Friday, November 14, 2008

HENRY MILLER * THỜI CỦA NHỮNG KẺ GIẾT NGƯỜI II

=


Phần 2: Khi nào thiên thần hết giống nhau?


===

Có một đoạn trong Một mùa địa ngục (đoạn mang tên “bất khả”) dường như cho ta manh mối để thấu hiểu bản chất tấn bi kịch đau đớn mà cuộc đời Rimbaud mô tả. Đó là tác phẩm cuối cùng của chàng - vào tuổi mười tám! – có một tầm mức quan trọng nào đó. Tới đây cuộc đời chàng phân gọn hẳn làm đôi, hay nhìn một cách khác, nó tự tựu thành chính nó. Giống như Lucifeer, Rimbaud đã thành công trong việc giải phóng mình ra khỏi Thiên đàng, Thiên đàng tuổi trẻ. Chàng bị chiến bại không phải bởi Thượng đẳng thiên sứ mà bởi chính mẹ chàng, người mà chàng coi là tượng trưng cho uy quyền. Đó là một định mệnh mà chàng đã đồng loã ngay tự buổi ban đầu. Chàng thanh niên lỗi lạc, kẻ có đủ mọi tài năng đó lại khinh bỉ tất cả mọi tài năng của chàng, đột ngột đập vỡ cuộc đời mình thành hai mảnh. Đó là một hành động huy hoàng đồng thời khủng khiếp. Chính Satan cũng không nghĩ ra nổi một hình phạt tàn bạo hơn hình phạt Arthur Rimbaud tự thưởng cho mình với lòng kiêu ngạo và ích kỉ vô địch. Ngay tại ngưỡng cửa của tuổi thành nhân chàng đã chối bỏ kho tàng của chàng (thiên tài sáng tạo) để chiều theo “cái bản năng thầm kín và sức mạnh của cái chết trong chúng ta” mà Amiel đã mô tả một cách tuyệt vời. Cái “hydre intime” đã tàn phá chân dung của tình yêu đến mức độ sau cùng chỉ còn lại ý chí thách đố và bất lực là có thể phân biệt được rõ ràng. Bỏ mọi hy vọng tìm thấy lại chìa khoá mở vào cõi hồn nhiên đã mất của mình, Rimbaud lao đầu xuống địa ngục tối tăm trong đó tinh thần con người đụng tới cực điểm, nơi nói theo ngôn ngữ của Krishana: “Với tự ngã đó tôi xây dựng toàn thể Vũ trụ, và chịu mãi mãi phân ly.”

Đoạn cho thấy chàng ý thức được lối thoát và sự chọn lựa, dù mơ hồ như sau:

“Nếu từ giây phút này trở đi tâm trí tôi luôn tỉnh thức, thì có lẽ chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ đi tới chân lý, có thể đang nức nở chờ đợi ta với những thiên thần vây quanh chúng ta ngay từ bây giờ!... Nếu tâm trí ta tỉnh thức tới tận bây giờ, có lẽ tôi đã chẳng buông mình theo những bản năng thoái hoá, theo một thời đại bị lãng quên!... Nếu nó luôn luôn tỉnh thức, có lẽ tôi đang dong buồm với trí thức tràn đầy!...”

Cái gì đã che lấp thị kiến chàng và do đó đưa chàng vào tử lộ, điều đó không ai biết được – và có lẽ sẽ chẳng bao giờ có một người nào biết được. Cuộc đời chàng, với tất cả những dữ kiện chúng ta có trong tay, sẽ mãi mãi bí ẩn như thiên tài của chàng vậy. Điều chúng ta thấy khá rõ ràng là tất cả những gì chàng tiên đoán về chính chàng trong ba năm thần cảm ban cho chàng đều được ứng nghiệm trong những năm phiêu bạt giang hồ khi chàng tự biến mình thành một sa mạc cô liêu. Biết bao lần những chữ sa mạc, chán chường, cuồng nộ, cần lao xuất hiện trong những tác phẩm của chàng! Trong nửa phần đời sau của chàng những chữ này đã đạt đến một ý nghĩa cụ thể tàn khốc. Chàng đã trở thành tất cả những gì chàng tiên đoán, tất cả những gì chàng sợ hãi, tất cả những gì mà chàng điên cuồng chống lại. Cuộc chiến đấu giải phóng chàng khỏi những xiềng xích nhân tạo, vươn lên khỏi những luật lệ, quy tắc, công ước, mê tín con người không đưa chàng tới đâu cả. Chàng trở thành nô lệ cho tính ngông cuồng và ý thích thay đổi của chàng, một hình nhân không biết làm gì hơn là buộc thêm vào mình một vài tội ác vụn vặt cỏn con cho đầy cuốn sổ đoạn trường mình tự hành mình.

Sự kiện chàng đầu hàng ở cuối đường khi thân thể chàng chỉ là “một khúc gỗ bất động” như chàng viết, không phải để khinh thị chế diễu bỏ qua dễ dàng. Rimbaud là con người phản kháng nhập thể. Cần phải nếm trải mọi sa đoạ và nhục nhã, mọi hình thức đoạn trường để đánh gục cái ý chí ương ngạnh đã lầm lạc tự căn đế. Chàng đã hư hỏng, cố chấp ngang tàng – cho đến giây phút cuối cùng. Cho đến khi không còn một chút hy vọng nào. Chàng là một trong những tâm hồn tuyệt vọng nhất đã nảy sinh trên trái đất. Đúng, chàng đã đầu hàng vì kiệt lực – nhưng chỉ sau khi chàng đã đi qua hết mọi nẻo đường lầm lạc. Cuối cùng không còn gì để nâng đỡ lòng kiêu hãnh của chàng lâu hơn nữa, không còn gì để mong chờ nữa ngoại trừ cô em gái yêu thương chàng, không còn gì để làm ngoài việc la hét lên cầu xin lòng từ bi bác ái. Tâm hồn chàng đã chiến bại, chỉ còn có cách bó giáp quy hàng. Ngày xưa lâu lắm rồi chàng viết: “Je esst un autre”. Bây giờ vấn đề “khiến tâm hồn trở nên dị thường theo kiểu những comprachios” đã đi tới giải đáp. Cái tôi khác kia chính là cái tôi thoái vị. Nó đã ngự trị gian lao trong một thời gian dài, nó đã chống cự mọi cuộc công hãm chỉ để sau cùng đổ vỡ và tan loãng vào hư không.

“Tôi nói người ta phải là tiên tri thấu thị… tự khiến mình trở thành một tiên tri thấu thị!” Chàng đã hối thúc như vậy lúc khởi nghiệp. Thế rồi đột nhiên nghiệp dĩ chàng dứt, và chàng chẳng còn hữu ích gì cho văn chương, ngay cả văn chương của chính chàng. Rồi chàng lang thang, sa mạc, gánh nặng của tội llỗi, chán chường, cuồng nộ, cần lao – và ô nhục, cô đơn, đau đớn, phản kháng, thất bại và đầu hàng. Từ sự man rợ của những cảm xúc đối kháng này, từ chiến trường mà chàng tạo nên bằng chính thân xác chàng, vào giây phút cuối cùng bỗng nở ra đoá hoa của đức tin. Các thiên thần phải sung sướng biết bao nhiêu! Chưa bao giờ có một đầu óc nào ngoan cố hơn Hoàng tử Arthur kiêu mạn này! Chúng ta đừng quên sự kiện nhà thơ, kẻ tự hào đã thừa hưởng sự sùng bái ngẫu tượng và lòng ưa chuộng xúc phạm thần thánh của tổ tiên chàng, những người Gaulois, đã từng nổi tiếng trong trường là “tên oắt con cuồng tín dơ dáy”. Đó là một hỗn danh mà chàng chấp nhận một cách kiêu hãnh”. Dù là kẻ vô lại hay cuồng tín, kẻ đào ngũ hay tên nô lệ, thiên sứ hay quỷ sứ, lúc nào chàng cũng ghi nhận sự kiện một cách kiêu hãnh. Nhưng vào giây phút cuối chỉ có vị tu sĩ nghe chàng xưng tội là có thể nói đã rút lui một cách kiêu hãnh. Người ta kể lại chàng đã nói với em gái mình, Isabelle, rằng: “Anh cô có đức tin, cô bé… Hắn có đức tin, và ta chưa từng thấy đức tin nào như vậy”

Đó là đức tin của một trong những tâm hồn tuyệt vọng nhất mãi mãi khao khát cuộc đời. Đó là đức tin phát sinh từ giờ cuối cùng, phút cuối cùng – Nhưng đó vẫn là đức tin. Bởi thế, quan trọng gì đâu việc chàng đối kháng lâu mau, hoặc cang cường hay nhu nhược? chàng không yếu kém trong tinh thần, chàng dũng mãnh oai phong. Chàng chiến đấu tới sức cùng lực kiệt. Và đó là lý do tại sao tên tuổi chàng, như tên tuổi Lucifer, còn mãi mãi lẫy lừng, tại sao chàng sẽ được cả bên này lẫn bên kia tán tụng. Ngay cả kẻ thù cũng tán dương chàng! Chúng ta biết đài kỷ niệm dựng lên cho chàng nơi quê hương, tỉnh Charleville, đã bị người Đức hạ xuống và chở đi trong cuộc xâm lăng vừa qua. Ngày nay đáng ghi nhớ xiết bao, tiên tri xiêt bao, những lời chàng nói như tát nước vào mặt Delahaye, bạn chàng, khi người này đề cập tới sự siêu đẳng vô địch của những kẻ chinh phục Đức quốc. “Bọn xuẩn ngốc sau những hồi kèn trống inh tai nhức óc chúng sẽ lại trở về quê cha đất tổ để ăn xúc xích, tin tưởng rằng mọi sự đã xong, Nhưng hãy chờ một chút. Bây giờ chúng đang võ trang từ đầu tới chân, và mất một thời gian dài để nuốt cái bánh vẽ vinh quang rẻ tiền của những lãnh tụ xảo quyệt chẳng bao giờ chịu buông tha chúng.. Tôi có thể thấy ngay từ bây giờ rằng kỷ luật sắt và sự điên cuồng sẽ cầm tù toàn thể xã hội Đức. Và tất cả chỉ để cuối cùng bị nghiền nát bởi một vài hình thức liên minh liên hiệp nào đó.”

Vâng, chàng có thể được cả hai phía tán dương một cách chính đáng như nhau. Đó là vinh quang của chàng, tôi xin nhắc lại. Nó có nghĩa là chàng ôm ấp bóng tối và ánh sáng. Cái mà chàng bỏ rơi là thế giới chết chóc sống động, thế giới hư nguỵ của văn hoá và văn minh. Chàng gột sạch tâm hồn chàng khỏi mọi cạm bẫy giả tạo nuôi nấng con người hiện đại. “Phải tuyệt đối tân kỳ!” chữ “tuyệt đối” vô cùng quan trọng. Vài câu sau chàng thêm: ”Cuộc chiến đấu của tinh thần cũng tàn bạo như cuộc chiến đấu của con người; nhưng viễn tượng tâm lý là lạc thú của một mình thượng Đế mà thôi. ”Điều chàng muốn ám chỉ là chúng ta đang trải qua một sự tân kỳ giả tạo: chúng ta không có những trận đánh kịch liệt và tàn bạo, không có cuộc chiến oai hùng như các bậc thánh ngày xưa đã phát khởi. các bậc thánh là những người mạnh, chàng nhận định, và những ẩn số là những nghệ sĩ, ngày nay không còn hợp nữa, than ôi! Chỉ có kẻ hiểu ý nghĩa của cám dỗ mới có thể nói như thế. Chỉ có kẻ quý trọng kỷ luật, thứ kỷ luật nhằm nâng cao đời sống tới mức độ nghệ thuật mới có thể ngợi ca những bậc thánh thiện như thế.

Trong một ý nghĩa nào đó, có thể nói trọn cuộc đời Rimbaud là một cuộc hành trình tìm kỷ luật thích nghi, là một thứ kỷ luật có thể cung hiến chàng tự do. Lúc khởi đầu, như một kẻ cải tạo, điều này khá minh bạch, mặc dầu người ta có thể không đồng ý với thứ kỷ luật chàng tự đặt lên mình. Trong phần thứ hai của cuộc đời, khi chàng đoạn tuyệt với xã hội, mục đích của thứ kỷ luật khắc khổ của chàng càng khó hiểu hơn. Phải chăng chỉ vì muốn đạt tới sự thành công thế tục mà chàng chịu đựng mọi khổ cực và thiếu thốn đó chăng? Tôi nghi lắm. Bề ngoài chàng có vẻ không có một mục tiêu nào cao cả hơn bất cứ một tay phiêu lưu có tham vọng nào. Đó là quan điểm của những kẻ kì cục, những kẻ thất bại nhưng lại muốn có một người bạn đồng hành vóc dáng vĩ đại như chàng Rimbaud bí ẩn. Theo tôi thì dường như chàng đang sửa soạn một cuộc Phục sinh. Mặc dầu có thể chính chàng cũng không thấu hiểu ước muốn đó, nhưng hành vi của chàng giống như thái độ của một bậc thánh chiến đấu chống lại bản chất man rợ của mình. Một cách mù quáng, có lẽ vậy, chàng dường như tự sửa soạn để nhận thánh sủng mà chàng đã dại dột và ngu muội khinh bỉ từ chối. Người ta cũng có thể nói rằng chàng đào huyệt chôn mình. Nhưng chắc chắn chàng chẳng bao giờ có cảm tình với ngôi huyệt đó – chàng vốn vô cùng khiếp đảm loài dòi. Với chàng cái chết đã tự hiển hiện một cách quá rõ ràng trong nếp sống Pháp. Hãy nhớ lại những lời nói khủng khiếp của chàng…” lấy tay khẽ nhấc tấm ván thiên, ngồi xuống, chết ngạt. Thế là xong, không còn tuổi già, không còn nguy hiểm; kinh hoàng không có tính chất Pháp. ”Chính sự sợ hãi cái chết sống động này đã khiến chàng lựa chọn cuộc sống gian lao, chàng thà thách đố mọi kinh hoàng hơn là khuất phục giữa dòng. Vậy thì mục tiêu, cứu cánh của cuộc sống tàn bạo nhường ấy là gì? Dĩ nhiên vì một điều, đó là khám phá mọi biến tượng có thể có của cuộc đời. Chàng coi thế giới như một nơi “đầy những cảnh huy hoàng không thể thăm viếng hết trong cuộc đời của muôn ngàn người”. Chàng đòi hỏi một thế giới “trong đó năng lực vô biên của chàng có thể tác động tự do”. Chàng muốn tận dụng những tiềm năng của chàng để tự thể hiện một cách tuyệt đối. Tuy nhiên, ở tận điểm, tham vọng của chàng là đạt tới biên giới của một thế giới mới mẻ huy hoàng, một thế giới không mang một nét tương đồng nào với thế giới mà chàng đã biết, dù cho có bị dập vùi và kiệt lực.

Thế giới này có thể là một thế giới nào khác thế giới chói lọi của tâm thức không? Không phải linh hồn luôn luôn tự biểu lộ qua ngôn ngữ của tuổi trẻ sao? Có lần ở Abyssinie, Rimbaud viết cho mẹ trong cơn tuyệt vọng: “Chúng ta sống và chết theo những tiêu thức khác hẳn tiêu thức chúng ta có thể phác vẽ ra và chẳng hy vọng bất cứ sự đền bù nào. May mắn cho chúng ta đó là đời sống duy nhất chúng ta phải sống, điều đó quá hiển nhiên”. Không phải lúc nào chàng cũng chắc chắn rằng đó là đời sống duy nhất. Trong Mùa địa ngục của chàng, chàng chẳng tự hỏi có thể có những đời sống khác sao? Chàng e rằng có. Và đó là một trong những điều khiến chàng bị dày vò.Tôi dám quả quyết rằng không một ai biết rõ hơn người thi sĩ trẻ tuổi này rằng mỗi cuộc đời thất bại và hoang phí phải được trả bằng hằng hà sa số cuộc đời vô tận và vô vọng – cho đến khi người ta nhìn thấy ánh sáng và lựa sống theo ánh sáng đó. Vâng, cuộc tranh chấp nội tâm cũng dữ dội và tàn bạo như cuộc tranh đấu chốn sa trường. Thánh nhân biết điều đó nhưng con người thời đại mới nhạo báng điều đó. Địa ngục hiện hữu bất cứ khi nào, bất cứ khi nào người ta nghĩ nó hiện hữu. Nếu bạn tin rằng bạn đang ở trong Địa ngục là tức thì bạn ở trong địa ngục. Và cuộc đời, đối với con người thời hiện đại, đã trở thành địa ngục vĩnh cửu bởi lý do đơn giản là hắn đã mất mọi hy vọng đạt tới Thiên đàng. Chẳng những thế hắn còn không tin ngay cả Thiên đàng do chính hắn tạo ra. Bởi chính quá trình tư tưởng mình hắn tự đày ải hắn xuống địa ngục sâu thẳm của ước vọng tự huỷ kiếu Freud.

Trong “Thư của kẻ tiên tri thấu thị” nổi danh mà Rimbaud viết năm mười bảy tuổi, một tài liệu đã tạo ra những chấn động lớn lao hơn tất cả mọi tác phẩm của các bậc thầy… trong lá thư chứa đựng quy tắc lừng danh cho những thi sĩ tương lai đó, Rimbaud nhấn mạnh rằng, việc theo đuổi kỷ luật đã qui định này gây ra vô số “cực hình khôn tả trong đó hắn (thi nhân) cần vận dụng tất cả sức mạnh siêu nhân của mình”. Trong khi thực hành kỉ luật này, chàng viết tiếp, những thi nhân đi tới chỗ sẽ xuất hiện “như kẻ bệnh hoạn lớn lao, kẻ tội phạm vĩ đại, kẻ bị nguyền rủa vĩ đại – và nhà bác học siêu phàm! – bởi hắn đi tới cái vị tri !” Điều đảm bảo cho phần thưởng vô bờ bến này nằm trong sự kiện đơn giản là “thi nhân đã tôi luyện được tinh thần hắn, một tâm hồn vốn phong phú hơn tất cả mọi người.” Nhưng cái gì sẽ xẩy ra cho thi nhân khi đi tới cái vị tri? “Hắn kết thúc bằng cách đánh mất mọi hiểu biết về những viễn tượng của mình” Rimbaud viết. (Đó là cái đã xẩy ra trong trường hợp chàng.) Như thể tiên cảm được một số phận như vậy, chàng thêm: ”tuy nhiên, hắn đã nhìn thấy chúng? Hãy để hắn chết trong cơn chấn động bởi những điều kì dị và không thể gọi tên hắn đã nhìn thấy. Rồi hãy để những lao công khủng khiếp khác tới kế tiếp hắn; họ sẽ bắt đầu những chân trời mà hắn tắt nghỉ.”

Lời kêu gọi đã gây ra một tác dụng sâu xa trên những thế hệ tương lai này đáng chú ý vì nhiều nguyên do, nhưng chủ yếu bởi nó làm sáng tỏ vai trò chân thực thi sĩ và bản chất đích thực của truyền thống. Thi sĩ có ích lợi gì trừ phi hắn đạt tới một viễn tượng về cuộc đời, trừ phi hắn sẵn sàng hy sinh cuộc đời mình để chứng thực cho chân lý và vẻ rực rỡ của viễn tượng mình? Đề tài thời thượng là nói về những con người quỷ quái này, như những kẻ theo phong trào lãng mạn, những linh tưởng gia này, nhấn mạnh chủ quan tính của họ và nhìn họ như những xoáy nước tách lìa, những gián đoạn, những nhân vật tạm thời thay thế trong dòng nước lớn của truyền thống, như thể họ là những kẻ điên loạn quay cuồng xung quanh cái trục tự ngã. Không có gì có thể sai lầm hơn. Chính những nhà canh tân này tạo thành những khoen nối trong sợi dây chuyền lớn của văn chương sáng tạo. Quả thật người ta bắt đầu từ những chân trời nơi họ tắt nghỉ - “thủ lợi” như Rimbaud nói – chứ không phải an nhiên toạ thị giữa cảnh tan hoang đổ vỡ và nhặt nhạnh chắp vá những mảnh vụn của bức dư đồ.

Người ta nói rằng năm mười hai tuổi lòng sùng tín của Rimbaud lên cao độ đến nỗi chàng khao khát làm một thánh tử đạo. Ba năm sau, trong bài Soleit et Chair, chàng tuyên bố: ”Xác thịt, cẩm thạch, hoa, vệ nữ, ta đặt niềm tin nơi các ngươi!” Chàng nói về nữ thần Aphrodite “bao phủ vũ trụ bao la bằng tình yêu thể hiện trong nụ cười vô biên”. Và thế giới, chàng nói, sẽ trả lời, sẽ run lên “tựa một cây thất huyền cầm vĩ đại rùng mình trong một cái hôn bát ngát mênh mông”. Ở đây chúng ta thấy chàng trở lại với niềm tin ngẫu tượng giáo và sự hồn nhiên vô nhiễm, vào thời đại vàng son khi đời chàng là “một bữa tiệc linh đình nơi mọi trái tim đều mở tung mọi rượu ngọt đều tuôn trào.” Đó là thời tự thâm cảm, thời khao khát khôn tả cái mới lạ chưa từng biết – “l’ éblovissement de l’ Infini.” Tóm lại thời kì thai nghén, ngắn ngủi nhưng sâu xa, giống như vĩnh phúc tuyệt vời của samadhi (đại định).

Chỉ ba năm sau và vào năm mười tám tuổi, chúng ta thấy chàng đã ở cuối đường sự nghiệp văn chương, viết Ước nguyện tối hậu và di chúc, có thể nói như vậy. Cái Địa ngục mà chàng đã mô tả vô cùng sống động chàng đã cảm nghiệm trong tâm hồn; bây giờ chàng đã bắt đầu sống nó trong xác thịt. Lời lẽ não nề bi thiết làm sao, trong đoạn tên là “Sớm mai” được viết bởi một thanh niên mười tám tuổi! Nó đã bay qua, cái tuổi thanh xuân của chàng, và với nó tất cả tuổi trẻ của trần gian. Quê hương chàng thảm bại và phủ phục trước kẻ thù; mẹ chàng chỉ muốn xua đuổi chàng, một kẻ xa lạ, một quái vật không thể chịu nổi. Chàng đã quá biết thế nào là đói khát, thế nào là cô đơn nhục nhã, xua đuổi khước từ; chàng đã vào tù ra khám, đã chứng kiến Công xã đẫm máu, có lẽ còn tham dự nữa không chừng, đã cảm nghiệm tội lỗi và sa đoạ, đã mất mối tình đầu, đã đoạn giao với anh em văn nghệ, đã khảo cứu toàn thể lãnh vực văn nghệ mới và thấy nó trống rỗng, để đến bây giờ sẵn sàng phó thác tất cả, cả bản thân chàng, cho quỷ dữ. Thế nên, sau này khi nằm trên giường lâm chung nghĩ lại tuổi trẻ lãng phí, hẳn chàng sẽ nghĩ là chàng đã tiêu phí cả cuộc đời, rồi ảo não tự hỏi: ”ngày xưa, ta có chăng một tuổi trẻ hào hoa anh dũng và hoang đường đủ để viết lên những phiến lá nạm vàng: quá may mắn thay! Tội ác nào ta đã gây ra, lỗi lầm nào ta đã phạm phải; để ngày nay phải hứng chịu cảnh thân tàn ma dại này? Bạn là người chủ trương rằng thú vật cũng biết khóc lóc sầu thảm, kẻ bệnh tật tuyệt vọng, kẻ chết có những cơn ác mộng, xin hãy thử kể chuyện suy sụp của tôi và giấc ngủ an bình của tôi. [1] Tôi bây giờ không thể tự biện bạch cho mình hơn kẻ hành khất với bài kinh Pater và Ave Maria liên tục. Tôi không còn biết ăn nói làm sao nữa”.

Chàng đã kết thúc câu chuyện địa ngục của riêng chàng… chàng sắp từ giã. Chỉ còn một đôi lời chia tay phải nói. Một lần nữa hình ảnh sa mạc lại hiện ra – một trong những hình ảnh bền bỉ nhất của chàng. Suối nguồn cảm hứng của chàng đã khô cạn: giống như Lucifer, chàng đã “dùng hết” phần ánh sáng dành cho mình. Chỉ còn lại sự quyến rũ của thế giới bên kia, lời kêu gọi của vực sâu mà để đáp lại chàng tìm thấy bằng chứng rành rành và hoàn bị trong đời sống hình ảnh ghê rợn ám ảnh chàng: sa mạc. Chàng hơi nôn nóng. “Khi nào chúng ta sẽ lên đường?” chàng hỏi. ”Khi nào chúng ta sẽ lên đường… đón chào sự khai sinh nhiệm vụ mới, minh triết mới, sự chạy trốn của bạo chúa và ác quỷ, ngày tàn của mê tín; để sùng bái – như những kẻ thứ nhất – Giáng sinh trên Trần gian?” (những lời lẽ này khiến chúng ta nhớ xiết bao đến những người đồng thời với chàng mà chàng chẳng hề biết tới: Nietzsche!)

Có nhà cách mạng nào đã hô hào con đường bổn phận một cách minh bạch và chua xót hơn thế chăng? Có bậc thánh nào đã dùng chữ giáng sinh theo một ý nghĩa thiêng liêng hơn thế chăng? Đó là ngôn từ của một kẻ phản kháng, chính thế, nhưng không phải của một kẻ vô tín ngưỡng. Đó là một tín đồ ngẫu tượng giáo, nhưng là một tín đồ ngẫu tượng như Virgil. Đó là tiếng nói của vị tiên tri và kẻ lãnh đạo hành động, của tông đồ và đồng thời kẻ được khả thị. Dù có là tu sĩ, kẻ sùng bái ngẫu tượng, mê tín và ngu tối đi nữa, chàng cũng phải tán đồng đại lễ Giáng Sinh này! “Những quân nô lệ, chớ nguyền rủa cuộc đời!” chàng la lên. Hãy chấm dứt khóc lóc, thở than và ép xác. Hãy chấm dứt thái độ ngoan ngoãn phục tòng, những niềm tin trẻ con. Hãy lánh xa những thần tượng giả mạo và những tín ngưỡng khoa học ấu trĩ. Hãy đạp đổ những kẻ độc tài, mị dân và sách động. Chớ nguyền rủa cuộc đời chúng ta hãy tôn thờ cuộc đời! Toàn thể màn hài kịch phụ diễn Cơ đốc giáo chỉ là một sự chối bỏ Thượng đế, một sự từ chối Thánh thần. Tự do hãy còn chưa được mơ tưởng tới. Hãy giải phóng trí não, con tim, xác thịt! Hãy giải phóng linh hồn, để nó có thể ngự trị bình an! Đây là mùa đông của cuộc đời và “Ta hồ nghi mùa đông vì đó là mùa của tiện nghi!” Hãy cho ta Giáng sinh trên Trần gian… đừng cho Cơ đốc giáo. Ta không bao giờ là một tín đồ Cơ đốc giáo, ta không bao giờ thuộc dòng giống các ngươi. Phải, mắt ta khép trước ánh sáng của các ngươi. Ta là một con thú, một tên mọi đen… nhưng ta có thể được cứu rỗi! Các ngươi là những tên mọi đen giả hiệu, hỡi những tên keo bẩn, điên khùng. Ta là một tên mọi đen đích thực và đây là một cuốn sách mọi đen đích thực. Ta nói, chúng ta hãy tạo dựng Giáng sinh trên Trần gian… ngay bây giờ, ngay bây giờ, các ngươi có nghe không? Không phải là bánh vẽ trên trời!

Chàng gào lên như vậy. Đúng là “những suy tưởng phi thời”.

“Được lắm…” chàng dường như thở dài. “Đôi khi ta thấy trên trời những bãi biển mênh mông vô tận bao bọc những quốc gia trắng xoá và vui tươi”. Trong giây lát không có gì ngăn cách giữa chàng và sự xác thực của giấc mơ. Chàng thấy tương lai như sự hiện thực không thể tránh được của ước vọng sâu thẳm của con người. Không có gì ngăn cản được nó tới, ngay cả những tên mọi đen giả hiệu đang nhân danh pháp luật và trật tự thống trị thế giới. Chàng mộng ước tất cả mọi sự đến cùng tận. Tất cả mọi kỷ niệm khủng khiếp không thể diễn tả được đều nhạt nhoà đi. Và với chúng mọi hối tiếc. Tuy nhiên chàng sẽ trả thù “những thân hữu của sự chết” – những kẻ do dự - Dù đi sâu vào hoang vắng, dù ta biến đời ta thành một sa mạc cô liêu, dù cho từ nay không một ai nghe nói đến ta, mỗi và tất cả các ngươi đều phải biết rằng ta sẽ được phép thủ đắc chân lý trong hồn và xác. Các ngươi đã hết sức che đậy sự thật, các ngươi đã cố gắng tàn phá tâm hồn ta, và cuối cúng các ngươi sẽ đập vỡ hình hài ta trên neo móc… Nhưng ta sẽ biết chân lý, thủ đắc nó cho riêng ta trong thân thể này và tâm hồn này…

Đó là phát biểu giận dữ của một kẻ thao thức kiếm tìm, một “thân hữu của Thượng đế” dù chàng khước từ danh hiệu đó.

“Tất cả mọi ngôn ngữ đều là ý tưởng”, Rimbaud nói, ngày của ngôn ngữ đại đồng sẽ tới. Ngôn ngữ này, ngôn ngữ mới lạ hoặc phổ quát sẽ nói trực tiếp từ tâm hồn này đến tâm hồn khác, thâu tóm mọi hương, sắc, thanh âm, nối kết mọi tư tưởng”. Chìa khoá của mọi ngôn ngữ này, khỏi cần phải nói, là biếu tượng mà chỉ kẻ sáng tạo thủ hữu. Đó là mẫu tự tâm hồn, có từ vô thuỷ và sẽ tồn tại đến vô chung. Lấy nó làm phương tiện, thi nhân, chúa tể của trí tưởng tượng và quân vương không thụ phong của thế giới sẽ truyền đạt, giữ liên lạc với thần dân của mình. Chính để thiết lập nhịp cầu này mà chàng trai trẻ Rimbaud đã bỏ cả cuộc đời để thí nghiệm. Và chàng đã thành công xiết bao mặc dù sự chối từ đột ngột và bí ẩn. Từ bên kia mộ sâu, chàng vẫn còn đang thông tri, và càng ngày càng mãnh liệt với thời gian. Chàng càng bí mật bao nhiêu, lý thuyết của chàng càng minh bạch bấy nhiêu. Nghịch lý? Không nghịch lý chút nào hết. Sấm kí nào cũng chỉ có thể trở nên sáng sủa qua thời gian và biến cố. Qua trung gian này người ta nhìn trước và sau với cùng một sự sáng suốt như nhau; thông tri trở thành nghệ thuật thiết lập một sự phối hợp luận lý và hoà điệu giữa dĩ vãng và tương lai vào bất cứ giây phút nào trong thời gian. Bất cứ và mọi vật thể đều có thể tự khiến mình trở nên có hiệu lực, miễn là được chuyển vào dòng lưu chuyển vĩnh cửu – đó là ngôn ngữ của tâm hồn. Trong lãnh vực này không có kẻ vô học cũng như không có những nhà văn pháp học. Chỉ cần mở ngỏ tâm hồn, gạt bỏ mọi thiên kiến đa văn… hay nói cách khác, chịu khải ngộ. Dĩ nhiên việc đó tương đương với sự chuyển hoá. Đó là một phương sách cực đoan và giả định trước một trạng thái tuyệt vọng. Nhưng nếu tất cả mọi biện pháp đều thất bại, như thường lệ không thể tránh khỏi, tại sao không dùng phương sách thái quá đó – của sự chuyển hoá? Sự cứu chuộc chỉ lờ mờ hiện ra ở địa ngục môn. Con người thất bại ở mọi chiều hướng. Mãi mãi và mãi mãi họ phải đi trở lại con đường, xốc vác lại gánh nặng, bắt đầu leo lại ngọn dốc cheo leo hiểm trở hướng về đỉnh cao. Tại sao không chấp nhận sự thách đố của Thần linh và nhượng bộ? Tại sao không đầu hàng và do đó đi vào một cuộc sống mới? Đấng Vô lượng thọ lúc nào cũng đón chờ. Có người gọi ngài là đấng Giác tha, có kẻ gọi là đức Bồ tát, Tế độ…

Điều mà những kẻ bắt chước cũng như những kẻ phỉ báng Rimbaud thất bại không thể nhìn ra chàng cổ võ cho sự thực hành một đường lối sống mới. Chàng không cố gắng xây dựng một trường phái nghệ thuật mới để giải trí những ông thợ xếp chữ nhút nhát yếu đuối – chàng vạch ra sự phối hợp giữa nghệ thuật và cuộc đời, bắc cầu nối kết mọi phân ly, chữa lành vết tử thương. Từ bi bác ái thiêng liêng là chìa khoá của tri thức, chàng nói. Ngay trong phần đầu của Một mùa địa ngục chàng đã viết: ”… Một hôm kia, linh cảm giây phút cuối cùng của đời mình sắp tới, tôi nghĩ đến chuyện tìm lại một lần nữa chiếc chìa khoá dẫn về bữa yến tiệc ngày xưa, nơi tôi hy vọng có thể tìm thấy cơn thèm khát cũ. Từ bi bác ái là chiếc chìa khoá đó.” Và rồi chàng thêm: “nguồn cảm hứng này chứng tỏ rằng tôi đã đang chìm trong mơ mộng!” Mơ mộng trong địa ngục, dĩ nhiên, trong cơn mê ngất lịm không đáy đối với chàng. Chàng kẻ đã “tạo ra mọi dạ hội, mọi chiến thắng, mọi thảm kịch”, lại bó buộc phải chôn vùi trí tưởng tượng huy hoàng trong lúc lu mờ. Chàng, kẻ tự nhận là thuật sĩ, thiên thần, chàng, kẻ đã giải thoát mình khỏi mọi ràng buộc, mọi liên hệ thế gian, bây giờ lại thấy mình bị lưu đày trở về trần ai, bị bắt buộc phải chấp nhận, ôm ghì thực tại phũ phàng. Nông dân, đó là điều họ có thể bức bách chàng. Trở về quê hương, chàng sẽ bị gạt ra ngoài lề cuộc sống… vậy thì những dối trá nào đây chàng phải dùng để nuôi dưỡng giấc mơ kiêu bạc của chàng? (“Cuối cùng tôi sẽ ước mong được tha thứ vì đã tự nuôi dưỡng mình bằng những ảo tưởng gian dối.”) Nhưng chàng sẽ xin ai tha thứ mới được chứ? Chắc không phải những nỗi dày vò chàng. Không phải thời đại mà chàng đã khước từ. Cũng chẳng phải bà mẹ già lẩn thẩn, kẻ muốn khép chàng vào xiềng xích. Vậy thì ai đây? Chúng ta hãy nói ngay: những bậc tiền bối và những kẻ hậu sinh sẽ kế tiếp chàng tiếp tục cuộc chiến đấu. Chàng không tự biện minh với chúng ta cũng chẳng biện minh với Thượng đế, nhưng với những thế hệ tương lai, những kẻ sẽ giang tay đón chàng khi tất cả chúng ta bước vào những đô thị huy hoàng ngày mai. Họ là truyền nhân “của một chủng tộc xa xôi” mà chàng tùng phục và coi như tổ tiên đích thực của mình. Chàng chỉ bị xa cách họ trong thời gian, nhưng gần gũi trong máu huyết và dáng điệu. Đó là những con người biết ca hát dưới cực hình. Đó là những con người chí khí cao và chàng nối kết với họ không phải bởi những tiền nhân – chàng không tìm thấy một con người trong toàn thể lịch sử nước Pháp – mà bởi tinh thần. Chàng sinh ra trong chân không thì chàng sẽ giao cảm với họ qua chân không. Chúng ta chỉ nghe thấy những dư vang. Chúng ta kinh ngạc trước âm thanh của ngôn ngữ lạ lùng này. Chúng ta chẳng hiểu tí gì về nỗi hân hoan và sự xác thực nâng đỡ cuộc chuyện trò thân mật phi nhân tính đó.

Biết bao tâm hồn đã bị chàng kích động, thay đổi, khuất phục? Chàng đã nhận biết bao lời ca tụng của những người khác biệt nhau về tính khí, hình thức cũng như bản chất như Valéry, Claudel, André Breton. Chàng và họ có điểm gì tương đồng nhau? Không phải thiên tài của chàng vì vào năm chàng mười chín tuổi chàng đã mang thiên tài của chàng chuộc lấy những chủ đích huyền bí. Tất cả mọi hành vi khước từ chỉ nhắm một mục tiêu duy nhất: đạt tới một mức độ khác (với Rimbaud, nó là sự rơi xuống một mức độ khác.) Chỉ khi người ca sĩ ngừng hát hẳn mới có thể sống ca khúc hắn. Và nếu ca khúc đó là một điệu thách đố? Thì hậu quả của nó sẽ là bạo lực và tai hoạ khôn lường. Nhưng tai hoạ, như Amiel nói, mang lại một sự tu bổ tàn bạo cho quân bình. Và Rimbaud, sinh ra dưới cung Thiên xứng, lại chọn cực đoan với niềm đam mê của một kẻ đi đày.

Cái mời gọi luôn luôn là cây thần trượng vô hình hay một vài vì sao diễm ảo, và thế là minh triết cố cựu, pháp thuật ngàn xưa tan biến hết. Cái chết và sự hoá thân là bài ca muôn thuở. Một số người lựa chọn cái chết, hoặc hình thức, thân thể, minh triết hay tâm hồn, một cách trực tiếp, một vài kẻ lại gần nó một cách quanh co quỷ quái. Một số người gia tăng thảm kịch của họ bằng cách biến mất khỏi mặt đất, không để lại một đầu mối, một dấu tích nào; có kẻ còn biến cuộc đời thành một cảnh tượng hứng thú hơn cả những lời thú tội, đó là tác phẩm của họ. Rimbaud đã kéo dài cái chết của chàng một cách phiền muộn. Chàng trải qua những đổ nát khắp xung quanh chàng khiến không ai có thể nhận ra cái tính chất hoàn toàn vô ích của sự chạy trốn của chàng. Bất cứ nơi nào ngoài thế giới này! Đó là tiếng kêu của nhũng kẻ mà cuộc đời không còn bất cứ một ý nghĩa nào. Rimbaud đã khám phá ra thế giới đích thực khi chàng còn là một đứa trẻ; chàng cố gắng công bố thế giới đó khi chàng là một thanh niên; chàng phản bội thế giới đó khi chàng là một người lớn. Bị cấm đoán đi đến thế giới tình yêu, mọi tài năng thiên phú của chàng đều trở thành vô dụng. Địa ngục của chàng chưa xuống đủ sâu, chàng thiêu sống ngoài phòng tiền đình. Như chúng ta biết, nó ngắn ngủi quá, cái mùa địa ngục đó, bởi phần còn lại của cuộc đời chàng trở thành một lò luyện tội. Chàng không đủ can đảm lặn xuống đáy sâu chăng? Chúng ta không biết được. Chúng ta chỉ biết chàng khước từ kho tàng của chàng như thể nó là một gánh nặng ngàn cân. Nhưng tội lỗi dầy vò chàng là cái không ai thoát khỏi, ngay cả những người sinh ra trong ánh sáng. Sự thất bại của chàng có vẻ dị kỳ, dầu chính nó đưa chàng đến chiến thắng. Nhưng không phải Rimbaud đã chiến thắng mà chính là tinh thần bất khuất trong chàng. Như Hugo đã nói: ”Thiên thần là danh từ duy nhất trong ngôn ngữ không thề bị hao mòn”.

“Sáng tạo bắt đầu với sự phân ly đau đớn khỏi Thượng đế và sự sáng tạo của một ý chí độc lập để cuối cùng sự phân ly này có thể bị vượt qua tiến tới một hợp nhất cao viễn hơn sự hợp nhất khởi đầu của tiến trình”.

Vào năm mười chín tuổi, đúng nửa đời chàng, Rimbaud tắt thở. ”Nàng thơ của chàng chết bên cạnh chàng, giữa những giấc mộng bị tàn sát ngổn ngang”, một nhà viết tiểu sử chàng viết. Tuy nhiên chàng là một thần đồng, người trong ba năm gây cho người ta cảm tưởng đã tát cạn tất cả những trường phái nghệ thuật. ”Dường như tất cả mọi thành đạt đều đã chứa đựng sẵn trong con người ông”, Jacques Rivìere viết, về điểm đó Matthew Josephon thêm: ”quả thực văn chương sau Rimbaud đã phải lao đầu vào cuộc chiến đấu để mong thoát khỏi ảnh hưởng ông”. Bởi vì, như lời Josepohon nói, “ông đã khiến thi ca trở nên vô cùng nguy hiểm”. Chính Rimbaud cũng đã tuyên bố trong tác phẩm Địa ngục, rằng chàng ”đã trở thành một vở ca nhạc kịch thần kì”. Ca nhạc kịch hay không, chàng vẫn còn vẻ thần kì – không kém đi chút nào. Cả hai mặt của cuộc đời chàng đều thần kì hoang đường, đó là một điều lạ lùng. Kẻ mơ mộng và con người hành động chàng là cả hai kẻ đó trong cùng một lúc. Như thể cá tính của Shakespeare và Bonaparte được phối hợp vào trong một con người vậy. Bây giờ chúng ta hãy lắng nghe chính tiếng nói của Rimbaud… ”tôi nhận thấy tất cả mọi người đều bị cuốn hút một cách không thể chống cưỡng được về phía hạnh phúc: hành động không phải là cuộc sống mà chỉ là một cách phung phí sức lực và nhu nhược hoá con người”. Và rồi, như thể để chứng tỏ điều đó chàng lao mình vào cơn lốc loạn cuồng. Chàng đi bộ qua lại khắp Châu Âu, đáp hết con tàu nọ đến con tàu kia để đến những hải cảng xa lạ, quay trở về bệnh tật hay không còn một xu dính túi không biết bao nhiêu lần, chàng làm đúng một ngàn lẻ một nghề, học một tá sinh ngữ hay hơn thế nữa, và thay vì buôn chữ nghiã chàng buôn cà phê, hương liệu, ngà voi, da thú, vàng, súng ống, nô lệ. Du lịch khai phá, học hỏi; giao kết với đủ mọi hạng người, chủng tộc, quốc tịch; và luôn luôn công việc, công việc mà chàng ghê tởm. Nhưng trên tất cả, ennui! Luôn luôn chán chường. Chán chường không nguôi. Nhưng chàng đã hoạt động xiết bao! Kho tàng kinh nghiệm của chàng phong phú xiết bao! Và trống rỗng xiết bao! Những lá thư chàng viết cho mẹ là một bản cáo trạng dài xen lẫn những câu trách móc và kháng kiện, những lời than thở, khẩn cầu và những lời khẩn nguyện. Thật là một kẻ bị nguyền rủa! Cuối cùng chàng trở thành ”kẻ bất lực vĩ đại”.

Đâu là ý nghĩa của cuộc chạy trốn, lời than thở không cùng và sự tự hành hạ này? Đúng xiết bao, rằng hành động không phải là cuộc đời! vậy thì cuộc đời ở đâu? Và thế nào là thực tại đích thực? Hiển nhiên nó không phải là thực tại phũ phàng của lao khổ hay nay đây mai đó, cuộc vật lộn bẩn thỉu để tranh cướp của cải này?

Trong cuốn Thần cảm, được viết ở London u hoài, chàng đã báo hiệu: Je suis réellement d’outre- tombe, et pas de commission!”. Đó là biểu hiện nhà thơ. Bây giờ chàng biết nó như một sự kiện. Người nhạc sĩ đã tìm thấy gì như một âm điệu tình yêu như chàng diễn tả, đã đánh mất âm điệu đó. Chàng đã đánh mất âm điệu lẫn cây đàn. Sau khi đã đóng tất cả các cánh cửa, kể cả cửa bằng hữu, sau khi đã đốt cháy tất cả mọi cây cầu sau lưng chàng, chàng sẽ không bao giờ đặt chân vào lãnh vực tình yêu nữa. Duy chỉ có lại những nỗi niềm cô đơn vời vợi trong bóng của cây thiện ác đã vùi sâu, nơi trong bài Matinée d’ivresse của chàng nẩy ra câu hoài cảm này: “afin que nous ramenions notre trè pur amour”. Chàng muốn tự cứu chuộc trong hình thức tự do mà không bao giờ nhận thức được rằng nó chỉ đến qua buông xả, qua chấp nhận. “Tout homme” bậc thầy Baudelaire của chàng nói, “qui n’accepte pas les conditions de savie vend son âme.” [2] Với Rimbaud, sáng tạo và kinh nghiệm hầu như đồng thời; chàng chỉ cần một chút tối thiểu kinh nghiêm là đủ tạo nên âm nhạc. Là một thần đồng chàng gần gũi với nhạc sĩ hay nhà toán học hơn là con người tài tử văn chương. Chàng sinh ra với một kí ức vô cùng mẫn nhuệ. Chàng không gặt hái sự sáng tạo bằng mồ hôi trán – sự sáng tạo đã có ở đó, tiềm ẩn, chỉ chờ đợi sự tiếp xúc đầu tiên với thực tại thô nhám là trỗi dậy ngay. Chính phiền não là cái chàng phải đào luyện chứ không phải là tài năng thiên phú của bậc thầy. Như chúng ta đã biết chàng phải mất công chờ đợi lâu.

Chàng sinh ra là một hạt mầm và chàng mãi mãi là một hạt mầm. Đó là ý nghĩa đen tối bủa vây chàng. Trong chàng là ánh sáng, một ánh sáng huy hoàng nhưng ánh sáng đó chỉ phát huy khi chàng tàn lụi. Chàng đến từ bên kia mộ phần, truyền nhân của một chủng tộc xa xăm, mang lại một tinh thần mới và một ý thức mới. Không phải chàng đã nói: ”je pense” là sai; người ta phải nói ”on me pense” đó sao? Và chẳng phải chàng là người đã bảo: ”thiên tài là tình yêu và tương lai?” Tất cả những điều chàng nói liên quan đến cái Tôi của thiên tài đều sáng suốt và khải ngộ. Câu sau đây tôi thấy có ý nghĩa nhất:…”thân thể chàng là sự phóng thể của điều chúng ta mơ ước; sự tan tác của một ân sủng bị ngăn trở bởi một bạo lực mới”

Xin đừng kết tội tôi đã đọc Rimbaud quá kỹ. Rimbaud muốn nói tất cả những gì chàng viết ”theo nghĩa đen và theo mọi nghĩa” như có lần chàng đã giải thích cho mẹ và em gái. Chính thế, lúc đó chàng đề cập tới tác phẩm Một mùa địa ngục. Tuy nhiên…. Với chàng cũng như với Blake và Jacob Boehme: tất cả những gì họ thốt ra đều trung thực, trực nghĩa và hứng cảm. Họ an trụ trong Tưởng tượng, mộng của họ là thực tại mà chúng ta sẽ phải cảm nghiệm. ”Nếu tôi đọc chính tôi”, Boehme nói, ”là tôi đọc thánh kinh của Thượng đế, và các bạn, những người anh em của tôi, các bạn là mẫu tự mà tôi đọc trong tôi, vì tâm trí và ý chí tôi tìm thấy các bạn trong tôi. Tôi thành tâm ước mong các bạn cũng sẽ tìm thấy tôi”. Câu nói này đã nói lên bài kinh cầu thầm lặng mà Rimbaud không ngừng gửi đi từ sa mạc hoang liêu mà chàng tạo ra cho chính chàng. Lòng kiêu hãnh tốt lành của thiên tài nằm trong ý chí hắn, cái nhìn cần phải đập vỡ. niềm bí ẩn của giải thoát nằm trong sự thực hành hạnh nguyện từ ái. Từ bi bác ái là chìa khoá, và Rimbaud đã mơ mộng khi chàng ý thức điều đó, nhưng giấc mơ là thực tại và thực tại này chỉ biểu lộ lần nữa khi chàng nằm trên giường lâm chung, khi từ ái trở thành cô em gái dịu dàng dìu chàng sang bên kia thế giới, tan nát nhưng được cứu rỗi.

Suốt trong ”Đêm địa ngục”, khi chàng nhận thức được rằng chàng là tên nô lệ của lễ rửa tội của mình, chàng đã kêu lên: ”Ôi cha mẹ, các người tạo ra niềm bất hạnh của tôi và của chính các người nữa”. Trong đêm tối của linh hồn, trong đó chàng tự tuyên xưng là pháp sư của ảo tượng và tự phụ đang vén lên mọi màn bí ẩn, chàng đã khước từ tất cả những gì ràng buộc chàng với thời đại hay mảnh đất chàng đã sinh ra. Chàng khẳng định: ”Tôi đã sẵn sàng trở thành hoàn hảo”. Và chàng hoàn hảo thực theo một ý nghĩa nào đó. Chàng đã sửa soạn lễ thụ pháp của chính chàng, thoát cuộc thử thách khủng khiếp và rồi lại rơi ngã vào đêm tối trong đó chàng đã sinh ra. Chàng đã nhận thấy rằng có một chân trời bên kia vòm trời nghệ thuật, chàng đã đặt chân lên ngưỡng cửa, nhưng rồi không biết vì kinh hoàng hay sợ điên cuồng chàng đã tháo lui. Sự chuẩn bị cho một đời sống mới của chàng hoặc hãy còn thiếu sót hoặc lầm lộn. Hầu hết những bình luận gia đều cho rằng tại lý do sau, dầu cả hai lý do đều đúng. Người ta đã quá chú trọng câu này: ”Sự phá huỷ lâu dài, rộng lớn, hợp lý tất cả mọi giác quan”. Người ta nói quá nhiều đến những trác táng thiếu thời, đến cuộc sống ”Bohémiene” của chàng. Người ta đã quên rằng đó là một phản ứng vô cùng bình thường đối với một thanh niên tài không đợi tuổi, tâm trí đầy ý tưởng đã trốn chạy không khí gia đình ngột ngạt không chịu nổi ở tỉnh lẻ. Là một nhân vật hiếm có, chàng hẳn phải là một kẻ bất bình thường nếu chàng không khuất phục những lời mời gọi mãnh liệt của một kinh thành như Paris. Nếu chàng có đam mê quá độ thì có thể nói đó chỉ là một cuộc chích ngừa có phản ứng. Thời gian ở Paris và London cũng chẳng lâu gì, không đủ để huỷ hoại một thanh niên cường tráng gốc nông dân. Đối với một kẻ phản kháng lại tất cả thì quả thực đó là một kinh nghiệm bổ ích. Chẳng phải con đường dẫn tới thiên đàng sẽ đi qua địa ngục sao? Muốn được cứu rỗi người ta bắt buộc phải nhiễm lầy tội lỗi. Người ta phải nếm trải tất cả tội trọng cũng như tội khinh. Người ta phải tìm kiếm cái chết với tất cả khao khát, không từ chối một độc tố nào, không khước từ một kinh nghiệm nào dù đê hạ hay nhơ nhớp. Người ta phải đi đến tận cùng sức mình, ý thức rằng mình là một kẻ nô lệ - trong mọi lãnh vực – ngõ hầu ao ước giả thoát. Cái ý chí lầm lạc, tiêu cực được cha mẹ nuôi dưỡng tán trợ cần phải bị khuất phục trước khi nó trở nên tích cực và tâm lẫn trí vẹn toàn. Cha (trong mọi y trang) phải bị truất phế để con có thể trị vì. Cha là Thổ linh thần [3] về mọi phương diện. Cha là một người phân chia công việc cứng rắn, chữ chết của luật, dấu cấm kỵ. Người ta tẩy xoá dấu vết, trở nên điên loạn, đầy sức mạnh giả tạo và kiêu căng điên cuồng. Và rồi người ta đổ vỡ, và cái tôi không phải là tôi đầu hàng. Nhưng Rimbaud không đổ vỡ. Chàng không truất phế cha, chàng tự đồng hoá với Ngài. Chàng làm vậy vì kiêu căng, vì quyền hạn cũng như vì tính thái quá, sự dông dài, vô trách nhiệm của chàng. Chàng đi quá sang cực đoan bên kia, trở thành chính kẻ thù mà chàng ghét. Tóm lại chàng thoái vị trở thành một vị thần lang thang đi tìm vương quốc của mình. ”Tự thiến mình chẳng phải là cách chắc chắn nhất để hành hạ mình hay sao?” (đây là một trong nhiều câu hỏi chàng đặt ra trong cơn hấp hối). Và đó chính là điều chàng làm. Chàng tự thiến mình bằng cách khước từ vai trò chàng được lựa chọn. Có thể rằng trong Rimbaud ý nghĩa của tội lỗi đã bị hao mòn?

Ghê gớm thay cuộc tranh đấu tranh thủ quyền năng, của cải, an ninh, chàng phát khởi trong giai đoạn “hoạt động” của đời chàng! Chẳng lẽ chàng không nhận thức được kho tàng phong phú nào chàng thủ đắc, quyền năng ghê gớm nào chàng nắm trong tay, sự an ninh hoàn toàn nào chàng biết khi chàng chỉ đơn thuần là một thi sĩ sao? (Tôi mong muốn tôi có thể nói rằng chàng tự phát lộ mình là thi sĩ của hành động nữa, nhưng mà những tai biến rải rác trong phần sau của cuộc đời chàng chẳng bao giờ phát triển thành những truyện ngẫu nhiên có lợi cho con người hành động cả). Không, có một sự mù quáng bất khả thăm dò, và sự mù quáng của Rimbaud thuộc loại này. Một lời nguyền rủa đã đặt lên chàng. Chẳng những chàng mất ý niệm về chiều hướng mà chàng còn mất cả cảm quan nữa. Tất cả mọi sự đều sai nhịp. Chàng thay đổi danh tính hoàn toàn đến nỗi giá chàng có gặp chàng đi qua đường chàng cũng chẳng thể nhận ra mình. Có lẽ đó là cách tuyệt vọng cuối cùng của sự điên cuồng lừa dối – trở nên vô cùng khang kiện tinh thần để người ta không tự biết mình điên loạn. Rimbaud không bao giờ mất sự tiếp xúc với thực tại: ngược lại, chàng ôm ấp nó như một tên yêu quỷ. Mục đích chàng là làm bỏ rơi bản chất chân thật của chân thân chàng. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi chàng chán chường muốn chết. Chàng không thể sống nổi với mình, Vì tự ngã đó đã bị tịch thu. Về phương diện này người ta nhớ một của Lautréamont: “Tôi tiếp tục sống như nham thạch! Ở khởi điểm cũng như tận điểm của đời sống, thiên thần ngừng giống nhau: đã xa xôi biết chừng nào kể từ ngày tôi ngừng giống tôi!”

Người ta có cảm tưởng rằng ở Abyssinie chàng còn cắt cả bộ phận trí nhớ đi nữa. Nhưng về cuối đời, khi chàng đã trở thành “kẻ bệnh hoạn bất lực vĩ đại”, khi cùng với sự hoà hợp của tay, chàng cuốn sợi dây của những giấc mơ bị nén chặt thì những kỷ niệm quá khứ trào vọt lên. Đáng thương cho chúng ta biết bao khi không ghi lại được cái ngôn ngữ lạ lùng mà chàng lảm nhảm trên giường bệnh, chân đã bị cưa đi, một cái bướu vĩ đại mọc càng ngày càng lớn ở đùi, những mầm mống ung thư khả nghi lưu chuyển trên khắp người chàng như những kẻ cướp giật. Mộng tưởng và ảo ảnh tranh đua nhau trong một tẩu khúc [4] bất tận và không có một thính giả nào ngoài cô em gái tận tuỵ, người ngày đêm cầu nguyện cho linh hồn chàng. Bây giờ những giấc mơ chàng mộng tưởng và những giấc mơ chàng sống lẫn lộn với nhau; tinh thần cuối cùng thoát khỏi xiềng xích, lại trỗi điệu lên.

Cô em chàng cố gắng cho chúng ta một mối hồ nghi về những hoà khúc không ghi lại này. Nếu tôi nhớ rõ, cô nhấn mạnh về thiên tính của những hoà khúc ấy. Chúng không phải là thơ cũng không phải là ánh sáng khải ngộ như chúng ta được khuyến khích tin tưởng. Chúng là tất cả cộng thêm một cái gì, có lẽ, giống như cái mà Beethoven cho chúng ta trong những tứ tấu khúc cuối cùng. Chàng không đánh mất nét tài hoa của bậc thầy; trái lại, với sự gần kề của cái chết, chàng còn thiên tài hơn cả khi chàng còn đang ở tuổi thanh xuân. Bây giờ chàng là những tẩu khúc, những nhạc cú không ồn ào, chát chúa tuy đầy ánh sáng khải ngộ mà thuộc về phần tinh hoa và tinh tuý thu lượm trong cuộc chiến đấu với ác quỷ khắc khổ nhất, đó là Đời sống. Kinh nghiệm và óc tưởng tượng bây giờ hoà hợp để hình thành một ca khúc. Ca khúc đó là một tặng phẩm chứ không phải là một lời nguyền rủa hay trù ếm. Nó không còn là âm nhạc của chàng, thi ca của chàng nữa. Tự ngã đã bị đánh bật rễ, bài hát và nhạc cụ trở thành một. Đó là lễ vật của chàng đặt lên bàn thờ của lòng ngạo mạn bị truất phế. Đó là sự bội giáo. Sáng tạo không còn là kiêu căng, thách đố hay tự cao tự đại mà là trò chơi. Bây giờ chàng có thể chơi đùa trên giường lâm chung như chàng có thể cầu nguyện vì công việc như một kẻ chịu khổ đau của chàng đã kết thúc. Sóng thuyền của chàng cuối cùng đã gãy đôi, chàng bắt đầu ra khơi. Có lẽ trong những giây phút cuối cùng này chàng hiểu rõ mục đích đích thực của cần lao con người, rằng nó là nô lệ khi nối kết với một cứu cánh mù quáng hay vị kỉ và hân hoan khi nó được thực hiện nhằm phục vụ nhân quần.

Không có niềm hân hoan nào giống như niềm hân hoan của kẻ sáng tạo, vì sáng tạo không có mục đích nào khác ngoài sáng tạo. ”Chúng ta hãy tập luyện cho khéo léo những ngón tay, nghĩa là tất cả những tiếp điểm của chúng ta với ngoại giới” ngày xưa có lần chàng đã hối thúc như vậy. Theo một ý nghĩa tương tự, Thượng đế tinh luyện những ngón tay của Ngài – khi Ngài nâng con người lên bình diện sáng tạo. Sự rung động của sáng tạo được cảm qua khắp tạo vật. mọi hình thức, mọi cấp bậc vật thể từ thiên thần tới sâu bọ, đều tranh đấu để cảm thông với những chủng loại ở trên và dưới. Không nỗ lực nào mất mát, không âm nhạc nào không được nghe. Nhưng trong tất cả mọi sự lạm dụng sức mạnh, không phải chỉ một mình Thượng đế bị tổn thương mà chính sự Sáng tạo cũng bị ngừng lại và Giáng sinh trên Trần gian bị trì hoãn lâu hơn nữa.

“Ah! Je n’aurai plus d’envie:
Il s’et chargé de ma via.

Salut à lui chaque fois
Que chante le coq gaulois”

Tôi chuyển vị những câu song đối này một cách phóng túng trong cùng tinh thần mà ngày xưa có lần tôi đã sai lầm dịch chữ “il” là Dieu. Tôi không thể ngăn cản mình tin tưởng rằng sự lôi cuốn không thể tránh khỏi về phía le bonheur mà Rimbaud nói có nghĩa là niềm hân hoan tìm thấy Thượng đế. Alors - “salut à Lui chaque que fois que…”

Tôi tự hỏi tại sao tôi lại ngưỡng mộ Rimbaud trên tất cả những nhà văn khác? Tôi không tôn sùng tuổi trẻ cũng chẳng dối mình tin rằng chàng vĩ đại như những nhà văn khác mà tôi có thể kể tên ra. Nhưng có một cái gì trong chàng khiến tôi xúc động mà không tác phẩm của người nào làm được. Và tôi đến với chàng qua lớp sương mù của một ngôn ngữ mà tôi chẳng bao giờ chế phục được! Quả thế, chẳng cần phải đợi đến lúc tôi cố gắng một cách điên cuồng dịch chàng tôi mới bắt đầu thẩm định được đúng đắn sức mạnh và vẻ đẹp của câu văn chàng đâu. Trong Rimbaud tôi nhìn thấy chính tôi như trong một tấm gương soi. Không có điều gì chàng nói, lại xa lạ với tôi, dầu ngông cuồng phi lý hay khó hiểu đi chăng nữa. Muốn hiểu người ta phải hàng phục, và tôi nhớ một cách rõ ràng tôi đã hàng phục ngay buổi đầu tiên tôi đọc lướt qua tác phẩm chàng. Ngày hôm đó, cách đây hơn mười năm, tôi chỉ đọc vài hàng và run như một phiến lá, tôi gạt cuốn sách đi. Lúc đó và ngay cả ngày nay, tôi có cảm tưởng rằng chàng đã nói tất cả cho thời đại chúng ta. Như thể chàng đã cất một cái lều trên khoảng không. Chàng là nhà văn duy nhất mà tôi đọc đi đọc lại không chán và sự thích thú không suy giảm, luôn luôn khám phá ra một và điều mới lạ trong chàng, luôn luôn xúc động sâu xa bởi sự tinh khiết của chàng. Bất cứ điều gì tôi nói về chàng bao giờ cũng sẽ chỉ là tả thực, không gì hơn là một toan tính lại gần – hay hơn nữa một apercu. Chàng là một nhà văn mà thiên tài khiến tôi ganh tỵ; tất cả những nhà văn khác, dù vĩ đại đến đâu cũng chẳng bao giờ khơi dậy nổi lòng ghen ghét đố kị của tôi. Và chàng chấm dứt văn nghiệp năm mười chín tuổi! Nếu tôi đọc Rimbaud lúc trai trẻ e rằng tôi sẽ chẳng bao giờ viết một dòng. May mắn thay đôi khi sự ngu muội của chúng ta!

Cho đến khi tôi lướt qua Rimbaud, chính Dostoievsky là người ngự trị tối cao. Theo một chính nghĩa nào đó, cũng như Đức Phật, ông bao giờ cũng sẽ thân ái với tôi hơn đấng Christ. Dostoievsky đến từ đáy thẳm sâu, ở đó vô lượng thời gian và trồi lên như một con người toàn diện. Tôi thích con người toàn diện. Và nếu tôi phải sống chỉ một lần thôi trên trái đất này, thì lúc đó tôi thích được biết nó như Địa ngục, Lò luyện tội và Thiên đàng, tất cả trong một. Rimbaud đã cảm nghiệm một cõi Thiên đàng, song nó quá xanh non. Song le, bởi kinh nghiệm đó, chàng có thể cho chúng ta một hình ảnh linh động hơn về Địa ngục. Cuộc đời đàn ông của chàng, dầu chẳng bao giờ chàng là một người đàn ông trưởng thành, là một Lò luyện tội. Nhưng đó là số phận của phần lớn nghệ sĩ. Điều tôi vô cùng quan tâm nơi Rimbaud là viễn tượng Thiên đàng tìm thấy lại, Thiên Đàng kiếm được của chàng. Viễn cảnh này, dĩ nhiên, là một cái gì tách biệt với vẻ rực rỡ và kỳ diệu của ngôn ngữ chàng, điều tôi coi là vô song. Điều khiến tôi thất vọng là cuộc đời chàng, nó mâu thuẫn xiết bao với viễn tượng của chàng. Bất cứ khi nào đọc cuộc đời chàng, tôi đều cảm thấy rằng chính tôi nữa cũng thất bại, rằng tất cả mọi người chúng ta đều thất bại.

Vậy thì tại sao bây giờ tôi ngưỡng mộ chàng trên tất cả nhà văn khác? Bởi tại sự thất bại của chàng có tính cách vô cùng giáo huấn? Bởi tại sự thất bại của chàng đã kháng cự cho đến giây phút cuối cùng? Tôi công nhận, tôi yêu tất cả những người được gọi là phản kháng và thất bại. Tôi yêu họ bởi họ rất người rất “phàm phu quá phàm phu” chúng ta biết rằng Thượng đế yêu họ trên tất cả những người khác. Tại sao? Bởi tại họ là một mảnh đất thí nghiệm của tinh thần? Bởi tại họ là những kẻ bị hy sinh? Thượng đế hoan hỷ xiết bao khi đứa con hoang trở về. Đó là sự phát minh của con người hay của Thượng đế? Tôi tin rằng nơi đây con người và Thượng đế nhìn thẳng vào đáy mắt nhau. Con người đi lên, Thượng đế đi xuống; đôi khi tay người và Thượng đế đụng chạm nhau.

Khi tôi hồ nghi như tôi yêu ai hơn ai, những kẻ đối kháng hay những kẻ đầu hàng, thì tôi biết ngay rằng họ giống nhau và là một. Có một điều chắc chắn, là Thượng đế không muốn chúng ta đến với Ngài trong sự hồn nhiên trong trắng. Chúng ta phải biết tội lỗi và điều xấu, chúng ta phải lạc lõng khỏi đường ngay hư mất, trở nên ương ngạnh và tuyệt vọng: Chúng ta phải kháng cự chừng nào chúng ta còn đủ sức mạnh để kháng cự, hầu cho sự đầu hàng được hoàn toàn và đê hạ. Đặc ân của chúng ta, những tinh thần tự do, là tuyển chọn cho Thượng đế với mắt mở rộng, với âm hồn tràn đầy, với ước vọng trĩu nặng hơn mọi ước vọng. Kẻ ngây thơ vô tội! Thượng đế chẳng có ích gì cho hắn. Hắn là kẻ ”chơi đùa ở Thiên đàng tới thiên thu” Trở nên càng ngày càng ý thức hơn, càng ngày thai nghén nặng nề hơn với hiểu biết, trở nên càng ngày càng chồng chầt nặng trĩu hơn với tội lỗi – đó là đặc ân cúa con người. Không một người nào thoát khỏi tội lỗi, tới bất cứ bình diện nào con người đạt tới, hắn cũng bị bủa vây bởi những trách nhiệm mới, tội lỗi mới. Nhằm huỷ hoại sự trong trắng vô tội của con người. Thượng đế chuyển hoán hắn vào con đường tiềm thế. Qua lý trí và ý trí Ngài cho hắn quyền lựa chọn. và con người trong sự hiểu biết của hắn bao giờ cũng chọn Thượng đế.

Tôi nói lại giây lát về sự sửa soạn một cuộc sống mới của Rimbaud dĩ nhiên có nghĩa là diễn tiến cuộc sống tâm linh vậy. Tôi muốn nói thêm một chút về điều đó, thêm rằng không những sự sửa soạn này thiếu sót và sai lầm mà chàng c̣n là nạn nhân của một sự ngộ nhận trầm trọng về tính chất của vai tṛ chàng. Nếu chàng biết một không khí tâm linh khác, cuộc đời chàng hẳn phải quay sang một hướng khác. Nếu chàng có dịp giao tiếp với một bậc thầy hẳn chàng chẳng bao giờ tự khiến mình trở thành một kẻ tuẫn đạo. Chàng đã sẵn sàng cho một thứ phiêu lưu hoàn toàn khác hẳn thứ phiêu lưu chàng đã trải qua. Và theo một ý nghĩa khác, chàng không sẵn sàng, bởi vì, theo phương ngôn, khi đệ tử sửa soạn sẵn sàng, đấng đạo sư đã có ở đó tự bao giờ rối. Điều khó khăn, là chàng công nhận “ni Maitre, ni Dieu”. [5] Chàng đang cần giúp đỡ khủng khiếp, nhưng lòng kiêu ngạo của chàng lớn quá. Tốt hơn tự hạ mình, tốt hơn cúi mình, chàng lại giao mình cho bầy chó. Chàng chỉ có thể giữ mình nguyên vẹn bằng cách khước từ ý hướng của chàng không những là một cống vật cho sự tinh khiết của chàng mà còn là một sự lên án của thời đại. Tôi nghĩ tới Boehme, một người thợ vá giày, người có thể nói chẳng có một ngôn ngữ nào, thế mà đào luyện được một ngôn ngữ riêng cho mình, và với ngôn ngữ đó, làm bối rối những kẻ không được khải ngộ, truyền đạt thông điệp của mình tới toàn thể thế giới. Dĩ nhiên người ta có thể nói rằng bằng cách im tiếng đột ngột, Rimbaud cũng đã thành công trong việc truyền đạt cảm thông, nhưng đó không phải là chủ ý của chàng. Chàng khinh bỉ thế giới muốn hoan hô chàng, chàng khước từ không cho tác phẩm của chàng có một giá trị nào. Nhưng việc đó chỉ có một ý nghĩa duy nhất – là chàng muốn được đánh giá theo pháp định! Nếu người ta muốn đi sâu hơn vào hành động khước từ này, thì lúc đó người ta có thể so sánh sự khước từ của chàng với sự khước từ của đấng Christ. Và có thể nói rằng chàng chọn khổ hình hầu cho nó một ý nghĩa vĩnh viễn bền lâu. Nhưng Rimbaud lựa chọn một cách vô thức. Chính những kẻ cần chàng, những kẻ chàng khinh bỉ, đã gán cho tác phẩm và cuộc đời chàng một ý nghĩa. Rimbaud phủi tay, chàng không sửa soạn nhận lãnh trách nhiệm những lời nói của chàng, vì biết rằng chàng chẳng thể được chấp nhận theo giá pháp định.


[1]Tôi viết nghiêng
[2]“Kẻ nào không chấp nhận thân phận mình thì phải bán rẻ tâm hồn mình.” G. c. D
[3]Saturnian: - a) Thuộc về Thổ Tinh, thần canh nông, trong thần thoại La Mã – b) Thịnh vượng, hoà bình – G. c. D.
[4]fugue – G. c. D.
[5]“Không sư phụ, không Thượng đế” – G. c. D.


==

Chẳng có gì lạ lùng khi thế kỷ mười chín qui tụ toàn những khuôn mặt ma quỷ xuất chúng. Người ta chỉ cần nghĩ tới Blake, tới Nerval, Kierkegaard, Lautréamont, Strindberg, Nietzsche, Dostoievsky – toàn những khuôn mặt bi thảm, và bi thảm theo một ý nghĩa mới. Tất cả đều lo âu tới vấn đề linh hồn, sự bành trướng của ý thức và sự sáng tạo những giá trị luân lý mới. Ở giữa trục xe, nơi phát quang những khoảng chân không, Blake và Nietzsche ngự trị như hai vì sao song đối sáng loà, thông điệp của họ hãy còn mới lạ đến nỗi chúng ta nghĩ về họ như những kẻ cuồng điên [1] . Nietzche sắp xếp toàn bộ giá trị hiện hữu, Blake tạo ra một vũ trụ khai lịch luận mới. Rimbaud gần gũi cả hai theo nhiều cách. Chàng tựa như một tinh đẩu mới đột ngột xuất hiện sáng rực lên một cách khủng khiếp rồi lao thẳng vào trái đất. (“Et je vécus étincelle d’or de la lumi’ere nature.”) Giữa lòng bóng tối dày đặc của lòng mẹ, mà chàng sục sạo tìm với cùng sự tàn bạo chàng vận dụng trước kia để tìm ánh sáng thiên đàng, chàng biến hoá thành Radium. Bản chất của chàng là một chất liệu nguy hiểm khó sờ bằng tay; nó là một thứ ánh sáng tan biến khi không phát huy hay chiếu sáng. Như một vì sao, chàng bay lượn quá gần quỹ đạo của trái đất. Không bằng lòng dải ánh sáng rực rỡ của mình lên trên trái đất, chàng bị hấp dẫn một cách hung hiểm không thể tránh khỏi bởi sự phản chiếu của chính bóng hình mình trong tấm gương chết của cuộc đời. Chàng muốn chuyển hoá ánh sáng của chàng vào sức mạnh phát quang; việc này chỉ có thể thành tựu bởi một sự rơi ngã. Ảo tưởng này mà những nhà đạo học Đông phương gọi là vô minh hơn là tội lỗi, làm tỏ lộ sự hỗn độn giữa lãnh vực nghệ thuật và đời sống đã cùm kẹp những con người của thế kỷ Mười chín. Dường như tất cả những đầu óc lớn của thời hiện đại đã tranh đấu để tự làm mất từ lực của chính mình. Tất cả đều bị tan biến bởi những tiếng sấm sét của thần Jupiter. Họ giống như những nhà phát minh, sau khi phát minh ra điện, không hiểu gì về sự cách điện. Họ được dẫn dắt tới chỗ điều hoà với một sức mạnh mới đang bị xuyên thủng, nhưng những cuộc thí nghiệm của họ dẫn tới thảm hoạ.

Tất cả những người này, và Rimbaud là một trong số đó, là những nhà phát minh, những nhà làm ra luật, những chiến sĩ, những kẻ tiên tri. Họ tình cờ là những thi nhân. Sự phong phú dạt dào của tài năng họ, đi đôi với sự kiện thời đại chưa đủ trưởng thành để tiếp đón họ, hợp lại để tạo ra một hoàn cảnh thất bại và tiêu vong theo một ý nghĩa sâu xa, họ là những kẻ tiếm đoạt, số phận dành cho họ khiến chúng ta nhớ tới những nỗi thống khổ của những nhân vật chính trong bi kịch Hi Lạp xưa. Họ bị săn đuổi và hạ thủ bởi những thần phẫn nộ mà, theo cách nói hiện đại, là những chứng điên cuồng. Đó là cái giá con người phải trả khi hắn toan nâng cao mức độ thần thông của những vị thần thánh của hắn, khi hắn toan sống hoà hợp với những pháp điểm mới trước khi những vị thần thánh mới được rào an ninh. Dĩ nhiên những vị thần này luôn luôn chỉ là sự phóng chiếu của những năng lực nội tâm phấn khích của con người. Họ tượng trưng cho yếu tố ma thuật kỳ diệu trong sự sáng tạo; họ đui mù và say sưa bởi họ xé rách bóng tối nơi họ xuất phát. Baudelaire đã diễn tả điều đó từ đáy sâu kinh nghiệm chua xót của chính ông, như sau khi ông viết: “En effet il est d’efendu à l’homme, sous peine de déchéance et de mort intallectuelle, de de’ranger les conditions primordiales de son exystence et de rompre l’équilibre de ses feculte’s avec les milieux òu elles sont destine’es à se mouvoir, de de’ranger son destin pour y substituer une fatalites d’un genre nouveau…”

Tóm lại, kẻ mơ mộng phải bằng lòng mơ mộng, tin tưởng rằng “tưởng tượng tạo ra thực thể”. Đó là chức phận của thi nhân, chức phận cao cả nhất bởi nó đưa hắn tới cái chưa biết, tới giới hạn của sáng tạo. Những bậc thầy bao giờ cũng ở trên sự quyến rũ của sáng tạo; họ chuyển vận trong lư hoả thuần thanh của hữu thể. Họ đã chấm dứt với biến dịch; họ đã thể nhập chính họ vào lòng sự sáng tạo, thể hiện con ngừơi toàn diện và sáng láng với ánh sáng rực rỡ của bản thể linh thánh. Họ đã tự hoá thân tới điểm mà họ có việc phát huy ánh sáng của thần tính họ.

Kẻ được tuyển chọn, tinh thông lão luyện ở bất cứ nơi nào cũng an nhiên tự tại. Họ hiểu ý nghĩa của địa ngục nhưng không định vị nó ngay cả như một hiện hữu trần gian. Họ hân hưởng khoảng cách giữa một trạng thái hiện hữu khác. Nhưng những tinh thần tự do, những kẻ bị dày vò – sinh ra từ thời gian và nhịp điệu – chỉ có thể diễn dịch những trạng thái trung gian của họ như địa ngục mà thôi. Rimbaud đúng là một trong những kẻ đó. Sự chán chường dữ dội mà chàng trải qua là phản ảnh của nỗi trống vắng trong đó chàng sống – dù chàng tạo ra hay không nó vẫn vô hình vô thể. Có một điều có vẻ minh bạch, trong tương quan này là: chàng có thể khiến năng lực của chàng trở thành vô dụng. Đó là một chân lý cục bộ, chắc chắn như thế, nhưng chính cái khía cạnh này của chân lý mà con người văn hoá can dự. Đó là chân lý của lịch sử, có thể nói như vậy. Và lịch sử càng ngày càng có khuynh hướng trở nên đồng tính với thân phận con người.

Thỉnh thoảng, từ đáy sâu, dòng sông ngầm của cuộc đời, những tinh thần vĩ đại trong vóc dáng nhân loại được quăng lên; tựa những trụ điện báo trong đêm, báo trước hiểm nguy đe doạ trước mặt. Nhưng sự kêu gọi của họ vô ích đối với những “đầu tàu bị bỏ đi nhưng hãy còn bốc cháy” (những tinh thần hư nguỵ của thời đại) “chiếm đường rày trong một thời gian.” Sự đào luyện của những tâm hồn này, Rimbaud nói, theo hình ảnh tôi dùng, bắt đầu với tai ương. Chính cái không khí tai ương và thảm hoạ này thẩm thấu bình diện lịch sử của diễn dịch. Những khuôn mặt ma quỷ, bị ma ám bởi họ thấm nhiễm một nỗi đam mê vượt quá họ, là những tên lính canh không biết từ đâu xuất hiện trong những giờ đen tối nhất của đêm đen. Tiếng nói của họ là tiếng nói không ai thèm để ý đến.

Những đầm lầy của văn hoá Tây phương chờ đợi những trains de luxe trật đường rày trong đó những tinh thần kiêu ngạo của chúng ta an toạ thảnh thơi phóng ra những châm ngôn cũ rích. Rimbaud mô tả một cách sống động. “Tôi thấy rõ là những thiếu thốn bực bội của tôi đến từ sự thiếu thức thời của tôi rằng chúng ta thuộc về thế giới Tây phương. Những đầm lầy Tây phương!” Rồi chàng vội thêm: ”Non que je croie la lumìere altérée, la forme exténuée, le mouvement égaré…” (Chàng không phải là kẻ bị lịch sử lừa phỉnh, người ta nhận xét). Trong câu kế tiếp, như thể chàng đã biết số phận của mình tự thiên thu, chàng nói:” L’esprit est autorité, il veut que je sois en. Occi dent”

Đôi khi, trong cuộc tạm trú tại vực sâu, chàng nhận xét, hoàn toàn như thể chàng bị xao động trong giấc ngủ - “C’est la vie encore!” Vâng, đó chính là cuộc đời, không còn nhầm lẫn gì nữa. Nhưng có điều đó là mặt trái của đồng tiền hai mặt. Và chàng là kẻ, mặc dầu chàng phát biểu một cách nhạo báng, song le đã thủ hữu được chân lý, phải cam chịu nó, thấu suốt nó. Chẳng còn cuộc đời nào khác đối với chàng… chàng lựa chọn nó từ bên kia mộ huyệt. Mọi yếu tố của tâm tính chàng đã nằm sẵn đó từ khi chàng mới chào đời; những yếu tố đó cho định mệnh chàng mượn đặc tính độc nhất của sự hấp hối của chàng. Chàng sẽ đau khổ không những bởi cha mẹ chàng muốn vậy, không những thời đại bắt buộc chàng phải đau khổ, chàng sẽ đau khổ bởi toàn thể tiến trình qua đó tinh thần con người đã đi qua. Chàng đau khổ chính bởi tinh thần con người đang trong lao khổ. Chàng sẽ đau khổ như chỉ hạt mầm mới đau khổ thế khi nó rơi xuống mảnh đất cằn khô.

Trong ánh sáng của những suy tư này, làm sao phần thứ hai của cuộc đời chàng phải hiện ra bí ẩn và ly kì hơn phần đời thứ nhất? Phải chăng định mệnh con người không do tính tình định đoạt? Chúng ta trở thành hiện thể của chúng ta, nếu không tất cả chỉ là trò chơi của tình cờ. Những rencontres ngẫu nhiên, những tai biến lạ lùng của số phận, làm nên ý nghĩa siêu phàm. Con người luôn luôn nhất trí với mình, ngay cả khi vào những giây phút bất ngờ trong một cuộc sống đáng ca ngợi khác hắn thình lình phạm một tội ác khủng khiếp. Rất thường khi, phải thế chăng, con người đức hạnh gương mẫu nhất lại phạm những tội ác đáng ghê tởm nhất.

Rimbaud liên tục kêu gọi người ta chú ý tới những nét xấu xa của chàng. Chàng nhấn mạnh những nét đó, đúng thế. Khi trước kia tôi nói rằng nửa phần đời sau của chàng là một cuộc đóng đinh trên cây thập tự, tôi muốn nói theo ý nghĩa rằng chàng đã thả lỏng những xung đột của chàng. Tôi không nói về những tính chất ngoại hạng của chàng, bởi chúng có thể cưu mang chàng qua bất kỳ một cuộc thử thách nào, mà bởi sự kiện chàng đầu hàng với những bản năng của mình. Với Rimbaud sự đầu hàng này gọi là nhường ngôi thoái vị: những con chiến mã bất trị đã chiến thắng yên cương. Biết bao việc giờ đây phải làm để tìm cho ra con đường ngay! Công việc vô cùng tận. Đôi khi dường như chàng chẳng là một con người khác bao nhiêu, như một con người vô mục đích. Thi sĩ vẫn tiếp tục biểu lộ mình, khác chăng là bằng những kiểu mẫu lạ lùng của những nẻo đường vô sở cứ kì dị của chàng. Hãy xem những nơi chốn chàng tự cho phép mình vướng mắc vào, chàng ra vào hầu hết mọi hải cảng châu Âu, đâm bổ đi nay đây mai đó – Chypre, Nauy, Ai Cập, Java, Ả Rập, Abyssinie. Hãy nghĩ tới những cuộc đeo đuổi, nghiên cứu, suy nghĩ khảo sát của chàng! Tất cả đều mang dấu hiệu “ngoại quốc”. Những kì công của chàng táo bạo và không có đặc hứa trạng cũng như những cuộc chạy trốn đầy thi tính của chàng. Cuộc đời chàng chẳng bao giớ tầm thường, dù có vẻ tẻ nhạt và đau buồn đối với chàng. Chàng ở giữa lòng cuộc đời, người thư kí trong văn phòng nghĩ vậy. Vâng, nhiều công dân vững mạnh, chứ đừng nói tới những thi sĩ, sẵn sàng cho đi một tay hay một chân nếu họ có thể bắt chước cuộc sống phiêu lưu của Rimbaud. Nhà bệnh lý học có thể gọi nó là “bệnh xê dịch”, nhưng đối với kẻ quanh quẩn xó nhà thì nó giống như một diễm phúc tuyệt vời. Dĩ nhiên đối với người dân Pháp quốc chí thú chăm bón hoa viên, nó không phải giống như bệnh mất trí hoàn toàn. Cuộc tour du monde [2] với cái dạ dày trống không này hẳn phải khủng khiếp lắm. Nó còn có vẻ điên khùng, khủng khiếp hơn nữa nếu họ biết rằng chàng đã mắc bệnh kiết lỵ vì lúc nào cũng mang trong hầu bao 40.000 quan vàng. Bất cứ việc gì chàng làm cũng đều có vẻ kỳ cục, dị thường, noui. Cuộc hành trình của chàng là một ảo tưởng liên tục không đứt đoạn. Vâng, có những yếu tố đam mê và tưởng tượng trong đó mà chúng ta ngưỡng mộ trong văn phẩm chàng, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng còn có một vẻ lạnh lẽo xung quanh hành động của chàng, giống hệt như trong hành vi của chàng với tư cách một thi sĩ. Ngay cả trong thi ca cũng có ngọn lửa lạnh lẽo này, thứ ánh sáng không hơi ấm này. Đó là một yếu tố mà mẹ chàng đã cho chàng và làm trầm trọng thêm bởi thái độ của bà đối với chàng. Đối với bà, bao giờ chàng cũng khó lường truớc, trò tiêu khiển u sầu của một cuộc hôn nhân không tình yêu. Dù chàng tranh đấu thế nào mặc lòng để tách mình ra khỏi quỹ đạo cha mẹ thì bà vẫn ở đó như một khối đá nam châm đẩy chàng lại phía sau. Chàng có thể giải phóng chàng khỏi những nợ nần khẩn cầu của thế giới văn chương nhưng chẳng bao giờ thoát khỏi bà mẹ. Bà là vì sao đen hấp dẫn chàng một cách tai hại. Tại sao chàng không quên bà hoàn toàn như chàng quên tất cả những kẻ khác, hiển nhiên bà là móc mối của quá khứ mà chàng chẳng thể từ bỏ. Quả thực, bà trở thành dĩ vãng. Dường như cha chàng cũng có máu giang hồ phiêu bạt và cuối cùng, ngay cả khi Rimbaud ra đờ,i ông lang bạt biệt tích mãi mãi. Nhưng đứa con, mặc dù lang thang phiêu bạt để tới góc bể chân trời nào, cũng không thực hiện được sự dứt bỏ này, và giống như cha mà chàng đồng nhẩt giống nhất hai giọt nước, chàng tiếp tục gia tăng nỗi bất hạnh của mẹ. Và do đó chàng lang thang. Chàng lang thang và lang thang cho đến khi chàng đi đến tận xứ miền của kẻ chăn chiên “nơi những con bò u mơ mộng, vùi mình xuống cỏ mọc cao lên tới yếm.” Ở đó chàng cũng mơ mộng nữa, tôi chắc chắn cũng như vậy, nhưng cũng giấc mơ ấy là giấc mơ huy hoàng hay cay đắng thì chúng ta không thể biết được. Chàng không ghi lại nữa, chàng chỉ cho chúng ta những ghi chú bên lề - huấn lệnh, thỉnh nguyện yêu cầu, than phiền. Phải chăng chàng đã đi tới chỗ không cần ghi lại những mơ mộng của mình nữa? phải chăng hành động đã thay thế cho mơ mộng? Những câu hỏi này còn được đặt ra muôn đời. Chỉ có một điều duy nhất rõ rệt – chàng chẳng biết vui là gì. Chàng vẫn còn bị ám ảnh, vẫn còn bị lôi cuốn. Chàng không chịu bỏ rơi sứ mệnh của kẻ sáng tạo để phơi mình ra ánh sáng. Chàng tràn trề năng lực của một kẻ “mà trung tâm ngừng nghỉ” [3]

Vậy thì phải chăng bí mật nằm trong sự kiện đó ? Chắc chắn không nằm trong hành vi bên ngoài của chàng bởi ngay trong một sở thích ngông cuồng nhất thời chàng vẫn nhất trí với chính mình. Ngay cả khi chàng mơ ước một ngày kia có một đứa con trai, một đứa con trai phải trở thành một kỹ sư (sic), chúng ta vẫn có thể theo dõi chàng. Chắc chắn, ý tưởng đó hơi bonleversante, nhưng chúng ta vẫn có thể nuốt nổi. Chàng đã sửa soạn cho chúng ta chờ đợi bất cứ điều gì nơi chàng đó sao? Chàng cũng chẳng đầy nhân tính đó sao? Chàng không có quyền đùa giỡn với những ý niệm hôn nhân, phụ tử và những ý niệm tương tự sao? Thi nhân, kẻ đã có thể đi săn voi, kẻ đã có thể viết thư về gia đình đòi gửi cho một cuốn chuyên thư “Lý thuyết và thực hành về ngành thám hiểm” một người có thể nghĩ đến chuyện đệ trình một bài khảo cứu về bộ lạc Galla tới Hội nghiên cứu địa lý, thì có gì đáng ngạc nhiên lắm đâu cũng khao khát một bà vợ da trắng và một đứa con theo ý riêng? Người ta ngạc nhiên khi thấy chàng đối xử với người tình Abyssinie một cách vô cùng lịch sự. Vậy thì tại sao không khẩn cầu? Có điều lạ lùng là tại sao chàng phải quá lịch sự, trang nhã, ân cần tử tế nữa… phải thỉnh thoảng làm điều tốt lành, như chàng nói? Chúng ta hãy nhớ lại lời nói của Shylock!

Không, điều khó nuốt, điều dính chặt như một cục bưỡu nơi cổ họng, là sự khước từ nghệ thuật của chàng. Đó chính là nơi Monsieur Tout-le-monde bước vào. Đó là tội ác của chàng, như chúng ta thường nói. Tất cả mọi lỗi lầm, tật xấu, sự quá đáng của chàng chúng ta có thể tha thứ hết – trừ điều đó. Đó là một điều sỉ nhục không thể tha thứ được n’est-cd pas ? Ở đây chúng ta phản bội chúng ta biết chừng nào! Tất cả chúng ta đều muốn bỏ đi một thời gian, có phải thế không? Chúng ta chán chê, thất vọng với toàn thể tác phẩm nhưng chúng ta vẫn đeo đuổi. Chúng ta đeo đuổi bởi chúng ta thiếu can đảm, óc tưởng tượng để theo đuổi lời thỉnh nguyện. Chúng ta không đeo đuổi vì cảm tình liên đới. À không! Tình liên đới là một huyền thoại – ít nhất là trong thời đại chúng ta. Tình liên đới dành cho bọn nô lệ chờ đợi cho đến khi thế giới trở thành một bầy sói khổng lồ rồi lập tức chúng sẽ vồ chụp lấy tất cả chẳng trừ một mống nào, và xé nát tựa những con mãnh thú đố kị. Rimbaud là một con sói cô độc.Tuy nhiên chàng không lén lút theo cửa sau lẻn ra với cái đuôi không cúp xuống. Không! Không đời nào. Chàng chế nhạo phái Thi sơn – và quan toà, mục sư, giáo học, những nhà phê bình, những tên cai nô lệ, những tên giàu sụ và những tên lang băm khoác lác, những kẻ đã tạo nên xã hội văn hoá lẫy lừng của chúng ta. (Bạn chớ tự phỉnh phờ mình rằng thời đại chàng tồi tệ hơn thời đại chúng ta! Chớ tưởng trong một giây phút nào rằng những tên bủn xỉn, dở người và sài lang này, những tên thiên tài giả mạo trên mọi bình diện này ngày nay đã tuyệt diệt mà lầm to! Đó là vấn đề của các bạn cũng như của chàng) Không, như tôi đã nói, chàng không bao giờ lo lắng không được chấp nhận… chàng khinh bỉ sự thoả mãn nhỏ mọn mà đa số chúng ta thèm khát. Chàng thấy rằng đó chỉ là một đống nhớp nhúa bầy nhầy, rằng trở thành một kẻ huênh hoang lừng lẫy cũng chẳng đưa chàng tới đâu. Chàng không muốn sống, chàng muốn nhiều chỗ hơn nữa, nhiều tự do hơn nữa: chàng muốn tự biểu lộ mình, dù sao cũng mặc. Và do đó chàng nói: “Tiên sư mày! Tiên sư tất cả tụi bay!” Rồi chàng mở khuy quần và đái lên trên tác phẩm – từ một nơi thật cao, như Céline có lần đã làm. Việc đó, hỡi những kẻ nô lệ thân mến của cuộc đời, quả thực không thể tha thứ được, phải thế chăng? Đó là tội ác, đúng không? Rất đúng, chúng ta hãy tuyên án “Rimbaud, mi bị lên án là có tội. Mi sẽ bị chém đầu tại công trường nhân danh những nghệ sĩ bất mãn của xã hội văn minh” Vào giây phút đó, tôi không nghĩ tới niềm hoan lạc mà đám đông bao giờ cũng đem theo ùa về phía máy chém, nhất là khi có một nạn nhân “lựa chọn”, tôi lại nhớ tới những câu của “Kẻ xa lạ” trong cuốn tiểu thuyết của Albert Camus – và tôi biết thế nào là một tâm hồn bị xua đuổi. Tên procureur đã đặt những câu hỏi hùng hồn với đám khán giả dự phiên toà lên án “ác quỉ” này như sau: “A-t-il seuleme’nt exprime’ des regrets? Jamais, meissieurs, pasune seule fois au cours de l’instruction cet homme n’a paru e’mu de son abominable forfait”. (Lưu ý luôn luôn là tội ác đích thực… không bao giờ là chính tội ác). Và rồi, tới chỗ này nạn nhân tiếp tuc độc thoại nội tâm… “A ce moment, it s’est tour- né vers moi et m’a désigné du doight en con ti nuant à m’ac cabler sans qu’en réalité je comprenne bien pourquoi. Sans doute je ne pouvai pas m’empêcher de reconnaitre qu’il avait raison.je ne regrettaispas beaucoup mon acte Mais tant d’ acharnement m’ étonnait J’aurais voulu essayer lui expliquer cordialement, presque avec affec- tion, que je n’avais jamais du regretter vraiment quel-que chose. J’étais toujours pris par ce qu’il allait arri-ver, par aujourd’hui ou par demain. Mais naturelle- ment, dans l’e’tat òu l’on m’avait mis, je ne pouvais parler à personne sur ce ton. Je n’avais pas le droit de me montrer affectueux, d’avoir de la bonne volonté. Et j’ai essaýe d’écouter en core parce que le procureur s’est mis à parler de mon âme”.

Trong giai đoạn mang tên ”Sự sáng tạo của thi sĩ” trong tác phẩm Hề và thiên thần, Wallace Fowlie nhấn mạnh trên khía cạnh tối thượng của con người Rimbaud khiến chàng tách biệt, theo ý tôi đánh dấu tính cách anh hùng của nhà thơ. Ông viết: ”Thiên tài vừa là chủ vừa là nô lệ của sự im lặng. thi sĩ không những chỉ hiện hữu trong chữ nghĩa mà dưới đó chàng kí tên mình, và còn cả trong khoảng trắng trên trang giấy. Sự lương thiện của chàng nguyên vẹn, và Rimbaud sống nguyên vẹn một cách huy hoàng”.

Cách Rimbaud dùng chữ “nguyên vẹn” rất đáng lưu ý. “Les criminels dégoutent comme des chotrés; moi, fe suis intact, et cam’est égal”. Chàng thấy chủ và nô lệ, quan toà và kẻ tội phạm, kẻ phản kháng và kẻ thủ cựu đều mang một cái ách giống nhau: đó là Địa ngục của họ, bị xiềng xích vào lẫn nhau dưới ảo tưởng là họ khác biệt nhau. Thi sĩ cũng ở trong tình trạng bất như ý đó, chàng ám chỉ vậy. Hắn cũng bị trói buộc, tinh thần hắn không được tự do, trí tưởng tượng của hắn không bay bổng tuyệt vời. Do đó Rimbaud từ chối nổi loạn, chàng chỉ khước từ. Dù chàng không có ý muốn như thế, nhưng đó là cách chắc chắn nhất khiến người ta nhận ra ảnh hưởng của chàng. Bằng cách duy trì một sự im lặng tuyệt đối chàng khiến cho người ta cảm thấy sự hiện diện của chàng. Sự việc đó gần giống như kỹ thuật của thánh nhân. [4] Nó có hiệu quả hơn khua chiêng gõ mõ ầm ĩ. Thay vì trở thành một tiếng nói khác, thi sĩ trở thành chính tiếng nói – tiếng nói của im lặng.

Trong khi bạn đang ở trong thế giới là một thành phần của thế giới, hãy nói lên lời nói của bạn, rồi khép bẫy lại mãi mãi! Nhưng chớ hàng phục, chớ cúi đầu! hình phạt? đày ải. Tự đày ải, bởi người ta đã khu trục thế giới. Phải chăng đó là một định mệnh khủng khiếp? Nó là một định mệnh khủng khiếp chỉ khi nào người ta khao khát ánh sáng danh vọng. Cũng phải có những kẻ ngự trị trong im lặng và trong bóng tối. Thế giới được tạo nên bởi những đối kháng nhị nguyên, trong lãnh vực tinh thần cũng như lãnh vực vật chất. Tội lỗi cũng có chỗ rộng rãi thánh thiện, bóng tối cũng như ánh sáng. Luôn luôn là bóng hình và thực thể. Với con người thần thánh, thế giới hoàng hôn không thể lưu trú được, bởi đó là lãnh vực của rối loạn. Chính trong khu vực này mà Nietzsche đã đập những thần tượng đổ. Trong khu vực này Thượng đế cũng như quỉ Satan chẳng thể được nhận ra. Đó là thung lũng của tử thần mà tinh thần qua lại, khoảng ngừng nghỉ tối tăm trong đó con người mất liên lạc với vũ trụ. Đó cũng chính là “Thời của những kẻ giết người”. Con người không còn rung động vì hứng khởi phấn khích họ đau đớn quằn quại ganh ghét và thù hận. Không có phần ứng điện, họ không biết nhìn nhận một sự căng thẳng nào, họ chỉ biết phản động, con người Trung cổ nhìn nhận Hoàng tử của Bóng tối và tôn kính những sức mạnh tội lỗi. Nhưng con người thời Trung cổ còn nhận ra và công nhận Thượng đế nữa. Do đó cuộc đời họ say mê và thịnh vượng tròn đầy. Ngược lại, cuộc sống con người thời hiện đại xanh xao và trống rỗng. Những sự kinh hoàng mà hắn biết vượt xa bất cứ kinh hoàng nào mà những con người thời đại trước biết tới bởi hắn sống trong một thế giới không thực, bị bủa vây bởi những bóng ma. Hắn không có cả những khả năng hưởng niềm vui hay giải phóng rộng mở cho những kẻ nô lệ của thế giới cổ xưa. Hắn trở thành nạn nhân của sự trống rỗng nội tâm của hắn; sự dày vò của hắn là sự dày vò của nghèo nàn kiệt quệ. Amiel, người biết quá rõ thời đại này và cũng là một “nạn nhân” của nó, đã cho chúng ta một bản trần thuật về ”sự kiệt quệ của thiên tài”. Đó là một trong những câu có tính cách báo động nhất mà con người có thể thốt ra. Nó có nghĩa là tận thế đã gần kề…

Nói về tận thế, tôi không thể không nhớ tới những câu của Amiel khi ông đề cập tới sự kinh tởm mà bút pháp của Taine đã khơi dậy trong ông. ”Nó không gợi ra bất cứ một cảm xúc nào; nó chỉ là một phương tiện thông tin. Tôi tưởng tượng thứ văn chương này có thể sẽ là văn chương tương lai – một thứ văn chương à l’ame’ricaine [5] , khác xa nghệ thuật Hy lạp, cho chúng ta số học thay vì sống, công thức thay vì hình ảnh, cơn giận thoảng qua thay vì sự điên cuồng thần thánh của thần Apollon. Viễn tượng lạnh lẽo sẽ thay thế những nỗi hân hoan của tư tưởng và chúng ta sẽ chứng kiến cái chết của thi ca, bị lột da và mổ xẻ bởi khoa học”.

Trong trường hợp có một cuộc tự tử, chúng ta không quan tâm kẻ đó chết nhanh chóng hay chết bằng một cái chết diên trì, sự hấp hối của hắn dữ dội hay sơ sơ thôi. Chính hành động mới quan trọng đối với chúng ta bởi đột nhiên chúng ta phải nhận thức rằng hiện hữu hay không hiện hữu là những hành động – chứ không phải là tự động từ! – khiến cho cuộc sống và cái chết đồng nghĩa với nhau. Hành động tự sát luôn luôn gây một hiệu quả chấn động; nó lay chuyển chúng ta trong giây lát vào trong ý thức. Nó khiến chúng ta nhận thức được rằng chúng ta đui mù và chết chóc. Đặc trưng biết bao cái thế giới bị chế ngự bởi bệnh hoạn của chúng ta khi luật pháp phải nhắm tới những toan tính này bằng một sự nghiêm túc giả đạo đức! Chúng ta chẳng muốn được nhắc nhở về điều chúng ta bỏ dở; chúng ta sợ hãi co rúm lại khi nghĩ rằng từ bên kia nấm mồ ngón tay của kẻ đào thoát sẽ mãi mãi chỉ thẳng vào chúng ta.

Rimbaud là sự tự sát sống động. Đó là điều không thể chịu nổi đối với chúng ta. Theo lẽ ra chàng có thể kết thúc sự tự sát ấy vào năm mười chín tuổi, nhưng không, chàng kéo dài nó ra, chàng bắt chúng ta chứng kiến, qua sự cuồng dại của một cuộc đời lãng phí hư hao, cái chết sống động mà tất cả chúng ta đều phải gánh chịu. Chàng hoạt kê sự cao cả của chàng đến nỗi chúng ta có thể chửi rủa những nỗ lực cỏn con của chúng ta nhiều hơn nữa. Chàng làm việc quần quật như một tên mọi đen, đến nỗi chúng ta có thể ham thích cuộc sống nô lệ mà chúng ta đã chấp nhận. Tất cả những đặc tính mà chàng tỏ lộ trong cuộc phấn đấu với đời năm mười tám tuổi là những đặc tính được tạo ra “để thành công” như chúng ta nói ngày nay. Rằng chàng phải được tạo ra bằng thành công, một sự thất bại cay đắng như thế này là chiến thắng của chàng. Nó đòi hỏi một lòng can đảm quỷ quái (ngay cả khi không chủ tâm) để khiến cho bằng chứng ấy có thể chứng minh được. Khi chúng ta thương xót chúng ta, thực tế, vì thiếu can đảm để noi gương chàng. Chúng ta không thể chịu đựng được quá nhiều cuộc rời bỏ hàng ngũ – có thể chúng ta sẽ bị mất tinh thần. Điều chúng ta muốn là trở nên nạn nhân của cuộc đời để hợp quần với nhau trong bĩ cực. Chúng ta biết rõ nhau, quá biết rõ nhau, chúng ta ghét lẫn nhau. Nhưng chúng ta tiếp tục giữ phép lịch sự của loài sâu bọ. Chúng ta cố gắng giữ lịch sự ngay cả khi chúng ta đang tàn sát lẫn nhau… đó là những chữ thông thường, có phải thế không? Những chữ đó sẽ được nhắc nhở bởi Lawrence, bởi Céline, bởi Malaquais – và nhiều người khác. Và những người dùng những chữ này sẽ bị chửi rủa là những kẻ phản bội, chủ trương đào thoát như những con chuột bỏ con tàu đắm. (Như thể những con chuột chưa hề tỏ ra cực kỳ thông minh!) Nhưng con tàu đang chìm đắm, không thể có hai lối thoát cho trường hợp này. Lawrence nói về điều ấy trong những bức thư thời chiến của ông, và trong khi viết về cuốn Moby Dick nữa…On va òu l’on pe’se, St. Exupe’ry tuyên bố như vậy trong những trang cảm hứng trong tác phẩm Pilote de Guerre của ông.

Chúng ta đang ở trên đường chìm đắm, không còn hồ nghi gì về điều đó, nhưng đâu là Con tàu cứu nạn sẽ mang chúng ta qua cơn Đại hồng thuỷ? Và nó sẽ được làm bằng chất liệu gì? Đối với những kẻ được lựa chọn hiển nhiên họ sẽ phải được tạo nên bằng tính chất khác hẳn những con người đã làm nên thế giới này. Chúng ta đang đi tới mạt kỳ và đó là một mạt kỳ khốc liệt đối mặt với chúng ta. Những sự báo trước truyền đạt bằng ngôn từ đã ngừng cảm kích chúng ta từ lâu. Đã tới lúc cần tới hành động, có thể hành động tự tử nữa, nhưng hành động thì mang đầy ý nghĩa.

Cử chỉ khước từ cửa Rimbaud đúng là một hành động đó. Nó chuyển hoán văn chương. Nó sẽ chuyển hoán cả cuộc đời? Tôi không tin. Tôi không tin bất cứ cái gì ngăn cơn sóng thuỷ triều lại đe doạ dìm đắm chúng ta. Tuy nhiên có một điều mà sự đi đến của chàng đã hoàn thành – nó chuyển hoá những kẻ nào trong chúng ta còn tin tưởng, còn hoài vọng tới tương lai, thành ”những mũi tên khao khát một bờ bến khác.”

Đối với con người, điều quan trọng liên quan đến sự chết là hắn có thể phân biệt nó với sự băng hoại. Người ta chết vì một điều gì đó, nếu hắn chết bất cứ cách nào. Trật tự và hoà điệu khởi lên từ cõi hỗn mang nguyên thuỷ, như huyền thoại kể cho chúng ta, hoà trộn cuộc đời chúng ta với mục đích ở trên chúng ta, một mục đích mà chúng ta sẽ hiến mình cho khi chúng ta viên thành ý thức chúng ta. Sự dâng hiến này được thể hiện trên lễ đài sáng tạo. Cái chúng ta sáng tạo ra bằng tay và lưỡi vô giá trị, chỉ cái chúng ta sáng tạo ra bằng cuộc đời chúng ta mới đáng kể. Chỉ khi nào chúng ta khiến mình trở thành một phần của sự sáng tạo, lúc đó chúng ta mới bắt đầu sống.

Không phải cái chết mà chính là sự sống thách thức chúng ta ở mỗi bước đường. Chúng ta đã tôn kính những kẻ ngấu nghiến cái chết ad nauseam , nhưng còn về những kẻ chấp nhận sự thách thức của cuộc đời thì sao? Chúng ta tôn kính những người này bằng cách nào? Từ Lucifer tới Phản vương có một ngọn lửa đam mê bốc cháy mà con người luôn luôn tôn kính chừng nào hắn chỉ là một con người; chính vì chống đam mê, ngọn lửa của cuộc đời này, mà chúng ta phải đối kháng sự chấp nhận thanh thản của kẻ giác ngộ. Người ta phải đi qua ngọn lửa để biết thế nào là cái chết và ghì ôm nó. Sức mạnh của kẻ phản kháng, kẻ tội lỗi, nằm trong sự cứng cỏi của hắn, nhưng sức mạnh đích thực nằm trong sự tuân phục cho phép người ta dâng hiến cuộc đời mình, bằng lòng sùng kính, cho một cái gì vượt quá mình. Sức mạnh của kẻ này đưa tới cô lập bất lực, trong khi sức mạnh của kẻ kia đưa tới đoàn kết, sự phong phú bền lâu.

Nhưng đam mê luôn luôn có raison d’être [6] của nó, và lòng đam mê của kẻ sáng tạo, khiến cuộc sống của hẳn trên mặt đất thành một cuộc Đóng đinh trên cây Thập tự. Lòng đam mê đó lên đến cao độ của nó trong khổ nạn của một đấng Christ, kẻ nhập thể mọi nỗi thống khổ của con người. Lòng đam mê của thi sĩ là kết quả của viễn tượng của hắn, của khả năng nhìn cuộc đời trong tinh thể và toàn thể của nó. Một khi viễn tượng này tan tác hay xáo trộn, đam mê này sẽ trôi đi. Trong lãnh vực nghệ thuật chúng ta hoàn toàn đi tới tận cùng của đam mê. Dù chúng ta còn tiếp tục khu trục những vĩ nhân sáng tạo thì tác phẩm của họ vẫn còn nằm như những mộ chí ngả nghiêng giữa những huy hoàng hãy còn nguyên vẹn, hãy còn đứng thẳng của thời cổ xưa. Mặc dầu tất cả sức mạnh của nó, xã hội không thể chịu nổi nghệ sĩ nếu nó không thấu hiểu viễn tượng của nghệ sĩ. Trong một thời gian dài xã hội hoàn toàn không thèm để ý tới thông điệp của nghệ sĩ. Tiếng nói đi đến trong dửng dưng cuối cùng trở thành im lặng. Trước sự hỗn loạn của xã hội, nghệ sĩ trả lời bằng anaudia. Rimbaud là người thứ nhất tỏ thái độ. Tấm gương của chàng lôi cuốn chúng ta. Chúng ta đừng trông mong những đệ tử của chàng giữa những khuôn mặt văn nghệ của thời đại chúng ta, tốt hơn chúng ta nên tìm kiếm họ trong đám những kẻ tăm tối, lu mờ, giữa những người trẻ tuổi bị bắt buộc phải bóp chết thiên tài họ. Trước hết chúng ta hãy nhìn vào xứ sở Hoa Kỳ nơi thuế qua đường nặng nhất. Trong hình thức phản kháng mới này chúng ta dựa vào sự phá huỷ trứng nước. Đó là cách chắc chắn nhất để phá huỷ nền tảng toà lâu đài rung rinh của một xã hội ruỗng nát. Hiệu quả của nó mau lẹ và bền lâu hơn sự tàn phá tạo ra bởi Siêu pháo đài. Nếu thân phận của thi sĩ là không có nơi, không có phần, trong sự ra đời của một trật tự mới thì lúc đó hắn sẽ làm nó nổ tung ngay tại trung tâm. Sự đe doạ này không phải là tưởng tượng, nó có thực. Đó là khúc nhạc dạo đầu của một vũ khúc của thần chết khủng khiếp hơn vũ khúc của thần chết thời Trung cổ gấp bội.

Những tinh thần sáng tạo duy nhất của thời hiện đại đều là những kẻ có chất ma quỷ; trong họ hội tụ nguồn đam mê đang trôi dạt đi. Họ đã phát kiến lại dòng đời, bữa yến tiệc thời cổ mà Rimbaud đã tìm cách khôi phục lại sự thèm khát, nhưng phương tiện cảm thông của họ đã bị cắt bỏ. Con người không còn cảm thông nhau, đó là thảm kịch của thời hiện đại. Xã hội từ lâu đã ngừng là một cộng đồng, nó đã bị vỡ nát thành những khối nguyên tử bất lực bơ vơ. Cái duy nhất có thể kết hợp nó – sự hiện diện và sùng bái Thượng đế - thì lại thiếu xót.

Khi trong lúc thanh xuân, Rimbaud lấy phấn viết lên cửa nhà thờ:”Thượng đế chết đi!” chàng tự chứng tỏ gần gũi Thượng Đế hơn những sức mạnh thống trị Giáo hội. Sự kiêu căng và thách đố của chàng không bao giờ nhắm vào kẻ nghèo khó, bất hạnh, kẻ tín đồ chân chính; chàng đánh phá những kẻ thoán đoạt và giả hình, đánh phá tất cả những gì giả mạo, hư ảo, giả đạo đức và tiêu diệt đời sống. Chàng muốn trái đất lại – trở thành Thiên đàng như trước kia nó đã, như nó đang hiện hữu dưới tấm màn ảo tưởng và vô minh. Chàng hoàn toàn dửng dưng với cái Thiên đàng ma quỉ được định vị trong một cõi bên kia thần thoại. Ở đây và bây giờ bằng xương thịt, như những thành phần của một tập thể vĩ đại rực hồng với lửa sống – đó là cách chàng dự liệu Đại lễ Giáng sinh trên trần gian.

“On meaur pour cela don’t on peut vivre” [7] . Đây không phải chính lời chàng nói; nhưng ý nghĩa thì là ý nghĩa của chàng. Chết nằm trong chia cách, trong xa lìa sống động. Nó không có ý nghĩa đơn thuần là ngừng hiện hữu. Một cuộc đời vô nghĩa ở trên đời này sẽ chẳng có một chút ý nghiã nào trong cõi âm ti mai hậu. Tôi tin rằng Rimbaud hiểu rõ điều đó. Chàng chấm dứt đấu tranh trên một bình diện khác. Sự khước từ của chàng trong ý nghĩa này là một sự khẳng định. Chàng nhận thức rằng chỉ trong im lặng và bóng tối những yếu tố nghệ thuật mới có thể được phục hồi. Chàng tuân theo những luật tắc của hiện thể chàng tới cùng, đập tan mọi hình thể kể cả hình thể chàng. Ngay bước đầu văn nghiệp, chàng đã hiểu điều mà những người khác chỉ có thể hiểu cuối đường nếu có bao giờ, rằng ngôn từ thiêng liêng không còn hiệu năng nữa. Chàng nhận thức được rằng nọc độc của văn hoá đã biến đổi cái đẹp và chân lý thành xảo diệu và lường gạt. Chàng đặt cái Đẹp lên lòng và thấy nó cay đắng. Chàng từ bỏ nó. Đó là cách duy nhất chàng còn có thể tôn vinh nó. Có phải trong đáy sâu địa ngục chàng nói lại điều đó không? “Deserreurs qu’on me soufflle: magies, faux, parfums, musique pue’rile.” (Theo tôi thì đó là câu văn ám ảnh nhất, làm bối rối nhất trong tập Mùa địa ngục). Khi chàng khoe rằng chàng thủ đắc đủ mọi tài năng, chàng muốn nói – trên bình diện giả dối này! Hoặc – với “chiếc mặt nạ văn hoá dối trá” này. Dĩ nhiên, trong lãnh vực này, chàng là một bậc thầy. Nhưng đó là lãnh vực của rối loạn, thế giới Mamser. Nơi đây tất cả đều có giá trị ngang nhau và do đó vô giá trị. Bạn có muốn tôi huýt gió? Bạn có muốn một danse du ventre? Được lắm! Bạn muốn gì cũng được, cứ việc gọi tên ra!

Tất cả mọi điều mà Rimbaud nói trong tác phẩm của chàng nhằm đề cao chân lý này, là: ”chúng ta không sống giữa những sự kiện mà giữa những tư tưởng sâu xa và những biểu tượng.” Niềm bí ẩn cố hữu trong tác phẩm chàng thấm nhiễm cuộc đời chàng. Chúng ta không thể giải thích những hành động của chàng, chúng ta chỉ có thể cho phép chúng phát hiện điều chúng ta muốn biết. Chàng là một bí ẩn đối với chàng cũng như đối với những người khác, chàng bị huyền hoặc quá bởi chính những lời nói của chàng cũng như bởi cuộc sống sau này trong thế giới. Chàng kiếm tìm thế giới bên ngoài làm một nơi ẩn trốn. Một nơi ẩn trốn cái gì? Có lẽ ẩn trốn những kinh hoàng do sự sáng suốt đem lại. Chàng giống như một vị thánh đảo ngược lại. Với chàng ánh sáng tới trước, kế đó là tri thức và kinh nghiệm về tội lỗi. Tội lỗi là một sự bí ẩn đối với chàng; chàng phải khoác tội lỗi lên người, như những kẻ xưng tội ngày xưa tiếp nhận áo lông.

Chàng chạy đi, chúng ta nói. Nhưng có lẽ chàng chạy về phía một cái gì. Hiển nhiên là chàng tránh một thứ bệnh điên này chỉ để trở thành nạn nhân của một thứ bệnh điên khác. Chàng dãy dụa tìm lối ra tựa một người vùng vẫy với một cái áo quá chật. Chẳng bao lâu sau khi một thảm kịch xoay sang hướng khác thì một thảm kịch khác đã đuổi riết phủ vây chàng. Chàng là một người bị đánh dấu. “Chúng” theo đuổi chàng. Những cuộc chạy trốn đầy thi tính của chàng, tựa những giai đoạn tiến triển tiệm tiến của một trạng thái xuất thần liên tục, song song với những cuộc chạy trốn vô nghĩa xô đẩy, chàng vội vã từ góc trái đất này tới góc khác. Biết bao nhiêu lần chàng bị điệu trở về, tan nát tả tơi và thảm bại! Chàng nghỉ ngơi đủ để sửa chữa – giống như một chiếc tuần dương hạm hay một oanh tạc cơ trinh sát. Sẵn sàng lăn xả vào hành động nữa. Vù! Chàng cất cánh bay về phía mặt trời. Chàng tìm kiếm ánh sáng – và hơi ấm nhân loại. Nhưng thần cảm của chàng dường như đã rút hết sức nóng tự nhiên của chàng, trong máu chàng là băng rã. Chàng càng bay xa bao nhiêu, nó càng trở nên đen tối bấy nhiêu. Trái đất bị bao bọc trong mây mê và đêm tối. Đỉnh cao tuyết phủ di chuyển về trung tâm.

Dường như số phận chàng là có cánh và bị xích chặt vào trái đất. Chàng ra công gắng sức vùng vẫy như thể muốn làm những vì sao xa thẳm, chỉ để thấy mình ngập ngụa trong bùn lầy. Quả thực, chàng càng vỗ cánh bao nhiêu, càng thấy mình bị giam cầm chặt cứng bấy nhiêu vào lòng đất. Trong chàng lửa và không khí giao chiến với đất và nước. Chàng là một con chim ưng bị xích vào một mỏm đá. Những con chim nhỏ là những kẻ moi móc tim chàng ra ăn.

Thời của chàng chưa tới. Quá sớm, cái viễn tượng Giáng sinh trên trần gian này! Quá sớm, niềm hy vọng phế bỏ những thần thánh giả, những mê tín thô thiển, những thần dược trị bá chứng rẻ tiền. Chủng loại của trái đất này phải làm việc một thời gian lâu dài trước khi vươn lên ánh sáng của sớm mai hồng. Sớm mai là một chữ nặng trĩu ý nghĩa đối với chàng… Trong thâm tâm Rimbaud dường như đã hiểu thấu. Không bao giờ chúng ta được diễn giải niềm ao ước tự do ghê gớm của chàng – đó là một niềm ao ước của một con người rủi phận! – như một ước nguyện cứu rỗi cá nhân cá nhân của chàng [8] . Chàng nói về chủng loại Adam, biết rõ đời sống vĩnh cửu lại đánh đổi đời sống đó lấy tri thức, chính là cái chết. Nhiệt tâm ngoại đạo của chàng là lòng nhiệt thành của một tâm hồn nhớ về cội nguồn. Chàng không tìm kiếm đường trở về Thiên nhiên theo kiểu Rousseau. Không bao giờ. Chàng tìm kiếm ân sủng. Nếu chàng có thể tin tưởng được, chàng đã thuyết phục linh hồn chàng từ chối từ lâu rồi. Chính tâm hồn đã tê liệt. Những cuộc đối thoại tay đôi với em gái chàng ở nhà thương khơi lại không những vấn đề khiến đã khiến tâm hồn chàng căng thẳng suốt đời, mà còn làm sống dậy cuộc tìm kiếm. Em gái chàng tin tưởng một cách vô cùng chân thành và tự nhiên, tại sao chàng không tin tưởng? Họ không cùng một dòng máu sao?

Chàng không còn hỏi em gái tại sao cô tin nữa, mà chỉ hỏi – cô có tin không? Đó là cuộc nhảy vọt mà chàng phải thu góp tất cả tàn lực để thực hiện. Đó là cuộc nhảy vột ra khỏi mình, sự phá tán mọi trói buộc. Điều mà chàng tin tưởng không quan trọng nữa, chỉ có tin tưởng mới quan trọng. Trong một trong những cuộc xoay chiều cảm tính, đặc điểm của tác phẩm Mùa địa ngục, sau một cuộc bột phá say sưa trong đó chàng chủ trì rằng lý trí đã lại ra đời trong chàng, rằng chàng thấy thế giới tốt lành, chúc phúc cuộc đời, yêu thương anh em đồng loại, chàng thêm:” Ce ne sont plus des promesses d’enfance. Ni l’espoir d’ échapper à la vieillesse et à la mort. Dieu fait ma force et je loue Dieu”. [9] Thượng đế, sức mạnh của con người này không phải là một sức mạnh thần thánh Kytô giáo cũng không phải là một thần tượng ngoại đạo. Ngài chỉ là Thượng đế, Ngài có thể đến với tất cả mọi người thuộc bất cứ chủng tộc, giống nòi hay văn hoá nào. Ngài có thể được tìm thấy ở bất cứ không gian nào, khỏi cần mất công thực hành thiền định. Ngài là chính Hoá công và sẽ cón tiếp tục tồn tại dù con người tin hay không.

Nhưng một con người càng có khả năng sáng tạo bao nhiêu, càng chắc chắn hắn nhận thức được đấng Tạo hoá của hắn bấy nhiêu. Những kẻ chống cưỡng lại quyết liệt nhất chỉ chứng tỏ sự hiện hữu của Ngài rõ rệt thêm bấy nhiêu. Cuộc chiến đấu chống lại cũng can trường như cuộc chiến đấu ủng hộ, sự sai biệt nằm trong sự kiện kẻ chiến đấu chống lại quay lưng lại phía ánh sáng. Hắn đánh phá chính bóng hắn. Chỉ khi nào bóng này khiến hắn kiệt lực, khi cuối cùng hắn quỵ ngã, thì ánh sáng lướt trên hắn mới có thể vén lên cho hắn thấy ánh sáng huy hoàng mà hắn tưởng lầm là những bóng ma. Sự hàng phục này của lòng kiêu ngạo và vị kỉ đòi hỏi nơi tất cả, nhiều hay ít.

Một nghệ sĩ có quyền gọi mình là một kẻ sáng tạo chỉ khi nào hắn thầm chấp nhận với hắn rằng mình chỉ là một dụng cụ. “Tác giả, kẻ sáng tạo, thi sĩ! Con người này chưa hiện hữu”. Rimbaud nói như thế trong niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ. Nhưng chàng đã phát biểu một chân lý sâu xa. Con người không sáng tạo gì bằng và bởi bản thân. Tất cả đều là thụ tạo, tất cả đều được dự liệu… tuy nhiên vẫn có tự do. Tự do ca ngợi Thượng đế. Đó là màn trình diễn cao cả nhất con người có thể đóng; khi hắn hàng động như vậy, hắn gần kề bên đấng Sáng tạo. Đó là sự tự do cứu rỗi của hắn, bởi vì đó là đường lối duy nhất để nói ừ với đời sống. Thượng đế soạn hoà âm, Thượng đế điều kkhiển giàn nhạc. Vai trò của con người là lấy chính thân thể mình làm nên âm nhạc. Thiên nhạc, bien entendu, vì tất cả những thứ nhạc khác chỉ là loạn nhạc.

Chẳng bao lâu sau khi thi hài được đem lên tàu chở về, bà mẹ Rimbaud đã vội vã thu xếp ma chay. Tấm hình hài khô héo, bị cưa đục của chàng, lỗ chỗ với những dấu vết hấp hối bị vùi xấp chôn nghiêng ngay lập tức. Như thể bà tránh bệnh dịch hạch. Có lẽ bà đã tẩy uế nhà cửa khi từ nghĩa trang nơi bà cùng cô em gái chàng Isabelle đi đưa đám trở về: hai người này, không ai hơn ai, đi theo xe tang. Cuối cùng, sau khi thoát khỏi “thiên tài”, bây giờ bà Rimbaud lại có thể để hết thì giờ sống yên ổn với súc vật và mùa màng, với đám lân bang nhỏ bé của đời sống tỉnh lị nhỏ bé của bà.

Thật là một bà mẹ quá đáng! Hiện thân đích thực của xuẩn ngốc, mê tín, kiêu căng và ngoan cố. Bất cứ khi nào kẻ thiên tài bị quấy rầy đe doạ tống vào địa ngục của chàng, bất cứ khi nào tinh thần dày vò của chàng suy nhược, là đã có ngay bà ở đó để lấy gậy gộc đâm thọc chàng hay lấy dầu sôi đổ lên vết thương chàng. Chính bà là người đã xô đẩy chàng vào đời, bà là người đã khước từ chàng, phản bội chàng, hành hạ chàng. Bà còn đánh cắp của chàng ân huệ mà bất cứ một người Pháp nào cũng ao ước – sự vui sướng có một đám ma chu đáo.

Thân thể cuối cùng được trao cho dòi bọ, Rimbaud trở về cõi u minh, để tìm bà mẹ đích thực ở đó. Sống trên đời, chàng chỉ biết mỗi mụ phù thuỷ đó, người đàn bà độc ác cay nghiệt đó. Cuộc phản kháng chống lại sự độc tài và xuẩn ngốc của bà đã khiến chàng trở thành một kẻ cô đơn. Bản chất tình cảm của chàng đã hoàn toàn tàn tật, chàng vĩnh viễn không thể cho hay nhận tình yêu. Chàng chỉ biết mỗi một điều là làm cách nào lấy ý chí chống lại ý chí. Giỏi lắm chàng biết xót thương nhưng không bao giờ biết yêu thương.

Trong thời tuổi trẻ của chàng chúng ta thấy chàng là một kẻ có nhiệt huyết, một người cuồng tín. Không thoả hiệp. Chỉ đi ngược trở lại . Là một con người cách mạng, chàng tìm kiếm một cách tuyệt vọng một xã hội lý tưởng trong óc chàng có thể dịt cầm máu vết thương chia cách. Đó là vết thương chí tử chàng chẳng bao giờ chữa khỏi. Chàng trở thành một kẻ duy tuyệt đối, bởi vì không có gì có thể bắc cầu qua khoảng trống không giữa thực tại và lý tưởng ngoài một sự hoàn hảo trong đó mọi sai lầm và giả dối được lấp bằng. Chỉ có sự hoàn hảo mới có sự tẩy xoá khỏi ký ức một vết thương sâu hơn dòng sông cuộc đời.

Không thể thích nghi hay liên hợp, chàng thao thức tìm kiếm – chỉ để khám phá ra rằng nó không ở đây, không ở kia, không phải cái này, không phải cái kia. Chàng học được không tính của mọi sự vật. Sự thách đố của chàng là điều tích cực duy nhất còn lại trong khoảng trống không của phủ nhận mà trong đó chàng vùng vẫy chới với. Nhưng sự thách đố không kết quả; nó phá hoại ngầm tất cả sức mạnh bên trong.

Sự phủ nhận này bắt đầu và chấm dứt với thế giới tạo vật với những kinh nghiệm sans suite [10] không mang lại một hiểu biết nào này. Mặc dù kinh nghiệm về cuộc đời của chàng lịch duyệt thế nào, nó chẳng bao giờ đi xuống đủ sâu với chàng để cho nó ý nghĩa. Bánh lái đã mất, và cả neo tầu cũng vậy. Chàng bị bắt buộc phải trôi dạt. Và do đó con tàu mắc cạn trên mỗi vũng nước nông và cồn cát, chịu trận một cách yếu đuối mọi lay lắt tàn phá của bão tố, cuối cùng bắt buộc phải tan rã từng mảnh, trở thành những miếng ván vụn trôi nổi lênh đênh. Kẻ nào muốn giong buồm vượt qua biển đời phải trở thành một nhà hàng hải; hắn phải học tính gió và con nước, luật và biên cảnh. Một Kha Luân Bố không được xem thường luật lệ, ông mở rộng luật ra. Ông cũng chẳng giong buồm chạy về một thế giới tưởng tượng. Ông tình cờ phát kiến ra một thế giới mới. Nhưng những việc ngẫu nhiên như thế này là những kết quả chính đáng của lòng gan dạ. Lòng gan dạ này không phải là liều lĩnh mà là sản phẩm của lòng xác tín nội tâm.

Thế giới mà Rimbaud tìm kiếm khi chàng là một thanh niên là một thế giới bất khả. Chàng khiến nó trở nên tràn đấy, giàu có, rung động, huyền bí – để bù trừ cho sự thiếu thốn những đức tính này của thế giới mà chàng ra đời. Thế giới bất khả là một thế giới ngay cả thần thánh cũng không ngụ cư được; đó là lãnh địa của mộng mị mà đứa trẻ thơ tìm đến khi nó không được bú ẵm nữa. (Có lẽ đây là nơi những con bò nằm mộng, và toàn thể những súc vật kỳ lạ lấm chấm trên bờ Biển chết). Thức tỉnh, cái bất khả chỉ có thể chiếm được bằng cách tấn công, và tên đặt cho việc này là điên cuồng. Có thể tại nơi những vật chướng ngại, trong thời kỳ Công xã đẫm máu, mà Rimbaud rẽ ra khỏi con đường định mệnh hung hiểm. Chúng ta chỉ biết rằng, ở bên bờ vực thẳm, chàng quăng tất cả đi. Nhất định không phải cái đó! Chàng hàng động như một kẻ nhìn thấu suốt những điều gian trá và ảo tưởng. Chàng không sắp trở thành một kẻ bịp bợm, một kẻ khéo lợi dụng. cuộc cách mạng nào cũng rỗng tuếch và bạo động như cuộc sống khuất phục và đầu hàng thường nhật vậy thôi. Xã hội không là gì hết ngoài một tập thể gồm những kẻ ngu ngốc, côn đồ và hung ác vô vọng. Từ đó chàng sẽ không tin vào bất cứ điều gì cả ngoài mình ra. Nếu cần, chàng sẽ ăn đồ dơ của chính chàng. Từ bây giờ, chẳng bao lâu nữa sẽ khởi đầu cuộc chạy trốn, cuộc phiêu đãng vô mục đích, cuộc phiêu bạt nổi trôi vô định. Tất cả những thực tại nhơ nhớp, đê tiện đáng khinh lẽ ra chàng không có một mảy may nay trở thành đồ ăn hàng ngày của chàng. Đó là sự bắt đầu đi xuống, và chẳng có sợi chỉ mành nào đưa chàng ra khỏi mê cung tăm tối hết.

Sự cứu rỗi duy nhất chàng nhận thức được là tự do. Và tự do đối với chàng có nghĩa là chết chóc như sau này chàng sẽ khám phá ra.

Không một ai minh giải chân lý rõ rệt hơn Rimbaud, rằng sự tự do của một cá nhân cô lập là một ảo ảnh. Chỉ có cá nhân thoát ly biết thế nào là tự do. Sự tự do này là tự do kiếm được. Đấy là sự giải thoát tiệm tiến, một cuộc chiến đấu rộng rãi và kiên trì trong đó những ảo tưởng bị yểm trừ. Những ảo tưởng không bao giờ bị sát hại, bởi ma quái chỉ thực như những sự sợ hãi kêu gọi chúng tới. Tự biết mình, như ngày xưa có lần Rimbauud khuyên trong Lá thư của kẻ tiên tri thấu thị nổi tiếng, là tự giải trừ mình khỏi ma quỷ ám ảnh mình. Giáo hội đã chẳng phát minh ra những mối kinh hoàng của tâm trí và linh hồn này, xã hội cũng chẳng tạo ra những cấm đoán quấy rầy và làm phiền bực người ta. Một giáo hội bị lật đổ và một giáo hội khác được dựng lên; một hình thức xã hội này bị đào thải, một hình thức xã hội khác vươn lên. Những sức mạnh và những sự thoát ly vẫn tồn tại. Những kẻ nổi loạn chỉ tạo ra những hình thức độc tài mới. Bất cứ điều gì con người phải đau khổ như một cá thể, tất cả mọi người đều phải đau khổ như những thành phần của xã hội. (Abelard đi đến chỗ thấy rằng Thượng đế đau khổ ngay cả trước cái chết của một con thỏ.)

“Tất cả những gì chúng ta được dạy dỗ đều sai lầm”, Rimbaud quả quyết như vậy trong lúc tuổi trẻ. Chàng nói đúng, hoàn toàn đúng. Nhưng sứ mệnh của chính ta trên trái đất này là chiến đấu chống lại sự giáo huấn sai lầm bằng cách biểu lộ chân lý trong chúng ta. Ngay cả khi đơn độc một thân một mình chúng ta cũng có thể hoàn thành phép lạ. Nhưng phép lạ vĩ đại là đoàn kết mọi người trong chiều hướng giác ngộ. Chìa khoá là lòng Từ bi bác ái. Những sự dối trá, giả mạo, lường gạt, dù tàn nhẫn như thực chất của chúng, đều phải được sống hết và vượt qua toàn thể. Tiến trình tiếp diễn bằng danh từ hy sinh khắc khổ.


[1]Chúng ta hãy hân hoan! Ta là Thượng đế, và ta đã vẽ bức hí hoạ này.” (Nietzsche viết từ dưỡng trí viện.)
[2]Pháp văn trong nguyên bản: đi vòng quanh thế giới – G. c. D.
[3]“Điều khó khăn của tôi bây gờ là thoát khỏi mình” Nietzsche viết từ dưỡng trí viện, ký tên “Kẻ bị đóng đinh”
[4]Lão Tử đã chẳng cùng nhắm đến điều đó sao?
[5]Pháp văn trong nguyên bản: theo kiểu Mg G. c. D.
[6]Pv: lý do hiện hữu, G. c. D.
[7]Pháp văn trong nguyên bản: “Người ta chết vì cái mà nhờ đó người ta có thể sống.” G.c.D.
[8]“Tôi phải có những kẻ giống tôi!” Lautréamont nói.
[9]Pháp văn trong nguyên bản: “Đây không phải là những lời hứa hẹn trẻ con. Cũng không phải là hy vọng thoát khỏi tuổi già và cái chết. Thượng đế làm nên sức mạnh của tôi và tôi ca ngợi Thượng đế” G. c. D.
[10]Pháp văn trong nguyên bản: rời rạc G. c. D.

Nguồn: Henry Miller, The Time of the Assassins - A Study of Rimbaud, New Directions 1955. Bản Việt ngữ của Nguyễn Hữu Hiệu: Thời của những kẻ giết người - Nghiên cứu về Rimbaud. Hồng Hà, 1970.

===

No comments: