==
Nguyễn Hữu Đang
Từ Pơ-rô-lê-cun đến trăm hoa đua nở
===
I. Một xu hướng văn hóa tả khuynh hẹp hòi đã thất bạiMỗi lần kỷ niệm Cách mạng tháng Mười chúng ta lại đem ôn lại những bài học vô cùng phong phú của Liên Xô qua bốn mươi năm kiến thiết chủ nghĩa xã hội. Và trong bài học lớn về văn hóa, chúng ta không thể nào không chú ý đặc biệt đến phong trào Pơ-rô-lê-cun (Văn hóa vô sản gọi tắt).
Đầu tiên Pơ-rô-lê-cun là một tổ chức văn hóa bình dân tiến bộ hoạt động vào quãng giữa Cách mạng tháng Hai và Cách mạng tháng Mười không chịu lệ thuộc Chính phủ Kê-răng-ski và đã thiết thực giúp ích thợ thuyền về học tập văn hóa cũng như về sinh hoạt nghệ thuật. Nhưng Cách mạng tháng Mười thành công chưa được bao lâu thì một mặt những phần tử tư sản thất thế chui vào tổ chức này để nhân danh văn hóa vô sản mà phá hoại công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên-Xô; một mặt chính ngay những người trung thực trong tổ chức này cũng phạm sai lầm là đòi độc lập hoàn toàn đối với chính quyền Xô-viết đúng như đối với chính quyền phản động cũ. Và qua thái độ độc lập đó, ta thấy họ gián tiếp bảo vệ quyền tự do theo hay không theo cách áp dụng chủ nghĩa Mác của Lê-nin.
Xu hướng thích độc lập và tự do ấy sẽ chẳng hại gì nếu họ có một đường lối phát triển văn hóa sát đúng với thực tế Liên-Xô lúc bấy giờ. Nhưng nhiệt tình thì cao mà lý luận lại thấp, họ đã hăng hái đi sâu vào bệnh ấu trĩ cách mạng là tả khuynh hẹp hòi.*Cái tả khuynh thứ nhất của Pơ-rô-lê-cun là cắt đứt với dĩ vãng, coi khinh tất cả mọi giá trị văn hóa của xã hội cũ. Những "nhà văn hóa vô sản" này bao lâu đã từng hát đến vỡ lồng ngực câu “Quốc tế ca”:"Những cái gì của quá khứ chúng ta đều phá sạch"Câu “Quốc tế ca” mà họ hiểu đúng nghĩa đen, một cách rất máy móc, thô sơ. Họ tưởng giai cấp vô sản có thể xây được một nền văn hóa hoàn toàn mới với những vật liệu hoàn toàn mới, chẳng dính líu gì đến văn chương, nghệ thuật, khoa học của bọn tư bản và địa chủ đã bị lật đổ.
Trong một bài thơ đầu đề là “Chúng ta”, "thi sĩ" Ky-ri-lốp gào thét huênh hoang:"Nhân danh những ngày mai, chúng ta sẽ đốt tranh của Ra-pha-en, sẽ phá các viện bảo tàng, sẽ dày xuống dưới chân những đóa hoa của nghệ thuật."Thái độ hợm hĩnh điên dại đó chỉ là một cách tự bịt mắt, tự trói tay mình đến nỗi Lê-nin đã phải nhiều lần chỉ trích nghiêm khắc. Trong một bài diễn văn năm 1919 ở Pê-tơ-rô-gơ-rát (bây giờ là Lê-nin-gơ-rát) nói về những thành công và những khó khăn của chính quyền Xô-viết, Lê-nin nhấn mạnh:"Phải nắm lấy nền văn hóa mà chủ nghĩa tư bản đã để lại và dùng nó mà xây dựng chủ nghĩa xã hội."Một lần khác, năm 1920, nói chuyện với thanh niên, Lê-nin phân tích rõ hơn để đập tan cái thói làm cao khinh rẻ bất cứ cái gì đã được dùng trong chế độ cũ:"Nền văn hóa vô sản phải là sự phát triển tất nhiên của tổng số những kiến thức mà loài người đã xây dựng được dưới ách của xã hội tư bản, của bọn địa chủ, của bọn quan liêu".Cái tả khuynh thứ hai của Pơ-rô-lê-cun là công nhân chủ nghĩa. Sai ở hai mặt:Trước hết lý luận cách mạng không phải đã độc lập và tự nhiên mọc ra một cách trực tiếp trong phong trào thợ thuyền mà chính là đã phải nhập cảng từ ngoài, dưới hình thức một chủ nghĩa khoa học dù có xuất phát xa xôi từ phong trào thợ thuyền thì cũng chẳng phải gì khác là sản phẩm của những người trí thức tiên giác thiên tài.
Nói thế không có nghĩa là giai cấp công nhân không có ai dự hẳn vào việc xây dựng lý luận cách mạng, song khi họ dự vào thì họ đã tiếp thu được kiến thức của thời đại đến một mức khá cao và dự vào như thế là với tư cách một nhà lý luận rồi chứ không còn đơn thuần là người thợ nữa.Đối với thợ thuyền, tâng bốc họ về điểm này chẳng làm cho họ vẻ vang hơn chút nào mà chỉ thêm rối chuyện khi chúng ta muốn đi tìm chân lý. Còn trong kiến thiết kinh tế và văn hóa thì tại sao lại nhắm mắt lại để khỏi phải thấy cảnh (đau lòng chăng?). Ở giai đoạn đầu bao nhiêu năng lực khoa học, kỹ thuật, văn nghệ điêu luyện nhất, tinh vi nhất đều tập trung trong tay những nhà chuyên môn, những người trí thức không phải là "thành phần cơ bản"? Tại sao lại không thật thà nhận rằng họ đi theo cách mạng nào phải vì danh lợi! Và lòng trung thành trầm tĩnh của họ đối với lý tưởng chủ nghĩa xã hội lại chẳng đáng yêu hơn ngàn lần cái "tiến bộ" ồn ào của những con người vỗ ngực khoe mình "vô sản"?Trong tình thế ấy, Pơ-rô-lê-cun định sáng tạo ra một nền văn hóa giai cấp thuần túy với những bàn tay thợ không thôi thì chỉ là nói khoác cho sướng miệng.
Trên lề trang sách của Pơ-lét-nép, một lãnh tụ Pơ-rô-lê-cun, viết về chuyện đó, Lê-nin phê chế riễu: "Ảo thuyết lớn!". Và trong một buổi diễn thuyết, Lê-nin nói với thợ thuyền:"Các đồng chí hãy trau dồi học thức đi, hãy tiếp thu văn hóa tư sản, đừng có nghe những người lừa dối nói rằng ở trong một phòng thí nghiệm nào đó, dù là với cái danh hiệu gì mà người ta đặt cho nó, một nền văn hóa vô sản đã lớn."Tại sao Lê-nin lại đưa ra chủ trương có vẻ như là không tin ở khả năng sáng tạo văn hóa mới của vô sản?Thực ra, chính Pơ-rô-lê-cun thần thánh hóa vô sản, rồi lấy đấy làm nhãn hiệu dán vào những sản phẩm của mình hòng đánh bạt mọi cống hiến khác của những người trí thức và văn nghệ sĩ cũ đã đứng vào hàng ngũ cách mạng, hòng làm cho vô sản vui lòng nhận một thứ văn hóa giả tạo tách rời thực tế xã hội, tách rời cuộc sống, trái ngược với nhu cầu và sở thích của họ, chính Pơ-rô-lê-cun mới thực là khinh thường vô sản.Còn đối với Lê-nin và những người cộng sản chân chính, bao giờ họ cũng tin tưởng ở khả năng sáng tạo văn hóa của vô sản, nhưng sự sáng tạo đó phải có thời gian, phải có điều kiện do kiến thiết chủ nghĩa xã hội thành công dần dần đem lại chứ không thể nào đột xuất như từ trên trời rơi xuống hoặc ngay trong vòng năm mười năm sau khi cướp được chính quyền.Cái tả khuynh thứ ba của Pơ-rô-lê-cun là coi nghệ thuật như ngành sản xuất.
Họ coi tác phẩm như một vật dụng thiết thực trong sinh hoạt vật chất hàng ngày, có lẽ họ thành thật tin rằng một bức tranh, một bài thơ, một bản nhạc được xếp ngang hàng với quần áo và thức ăn là một vinh dự lớn. Sáng tác? thì cũng là chế tạo trong một nghề như trăm nghìn nghề khác! Nghệ sĩ? Thì cũng là một thợ thủ công xuất sắc mà giỏi ra thì cũng giống như một nhà kỹ thuật, một nhà chuyên môn! Cá tính? Không thành vấn đề! Cá tính sẽ hòa tan vào tập thể! Họ không biết đến nhận định sâu sắc của Mác về cái đặc tính vô song của sự lao động nghệ thuật và về cái bản chất rất khác thường của con người nghệ sĩ. Những đoạn văn của một nhà lý luận Pơ-rô-lê-cun để lại cho chúng ta biết họ say sưa tưởng tượng cái ngày mà "nghệ thuật ăn khớp một cách cơ thể với lao động sản xuất", cái ngày có những họa sĩ thợ mộc, nhạc sĩ thợ nề, v.v… vừa là bạn vừa là cộng tác viên của các viện hàn lâm đồng thời cũng là công đoàn.Nói tóm lại một câu, xu hướng văn hóa vô sản kiểu Prô-lê-cun là cái ý muốn văn hoá là độc quyền của giai cấp công nhân, hoàn toàn tự phát từ con số không và hằng ngày sản xuất đều đều những "đồ vật tinh thần" đúng với nhịp máy chạy.
Cũng may mà Lê-nin sớm nhận thấy cái nguy hại của xu hướng ấy và nắn uốn kịp thời. Rốt cuộc, vì chẳng phát minh, sáng tạo được gì tốt và bị quần chúng chán ghét, Pơ-rô-lê-cun tan rã về mặt tổ chức vào năm 1923. Tuy vậy cái nọc độc của nó cũng vẫn còn dây rớt một vài lần nữa: năm 1925, nhóm Mặt trận phe tả đòi quyền độc tôn cho những nhà văn vô sản tự nhận là chính thống; năm 1928 nhóm Mặt trận phe tả mới đòi thanh toán hội họa, kịch và văn học cổ truyền bị coi như những sản phẩm tồn tại của giai cấp bóc lột cũ; và cuối cùng, nhóm R.A.P.P. chủ trương rằng thơ trữ tình, thơ đả kích và bi kịch sẽ phải tự tiêu cũng vì đó là những tàn tích của giai cấp bóc lột.Những điều quái gở kể trên chứng tỏ trong những năm đầu của chế độ xô-viết Đảng Cộng sản Liên-Xô đã phải đấu tranh khó nhọc thế nào để chống bệnh tả khuynh hẹp hòi trong các trào lưu văn hóa do trình độ lý luận non kém và chắc cũng còn do cả bệnh bè phái cơ hội nữa.Lê-nin mất đi rồi, Đảng họp Đại hội lần thứ XII, nghị quyết (ngày 1-7-1925) một chính sách văn học theo tinh thần rộng rãi của Lê-nin, trong đó có một điểm đáng cho chúng ta nghiên cứu đặc biệt kỹ lúc này:14. Đảng phải dứt khoát tán thành việc thi đua tự do giữa các nhóm và các xu hướng… Người ta không thể để cho một sắc lệnh hay một quyết định của Đảng trao độc quyền hợp pháp trong văn học và xuất bản cho một nhóm hay một tổ chức văn học nào. Ủng hộ vật chất và tinh thần nền văn học vô sản và nông dân, giúp đỡ nhóm "Bạn đường", v.v… Đảng không vì thế mà trao độc quyền cho nhóm nào, dù nhóm ấy có là vô sản nhất về tư tưởng đi nữa; vì làm như thế có nghĩa là tàn phá nền văn học vô sản trước tiên.
Điểm nghị quyết trên này phải là một bài học lớn cho chúng ta để xúc tiến thực hiện đường lối "trăm hoa đua nở".Sự thất bại của Pơ-rô-lê-cun, thái độ sáng suốt của Lê-nin và chính sách rõ ràng của Đảng Cộng sản Liên-Xô trong vấn đề này ở hoàn cảnh một nước mà chính quyền cách mạng và tuyệt đại đa số nhân dân đã một lòng đi theo Đảng để tiến lên chủ nghĩa xã hội là một câu trả lời đanh thép cho những ai cứ muốn lắp lại một cách giáo điều những ý kiến của Lê-nin phát biểu về vấn đề văn học Đảng ở hoàn cảnh hoạt động cách mạng bí mật, − họ lắp lại với dụng ý hạn chế "trăm hoa đua nở" ở nước ta ngày nay.II. Bản chất của trí tuệ vốn là tiến bộTrong bài trước [1] tôi đã trình bày qua loa nội dung xu hướng Pơ-rô-lê-cun [2] , và sự thất bại của xu hướng ấy. Pơ-rô-lê-cun tan rã từ lâu rồi, nhưng xu hướng văn hóa tả khuynh hẹp hòi chưa hết hẳn. Không phải do Pơ-rô-lê-cun để lại mà chính là do trình độ lý luận thấp kém bao giờ cũng có ở nơi này nơi khác trong hàng ngũ Cách mạng thế giới gây ra. Văn nghệ "công nông binh" của Mao Trạch Đông đề ra thường cũng bị hiểu đơn giản ra nghiã gần như Pơ-rô-lê-cun. Văn nghệ "nhân dân" của ta trước đây, trong sự thực hiện lệch lạc, cũng phảng phất tinh thần Pơ-rô-lê-cun. Cho đến bây giờ nữa, những e ngại đối với đường lối "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói" cũng không phải không có họ xa với Pơ-rô-lê-cun.
Tôi cho rằng tất cả những biểu hiện tiềm thức Pơ-rô-lê-cun ấy có chung một nguyên nhân sâu xa. Đó là cái nhận thức về bản chất trí tuệ nói chung và nghệ thuật nói riêng chưa được rõ ràng dứt khoát. Chuyện này có liên quan tới tình hình nghiên cứu và áp dụng chủ nghĩa Mác.Từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II sự sưu tầm và minh giải nhiều văn bản của Mác và Ăng-ghen đã tiến thêm được một bước đáng kể. Mặt khác, những kinh nghiệm phong phú của cuộc kiến thiết chủ nghĩa xã hội trên một phần ba trái đất (hoàn cảnh mới, vấn đề mới, giải pháp mới) đã được đúc kết và dựng lên thành lý luận.Nhờ hai sự kiện trên, chủ nghĩa Mác đã được soi sáng thêm và về vấn đề trí thức, trong số những quan điểm mới (được phổ biến từ sau 1950), người ta có thể ghi:Bản chất trí tuệ vốn là tiến bộ, giai cấp tính phản động có thể lấn át nhất thời hay ở từng bộ phận nhưng cuối cùng tư tưởng và nghệ thuật vẫn tự nhiên nẩy nở theo hướng tốt.Trong bài này tôi trình bày một vài ý kiến về điểm đó vì nó trực tiếp góp phần xây dựng đường lối "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng nói".*Theo quan điểm Mác-xít thông thường, trước đây, những người trí thức và văn nghệ trong xã hội có người bóc lột người chia ra làm ba loại: một loại bản thân thuộc giai cấp thống trị hay giai cấp cách mạng, căn bản là chỉ phục vụ giai cấp mình và chống lại giai cấp thù địch, không thể nào khác được. Một hạng thuộc giai cấp trung lưu dễ ngả nghiêng, bị dày xéo nhiều và tỉnh táo thì đi theo nhân dân cách mạng, bị mua chuộc hay mê hoặc thì đi theo bọn thống trị chống lại nhân dân cách mạng.
Sau cùng một loại thuộc giai cấp thống trị hoặc vì bị sự tan rã của giai cấp mình đẩy xuống hàng ngũ nhân dân lao động, hoặc vì sớm nhìn thấy được bước tiến của lịch sử mà tự ý đi theo cách mạng.Nhận định trên này, xét về nét lớn thì lúc nào cũng vẫn là đúng. Nhưng nếu đi sâu vào chi tiết thì ta thấy cho đến trước Chiến tranh Thế giới lần thứ II, trong thực tế, nó dè dặt đối với sự tham gia cách mạng của những người trí thức và văn nghệ tiến bộ thuộc các giai cấp tiểu tư sản và tư sản, nhất là tư sản, mặc dầu từ năm 1936 Quốc tế Cộng sản đã đề ra chính sách mặt trận. Ở giai đoạn lịch sử ấy, đặc biệt là ở các nước tư bản đế quốc hay bán thuộc địa, cái chính nghĩa và sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản chưa tỏ rõ, công tác giáo dục cải tạo những người trí thức và văn nghệ cũ bị đầu độc chưa làm được bao nhiêu, sự dè dặt đó còn có lý phần nào. Nhưng từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, ở các nước dân chủ mới chính quyền đã về tay công nông, tuyệt đại đa số nhân dân đã nhận sự lãnh đạo của giai cấp thợ và Đảng Cộng sản, sự dè dặt đó phải gạt bỏ đi mới phải. Đã lâu quá rồi, chúng ta phải chứng kiến một cảnh trái ngược: một bên là thái độ, lập trường của phần lớn những người trí thức và văn nghệ cũ đã thay đổi hẳn hay ít ra cũng đã chuyển hướng, một bên là đường lối văn hóa của cách mạng vẫn còn e dè nhiều quá.Hình như người ta quá câu nệ những ý kiến của Mác và Ăng-ghen trình bày trong tập Tư tưởng Đức khi nói về thái độ của những phần tử trí thức trong giai cấp thống trị:"Tuy nội bộ giai cấp đó (giai cấp thống trị), sự chia rẽ (giữa những phần tử trí thức và phần tử khai thác kinh tế) có thể đưa đến hai bên đối lập và thù ghét nhau ít nhiều. Nhưng tới khi nổ ra một cuộc xung đột thực tế nào làm cho tất cả giai cấp bị đe dọa, thì sự đối lập tự dưng rơi tan đi, và người ta cũng thấy bay biến đi cái ảo tưởng cho rằng những tư tưởng thống trị không phải là của giai cấp thống trị mà có một quyền lực biệt lập đối với quyền lực của giai cấp đó".Nhưng trong những nước mà cách mạng đã nắm được chính quyền và đang kiến thiết chủ nghĩa xã hội, các giai cấp thống trị cũ đã bị lật đổ rồi tuy chưa tiêu diệt hẳn, hiện tượng này có còn là hiện tượng đáng kể nữa đâu!
Và theo ông Trần Đức Thảo thì cũng không nên quên rằng tập Tư tưởng Đức viết vào năm 1845 là thời kỳ chủ nghĩa Mác tuy không phải là phôi thai, nhưng cũng chưa thực đầy đủ; − trong tập ấy, Mác và Ăng-ghen chưa nói gì đến duy vật biện chứng, mới chỉ giới thiệu một thuyết duy vật lịch sử hãy còn sơ lược.Ngay trong một nước tư bản đế quốc, hiện tượng trên cũng mới chỉ là một mặt của vấn đề. Còn mặt khác, Mác và Ăng-ghen đã nói rõ trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản viết năm 1848 là thời kỳ chủ nghĩa Mác đã trưởng thành:"Cũng như xưa kia một bộ phận quí tộc chạy sang giai cấp tư sản, bây giờ một bộ phận giai cấp tư sản chạy sang giai cấp vô sản, và đáng kể nhất là bộ phận những nhà tư tưởng tư sản đã tiến tới nhận thức được lý luận của toàn bộ quá trình vận động lịch sử" [3] .Như vậy là trong hiện tượng phân hóa giai cấp, những phần tử trí thức có khác với những phần tử khai thác kinh tế. Khác ở chỗ họ mang trong người một cái khả năng tiến bộ đặc biệt giúp cho họ chủ động trong việc đi theo cách mạng. Cho nên bốn tiếng "đầu hàng giai cấp" mà nhiều người thiếu suy nghĩ cứ thích nói đến một cách khiếm nhã vô tội vạ, đối với họ chẳng lấy gì làm đúng lắm. Họ đi theo cách mạng thường thường là vì mục đích của cách mạng phù hợp với lý tưởng của họ chứ ít khi vì bị cái nguy cơ nào dồn ép.
Trong đời sống nhân loại họ như đã chịu một sự phân công − sự phân công xã hội bao giờ cũng có tính chất tất yếu − do cái trí tuệ minh mẫn mà họ có, là tiếp thu kiến thức và khát vọng của đồng loại, rồi tổng kết để cuối cùng đem phổ biến. Công việc đó đối với họ là một nhu cầu cơ thể giống như cái "bản năng làm mẹ" nó thôi thúc người phụ nữ (và các con vật cái). Bởi vậy hướng đi bình thường của họ phải là về phía chân, thiện và mỹ.Cố nhiên bên cạnh cái trí tuệ tính đó, họ còn mang cái giai cấp tính nữa. Nếu bản thân họ thuộc giai cấp cách mạng thì hướng đi của họ được cả hai cái "tính" phục vụ cho.
Trái lại, họ mà thuộc giai cấp thống trị thì hai cái "tính" xung đột nhau. Rốt cuộc, thắng bại về phía nào phải do bản lĩnh của cá nhân và hoàn cảnh xã hội đương thời quyết định. Lê-ông Tôn-stôi và Ban-dắc là những người mà bản lĩnh cá nhân và ảnh hưởng của phong trào đấu tranh xã hội đã giúp cho xu hướng trí tuệ (tiến bộ) thắng xu hướng giai cấp (phản động). Đấy cũng là trường hợp của hầu hết các bậc thiên tài trong lịch sử trước chủ nghĩa xã hội.Còn những trường hợp mà cái xu hướng trí tuệ thua thì nhân loại phải đánh giá đúng mức, không thể vì thế mà bi quan, nghi ngờ. Những trận thua đó chỉ nhất thời làm vướng bánh xe lịch sử. Nhân loại nhớ những lúc trí tuệ mình bị xô đẩy, đánh đập, đầu độc, sỉ nhục nhưng không bao giờ thấy trí tuệ mình tự ý thụt lùi mà trái lại chỉ thấy nó có một tiềm lực tự phát, một bản chất tiến bộ không ngừng: nó từ tấm bé, ngây dại, bấy bớt lớn lên, khôn lên, khỏe lên.
Cuối cùng, thắng to, thua nhỏ, thắng nhiều, thua ít, hàng ngũ của trí tuệ con người càng ngày càng đông đảo, trình độ của trí tuệ con người càng ngày càng vươn cao và tác động của trí tuệ con người càng ngày càng mãnh liệt nhờ cái hạ tầng cơ sở kinh tế của xã hội càng ngày càng phát triển, nhờ cái ảnh hưởng của phong trào quần chúng nhân dân càng ngày càng ý thức. Nó đã và sẽ làm tròn nhiệm vụ bằng sự thực hiện cho loài người một chủ nghĩa nhân văn và một chủ nghĩa hiện thực càng ngày càng rực rỡ. Dưới chế độ dân chủ nhân dân hay xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp đó càng dễ dàng hơn, to lớn hơn.*Tôi rất đồng ý với ông Trương Tửu khi ông muốn chứng minh trong Giai phẩm mùa Thu tập III rằng qua các thời đại ý nghĩa của văn nghệ đáng gọi là văn nghệ bao giờ cũng là vì tiến bộ của xã hội và hạnh phúc của con người. Tôi xin nói thêm: khi chưa có ánh sáng của lý luận cách mạng nó đã làm được thì khi có thêm ánh sáng của lý luận cách mạng soi đường nữa nhất định nó phải thành công vẻ vang gấp bội.Cũng lạc quan như thế, thi sĩ A-ra-gông cả quyết những lúc văn hóa đồi bại bao giờ cũng là do bạo lực gây nên. Những lúc ấy trí tuệ bị kìm hãm, tàn phá (khủng bố, ép buộc, mua chuộc, trụy lạc hóa đều là sự tàn phá của bạo lực cả), và nếu nó đã đẻ ra tư tưởng xấu, nghệ thuật xấu, trái ngược với ích lợi nhân dân, trái ngược với tiến hóa xã hội, trong những trường hợp đó thì ta phải coi những đứa con "bất thành nhân" kia là những quái vật, kết quả của cưỡng dâm chứ không phải của tình yêu.Chuyện bạo lực tàn phá, áp bức và trụy lạc hóa trí tuệ để tạo ra tư tưởng xấu, nghệ thuật xấu là chuyện không thể xảy ra trong chế độ của chúng ta, thì tại sao lại không dám phóng tay cho "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói"? Hay là không tin cái xu hướng chân, thiện, mỹ của những người trí thức, văn nghệ đã đi theo cách mạng bao năm và đồng thời cũng không tin cả cái hoàn cảnh thuận tiện là chế độ ta?Nói thế không có nghĩa là trong chế độ xã hội chủ nghĩa hay dân chủ nhân dân tuyệt đối không thể có sản phẩm tinh thần xấu của nọc độc xã hội cũ còn rớt lại mà chỉ có nghĩa là sản phẩm đó rất ít và cũng dễ giải quyết.Giải quyết bằng cách nào? Cố nhiên là không phải bằng phương pháp độc đoán là hạn chế, ngăn cấm, mà phải bằng phương pháp dân chủ là bàn bạc, tranh luận, thi đua. Cho nên nếu không để cho trăm hoa được tự do nẩy nở thì không thể biết cần nắn uốn, bồi bổ ở chỗ nào.(Nguồn: báo Văn nghệ, Hà Nội, s. 147, ngày 16.11.1956, tr. 3)III. Một đường lối văn nghệ thích hợp với giai đoạn cách mạng hiện nayMột đặc điểm của giai đoạn cách mạng hiện nay trên thế giới là cái chính nghĩa và sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đã tỏ rõ. Tuyệt đại đa số nhân loại quay nhìn cả về phía lá cờ đầu của Đảng Cộng sản mà hy vọng. Ở chỗ nào cũng có những người trí thức và văn nghệ tiến bộ tích cực đấu tranh cho hòa bình và dân chủ. Những tinh hoa của trí tuệ đã thực sự nẩy nở trong hàng ngũ công, nông. Những xu hướng văn hóa đối lập với hạnh phúc nhân dân hoặc tách rời khỏi chính trị đã suy yếu.Riêng trong các nước dân chủ nhân dân (mà nước ta là một), trên cơ sở kinh tế Nhà nước lãnh đạo kinh tế tư nhân và Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo mặt trận dân tộc, chúng ta thấy tư tưởng Mác−Lê-nin và nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa lãnh đạo mọi hoạt động văn hóa.Nhưng không phải vì thế mà các xu hướng văn nghệ đã thu gọn lại thành một dòng duy nhất. Chẳng những trong hoàn cảnh chế độ dân chủ nhân dân còn kinh tế phức tạp, còn giai cấp đấu tranh, mà ngay trong hoàn cảnh chế độ xã hội chủ nghĩa hay cộng sản triệt để đi nữa, hiện tượng đó cũng không thể diễn ra một cách bình thường. Chưa nói gì nhiều, nguyên một điều mỗi sáng tác phẩm tốt đều có mang cá tính riêng biệt của con người sáng tác, mà chế độ xã hội càng lên cao thì cá tính riêng biệt của con người càng phát triển. Gò bó xu hướng văn nghệ vào một dòng là trái với tư tưởng Mác – Lê-nin, trái với qui luật tiến hóa.Vả lại nghệ thuật hiện thực và xã hội chủ nghĩa về cả hai mặt lý luận và thực hành đều chưa phải là một cái gì đã đầy đủ, trưởng thành − không bao giờ nên nói hoàn mỹ − để có thể đưa ra một cách tuyệt đối, làm khuôn vàng thước ngọc cho người ta theo từng li từng tí.Mặc dầu ở Liên-Xô và các nước bạn đã có những cố gắng thành công ở mặt này hay mặt khác chứng tỏ nghệ thuật đó có nhiều hứa hẹn tốt, nó vẫn hãy còn là một "phác thảo" để tìm tòi, thí nghiệm và bổ sung. Gần đây, không phải không có những văn nghệ sĩ tiến bộ có chân tài cả quyết rằng ngoài hiện thực xã hội chủ nghĩa còn có những đường lối khác chưa chắc đã kém giá trị.Ở đây tôi không đi sâu vào vấn đề trên. Tôi chỉ đặt một câu hỏi thực tiễn như ở cuối bài trước:Trong hoàn cảnh miền Bắc ta, đế quốc và phong kiến đã bị đánh đổ, chính quyền đã về tay công nông, tư sản không còn là thống trị mà đã trở thành một bộ phận của nhân dân và bị "tiết chế" trong kinh doanh, hầu hết các người trí thức và văn nghệ đều đi theo cách mạng, nếu còn những tàn tích của xã hội cũ trong văn nghệ thì giải quyết bằng cách nào?
Bằng phương pháp độc đoán là ngăn cấm, đàn áp hay bằng phương pháp dân chủ là bàn bạc, tranh luận và thi đua?Hình như ông Lục Định Nhất, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Trung ương của Đảng Cộng sản Trung Hoa đã trả lời:Chúng ta còn cần thấy rằng văn học, nghệ thuật và nghiên cứu khoa học, tuy quan hệ chặt chẽ với đấu tranh giai cấp, nhưng rốt cuộc nó vẫn không hoàn toàn giốn với chính trị. Đấu tranh chính trị là hình thức biểu hiện trực tiếp của đấu tranh giai cấp; văn nghệ và khoa học xã hội có thể biểu hiện đấu tranh giai cấp một cách trực tiếp, mà cũng có thể biểu hiện đấu tranh giai cấp tương đối quanh co. Cho rằng văn nghệ và khoa học không liên quan với chính trị, có thể "nghệ thuật vị nghệ thuật", "khoa học vị khoa học", đó là một lối nhìn phiến diện hữu khuynh, đó là sai lầm. Trái lại, coi văn nghệ và khoa học hoàn toàn như chính trị thì sẽ dẫn tới một lối nhìn phiến diện khác, sẽ phạm sai lầm đơn giản "tả khuynh".Chúng ta chủ trương "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói" tức là chủ trương trong công tác văn học, nghệ thuật và công tác nghiên cứu khoa học có tự do suy nghĩ độc lập, có tự do biện luận, có tự do sáng tác và phê bình, có tự do kiên trì ý kiến của mình và có giữ ý kiến của mình.Cái tự do đó là tự do không giới hạn, hay nói đúng hơn: chỉ có giới hạn là không vượt ra ngoài địa hạt khoa học, văn nghệ.Ai cũng biết, không thể quan niệm một thứ tự do như thế trong địa hạt chính trị. Nhưng cũng phải hiểu ngay rằng cái chính trị bất khả xâm phạm nói đây là chế độ đã được cụ thể hóa bằng Hiến pháp chứ không bao gồm tất cả những vấn đề bản thân không phải là luật pháp hay chính sách mà chỉ có liên quan đến chính trị. Ở Trung Hoa bây giờ, một nhà học giả có quyền công khai bài bác những ý kiến của cụ Mao Trạch Đông về lý luận cách mạng (kinh tế, chính trị, văn hóa) mà nếu có kẻ nào "chụp mũ" ông ta là tay sai của Tưởng Giới Thạch, có manh tâm đả kích vào uy tín của lãnh tụ, của Đảng, v.v. thì kẻ đó sẽ bị kiện trước tòa án về tội vu cáo chính trị.Trở lại cái tự do trăm hoa đua nở trong văn nghệ.Tôi bỏ qua những khái niệm thuần túy lý luận về tự do tư sản và tự do vô sản, về dân chủ và chuyên chính mà chúng ta mong sẽ có dịp trao đổi kỹ. Tôi thử đi thẳng ngay vào những thắc mắc thực tiễn, cụ thể.Có bạn tỏ ra thận trọng:“Thì cũng phải phân biệt hoa ‘khôn’ với hoa ‘dại’ chứ?”Có! Cần phân biệt lắm. Nhưng ai đứng ra để phân biệt? Chính phủ và các đảng phái sẽ không tự giành lấy độc quyền phân biệt và chọn lọc bằng một hình thức kiểm duyệt trực tiếp hay gián tiếp nào đó. Các Ban chấp hành các Hội văn nghệ cũng sẽ không tự giành lấy độc quyền phân biệt và chọn lọc bằng sự đánh giá chủ quan của mươi lăm người. Thẩm quyền phân biệt và quyết định tối hậu hoàn toàn để cho quảng đại quần chúng nhân dân. Như người ta thường nói: tác phẩm tốt hay xấu, xin các ngài cứ nhận xét, phê bình, nhưng cuối cùng thời gian sẽ trả lời dứt khoát.Lại có bạn lo xa:“Chờ được đến lúc thời gian trả lời dứt khoát thì tác phẩm xấu đã làm hại nhân dân nhiều rồi.”Tôi không phải là hạng người quần chúng chủ nghĩa, phỉnh nịnh quần chúng, nhưng tôi cũng nghĩ rằng lo như thế cũng có ít nhiều không tin ở trí sáng suốt của quần chúng. Trí sáng suốt ấy lại được sự giúp đỡ của những cuộc phê bình, tranh luận trong giới văn nghệ chuyên nghiệp mở rộng cho quần chúng tham gia, chắc cũng không đến nỗi xẩy ra tình trạng bỏ vàng chọn thau, chê cơm dẻo canh ngọt để ngốn ngấu thuốc độc.Vẫn còn có bạn chưa yên tâm:“Thế vài trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong sự phát triển văn hóa có còn nữa không?”Còn lắm. Đảng chủ trương "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói" chính là Đảng mở ra một con đường rộng thênh thang cho người ta đi. Những người trí thức và văn nghệ nô nức đi vào con đường đó là đi theo Đảng chứ còn theo ai? Chỉ có những kẻ "bảo hoàng hơn vua", cứ muốn gò bó trong khi Đảng cởi mở, mới đích thực là bất chấp cả sự lãnh đạo của Đảng.Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản còn rất thiết thực ở trong việc sáng tác, phê bình, tranh luận mà Đảng trao trách nhiệm và giúp đỡ cho các nhà trí thức và văn nghệ sĩ là đảng viên làm. Tiến hành một cách kiên trì, bình đẳng và thân ái công tác phê bình, tranh luận của các đảng viên sẽ không làm hại đoàn kết, không hạn chế tự do tư tưởng, tự do sáng tác, mà vẫn bảo đảm được tác dụng lãnh đạo. Người ta e ngại là e ngại cái thái độ trịch thượng, dựa vào uy thế của Đảng tiền phong để bè phái "cả vú lấp miệng em" hoặc ra oai "đánh một gậy chết tươi", chứ thực hiện đúng dân chủ thì có ai e ngại!Sau hết, có những bạn băn khoăn không biết trăm hoa đua nở có cần phải trên cùng một miếng đất và mang cùng một tính chất nào không? Ý các bạn đó muốn đặt vấn đề lập trường giai cấp và Đảng tính.
Ở chỗ này tôi thấy cần phải chặt một nhát cho đứt đầu con yêu quái công nông chủ nghĩa hay hiện hình giả làm lập trường cách mạng.Trong sự nghiệp cách mạng chung của các tầng lớp nhân dân (gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc) nếu những người trí thức và văn nghệ đã tích cực đấu tranh đánh đổ đế quốc và địa chủ, đồng thời lại công nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản, công nhận cả chiều hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội thì căn bản là họ đã đứng vào chỗ đứng của giai cấp vô sản rồi.Như tôi đã trình bày trong bài trước, họ mang cái bản chất tiến bộ của trí tuệ, lại được thực tế đấu tranh bồi dưỡng, lý luận Mác – Lê-nin soi đường và hoàn cảnh thuận lợi của chế độ hun đúc thì lập trường của họ, lấy đa số mà nói, nếu chưa hẳn là lập trường của người vô sản thì cũng rất gần với lập trường đó. Dù họ chỉ muốn đứng trên một thứ lập trường chung chung là "lập trường nhân dân", "lập trường nhân đạo", "lập trường tiến hóa", "lập trường chân, thiện, mỹ"… hay lập trường gì gì đi nữa thì giai cấp vô sản cũng đều hoan nghênh. Trừ khi họ đứng nhầm trên lập trường của các giai cấp bóc lột cũ – trường hợp này chắc cũng hiếm – thì ta sẽ phản đối, mà cũng chỉ phản đối bằng phê bình, tranh luận một cách kiên trì, bình đẳng và thân ái.Còn Đảng tính, nếu chúng ta hiểu theo nghĩa "công nhiên phục vụ nhân dân" như I-va-nốp nói trong tạp chí Người cộng sản (số tháng 4-1956) thì phỏng có gì đáng lo? 99% những người trí thức và văn nghệ miền Bắc đã có cái đảng tính ấy từ lâu rồi.*Trước khi chấm hết bài này, tôi muốn cùng các bạn xác định xem cái trường hợp hạn chế không cho hoa nở mà ông Lục Định Nhất nói đến là trường hợp nào. Ông Lục Định Nhất đề xướng tự do vô điều kiện trong đường lối "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói" cho tất cả mọi công dân "miễn không phải là phần tử phản cách mạng".Tôi đoán có lẽ ông Lục Định Nhất nói trường hợp của những tên phản cách mạng đã bị tòa án xử rồi. Nếu không thì chỉ là nêu ra một vấn đề cảnh giác thiếu căn cứ làm bối rối những người có trách nhiệm trong các việc xuất bản, báo chí hoặc tổ chức nghiên cứu, thảo luận. Thí dụ nay Nhà xuất bản Văn nghệ nhận được bản thảo một cuốn tiểu thuyết ký tên chưa quen biết thì có lẽ họ phải nhờ công an, hộ khẩu điều tra lý lịch tác giả rồi mới xuất bản chăng?Tôi không tin rằng văn nghệ muốn "trăm hoa đua nở”, lại cần phải có công an, hộ khẩu can thiệp vào.Tư tưởng phản cách mạng xuất hiện ở chỗ nào thì ta đem quan điểm cách mạng chân chính ra mà đấu tranh ở chỗ ấy – đấu tranh bằng những phương tiện văn hóa. Còn những người trí thức hay văn nghệ có hành động chính trị phản cách mạng hoặc tham gia tổ chức chính trị phản cách mạng thì công an, hộ khẩu cứ theo dõi, khám phá và đưa ra tòa án truy tố. Đó là công tác của ngành khác.
Đó là vấn đề pháp trị, không phải là vấn đề văn hóa.[1]Xem Văn nghệ số 145 (nguyên chú của Nguyễn Hữu Đang).[2]Proletkult, kỳ trước chúng tôi phiên âm theo cách đọc tiếng Pháp là Pờ-rô-lê-kuyn, nay đổi lại theo cách đọc tiếng Nga là Pơ-rô-lê-cun cho được đúng hơn (nguyên chú của Nguyễn Hữu Đang).[3]Tôi cho in chữ đậm đoạn cuối để nhấn mạnh (nguyên chú của Nguyễn Hữu Đang).
Nguồn: Báo Văn nghệ, Hà Nội, s. 145 (2.11.1956), tr. 2, 11; s. 147 (9.11.1956), tr. 3; s. 148 (23.11.1956), tr. 3. Lại Nguyên Ân biên soạn.
===
Định nghĩa hai chữ văn hóa
Danh từ "Văn hóa" chúng ta đã mượn ở tiếng Tầu - người Tầu lấy hai chữ này ở sách cổ -bộ kinh Dịch- để phô diễn một khái niệm mới của Khoa học hiện đại. Cho nên xét theo từ nguyên thì chữ Văn hóa không ngụ được cái ý nghĩa cơ bản là giồng giọt, cầy cấy trong chữ "cultus" của tiếng la-tanh (tiếng Pháp: culture, tiếng Anh: cultures, tiếng Đức: kultur).
Vậy muốn có ý niệm xác đáng, ta phải công nhận cho chữ "Văn hóa" hiện thời một nghĩa mới nguồn gốc tự Tây phương.
Một mặt nữa, hiện tượng xã hội rất là phức tạp, quan điểm nghiên cứu của học giả cũng khác nhau, cho nên sự biện biệt ý nghĩa các danh từ lắm lúc tinh vi đến nỗi khó thể chỉ ra những giới hạn rành mạch.
Vì thế mà nhiều nhà học giả đã dùng chữ "Văn hóa" như là một danh từ khác âm đồng nghĩa với chữ Văn minh". Trong bộ Việt Nam Văn hóa sử cương, ông Đào Duy Anh theo giới thuyết của Félix Sartlaux mà thích nghĩa Văn hóa là: "chỉ chung tất cả các phương tiện sinh hoạt".
Ở Tầu, Lương Thấu Minh cũng định nghĩa chữ Văn hóa trong một câu giới thuyết tương tự. Theo quan điểm của Lương thì Văn hóa "chẳng qua là sự sinh hoạt của một dân tộc về tất cả các phương diện" (tinh thần và vật chất).
Chính vì không định nghĩa cho đích xác, chặt chẽ, cho nên bộ sách của ông Đào Duy Anh cũng có thể gọi là Việt Nam Văn minh sử cương. Và tập sách của Lương Thâu Minh, tuy đề là Đông Tây văn hóa cập kỳ triết học cũng chỉ là một công trình khảo cứu về văn minh Đông Tây mà thôi.
Cũng vì vậy mà nhiều nhà học giả khác như Vương Vân Ngũ ở Tầu đã dùng hẳn chữ Văn hóa để dịch nghĩa chữ civilization trong tiếng Anh và thích nghĩa văn hóa là hình thức sinh hoạt (dịch nghĩa chữ Lifie mode trong câu giới thuyết của một nhà xã hội học nước Anh).
Gần đây ở ta, trong tờ Văn Mới Nghị Luận, số ra ngày 10-10-1944, ông Nguyễn Đức Quỳnh viết: "Đứng về phương diện tĩnh mà xét, văn hóa là ý thức hệ của một trạng thái xã hội nhất định" và "theo phương diện động của nó thì văn hóa là ý thức hệ của quá trình tranh đấu đẳng cấp trong một xã hội nhất định". Vừa rồi, cũng trong tờ tạp chí đó (loại mới, số 1, ngày 5-6-1945) ông Nguyễn Bách Khoa lại nói thêm: "Khoa học, tư tưởng, nghệ thuật, văn chương, đó là những yếu tố cấu thành văn hóa".
Trong hai câu kể trên, ta nhận thấy rằng: ông Quỳnh đã chỉ rõ tính cách hoạt động, tính cách tranh đấu của văn hóa. Nhưng đáng tiếc là chữ ý thức hệ, ông dùng để thích nghĩa chữ văn hóa lại cũng cần phải giải thích. Và trong lời nói của ông Nguyễn Bách Khoa, chữ "cấu thành" (gây nên) có thể làm cho ta hiểu rằng: nghệ thuật, văn chương, tư tưởng là "nguyên nhân" (yếu tố cấu thành) và văn hóa là "kết quả". Có lẽ trong bản ý ông Bách Khoa, ông cũng chỉ muốn nói rằng: bấy nhiêu sự trạng đều là những trạng thái của văn hóa chăng?
*
Theo ý chúng tôi thì ta cần phân biệt hai khái niệm văn hóa và văn minh. hai danh từ này đều căn cứ vào những hiện tượng chung trong xã hội học và sự biện biệt chỉ căn cứ ở quan điểm nghiên cứu mà thôi.
Văn minh là một thành tích của nghị lực giống người trên con đường tiến hóa, là tất cả thực trạng tiến bộ ở một giai đoạn nào trong lịch sử nhân loại. Hiểu như vậy, văn minh là một "số thành" gồm tất cả các hiện tượng kinh tế, chính trị, xã hội, bao quát cả đời sống công cộng vật chất và tinh thần.
Văn hóa, trái lại, thu gọn trong phạm vi của tinh thần[1]. Đấy là bộ phận tinh vi cao thâm trong các thành tích tiến bộ của nhân quần. Trong một xã hội đã đến một trình độ văn minh khá cao, người ta vẫn có thể phân biệt ra hai hạng người. Một hạng có đủ năng lực để thưởng thức, lý giải, hoặc sáng tác các công trình kiến thiết của loài người... Ấy là những người có văn hóa (Tầu dịch là văn hóa nhân, theo chữ esprits cultivés trong tiếng Pháp). Một hạng nữa chỉ biết thừa nhận, hưởng thụ mà không biết lý giải, mà chính sự hưởng thụ của họ cũng rất là thô thiển.
Ông Nguyễn Đức Quỳnh trong bài xã thuyết đã trích dẫn trên kia, có nói rằng: "Văn hóa không thuộc hẳn về tri thức". Thực ra ý nghĩa thiết yếu của văn hóa vẫn là tri thức, đối với người sáng tác cũng như người hưởng thụ.
Văn hóa thể hiện ở học thuật, văn chương, nghệ thuật, luân lý, tôn giáo, phong tục của một dân tộc. Và ta cũng có thể trong một phạm vi nào, nhận thấy trình độ văn hóa của một người ở sở thích, ở sự phán đoán, cung cách làm việc của người ấy.
Trong việc tạo tác những công trình văn hóa, trí khôn của cá nhân cố nhiên có công lao, địa vị của nó, song sự hoàn thành và ứng dụng những công trình ấy bao giờ cũng là sự nghiệp chung của một giai cấp, một xã hội luôn luôn tiếp tục và tiến bộ.
Còn nói nền văn hóa là nói gồm tất cả những công trình, những cụ tượng thuộc về tư tưởng hay tình cảm do cơ năng tinh thần của con người đã gây dựng được, nhưng nó cũng còn có ý nghĩa vận dụng, hưởng thụ, lý giải và sáng tác nữa. Bao nhiêu trạng thái ấy của nó đều có liên lạc, quan hệ cùng nhau họp nên một toàn thể mà sự cấu thành và sự phát triển đều theo những định luật nhân quả hẳn hoi, cho nên người ta có thể nói văn hóa là một "ý thức hệ".
Ý thức hệ đó nẩy nở theo những điều kiện sinh hoạt vật chất của đoàn thể mà trình độ kỹ thuật đã tạo ra ở từng giai đoạn lịch sử. Ở thời dã man, kỹ thuật chưa ngoài năng lực của đôi bàn tay không, ý thức của giống người chỉ tóm tắt trong việc nhặt hái để được no ấm. Đến đời thách khí, kỹ thuật của đồ dùng bằng đá thô kệch giúp cho đời sống phong phú hơn đôi chút (săn, câu, trồng trọt), ý thức của giống người đã thêm lòng chuộng sống hợp đoàn và một mớ tín ngưỡng, kiêng kỵ đối với sức mạnh của ngoại giới hay đồng loại có thể súc phạm đến sinh kế, tính mệnh. Tiến lên thời kim khí, nhờ có kỹ thuật điêu luyện của những đồ dùng tiện lợi, cuộc sinh hoạt kinh tế dồi dào và quy củ (nông nghiệp bành trướng) đã giúp cho bọn tù trưởng, quý tộc là bọn đoạt được nhiều quyền lợi có đủ thì giờ chuyên luyện sự suy nghĩ, sự xúc cảm mà tạo ra hoặc chế biến những tin tưởng (tôn giáo), ước lệ (pháp luật, luân lý) và những cách tô điểm đời sống (ca, múa, hội họa, điêu khắc, kiến trúc) để củng cố địa vị của họ. Từ đấy ý thức hệ (nghĩa là văn hóa) có tính chất giai cấp rõ rệt. Và cũng từ đấy, văn hóa trở nên một lợi khí tranh đấu trong cuộc xung đột giữa các giai cấp.
Giai cấp thống trị nào cũng tạo ra một nền văn hóa riêng để phụng sự quyền lợi của họ. Bởi đã có những giai cấp quý tộc, thương nhân nhờ những lối sinh sản biến đổi mà thay phiên nhau giữ địa vị quản trị xã hội nên nhân loại đã lần lượt có những nền văn hóa phong kiến, tư sản.
Tuy văn hóa là sản phẩm trực tiếp của một giai cấp nắm những phương tiện sinh sản trong tay và do đó giữ quyền tổ chức và điều khiển xã hội, nhưng một là họ đã nhờ địa vị ưu thắng mà tiến hơn cả, hai là chính họ cũng không thoát khỏi sự chi phối toàn thể của xã hội, nên mặc dầu họ không phải là tất cả nhân dân, ý thức của họ lúc toàn thịnh có thể tiêu biểu được mức tiến hoá của xã hội thời ấy. Có điều nguy hại là một đằng thì trong lịch trình tiến hóa, một giai cấp thống trị chỉ có sứ mệnh lãnh đạo ở một giai đoạn nhất định và một nền văn hóa cũng chỉ có ích cho nhân loại ở một thời nào; một đằng thì các giai cấp thống trị cưỡng luật đào thải, cứ muốn duy trì địa vị mãi mãi, cố nêu văn hóa của họ lên như một nền trật tự xã hội hoàn toàn, một kho chân lý đại đồng và bất diệt.
Ấy là xu hướng bảo thủ, phản động, thoái hóa.
Nhưng không phải bao giờ giai cấp thống trị cũng giữ vững được độc quyền văn hóa, giai cấp bị trị vẫn ngấm ngầm sản xuất những giá trị văn hóa có tính cách đại chúng và luôn luôn chống chọi lại sự đè nén, bóc lột, bưng bít, xuyên tạc. Những đại biểu anh tuấn của họ, sau khi thừa hưởng được những ánh sáng mà kẻ thù để lọt ra, đã tự rèn luyện được những giá trị tinh thần và những thủ đoạn công phá để nhằm lúc phe địch suy đồi, xông vào nơi "cấm địa" mà ném ra những quả tạc đạn cách mạng làm rung chuyển cả tòa lâu đài cũ nát.
Ấy là trào lưu văn hóa tiên phong.
Đặng Thai Mai và Nguyễn Hữu Đang
Tiên Phong, số 1, ngày 10-11-1945, trang 3-5
trích Sưu Tập Trọn Bộ Tiên Phong, NXB Hội Nhà Văn, 1996, trang 17-19
====
http://vannghe.free.fr/nguyenhuudang/baiviet/dinhnghia.html
Nguyễn Hữu Đang
Trở lực của văn hóa dưới ách đế quốc
Mỗi khi nhắc đến việc kiến thiết văn hóa mới cho nước nhà, người ta thường theo xu hướng riêng của mình đứng về một phương diện mà người ta coi là cốt tử để chủ trường rằng đó chỉ là vấn đề tinh thần khoa học của văn nhân, nghệ sĩ, hoặc chỉ là vấn đề tự do tư tưởng... Đành rằng mỗi vấn đề ấy đều có sự quan trọng của nó, song nói một cách tuyệt đối như vậy chẳng khỏi là nông nổi nếu không phải là cố ý nói quá đi cho người ta chú ý thì vừa.
Sự thật thì một nền văn hóa vốn chịu sự chi phối của kinh tế, chính trị, cũng như của giáo dục, văn học, tôn giáo, v.v...
Nói khác ra, những động lực gây nên trào lưu sinh hoạt tinh thần hay vật chất rất phức tạp và liên lạc mật thiết với nhau (do ảnh hưởng qua lại) khiến ta không thể tách riêng một mảnh nào ra mà mài gọt, sửa chữa. Nên những nhà văn hóa thận trọng phải quan niệm vấn đề rộng rãi, không dám nhãng bỏ một yếu tố nào, dù yếu tố ấy không trực tiếp qui định. Hơn nữa, những nguyên nhân sâu xa, bí ẩn nhiều khi lại chính là then chốt.
Nếu như ngày nay chúng ta muốn lượng trước những trở lực trên đường kiến thiết văn hóa mới thì chúng ta phải xét đến tất cả mọi tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội trong nước để tìm ra những cái gì đã kìm hãm, xuyên tạc hay đục khoét tinh thần của dân tộc và do đó đã làm cho cuộc sống của chúng ta thấp kém, nghèo nàn, ngừng đọng đến nỗi quân thù của chúng ta có thể tạ vào đó mà tuyên bố chúng ta chưa xứng đáng độc lập. Đây không phải là một cách lên án theo lòng phẫn uất của mình. Đây chỉ là nhận định khách quan để tiến hành công cuộc cho đúng đường. Những kẻ đã làm hại ta, đang làm hại ta, đội giải phóng quân anh dũng của ta sẽ trừ khử bằng súng đạn, và chính ta sẽ còn nhiều dịp vạch mặt, chỉ tên.
*
Về phương diện kinh tế, đế quốc đã thiết lập một chế độ biến xứ Đông-dương thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa với một giá rất cao và một nguồn cung cấp nguyên liệu với một giá quá hạ. Kỹ nghệ, thương mại, nông nghiệp bản xứ bị bóp nghẹt, lớp trung lưu cúi đầu đi làm thuê chỉ đủ ăn; vô sản cần lao bị bóc lột tàn nhẫn.
Lợi dụng cảnh nghèo khổ liên miên ấy của dân chúng, kinh tế đế quốc đã dần dần đưa đồng bào ta vào con đường nô lệ, trụy lạc.
Phần đông học giả, văn nhân, nghệ sĩ đã đành lòng đem bán rẻ tài năng; phần đông nhà xuất bản đã chỉ có thể là con buôn trục lợi, các lớp thanh niên ngay lúc còn cắp sách đến trường đã phải hướng việc học tập theo chiều cơm áo, đã phải phá ngang để nâng đỡ gia đình, thì trí thức còn đường lối phát triển nào để vươn tới những đỉnh cao sán lạn của khoa học, tư tưởng và nghệ thuật? Các thương gia vì không được bén mảng đến việc xuất cảng, đã đành đóng vai mại bản hạng nhì sau người Tàu và người Ấn, và sự kinh doanh của các nhà tiểu công nghệ đã chỉ là những hoạt động tẹp nhẹp của bác cai thầu, thì chẳng những kỹ thuật của ta không bao giờ đủ lông cánh để bay bổng lên bậc tinh xảo mà ngay cuộc sinh hoạt nhờ vào kỹ thuật của người cũng thiếu thốn, thô lậu. Còn nói chi đến nông dân thợ thuyền lao lực, kiệt quệ vì đói rét bệnh nạn, tối tăm u mê vì thất học! Họ là 99 phần 100 dân chúng mà chẳng thể đóng góp vào việc tạo tác những công trình văn hóa, thì đủ rõ nền văn hóa kia có tính chất gì và công dụng gì.
Đã thế, sự bóc lột càng sâu cay thì cuộc vật lộn cạnh tranh sống lấy được trong các từng lớp dân chúng càng gay gắt nên đã phát sinh ra cái tâm trạng xu nịnh sợ sệt đối với đế quốc và chia rẽ, phản bội đối với đồng bào, nó hạ thấp nhân cách và cản trở những trào lưu cấp tiến.
Từ ngày chủ nghĩa phát-xít Pháp Nhật xòe đôi cánh đen ngòm của nó trên giải đất này, tình trạng nói trên lại trở nên nghiêm trọng hơn nữa. Chính sách kẻ cướp được thi hành triệt để, nền tảng kinh tế đã tan rã. Cây văn hóa vốn cằn cỗi lại càng héo hon, tàn lụi bởi mầu đất chẳng còn.
*
Về mặt chính trị, bọn thống trị trực tiếp uy hiếp dân chúng bằng pháp luật. Đế quốc trọng dụng bọn phong kiến để thi hành chính sách đàn áp và ngu dân làm cho chính thể trong nước sáu, bẩy mươi năm trực tiếp với Âu Tây, chẳng nhiễm được mảy may tính cách cộng hòa dân chủ, chỉ giữ nguyên tính cách trung cổ, độc đoán, dã man. Những tàn tích của một chế độ hủ hóa, mà người ta tưởng đã tiêu diệt, vẫn còn kéo dài để đóng vai trò phản tiến bộ. Quyền tự do ngôn luận, tự do tổ chức, tự do hội họp mà nhân loại coi như những điểm sáng long lanh trên đài văn hóa, chúng đã gạt ra ngoài bờ cõi Việt Nam, và trước mắt ta chỉ như những điểm sao mờ xa xăm. Sự bình đẳng giữa cá nhân trước công lý -một sự bình đẳng tối thiểu trong xã hội phân chia giai cấp- cũng không đường bén mảng tới đây, đành nhường chỗ cho một mớ pháp luật vô nhân đạo phân biệt màu da và có thể mua bán dễ dàng, được treo cao để bảo vệ quyền lợi của lũ thực dân.
Trong khung cảnh ấy mà dựng lên những pho tượng "bà đầm xòe" giơ đuốc hay cầm cân để biểu dương một nền văn hóa huy hoàng thì mỉa mai nhường nào!
Sau hết, tất cả những ngành hoạt động tinh thần đều bị một bàn tay bí mật lái về phía con đường cụt hay vào một vòng luẩn quẩn. Nhìn vào việc giáo dục, ta chỉ thấy có một thiểu số thanh niên được theo bậc đại học, mà bậc học ấy, với cái dụng tâm của bọn thống trị, chỉ là một nơi đào tạo những người thừa hành, chứ không phải là nơi rèn đúc tài năng để bồi đắp văn hóa. Bởi trí tuệ họ đã lèn chặt những kiến thức hư ngụy, chí khí họ đã bị đúc vào trong một khuôn khổ ươn hèn. Được đế quốc biệt đãi (để lợi dụng) cùng với một số người tốt nghiệp ở Pháp về[1], họ đã xa cách dân chúng, không hiểu dân chúng, chẳng cống hiến được chút sở đắc nào vào cuộc hưng thịnh Việt Nam hay gây được trào lưu cấp tiến gì đáng kể. Nói vậy phải đâu là trách họ: Nếu không có sự đầu độc, sự nặn uốn, sự vây trói của đế quốc quỉ quyệt, thì có lẽ họ cũng đã bổ ích cho giống nòi hơn thế.
Nghĩ cho cùng, bậc đại học mỹ miều kia cũng chỉ nằm trong một nền giáo dục bình diện (nghĩa là thấp là là) do tên toàn quyền Merlin đề xướng, nó là một thủ đoạn độc ác dìm dân ta chẳng cất được đầu. Trong nền giáo dục bình diện ấy, chương trình phiền phức vô ích, vừa làm mất thì giờ, vừa làm mất chí thanh niên: Chữ quốc ngữ bị ruồng bỏ, Nam sử bị rẻ rúng và xuyên tạc. Điều này nữa mới thiệt đáng ghê sợ: đế quốc không chịu mở trường đủ cho dân ta đi học, đến nỗi có tới 95 phần trăm dân số chịu nạn mù chữ! Như thế văn hóa Việt nam tránh sao khỏi tê liệt?
Học đường thì thế. Sách báo bên ngoài thì sao? Một sở kiểm duyệt hà khắc có râu giải ở khắp các tỉnh, lúc nào cũng lăm le bịt miệng, cắt lưỡi nhà văn, nhà báo. Những văn phẩm, những công trình biên khảo, những bài nghị luận hay những tin tức chân chính vì có tội đem ánh sáng soi rõ thực trạng xã hội (cái thực trạng áp bức, bóc lột của đế quốc, của phát-xít cũng như cái thực trạng tự do, công bằng của cách mạng, của dân chủ) đều không thể lọt qua dần sàng của nó. Thế mà cũng chưa đủ, người cầm bút còn luôn luôn bị sở mật thám quấy nhiễu hăm dọa, và những ai quả quyết bênh vực công lý hay mạnh bạo hô hào tiến bộ đều đã bị đàn áp thẳng tay. Đồng thời bọn thống trị dùng tiền trợ cấp mua chuộc những nhà văn, nhà báo thiếu lương tâm để tán tụng chính sách hại dân, lừa gạt đồng bào, hoặc đem những văn chương ru ngủ, những tư tưởng hủ lậu thoái hóa ra đầu độc dân chúng.
Nền văn chương học thuật phản động cùng với cái dã tâm của bọn cầm quyền cố ý duy trì hủ tục ở thôn quê, dung túng những mê tín dị đoan, khuyến khích ăn chơi đồi bại, đè nén tín đồ cùng với vô tuyến truyền thanh, chiếu bóng, diễn thuyết, trưng bày do cơ quan tuyên truyền của chính phủ đế quốc tung ra, kết thành những vòng lưới đan bằng muôn vàn sự điêu trá vây quanh ta. Phỏng trí tuệ, giác quan của ta còn nhận được những gì là xác thực để nâng cao tâm hồn? Phỏng cá tính ta còn thoát ra lối nào để cảm thông cùng vũ trụ và nhân loại? Con người mà chủ nghĩa nhân bản lo bảo vệ, mà chủ nghĩa xã hội đang giải phóng, ở đây cơ hồ đã thành ra đui chột, liệt bại, ngơ ngẩn nếu chưa đến nỗi mất hết cốt cách, năng khiếu. Trách chi đôi nhà trí thức hoang mang tưởng văn minh cơ giới chỉ làm bại hoại, đã chủ trương quay lại thời man rợ cho rồi!
Ấy là cái trạng huống khốn đốn của văn hóa Việt Nam dưới chế độ thực dân Pháp. Dưới gót sắt của giặc Nhật hung tợn, văn hóa Việt Nam còn sót chút di sản nào của tổ tiên ta, còn sót chút giá trị nào của thế hệ đang tiến, tất sẽ bị đập tan nát trong một cơn bão táp như ta thấy ở Đức, ở Ý cách đây mươi năm. Trở lực của văn hóa có lẽ sẽ không phức tạp lắm, nó sẽ thu gồm tất cả trong hai tiếng đồng nghĩa với bạo ngược: Phát-xít! Phát-xít Nhật cũng có thể tuyên bố như Attila: "Ngựa ta đi qua đâu, cỏ sẽ không mọc được".
*
Tìm hiểu những trở lực trong việc kiến thiết văn hóa như trên, chúng ta thấy rõ con đường phải đi: điều kiện căn bản là thoát ách thuộc địa, là thực hiện nền độc lập quốc gia để có thể tổ chức kinh tế và chính trị theo chiều tiến bộ của thế giới, tạo nên những hoàn cảnh thuận lợi cho văn hóa phát triển sau này. Cuộc vận động văn hóa hiện thời, bởi vậy, phải nằm trong cuộc tranh đấu giải phóng dân tộc. Dù chúng ta đứng trên lập trường tư tưởng, học thuật nào mặc lòng, hành động của chúng ta cũng phải phù hợp với phong trào cứu nước đang sôi nổi khắp nơi. Những chủ trương văn hóa thuần túy, trung lập bao giờ cũng là thiển cận, trống rỗng và phản bội đối với toàn thể.
Nguyễn Hữu Đang
Tiên Phong, số 1, ngày 10-11-1945, trang 14-17
trích Sưu Tập Trọn Bộ Tiên Phong, NXB Hội Nhà Văn, 1996, trang 28-31
[1] Đế quốc Pháp chỉ cho thanh niên Việt Nam đi du học ở Pháp để tiện bề kiềm chế.
© Copyright 2007
====
===
Nguyễn Hữu Đang kể
Cổ tích
=====
Vừng khoai lang
Một nhà giàu làng kia có người con gái tuổi chừng mười tám, đôi mươi rất xinh đẹp, đôi mắt bồ câu sáng ngời, mà hồng như cánh đào non. Nhiều nơi đã dạm hỏi, người con gái đều không bằng lòng. Bố mẹ chiều con cũng không gả ép, nhưng đinh ninh rằng con gái mình còn kén người giàu sang hoặc người học giỏi.
Một hôm cô ta đi chăn bò, quấn thừng lên đầu bò mà thả. Bò rông vào vườn khoai lang một nhà nông dân nghèo ăn mất nửa luống giây. Con trai nhà có vườn chạy ra bắt bò và thấy cô ta xinh tươi, duyên dáng liền buông lời nói trêu bóng gió. Cô ta thấy chàng trai mặt mũi khôi ngô mà ăn nói lại hoạt bát, ngọt ngào dễ nghe nên cũng có cảm tình. Đôi bên lúc đầu còn cãi lý, sau thành ra chuyện trò thân mật. Từ đấy hai người yêu nhau và gắn bó một hai.
Nhưng anh chàng vốn là con nhà nghèo hèn nên việc dạm hỏi đã nhiều lần mà chẳng những không kết quả lại còn bị nhà giàu kia khinh bỉ, riếc móc, xóm làng mỉa mai, chế riễu. Cha mẹ anh ta rất chán nản và bực mình với con. Nhưng anh ta thì không vì thế mà thay đổi ý kiến. Chắc là tình yêu đã đem đến cho anh ta sự quyết tâm bền bỉ.
Cô con gái cũng chẳng vừa. Cha mẹ, họ hàng khuyên can, mắng mỏ, đe doạ thế nào cô cũng khăng khăng một mực, đã thương mến nhau, ước hẹn nhau thì dù cho gian khổ đến đâu cũng không chuyển lòng.
Rốt cuộc, nhà giáu không biết làm thế nào, đành nhận gả con gái cho anh nông dân nghèo.
Đến hôm nhà giai dẫn cưới, ai cũng đoán được là lễ vật sẽ chẳng có gì. Song cũng không ai ngờ là chỉ vẻn vẹn có một vừng khoai lang. Nhà giàu giận lắm nên nhân dịp cố ý làm cho chuyện thành ra lố bịch và dư luận xôn xao để con mình phải xấu hổ mà thôi cuộc hôn nhân. Họ cho mời làng xóm, họ hàng và bạn hữu đến ăn cưới, làm như sẽ thết đãi linh đình. Khi khách đến đã đông đủ, sau một lượt trầu nước, mọi người chờ đợi cỗ bàn. Nhưng nhà chủ chỉ khệ nệ bưng ra có một vừng khoai lang, đem chia cho mỗi người một củ. Củ nhỏ phần người trong họ, củ to nhường bà con trong làng.
Mọi người cười rộ rồi lục tục kéo ra về. Nhiều người công phẫn, không tiếc lời chửi bới om xòm nhà giàu: nào là khinh người, láo xược; nào là keo kiệt, bẩn tưởi; nào là ngu dại, gả con cho thằng khổ bệnh…
Người con gái không cho thế là xấu mặt, cứ nhất định lấy bằng được anh nông dân nghèo. Cha mẹ cô không còn cách nào khác, phải cho cưới vậy.
Về sau người làng đặt mấy câu ca để ghi lại câu chuyện tình duyên đằm thắm đã vượt được cả hàng rào giai cấp:
Cô nhiêu giữ bò quàng sừng,
Cậu nhiêu đi dạm một vừng khoai lang.
Củ nhớn thì để cho làng
Bao nhiêu củ nhỏ họ hàng ta ăn.
=====
Hoa gạo, cỏ may
Một bà sư thầy đi giúp đám chay về, giữa đường gặp một người đàn bà nghèo bế đứa con gái nhỏ đi ăn xin. Bà mua đứa bé đem về nuôi, mong ngày sau nó lớn lên sẽ hầu hạ, đỡ đần và nhất là để khi già yếu bà có chỗ trông cậy.
Đứa bé lớn lên trong cảnh chùa, càng ngày càng có nhan sắc và thông minh. Lúc nó mười sáu, mười bảy tuổi, nó đẹp khác thường và rất khôn ngoan, sắc sảo. Vì vậy nó cũng tự hào; những thanh niên loàng xoàng tỏ tình hoặc dạm hỏi đều bị nó coi thường và làm cho nhụt.
Làng bên có anh học trò, ngày ngày đi qua thường ngồi nghỉ dưới gốc hai cây gạo lớn nơi cửa chùa. Một hôm anh ta đang hóng mát như mọi lần, chợt thấy cô bé kiều diễm ra hái hoa ngoài vườn. Anh ta nói đùa một câu. Cô con gái không trả lời, chỉ hát:
Em như hoa gạo trên cây,
Anh như cái đám cỏ may bên đường,
Anh ta bị chạm lòng tự ái, hát lại rằng:
Một mai giời chuyển, gió rung,
Hoa gạo rụng xuống nằm cùng cỏ may.
Hát xong, đôi bên không nói với nhau câu gì khác nữa. Anh học trò ra về và sau đó cũng không liên lạc gì với người con gái. Nhưng thỉnh thoảng anh chàng lại nhớ đến buổi gặp gỡ thoảng qua nó vẫn còn để lại một dư âm êm nhẹ.
Chừng bốn, năm năm sau, anh học trò thi đỗ cử nhân. Trở về quê, anh ta được các nhà giàu đánh tiếng muốn gả con gái cho. Nhưng ông tân khoa hãy còn phân vân, chưa biết nên chọn đám nào. Có một đêm ông nằm ngủ, mê thấy một cụ già đến bên cạnh nói thật to:
Cây gạo! Cây gạo!
Bách niên giai lão!
Ông ta giật mình tỉnh dậy, đoán cớ sự ứng vào chuyện hôn nhân, suy nghĩ hồi lâu, nhớ ra ngày còn đi học hay ngồi nghỉ nơi gốc gạo cửa chùa làng bên, có lần nói trêu một cô bé hái hoa. Bên tai lại như văng vẳng tiếng hát… Lòng ông bỗng rộn lên một mối tình.
Ngày hôm sau, ông cho người đi dò tin tức, được biết cô con gái đó vẫn còn ở chùa. Ông vội vàng đến dạm hỏi. Bà sư thầy và cô con nuôi nhận lời ngay.
Hôm cưới, bà sư thầy làm bài thơ tặng cô dâu, chú rể:
Cỏ nhờ đất cứng êm chân tựa,
Hoa được mưa chan mỉm miệng cười.
Cỏ ướm lòng hoa, hoa đợi cỏ,
Ba sinh âu hẳn cũng duyên giời.
Rồi đến hôm lại mặt, bà sư như say sưa với hạnh phúc của con nuôi, thốt ra một câu làm cho ông cử và cô vợ vừa ngượng ngùng, vừa cảm động:
“Không ngờ chốn am thanh cảnh vắng này mà lại có đôi vợ chồng về nhị hỉ!”
====
Chồng cũ, chồng mới
Hai vợ chồng nhà kia rất yêu thương nhau. Gặp thời loạn lạc, vợ chồng ly tán mỗi người một nẻo.
Người vợ tản cư lên phương Bắc, dần dần phải chạy vào ở tận trong rừng. May được một người kiếm củi tốt bụng, giúp đỡ nơi ăn chốn ở, lại tìm cho việc làm. Anh này chưa có vợ mà người đàn bà tản cư lâu cũng không biết nương tựa vào đâu cho ổn định. Chồng còn sống hay chết? Khi hết loạn rồi liệu có lại tìm được nhau? Sống lẻ loi một mình mãi chẳng được, cuối cùng đành lấy người kiếm củi.
Ăn ở với nhau đã mấy năm nhưng vẫn chưa có con.
Giặc giã yên, người chồng cũ đi tìm vợ. Hỏi thăm hết vùng này vùng khác, lần mò mãi, anh cũng đến được nơi vợ ở.
Buổi gặp nhau, mừng mừng tủi tủi, nhiều xót thương nhưng cũng nhiều lúng túng. Cả ba người đều thông cảm với nhau nhưng đều dè dặt, chưa biết xử thế nào cho phải.
Người đàn bà muốn dò ý chồng cũ và chồng mới, hát lên rằng:
Muốn tắm mát, lên ngọn cái con sông Đào,
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh.
Đôi tay em vít cả đôi cành,
Quả chín thì hái, quả xanh thì đừng.
Ba bốn năm nay, ăn ở trên rừng,
Chim kêu vượn hót, nửa mừng nửa lo
Em trót sa chân nhỡ bước xuống đò.
Người chồng cũ ôm mặt khóc. Người kiếm củi ngồi trầm ngâm một lúc rồi đến nói với anh ta:
“Chẳng may gặp buổi loạn ly, vợ chồng bác phiêu bạt mỗi người một ngả, tan nát cả gia đình. Bác gái lên đây làm ăn, chung sống với tôi cũng chỉ là nương tựa lẫn nhau lúc khó khăn, tạm gọi là lấy nhau chẳng qua để người ta khỏi eo xèo. Bây giờ bác đã tìm thấy bác gái, vợ chồng lại gặp nhau, tôi cũng mừng cho. Vậy thì bác đem bác ấy về, tôi rất bằng lòng, không có ý gì khác cả.”
Người chồng cũ vui sướng vô cùng, đưa tiền ra để tạ ơn người kiếm củi, người này không chịu nhận.
Khi ra về, người vợ cố ý để quên lại một cái áo, người kiếm củi trông thấy nhưng không nói gì.
===
Nguyễn Hữu Đang
*
Hiến pháp Việt Nam 1946 và Hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ như thế nào?
Bài viết sau đây của Nguyễn Hữu Đang đăng ở vị trí xã luận trên trang nhất và tiếp trên trang 2 của báo Nhân văn số 5, ra ngày 20 tháng 11.1956. Cũng trên trang 2 số báo này có bài của toà soạn nhan đề „Việc Sở Báo chí Trung ương thi hành kỷ luật báo Nhân văn là không hợp pháp“, với tin cuối về việc Văn phòng Phủ Thủ tướng đã hoà giải xung đột giữa Sở Báo chí Trung ương và báo Nhân văn. Tuy nhiên, ngày 15.12.1956, Ủy ban hành chính thành phố Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân văn. Số 6 của Nhân văn không được in. Như vậy Nhân văn số 5 là số cuối cùng.
Người biên soạn
Hiến pháp 1946 của ta, sau khi được Quốc hội thông qua liền bị hoãn thi hành vì tình hình trong nước nghiêm trọng. Nhưng từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, tình hình miền Bắc, mặc dầu còn có nhiều khó khăn kinh tế và cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất gay go phức tạp, cũng phải coi là đã trở lại bình thường rồi. Vậy chúng ta có thể đề ra hoặc việc thi hành Hiến pháp 1956 sửa đổi lại, hoặc việc đặt một Hiến pháp mới.
Có những người nói: „Ta hãy chờ thống nhất xong đất nước, khi đó sẽ có Quốc hội mới, Hiến pháp mới. Miền Nam đã đặt Hiến pháp riêng, nếu miền Bắc cũng lại ban bố Hiến pháp riêng nữa thì công cuộc thống nhất đất nước càng khó khăn“.
Tôi không biết những người nói thế thành thực tới mức nào. Tôi chỉ biết Đảng, Chính phủ và toàn dân miền Bắc đã đồng ý với nhau nhận định là cuộc đấu tranh thống nhất sẽ lâu dài. Nếu trong thời gian lâu dài đó mà miền Bắc không ban bố một Hiến pháp tạm thời nghĩa là không có một nền tảng cho cái lâu đài pháp trị xây dựng lên trên thì mọi việc còn xộc xệch. Như thế thì củng cố làm sao được miền Bắc để tranh thủ miền Nam?
*
Nhất định phải ban bố Hiến pháp.
Toàn bộ một Hiến pháp thích hợp với hoàn cảnh miền Bắc ngày nay phải thế nào, tôi không bàn trong bài này. Ở đây tôi chỉ muốn cả quyết một điều là dù Hiến pháp sẽ được ban bố có nội dung thế nào đi nữa, cái phần bảo đảm tự do dân chủ của nó về căn bản vẫn không thể thay đổi so với Hiến pháp 1946. Vì đó là một điều kiện „không có không được“ của một chính thể dân chủ.
Hiến pháp 1946 ghi:
ĐIỀU THỨ 10: Công dân Việt Nam có quyền:
* Tự do ngôn luận
* Tự do xuất bản
* Tự do tổ chức và hội họp
* Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra ngoài nước
ĐIỀU THỨ 11: Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư từ của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật.
Hôm nay tôi nhắc lại vài điều của Hiến pháp 1946 hẳn có bạn nghĩ: Hiến pháp 1946 là cả một sự nhân nhượng chiến thuật với bọn Quốc dân Đảng Việt Nam được quân đội Quốc dân Đảng Trung Hoa giúp đỡ và những tầng lớp nhân dân mà đại bộ phận lúc ấy chưa ngả theo cách mạng. Mức độ của nó so với ngay hoàn cảnh nước ta năm 1946 cũng chưa đủ, huống nữa là so với hoàn cảnh nước ta ngày nay chính quyền nhân dân đã tiến những bước khổng lồ. Ngày nay lực lượng công, nông đã lớn mạnh, lẽ tất nhiên phải chuyên chính hơn chứ không thể lui lại trình độ gần với dân chủ tư sản như năm 1946.
Thật không còn tư tưởng nào phản dân chủ hơn tư tưởng đó. Và nguy hiểm nhất là nó lại khoác áo “lập trường cách mạng”, lớn tiếng [1] … công nông.
Nghĩ như thế là không nắm vững cái kim chỉ nam trong mọi vấn đề chính sách và pháp trị là: dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch.
Nắm vững phương châm đó, ta thấy rằng những tự do dân chủ là ban bố cho các tầng lớp nhân dân (gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc) thì càng ngày càng phải được tăng cường, mở rộng theo sát bước tiến của cách mạng.
Hãy lấy trình độ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa làm mức sẽ tiến tới của chúng ta. Có phải trình độ cách mạng ở Trung Hoa năm 1954 cao hơn trình độ cách mạng ở Việt Nam 1946 thì quyền tự do dân chủ trong Hiến pháp Trung Hoa 1954 thu hẹp hơn trong Hiến pháp Việt Nam 1946 không?
Không!
Hiến pháp Trung Hoa 1954 ghi:
ĐIỀU 87: Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đều có quyền tự do ngôn luận, xuất bản, hội họp, tổ chức tuần hành thị uy. Nhà nước cung cấp những điều kiện vật chất thuận lợi cần thiết và đảm bảo cho công dân hưởng thụ những quyền kể trên.
ĐIỀU 89: Thân thể người công dân Trung Hoa là bất khả xâm phạm. Bất luận công dân nào, nếu không có quyết định của Pháp viện Nhân dân và phê chuẩn của Viện kiểm soát [2] Nhân dân, thì không thể bị ai bắt giam được.
ĐIỀU 90: Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được pháp luận bảo đảm nhà cửa không bị xâm phạm, thư từ được giữ bí mật. Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa có quyền được tự do cư trú và đi lại.
Đọc đoạn trên này ta thấy Hiến pháp Trung Hoa 1954 buộc Nhà nước phải cung cấp những điều kiện vật chất cần thiết để đảm bảo cho công dân hưởng thụ đầy đủ những quyền tự do dân chủ. Như thế là vừa rộng rãi hơn vừa thiết thực hơn Hiến pháp Việt Nam 1946. Điều đó chứng tỏ chế độ càng tiến bộ, dân chủ càng mở rộng.
*
Liên hệ những điều bảo đảm tự do dân chủ trong Hiến pháp Việt Nam 1946 và Hiến pháp Trung Hoa 1954 với thực tế miền Bắc bây giờ chúng ta thấy gì?
Chúng ta thấy các quyền tự do dân chủ bị hạn chế quá nhiều. Và chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh nghị quyết của hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Đảng Lao động đã nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng tự do dân chủ.
Nhưng tại sao việc đó mới đề ra chứ chưa thực hiện được phần nào mà đã lại có ngay một luồng dư luận chống đối, hình như muốn chuyên chính hơn nữa? Sự thay đổi đột ngột ấy làm cho quần chúng hoang mang, lo ngại.
Chuyên chính với địch thì bao nhiêu cũng chưa đủ và từ trước tới nay có phút nào chúng ta buông lỏng đâu mà phải hô hào? Còn chuyên chính với nhân dân thì cần xét kỹ. Nếu không, hậu quả sẽ tai hại lớn. Nguyên nhân sâu xa của những biến cố ở Ba-lan và Hung-ga-ri là vì thiếu dân chủ, tại sao lại hiểu ra là vì thiếu chuyên chính?
Nhưng dù biện luận thế nào đi nữa thì cũng không thể vứt bỏ được cái nguyên tắc mà ông Lưu Thiếu Kỳ đã nêu ra trong bản Báo cáo về Hiến pháp đọc tại phiên họp đầu khoá thứ nhất của Quốc hội Trung Hoa ngày 15-9-1954:
“Chế độ chính trị của chúng ta tập trung đến cao độ nhưng sự tập trung cao độ ấy căn cứ trên một nền dân chủ cao độ”.
Nói chi dân chủ cao độ, ngay dân chủ trung bình ta cũng còn phải bồi bổ thềm nhiều, thế mà lại muốn chuyên chính hơn nữa thì không có
===
[1]Nguyên bản tờ báo mà tôi có trong tay bị thủng một lỗ nhỏ ở đoạn này, xin được những người may mắn có số báo này nguyên vẹn hơn bổ sung (PTH).
[2]Tên gọi chính thức của cơ quan này tại Việt Nam là Viện Kiểm sát Nhân dân (PTH)
=====
Nguyễn Hữu Đang
Cần phải chính quy hơn nữa
Trong bản báo cáo của ông Khơ-rút-sốp trước Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô có một đoạn nói vắn tắt, gần như lướt qua, mà thực ra rất quan trọng.
Đoạn đó nói về sự quan tâm đặc biệt của Trung ương Đảng đối với vấn đề củng cố nền pháp trị xã hội chủ nghĩa và kết luận:
“Những tổ chức của Đảng, của Nhà nước và các công đoàn phải chú ý với một tinh thần cảnh giác đến việc tôn trọng pháp luật Xô-Viết và tố cáo, vạch mặt bất cứ ai phạm vào nền pháp trị Xô-viết và những biểu hiện phi pháp và độc đoán nhỏ.”
Tại sao sau ba mươi năm kiến thiết chủ nghĩa xã hội với hai lần đặt hiến pháp và nhiều lần chỉnh lý pháp luật cũng như sửa đổi hệ thống và lề lối xét xử của toà án, bây giờ sắp bước vào giai đoạn kiến thiết chủ nghĩa cộng sản, Liên–Xô còn phải đặt vấn đề pháp trị một cách nóng hổi như vậy?
Chính là vì trong bao lâu Stalin đã lạm dụng quyền hành, dung túng bè lũ phản cách mạng Beria, lấy uy thế chính trị mà lũng loạn bộ máy nhà nước, vi phạm nghiêm trọng chế độ pháp trị. Coi thường pháp luật trở thành một tác phong của nhiều cán bộ, của nhiều cấp uỷ Đảng hay cơ quan chính quyền. Biết bao nhiêu công dân lương thiện và đảng viên tốt - kể cả Trung ương uỷ viên của Đảng – đã bị tù đầy, bắn giết oan trong tình trạng đó? Cho nên Đại hội đã phải quan tâm đặc biệt đến việc bảo vệ chế độ pháp trị nó là hiện thân của tinh thần nhân văn, tinh thần dân chủ, tinh thần kỷ luật trong một nhà nước văn minh.
Điều này ở xã hội ta không phải ai cũng công nhận dễ dàng. Vì lòng khinh bỉ của chúng ta đối với pháp lý tư sản lớn quá đến nỗi ở một số đông người nó đã trở thành lòng khinh bỉ pháp lý nói chung. Vì trong cuộc kháng chiến kéo dài và gian khổ, chúng ta đã quen giải quyết mọi công viêc to nhỏ trong không khí gia đình, với tinh thần tuỳ tiện. Chúng ta đã quen dùng cái “linh động” để gỡ cho công việc trôi chảy được mỗi khi vấp phải điều quy định chính xác. Chúng ta đã quen dùng cái “lập trường” để thay cho luật lệ cụ thể.
Và kháng chiến đã thành công, độc lập và dân chủ ít ra đã thực hiện trên một nửa đất nước, nên chúng ta cũng dễ chủ quan, tự mãn tưởng rằng nền nếp cũ vẫn còn có giá trị
Nhầm to. Nếu hiện tượng trên là tất yếu đối với hoàn cảnh chiến tranh du kích thì trái lại, nó không có một lý do tồn tại nào trong hoàn cảnh hoà bình.
Hoà bình lập lại đã hai năm, dù cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất đất nước có phức tạp, gay go thế nào thì cũng không thể coi miền Bắc như ở một hoàn cảnh bất thường để duy trì mãi tình trạng thiếu một nền pháp trị hẳn hoi.
Trong Cải cách Ruộng đất, những việc bắt người, giam người, tra hỏi (dùng nhục hình dã man), xử tù, xử bắn, tịch thu tài sản, hết sức bừa bãi, bậy bạ, cũng như việc bao vây đến làm chết đói những thiếu nhi vô tội trong các gia đình địa chủ (hoặc chính là nông dân mà bị quy sai thành phần), không phải chỉ hoàn toàn do sự lãnh đạo kém cỏi mà còn do thiếu chế độ pháp trị hẳn hoi. Giá các Đoàn Uỷ lúc nào cũng thấy trên đầu họ con mắt dõi theo của thần công lý, giá lúc nào họ cũng thấy văng vẳng bên tai câu nhắc nhở của toà án: "hễ làm trái pháp luật là bị truy tố đấy" thì chắc chắn là họ đã thận trọng hơn và nhiều tai vạ đã tránh được cho nhân dân rồi.
"Giết nhầm sẽ bị kiểm thảo", ý nghĩ ấy có thể là nghiêm chỉnh, nhưng nó mới nhẹ nhàng, thoải mái làm sao!
Sẽ có những người nói: "Sở dĩ nên nông nỗi ấy là vì họ không vững lập trường".
Vững lập trường! Điều đó rất quí nhưng chưa đủ. Không phải cán bộ nào, công dân nào cũng vững lập trường. Và ngày những người thực sự vững lập trường mà không có nền pháp trị tinh vi làm mực thước thì cũng chỉ mới có bảo đảm nhận thức được một cách chung chung về phương hướng và yêu cầu của công việc chứ không có bảo đảm biết làm cho đúng phương pháp, cách thức để đạt tới yêu cầu đó.
Sẽ có những người lo xa: "Đặt ra lắm luật lệ rất dễ đưa đến những bệnh quan liêu, máy móc, hình thức".
Không phải thế. Quan liêu, máy móc, hình thức là những bệnh do thiếu lý luận cách mạng, thiếu đạo đức cách mạng, thiếu nhiệt tình cách mạng. Chẳng biết ít lệ luật sẽ giúp cho việc tránh các bệnh ấy được đến đâu nhưng nhất định không ai có thể chối cãi điều này: ít lệ luật là một điều thuận tiện cho sự lạm quyền, độc đoán.
Nhiều lệ luật cũng vẫn có kẻ lạm quyền, độc đoán được. Những điều đó chỉ dễ thực hiện trong chế độ cũ, luật lệ đã mang sẵn tính chất thực tế thì không biết mà dùng, không có đủ thế lực mà dùng. Còn trong chế độ ta, nhân dân có đủ cả quyền hành, ý thức và lực lượng để dùng luật lệ, bảo vệ luật lệ, thì họ sẽ không để cho những kẻ kia lạm quyền, độc đoán mãi.
Một nền pháp trị đầy đủ sẽ là một bảo đảm vững chắc cho tính chất dân chủ của chế độ ta. Nó sẽ là đường “rày” cho đoàn xe lửa chở dân tộc ta chạy lên chủ nghĩa xã hội thật nhanh mà không trệch.
*
Do pháp trị thiếu sót mà Cải cách Ruộng đất hỏng to đến thế. Do pháp trị thiếu sót mà quân đội chưa có chế độ binh dịch hợp lý, công an hỏi giấy giá thú đôi vợ chồng ngồi ngắm cảnh trăng lên ở bờ hồ, hộ khẩu rình bên cửa sổ khiến người ta mất ăn, mất ngủ, cán bộ thuế tự tiện vào khám nhà người kinh doanh, ở khu phố có chuyện đuổi nhà lung tung hoặc ép buộc người ở rộng phải nhường lại một phần nhà cho cán bộ hay cơ quan ở. Do pháp trị thiếu sót mà nhiều cơ quan bóc xem thư của nhân viên và một ngành rất quan trọng nọ đòi thông qua những bài báo nói đến mình, làm như một bộ phận của Nhà nước lại có quyền phục hồi chế độ kiểm duyệt mà chính Nhà nước đã bãi bỏ. Do pháp trị thiếu sót, người ta đã làm những việc vu cáo và đe doạ chính trị trắng trợn, ngăn cản việc mua đọc báo Nhân văn, hành hung báo Trăm hoa v.v…
Tưởng đã đến lúc nhân dân phải tích cực bảo vệ chế độ bằng cách tố cáo những hành động phi pháp ở bất cứ trường hợp nào đã có luật lệ rồi.
Về mặt xúc tiến xây dựng ngay một chế độ pháp trị đầy đủ, tinh vi, chúng tôi đề nghị:
Thi hành Hiến pháp (hoặc là Hiến pháp 1946 sửa đổi cho thích hợp với hoàn cảnh ngày nay, hoặc là Hiến pháp mới sẽ đặt ra). Trên cơ sở Hiến pháp, Quốc hội sẽ biểu quyết những đạo luật thay các sắc lệch và nhiều văn kiện khác.
Quốc hội họp đều, sáu tháng một kỳ. Không có lý do trong hoàn cảnh hoà bình mà công việc của Quốc hội vẫn khoán trắng cho một Ban thường trực gần như không hoạt động gì.
Chấn chỉnh ngành tư pháp, chủ yếu là tăng quyền hành thực sự của Bộ tư pháp.
Chúng tôi tin rằng toàn thể các tầng lớp nhân dân đều đồng tình với chúng tôi về ba đề nghị trên. Vì nhân dân thiết tha mong được sống trong một xã hội chính quy hơn nữa.
Để mọi quyền làm ăn, sinh hoạt và tự do dân chủ khỏi bị xâm phạm.
Để được thoải mái góp phần kiến thiết quốc gia.
12-10-56
Nguồn: Báo Nhân văn số 4, trang 1 và trang 5, số ra ngày 5.11.1956.
==
=
Hai lá thư của ông Nguyễn Hữu Đang
Nhà thơ, nhà báo Hoàng Hưng vừa chuyển cho talawas hai lá thư ông Nguyễn Hữu Đang gửi cho ông, cũng là gửi cho các đồng nghiệp ở báo Lao Động vào năm 1993 - 1994. Được sự đồng ý của Hoàng Hưng, talawas công bố toàn văn hai lá thư này để bạn đọc thấy được tinh thần kiên nhẫn, lạc quan của người cựu lãnh đạo phong trào Nhân văn-Giai phẩm trong hoàn cảnh đói nghèo cũng như tính cách nghiêm túc, cẩn trọng của một nhà báo lão thành đối với công việc viết và làm báo, khi ông ở tuổi 80, và 20 năm sau khi ra tù.
talawas
Thư số 1
Hà Nội, ngày 10-11-1993
Anh Hoàng Hưng thân mến,
Tôi gửi vào lời ân cần hỏi thăm sức khoẻ, sinh hoạt và công việc của anh và của các bạn tốt đã quan tâm đến đời sống của tôi với tình nhân ái cao quí. Một lần nữa, tôi khẳng định lòng biết ơn sâu sắc của tôi đối với thịnh tình của các bạn. (Xin nói rõ: tôi đã rất phấn khởi nhận được đầy đủ các món quà của các bạn mà anh em ngoài này gọi là “lộc” [1] ).
Hôm anh trở về, tôi không biết trước để đến cùng anh chia tay, tôi rất tiếc và xin anh thứ lỗi. Từ sau buổi gặp anh, tôi vẫn có ý muốn gửi vào trong ấy một cái gì làm món quà mọn tỏ mối quan hệ thân thiện giữa chúng ta, mối quan hệ mà tôi mong càng ngày càng phát triển tốt đẹp.
Các bạn hãy coi như chúng ta gặp nhau, cùng nhau nói chuyện vui vẻ, thân mật và tôi cao hứng cho các bạn nghe một bài thơ, kể cho các bạn nghe một câu chuyện yêu đương thời còn trẻ. Quà suông thế đấy!
Thơ thì tôi ít lắm nhưng cũng có sẵn một bài làm trong trại giam năm 1960 nhân nghe một người đồng cảnh ngâm mấy câu thơ của Vũ Hoàng Chương là bạn học với tôi hồi còn nhỏ. Tôi chép gửi vào để các bạn đọc cho biết một vài cảm nghĩ của tôi, cách đây ba mươi ba năm, về tình nhân loại vẩn đục những tội ác của chủ nghĩa Xtalin, chủ nghĩa Mao Trạch Đông, chủ nghĩa đế quốc Mỹ… chủ nghĩa phát xít đã qua hay biến dạng và những hành động duy ý chí tổn hại vô ích.
Chuyện thì có đoạn hồi ký tôi mới viết gần đây. Tôi ghi lại hoàn toàn đúng sự thật, có sai chệch chút ít thì cũng chỉ trong chi tiết nhỏ, thí dụ lời lẽ những câu đối thoại (trí nhớ không thể trung thành như máy ghi âm). Nếu các bạn thấy câu chuyện “có vẻ tiểu thuyết” thì lý do chính bản thân sự việc nó như thế, nó giống nội dung một cuốn tiểu thuyết nào đó một cách ngẫu nhiên chứ không do tôi thêu dệt. Các bạn biết đấy, sự thật nhiều khi vượt xa hư cấu hoặc trùng hợp với hư cấu.
Cũng xin bộc lộ là chính vì lý lo cái “vẻ tiểu thuyết” dễ gây nghi ngờ mà trong đoạn hồi ký này tôi đã phải bới đi hai tình tiết có thật không quan trọng:
1. Trên thực tế, trong buổi đầu tôi gặp Huyền Nhiên ở giữa đường, có cả cô em Huyền Nhiên xấp xỉ tuổi chị. Trong bài viết tôi phải loại bỏ sự thật có mặt của cô ta để khỏi giống đoạn đầu Truyện Kiều.
2. Trên thực tế, còn có một người anh họ xa của Huyền Nhiên cũng yêu Huyền Nhiên tha thiết mà không được Huyền Nhiên đáp lại. Trong bài viết tôi phải loại bỏ sự tồn tại của anh ta để khỏi giống Đoạn tuyệt của Nhất Linh có nhân vật Thân (tầm thường) bên cạnh nhân vật Dũng (xuất sắc) cho Loan so sánh, lựa chọn trong lòng.
Ngoài ra, để tránh sự phản ứng có thể sẽ có ở phía chồng và các con của Huyền Nhiên đang sống ở Sài Gòn – do câu nệ hay hẹp hòi, không muốn ai nói động đến chuyện yêu đương cũ dù là đúng đắn của người thân đã khuất, tôi gọi chệch các tên thật (… [2] ). Thế thôi.
Tôi gửi bài hồi ký vào, trước nhất để các bạn đọc cho vui, nhưng nếu anh thấy có thể đăng báo và chuyển đến tờ Lao Động mà các bạn đang góp sức đẩy mạnh, thì tôi càng hoan nghênh. Tôi vẫn có thiện cảm với tờ báo ấy. [3]
Trong trường hợp đăng được, tất nhiên tôi phục tùng quyền sửa chữa và quyết định tối hậu của Ban biên tập, nhất là việc cắt bớt thì không nên dè dặt, miễn là có chỉ rõ chỗ cắt bằng ba dấu chấm (…).
Về đầu đề, có thể dùng "Bộ vòng xơ-men" hoặc "Bộ vòng giao ước", tùy Ban biên tập chọn.
Bài hơi dài, không nhất thiết phải đăng ngay, có thể giữ lại, đăng vào số Tết có nhiều trang.
Trong trường hợp không đăng được, anh cứ tin là vẫn vui vẻ cả và anh hãy yên tâm giữ bản thảo lại làm vật lưu niệm (tôi đã viết sẵn câu đề tặng [4] ). Anh chỉ cần báo cho biết càng sớm càng tốt bằng thư gửi qua Phùng Quán (Ngõ số 10, cạnh trường Chu Văn An, đường Thụy Khuê, quận Ba Đình, Hà Nội.)
*
Dưới đây là đôi nét về tình hình tôi hiện nay mà dĩ nhiên là bài Phùng Quán viết về tôi không thể nào nói rõ vì Quán đến thăm tôi đầu năm 1991, từ bấy đến nay đã gần ba năm, trong thời gian ấy người ta đã có thay đổi một phần cách đối xử với tôi cũng như với những anh em Nhân văn khác, xin báo cáo tỉ mỉ cùng các bạn quí:
1. Người ta không chính thức công bố sửa sai, phục hồi theo tinh thần Đại hội VI, cứ đối xử khác đi để ai chú ý thì ngầm hiểu như thế. Vấn đề là giữ ý thế nào đó.
2. Người ta trả lại chế độ hưu trí nhưng ấn định mức lương một cách tuỳ tiện chứ không kể cấp bậc, không tính thâm niên. Đáng lẽ, phải xếp tôi tối thiểu chuyên viên 7, nhưng chỉ xếp chuyên viên 5.
3. KGB không còn gây phiền hà hay xử sự thô bạo như trước. Ít ra, bề ngoài tôi cũng bình thường như mọi người dân lương thiện.
4. Hoạn quan, bồi bút không còn lên gân đả kích, qui chụp, chỉ thỉnh thoảng nói mơ hồ “vụ Nhân văn–Giai phẩm đã giải quyết xong rồi”.
5. Hội Nhà văn thay Hội Văn nghệ cũ nhận là cơ quan chủ quản của tôi (được coi là cán bộ biên tập của Hội đã về hưu).
Hằng năm, đến Tết có biếu quà mừng tuổi. Vào dịp kỷ niệm 40 năm xuất bản báo Văn Nghệ có mời đến chiêu đãi riêng và tặng 100.000đ. Nhân dịp anh em văn nghệ sĩ mừng thọ tôi 80 tuổi, có cử Hữu Mai đại diện đến chúc mừng và tặng quà.
6. Nhà xuất bản Văn Hoá đã ký hợp đồng ấn hành một tập hồi ký 200 trang của tôi.
7. Một số tờ báo sẵn sàng đăng bài hiền lành nhưng tôi chỉ mới hứa hẹn (trừ tờ Nghệ thuật Điện ảnh đã đăng hai bài).
8. Chưa được hưởng trợ cấp lão thành cách mạng tuy có đủ tiêu chuẩn. Vì đã phạm kỷ luật nghiêm trọng (Không cần biết việc thi hành kỷ luật đã được xét và sửa sai).
9. Chưa được phân phối một căn hộ hai phòng để có chỗ sống là phụ, có chỗ chết là chính. Đã tích cực đề nghị mà chưa được trả lời
10. Nói tóm tắt một câu thì việc sửa sai, phục hồi đối với tôi mới chỉ được thực hiện nửa vời, chiếu lệ.
Chắc chắn tôi sẽ chết trước khi được xã hội trả lại đầy đủ sự công bằng theo lương tri chứ không phải sự “công bằng” theo những nguyên tắc qui định của một tổ chức.
Song song với cách đối xử mới của người ta bước đầu như trên, tôi đã tự mình xây dựng cuộc sống chuyển hướng trên cơ sở:
1. Sức khoẻ tốt: không có bệnh mãn tính nặng, không hay ốm đau lặt vặt. Cơ thể có suy nhược theo tuổi già như tai, mắt răng, đầu gối, động tác phản ứng… đều kém đi nhưng cũng còn tạm đủ dùng ở mức trung bình. Có bốn cái khoẻ: ăn khoẻ, ngủ khoẻ, nói khoẻ, đi xe đạp khoẻ. Trong lứa tuổi tám 80, thuộc loại khá.
2. Trí tuệ minh mẫn tuy trí nhớ yếu. Việc cũ nhớ nhiều, nhớ kỹ, việc mới hay quên. Còn đủ năng lực viết lách, viết báo, thuyết trình, thảo luận.
3. Sinh hoạt hàng ngày theo nếp “ba ít”: ít vật chất, ít quan hệ, ít quan tâm. Tiêu dùng đại tiết kiệm. Thiếu sách báo, tài liệu để bồi dưỡng kiến thức. Không có đồng hồ, rađiô, tivi. Quần áo, chăn màn tạm đủ. Xe đạp tồi. Đối nhân xử thế sòng phẳng, chung sống hoà bình.
4. Tình cảm: sống với bạn bè là chính, tìm được ở những người thân tình yêu thương, quí trọng, giúp đỡ ân cần. Ngoài ra cũng có nhiều người quen biết hay không quen biết tỏ thiện cảm. Đó là niềm an ủi. Tự xét mình lương thiện, chưa bao giờ làm hại cá nhân hay xã hội. Đó là niềm tự hào.
5. Tư tưởng, về căn bản theo học thuyết Lão, Trang. Chấp nhận, phục tùng khách quan; thích ứng với môi trường; coi nhẹ các vấn đề đấu tranh cải tạo, cống hiến, công bằng xã hội, tiến hoá loài người v.v… Cụ thể về chính trị, cứ nhắm mắt theo đuổi tuyệt đại đa số quảng đại quần chúng nhân dân; làm nghĩa vụ công dân ở mức độ tối thiểu cần thiết; không cần phân biệt chủ nghĩa nào, chế độ nào, đảng phái nào. Chỉ cần hai chữ “bình yên”.
Trong hoàn cảnh tuổi già, thanh bần, đứng ngoài lề xã hội, lý do tồn tại của tôi những năm còn lại là sống để xem và thưởng thức cái xem.
6. Hoạt động tinh thần: nói thưởng thức cái xem là nói cảm nghĩ trong khi xem. Tôi tranh thủ những giờ nhàn rỗi (không xem) để viết những cảm nghĩ trong khi xem. Viết chơi như người ta chơi cây cảnh, không khẩn trương, không cố gắng xuất bản hay không xuất bản không thành vấn đề. Không cần danh, lợi hay ảnh hưởng.
7. Để dành tiền: một câu hỏi lớn day dứt là “sẽ chết ở đâu?” Bởi vậy những món tiền mà bạn bè và những người thương yêu san sẻ, giúp đỡ, tôi không dám tiêu ngay. Phải gửi ngân hàng để tích lũy, phòng xa người ta nhất định không phân phối cho một căn phòng, cùng đường phải tự lực làm một gian bán mái bám vào chái nhà ai đấy thì tôi cũng có thể góp phần mình với các nhà hảo tâm.
Tình hình tôi mọi mặt hôm nay đại thể là như thế. Không dám chắc rồi đây tôi sẽ có thêm được cái gì tốt hơn không. Dù sao tôi cũng đã quen chịu đựng số phận bất hạnh, chỉ mong khổ vừa vừa. (Tiện đây cũng xin báo cáo thêm là tôi tin có định mệnh và do đó tôi nhận thức loài người là một bầy con rối.)
Anh Hoàng Hưng ạ,
Trên kia tôi có nói về tư tưởng tôi theo học thuyết Lão, Trang song nói cho thật đúng thì là tôi hướng theo, mà lại chỉ mới hướng theo ở một vài điểm nào đấy thôi. Học thuyết ấy quá cao siêu, tôi không có đủ trình độ và bản lĩnh để lĩnh hội được hết và áp dụng được thoả đáng. Nói nôm na, tôi chỉ mới dựa vào quan niệm “vô vi” để kiên định thái độ “tiêu cực cầu an”, không còn sợ “tiêu cực cầu an” là hèn. Trái lại, tôi ngang nhiên khoe mình “tiêu cực cầu an” vì đó là chân lý, là con đường đi tới hạnh phúc – “tiêu cực cầu an” có lý tưởng, có lập trường vậy.
Chưa cần tìm hiểu sâu xa gì lắm, chỉ cần biết một điểm này: Lão Đam khuyên dạy người đời cái lẽ “tri túc”: Hãy tự lấy làm bằng lòng với những cái gì mình đang có. Đấy là bí quyết để sung sướng, ít ra cũng là bí quyết để tránh bấp bênh, vất vả, bảo đảm bình yên.
Tôi thật lòng muốn học đòi “tri túc” để biến cái thiếu khách quan, phàm tục thành cái đủ chủ quan tiên tử.
Chúc các bạn trong ấy vui, mạnh, thành công và “tri túc”.
Xiết chặt tay và mong gặp lại
Nguyễn Hữu Đang
Bài thơ gửi kèm thư số 1
Quán trọ hành tinh
Gửi Vũ Hoàng Chương, nhà thơ Đạo học
Nguyễn Hữu Đang
Anh “đến nhân gian lạc bến bờ
Tìm sông lưu lạc, núi bơ vơ ” (1)
Biết chăng sầu oán vùi tâm thức
Máu đẫm tay người ngập phím tơ
Bước chân lịch sử đi không vội
Tơ nhện thiên đường dệt giấc mơ
Ngày đêm vô vạn hành tinh vỡ
Lặng ngắt thinh không vũ trụ mờ
Yên Bái, 1960
N. H. Đ.
(1) Lời thơ Vũ Hoàng Chương:
“Ta đến nhân gian lạc bến bờ
Tìm sông lưu lạc, núi bơ vơ” (NHĐ)
Thư số 2
Hà Nội ngày 6-6-1994
Anh Hoàng Hưng thân mến,
Tôi gửi vào lời ân cần hỏi thăm anh, gia đình anh và các bạn quí Trần Trọng Thức, Tống Văn Công, Lưu Trọng Văn, Hoàng Thoại Châu, Lê Phú Khải và tất cả nhân viên báo Lao Động trong ấy mà tôi mong sẽ có dịp được quen biết.
Tình hình tôi vẫn bình thường, nghĩa là khoẻ, tỉnh tỏ và tạm đủ no ấm. Đang tiến hành chuyển cư lên ở hẳn Hà Nội dù chưa có nhà được thuê và chưa có khẩu chính thức thường xuyên. Việc đề nghị được phân phối thuê nhà đã có triển vọng sẽ được giải quyết. Người ta hứa chắc chắn, còn mình thì cứ chờ đợi trường kỳ, chỉ mong sẽ có nhà riêng trước khi chết. Còn món trợ cấp lão thành cách mạng 140.000 đ /tháng thì người ta trả lời dứt khoát là không được hưởng vì đã “phạm kỷ luật nghiêm trọng”, muốn được hưởng thì phải xin xoá bỏ việc thi hành kỷ luật cũ đã. Chuyện khó đấy vì người ta chỉ muốn giải quyết sửa sai nửa chừng. Tại sao, anh có thể hiểu, tôi nói ra thêm phiền. Nhưng cũng không vì thế mà tôi chấp nhận. Sẽ còn khiếu nại – cũng trường kỳ như kháng chiến, như chờ đợi nhà riêng.
Nhắc lại việc tử tế mới đây:
Sau khi nhờ Phùng Quán chuyển đến anh bài “Bộ vòng xơ-men”, tôi trở về quê Thái Bình, mãi đến giáp Tết Nguyên đán mới lại lên Hà Nội. Ở quê, đầu tháng 12-1993 được tin Lao Động đã đăng hai kỳ “Bộ vòng xơ-men” tôi bèn đi tìm mượn đọc mà chẳng kiếm đâu ra [5] . Muốn mua ở thị xã, chẳng có nơi nào bán. Đành vào thư viện tỉnh đọc nhờ – phải đạp xe 12 km, không phải chuyện đùa. (Lưu ý các anh về việc phát hành. Có lẽ ít quá không đủ bán chứ không phải bán chạy, chóng hết đến thế). Rất cảm ơn các anh về sự quan tâm và cũng rất hài lòng về cả ba mặt giới thiệu, biên tập và trình bày. Riêng về bản in thì mất một từ, sai hai từ, không đáng kể. (Chỉ mong L.Đ. phấn đấu đạt tới trình độ tuyệt đối không in sai một chữ mà sách báo nước ngoài đã thực hiện được từ lâu).
Ngày 28 tháng Chạp âm lịch tôi lên Hà Nội, đến nhà Quán đúng lúc Quán vừa từ trong Nam trở ra. Quán đưa cho tôi thư của anh kèm với 500.000đ nhuận bút. Mừng lắm. Thư cho biết dư luận tốt về bài báo và tình cảm nồng hậu của anh em. Còn nhuận bút thì so với ngoài này là khá. Nhân dịp này cũng xin khẳng định rất thật thà là tôi tuy nghèo mà cũng chẳng cao đạo gì nhưng ít chú trọng tiền công trong những việc làm mà tôi thích. Các anh giúp cho như thế là quí; nhiều, ít không thành vấn đề, đừng bao giờ các anh e ngại không đáp ứng sự mong muốn của tôi mà các anh tưởng là cao trong khi sự thật lại là tôi không cầu kỳ, đòi hỏi.
Tiền nhuận bút tôi vẫn chưa dám tiêu, cứ còn phải gửi ngân hàng phòng xa rồi đây có thể phải làm túp lều để có chỗ chết như tôi đã nói với anh – biết đâu căn buồng mà người ta hứa lại chẳng là bánh vẽ? Rất tiếc là Quán đã lười không chịu đem ra cho tôi những số L.Đ. mà các anh dành cho theo tiêu chuẩn quyền tác giả. Tôi lên thủ đô muộn, báo L.Đ cũ nếu còn lại cũng khó tìm thấy, thế là lại tốn công lùng khắp nơi quen biết để xin lấy đem photocopy tặng bạn bè, việc kéo dài lai nhai đến nửa tháng mới xong. Tôi oán trách Quán thấu trời.
Sau khi “Bộ vòng xơ-men” được hoan nghênh, tôi đã có hứng viết ngay một bài định gửi đăng vào L.Đ. số Tết, nếu không kịp thì vào số Xuân. Viết về đề tài tiếu lâm để vui đùa với bạn đọc một chút vào dịp năm mới. Viết công phu tôi tin là sẽ hấp dẫn và có ích. Bài viết xong, cũng gửi cho Phùng Quán để nhờ chuyển chẳng ngờ Quán đi vắng, mình nằm ở quê đâu có biết, thành ra bài ứ đọng. Quán trở về, Quán đọc, Quán không tán thành tôi vui đùa trên báo bằng tiếu lâm vì “dù sao tiếu lâm cũng vẫn còn bị nhiều người cho là nhảm”. Quán cứ muốn tôi lúc nào cũng đúng mực, nghiêm chỉnh, thậm chí đạo mạo, theo quan niệm cũ cố nhiên.
Tuy không đồng ý hẳn với Quán, tôi cũng khiêm tốn nghe theo dè dặt, tạm hoãn gửi đăng báo, giữ lại để sửa chữa thật kỹ cho chín chắn; nếu đông đảo anh em tán thành, ủng hộ thì sẽ đăng vào số Tết cuối năm nay. Đầu đề là “Truyện tiếu lâm bên lề một hội nghị văn hoá” (Hồi ký kháng chiến). Bản thảo hoàn chỉnh, tôi sẽ chụp photocopy gửi cho anh một bản để các bạn quí cùng bình luận và góp ý kiến với tôi. Không vội, còn sáu tháng nữa để nghiên cứu và quyết định.
Ngay bây giờ, tôi gửi đến anh bài kèm đây để anh làm việc với Ban biên tập báo L.Đ. “Vật khinh, hình trọng”, chưa biết bài sẽ được đánh giá thế nào, tôi cũng màng cả năm đề nghị:
1. Nhận được là đăng ngay chứ không giữ lại để đăng vào dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám hay dịp Quốc khánh. Đăng càng sớm càng tốt.
Vì tôi không muốn bài chìm ngập trong vô số bài cùng đề tài mà tất cả các báo đều có bổn phận đóng góp vào các dịp ấy. Chừng ấy, bài báo dễ bị độc giả không chú ý hoặc coi thường, hoặc đã thưởng thức quá tải những bài khác đến chán ngấy rồi.
Tôi nghĩ thế. Nếu các anh nghĩ trái lại thì tôi đành xin thua. Các anh là Bộ Chính trị của tờ báo, tôi phải phục tùng.
2. Về mặt biên tập: Nếu không dùng toàn văn bản thảo vì thấy dài quá đối với khuôn khổ tờ báo (không muốn đăng hai, ba kỳ) thì cứ cắt bỏ thoải mái, cắt bỏ bao nhiêu cũng được. Chỗ nào tôi thích mà bị cắt bỏ tôi sẽ lấy lại trong tập sách 200 trang đã ký hợp đồng với NXB Văn Hoá. Tất nhiên những chỗ sai, hỏng đều phải sửa đổi.
Tuy vậy có một đoạn tôi xin được giữ nguyên văn. Đó là đoạn “Riêng tôi lúc ấy… sau thời điểm chào cờ hôm ấy” (trang 6). Vì đó là một thứ “tuyên ngôn độc lập cá nhân”. Các anh hãy độ lượng, thông cảm chứ đừng chê là khó tính.
3. Về đầu đề (tên bài, “tít”): Tôi giới thiệu mấy tên sách mà tôi định dùng để các anh tham khảo:
- Tên chính: “Ngày khai sinh vĩ đại”, “Ngày khai sinh lớn”, “Ngày khai sinh lừng lẫy”
- Tên phụ: ở dưới, chữ nhỏ hơn, trong ngoặc đơn: “Nhớ về Ngày Độc lập 2-9-45”
Còn tên bài báo (đầu đề, “tít”) thì có hai trường hợp:
a. Không cắt bỏ chỗ nào hoặc cắt bỏ không đáng kể:
- “Tít” chính: có thể là một trong ba tên dự kiến cho sách.
- “Tít” phụ: ở dưới, chữ nhỏ hơn, trong ngoặc đơn: “Ấn, kiếm nhà Nguyễn – Tuyên ngôn Độc lập”
b. Cắt bỏ nhiều, hết hoặc gần hết những chỗ có khoanh nét đỏ, nội dung thu gọn lại trong đề tài ấn, kiếm đơn thuần; chỉ đặt một “tít”: “Ấn, kiếm vương quyền nhà Nguyễn trên lễ đài “Ngày Độc lập” 2-9-45”
4. Về minh hoạ (tranh, ảnh):
Nếu L.Đ. không có ảnh tốt hơn thì có thể dùng hai hay một ảnh kèm đây.
- Ảnh màu chụp một bức tranh vẽ theo ảnh, căn bản đúng hiện thực nhưng cũng có tô điểm thêm vài ba chi tiết (hiện bày trong Viện Bảo tàng Lịch sử). Nên dùng.
- Ảnh đen trắng nhỏ đã in trên báo, chụp ảnh lúc Chính phủ Lâm thời vừa bước lên mặt lễ đài (x. tr. 6 bản thảo). Từ trái sang phải: Nguyễn Văn Tố, Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Dương Đức Hiền, Vũ Trọng Khánh, Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Hữu Đang. Ảnh này dùng xong gửi trả lại tôi.
Theo ý tôi dùng một ảnh màu (toàn cảnh cuộc mít tinh) là đủ đẹp. Chân dung cụ Hồ đăng vào dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám hay Quốc khánh long trọng hơn.
- Ảnh đen trắng to chưa in trên sách, báo lần nào, mờ quá, tôi gửi đến để các anh xem cho biết. Trong ảnh, cụ Hồ đã đội mũ chứ không để đầu trần như lúc mới lên lễ đài, lúc này vẫn chưa có người che ô. Áo của ông cụ ở đây màu thẫm, có thể không phải bằng kaki (tôi không nhớ rõ). Trong ảnh, lại có hình một người đang chụp ảnh hay quay phim (Mai Trung Thứ?) là điều mà tôi chưa bao giờ nhớ được, cứ yên trí là đã không cho ai bước lên lễ đài ngoài Chính phủ Lâm thời và ông Nguyễn Lương Bằng. Phía sau người chụp ảnh hay quay phim, đứng lùi vào mé trong là Nguyễn Hữu Đang. Ảnh này xem xong cũng gửi trả lại tôi.
5. Về xã giao:
Thể nào ở cuối bài cũng ghi “Trích hồi ký sẽ do NXB Văn Hoá ấn hành năm 1995”. Đó là điều kiện tôi đã cam kết với NXB để họ đồng ý cho trích bản thảo (đã ký hợp đồng) đăng báo trước. Chú ý: ghi rõ “NXB Văn Hoá”. Chuyện có đi có lại.
Cuối cùng, tôi muốn đề ra nguyên tắc cho tất cả những bài tôi gửi đăng trên L.Đ. là:
- Không đăng thì báo cho biết ngay bằng thư gửi qua Phùng Quán (Ngõ số 10, cạnh Trường Chu Văn An, đường Thụy Khuê, HN)
- Không cần trả lại bản thảo.
- Đăng được thì báo cho biết sau khi chấp nhận bản thảo, thư cũng gửi qua Phùng Quán. Tôi cần biết sớm để kịp đón mua báo hoặc đến lĩnh báo ở 51 Hàng Bồ mà các anh dặn trước [6] .
Có đăng mà tôi không biết đủ sớm thì tôi cũng dễ mất phần như chuyến “Bộ vòng xơ-men” vừa rồi.
Xin phản ảnh với các anh một nét tồi trong sinh hoạt hằng ngày của tôi bây giờ là nếu cứ ở nhà thì không được đọc một tờ báo nào, không có một tờ báo nào để đọc.
Chúc anh mạnh khoẻ, vui vẻ, sẵn tiền, vợ đảm, con ngoan, tự do, bình đẳng.
Chào “công bằng, văn minh thật”.
Nguyễn Hữu Đang
T.B.:
1. Sau khi đã hoàn thành bản thảo hồi ký 200 trang về “Ngày Độc lập” để sòng phẳng với NXB Văn Hoá, nghĩa là từ tháng 9 mùa thu sắp tới tôi sẽ có thể viết một số bài cho L.Đ.. Tôi chỉ sợ không nắm vững nhu cầu của tờ báo (vì ở xa các anh và không có báo để theo dõi nội dung báo) chứ không sợ thiếu nhiệt tình.
2. Gần đây Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương có soạn một tài liệu chống những hoạt động phá hoại an ninh chính trị, gửi cho các đảng ủy địa phương dùng, cụ thể là để tất cả các chi bộ Đảng học tập. Đoạn cuối tài liệu có một câu qui cho Phùng Quán đã tiếp tay cho nhóm Nguyễn Hộ chắc anh đã biết rõ. Rồi đây Quán sẽ có thư kể lại đầu đuôi sự việc. Trong thư này tôi chỉ có thể khẳng định một câu là Phùng Quán oan, C.A. đã báo cáo sai và Ban TTVH T.Ư. đã thiếu xác minh thận trọng.
Mặt khác, chắc Quán sẽ đấu tranh thanh minh, nhưng cũng còn lâu mới giành được sự công bằng, và trong khi đó thì Quán mang tiếng thế nọ thế kia, rất thiệt hại. Quán đã phải tính đến nước kiện Ban TTVH T.Ư. trước toà án về tội vu cáo nếu họ không chịu sửa sai đến nơi đến chốn.
Không hiểu những người có quyền phân xử sẽ giải quyết êm thấm, hay là sẽ lờ đi, coi như chẳng có chuyện gì, hay là sẽ trấn áp người khiếu tố? Dù sao tôi cũng tin rằng Việt Nam cũng như Trung Quốc, chỉ đổi mới kinh tế, chưa đổi mới chính trị.
Nhưng thôi, anh Hưng ạ, năm mươi năm qua những sự việc bất ngờ lớn trong nước, ngoài nước đã dạy cho chúng ta những bài học lớn mà kết quả là chúng ta đã biết nghĩ và sống cao hơn những chuyện đấu đá “thiệt mình mà chẳng ích gì cho ai”.
Chính tập Người đi tìm mặt [7] của anh cũng đã xa lánh những đao to búa lớn, xa lánh những Don Quichote.
3. Ban đầu tôi nghe người ta nói Hoàng Hưng mới cho ra một tập thơ như sự thách thức với cái tên ngang ngang Tôi vẽ mặt tôi (!). Phùng Quán phải đi mua với giá 7.000đ. Tôi mượn đọc. Đọc chưa kỹ, chưa hiểu lắm nhưng đã thấy có cái gì như những cảm giác siêu thực: “Đường phố 1”, “Đường phố 2”, “Đường phố 3” rồi “Sốt”:
“Tôi bồng bềnh tôi nở chật không gian
Tôi nhìn tôi bay khỏi đất”
Chương “Nhập môn” sẽ làm cho tôi tự ty là người ngoại đạo. Tôi tạm coi những bài trong đó là thần chú hay mật mã.
Trái lại, bài “Định mệnh” đã giúp tôi nhích lại gần thơ anh, nhất là hai câu:
“Em bi phẫn ở hiền sao gặp ác
Ác ở trong hiền chứ ác ở đâu”
thì tôi lấy làm tâm đắc lắm. Nếu có dịp bình luận hai câu đó, tôi sẽ viết một trăm trang sách. Càng thấm thía hơn đối với tôi là bài “Người về” mà tôi thấy đề tài và chủ đề trùng hợp – song mở rộng hơn, khơi sâu hơn – với một bức danh hoạ của Répine (Nga). Có thể nói câu:
“Bước vào cửa người quen tái mặt”
của anh đã được Répine minh hoạ chính xác, đầy đủ. (Anh có thể tìm xem bức tranh này trong tuyển tập tranh Répine do Liên Xô xuất bản, chú thích bằng Pháp văn, đã bán ở Hà Nội, hiện tôi đang có). Tên bức tranh là: "Những người không ai chờ đợi” nói tình huống bi thảm của những người tù đày chính trị từ Siberie trở về gia đình, bị xa lánh.
Thôi nhé, thư quá dài rồi, tôi dừng bút.
Nguyễn Hữu Đang
Tiện đây, tôi gửi tặng anh tấm ảnh để tỏ tình thân và ghi lại việc tôi đã tìm thấy mặt không vui, không buồn, không thiện không ác, như thế là như thế.
"Tuyên ngôn độc lập cá nhân" của ông Nguyễn Hữu Đang (Trích trong bài viết về lễ Tuyên ngôn Độc lập)
… Riêng tôi lúc ấy, tâm trạng không đơn giản. Bên cạnh sự kính trọng của tôi đối với nhà cách mạng lão thành ở cương vị đề xướng, thiết kế, hướng dẫn, lúc ấy tôi còn có niềm tự hào cá nhân về tư cách mình là một trong những người hưởng ứng, thi công, thực hiện, "góp gió thành bão". Từ tuổi thiếu niên, bước theo con đường của Ông Cụ, tôi đã đạt một số thành tích khiêm tốn và hy vọng sẽ làm được hơn. Đường còn dài, cuộc sống còn nhiều thử thách song tôi vẫn lạc quan. Sau mười lăm năm hoạt động xã hội, tôi đã trưởng thành! Quan tâm đến bản thân, tôi chợt nghĩ: dù tận tụy, hy sinh vì công ích đến đâu cũng không ai có thể hoàn toàn vô tư. Chủ động hay không, ai cũng thể hiện mình theo xu hướng tự nhiên, trong những điều kiện khách quan và bằng cái vốn tự có. Tham gia phong trào giải phóng dân tộc có định hướng xã hội chủ nghĩa (4), tôi đã thể hiện mình không phải như giọt nước hoà tan vào một dòng sông, mà như một nhạc công trong dàn nhạc.
Bấy lâu, thể hiện mình để chung sức đấu tranh, trước khi giành được chính quyền, tôi đã phải cùng đồng đội vượt bao gian nan, nguy hiểm để nhận lấy những kết quả hạn chế. Từ nay hẳn tôi sẽ được như con chim sổ lồng vỗ cánh bay cao. Khoảnh khắc tôi trông thấy tôi trong bước phát triển mới: thoát khỏi vòng giam hãm, uy hiếp của chế độ thực dân bạo tàn, tôi đang sống hết mình, đang phát huy ý chí và năng lực, đang học hỏi và cống hiến, đang được tin cậy và giúp đỡ trong một quần thể trùng trùng điệp điệp… Ý thức tồn tại tự do và thanh cao cùng với dân tộc độc lập, xã hội công bằng nâng con người tôi vụt lớn lên đồng thời tình cảm gắn bó với đất nước đã sinh ra và nuôi dưỡng mình cũng thu con người tôi vụt bé lại như trẻ thơ mừng mừng tủi tủi trong vòng tay mẹ hiền sau những năm gia biến.
Nếu Cách mạng thành công đưa đến cho người dân sự đổi đời thì hình ảnh viễn tưởng của sự đổi đời ở tôi đã bắt đầu hiện ra như thế trong nội tâm, sau thời điểm chào cờ hôm ấy.
(4) Chính vì có định hướng này mà cuộc đấu tranh chống xâm lược và nền thống trị ngoại bang mới được gọi là cuộc cách mạng đúng với nghĩa chính xác của hai tiếng "cách mạng" trong sử học và chính trị học (NHĐ)
© 2007 talawas
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Khi Hoàng Hưng từ Tp HCM ra Hà Nội, một số anh em ở báo Lao Động phía Nam đã góp tiền - số tiền không lớn - gửi ra biếu ông Nguyễn Hữu Đang và ông Phùng Cung, thông qua Phùng Quán. (Các chú thích trong bài đều của talawas.)
[2]Chỗ này xin cắt bỏ để không phiền lòng những người liên quan.
[3]Tờ báo Lao Động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, từ năm 1990, với quyết định của Tổng biên tập Tống Văn Công, một đảng viên cấp tiến, đã ra phụ san Lao Động Chủ Nhật do nhóm nhà báo Sài Gòn cũ (Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức, Hoàng Thoại Châu…) phối hợp với nhóm nhà báo từ Hà Nội vào (Hữu Tính, Hoàng Hưng, Lưu Trọng Văn…) thực hiện, mở đầu cuộc cách tân báo chí thời đổi mới. Năm 1993, LĐCN nhập vào Lao Động, thành tờ báo uy tín hàng đầu Việt Nam lúc ấy.
[4]Câu đề tặng trong bản thảo là: "Thân mến tặng anh Hoàng Hưng để ghi nhớ buổi gặp nhau lần đầu ở nhà Phùng Quán. Hà Nội, 10-11-93". Khi đưa cho báo Lao Động đăng bài "Bộ vòng xơ-men", Hoàng Hưng đã cắt bỏ dòng đề tặng.
[5]Khi "Bộ vòng xơ-men" được đưa lên Ban Biên tập báo Lao Động để duyệt đăng, PA 25 của Công an đã biết ngay, họ đến đòi xem bản thảo. Tất nhiên là họ cẩn thận hơi thừa, vì đây là câu chuyện về mối tình đầu của ông Đang vào năm 1946, nhưng nội dung rất "tốt", thể hiện lòng kính yêu tôn thờ của cô người yêu ông với Cụ Hồ.
[6]Bài viết của ông Nguyễn Hữu Đang đã không đến được báo Lao Động vì phút chót, người được ông nhờ cậy là Phùng Quán đã tự động đem gửi cho một tờ báo khác có địa vị chính trị quan trọng (ý muốn cho ông được xuất hiện một cách đầy "chính thống"). Ông Đang đã phải viết một thư khác cho Hoàng Hưng để xin lỗi về việc ấy.
[7]Tập thơ của Hoàng Hưng xuất bản đầu năm 1994. Vì tập thơ này, đặc biệt là bài "Người về", PA 25 đã rày với Tổng Liên đoàn Lao động, cơ quan chủ quản của báo Lao Động, tờ báo mà Hoàng Hưng là thành viên. Nghe tin, Hoàng Hưng đã viết đơn xin từ nhiệm Trưởng ban Văn hoá Văn nghệ của báo.
==
No comments:
Post a Comment