm tiến.
Về loại góp kinh nghiệm sáng tác cũng còn ít ỏi lắm. Bài "Gắn liền với thời đại chúng ta" của bạn Tế Hanh nêu ra một số kinh nghiệm của bạn trong quá trình làm thơ từ Cách mạng tháng Tám đến nay. Bài "Vì sao kịch bản còn yếu" của Ngọc Đĩnh và một vài bài khác cũng nêu được những kinh nghiệm bản thân của văn nghệ sĩ.
Việc bồi dưỡng chuyên môn cần thực hiện bằng nhiều phương pháp. Chắc Đại hội sẽ đưa vấn đề này ra để nghiên cứu chung.
Vấn đề văn nghệ ở các địa phương, các ngành, các giới
Văn nghệ của chúng ta là văn nghệ nhân dân. Nó không phải công việc riêng của một số văn nghệ sĩ ở Hội và xung quanh Hội. Vấn đề xây dựng văn nghệ từ cơ sở, cho cơ sở là vấn đề thiết yếu. Trên trang Đại hội đã thấy phản ảnh những thắc mắc, những đòi hỏi, những đề nghị của các địa phương, các ngành, các giới.
Về văn nghệ ở các địa phương, một vài bạn đã góp ý kiến (xem bài "Cần có chính sách giúp đỡ anh chị em ở các tỉnh sáng tác" của Hoài Giang, bài "Mấy ý kiến về công tác văn nghệ dân tộc thiểu số" của Nông Quốc Chấn, v.v…)
Về văn nghệ ở các ngành hoạt động của xã hội, có ý kiến của bộ đội (xem bài "Viết về bộ đội" của Hồ Phương; bài của Tô Hải nói lên những thắc mắc của anh em văn nghệ chuyên nghiệp trong quân đội, v.v…); của công nhân (xem bài "Góp ý kiến viết về công nhân" của Anh Tuấn); của giáo giới (xem bài của Nguyễn Quang Vinh có đoạn "tác dụng của các văn nghệ sĩ đối với nhà trường", v.v…). Về văn nghệ cho các giới và của các giới cũng có một số ý kiến tiêu biểu (xem bài "Văn học với thanh thiếu nhi" của Hoàng Quyết; bài "Vận động văn nghệ trong phụ nữ" của Phan Thị Nga, v.v…)
Để phát triển và tăng cường tính chất quần chúng của văn nghệ ta, mong Đại hội đặt thành vấn đề nghiên cứu, thảo luận.
Một số vấn đề cấp thiết của phong trào tranh luận hiện nay
Vấn đề phê bình lãnh đạo
Tháng 8 vừa qua, Hội Văn nghệ tổ chức một lớp nghiên cứu lý luận ngắn kỳ cho anh chị em. Đặc điểm của lớp này là: nhân liên hệ lý luận với thực tế, chúng ta đã thành khẩn hăng hái phê bình lãnh đạo, thành khẩn hăng hái như chưa từng thấy. Không khí phê bình ngùn ngụt. Bao nhiêu thắc mắc, ấm ức trong chín mười năm đối với những sự việc, những cá nhân lãnh đạo hẹp hòi, độc đoán, quan liêu, mệnh lệnh đã làm cho phong trào văn nghệ ì ạch, chậm tiến, chúng ta đã nói ra. Nói ra chẳng phải để cho "hả" mà chính là để góp phần xây dựng Đại hội, chấn chỉnh tổ chức. Phong trào phê bình ấy đã trở nên công khai. Nó kết hợp với phong trào phê bình chung từ dưới lên trên của nhân dân, của các tổ chức của Đảng và Chính quyền. Nó trở nên công khai trên một ít cơ quan ngôn luận như báo Nhân văn và tập san Giai phẩm. Ngoài một vài thái độ lệch lạc khó tránh nó có cái đúng căn bản là duyệt lại cái cũ để xây dựng cái mới.
Chính trên trang Đại hội, rải rác từ trước đến nay cũng đã có những ý kiến phê bình lãnh đạo. Thí dụ bài "Hội cần phải mạnh dạn tự phê bình" của Nguyễn Bính (Văn nghệ số 125), bài "Mấy ý kiến về lãnh đạo của phòng Văn nghệ quân đội" của Trần Công, số 136). Tuy nhiên trên trang Đại hội, không khí phê bình cũng còn êm ả lắm, so với phong trào chung lúc này. Phong trào phê bình chung có hiệu lực của cái đòn bẩy. Lãnh đạo đã dần dần nhận ra và đã công khai tự phê bình, ở mức này hay mức khác (xem bài "Tôi đã sai lầm như thế nào trong việc phê bình bài ‘Nhất định thắng’ của anh Trần Dần" của Hoài Thanh, số báo 139; bài "Một vài sai lầm khuyết điểm trong sự lãnh đạo văn nghệ" của Nguyễn Đình Thi; bài "Giải thưởng Văn học 54-55" của Nguyễn Tuân, số báo 140).
Việc phê bình và tự phê bình góp phần tạo điều kiện tốt cho Đại hội thành công.
Vấn đề "trăm hoa đua nở"
Báo Văn nghệ đã đề cập tới vấn đề này. Chúng ta đã đăng tài liệu "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng" của Lục Định Nhất, bạn Lê Đại Thanh đã góp ý kiến hưởng ứng phương châm "trăm hoa đua nở": "Chỉ có trên cơ sở phát triển văn nghệ tự do trên mọi mặt mới đảm bảo được sự nảy nở phong phú của văn nghệ". Vấn đề này, báo Văn nghệ sẽ nêu lên để chúng ta thảo luận tiếp.
Vấn đề phê bình Nhân văn, Giai phẩm
Những số báo gần đây nhất có đăng những bài phê bình một số bài trong báo Nhân văn và tập san Giai phẩm. Theo ý kiến riêng tôi, đối với phong trào phê bình của quần chúng mới nhóm lên, tờ báo Văn nghệ nên có thái độ khuyến khích và mở rộng tranh luận, cần phản ảnh những chiều hướng khác nhau, nhiều khi va chạm xung đột nhau. Có như vậy mới gọi là tranh luận và mới nảy ra ánh sáng. Chính báo Văn nghệ cũng phải có phần tích cực trong cuộc đấu tranh tư tưởng một mặt góp ý kiến phê bình xây dựng lãnh đạo hơn nữa, một mặt thành thật tiếp thu những ý kiến đúng của quần chúng.
Kết luận
Nói chung lại từ Cách mạng thánh Tám đến nay, Văn nghệ của chúng ta đã trưởng thành, về bản chất nó hơn hẳn văn nghệ của đế quốc, phong kiến ở chỗ nó phục vụ quảng đại quần chúng nhân dân, phục vụ Cách mạng, phục vụ Tiến hóa. Nó đã đạt được một số thành tựu về mặt sáng tác. Nó đã đi vào nhân dân quần chúng và có mặt ở từng chặng đường chiến đấu gay go của dân tộc trong những ngày kháng chiến vừa qua. Nó đã làm nảy nở bên cạnh những tài năng cũ, một lớp tài năng mới. Đúng như bạn Lưu Trọng Lư nói: "Đó là một đặc điểm của sự lãnh đạo văn nghệ của Đảng".
Nhưng qua những cuộc phê bình gần đây, qua những ý kiến phát biểu trên trang Đại hội trong vòng 5 tháng nay, chúng ta thấy những nhược điểm khuyết điểm cần kịp thời khắc phục. Trên những nét lớn, có thể quy lại mấy điểm:
* Chúng ta còn thiếu một lý luận thật vững chắc làm cơ sở cho mọi hoạt động văn nghệ.
* Lãnh đạo mắc nhiều sai lầm làm cho văn nghệ ta đáng lẽ tiến hơn nữa thì vẫn ì ạch trong bấy nhiêu năm luẩn quẩn trong chủ nghĩa công thức, chủ nghĩa sơ lược.
* Tự do dân chủ, tự do tư tưởng kém phát huy làm cho không khí văn nghệ trải qua một thời gian ngột ngạt.
* Việc bồi dưỡng đào tạo con người văn nghệ vừa lệch lạc vừa thiếu sót làm cho tài năng khó phát triển đến cao độ.
* Bản thân văn nghệ sĩ có một số chưa thật say mê với nghề nghiệp, đã có những lúc tiêu cực, kém phấn đấu để làm tròn cái chức trách cao cả "kỹ sư tâm hồn". Riêng về trang Đại hội của báo Văn nghệ đã thu lượm được những ý kiến dồi dào và bổ ích của anh chị em nhưng việc hướng dẫn tổ chức tranh luận còn mắc những khuyết điểm: gặp đâu hay đấy, kém theo dõi, thúc đẩy và còn có phần chủ quan, một chiều, ngại trước e sau.
Tôi tin rằng trong đợt tranh luận sắp tới mọi vấn đề nêu ra chúng ta sẽ đào thật sâu, phát biểu ý kiến thật chắc, thành khẩn và dũng cảm phát huy tự do tư tưởng. Như vậy là một cách thiết thực và tích cực chuẩn bị Đại hội Văn nghệ Toàn quốc.
Nguồn: Báo Văn nghệ, Hà Nội, s. 145 (2.11.1956), tr. 5, 11; s. 146 (9.11.1956), tr. 5.
*
Phụ lục
Văn nghệ
Hoàn thành việc chuẩn bị Đại hội Văn nghệ Toàn quốc
Sau năm tháng chuẩn bị, ngày họp Đại hội Văn nghệ Toàn quốc đã tới gần. Đại hội năm nay của văn nghệ Việt Nam được sự theo dõi sôi nổi của mọi giới trí thức và đông đảo quần chúng vì nó mở ra nhiều phương hướng mới về tư tưởng và nghệ thuật, có ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của cả xã hội ta trong lúc này. Anh chị em văn nghệ sĩ đều hết sức trông chờ Đại hội giải quyết những vấn đề cấp thiết về đường lối, chính sách và tổ chức, để đẩy mạnh phong trào văn nghệ của chúng ta lên một bước mới.
Việc phát huy dân chủ và phê bình lãnh đạo văn nghệ đã làm nổi bật lên một số vấn đề mấu chốt và vạch ra những sai lầm khuyết điểm kéo dài trong công tác của Hội Văn nghệ Việt Nam. Đó là những quan niệm giản đơn, máy móc về quan hệ giữa chính trị với văn nghệ, đưa tới những xu hướng công thức, sơ lược trong sáng tác và phê bình, đó là bệnh hẹp hòi bè phái về tư tưởng và tổ chức, đi kèm với lối làm việc thiếu dân chủ và tập thể, gây ra những hành động độc đoán, tùy tiện, coi thường công trình sáng tạo nghệ thuật và người văn nghệ sĩ. Những sai lầm khuyết điểm đó đã làm tổn thương đến sự đoàn kết của anh chị em văn nghệ, và làm kìm hãm sự sáng tác trong nhiều năm.
Trong các cuộc họp, trên báo chí, đã diễn ra những cuộc tranh luận gay go. Có một vài thái độ nóng nảy đáng tiếc và một vài quan niệm còn lẫn lộn, có một số biểu hiện tư tưởng sai lầm lệch lạc, nhưng dần dần, việc thảo luận và phê bình đã làm sáng rõ được một số ưu khuyết điểm chính của phong trào văn nghệ hơn mười năm qua, giúp chúng ta đánh giá các tác phẩm một cách đúng đắn hơn, và rút ra được những bài học thành công có giá trị cũng như những bài học thất bại đau đớn. Các cơ quan chỉ đạo của Hội Văn nghệ, Phòng Văn nghệ quân đội, Vụ Nghệ thuật, v.v… đã bước đầu kiểm điểm và sửa chữa. Việc kiểm điểm đó còn đang tiếp tục. Đại hội sắp tới sẽ kiểm điểm phong trào văn nghệ từ ngày Cách mạng một cách toàn diện và sâu sâu sắc hơn.
Hiện nay, các ngành (Văn, Hội họa và Điêu khắc, Kiến trúc, Âm nhạc, Sân khấu, Điện ảnh) đang ráo riết chuẩn bị cơ sở để tiến tới thành lập những hội riêng của từng ngành. Các Ban vận động hoặc Ban phụ trách lâm thời của ngành đã được thành lập, những bản dự thảo điều lệ, chế độ công tác và sáng tác v.v. bắt đầu đưa ra thảo luận rộng rãi. Các tiểu ban trù bị Đại hội căn cứ vào kết quả những cuộc thảo luận vừa qua, đang hoàn thành các bản báo cáo. Một số anh chị em đang chuẩn bị viết những bài phát biểu ý kiến ở Đại hội. Việc chuẩn bị chung đã tới giai đoạn gấp rút.
Để góp phần xây dựng Đại hội, báo Văn nghệ đề nghị các bạn gần xa tập trung thảo luận vào một số vấn đề chính đã được phát hiện trong mấy tháng vừa qua.
1. Về đường lối, phương châm văn nghệ, nổi bật nhất là vấn đề quan hệ giữa chính trị với văn nghệ: mối quan hệ đó như thế nào là đúng? Văn nghệ phục vụ chính trị như thế nào? Phương thức lãnh đạo văn nghệ cần phải như thế nào? Làm thế nào để phát huy tự do sáng tác? Phương châm "Trăm hoa đua nở" như ở Trung Quốc đề ra gần đây có áp dụng được ở Việt Nam không hoặc áp dụng như thế nào?
Một vấn đề thứ hai đang có rất nhiều thắc mắc là vấn đề hiện thực xã hội chủ nghĩa. Văn nghệ nói sự thực như thế nào? Nói cái tốt, cái xấu như thế nào? Có thể chỉ tập trung vào phê bình cái xấu không? Biểu hiện con người phải như thế nào? Phương hướng xây dựng những điển hình tích cực có còn đúng không?
Vấn đề khai thác và phát triển những hình thức văn nghệ dân tộc đã được trao đổi nhiều trong những ngành mỹ thuật, âm nhạc, và sân khấu, nay cần tiếp tục được thảo luận thêm.
2. Về chính sách đối với văn nghệ sĩ: Trong xã hội mới của chúng ta, vị trí xã hội của văn nghệ sĩ phải như thế nào? Cần những chính sách cụ thể nào để tạo điều kiện và giúp đỡ văn nghệ sĩ sáng tác cho có kết quả (việc đi vào thực tế, việc học tập và bồi dưỡng về chính trị và chuyên môn, việc bảo đảm quyền lợi tinh thần và vật chất, việc tổ chức sự sáng tác, chính sách xuất bản, v.v…)
3. Về tổ chức của văn nghệ: Tính chất, nhiệm vụ các hội văn nghệ sĩ sẽ thành lập nay mai cần như thế nào? Thành phần và tiêu chuẩn hội viên? Tổ chức của hội? Chế độ công tác và sáng tác cho các văn nghệ sĩ nên như thế nào? Làm thế nào để "giải phóng" mọi lực lượng sáng tác ra khỏi công việc sự vụ hành chính? (Về những vấn đề này, đã có những dự án của từng ngành làm cơ sở đầu tiên để thảo luận).
*
Chúng tôi chắc rằng những cuộc thảo luận trên báo, kết hợp với những cuộc trao đổi ý kiến rộng rãi trong các ngành sẽ tạo nên "không khí Đại hội" ngay trong những ngày sắp tới. Đó là bầu không khí thảo luận tự do, sôi nổi, phê bình và tự phê bình mạnh bạo, đó là bầu không khí đấu tranh thẳng thắn để tìm ra lẽ phải và chân lý. Đó cũng là bầu không khí đoàn kết của những người cùng chung lý tưởng, và cùng chung trách nhiệm đối với tương lai văn nghệ nước nhà.
Giữa chúng ta hiện nay có những điểm nhất trí và những điểm không nhất trí. Có cả những mâu thuẫn. Nhưng nhất định đó là những mâu thuẫn sẽ giải quyết để đi tới một bước trưởng thành mới.
Nguồn: Báo Văn nghệ, Hà Nội, s. 145 (2.11.1956), tr. 5.
====
Trần Lê Văn
Không sợ địch lợi dụng [4]
Hiện nay trong nhân dân quần chúng nói chung, trong giới văn nghệ nói riêng, không khí phê bình để xây dựng lãnh đạo thật là hào hứng sôi nổi. Sau lớp học tập lý luận văn nghệ do Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức, một trong những nguyện vọng tha thiết của anh em văn nghệ sĩ là có thêm những tờ báo góp phần với báo Văn nghệ xây dựng Đại hội Văn nghệ Toàn quốc và tạo điều kiện cho “trăm hoa đua nở” lâu dài. Trong hoàn cảnh ấy, báo Nhân văn ra đời.
Số 1 vừa ra đã gây nên những luồng dư luận khá sôi nổi. Ở đây, chúng tôi chưa làm cái việc tổng kết dư luận, cũng chưa đáp lại những ý kiến tán thành hay không đồng ý. Chúng tôi chỉ bàn về một vấn đề thường làm quan tâm một số bạn đọc, nhất là trong giới lãnh đạo: vấn đề “địch lợi dụng”.
Trong cuộc đấu tranh chính trị gay go giữa địch và ta, nhất định kẻ địch lợi dụng mọi cơ hội để tấn công chế độ ta. Hoặc chúng cho tay sai lẻn lút vào hàng ngũ ta để phá hoại, hoặc chúng dùng lối tuyên truyền xuyên tạc, bịa đặt vu cáo để lừa gạt nhân dân ta hòng che đậy cái bản chất thối nát của chế độ chúng và những hành động cướp nước, bán nước đã bị lịch sử lên án từ lâu. Vì vậy, sáng suốt nhìn rõ cái tầm phá hoại của địch để ngăn chặn, đề phòng là đúng. Chúng ta không bao giờ nên đánh giá địch quá thấp mà sinh ra chủ quan khinh địch.
Đánh giá địch quá thấp thì dễ xảy ra những tai hại lớn. Ngược lại đánh giá địch quá cao cũng dễ xảy ra những tai hại không phải là nhỏ.
Xét lại một số công tác từ trước đến nay, trong lề lối lãnh đạo chúng tôi nhận thấy một trong những nguyên nhân của những sai lầm nghiêm trọng là đánh giá địch quá cao. Cán bộ khi chấp hành công tác, bị chi phối bởi tư tưởng sợ địch, rồi sinh ra cảnh giác quá trớn, đa nghi, mất bình tĩnh sáng suốt trong khi nhận định sự thật. Nhận định sai tất nhiên làm sai và gây ra những hậu quả đáng tiếc: tưởng ta là địch, lầm bạn là thù, thậm chí có khi đẩy bạn sang thù.
Thí dụ: Cải cách ruộng đất đã đạt được một số thành công. Điều đó không ai có thể phủ nhận. Nhưng bên cạnh những thành công đó, có những sai lầm, tổn thất khá đau xót. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân quan trọng: tư tưởng sợ địch, cảnh giác quá trớn.
Hầu hết các đội cải cách ở đợt 4 và đợt 5, về nông thôn nhìn chỗ nào cũng thấy địch bao vây, địch phá hoại, cho những chi bộ cũ là tổ chức của địch rồi làm ẩu, bắt lầm, xử trí sai, gây nên nhiều hiện tượng bối rối mà hiện nay Chính phủ và Đảng phải tốn rất nhiều công phu để sửa chữa.
Công tác hộ khẩu ở các thành phố xuất phát từ một dụng ý tốt là củng cố trật tự an ninh cho nhân dân. Nhưng cái tinh thần sợ địch, cảnh giác quá trớn làm cho một số cán bộ có thái độ nghi ngờ, xét nét quá đáng xâm phạm cả đến đời tư và sinh hoạt của người dân, làm giảm sút tác dụng của một chính sách tốt.
Giả thử trong nhân dân, trên báo chí sự phê bình công khai được tiến hành từ trước, mọi người được nói thẳng, nói thật, nói hết để lãnh đạo dần dần thấy cái đúng, cái sai ngay trong khi đang thực hiện chính sách thì chắc chắn nhiều tai vạ lớn đã tránh được. Sở dĩ sự phê bình công khai và rộng rãi trước kia hoặc không có hoặc có nhưng chỉ vụ hình thức cũng chỉ vì quá lo xa: nào là sợ địch lợi dụng, nào là sợ quần chúng hoang mang. Những bộ phận trung gian, trong khi hạn chế phê bình công khai đã làm tách biệt quần chúng với Trung ương Đảng, làm cho ở trên không nhìn thấy thật thấu đáo tình hình ở dưới để kịp thời uốn nắn những sai lầm. Sai lầm không kịp thời uốn nắn, quần chúng càng hoang mang, tự do và dân chủ càng bị hạn chế, thì địch càng có nhiều điều kiện để nói xấu chế độ ta. Thế là tư tưởng sợ địch đã làm cho ta bị động và ở trong một cái vòng luẩn quẩn!
Để cho quần chúng phê bình công khai ư? Bất lợi vì địch có thể lợi dụng.
Không để cho quần chúng phê bình công khai ư? Thế thì thấy sao được sai lầm mà sửa chữa? Sai lầm không sửa chữa thì địch nó càng lợi dụng để phản tuyên truyền.
Tôi thấy rằng cần phải nhắc lại lời cụ X.Y.Z. trong bài "Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng":
“Có nhiều cán bộ tưởng rằng: nếu công khai phê bình những khuyết điểm của mình thì sẽ có hại vì:
* Kẻ địch sẽ lợi dụng để phản tuyên truyền;
* Giảm bớt uy tín đoàn thể và chính quyền;
* Làm mất thể diện của cán bộ đã phạm khuyết điểm ấy;
* Chỉ phê bình qua loa ở nội bộ là đủ rồi.
Thế là tưởng lầm. Thế là ốm mà sợ thuốc. Thế là không hiểu ý nghĩa và lực lượng phê bình…”
Quả thế, có những cán bộ lãnh đạo ở bộ phận trung gian sự phê bình, chỉ làm cái việc phê bình “qua loa ở nội bộ” bỏ phí cái “lực lượng phê bình” vĩ đại của quần chúng! Coi nhẹ “lực lượng phê bình ấy” tức là làm phương hại cho đường lối quần chúng của Đảng. Trong bản báo cáo về vấn đề sửa đổi điều lệ Đảng của đồng chí Đặng Tiểu Bình tại Đại hội lần thứ 8 Đảng Cộng sản Trung Quốc có phản ánh một thực trạng tương tự ở nước ta: Đường lối quần chúng trong công tác của Đảng có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc về mặt lý luận và thực tế. Bệnh chủ quan đang nẩy nở ở nhiều nhân viên công tác của các tổ chức Đảng và của cơ quan Nhà nước. Những hiện tượng xấu đó chứng tỏ đường lối quần chúng trong công tác của Đảng còn chưa thực hiện hoàn toàn đầy đủ trong Đảng. Cần phải thường xuyên đấu tranh chống những hiện tượng thoát ly quần chúng và quan liêu đó.
Ấy là chưa kể những phần tử xấu vin cớ tránh địch lợi dụng để che đậy lỗi lầm của mình, duy trì địa vị của mình. Trong công tác văn nghệ bao nhiêu cái ấm ức chất chứa trong lòng anh em văn nghệ sĩ hàng mười năm chưa được nói ra, đến nỗi có người ví nó như “cục máu đọng lại không tan được” chính vì sự thiếu mở rộng dân chủ, mở rộng phê bình để lấy ý kiến quần chúng xây dựng đường lối văn nghệ thật đúng đắn. Giả sử “quần chúng văn nghệ” được luôn nói thẳng, nói thật, nói hết thì làm gì thỉnh thoảng có “vụ” này “vụ” khác nổi ra như “trái bom”.
Mỗi khi có cuộc phê bình công khai nổi lên, nghe chừng cái là nó bắt đầu hăng một tí, là bộ phận lãnh đạo đã vội vàng tìm cách dập tắt: “Ấy chớ! Hại cho đoàn kết, địch nói lợi dụng xuyên tạc!”, thế là phong trào xẹp xuống, “quần chúng văn nghệ” lèn chặt cái ấm ức trong bụng. Lãnh đạo không nhìn thấy sự thật nữa, xa rời quần chúng, làm việc chủ quan, càng ngày càng đi sâu vào những sai lầm khuyết điểm nặng.
Trong lớp học lý luận vừa qua, lí luận gì học cũng không vào, anh em phát hiện ra một hiện tượng, hai hiện tượng rồi phong trào phê bình lãnh đạo nổi lên như cồn. Lãnh đạo ban đầu còn có thái độ quanh co đối phó nhưng rồi cũng dần dần nhìn ra sự thật. Trong buổi tổng kết, đồng chí Nguyễn Đình Thi nhận những khuyết điểm của lãnh đạo trước anh em, đồng chí Tố Hữu sơ bộ tự kiểm thảo. Quần chúng chưa thoả mãn nhưng dù sao như thế cũng là triệu chứng tốt rồi! Báo Nhân văn ra đời chỉ là kế tục cái tinh thần phê bình công khai và rộng rãi của lớp học tập lý luận. Nó mạnh dạn mở rộng cho một phong trào đấu tranh công khai với cái cũ để xây dựng cái mới. Nó phê bình công khai những cái mà có người tưởng tượng rằng chỉ nên phê bình trong nội bộ. Phê bình thì có nhiều cách. Người thì dùng lối văn lý luận nghiêm nghị ngang bằng sổ ngay. Người thì dùng lối văn mỉa mai châm biếm, khi cái xấu nó nặng quá thì dùng lối văn đả kích. Tất nhiên trong phê bình không thể nào tránh được những cái lệch lạc, thâm chí những ý nghĩ sai nữa. Thiết tưởng muốn nhận định đúng một phong trào phải nhìn vào cái ý nghĩa căn bản, cái thực chất của nó. Nguyên nhân vì đâu? Quá trình thế nào? Hiện trạng ra sao? Giải quyết thế nào cho đúng?
Đáng lý bình tĩnh mà làm như vậy thì một số anh em cán bộ chính trị lại xuất phát từ ý nghĩ quen thuộc sợ (hoặc vin cớ sợ) đich lợi dụng, rồi chỉ chú ý bắt bẻ những cái phụ mà lướt qua những cái chính. Địch lợi dụng là chuyện dĩ nhiên rồi. Ngăn sao được chó dại sủa càn, từ trước tới nay việc gì chúng ta làm mà chúng chẳng xuyên tạc rêu rao, phản tuyên truyền bậy bạ. Chẳng có chuyện gì nó cũng dựng đứng lên thành chuyện để nói xấu ta, nữa là..
Cách đây không bao lâu có một sự việc lớn mà địch cho là một cơ hội rất “bở” để phản tuyên truyền. Ấy là việc Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô phê bình công khai những sai lầm của đồng chí Sta-lin. Chẳng những kẻ địch ở nước ta mà toàn thể phe đế quốc trên toàn thế giới đều nằm lấy cơ hội ấy để vu cáo phe ta thế này thế nọ. Nhưng chúng ngăn sao nổi Đảng Cộng sản Liên Xô và lực lượng dân chủ hoà bình thế giới ngày một lớn mạnh thêm sau khi gột bỏ những sai lầm cũ, bước vào một giai đoạn mới.
Thế là phe ta đã cân nhắc và đã kiên quyết làm một việc lúc đầu có thể làm cho nhiều người sửng sốt: phê bình công khai một lãnh tụ vĩ đại của cách mạng thế giới. Địch nó muốn xuyên tạc thì nó cứ xuyên tạc. Ta thấy cần phê bình công khai để đẩy cách mạng tiến lên thì ta cứ phải phê bình công khai.
Có người nói: bên Liên Xô không có vấn đề đấu tranh cho thống nhất thì làm thế được, ở ta hiện nay đang có vấn đề đấu tranh gay go để thực hiện thống nhất, tình hình rất phức tạp không nên làm cho nó phức tạp thêm. Ý nói: phê bình công khai, nói thẳng, nói thật, nói hết là khiến cuộc đấu tranh cho thống nhất thêm khó khăn. Thiết tưởng không phải thế. Nếu việc phê bình Sta-lin bị địch lợi dụng - mà thực sự nó đã bị lợi dụng - thì toàn thể sự nghiệp cách mạng thế giới phải chịu thiệt thòi. Điều đó không đáng e ngại hay sao? Thế mà sao Liên Xô không e ngại? Sở dĩ Liên Xô cứ làm cái việc phê bình ấy là vì đã cân nhắc cái lợi cái hại: phê bình là cái lợi lớn, địch phản tuyên truyền là cái hại nhỏ.
Trở lại phong trào văn nghệ của ta hiện nay. Cần phải nhận định rằng: trải qua ngót 12 năm dưới chế độ Dân chủ Cộng hoà, qua 9 năm kháng chiến và hơn 2 năm hoà bình, văn nghệ của ta đã lớn mạnh. Ảnh hưởng tốt của những phong trào mới mẻ nhất của Liên Xô, Trung Quốc càng làm cho nó lớn mạnh thêm. Lề lối lãnh đạo cũ không còn phù hợp với cái lớn mạnh ấy nữa. Quan hệ giữa lãnh đạo văn nghệ và quần chúng văn nghệ có mâu thuẫn. Mâu thuẫn này chỉ là dấu hiệu của một cái mà người ta thường gọi là “khủng hoảng trưởng thành”. Những cuộc phê bình “nảy lửa” trong lớp lý luận vừa qua, những bài văn, bài báo có vẻ “táo bạo” mà ta thấy ít lâu nay, đều biểu thị cái khủng hoảng trưởng thành ấy. Phong trào có thể có những lệch lạc, nhưng nó đúng ở căn bản là đòi duyệt lại những sai lầm nghiêm trọng của lãnh đạo để xây dựng một đường lối tốt đẹp hơn, rộng rãi hơn, phù hợp với nhu cầu mới hơn. Trong khi nó phê bình công khai, đưa ra những hiện tượng xấu, dĩ nhiên kẻ địch lợi dụng, nhưng cũng như việc phê bình Sta-lin, cái hại là nhỏ, cái lợi là lớn.
Nếu không nhìn thấy rõ như vậy, nếu chỉ thấy ngọn, mà không thấy gốc, cứ sốt ruột trước một vài thái độ lệch lạc của quần chúng, lo lắng về việc địch lợi dụng, tôi thiển nghĩ: lợi bất cập hại. Quan niệm hẹp hòi ấy dễ đưa đến những hành động động hẹp hòi. Nói trắng ngay ra rằng: gần đây trong giới lãnh đạo có khuynh hướng cô lập hoá, đối lập hoá tờ báo Nhân văn. Nếu khuynh hướng này còn kéo dài và tăng cường lên nữa thì tác hại sẽ là: hạn chế tự do dân chủ, hạn chế phê bình công khai, tưởng ta là địch, tưởng bạn là thù, tự mình đối lập với quần chúng của mình. Thế là mắc mưu ly gián của kẻ địch nham hiểm. Thế mới là thực sự bị địch lợi dụng.
Cho nên vì sợ hay vin cớ sợ địch lợi dụng mà chụp mũ nhau là bôi đen chế độ, là thoát ly chính trị v.v… và suy diễn rằng: phê bình công khai những cái sai trái của ta là “nối dáo cho giặc”, cần phải đề phòng!
Phê bình công khai là một công tác cách mạng. Nó là một phương tiện giáo dục quần chúng rất cần thiết, đồng thời lấy áp lực của dư luận để sửa chữa những cái xấu mà sự đấu tranh nội bộ trong các tổ chức của Đảng và Nhà nước không đủ để giải quyết. Một vài nhận thức chưa được sâu sắc, một vài thái độ chưa đúng mức của người phê bình sẽ dần dần được uốn nắn lại trong quá trình thảo luận, không nên thổi phồng những cái nhỏ nhặt đó để gạt bỏ những vấn đề trọng đại kia.
Để kết luận, tôi mượn ý của đồng chí Đặng Tiểu Bình trong bản báo cáo nói trên: “Trong cuộc đấu tranh để thực hiện đầy đủ đường lối quần chúng và chống bệnh quan liêu, việc hợp tác chặt chẽ với các nhân sĩ ngoài Đảng tham gia cuộc đấu tranh có một ý nghĩa rất lớn… Nhiệm vụ của chúng ta là thật sự củng cố liên hệ giữa người lãnh đạo và quần chúng làm cho nguyên tắc dân chủ và đường lối của Đảng được thi hành triệt để về mọi mặt”.
*
No comments:
Post a Comment