Friday, November 14, 2008

HENRY MILLER * THỜI CỦA NHỮNG KẺ GIẾT NGƯỜI * NGHIÊN CỨU VỀ RIMBEAU I

===

Henry Miller
Thời của những kẻ giết người - Nghiên cứu về Rimbaud
Nguyễn Hữu Hiệu dịch


===

Tựa

Đúng một trăm năm trước đây, vào tháng Mười vừa qua, Rimbaud ra đời. Tại Pháp, lễ tưởng niệm đệ bách chu niên được tổ chức một cách ngoạn mục. Những nhà văn lừng danh khắp thế giới đều được mời đến để dự cuộc hành hương tới Charleville, nơi chôn rau cắt rốn của chàng. Những buổi lễ mang tính chất quốc gia đại sự. Về phần Rimbaud, có lẽ chàng cũng trở mình trong mộ. Từ ngày mất đi, phần lớn tác phẩm vĩ đại của Rimbaud đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Bengali. Ở bất cứ nơi nào còn biết cảm thi ca và phiêu đãng, tên chàng là một tiếng nói cửa miệng. Trong những năm gần đây, sự sùng bái của những tín đồ Rimbaud đã lên đến những kích thước dị thường và sách biên khảo về cuộc đời và tác phẩm chàng gia tăng bằng những bước nhẩy vọt. Không một thi sĩ nào của thời hiện đại có thể nói là đã nhận được sự chú ý và tôn kính nhường ấy.

Từ Một mùa địa ngục và Thần cảm, chỉ có một số ít thơ của chàng tìm được đường vào ngôn ngữ chúng ta. Ngay cả số lượng dịch thuật ít ỏi này cũng đã cho thấy một sự sai biệt sâu xa và không thể tránh được trong cách diễn dịch. Tuy nhiên, dù bút pháp và tư tưởng khó khăn và bất khả lãnh hội đến mức nào chăng nữa, Rimbaud không phải là không thể dịch được. Khu xử công bình tác phẩm chàng lại là một chuyện khác. Tuy vậy trong Anh ngữ, chúng ta phải tạo ra được một thi sĩ nào khả dĩ có thể làm cho Rimbaud điều mà Baudelaire đã làm cho thơ của Poe, hay Nerval đã làm cho tác phẩm Faust, hoặc Morel và Larbaud đã làm cho Ulysses.

Tôi muốn làm sáng tỏ sự kiện rằng thiên nghiên cứu mỏng manh này, được viết mười năm về trước, là kết quả của một cuộc dịch thuật thất bại có chủ định cuốn Một mùa địa ngục. Tôi vẫn còn nuôi hy vọng phiên dịch bản văn này bằng một ngôn ngữ sát với ngôn ngữ “mọi đen” của Rimbaud hơn nữa. Những tác giả Really the Blues, hay như Lord Buckley [1] , gần Rimbaud hơn những thi sĩ đã tôn sùng và bắt chước chàng, dầu họ không thể ý thức về điều đó.

Điều Rimbaud đã làm cho ngôn ngữ, chứ không phải chỉ riêng cho thi ca, mới chỉ đang bắt đầu được hiểu. Và theo tôi, dường như được hiểu bởi độc giả nhiều hơn nhà văn. Ít ra là trong xứ sở chúng ta. Hầu như tất cả những thi sĩ Pháp hiện đại đều chịu ảnh hưởng chàng. Quả thực người ta có thể nói rằng thi ca Pháp hiện đại vay mượn Rimbaud tất cả. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có người nào vượt nổi chàng – trong sự táo bạo hay sáng tạo. Một đương kim thi sĩ duy nhất có thể cho tôi bất kỳ điều gì từ tựa sự thích thú và kích động của Rimbaud là St. John Perse. (Cuốn Vents của ông, đầy đủ một cách kỳ dị, đã được Hugh Chisholm cũng ở tại Big Sur này, dịch).

Bản văn trong sách này tái bản nguyên văn đã xuất hiện trong hai phần trong tác phẩm hàng năm của nhà New Directions, số 9 và 11. Từ đó nó được xuất bản bằng Pháp và Đức ngữ, cả hai ấn bản đều được in tại Thuỵ Sĩ, [2] một xứ sở kém khả năng giao kết với thiên tài Rimbaud nhất. Trong ấn phẩm này, thứ tự hai phần đã bị đảo ngược. Có lẽ tôi phải nói thêm rằng, mới đầu, tôi định viết thêm hai phần nữa, nhưng tôi đã bỏ ý định ấy.

Tôi thành tâm tin tưởng rằng, giờ đây Hoa Kỳ cần phải làm quen với khuôn mặt thần thoại này hơn bao giờ hết. (Cũng như phải làm quen với một thi sĩ Pháp dị thường khác đã tự tử vào tháng Giêng một trăm năm trước đây; Gérard de Nerval). Chưa bao giờ có một thời đại nào mà đời sống của thi sĩ bị đe doạ hơn ngày nay. Những chủng loại Hoa Kỳ, quả thực, đang ở trong hiểm hoạ tuyệt diệt hoàn toàn.

Khi Kenneth Rexroth được tin Dylan Thomas mệnh yểu, ông vội vàng viết một bài “Tưởng niệm” nhan đề Người sẽ không được giết người. [3] Được viết trong một trạng thái cảm xúc cùng cực, và không có ý định đem ấn hành, tuy nhiên lập tức được lưu hành và chuyển dịch ra nhiều thứ tiếng. Nếu người nào còn hồ nghi bất cứ điều gì về số phận mà xã hội chúng ta dành cho thi sĩ, hãy để hắn đọc bài “Tưởng niệm” người thi sĩ xứ Welsh, người viết cuốn Chân dung của nghệ sĩ như một con chó con.

Địa vị và tình cảnh của thi sĩ – tôi dùng chữ theo nghĩa rộng cũng như nghĩa hẹp - hiển nhiên phát lộ trạng thái đích thực sức sống của một dân tộc. Trung Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ, Phi châu nguyên thuỷ, ở đây, thi ca hãy còn không thể tuyệt căn được. Điều mà rõ ràng chúng ta thiếu trong xứ sở này, điều mà chúng ta hãy còn chưa thể ý thức, ngay cả được rằng chúng ta thiếu, ấy là kẻ mơ mộng, một cuồng nhân cảm hứng. Với xiết bao hoan hỉ quái đản, khi đến lúc chôn vùi con người ấy, chúng ta chỉ chú mục vào sự “bất khả thích nghi” của cá nhân đơn độc này, kẻ phản kháng đích thực duy nhất trong một xã hội ruỗng nát! Tuy vậy chính những khuôn mặt này đã mang lại cho từ ngữ “bất khả thích nghi” bị lạm dụng một ý nghĩa.

Trong một bài bào về “Baudelaire chính trị” trong tờ Beaux-Arts, số ngày 25 tháng Giêng, 1955, Maurice Nadeau viết như vầy: “Dans Mon Coeur mis à nu il veut ‘faire sentir sans cesse (qu’il se sent) étranger au monde et ses cultes. C’est le monde de la bourgeoisie dont ‘la morale de comptoir’ lui ‘fait horreur’, ‘un monde goulu, affamé de matérialités, infatué de lui même et qui ne s’apercoit pas qu’il est entré en décadence, un monde que dans une singlière prophétie il voit de plus en plus ‘américanié’, ‘voué à l'animalité, où tout ce qui ne sera pas l'ardeur vers Plutus sera reputé un immense ridicule.”

Nét nổi bật của những thi sĩ dẫn đạo của thế kỷ Mười chín và của thế kỷ Hai mươi cũng vậy, là khuynh hướng tiên tri của họ. Khác với Blake và Whitman mà tác phẩm đầy ắp sự xuất thần nhập diệu của một viễn tượng vũ trụ, những thi sĩ của chúng ta sau này trú ngụ trong tận thâm sơn cùng cốc. Sự quyến rũ của muôn năm trường trị đã ám ảnh những linh tưởng gia như Joachim de Flore, Hieronymus Bosch, Pico della Mirandola, và ngày nay cấp bách một cách khiêu khích hơn bao giờ, đã bị thay thế bởi tình trạng nô lệ sự hư vô hoá hoàn toàn. Trong xoáy nước của đêm tối và hỗn mang đang tới - một thứ hỗn độn thực sự - thi sĩ ngày nay rút lui, tự ướp mình trong một thứ ngôn ngữ bí hiểm càng ngày càng trở nên bí hiểm thêm lên mãi. Và vì họ lần lượt tắt ngấm nên những xứ sở sản sinh ra họ nhất định lao đầu xuống dốc.

Việc giết người, vì đúng nó là như vậy, chẳng bao lâu sẽ đi tới chung cục của nó. Vì tiếng nói của thi sĩ trở nên tắc nghẹn, lịch sử mất ý nghĩa của nó và hứa hẹn thế mạt luận bừng lên như một bình minh mới mẻ và đe doạ lên ý thức con người. Chỉ bây giờ, bên mép bờ vực thẳm, người ta mới có thể nhận thức được rằng “tất cả mọi điều người ta dậy chúng ta đều sai lầm”. Bằng chứng của lời phát biểu phá hoại này có thể chứng minh được mỗi ngày trong mọi lãnh vực: trên chiến trường, trong phòng thí nghiêm, trên báo chí, trong trường học, trong nhà thờ. Chúng ta hoàn toàn sống trong quá khứ, được nuôi dưỡng bởi những tư tưởng chết, tín đều chết, hiểu biết chết. Và chính quá khứ nhận chìm chúng ta chứ không phải tương lai. Tương lai bao giờ cũng đã và cũng sẽ thuộc về - thi sĩ.

Có lẽ trong khi chạy trốn khỏi thế giới, Rimbaud gìn giữ tâm hồn chàng khỏi một số phận hẩm hiu hơn số phận dành cho chàng ở Abyssinie. Có lẽ La Chosse Spirituelle, nếu có luôn luôn được khai quật lên, sẽ cung cấp một đầu mối hiện bây giờ đang thiếu. Có lẽ - biết đâu? – nó sẽ cho chúng ta một sợ dây nối liền Một mùa địa nguc và “Giáng sinh trên trần gian” đó mà xưa có lần đã là thực tại cho chàng thanh niên mơ mộng.

Trong ngôn ngữ tượng trưng của tâm hồn, Rimbaud mô tả tất cả những gì hiện đang xẩy ra ngày hôm nay. Theo ý tôi, không có chút tương phản nào giữa viễn tượng của chàng về thế giới và về cuộc sống vĩnh cửu, với viễn tượng của những nhà cải cách tôn giáo vĩ đại. Chúng ta được khích lệ đi khích lệ lại nhiều lần sáng tạo một viễn tượng mới về thiên đàng và trần gian, bắt đầu lại lần nữa, để người chết chôn người chết, sống như huynh đệ ruột thịt, biến Giáng sinh trên trần gian thành một thực tại. Và liên tiếp chúng ta được cảnh tỉnh rằng trừ phi ước vọng về một cuộc sống mới trở thành một xác tín sinh động cho mỗi và tất cả mọi người chúng ta, cuộc sống trần gian không bao giờ có thể là gì hơn một Lò luyện tội hay một Địa ngục. Một vấn đề và vấn đề duy nhất đối đầu với chúng ta là - chúng ta có thể trì hoãn cái không thể tránh được bao lâu nữa?

Khi chúng ta suy tưởng rằng người xách tai thế giới chỉ là một cậu bé con, chúng ta ăn nói làm sao bây giờ? Chẳng có chút gì tỷ như kỳ diệu trong sự xuất hiện của Rimbaud trên trái đất này như trong sự giác ngộ của Đức Cồ Đàm, hay trong sự chấp nhận Thánh giá của đấng Christ, hay trong sứ mệnh giải thoát khó tin của Jeanne d’ Are sao? Tha hồ bạn muốn diễn dịch tác phẩm chàng thế nào cũng được, muốn giải thích cuộc đời chàng thế nào cũng xong, song le không có gì cho phép quên chàng. Tương lai là của chàng tất cả, dẫu rằng bây giờ chưa có tương lai.

Henry Miller
Big Sur, California 1955


Phần 1: Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu

Chính vào năm 1927, trong tầng lầu chìm dưới mặt đất của một ngôi nhà tối tăm dơ dáy ở Brooklyn mà tôi được thấy tên tuổi Rimbaud được nhắc đến lần thứ nhất. Lúc ấy tôi ba mươi sáu tuổi và đang ở trong Mùa địa ngục dài đằng đẵng của riêng tôi. Một cuốn sách rất lý thú về Rimbaud đang nằm đâu đó trong căn nhà nhưng tôi chẳng hề ngó ngàng tới một lần. Nguyên do là bởi tôi ghê tởm người đàn bà chủ nhân cuốn sách lúc ấy đang sống chung với chúng tôi. Trong vẻ mặt, tính tình và cử chỉ của nàng, như sau này tôi khám phá thấy, hơi giống Rimbaud như người ta có thể tưởng tượng.

Như tôi đã nói, dầu Rimbaud là tất cả đề tài câu chuyện mất thì giờ giữa Thelma và vợ tôi, tôi không cố gắng tìm hiểu chàng. Thực ra, tôi chiến đấu điên cuồng để đẩy chàng ra khỏi tâm trí tôi, dường như đối với tôi lúc đó chàng là một thiên tài xấu xa vô tình gây cho tôi mọi phiền nhiễu và khổ cực. Tôi thấy rằng Thelma, người mà tôi khinh miệt, đã đồng hoá với chàng, hết sức bắt chước chàng, không những chỉ trong hành vi mà cả trong lối thơ nàng viết. Tất cả mọi sự hiệp lực âm mưu để khiến tôi cự tuyệt tên tuổi, ảnh hưởng, ngay cả cuộc đời chàng. Lúc đó tôi đang ở bậc thang thấp nhất trong toàn thể nghề nghiệp tôi, tinh thần tôi hoàn toàn tan tác. Tôi còn nhớ tôi ngồi trong tầng lầu ẩm lạnh dưới mặt đất cố viết dưới ánh đèn cầy leo lét bằng một cây bút chì. Tôi đang cố gắng viết một vở kịch miêu tả tấn thảm kịch của chính tôi. Không bao giờ tôi vươn lên nổi quá hồi thứ nhất.

Trong trạng thái tuyệt vọng và kiệt quệ đó dĩ nhiên tôi hoài nghi đến cùng cực thiên tài của một thi sĩ mười bẩy tuổi. Tất cả những điều tôi nghe nói về chàng có vẻ như một chuyện bịa đặt của mụ Thelma điên khùng. Lúc đó tôi đã đi đến chỗ có thể tin rằng, với chuyện bịa đặt đó, mụ có thể cầu đảo những cách hành hạ tế nhị để reo rắc tai ương sầu não cho tôi, bởi mụ cũng ghét tôi nhiều như tôi ghét mụ. Cuộc sống mà ba chúng tôi đang sống lúc đó, và tôi kể dài dòng trong Đóng đinh trên cây thập tự hồng, giống như một đoạn trong truyện của Dostoievsky. Đối với tôi ngày nay nó có vẻ không thực và không thể tin được.

Tuy nhiên, điểm chính là tên của Rimbaud đã đeo dính. Mặc dầu tôi chẳng hề ngó ngàng gì đến tác phẩm của chàng cho đến sáu bẩy năm sau, ở nhà Anais Nin ở Louveciennes, sự hiện diện của chàng chẳng bao giờ rời tôi. Đó còn là một sự hiện diện xáo trộn nữa. “Một ngày kia mi sẽ phải vật lộn với ta.” Đó là điều tiếng nói của chàng không ngừng nhắc nhở bên tai tôi. Ngày mà tôi đọc dòng đầu tiên của Rimbaud, tôi sực nhớ lại rằng đó là bài Le Bateau Ivre mà Thelma thường lảm nhảm đọc đi đọc lại khá nhiều lần. Con tầu say! Hàm ngụ xiết bao tựa đề đó ngày nay trong ánh sáng của tất cả những điều tôi cảm thấy nghiệm sau này! Trong thời gian đó Thelma chết trong một dưỡng trí viện. Và nếu tôi không tới Paris, bắt đầu làm việc hăng hái ở đó, tôi nghĩ rằng số phận tôi có lẽ cũng tương tự như vậy. Trong tầng nhà dưới mặt đất trên Đỉnh cao Brooklyn đó, con thuyền của tôi đã đắm. Khi cuối cùng sống thuyền gẫy làm đôi và tôi ý thức được rằng tôi tự do, rằng cái chết tôi đã trải qua đã giải thoát tôi.

Nếu thời kỳ ở Brooklyn đó tượng trưng Mùa địa ngục của tôi, thì thời kỳ ở Paris, nhất là từ năm 1932 đến 1934, chính là thời kỳ Thần cảm của tôi vậy.

Đem tác phẩm Rimbaud ra thảo luận vào thời kỳ này, khi chưa bao giờ tôi phong phú, hân hoan, phấn khởi như thế, tôi phải gạt chàng ra ngoài, đối với tôi sự sáng tạo của riêng tôi còn quan trọng hơn. Chỉ liếc qua văn phẩm của chàng là tôi biết ngay cái gì đang nằm trong kho phần tôi. Chàng là cốt mìn thuần tuý, nhưng trước hết tôi phải liệng cây gậy của tôi. Vào thời gian đó tôi không biết chút chi về cuộc đời chàng trừ từng đoạn rời mà Thelma đã làm vương vãi những năm về trước. Tuy nhiên tôi cũng phải đọc đôi dòng tiểu sử chàng. Đó là vào năm 1943, trong khi sống tại Beverly Glen với John Dudley, hoạ sĩ, lần đầu tiên tôi đọc vể Rimbaud. Tôi đọc Một mùa địa ngục của Jean – Marie Carré, kế đó là tác phẩm của Enid Starkie. Tôi tê điếng lặng câm. Dường như chưa bao giờ tôi đọc thấy một cuộc đời nào bị trù ếm khủng khiếp như cuộc đời Rimbaud. Tôi hoàn toàn quên tất cả mọi nỗi thống khổ của tôi, trầm trọng hơn nỗi thống khổ của chàng rất nhiều. Tôi quên những thất bại và nhục nhã tôi đã chịu đựng, những vực thẳm tuyệt vọng và bất lực mà thường xuyên tôi quị xuống. Giống như Thelma ngày xưa, tôi cũng không thể nói gì ngoài Rimbaud. Tất cả mọi người đến nhà đều phải nghe bài ca Rimbaud.

Mãi tới ngày nay, mười tám năm sau khi nghe tên chàng lần thứ nhất, tôi mới có thể thấy rõ chàng, đọc chàng như một tiên tri thấu trị. Ngày nay tôi mới biết sự đóng góp của chàng vĩ đại nhường nào. Ngày nay tôi mới hiểu ý nghĩa của cuộc đời và tác phẩm chàng - đến cao độ, nghĩa là, đến mức độ mà người ta có thể tự hào mình hiểu cuộc đời và tác phẩm của kẻ khác. Nhưng điều tôi nhìn thấy rõ rệt nhất là tôi đã thoát khỏi cái định mệnh ti tiện đê hèn tương tự một cách kỳ diệu thế nào.

Rimbaud cảm nghiệm cơn khủng hoảng của chàng năm mười tám tuổi, tới phút giây đó trong đời chàng, chàng đã đi tới sát biên giới của cuồng dại; từ điểm đó trên cuộc đời chàng là một sa mạc mênh mông. Tôi tới cơn khủng hoảng của tôi vào tuổi ba mươi sáu tới ba mươi bẩy, tuổi mà Rimbaud chết. Từ điểm đó trên đời tôi bắt đầu nở hoa. Rimbaud từ văn chương quay về cuộc sống, tôi làm ngược lại. Rimbaud chạy trốn những ảo tưởng huyền hoặc mà chàng đã tạo ra; tôi ôm ấp chúng. Tỉnh lại bởi cơn điên cuồng và sợ hãi lãng phí kinh nghiệm thuần tuý của cuộc đời, tôi ngừng lại và chuyển năng lực của tôi vào sáng tạo. Tôi lăn xả vào sáng tác với cùng sự hăng hái và nhiệt tình mà trước kia tôi đã lăn xả vào cuộc đời. Thay vì mất cuộc đời, tôi kiếm được cuộc đời; hết phép lạ này đến phép lạ khác liên tiếp xảy ra, mọi bất hạnh được biến đổi thành truyện hay để kể. Rimbaud, mặc dầu lao vào trong một cảnh giới có phong thổ và cảnh vật khó tin, vào trong một thế giới của ảo giác dị thường và kỳ diệu như thơ chàng, đã trở nên càng ngày càng cay đắng, câm nín, trống rỗng và sầu muộn.

Rimbaud hoàn lại văn chương cho cuộc sống; tôi cố gắng hoàn trả cuộc sống cho văn chương. Trong cả hai chúng tôi tính chất tín điều đều mạnh mẽ, mối quan tâm trí óc và tinh thần quan trọng hơn hết. Khiếu về ngôn ngữ, về âm nhạc hơn là nghề văn chương là một nét chung khác. Với chàng, tôi cảm thấy một bản chất nguyên thuỷ nền tảng tự thị hiện bằng nhiều cách kỳ dị. Claudel gọi Rimbaud là “một người thần bí trong trạng thái man rợ”. Không có gì có thể mô tả chàng hay hơn. Chàng không “thuộc về” – không ở nơi nào, tôi luôn có cảm thức tương tự về mình. Những sự tương đồng không kể hết được. Tôi sẽ đi sâu vào một vài chi tiết của những sự tương đồng ấy, vì trong khi đọc tiểu sử và thư từ tôi thấy những sự tương hợp ấy rõ ràng đến nỗi tôi nghĩ rằng tôi không thể cưỡng lại được việc ghi nhận chúng. Tôi không nghĩ rằng về phương diện này tôi là kẻ độc nhất, tôi nghĩ rằng trên thế giới này có nhiều Rimbaud và con số đó sẽ gia tăng cùng với thời gian. Tôi nghĩ rằng, trong thế giới tương lai, mẫu Rimbaud sẽ thay thế mẫu Hamlet và mẫu Faust. Chiều hướng đang đi đến một rạn nứt sâu xa hơn. Cho đến khi cựu thế giới bị tiêu diệt hoàn toàn, cá nhân “dị thường” sẽ càng ngày càng đi đến chỗ trở thành khuôn mẫu. Con người mới sẽ chỉ tìm thấy mình khi cuộc chiến giữa tập thể và cá nhân ngừng lại. Lúc đó chúng ta sẽ thấy kiểu mẫu nhân loại trong vẻ tràn đầy và rực rỡ của nó.

Muốn nắm trọn tầm quan trọng của Mùa địa ngục của Rimbaud, kéo dài tám năm, chúng ta phải đọc thư từ của chàng. Phần lớn thời gian này trôi qua trên bờ biển Somali, ở Aden một vài năm. Đây là một đoạn mô tả chốn địa ngục trần gian, trong một lá thư gửi cho mẹ chàng:

“Mẹ không tưởng tượng được nơi này: không một ngọn cây, dù là một cây khô héo, không một tấc đất. Aden là miệng của một ngọn núi lửa đã tắt, cát biển lấp đầy. Khắp nơi người ta chỉ thấy phún xuất thạch và cát không thể sản sinh ra một cọng cỏ nào. Xung quanh là sa mạc cát vây phủ. Nơi đây những vách núi nửa tắt chắn gió thổi vào và mọi người bị quay chín như trong một lò hầm.”

Tại sao một thiên tài, một người đầy năng lực, đầy tiềm lực thiên phú lại xếp đặt để tự nhốt mình, quay chín và bó chặt mình trong một cái hang hốc khốn khổ như thế? Đây là một người mà một ngàn cuộc đời cũng không đủ để thám hiểm những kỳ diệu của trái đất, một người cắt đứt với bằng hữu và thân quyến vào lúc tuổi còn xanh để cảm nghiệm cuộc đời trong sự tròn đầy của nó, tuy nhiên dần dà chúng ta thấy chàng mắc kẹt ở trong hang hốc địa ngục đó. Chúng ta làm sao giải thích được sự kiến đó? Dĩ nhiên chúng ta biết rằng lúc nào chàng cũng nóng lòng sốt ruột, rằng chàng trù liệu trăm phương ngàn kế và dự phóng để tự giải thoát mình, và giải thoát mình không phải chỉ khỏi Aden mà khỏi toàn thể thế giới tranh đấu mồ hôi nước mắt. Là một kẻ phiêu bạt song le Rimbaud bị ám ảnh bởi ý tưởng vươn tới tự do độc lập mà chàng diễn dịch bằng sự an ổn tài chính. Vào năm hai mươi tám tuổi chàng viết cho gia đình rằng điều quan trọng nhất, cấp thiết đối với chàng là trở nên độc lập, bất cứ ở đâu. Điều chàng quên thêm vào là, và bất cứ bằng cách nào. Chàng là một sự pha trộn kỳ diệu của táo bạo và nhút nhát. Chàng có can đảm phiêu lưu vào nơi không một người da trắng nào khác dám đặt chân tới, nhưng chàng không dám đối diện với cuộc đời mà không có một nguồn lợi thường xuyên. Chàng không sợ mọi ăn thịt người, nhưng chàng sợ chính những người anh em da trắng của chàng. Dầu chàng cố gắng ki cóp của cải tiện nghi, với của cải đó chàng có thể du lịch thế giới một cách nhàn nhã và thoải mái hay định cư ở một chỗ nào mà chàng thấy đắc địa, chàng vẫn còn là thi sĩ và kẻ mơ mộng, con người bất khả thích nghi với cuộc đời, con người tin vào phép lạ, con người hướng vọng Thiên đàng dưới hình thức này hay hình thức kia. Mới đầu chàng nghĩ rằng năm mươi ngàn quan sẽ đủ để bảo đảm chàng trong đời sống, nhưng khi chàng gần như thành công trong việc thu thập số tiền đó thì chàng lại quyết định rằng một trăm ngàn có lẽ bảo đảm hơn. Bốn mươi ngàn quan đó! Thật là một thời gian khốn khổ khủng khiếp chàng trải qua khi quấn cái ruột tượng đó quanh người! Quả đúng là một tai hoạ của chàng. Khi họ khiêng chàng trên một cái cáng từ Harar tới bờ biển - một cuộc hành trình, một cách tình cờ, có thể so sánh với cuộc hấp hối của đấng Christ – tư tưởng chàng luôn luôn hướng về vàng bạc trong hầu bao của chàng. Ngay cả khi ở tại bệnh viện Marseilles, nơi chân chàng phải cưa đi, chàng cũng vẫn áy náy về cái ruột tượng đó. Nếu không phải là sự đau đớn khiến chàng thao thức ban đêm thì đó chính là ý nghĩa về số tiền chàng mang trên người, mà chàng phải dấu đi để khỏi bị đánh cắp. Chàng muốn gửi số tiền đó vào ngân hàng nhưng làm sao chàng có thể tới ngân hàng trong khi chàng không bước đi được? Chàng viết thư về nhà yêu cầu một người nào tới để giữ gìn kho tàng quí báu của chàng. Có một cái gì quá bi đát và khôi hài đến nỗi người ta không biết nói sao hay nghĩ sao nữa.

Nhưng đâu là căn nguyên của căn bệnh yêu chuộng an ổn thái quá ấy? Đó là nỗi sợ hãi mà bất cứ một nghệ sĩ sáng tạo nào cũng biết: rằng hắn không được ai vời gọi chi cả, rằng hắn vô tích sự trong cuộc đời. Biết bao lần trong thư chàng Rimbaud nói rằng mình không thể trở về Pháp và sống cuộc sống của một công dân bình thường. Tôi vô nghệ, vô nghề, không bạn bè tại đó, chàng nói. Như tất cả mọi thi nhân, chàng thấy thế giới văn minh như một cánh rừng hoang; chàng không biết làm cách nào tự bảo vệ mình trong đó. Đôi khi chàng nói thêm rằng đã quá muộn để nghĩ tới chuyện trở về - chàng luôn luôn nói như thể chàng đã là một ông già! Chàng đã quá quen cuộc sống tự do, hoang dại, phiêu lưu để chẳng bao giờ có thể trở vào khuôn thước gông cùm được nữa. Điều chàng luôn luôn ghê tởm là công việc vất vả lương thiện, nhưng ở Phi châu, Chippre, Ả Rập, chàng làm việc quần quật như một tên mọi đen, tự cấm đoán mình đủ thứ, ngay cả cà phê và thuốc lá, quanh năm suốt tháng bận một cái áo chemise bằng bông, dành dụm từng xu kiếm được, hy vọng một ngày kia mua được tự do. Dầu chàng có thành công đi chăng nữa, chúng ta cũng biết rằng chàng chẳng bao giờ quẳng được gông cùm của chán chường. Từ sự hoang đàng của tuổi trẻ chàng chuyển sang sự cẩn trọng của tuổi già. Chàng, kẻ bị đày ải xa cửa xa nhà, kẻ phản kháng, kẻ bị nguyền rủa hoàn toàn đến nỗi không có gì có thể cứu vớt được chàng.

Tôi nhấn mạnh khía cạnh đó của bản chất chàng bởi nó giải thích nhiều đặc tính thối tha gán cho chàng. Chàng không phải là một kẻ keo bẩn, không phải là một gã nông dân tự cốt tuỷ như một vài nhà viết tiểu sử chàng ám chỉ. Chàng không sắt đá với những kẻ khác, chàng chỉ sắt đá với chàng thôi. Quả thực bản tính chàng rộng rãi. “Lòng bác ái của ông bao la, tự nhiên và kín đáo” Bardey, người giúp việc cũ của chàng nói như vậy. “Có lẽ đó là một trong số ít điều ông làm mà không ghê tởm và không khinh bỉ chế nhạo”.

Có một điều ghê gớm khác nữa ám ảnh chàng suốt ngày đêm: quân dịch. Từ lúc chàng bắt đầu lên đường phiêu lãng cho đến ngày nhắm mắt chàng bị dày vò bởi nỗi sợ hãi không en règle [4] với giới thẩm quyền quân đội. Ngay vài tháng trước khi từ trần, khi nằm trong bệnh viện Marseilles, chân bị cưa, những sự đau đớn gia tăng hàng ngày, nỗi lo sợ nhà cầm quyền khám phá ra nơi ở của chàng và nhốt chàng vào tù đè nặng trên chàng như một cơn ác mộng. “La prison oprès ce que je viens de souffrir? It vaudrait mieux la mort!” [5] Chàng yêu cầu em gái chỉ viết cho chàng khi tối cần mà thôi, và đừng đề tên chàng là Arthur Rimbaud mà chỉ đề là Rimbaud, và gởi đi từ một tỉnh lân cận nào đó.

Toàn thể cơ cấu của bản chất chàng phơi bày trong những lá thư hoàn toàn không có một chút tính chất văn chương hay quyến rũ này. Chúng ta thấy lòng khát khao kinh nghiệm ghê gớm của chàng, óc tò mò không nguôi của chàng, những ước mơ vô hạn của chàng, sự tự đày ải của chàng, sự khắc kỷ của chàng, sự tiết độ của chàng, những nỗi ám ảnh và sợ hãi của chàng, sự bệnh hoạn của chàng, nỗi cô độc của chàng, cảm thức bị đẩy ra ngoài lề của chàng và niềm chán chường cùng độ của chàng. Chúng ta thấy trên tất cả, như hầu hết những cá thể sáng tạo, chàng không thể học hỏi được gì từ kinh nghiệm. Chẳng có gì ngoài cái vòng quẩn quanh của những nhàm chán lập đi lập lại và những dầy vò. Chúng ta thấy chàng là nạn nhân của ảo tưởng rằng tự do có thể thủ đắc được bằng những phương tiện ngoại tại. Chúng ta thấy chàng mãi mãi là thanh niên suốt đời chàng, từ chối chấp nhận khổ đau hay gán cho nó một ý nghĩa. Để có thể thẩm định sự thất bại của nửa phần đời cuối của chàng lớn lao là nhường nào, chúng ta chỉ cần so sánh cuộc hành trình của chàng với cuộc hành trình của Cabeza de Vaca. [6]

Nhưng thôi hãy để chàng giữa sa mạc mà chàng tạo nên cho chàng đó. Mục đích của tôi là nêu ra một vài nét đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Chúng ta hãy bắt đầu với cha mẹ. Như bà Rimbaud, mẹ tôi là mẫu người miền Bắc, lạnh lùng, hay chỉ trích, kiêu hãnh, cay nghiệt và khắt khe. Cha tôi xuất thân từ miền Nam, cha mẹ là người Bavaria, trong khi cha Rimbaud là người Burgundia. Cha mẹ thường xuyên cãi vã xô xát nhau gây ảnh hưởng tự nhiên lên con cái. Bản chất nổi loạn, rất khó vượt qua, tìm thấy ở đây khuôn đúc của nó. Giống như Rimbaud, tôi cũng bắt đầu la lên khi tuổi còn xanh: “Thượng đế chết đi!” Tất cả những gì cha mẹ tán thành hay chấp thuận đều chết đi. Nó còn lan tới cả bạn bè các Người mà tôi công nhiên nhục mạ trước mặt các Người. Đối kháng không bao giờ ngừng cho tới chết, khi cuối cùng, tôi bắt đầu nhận thấy tôi giống chàng biết chừng nào.

Giống như Rimbaud, tôi ghét nơi tôi ra đời. Tôi sẽ ghét nó cho tới ngày nhắm mắt, phản ứng đầu tiên của tôi là thoát khỏi gia đình, khỏi thành phố mà tôi ghét bỏ, khỏi xứ sở và đám dân mà tôi không cảm thấy một chút tương đồng. Cũng như chàng, tôi phát triển quá sớm, ngâm thơ văn ngoại quốc trong khi hãy còn ngồi trong xe tập đi. Tôi học đi sớm và học nói sớm, học đọc báo ngay cả trước khi đến vườn trẻ. Tôi luôn luôn là một đứa trẻ nhỏ nhất lớp và không chỉ là một học sinh ưu tú nhất mà còn là kẻ được thầy cũng như bạn bè ưa chuộng nhất. Nhưng cũng như chàng, tôi khinh bỉ phần thưởng và nhiều lần bị đuổi khỏi trường vì hành vi bướng bỉnh cứng đầu. Hình như tất cả sứ mệnh của tôi, trong khi còn ngồi trên ghế nhà trường, là chế diễu thầy và chương trình học. Tất cả đều quá dễ và quá ngu ngốc đối với tôi. Tôi cảm thấy mình như một con khỉ được huấn luyện.

Từ lúc còn nhỏ xíu, tôi đã đọc say mê ngấu nghiến. Quà lễ Giáng sinh tôi chỉ đòi sách, hai ba chục cuốn mỗi lần. Cho đến năm hai mươi lăm hai mươi sáu tuổi, hầu như không bao giờ tôi ra khỏi nhà mà không cắp theo một vài cuốn sách. Tôi đọc đứng đọc ngồi, đọc trong khi đi làm việc, thường thuộc lòng cả đoạn thơ dài của những tác giả ưa chuộng. Tôi còn nhớ, một trong những cuốn thơ này là Faust của Goethe . Kết quả chính của sự hấp thụ sách vở thường trực này là nung nấu cho tôi cuộc nổi loạn mai sau, kích thích khát vọng du lịch và phiêu lưu tiềm ẩn, khiến tôi trở nên phi văn chương. Nó khiến tôi miệt thị tất cả những cái xung quanh tôi, khiến tôi xa lánh dần bạn bè và bắt buộc tôi chấp nhận cái bản chất cô đơn quái gở khiến bị người ta gọi là một nhân vật “gàn dở”. Từ năm mười tám tuổi (năm khủng hoảng của Rimbaud) tôi trở nên hoàn toàn bất hạnh, khổ cực đáng thương, và ngày một tuyệt vọng. Dường như chỉ có một sự thay đổi hoàn toàn ngoại cảnh xung quanh ít ra mới có thể làm tiêu tán tâm trạng bất di bất dịch này. Năm hai mươi mốt tuổi, tôi bỏ nhà đi trốn, nhưng không đi lâu lắm. Lại nữa, giống Rimbaud, những sự chạy trốn công khai bao giờ cũng tai hại. Tôi bao giờ cũng trở về nhà, hoặc tự ý hoặc miễn cưỡng, và bao giờ cũng ở trong một trạng thái tuyệt vọng. Dường như không có lối thoát, không có cách nào tựu thành sự giải thoát. Tôi nhận làm những công việc vô nghĩa nhất, tóm lại, tất cả những gì không thích hợp với tôi. Giống như Rimbaud trong những hầm đá ở Chypre, tôi bắt đầu với cuốc xẻng, một lao công công nhật, một công nhân phù động, một kẻ lang thang đầu đường xó chợ. Đó vẫn là sự tương đồng, vì khi tôi trốn nhà ra đi, tôi ra đi với ý định sống một cuộc sống phong sương, dày dạn, không đọc một cuốn sách, kiếm sống bằng hai bàn tay, là người của hạc nội mây ngàn chứ không phải một công dân của một thị tứ hay một tỉnh thành.

Tuy nhiên, trong suốt thời gian đó, ngôn ngữ và ý tưởng của tôi phản bội tôi. Tôi hoàn toàn là một văn nhân dầu muốn hay không. Dầu tôi có thể hoà đồng với bất cứ hạng người nào, nhất là người bình dân, cuối cùng tôi luôn luôn bị ngờ vực. Giống hệt như những lần tôi tới thư viện; luôn luôn hỏi mượn sách lộn. Bất kể thư viện lớn thế nào chăng nữa, sách tôi mượn không bao giờ có trong đó hoặc là tôi bị cấm không được đọc. Trong những ngày đó dường như tất cả cái tôi muốn trên đời, hay của đời, đều bị bài xích. Dĩ nhiên, tôi phạm phải những phản kháng dữ dội. Ngôn ngữ của tôi, lúc đó đã ngang chướng dù như một đứa trẻ - tôi còn nhớ lúc lên sáu tôi bị điệu đến bót cảnh sát vì dùng ngôn ngữ tục tĩu – ngôn ngữ của tôi, thú thực, càng ngày trở nên ngang chướng và xúc phạm phong hoá.

Tôi giật mình xiết bao khi đọc thấy Rimbaud, lúc thanh niên thường ký dưới thư chàng –“tên đê tiện nhẫn tâm Rimbaud đó”. Nhẫn tâm là một tĩnh từ tôi thích nghe người ta áp dụng cho chính tôi. Tôi không có nguyên tắc, không trung thành, không quy luật khỉ khô gì ráo, khi nó thích hợp với tôi, tôi có thể hoàn toàn nói phăng ra không ngần ngại thận trọng, với bạn hay thù cũng vậy mà thôi. Tôi xấc láo, kiêu căng, không dung thứ, mà thành kiến một cách tàn bạo, bướng bỉnh một cách khắc nghiệt. Tóm lại, tôi có một cá tính khó thương rõ rệt, một người khó giao du nhất. Tuy nhiên tôi rất được quý mến; người ta thường rất sẵn sàng tha thứ những tính xấu của tôi vì sự quyến rũ và say sưa tôi toát ra. Thái độ này chỉ khiến tôi thêm dạn dĩ phóng túng thêm lên mà thôi. Đôi khi chính tôi cũng không hiểu tại sao tôi có thể sống với thái độ đó trên trái đất. Những người tôi thích sỉ nhục và thoá mạ là những người bằng cách nào đó tự cho là hơn tôi. Tôi mở một cuộc chiến tàn khốc chống lại những người này. Ngoài ra toàn thể con người tôi là kẻ mà người ta có thể gọi là một đứa trẻ ngoan. Bản tính tự nhiên của tôi là bản tính của một cá nhân tử tế, vui vẻ, cởi mở. Khi còn là một đứa trẻ, tôi thường được so sánh với “một thiên thần”. Nhưng con quỷ nổi loạn đã chế ngự tôi từ lúc nhỏ xíu. Chính mẹ tôi đã gieo cây! Nó vào trong tôi. Chính vì chống lại bà, chống lại tất cả những gì bà đại diện mà tôi trực chỉ tất cả năng lực của tôi. Mãi cho tới năm tôi năm mươi tuổi, tôi không bao giờ quan hoài tới bà với một dạ yêu thương, dù chỉ một lần. Dầu bà thực sự không bao giờ ngăn trở tôi (chỉ vì ý chí tôi mãnh liệt hơn), tôi vẫn cảm thấy bóng bà ngang qua đường tối. Đó là một cái bóng của đối kháng, lặng lẽ và nham hiểm, như một thứ thuốc độc chích từ từ vào mạch máu.

Tôi kinh ngạc khi đọc thấy Rimbaud cho phép mẹ chàng đọc bản thảo Một mùa địa ngục. Không bao giờ tôi mơ tưởng tới chuyện khoe cha mẹ tôi bất cứ điều gì tôi đã viết ra hoặc ngay cả việc luận về đề tài văn phẩm của tôi với ông bà. Lần đầu tiên khi tôi báo tin cho cha mẹ tôi hay rằng tôi quyết định trở thành một nhà văn, cha mẹ tôi thất kinh; như thể tôi quyết định trở thành một tội phạm. Tại sao tôi không thể làm một việc gì hợp lẽ phải hơn, một việc gì khả dĩ giúp tôi kiếm sống? Không bao giờ ông bà đọc một dòng tôi viết. Đó là một trò khôi hài bất tận khi bạn bè ông bà soi mói về tôi, khi họ hỏi tôi đang làm gì. “Cậu ấy đang làm gì vậy? Ồ, nó đang viết.” Như thể ông bà nói, nó đang điên khùng, nó đang nặn đất cát suốt ngày.

Tôi luôn luôn phác hoạ cậu bé Rimbaud được ăn mặc bảnh bao như một “cô chiêu” và sau này, như một chàng phong lưu công tử. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, đó là trường hợp tôi. Là một người thợ may, dĩ nhiên cha mẹ tôi hết sức lưu tâm đến phục sức của tôi. Khi lớn lên tôi thừa hưởng những những bộ quần áo lịch sự và sang trọng của cha tôi. Chúng tôi đồng một cỡ y như nhau. Nhưng, cũng lại giống như Rimbaud, suốt trong thời gian khi mà cá tính tôi tự khẳng định một cách mãnh liệt, tôi làm dáng một cách kỳ cục, kết hợp những cái quái gở kỳ quặc, bên trong với cái khác thường bên ngoài. Tôi cũng là một đối tượng chế diễu cho lân bang hàng xóm của tôi. Trong thời gian đó, tôi nhớ lại tôi cảm thấy vô cùng vụng về, thiếu tự tin, và đặc biệt xấu hổ khi trò chuyện với người ở bất cứ trình độ nào. “Tôi không biết ăn nói làm sao!” Rimbaud tuyên bố như vậy ở Paris khi ngồi giữa đám người làm văn nghệ khác.Tuy nhiên ai đó có thể nói hay hơn chàng khi không bị gò bó? Ngay ở Phi châu, người ta cũng để ý thấy đôi lúc chàng nói năng quyến rũ biết chừng nào. Tôi hiểu sự mâu thuẫn khó xử này xiết bao! Tôi đau đớn biết chừng nào khi nhớ lại mình đã đã ấp úng và lắp bắp trước mặt những người tôi ao ước trò chuyện! Ngược lại, với một người tầm thường nào đó, tôi có thể nói với giọng lưỡi một thiên thần. Từ lúc còn nhỏ, tôi đã say mê âm thanh những tiếng nói, ma lực, với khả năng mê hoặc điên đảo thần hồn của chúng. Nói chung, tôi thường chếnh choáng vì ngôn từ. Tôi có thể bịa đặt hàng giờ, đưa thính giả của tôi đến chỗ điên cuồng. Tính chất này, tình cờ, tôi nhận thấy nơi Rimbaud lúc tôi liếc qua một trang của chàng. Nó gây chấn động ngay lập tức. Tại Beverly Glen, khi tôi đi sâu vào đời chàng, tôi lấy phấn viết những câu thơ của chàng lên tường – trong bếp, trong phòng khách, trong nhà cầu, ngay cả phía ngoài nhà. Những câu này không bao giờ mất hiệu lực đối với tôi. Mỗi lần lướt qua chúng, tôi đều cảm thấy sự rung động tương tự, nỗi hân hoan tương tự, sự sợ hãi mất trí tương tự nếu tôi dừng lại chúng quá lâu. Có được bao nhiêu nhà văn có thể làm cho bạn điều đó?

Nhà văn nào cũng tạo được một vài đoạn để đời, một vài câu đáng ghi nhớ, nhưng với Rimbaud, chúng nhiều không kể xiết, chúng tràn lan trên giấy, tựa ngọc đá túa ra từ một cái rương thủng lỗ. Chính tài năng này khiến mối giây liên lạc với Rimbaud bền vững không thể chia cắt được. Và tôi ganh tị với chàng về điều đó nhất. Ngày nay, sau tất cả những điều tôi đã viết, ước vọng sâu xa nhất của tôi là chấm dứt với những cuốn sách tôi đã dự định và dấn mình vào sự sáng tạo cái hoàn toàn vô nghĩa, hoàn toàn ảo tưởng. Tôi sẽ không bao giờ là thi sĩ như chàng, nhưng hãy còn có những khoảng rộng tưởng tượng mênh mông cần phải đạt tới.

Và bây giờ, chúng ta nói tới “cô thiếu nữ với cặp mắt tím”. Chúng ta hầu như không biết chút gì về nàng. Chúng ta chỉ biết rằng đó là kinh nghiệm bi thảm đầu tiên của chàng về tình yêu. Tôi không biết có phải trong mối quan hệ với nàng hay với con gái nhà kỹ nghệ gia mà chàng dùng chữ - “dễ sợ như 36.000.000 con chó lông xù mới đẻ”. Nhưng tôi hoàn toàn tin rằng đó phải là phản ứng của chàng với đối tượng của tình yêu thương. Trong bất cứ trường hợp nào tôi biết rằng đó là trường hợp tôi, và nàng cũng có đôi mắt màu tím nữa. Và có lẽ cũng như Rimbaud, tôi sẽ lại nghĩ tới nàng vào phút lâm chung. Tất cả đều mang mầu sắc của kinh nghiệm thảm khốc đầu tiên này. Tôi phải nói thêm, điều lạ lùng nhất là không phải nàng khước từ tôi… Chính vì tôi đã quá kinh sợ và tôn thờ nàng đến nỗi tôi chạy trốn nàng. Tôi tưởng tượng đó phải là trường hợp Rimbaud. Dĩ nhiên, với chàng, tất cả - cho đến năm mười tám tuổi – đều gói ghém trong một khoảng thời gian ngắn ngủi không thể tin được. Cũng như chàng rảo qua toàn thể giai điệu văn chương trong một vài năm ngắn ngủi, cũng vậy chàng rảo qua vòng kinh nghiệm thông thường một cách mau chóng và vắn vỏi. Chàng chỉ cần nếm qua một món là biết tất cả cái nó hứa hẹn hay chứa đựng. Và bởi thế cuộc đời ái tình của chàng chừng nào liên quan tới đàn bà, là một khoảng thời gian ngắn ngủi. Chúng ta không nghe kể về tình yêu nữa mãi cho tới thời gian ở Abyssinie, khi chàng lấy một người đàn bà bản xứ làm nhân tình. Dường như khó mà gọi là tình yêu được. Có chăng tình yêu của chàng hướng về Djami, cậu bé thổ dân Harar, người mà chàng cố gắng để lại cho một kỉ vật. Có lẽ cũng khó mà biết được, trong cuộc đời chàng sống, Rimbaud còn có thể yêu ai với trọn tâm hồn.

Verlaine nổi tiếng vì đã nói về Rimbaud rằng chàng chẳng đem mình hiến dâng ai; chẳng cho Thượng đế cũng chẳng dâng cho người. Điều này đúng xiết bao khi mỗi người phải tự phán xét mình. Đối với tôi dường như không có một người nào có thể muốn hiến dâng mình nhiều hơn Rimbaud. Lúc còn nhỏ, chàng dâng mình cho Thượng đế, lúc thanh xuân chàng hiến mình cho thế giới. Trong cả hai trường hợp, chàng đều cảm thấy mình bị lường gạt và phản bội; chàng thối lui, nhất là sau kinh ngiệm Công xã đẫm máu và từ đó tâm điểm con người chàng mãi mãi còn nguyên vẹn, không chịu nhượng bộ, bất khả xâm phạm. Về phương diện này, chàng khiến tôi nhớ nhiều đến D. H. Lawrence, người đã nói đôi chút về vấn đề này, nghĩa là vấn đề giữ tâm thể mình sao cho toàn vẹn.

Chính từ lúc chàng bắt đầu kiếm sống mà những khó khăn thực thụ khởi sự. Tất cả mọi tài năng, hầu như vô dụng. Thây kệ mọi đảo điên, chàng tiến tới. ”Tiến tới, luôn luôn tiến tới!” Nghị lực của chàng vô biên, ý chí chàng bất khuất, sự khao khát của chàng vô tận. “Hãy để thi sĩ nổ tung với nỗ lực thâu đạt những sự vật lạ lùng và vô danh!”. Khi tôi nghĩ tới thời kỳ đó, đánh dấu bởi một cố gắng hầu như cuồng loạn để mở một đường vào thế giới, chiếm ưu thế, khi tôi nghĩ tới những cuộc ra đi đột ngột liên tiếp trong chiều hướng đó và tựa một đoàn quân bị vây hãm gắng sức xông ra khỏi cái gọng kìm trong đó nó bị kẹp như một cái kìm máy, tôi lại trông thấy tự ngã thanh xuân của tôi từ đầu tới cuối. Ba lần trong thời gian dưới hai mươi tuổi, chàng đã tới Bruxelles và Paris, hai lần chàng tới London. Từ Stuttgart, sau khi đã thông thạo đủ vốn liếng Đức ngữ cần dùng; chàng lang thang đi bộ qua Würtemberg và Thuỵ Sĩ tới Ý Đại Lợi. Từ Milan chàng khởi hành đi bộ tới Cyclades qua Brindisi, chỉ để bị trúng nắng và quay trở về Marseilles qua Leghorn. Chàng vượt qua bán đảo Scandinavie và Đan Mạch với một đám hát dạo; chàng đáp tàu từ Hamburg, Antwerp, Rotterdam; chàng đến Java bằng cách gia nhập đạo quân Hoà Lan, chỉ để đào ngũ sau khi đã nếm qua mùi vị của nó. Một lần vượt qua đảo St. Hélène trên một con tầu Anh Cát Lợi từ chối không ngừng lại đảo, chàng phóng qua lan can tàu xuống biển nhưng bị bắt lại trước khi chàng có thể tới đảo. Từ Vienne chàng bị cảnh sát dẫn độ về biên cảnh Bavari, vì tội lang thang; từ đó chàng lại bị áp giải về biên cảnh Lorraine. Trong tất cả những chuyến tẩu thoát và bỏ nhà ra đi đột ngột đó, chàng luôn luôn không một đồng xu dính túi, đi bộ, và luôn luôn đi bộ với một dạ dầy lép xẹp. Tại Civita Vecchia chàng bị đưa xuống đất liền với chứng sốt đau dạ dày mắc phải vì màng dạ dầy bị sưng lên bởi sự cọ sát của xương sườn vào bụng. Đi bộ thái quá. Ở Abyssinie là sự cưỡi ngựa thái quá. Chàng tự bắt buộc mình một cách phi nhân. Mục đích thì bao giờ cũng ở phía bên kia.

Tôi hiểu tật yêu thích thái quá của chàng xiết bao! Nhìn lại cuộc sống của tôi ở Hoa Kỳ, dường như tôi đã đi muôn ngàn dặm lòng không dạ trống. Luôn luôn tìm kiếm một vài xu, một mẩu bánh, một công việc, một chỗ ngả lưng. Luôn luôn tìm kiếm một khuôn mặt quen thuộc! Đôi khi dầu đói khát, tôi cũng ráng lên đường, vẫy một chiếc xe xin quá giang và để mặc người tài xế muốn cho tôi xuống đâu cũng được chỉ để thay đổi phong cảnh. Tôi biết hàng ngàn tiệm ăn ở New York, không phải vì đã đến đó như một chủ nhân ông nhưng vì đã đứng bên ngoài và thèm thuồng ngó những thực khách ngồi chễm chệ bên trong. Tôi vẫn còn có thể nhớ mùi vị của một vài gian hàng ở góc phố nơi người ta bán hotdog. Tôi hãy còn có thể nhìn thấy những đầu bếp áo trắng lật bánh tráng hay bánh nướng trong chảo trong các cửa tiệm. Đôi khi tôi nghĩ rằng tôi sinh ra để đói khát. Và cộng với đói khát là lang thang, lêu lổng, mầy mò, sốt nóng sốt rét, đi tới đi lui không chủ đích. Nếu tôi xin xỏ được chút ít dư thừa hơn mức cần thiết của một bữa ăn, lập tức tôi tới hí viện hay rạp chiếu bóng. Tất cả điều mà tôi quan tâm tới, một khi cái dạ dày đã no đầy, là kiếm một chỗ ấm áp, dễ chịu nơi tôi có thể nghỉ ngơi và quên đi những nỗi phiền muộn âu lo của tôi một hai giờ. Không bao giờ tôi để dành đủ tiền mua một cái vé xe trong những hoàn cảnh ấy, ra khỏi bầu không khí ấm áp như lòng mẹ của rạp hát, tôi phải xông pha ra mưa gió giá lạnh để đi bộ tới những nơi xa xôi nơi tôi tình cờ sống. Từ trong lòng Brooklyn tới trung tâm Manhattan tôi đã đi không biết bao nhiêu lần, trong mọi thời tiết và trong nhiều cấp độ của cơ hàn đói rách. Khi tôi hoàn toàn kiệt lực, khi tôi không thể bước thêm một bước nữa, tôi bắt buộc phải quay trở lại và thối lui về đường cũ. Tôi hiểu rất rõ người ta có thể được huấn luyện để làm những cuộc diễu hành cưỡng bách trên đoạn đường dài phi thường với lòng không dạ trống như thế nào.

Nhưng đi bộ qua những đường phố của đô thị quê hương giữa những bộ mặt thù nghịch là một chuyện mà lang thang trên xa lộ trong những đô thị liên bang lại là một chuyện hoàn toàn khác hẳn.

Trong tỉnh lỵ quê nhà sự cừu thù chỉ là vẻ lãnh đạm; trong một tỉnh xa lạ hoặc trên những chặng đường dài trống trải liên tỉnh, chính sự cừu hận rõ rệt tiếp đón bạn. Có những con chó dữ, súng săn, cảnh sát, và lính canh đủ loại nằm chờ bạn. Bạn không dám ngả lưng trên nền đất lạnh nếu bạn là khách lạ trong những vùng lân bang đó. Bạn tiếp tục phải dời chỗ, dời chỗ, dời chỗ luôn luôn không ngừng. Sau lưng bạn, bạn cảm thấy mũi súng lạnh của một khẩu súng sáu buộc bạn phải di động nhanh hơn, nhanh hơn, nhanh hơn nữa. Ngay trong chính xứ sở của bạn nữa, nơi tất cả những việc này có thể xảy ra, chứ không cứ gì ở một mảnh đất lạ. Bọn Nhật lùn có thể tàn bạo, bọn Hung Nô có thể man rợ, nhưng những kẻ trông giống như bạn và nói năng giống như bạn, mặc cùng một thứ quần áo giống như bạn, ăn cùng một thứ thực phẩm giống bạn, xua đuổi bạn như những con chó là những con quỷ nào vậy? Phải chăng đó là những kẻ thù tệ hại nhất người ta có thể có? Người khác có thể tìm thấy lý do để tha thứ, nhưng riêng tôi, tôi không tìm thấy bất cứ lý do nào. “Ở đây tôi không có ai là bạn bè cả”, Rimbaud thường viết về nhà như vậy. Ngay cả vào tháng sáu năm 1891, từ bệnh viện Marseilles, chàng vẫn nhắc lại điệp khúc đó. “Je mourrai òu me jettera le destin. J’espère pouvoir retourner là òu j’étais (Abysinnie), j’y ai des amis de dix ans, qui auront pitíe de moi, je trouverai chez eux dutravail, je vivrai comme je pourrai. Jevivrai, toujours là – bas, tandis qu’en France, hors vous je n’ai ni amis, ni connaissances, ni personne.” [7] . Đây là một đoạn ghi chú: “Cependant la gloire littéraire de Rimbaud batt rit alors son plein à Paris. Les admirateurs, qui lui eussent été perso rellement tout dévoúes, étaient déjà nombreux Il l’ignorait. Quelle maléduction!”.

Vâng, thật là xui xẻo! Tôi nghĩ tới cuộc trở về New York của chính tôi, một cuộc trở về miễn cưỡng nữa, sau mười năm ở ngoại quốc. Tôi đã rời Mỹ châu với mười dollar mà tôi vay mượn vào giây phút cuối cùng trước khi lên tàu, tôi trở về không có một xu dính túi, phải mượn tiền trả tiền xe của người thư kí khách sạn, thấy rương vá những cái Vallise của tôi, chắc mẩm thế nào tôi cũng có tiền trả tiền phòng. Việc đầu tiên mà tôi phải làm, khi trở về “ nhà” là gọi điện thoại cho một vài người nào đó để vay chút ít tiền. Khác với Rimbaud, tôi không có hầu bao đầy vàng dấu dưới đầu giường; song le tôi còn có bộ giò khỏe mạnh, và vào buổi sáng hôm sau, nếu không có tiền giúp đỡ đến trong đêm trước, tôi sẽ phải bắt đầu đi lên phố tìm kiếm lại một khuôn mặt quen thuộc. Trong mười năm ở ngoại quốc tôi cũng phải làm việc như trâu ngựa; tôi đã kiếm được quyền sống thoải mái một vài năm. Nhưng chiến tranh bỗng dưng xảy ra, phá huỷ tất cả, giống như những âm mưu của những thế lực châu Âu đã làm cho Rimbaud thất cơ lỡ vận ở xứ Somali. Tương đồng làm sao thanh âm một đoạn thư đề Aden, tháng giêng 1888…” Tous les gouvernements sont venus englloutir des millions (et mème ensomme quelques millierds) sur toutes ces côtes maudites, désolées, òu les indigènes errent des mois sansvivres et sans eau, sous le climat le plus effroi – able du globe; et tous ces millions qu’on a jetés dans le ventre des bédoouitns n’ont rien rapporte que les guerres, les désastres de tous genres!”.

Giống nhau làm sao hình ảnh của những chính quyền thân yêu của chúng ta! Luôn luôn tìm cách đặt chân vào một vài nơi chốn nghịch đạo lý, luôn luôn dày xéo hay tiêu diệt dân bản xứ, luôn luôn bám chặt vào những của phi nghĩa, bảo vệ của cải của mình, thuộc địa của mình bằng bộ binh và hải quân. Với những kẻ tai to mặt lớn nhất, thế giới chưa đủ lớn. Với những kẻ thấp cổ bé họng nhất cần phòng ở, cần những lời hứa hẹn ngọt ngào và những lời hăm doạ ngấm ngầm. Trái đất thuộc về những kẻ mạnh, thuộc về những kẻ có quân đội và thuỷ quân lớn nhất, thuộc về những kẻ nắm trong tay những sức mạnh kinh tế quan trọng. Thật khôi hài khi người thi sĩ cô đơn bôn ba tới tận thế hầu kéo dài một cuộc sống khốn nạn phải ngồi khoanh tay lơ láo ngó những thế lực vĩ đại làm vô số việc bê bối trong chính khu vườn của hắn.

“Vâng, tận thế… Tiến lên, luôn luôn tiến lên! Bây giờ những cuộc phiêu lưu vĩ đại bắt đầu…” Nhưng dầu bạn tiến nhanh thế nào, chính phủ vẫn luôn luôn dẫn đầu, với những hạn chế, cùm xích, khoá tay, với hơi độc, xe tăng và bom ngạt. Rimbaud thi sĩ tự đứng ra đảm nhiệm việc dạy kinh Coran cho những cô cậu bé Harar bằng chính tiếng mẹ đẻ của chúng. Những chính phủ sẽ bán chúng làm nô lệ. ”Có một vài cuộc phá hoại cần thiết“ có lần chàng đã viết như vậy, và thiên hạ đã bầy vẽ bao chuyện ồn ào về lời phán quyết đơn giản đó! Lúc ấy chàng chỉ nói về sự phá huỷ phụ thuộc sự sáng tạo. Nhưng các chính phủ ngang nhiên phá huỷ không một lời biện giải, và chắc chắn chẳng bao giờ nghĩ tới việc sáng tạo cả. Điều mà Rimbaud thi sĩ ao ước là nhìn thấy những hình thức cũ tiến triển, trong đời sống cũng như trong nghệ thuật. Điều mà các chính phủ muốn là duy trì hiện trạng, thây kệ nó gây ra biết bao cuộc tàn sát và phá hoại cũng mặc. Một vài nhà viết tiểu sử chàng, mô tả hành vi chàng như một thanh niên, chứng minh chàng là một đứa trẻ rất xấu xa; chàng đã làm những việc hư hỏng nào đó. Nhưng khi thẩm định những hoạt động của những chính phủ thân yêu của họ, đặc biệt liên quan tới những âm mưu ám muội mà Rimbaud chửi rủa, tất cả bọn họ đều ngọt ngào và tìm cách biện hộ. Khi họ muốn chỉ trích cay độc chàng như một kẻ phiêu lãng, họ nói về chàng là một thi sĩ vĩ đại biết chừng nào; khi họ muốn chế ngự chàng với tư cách một thi sĩ, họ nói về sự nổi loạn lộn xộn của chàng. Họ thất kinh khi thi sĩ bắt trước những tên cướp giật và bóc lột của họ, và họ khiếp đảm khi chàng tỏ ra chẳng quan hoài tới tiền bạc hay tới cuộc sống tẻ nhạt, chán ngắt của một thường dân. Chàng lang bạt kì hồ quá kẻ lang bạt kì hồ, chàng thi sĩ quá thi sĩ, chàng xông xáo xung phong quá kẻ tiên phong, chàng là con người áp phe quá kẻ chạy áp phe, chàng là một kẻ buôn lậu súng khôn ngoan quá kẻ buôn lậu súng, vân vân và vân vân. Bất cứ điều gì chàng làm, chàng đều làm quá hay, đến nỗi dường như đáng phàn nàn. Đáng tiếc là chàng không trở nên một chính khách. Chàng gian lận tài đến nỗi Hitler, Staline và Mussolini - chứ đừng nói tới Churchill và Roosevelt - ngày nay sẽ tựa như tên lang băm bán dầu cù là. Tôi không tin rằng chàng hoàn toàn chỉ mang lại sự phá hoại mà những lãnh tụ đáng tôn kính này đã gieo rắc lên trên thế giới. Đại khái có thể nói chàng chắc chắn sẽ biết dấu diếm để dành phòng lúc cơ hàn. Chàng sẽ không làm đến kiệt sức. Chàng sẽ không đánh mất dấu mục tiêu, như những lãnh tụ lỗi lạc của chúng ta dường như thường phải làm. Bất xét cuộc đại bại hoàn toàn chàng đã làm cho chính cuộc đời chàng, tôi vẫn tin một cách kì cục rằng nếu có dịp chắc chắn chàng sẽ biến thế giới thành một chốn tốt đẹp hơn để sống trong đó. Tôi tin rằng kẻ mơ mộng, dù hắn có vẻ thiếu thực tế thế nào đi chăng nữa đối với con người ngoài đường phố, vẫn tài giỏi hơn, có khả năng hơn gấp trăm ngàn lần so với kẻ tự xưng là chính khách. Tất cả mọi kế hoạch không thể tin được đó là Rimbaud trù dự đem ra thi hành, và bị phản đối vì lí do này hay vì lí do khác, từ đó đến nay đã được thực hiện vài phần. Chàng nghĩ đến những kế hoạch đó quá sớm; chỉ có vậy thôi. Chàng thấy xa hơn những hy vọng và ước mơ của những thường nhân cũng như những chính khách rất nhiều. Chàng không được sự ủng hộ của những kẻ đó, những kẻ thích buộc tội chàng là một kẻ mơ mộng, những kẻ chỉ mơ khi họ ngủ, không bao giờ mơ với đôi mắt mở lớn. Vì đối với kẻ mơ mộng đứng chính giữa lòng thực tại, tất cả mọi diễn tiến đều quá chậm, quá ù lì – ngay cả sự tàn phá.

“Ông không bao giờ hài lòng,” một nhà viết tiểu sử chàng viết. ”Dưới cái liếc nhìn mệt mỏi của ông mọi đoá hoa đều úa tàn, mọi ngôi sao đều mờ nhạt. ”Vâng, có một chút sự thực trong nhận xét đó. Tôi biết thế bởi cũng mắc chứng bệnh tương tự. Nhưng, nếu người ta mơ tưởng một quyền lực tối thượng, quyền lực tối thượng của con người, nếu người ta dám nghĩ đến cái bước đi chậm như sên con người tiến tới việc thực hiện giấc mộng này thế nào, thì rất có thể cái được gọi là những hoạt động của con người mờ nhạt tới vô nghĩa. Tôi không tin, dù trong giây phút, rằng những đoá hoa bao giờ cũng úa tàn hoặc những vì sao bao giờ cũng mờ nhạt trong đôi mắt Rimbaud. Tôi tin rằng với những thứ này trung tâm con người chàng bao giờ cũng duy trì một mối giao cảm trực tiếp và nhiệt thành. Chính trong thế giới con người mà cái nhìn thoáng qua mệt mỏi của chàng thấy mọi sự mờ nhạt và tàn úa. Chàng bắt đầu muốn ”nhìn thấy tất cả, cảm tất cả, khai thác triệt để tất cả mọi sự, nói tất cả mọi sự”. Chẳng bao lâu sau chàng cảm thấy cái hàm thiếc trong miệng chàng, những cái đinh thúc ngựa hai bên hông chàng, roi vọt trên lưng chàng. Hãy để một người ăn mặc khác đồng loại hắn, hắn sẽ trở thành một đối tượng cho sự khinh bỉ và nhạo báng. Luật duy nhất thực sự phù hợp một cách cởi mở trọn vẹn và với một sự trả thù là luật phù hợp. Không có gì đáng ngạc nhiên khi hãy còn là một thanh niên, cuối cùng chàng thấy ”thiêng liêng sự hỗn loạn trong tâm trí”. Ở điểm này thực sự chàng đã tự khiến mình thành một tiên tri thấu thị. Tuy nhiên chành thấy rằng mình bị coi như một thằng hề hay một tên lang băm bán thuốc dạo. Chàng phải lựa chọn giữa việc chiến đấu đến mãn đời để giữ mảnh dất đã chiếm được hay từ khước tranh đấu hoàn toàn. Tại sao chàng lại không thể thoả hiệp? bởi vì sự thoả hiệp không có trong từ vựng của chàng. Chàng là một kẻ quá khích từ thuở nhỏ, một kẻ đi đến cùng hay là chết. Thái độ đó hàm chứa sự tinh khiết, ngây thơ của chàng.

Trong tất cả những điều đó tôi khám phá thấy lại trường hợp của chính tôi. Tôi không bao giờ bỏ cuộc. Nhưng tôi đã phải trả một giá đắt biết bao! Tôi phải trả kinh phí cuộc chiến đấu du kích, cuộc chiến đấu vô hy vọng chỉ có thể sinh ra từ tuyệt vọng. Tác phẩm tôi dự định viết chưa được viết ra hay chỉ được viết ra từng phần. Chỉ nguyên việc cất tiếng nói, nói theo cách riêng của tôi, tôi đã phải chiến đấu từng tấc đất một. Tiếng hát cho cuộc chiến hầu như đã bị bỏ quên thì còn nói làm gì cái nhìn lướt qua trên những bông hoa tàn héo và những vì sao mờ nhạt! Cái nhìn của tôi hoàn toàn có tính cách huỷ hoại! Thật là một phép lạ khi dưới cái nhìn tàn nhẫn của tôi chúng không héo hắt đi. Quá sức cho tâm thể tôi. Về bề ngoài con người ngoại diện dần dần học cách thích nghi với những đường lối ở đời. Hắn có thể ở trong đó mà không thuộc về nó. Hắn có thể tử tế, dễ thương, cởi mở, bác ái. Tại sao không? “Vấn đề đích thực”, như Rimbaud vạch ra ”là khiến tâm hồn trở nên dị thường”. Nghĩa là, không phải dị hợm nhưng phi thường! Dị thường là gì? Theo từ điển, “bất cứ hình thức tổ chức nào của đời sống bị méo mó ghê gớm hoặc bởi thiếu thốn, bởi quá dư thừa, đặt sai chỗ hoặc méo mó từng phần hay từng bộ phận, từ đó, bất cứ cái gì dị hợm hay bất thường, hoặc tạo nên bởi những phần hay tính chất chất không hợp nhau, có thể gớm ghiếc hay không”. Ngữ căn phát nguyên từ động từ Latinh moneo, báo động. Trong thần thoại chúng ta nhận thấy cái dị thường dưới hình thức của quái vật có mặt mũi và thân hình đàn bà, cánh và móng vuốt như chim, nữ thần có phép hoá đá sư thân nữ diện thần, quái vật đầu người mình ngựa, mộc tinh, ngư nhân. Tất cả đều là những vật kì dị, đó là yêu nghĩa của danh từ. Chúng đã lật đổ sự qui phạm, sự cân bình. Điều đó là gì nếu không phải là mối sợ hãi của con người nhỏ bé. Những tâm hồn nhút nhát thường hay gặp quái vật trên đường cùng, dù chúng có tên là quái vật chim ưng mình ngựa hay những đảng viên của Hitler. Tất cả mọi phần kinh sợ của thần thoại đều nảy sinh từ sự sợ hãi này. ”Hãy để chúng tôi sống trong hoà bình và hoà điệu! ”Con người nhỏ bé van nài. Nhưng luật của vũ trụ càn khôn buộc rằng hoà bình và hoà điệu chỉ có thể chinh phục được bằng tranh đấu nội tại. Con người nhỏ bé không muốn trả giá cho hòa bình và hoà điệu đó, nó muốn ăn sẵn, tựa một bộ quần áo may sẵn vậy.

Có nhiều chữ ám ảnh, lặp đi lặp lại mà nhà văn dùng phát lộ nhiều hơn những sự kiện do những nhà viết tiểu sử kiên nhẫn gom góp lại. Đây là một ít những chữ chúng ta gặp trong tác phẩm của Rimbaud: éternité, infini, charité, solitude, angoisse, lumìere, aube, soleil, amour, beauté, inoui, pitie’, démon ange, ivresse, paradis, enfer, ennui,…

Đó là những đường chỉ dọc và đường canh của kiểu mẫu nội tâm chàng; chúng nói cho chúng ta về sự ngây thơ của chàng, sự đói khát của chàng, sự thao thức bồn chồn, lòng cuồng tín của chàng, tính cố chấp của chàng. Thần thánh của chàng là Baudelaire, người đã thăm dò tới những chiều sâu của tội lỗi. Trên kia tôi đã nhấn mạnh, và cần phải nhắc lại, rằng toàn thể thế kỉ Mười chín bị dầy vò bởi vấn đề Thượng đế. Bề ngoài nó dường như một thế kỉ dấn mình vào tiến bộ vật chất, một thế kỉ của khám phá và phát minh, tất cả thuộc về thế giới vật chất. Tuy nhiên, trong tâm điểm, nơi những nghệ sĩ và tư tưởng gia luôn luôn cắm neo, chúng ta nhận thấy một sự giao động sâu xa. Rimbaud tóm tắt cuộc tranh chấp trong một vài trang. Và, nếu điều đó chưa đủ, chàng in lên toàn thể cuộc đời chàng cái ấn bản bí ẩn biểu thị chân tướng đó của thời đại chàng. Chàng là con người của thời đại chàng đích thực hơn Goethe, Shelley, Blake, Nietzsche, Hegel, Marx, Dostoievsky. Chàng bị sâu xé từ đầu tới chân trong tất cả mọi lãnh vực của con người chàng. Bao giờ chàng cũng đương đầu hai cách. Chàng bị xé rách, nghiền nát bởi bánh xe thời gian. Chàng là nạn nhân và kẻ hành hình; khi chúng ta nói đến tên chàng, chúng ta có thời gian, nơi chốn và biến cố. Bây giờ khi chúng ta đã thành công trong việc nghiền nát nguyên tử thì vũ trụ bị xé rách toang ra. Bây giờ chúng ta phải đương đầu trong mọi chiều hướng cùng một lúc. Chúng ta đã thành công, đã thủ hữu được một năng lực ngay cả những thần thánh ngày xưa cũng không thể thu tóm được. Bây giờ chúng ta ở đây, trước địa ngục môn. Liệu chúng ta sẽ có thể đột kích cái cổng, phá tan hoang chính địa ngục? Tôi tin rằng chúng ta sẽ có thể làm. Tôi tin rằng sứ mệnh của tương lai là thám hiểm lãnh vực tội lỗi cho đến khi không còn một mảy may bí mật nào còn sót lại. Chúng ta sẽ khám phá ra cỗi rễ cay đắng của cái đẹp, chấp nhận cả rễ lẫn hoa, lá lẫn nụ. Chúng ta không còn có thể cự tuyệt được tội lỗi: chúng ta phải chấp nhận.




[1]Hãy kiếm tập album tên Euphoria, Vaya Records
[2]Ấn bản Pháp ngữ do Metmod, Lausanne ấn hành, ấn bản Đức ngữ do Verlag der Arche, Zürich.
[3]Horace Schwartz ấn hành, P.O. Box 503, Sunnyvale, California, 1955.
[4]Pháp văn trong nguyên bản: hợp lệ - Ghi chú của dịch giả.
5 Pháp văn trong nguyên bản: “Tù tội sau khi tôi đã chịu đau đớn như thế này? Thà chết còn hơn!” G.c.D.
[5]
[6]Đọc cuốn The Power Within Us của Hantel Long: Duell, Sloan and Pearce, New York.
[7]Pháp văn trong nguyên bản G. c. D


====

Khi chàng viết cuốn sách mọi đen của chàng (Une Saison en Enfer) người ta nói rằng Rimbaud đã tuyên bố: ”Số phận tôi tuỳ thuộc cuốn sách này!”. Đúng một cách sâu xa làm sao phán quyết đó mà chính Rimbaud cũng không hiểu. Vừa khi chúng ta bắt đầu ý thức được định mệnh bi thảm của chúng ta, chúng ta bắt đầu nhận thấy ý chàng muốn nói gì. Chàng đã đồng hoá định mệnh chàng với định mệnh của thời đại chủ yếu nhất mà con người biết. Giống như chàng, hoặc chúng ta sắp khước từ tất cả những gì nền văn minh cuả chúng ta bênh vực từ đó đến nay và toan tính tái thiết, hoặc chúng ta sắp phá huỷ nó bằng chính tay chúng ta. Khi thi sĩ đứng ở Thiên để điểm, thế giới quả thực phải lộn nhào. Nếu thi sĩ không còn có thể nói cho xã hội được nữa, nhưng chỉ nói cho mình nghe, lúc đó chúng ta đang ở bước đường cùng. Trên thi thể thi ca của Rimbaud, chúng ta đã bắt đầu dựng lên một ngọn tháp Babel. Điều đó không có nghĩa rằng chúng ta hãy còn là thi sĩ, hoặc một vài thi sĩ hãy còn có thể hiểu được, hãy còn có thể cảm thông với quần chúng. Đâu là khuynh hướng của thi ca và đâu là sợi dây nối kết giữa thi sĩ và khán giả? Đâu là bức thông điệp? Trước hết chúng ta hãy nêu lên câu hỏi đó. Tiếng nói nào là tiếng nói ngày nay tự khiến mình được người ta lắng nghe, tiếng nói của thi sĩ hay của khoa học gia? Chúng ta đang nghĩ tới cái Đẹp, dù cay đắng, hay là chúng ta đang nghĩ đến nguyên tử năng? Và mối xúc động chính mà những phát minh vĩ đại của chúng ta gợi ra là gì? Kinh hoàng! Chúng ta có tri thức không minh triết, tiện nghi không an ninh, lòng tin tưởng không đức tin. Thi ca của đời sống chỉ được diễn tả trong thuật ngữ của toán học, vật lý, hoá học. Thi sĩ là một kẻ cùng đinh mạt hạng, một quái vật dị thường. Hắn đang trên đường tuyệt diệt. Ngày nay ai quan tâm tới sự kiện hắn tự khiến mình trở nên dị thường đến mức nào? Con quái vật đang được dạo chơi khắp thế giới. Nó đã chốn thoát khỏi phòng thí nghiệm, nó đang phục vụ cho bất cứ kẻ nào có can đảm sử dụng nó. Thế giới quả thực đã trở thành con số. Sự lưỡng phân tinh thần, như tất cả mọi sự lưỡng phân khác, đã sụp đổ. Đó là thời kì của hưng phế và tình cờ; cuộc chuyển động vĩ đại đã bắt đầu.

Và những kẻ điên rồ đang nói đến những sự tu bổ, thẩm vấn, trừng phạt, về hàng lối và liên hiệp, về tự do thương mại, ổn định và phục hồi kinh tế. Trong thâm tâm, không một người nào tin rằng cục diện thế giới có thể sửa chữa được. Tất cả mọi người đang chờ đợi cái biến cố trọng đại, biến cố duy nhất làm chúng ta bận tâm ngày đêm: cuộc chiến tranh sắp tới. Chúng ta đã xáo trộn tất cả mọi sự. Không ai biết đạt tới sự kiểm soát bằng cách nào và ở đâu. Cặp thắng hãy còn đây, nhưng liệu chúng có làm việc không? Chúng ta biết rằng chúng sẽ không làm việc. Không, quỷ mị đã đào thoát. Thời đại của điện khí đã lùi sau chúng ta xa như thời thạch khí. Đây là thời của sức mạnh, sức mạnh đơn thuần. Bây giờ nó không phải là thiên đàng hay hoả ngục, cũng không có thể ở giữa được nữa. Và bằng mọi dấu hiệu, chúng ta sẽ chọn địa ngục. Khi thi sĩ sống trong địa ngục của hắn thì con người bình thường không còn có thể trốn tránh được nó nữa. Tôi đã gọi Rimbaud là một kẻ đào ngũ? Tất cả chúng ta đều là những kẻ bội giáo đào ngũ. Chúng ta đã phản bội từ thuở ban đầu. Định mệnh cuối cùng bắt kịp chúng ta. Chúng ta sắp có Mùa địa ngục của chúng ta, tất cả mọi người, từ đàn ông cho tới đàn bà, trẻ con, đã đồng hoá với nền văn minh này. Đó chính là điều chúng ta đã từng cầu xin, và bây giờ nó đây. Aden đã dường như một nơi thú vị. Trong thời đại Rimbauud, hãy còn có thể dời Aden để đến Harar, nhưng năm mươi năm sau kể từ bây giờ, chính trái đất sẽ là một miệng núi lửa bao la. Thây kệ những sự khước từ của những khoa học gia, sức mạnh mà ngày nay chúng ta có trong tay đang có tính cách phóng xạ, phá hoại thường trực. Chưa bao giờ chúng ta nghĩ tới sức mạnh trong lãnh vực thiện mà chỉ trong lãnh vực ác. Không có gì bí ẩn xung quanh những nguyên tử năng, sự bí ẩn ở trong lòng người. Sự khám phá ra nguyên tử năng đồng thời với sự khám phá ra rằng không bao giờ chúng ta có thể tin người khác được nữa. Ở đó có định mệnh – nằm trong sự sợ hãi chín đầu không bom đạn nào có thể phá huỷ. Kẻ đào ngũ đích thực là người đã mất niềm tin vào đồng loại mình. Ngày nay sự mất niềm tin có tính cách phổ quát. Ở đây chính Thượng đế cũng bất lực. Chúng ta đã đặt đức tin vào bom đạn, và chính bom đạn sẽ đáp ứng những lời cầu nguyện của chúng ta.

Chấn động biết bao đối với một thi sĩ khi khám phá ra rằng Rimbaud khước từ lời kêu gọi của mình! Chẳng khác nào nói rằng chàng đã khước từ tình yêu. Dù bất cứ nguyên do nào, chắc chắn sự xô đẩy tối thượng đưa tới sự mất đức tin. Sự khiếp đảm của thi sĩ, cảm thức bội phản và lường gạt, được đối chiếu với phản ứng của nhà khoa học khi ông khám phá thấy công dụng mà những sự phát minh của ông đặt vào. Người ta bị cám dỗ so sánh hành động khước từ của Rimbaud với sự thả bom nguyên tử. Những sự dội lại, dù rộng rãi hơn trong trường hợp sau, không sâu xa bằng. Con tim ghi nhận một sự chấn động trước phần còn lại của thân thể. Sự suy đồi cần có một thời gian để lan rộng qua khắp toàn thi thể của nền văn minh. Nhưng khi Rimbaud đi ra ngoài cửa hậu, sự suy đồi tự nó đã gióng lên.

Tôi có lý biết bao khi lảng tránh sự khám phá đích thực về Rimbaud! Nếu tôi rút những kết luận hoàn toàn sai biệt từ những thi sĩ khác về sự xuất hiện và biểu lộ của chàng trên trần gian, việc đó giống hệt tinh thần mà những vị thánh rút tỉa những kết luận lạ thường về sự Giáng sinh của đấng Cứu thế. Hoặc giả những điều như thế này là những biến cố quan trọng trong lịch sử con người hoặc nghệ thuật diễn giải là một nghệ thuật giả đò. Một ngày kia chúng ta sẽ sống như đấng Christ là điều tôi không mảy may nghi ngờ. Chúng ta sẽ khước từ cá tính trước hết là điều tôi cũng không chút hồ nghi. Chúng ta đã đi tới tận điểm của lòng vị kỉ, trạng thái nguyên tử của hữu thể. Ở đấy chúng ta bị tan hoang. Bây giờ chúng ta đang sửa soạn khai tử cho cái tiểu ngã nhỏ bé để cái ngã chân thực trồi lên. Một cách vô tâm và vô thức chúng ta đã khiến thế giới thành một, nhưng một trong vô năng tính. Chúng ta phải trải qua một cái chết tập thể để trồi lên những cá nhân xác thực. Nếu quả thật, như Lautréamont nói, rằng “thi ca phải được làm nên bởi tất cả”, thì chúng ta phải tìm một ngôn ngữ mới trong đó một tâm hồn sẽ nói với một tâm hồn khác không qua trung gian. Sự kêu gọi nhau phải trực tiếp và chớp nhoáng như giữa Chúa Con với Chúa Cha. Thi sĩ ngày nay bị bắt buộc phải huỷ bỏ chức phận của mình vì hắn đã biểu lộ sự thất vọng của hắn, vì hắn đã nhìn nhận sự bất lực của mình trong việc truyền cảm. Là một thi sĩ, ngày xưa là một chức phận cao cả nhất; ngày nay, là một cái gì tào lao nhất. Thực trạng như vậy không phải vì thế giới kháng lại lời biện hộ của thi sĩ mà vì chính thi sĩ không còn tin tưởng vào sứ mệnh thiêng liêng của mình nữa. Bây giờ hắn đang ca hát lạc điệu trong một thế kỉ hay hơn nữa; cuối cùng chúng ta không còn thể điều hoà nổi. Tiếng gầm rít của bom đạn hãy còn có ý nghĩa với chúng ta, nhưng những tiếng rời rạc của thi sĩ dường như ngập ngọng nếu trong hai tỷ người trên thế giới hiện nay, chỉ có dăm ba ngàn người làm bộ hiểu người thi sĩ cô đơn nói gì. Sự tôn sùng nghệ thuật đi đến tận điểm của nó chỉ hiện hữu cho một dúm người đàn ông đàn bà quý báu. Rồi nó không còn là nghệ thuật mà là mật ngữ của một xã hội bí mật để truyền bá cá tính vô nghĩa. Nghệ thuật là một cái gì khuấy động đam mê, ban bố viễn tượng, sự sáng suốt, can đảm và niềm tin. Có nghệ sĩ nào trên thế giới trong những năm gần đây khua động được thế giới như Hitler đã làm? Có bài thơ nào gần đây khiến cả thế giới xúc động như bom nguyên tử? Từ khi Chúa ra đời đến nay, chưa bao giờ chúng ta được thấy những viễn cảnh như vậy bật ra, gia tăng mỗi ngày. Thi sĩ có những khí giới nào để so sánh với những thứ đó? Hay những giấc mộng nào? Óc tưởng tượng khoa trương của hắn bây giờ ở đâu? Thực tại ở ngay trước mắt chúng ta, trần như nhộng, nhưng đâu là bài ca báo hiệu nó? Có chăng một thi sĩ của trường độ thứ năm? Tôi không thấy một người nào. Tôi không gọi là thi sĩ những người làm thơ, có vần điệu hay không có vần điệu. Tôi gọi là thi sĩ những người có thể thay đổi thế giới một cách sâu xa. Nếu có một thi sĩ như vậy sống giữa chúng ta, hãy để chàng tự tuyên xưng. Hãy để chàng cất tiếng! Nhưng nó sẽ phải là tiếng có thể làm tắt ngấm tiếng gầm thét của bom đạn. Chàng sẽ phải dùng một ngôn ngữ làm xúc động tâm hồn con người, khiến máu sôi lên sùng sục…

Nếu sứ mệnh của thi ca là thức tỉnh, chúng ta đã phải thức tỉnh lâu rồi. Một vài kẻ thức tỉnh, điều đó không chối cãi được. Nhưng bây giờ tất cả đều phải được thức tỉnh - và ngay lập tức - hoặc chúng ta diệt vong. Nhưng con người sẽ không bao giờ diệt vong, tuỳ thuộc điều đó. Mà chính là một nền văn hoá, một nền văn minh, một lối sống sẽ diệt vong. Khi những kẻ đã chết này đã thức tỉnh, thi ca sẽ là yếu chất của cuộc đời. Chúng ta có thể sẽ mất thi sĩ lắm nếu chúng ta bảo tồn chính thi ca. Không cần giấy mực để sáng tạo hay truyền bá nó. Dân man rợ nói chung đều là thi sĩ của hành động, thi sĩ của cuộc đời. Họ hãy còn làm thơ dầu nó không làm xúc động chúng ta. Chúng ta chú ý đến cái thơ mộng, chúng ta không được tránh lề lối sống của họ: chúng ta phải thể nhập thi ca của họ vào thi ca của chúng ta, chúng ta phải pha trộn cuộc đời chúng ta với vẻ đẹp thấm nhiễm cuộc đời họ. Thi ca của người văn minh bao giờ cũng chấp nhất, ”bí truyền”. Nó đã đem lại cái chết của chính nó.

“Chúng ta phải tuyệt đối tân kì”, Rimbaud nói, ý nói những ảo tưởng đã lỗi thời cũng vậy, những điều mê tín và những ngẫu tượng, tín điều giáo điều và tất cả những chuyện tầm phào và rỗng tuếch yêu mến mà nền văn minh huênh hoang của chúng ta được tạo thành. Chúng ta phải đem lại ánh sáng, chứ không phải thần cảm giả tạo ”tiền bạc làm giảm giá trị khắp nơi”, chàng viết trong một trong những lá thư của chàng. Đó là vào thời 1880 xa xưa. Ngày nay ở Âu châu thực ra không còn bất cứ một giá trị nào. Điều người ta thiếu là nơi ẩn trú, quần áo, thức ăn – những cái căn bản – không phải tiền. Toà lâu đài tàn tạ đã lở ra từng mảng trước mắt chúng ta, nhưng chúng ta lưỡng lự chưa tin vào mắt chúng ta. Chúng ta hãy còn hy vọng có thể làm việc như thường lệ. Chúng ta chưa ý thức được sự tai hại đã xảy ra cũng chưa ý thức được những khả thể của sự tái sinh. Chúng ta đang dùng ngôn ngữ của thời Cựu thạch khí. Nếu người ta chưa thâu tóm nổi sự vĩ đại của hiện tại, làm sao họ có thể cảm nghĩ trong khuôn khổ tương lai? Chúng ta đã cảm nghĩ trong khuôn khổ quá khứ trong vài ngàn năm rồi. Bây giờ, trong chốc lát, toàn thể quá khứ bị chùi sạch đi. Chỉ còn lại tương lai đang nhìn thẳng vào mặt chúng ta. Nó hé mở như một vực thẳm. Nó thật đáng sợ, tất cả mọi người đều công nhận, mặc dầu chỉ nghĩ tới điều mà trong tương lai tích trữ để dành cho chúng ta. Trong quá khứ quái vật mang tầm vóc con người; người ta có thể đương đầu với chúng, nếu người ta đủ dũng cảm. Bây giờ quái vật vô hình; có hàng tỉ con trong một hạt bụi. Các bạn thấy tôi vẫn dùng ngôn ngữ trong thời Cựu thạch khí. Tôi nói như thể chính nguyên tử là quái vật, như thể nó tác động chứ không phải chúng ta. Đó là một hình thức lường gạt chúng ta thực hành trên chúng ta từ lúc con người suy tưởng. Và điều này nữa, cũng là một sự lừa dối – giả định rằng ở một điểm xa xôi nào trong quá khứ, con người bắt đầu suy tưởng. Con người chưa bắt đầu suy tưởng nữa. Về phương diện tâm linh, nó hãy còn đi bốn chân. Nó sờ soạng trong sương mù, mắt nó nhắm, tim nó đập thình thịch vì sợ hãi. Và điều nó sợ nhất – Xin Thượng Đế thương xót hắn – là chính hình ảnh hắn.

Nếu một đơn tử còn chứa đựng nhiều năng lực đến thế, thì chính con người, kẻ mang trong mình cả một vũ trụ nguyên tử sẽ thế nào? Nếu có thờ phụng năng lực, tại sao nó không nhìn vào chính nó? Nếu nó có thể chứng minh theo ý muốn, năng lực vô biên tù hãm trong một nguyên tử cực tiểu, thì lúc đó những ngọn thác Niagara đó trong nó ra sao? Và năng lực của trái đất là gì, chỉ nói riêng về sự kết tụ vật chất cực tiểu khác? Nếu chúng ta mong cùm xích quỷ dữ đến nỗi tư tưởng tê liệt. Hoặc – nó phấn khích đến nỗi con người phải chạy hụt hơi từ nhà này sang nhà khác để reo rắc mê sảng và hỗn loạn. Có lẽ chỉ bây giờ người ta mới có thể thẩm định được sự nhiệt liệt – đặc tính của Satan, khi tháo xiềng xích cho những sức mạnh của sự ác. Con người lịch sử không biết gì về cái quỉ mị đích thực. Nó cư trú trong một thế giới u hiển đầy những phản chiếu mờ nhạt mà thôi. Con người giữa thiện và ác đã được phân định từ lâu. Tội lỗi thuộc về thế giới ma quỷ, thế giới của giả bộ. Những ảo mộng hãy chết đi! Ấy, nhưng chúng đã bị ám sát từ lâu rồi. Con người được cung cấp một nhãn lực thứ hai khiến nó có thể nhìn qua và bên trên thế giới của ảo tưởng yêu ma. Nỗ lực duy nhất đòi hỏi con người là nó hãy mở cặp mắt của linh hồn, hãy nhìn vào lòng thực tại và đừng chới với trong lãnh vực của ảo ảnh và ảo giác.

Có một thay đổi tế vi tôi cảm thấy phải thực hiện, trong tương quan với sự diễn giải cuộc đời Rimbaud, và điều đó liên hệ với yếu tố định mệnh. Số phận của chàng là trở thành thi sĩ khích động của thời đại chúng ta biểu tượng của những sức mạnh phân ly mà ngày nay tự chúng hiển lộ. Tôi thường nghĩ là chính định mệnh chàng là bị vướng mắc vào cuộc đời hành động, trong đó chàng sẽ tàn tạ một cách hèn mọn. Khi chàng nói số phận chàng phụ thuộc vào cuốn ”Saison”, chàng muốn nói, tôi phỏng đoán rằng nó sẽ quyết định đường hướng của những hành động tương lai của chàng, và, như ngày nay dường như trở nên minh bạch, nó hầu như chắc chắn đã làm vậy. Nếu chúng ta muốn, chúng ta có thể cho rằng trong khi viết tác phẩm đó chàng chủ trì phát lộ cho chính mình rằng chàng không cần diễn tả trên bình diện nghệ thuật nữa. Là thi sĩ, chàng đã nói tất cả những gì chàng có thể nói. Chúng ta tưởng tượng rằng chàng đã ý thức về điều đó và do đó quay lưng lại với nghệ thuật một cách cố ý. Một vài người đã so đọ nửa phần đời sau của chàng như một thứ giấc ngủ của Rip Van Winkle; đây không phải là lần thứ nhất một nghệ sĩ ngủ trên thế giới. Thì đây ta có ngay Paul Valéry, người đã làm một việc tương tự khi ông đào thoát lãnh vực thi ca đi vào lãnh vực toán học trong một giai đoạn hai mươi năm hay vào khoảng đó. Thường thường có một cuộc trở về, hay một sự thức tỉnh. Trong trường hợp Rimbaud sự thức tỉnh nằm trong cái chết. Ngọn lửa leo lét chập chờn cùng với cái chết của chàng càng ngày càng thêm mãnh liệt vì sự kiện cái chết của chàng càng ngày càng được nhiều người biết đến. Kể từ ngày từ giã trần gian này, chàng càng sống phi thường và linh động hơn khi sống ở đời hơn bao giờ. Người ta tự hỏi nếu chàng trở về cuộc sống này, chàng sẽ viết lối thi ca nào, thông điệp của chàng sẽ là gì. Như thể bị cắt đứt trong lúc đương độ thanh niên trai tráng, chàng đã bị khuôn thiên lừa lọc mất giai đoạn cuối cùng của sự phát triển cho phép một người hoà điệu với những tự ngã nghịch thù của hắn di động dưới một lời nguyền phần lớn cuộc đời, tranh đấu với tất cả mọi năng lực để tìm cho mình một lối đi vào những không gian quang đãng, mênh mang của hiện thể, chàng đã bị dập vùi xuống đất cho mãi đến giây phút cuối cùng khi người ta cảm thấy mây mù đang được vén lên. Sự bồn chồn nóng nảy của hành động chàng biểu thị ý thức về một cuộc sống non yểu, như trong trường hợp D. H. Lawrence và nhiều người khác. Nếu người ta thắc mắc không hiểu những người này có tự thể hiện được viên mãn mình không, người ta có khuynh hướng phúc đáp khẳng định. Tuy họ không được phép đi tròn đầy chu kì, cái tương lai không được sống qua đó cần phải được đoái tưởng tới, nếu chúng ta muốn công bình với họ. tôi đã nói về Lawrence, và tôi nói về Rimbaud, rằng nếu họ được ban thêm ba mươi năm sống nữa, chắc chắn họ sẽ ca hát một điệu hoàn toàn khác hẳn. Họ sẽ luôn hợp nhất với định mệnh họ, chính số phận họ phản bội họ và chính nó đánh lừa được chúng ta trong khi khảo sát sự nghiệp và động lực thúc đẩy của họ.

Rimbaud như tôi thấy, là một mẫu nổi loạn par excellence. Cuộc nổi loạn kéo dài qua phần đầu của cuộc đời chàng không kinh dị bằng cuộc nổi loạn ở phần thứ hai. Có lẽ, chính chúng ta, là người không ý thức được giai đoạn vinh quang chàng sửa soạn bước vào. Chàng chìm xuống dưới chân trời của chúng ta vào chiều hôm trước của cuộc đổi thay vĩ đại, vào lúc khởi đầu của một thời kì xung mãn khi thi sĩ và con người hành động sắp liên hợp. Chúng ta thấy chàng tắt nghỉ như một kẻ chiến bại, chúng ta không thấy được những phần thưởng mà những năm kinh nghiệm trần gian đã tích luỹ cho chàng. Chúng ta thấy hai mẫu người đối nghịch kết hợp trong một con người, chúng ta thấy sự tranh chấp mà không thấy sự hoà điệu hay dung giải tiềm ẩn. Chỉ có những người quan tâm tới ý nghĩa của đời chàng mới cho phép mình bỏ thì giờ giỡn chơi với những suy tưởng đó. Tuy nhiên mục đích duy nhất trong việc đi vào cuộc đời một cá tính ngất trời, nghiên cứu cuộc đời trong quan hệ với tác phẩm, là khám phá ra cái ẩn toàn thâm u, cái bất toàn như thị. Nói về một Lawrence chưa biết tới (vô danh), một Rimbaud chưa biết tới, không còn phải bàn cãi gì nữa về những vóc dáng mà họ có thể tự phát lộ một cách hoàn toàn này. Điều lạ lùng đáng ghi nhận trong mối quan hệ đó là chính những người đề cập đến sự phát lộ - sự tự phát lộ - về người có niềm bí ẩn lớn lao nhất. Những cá nhân này dường như được sinh ra trong thế giới nhiễu nhương để biểu lộ điều bí ẩn nhất trong bản chất họ. Có một niềm bí ẩn gặm nhấm họ là một điều không còn nghi ngờ gì nữa. Người ta không cần phải “huyền bí” để có ý thức về sự khác biệt giữa những vấn đề của họ với những vấn đề của những người siêu đẳng cũng như sự tự đi tới những vấn đề đó của họ. Những người này liên kết một cách sâu xa với tinh thần thời đại, với những vấn đề nền tảng vây phủ thời đại và cho nó đặc tính và âm điệu riêng của nó. Bề ngoài họ có vẻ lưỡng tính, và có lý do chính đáng, vì họ thể nhập cố cựu tân kì với nhau chính vì lí do này mà cần phải có nhiều thời gian để thẩm định và đánh giá họ hơn những người đồng thời dù thời danh hơn họ. Những người này có cội nguồn trong tương lai sáo trộn chúng ta một cách vô cùng sâu xa. Họ có hai âm điệu, hai khuôn mặt, hai lối diễn tả. Họ được phối hợp để dời chuyển, thăng trầm. Khôn ngoan bằng một cách mới lạ, ngôn ngữ của họ đối với chúng ta dường như bí hiểm, nếu không điên cuồng hoặc tương phản.

Trong một bài thơ Rimbaud nêu ra sự bí mật gặm nhấm mà tôi đã nêu ra.

“Hydre intime, sans gueules,
Qui mine et désole”.

Chính sự sầu muộn đã đầu độc chàng ở cả thiên đỉnh lẫn thiên để - điểm của hiện thể chàng. Trong chàng mặt trời và mặt trăng đều mãnh liệt và bị che lấp. (Toute lune est atroce et tout soleil amer). Trung tâm điểm của con người chàng bị ăn rỗng; nó lan rộng như bệnh ung thư gặm nhấm đầu gối chàng. Cuộc sống như một thi sĩ của chàng, nguyệt kì của cuộc cách mạng của chàng cho thấy cùng tính chất lu mờ như phần đời sau của cuộc sống giang hồ và con người hành động của chàng, tức giai đoạn nhật kì. Tạm thoát khỏi sự điên cuồng trong tuổi trẻ, chàng trốn thoát nó lần nữa vào lúc từ trần. Giải pháp duy nhất của chàng, nếu chàng không bị bắt lìa bởi cái chết, là cuộc sống trầm tư, con đường huyền bí. Tôi tin tưởng rằng ba mươi bảy năm của chàng sửa soạn cho lối sống này.

Tại sao tôi tự cho phép mình nói về phần đời dang dở của chàng với xác tín nhường ấy? Bởi vì lại một lần nữa tôi lại nhìn thấy những sự đồng thanh đồng khí với cuộc sống của chính tôi, với sự phát triển của chính tôi. Nếu tôi chết vào tuổi Rimbaud chết, người đời sẽ biết gì về mục đích của tôi, những nỗ lực của tôi? Không gì hết. Tôi sẽ bị coi như một sự thất bại toàn triệt. Tôi phải đợi tới năm bốn mươi ba tuổi mới được nhìn thấy tác phẩm đầu tiên của mình được ấn hành. Đó là một biến cố định mệnh cho tôi, có thể so sánh về mọi phương diện với sự ấn hành cuốn “Saison”. Với sự xuất hiện của nó một chu kỳ phá hoại và thất bại dài đằng đẵng đi đến chỗ kết thúc. Với tôi nó có thể gọi tên là “cuốn sách mọi đen” của tôi. Nó là lời nói cuối cùng trong tuyệt vọng, phản kháng và nguyền rủa. Nó còn có cách tiên tri và chữa trị, không phải chỉ đối với độc giả của tôi mà đối với tôi nữa. Nó có tính chất cứu chuộc của nghệ thuật luôn luôn phân biệt những cuốn sách đoạn tuyệt với quá khứ này. Nó cho phép tôi đóng lại cánh cửa của quá khứ và tái nhập bằng cửa hậu. Niềm bí ẩn nhức nhối vẫn tiếp tục ăn mòn tôi, nhưng bây giờ nó lả “niềm bí ẩn mở phơi” và tôi có thể đương đầu với nó.

Và đâu là bản chất của niềm bí ẩn đó? Tôi chỉ có thể nói rằng nó không liên hệ với những bà mẹ. Tôi cảm thấy tương tự với Lawrence và Rimbaud. Tất cả sự nổi loạn mà tôi chia sẻ với họ phát khởi từ vấn đề này, như tôi cố gắng diễn tả, có nghĩa là sự tìm kiếm mối ràng buộc đích thực của người ta với nhân loại. Người ta không thể tìm thấy nó trong đời sống cá nhân cũng như trong đời sống tập thể, nếu người ta thuộc mẫu người này. Người ta bất khả thích nghi với độ điên cuồng. Người ta khao khát kiếm kẻ đồng đẳng nhưng chỉ thấy vây quanh bởi những khoảng trống vắng mênh mông. Người ta cần một bậc thầy, nhưng người ta thiếu khiêm cung, nhu thuận, kiên trì cần thiết. Người ta không tự nhiên thoải mái với kẻ cao viễn trong tinh thần, ngay cả kẻ cao viễn ngất trời cũng khiếm khuyết hay khả nghi. Tuy nhiên ngưới ta chỉ tương ứng với những người cao viễn ngất trời này. Đó là một tình trạng lưỡng nan của sự trọng đại đầu tiên, một tình trạng lưỡng nan đầy ý nghĩa cao vời nhất. người ta phải thiết lập sự sai biệt tối hậu của con người dị thường của riêng mình và làm vậy để khám phá liên hệ quyến thuộc với toàn thể nhân loại, ngay cả lớp mạt hạng. Chấp nhận chính là khai ngữ. Nhưng chấp nhận chính là đoạn đường gập ghềnh dễ sa chân sẩy bước nhất. Nó phải là sự chấp nhận hoàn toàn chứ không phải là thủ cựu.

Điều gì khiến cho mẫu người này khó chấp nhận trần gian? Sự kiện, như tôi thấy bây giờ, là trong buổi ban đầu của cuộc đời toàn thể khía cạnh đen tối của cuộc sống, và của chính con người ta, dĩ nhiên, bị đàn áp, bị ngăn trở hoàn toàn đến độ dường như không còn nhìn nhận ra được. Không bị bác bỏ khía cạnh đen tối này của con người có nghĩa là một sự mất cá tính, mất cả tự do nữa, người ta lý luận với mình như vậy. Tự do bị ràng buộc bởi sự biện biệt. Cứu chuộc ở đây nghĩa là bảo tồn đồng nhất tính đồng nhất của con người trong một thế giới có khuynh hướng biến tất cả mọi người và mọi sự tương tự như nhau. Đó là căn nguyên của nỗi sợ hãi. Rimbaud nhấn mạnh sự kiện chàng muốn tự do trong cứu chuộc. Nhưng người ta chỉ được cứu chuộc bằng cách khắc phục tự do ảo tưởng này. Sự tự do hắn đòi hỏi là giải thoát tự ngã để tự xác nhận mình không bị hạn chế. Đó không phải là tự do. Dưới ảo tưởng này người ta chỉ có thể đóng đến cùng mọi khía cạnh chi ly nhỏ nhặt của con người mình và còn tìm thấy lý do để than vãn, đất để nổi loạn nếu người ta sống đủ lâu. Đó là một tự do cho người ta quyền phản đối, tách ra nếu cần. Nó không đếm xỉa gì đến những sự khác biệt của người khác, mà chỉ chú ý đến sự khác biệt riêng tư. Nó không bao giờ giúp người ta tìm thấy sự ràng buộc của người ta, sự liên lạc của người ta, với toàn thể nhân loại. Người ta mãi mãi chia ly, mãi mãi đơn độc.

Tất cả điều đó chỉ có một ý nghĩa duy nhất đối với tôi – đó là người ta vẫn trói buộc với mẹ. Mọi sự nổi loạn của người ta chỉ là bụi trong mắt, toan tính che dấu sự trói buộc này một cách điên cuồng. Người mang dấu tích này luôn luôn chống lại mảnh đất quê hương họ - không có cách nào làm khác được. Sự nô lệ là vấn đề phải lo lắng nhất, dù nô lệ tổ quốc, giáo hội hay xã hội. Cuộc đời họ dùng để phá huỷ xiềng xích, nhưng niềm bí ẩn ăn mòn những bộ phận sinh hoạt của họ và không cho họ được ngơi nghỉ. Họ phải hoà giải với mẹ trước khi họ có thể rứt bỏ ám ảnh xiềng xích. “Đứng ngoài lề! Luôn luôn đứng ngoài lề! Ngồi trên ngưỡng của lòng mẹ”. Tôi tin rằng đó chính là những lời nói của tôi trong Blackspring, một thời vàng son khi tôi gần như nắm được sự bí mật. Không có gì đáng ngạc nhiên khi người ta bị tách biệt khỏi mẹ. Người ta không quan tâm tới bà, trừ như một trở ngại. Người ta muốn tiện nghi và an ủi của lòng mẹ, cái bóng tối và sự yên ả đó, đối với kẻ chưa sinh ra đời tương đương với giác ngộ và chấp nhận, đối với kẻ đã thực sự chào đời. Xã hội được tạo thành bởi những khuôn cửa đóng, cấm kỵ, luật lệ, ức chế và cấm đoán. Người ta không có cách nào để thoát khỏi những nanh vuốt của những yếu tố xây dựng nên xã hội này và qua đó người ta phải làm việc nếu người ta bao giờ cũng muốn thiết lập một xã hội đích thực. Đó là một cuộc nhảy múa liên tục bên miệng núi lửa. Người ta có thể được tuyên dương như một kẻ nổi loạn vĩ đại nhưng người ta sẽ chẳng bao giờ được yêu. Và hơn ai hết kẻ nổi loạn cần phải biết tình yêu, cho nhiều hơn nhận được, và là tình yêu cho cả hơn tình yêu nữa.

Có lần tôi đã viết một bài thảo luận nhan đề ”Cửa lòng rộng mở”. Trong thiên thảo luận này, tôi quan niệm thế giới như một cửa lòng, như nơi sáng tạo. đó là một nỗ lực dũng cảm và hữu hiệu đi tới chấp nhận. Đó là điềm báo trước một sự chấp nhận hoàn toàn hơn, vắn tắt để theo, một sự chấp nhận mà tôi thực hiện với toàn thể con người tôi. Nhưng thái độ coi thế giới như một cửa lòng và sáng tạo này không phải là một thái độ dễ chịu đối với những kẻ nổi loạn khác. Nó chỉ khiến tôi bị xa lánh ghét bỏ thêm mà thôi. Khi kẻ nổi loạn bất hoà với kẻ nổi loạn, như hắn thường làm, nó giống như mặt đất tan vỡ dưới chân hắn. Rimbaud trải qua cảm giác chìm đắm đó qua kinh nghiệm công xã. Kẻ nổi loạn chuyên nghiệp thấy khó tiêu một thái độ như vậy. Chàng dùng một danh từ xấu xa để chỉ nó: tạo phản. Nhưng chính tính chất tạo phản đó trong kẻ nổi loạn tách rời chàng với quần chúng. Chàng luôn luôn tạo phản và xúc phạm thần thánh, nếu không trong chữ nghĩa thì trong tinh thần. Trong thâm tâm chàng là một kẻ phản bội bởi chàng sợ nhân tính trong chàng sẽ kết hợp chàng với đồng loại của chàng; chàng là một kẻ phá huỷ thánh tượng bởi vì tôn kính hình tượng quá cao, chàng đi đến chỗ sợ hãi nó. Điều chàng muốn trên tất cả là nhân tính thông thường của chàng, những sức mạnh sùng bái và tôn kính của chàng. Chàng sầu não vì đứng một mình; chàng mãi mãi không muốn là một con cá sống ngoài nước. Chàng không thể sống với những lý tưỡng của chàng trừ khi những lý tưởng này được chia sẻ, nhưng làm sao chàng có thể thông đạt những ý tưởng và những lý tưởng của chàng nếu chàng không nói cùng ngôn ngữ với đồng loại chàng? Làm sao chàng chinh phục được họ nếu chàng không biết tình yêu? Làm sao chàng có thể thuyết phục họ xây dựng nếu cả đời chàng chỉ dùng để phá huỷ?

Sự âu lo được xây dựng trên nền tảng nào? Cái “hydre intime” ăn rỗng cho đến khi ngay cả tâm điểm của con người trở thành mạt cưa và toàn thể, thân thể riêng tư và thân thể thế giới tựa như một toà phá miếu. “Rien de rien ne me m’illusionne!” Rimbaud kêu lên. Tuy nhiên cả đời chàng không là gì khác hơn là một ảo tưởng vĩ đại. Thực tại đích thực của con người chàng không bao giờ chàng khám phá ra được, không bao giờ đi tới chỗ cầm nắm được. Thực tại là cái mặt nạ mà chàng tranh đấu với móng vuốt sắc để bứt xé đi. Trong chàng là một sự khao khát không thể dập tắt đi.

“légendes ni figures
Ne me désaltèrent”.

Không, không gì có thể làm dịu cơn khát của chàng. Cơn sốt ở trong những bộ phận sinh hoạt của chàng nơi niềm bí ẩn day dứt. Tinh thần chàng tự phát hiện từ những đáy sâu thai bào, nơi, tựa một con tàu say, chàng bập bềnh điên đảo trên biển thi ca chàng. Bất cứ nơi nào ánh sáng soi vào nó đều gây thương tích hết. Mỗi thông điệp từ thế giới sáng của tinh thần đều tạo ra một kẽ nứt trên vách mộ. Chàng sống trong một nơi ẩn náu của tổ tiên vỡ vụn khi phơi ra ánh sáng ban ngày. Với tất cả ngững gì là nguyên tố, chàng đều quen thuộc thoải mái, trái lại chàng là một sự thoái bộ, một khuôn mặt cổ điển, một người Pháp hơn bất cứ một người pháp nào, tuy nhiên là một kẻ xa lạ giữa bọn họ.

Tất cả mọi sự được xây dựng trong ánh sáng của nỗ lực thông thường chàng đều từ khước. kí ức chàng, cái kí ức ôm ấp thời đại của Đại giáo đường, thời đại của những cuộc viễn chinh của Thập tự quân, là một kí ức nòi giống. Hầu như sự sinh ra đời thất bại không thể cá thể hoá chàng. Chàng vào đời trang bị như một tên Saracen. [1] Chàng có luật lệ khác, nguyên tắc hành động khác, thế giới quan khác. Chàng là một người nguyên thuỷ được phú bẩm tất cả mọi vẻ quý phái của nòi giống. Chàng siêu đẳng về bất cứ phương diện nào. Chàng là kẻ đặc biệt đó, kẻ phi thường sinh ra từ máu mủ xác thịt nhân loại như được chó sói bú mớm. Không một ẩn ngữ có tính cách phân giải nào sẽ có thể giải thích được con quái vật. Chúng ta biết điều chàng thất bại không làm nổi, nhưng điều chàng phải làm để trung thực với con người chàng, ai có thể nói được? Chúng ta phải hiệu chính những qui luật của sự hiểu biết ngõ hầu bám sát một điều bí ẩn như vậy.

Con người bây giờ đang bị xô liệng, ai sẽ cưỡng bách chúng ta thay đổi những phương pháp nhận thức của chúng ta. Nơi trú náu xưa, nơi Rimbaud sống với niềm bí ẩn của chàng chẳng bao lâu sụp đổ. Bất cứ nhân vật lạc điệu nào chẳng bao lâu sẽ bị đẩy ra ngoài chỗ công khai; không còn nơi khuất nẻo nào còn lại. Trong hoàn cảnh công cộng, nhân vật kì lạ với chứng bệnh bí hiểm của hắn sẽ bị lôi ra khỏi chiến hào duy nhất của hắn. Toàn thể thế giới của đàn ông và đàn bà đang bị tập trung lại, mang ra trước vành móng ngựa của công lý. Có đáng kể gì nếu vài tâm hồn hiếm bứt rứt khó chịu, bị xử bất công, rút hương thơm ra từ những nỗi đau khổ của họ? Bây giờ toàn thể chủng loại đang sửa soạn chuẩn bị một cuộc thử thách lớn lao, với biến cố vĩ đại hầu như trên chúng ta, việc đọc những bí ngữ càng ngày càng trở nên quan trọng hơn, kích thích hơn bao giờ. Chẳng bao lâu, và một cách vô cùng đột ngột, tất cả chúng ta sẽ bị dìm ngập sát cánh nhau, kẻ tiên tri thấu thị cũng như con người phàm phu tục tử. Một thế giới hoàn toàn mới mẻ, một thế giới cấm và kinh hoàng, sẽ gần kề chúng ta. Một ngày kia chúng ta sẽ thức dậy để nhìn ra một cảnh tượng bên ngoài mọi hiểu biết. Những thi nhân và những nhà tiên tri thấu thị đã báo hiệu thế giới mới đó hàng nhiều thế hệ, nhưng chúng ta không chịu tin họ. Chúng ta ở những định tính, chúng ta từ khước thông điệp của những hành tinh vô định trong bầu trời. Chúng ta coi chúng như những hành tinh chết, như những con ma ẩn hiện, như những kẻ sống xót của những tai hoạ đã bị bỏ quên từ lâu.

Thi nhân giống như những hành tinh vô định của bầu trời xiết bao! Tựa như những hành tinh, họ chẳng dường như giao thiệp với những thế giới khác sao? Họ chẳng nói với chúng ta về những việc sắp xảy ra cũng như về những việc quá khứ xa xưa, chôn vùi trong trí nhớ nòi giống của con người sao? Còn ý nghĩa nào hay hơn chúng ta có thể gán cho sự lưu lại thoáng qua bên trái đất hơn mật sứ của thế giới khác? Chúng ta sống giữa những sự kiện chết trong khi họ sống trong dấu hiệu và biểu tượng. Khát vọng của họ chỉ trùng hợp với khát vọng của chúng ta khi chúng ta lại gần cận nhật điểm. Họ cố gắng lôi kéo chúng ta ra khỏi chỗ neo tầu; họ hối thúc chúng ta cùng bay với họ trên đôi cánh tinh thần. Họ luôn luôn thông báo sự xuất hiện của những điều sắp xảy ra và chúng ta đóng đinh họ vì chúng ta sống trong sự sợ hãi cái bất khả tri. Trong thi nhân, lò xo hành động được che dấu kín. Một mẫu tiến hoá cao hơn hết tất cả mọi chủng loại khác – và ở đây, khi dùng tiếng “thi nhân” tôi muốn chỉ tất cả những kẻ cư trú trong tinh thần và óc tưởng tượng – chàng chỉ được phép có thời kì thai nghén giống như những người khác. Chàng phải tiếp tục thai nghén sau khi ra đời. Thế giới mà chàng sẽ cư ngụ không giống như thế giới của chúng ta; nó chỉ giống thế giới của chúng ta theo mức độ mà thế giới của chúng ta được kể như giống thế giới của người Cro-Magnon. Sự thấu hiểu sự vật của chàng tương tự với sự thấu hiểu của một người ở thế giới không gian chiều thứ tư sống trong một thế giới ba chiều. Chàng ở trong thế giới của chúng ta nhưng không thuộc về nó; chàng không trung thành với bất cứ nơi nào. Sứ mệnh của chàng là xúi giục chúng ta, khiến thế giới giới hạn vây quanh chúng ta trở nên không thể tha thứ được. Nhưng chỉ có những kẻ nào có thể theo lời kêu gọi sống qua thế giới không gian ba chiều, mới có thể sống hết khả năng của nó.

Dấu hiệu và biểu tượng mà thi nhân dùng là những bằng chứng chắc chắn nhất chứng tỏ rằng ngôn ngữ là một phương tiện đề cập tới cái bất khả thuyết và bất khả tư nghị. Ngay khi những biểu tượng trở nên có thể thống trị được trên mọi bình diện, lập tức chúng mất hết năng lực và hiệu quả. Đòi hỏi thi sĩ nói ngôn ngữ của những người ngoài phố chẳng khác nào mong nhà tiên tri khiến những lời dự đoán của ngài trở nên minh bạch. Điều gì nói với chúng ta từ trên những lãnh vực cao xa đều đến vây bọc trong màn bí mật và huyền nhiệm. điều gì thường xuyên trải ra và tôi luyện qua giải thích – tóm lại, thế giới khái niệm – thì đồng thời bị đè ép súc tích, siết chặt lại qua việc sử dụng nghệ thuật tốc kí nắn nót của biểu tượng. Chúng ta không thể giảng nghĩa nổi trừ trong ngôn ngữ của những câu đố mới. Điều gì thuộc về lãnh vực tinh thần, hay vĩnh cửu, thoát khỏi mọi định nghĩa. Ngôn ngữ của thi sĩ có tính cách tiệm cận; nó đi song song với tiếng nói bên trong khi tiếng sau này kề cận cõi vô biên của tinh thần. Chính qua âm vực nội tại này mà người không ngôn ngữ, tạm nói như vậy, thông cảm với thi sĩ. Không có vấn đề giáo dục ngôn ngữ can dự vào nhưng là một vấn đề phát triển tinh thần. Sự tinh khiết của Rimbaud không nơi nào biểu lộ nhiều hơn trong cao độ bất thoả hiệp này mà chàng duy trì trong suốt tác phẩm chàng chàng được nhiều mẫu người khác nhau hiểu cũng như bị nhiều mẫu người khác nhau ngộ nhận. Những kẻ bắt chước chàng có thể bị khám phá ra ngay lập tức. Chàng không có điểm nào chung với trường tượng trưng cũng như chẳng có điểm nào chung với phái siêu thực, như tôi được biết. Chàng là cha đẻ của nhiều trường phái và không là bà con của một trường phái nào. Chính sự sử dụng biểu tượng độc nhất của chàng là sự đảm bảo cho thiên tài chàng. Nghệ thuật biểu tượng này được trau dồi trong gian lao và thống khổ. Đồng thời nó là một sự phản kháng và mưu thuật của sự truyền bá kiến thức buồn nản đe doạ bóp nghẹt nguồn suối tinh thần. Nó cũng còn là một cánh cửa sổ mở vào một thế giới của những tương quan phức tạp bao la mà ngôn ngữ bộ điệu cổ điển không còn dùng được nữa. Ở đây chàng gần nhà toán học và khoa học gia hơn gần thi sĩ của thời đại chúng ta. Khác với những thi sĩ gần đây của chúng ta, chàng không dùng những biểu tượng mà những nhà toán học và khoa học gia dùng. Ngôn ngữ của chàng là ngôn ngữ của tinh thần, không phải của trọng lượng, đo lường và những tương quan trừu tượng. Chỉ riêng trong lãnh vực này chàng phát hiện cho thấy chàng “tân kì” tuyệt đối như thế nào.

Ở đây tôi muốn khai triển một điểm mà trước đây tôi đã đề cập đến, đó là vấn đề giao cảm giữa thi sĩ và thính giả. Trong khi tán thưởng việc sử dụng biểu tượng của Rimbaud tôi muốn nhấn mạnh rằng chiều hướng đích thực của thi sĩ nằm trong nẻo này. Có một sự sai biệt lớn lao, trong tâm trí tôi, giữa sự sử dụng một nguyên bản biểu tượng rộng rãi và sự sử dựng một lối tiếng lóng vô cùng riêng tư mà tôi coi như ”khó hiểu”. Thi sĩ hiện đại dường như quay lưng lại với thính giả của mình, như thể hắn coi thường thính giả. Trong ý muốn tự vệ, đôi khi hắn thích tự đồng hoá mình với nhà toán học hay vật lý gia là những người ngày nay đang đi đến chỗ dùng một ngôn ngữ bộ điệu hoàn toàn ở bên trên mức lãnh hội của đa số người học thức, một ngôn ngữ xa lạ chỉ những hội viên tôn sùng hắn mới có thể hiểu nổi. Hắn dường như quên rằng hắn có một chức vụ hoàn toàn khác hẳn những người liên lạc với thế giới vật lý hay trừu tượng này. Phương tiện sự trung gian của hắn là tinh thần và sự liên lạc của hắn với thế giới của con người là một sự liên lạc thiết yếu. Ngôn ngữ của hắn không phải để cho phòng thí nghiệm mà là những thời kì nghỉ ngơi của tâm hồn. Nếu hắn từ chối khả năng làm xúc động chúng ta, phương tiện sự trung gian, của hắn sẽ trở thành vô giá trị. Nơi đổi mới là tâm hồn, và chính nơi đây thi sĩ phải cắm neo. Khoa học gia, ngược lại, hoàn toàn liên lạc với thế giới ảo tưởng, thế giới vật lý trong đó sự vật được tạo ra để xảy ra. Hắn hoàn toàn là một nạn nhân của những năng lực xưa kia hắn hy vọng khai thác. Thời kì vàng son của hắn đang đi đến chỗ bế mạc. Thi sĩ sẽ không bao giờ được thấy mình trong tư thế này. Trước hết hắn đã chẳng là thi sĩ nếu bản năng sống của hắn là bản năng bảo tồn như bản năng của khoa học gia. Nhưng sự nguy hiểm đe doạ hắn là sự huỷ bỏ những năng lực; bằng cách phản bội niềm tin của hắn, hắn nhường quyền kiểm soát số phận của vô lượng con người cho những cá nhân phàm tục mà mục đích duy nhất là thổi phồng chính con người họ. Sự thoái vị của Rimbaud thuộc tính chất tự thanh toán khác của thi sĩ hiện đại. Rimbaud từ chối trở thành bất cứ cái gì khác chàng, trong chức vụ chàng như một thi sĩ, để tồn tại. Những thi sĩ của chúng ta ganh ghét tên tuổi nhưng không có một sự sắp xếp nào để chấp nhận trách nhiệm của chức vụ họ. Họ không tự chứng tỏ mình là thi sĩ; họ bằng lòng tự gọi nhau như vậy một cách đơn thuần. Họ không viết cho thế giới đang chăm chú chờ mỗi lời họ thốt ra mà chỉ viết cho nhau. Họ chứng tỏ sự bất lực của họ bằng cách tự biến mình thành khó hiểu một cách cố ý. Họ khép mình trong tự ngã nhỏ bé được tô chuốt tán dương của họ; họ đặt mình lên trên thế giới vì sợ tan tành tả tơi khi mới tiếp xúc lần thứ nhất. Họ không có ngay cả cá tính nữa. Khi người ta có quyền đó, vì nếu họ có cá tính thì chúng ta đã có thể hiểu nỗi giày vò và hôn mê của họ, như tự thể của chúng, họ đã biến họ thành trừu tượng như những vấn đề của nhà vật lý học. Những vấn đề của họ là một mong ước sâu kín về một thế giới của thi ca thuần tuý trong đó cố gắng giao cảm bị giản lược đến số không. [2]

Khi tôi nghĩ tới những tinh thần vĩ đại đồng thời với Rimbaud – những người như Nietzsche, Strinberg, Dostoievsky – khi tôi nghĩ tới nỗi thống khổ họ chịu đựng, một sự thử thách trên tất cả mọi thứ mà những thiên tài của chúng ta phải trải qua, tôi bắt đầu nghĩ rằng hậu bán thế kỉ Mười chín là một trong những giai đoạn bị nguyền rủa nhất trong lịch sử. Từ hàng ngũ của những kẻ tuẫn giáo, tất cả đều đầy những dự cảm về tương lai, người mà tấn thảm kịch gần gũi Rimbaud nhất là Van Gogh. Chào đời một năm trước Rimbaud, chàng chết bởi chính tay chàng gần như cùng một tuổi. Giống như Rimbaud, chàng cũng có một ý chí kim cương, bất hoại một lòng can đảm gần như siêu nhân, một năng lực và lòng nhẫn nại phi thường, tất cả những đức tính đó cho phép chàng chiến đấu chống lại những sức mạnh đông đảo không thể chiến thắng. Nhưng cũng như Rimbaud, cuộc chiến đấu khiến chàng kiệt quệ trong lúc đời đương xanh; chàng quỵ ngã trên chóp đỉnh của những năng lực chàng.

Những cuộc lang thang, những sự thiên di, những bước thăng trầm, những sự thất bại và nhục nhã, đám mây mù của xa lạ bao phủ họ, tất cả những yếu tố chung của hai cuộc đời này, khiến họ đứng ngoài lề như hai kẻ song sinh xấu số. Cuộc đời họ nằm trong những cuộc đời buồn thảm nhất chúng ta ghi nhận được trong thời hiện đại. Không người nào đọc thư Van Gogh mà không xúc động nhỏ lệ nhiều phen. Tuy nhiên, điều khác biệt lớn lao nằm trong sự kiện cuộc đời Van Gogh hứng khởi. Chẳng bao lâu sau khi Van Gogh chết, bác sĩ Gachet, người thấu hiểu con bệnh của mình sâu xa, viết cho Théo, em của Vincent: “Danh từ yêu nghệ thuật không đúng, người ta phải gọi nó là đức tin, một đức tin mà Vincent cảm thấy mình là môt kẻ tuẫn đạo!”. Đó là một yếu tố dường như hoàn toàn khiếm khuyết nơi Rimbaud – đức tin, bất cứ tin Thượng Đế, con người hay nghệ thuật. Chính sự thiếu vắng của điều này khiến cuộc đời chàng ảm đạm và đôi khi hoàn toàn đen tối. Song le những sự tương đồng về tính khí giữa hai người nhiều và phi thường hơn cả. Mối quan hệ lớn lao nhất giữa họ và sự trinh tuyền của (trong?) nghệ thuật (của?) họ. Mức độ của sự trinh tuyền này được phát biểu bằng đau khổ. Với vòng xoay của thế kỉ, loại thống khổ này dường như không thể có được nữa. Chúng ta đi vào một phong thổ trong đó nghệ sĩ trở nên cứng cỏi hơn, vô tình hơn. Bất kì người nào bây giờ còn cảm nghiệm bất cứ điều gì tương tự loại khổ não đó, và ghi nhận nó, đều bị mang dấu “lãng mạn vô phương cứu chữa”. Người ta không mong đợi cảm thức kiểu đó nữa.

Vào tháng Bẩy 1880, Van Gogh viết cho em chàng một trong những lá thư đi vào tận lòng sự vật, một lá thư làm giỏ máu. Trong khi đọc lá thư đó, người ta nhớ tới Rimbaud. Luôn luôn trong thư họ, có một sự diễn tả giống nhau một cách lạ thường. Không bao giờ họ đoàn kết với nhau hơn khi họ tự vệ chống lại những lời buộc tội bất công. Trong lá thư đặc biệt này Van Gogh chống lại lời phỉ báng sự nhàn cư. Chàng mô tả tỉ mỉ hai loại nhàn cư, một loại xấu xa và một loại hữu ích. Đó là bài thuyết giáo đích thực về đề tài đó và đáng trở đi trở lại mãi. Trong một đoạn của lá thư này, chúng ta nghe thấy âm hưởng của mỗi chữ của Rimbaud… ”Bởi thế em không được nghĩ rằng anh từ chối không nhận sự vật”, chàng viết, ”Anh khá tin tưởng trong sự bất tín của anh, và dù thay đổi, anh vẫn vậy, và mối lo âu duy nhất của anh là: làm cách nào anh ích dụng cho đời, chẳng lẽ anh không thể phục vụ cho một vài mục đích nào đó và hoàn toàn vô tích sự, làm cách nào anh học hỏi nhiều hơn và nghiên cứu sâu xa một vài môn? Em thấy đó là điều khiến anh thường xuyên lo lắng và rồi anh cảm thấy anh bị tù túng trong cảnh nghèo nàn, bị loại ra không được tham dự một vài công tác và một số điều cần thiết ở ngoài tầm với của người anh. Đấy là một lý do khiến người ta không thể không buồn, và người ta cảm thấy một nỗi trống trơn nơi đáng lẽ có thể là tình bằng hữu và những nỗi yêu thương mãnh liệt và đứng đắn và người ta cảm thấy một nỗi chán chường khủng khiếp gặm nhấm nghị lực tinh thần mình, và định mệnh dường như dựng lên một hàng rào cho những bản năng thương mến, và một cơn chán nản ngập lụt dâng lên làm người ta ngột ngạt. Và người ta la lên: “Sao lâu quá, trời ơi!”

Rồi chàng tiếp tục tiễn biệt giữa con người ăn không ngồi rồi vì làm biếng, vì thiếu tư cách, vì bản chất hèn hạ, và loại người ăn không ngồi rồi khác phải làm biếng một cách miễn cưỡng, trong cùng đáy tâm hồn bị thiêu đốt bởi nỗi khát khao làm việc đến cùng cực, không làm gì cả bởi vì hắn không thể làm bất cứ việc gì v.v. Chàng vẽ một bức tranh một con chim bị nhốt trong cái lồng sơn son thiếp vàng. Rồi chàng thêm – bằng những chữ bi thương đứt ruột, thảm khốc - : ”Và người ta thường bị hoàn cảnh ngăn trở không cho hành động, một tù nhân trong một cái lồng anh không biết rõ khủng khiếp, khủng khiếp là nhường nào, cái lồng khủng khiếp nhất. Anh biết còn có sự giải thoát, sự giải thoát muộn màng. Một tăm tiếng suy sụp một cách hợp lý hay bất công, sự nghèo khó, những cảnh ngộ tang thương, tai biến, là cái khép kín chúng ta, cầm tù chúng ta: dường như vùi lấp chúng ta, nhưng, tuy nhiên người ta cảm thấy những chấn song nào đó, những cánh cổng nào đó, những bức tường nào đó. Phải chăng tất cả những cái đó là tưởng tượng, ảo tưởng? Anh không nghĩ vậy. Và rồi người ta thêm: ”Chúa ôi! Tình trạng này kéo dài hay sao, mãi mãi hay sao, vĩnh viễn hay sao đây?” Em có biết điều gì giải thoát người ta khỏi cảnh tù đày này không? Đó là bất cứ niềm yêu thương sâu thẳm, đứng đắn nào. Là bằng hữu, là anh em, tình yêu, là điều mở tung cánh cửa ngục tù bằng năng lực siêu phàm, bằng sức mạnh thần bí. Nhưng nếu không có điều đó, người ta mãi mãi ở trong tù. Nơi nào thiện cảm hồi phục, đời sống phục sinh”

Song trùng xiết bao giữa cuộc sống đày ải của Rimbaud giữa đám dân bản xứ Abyssnie với cuộc lưu đày tự ý của Van Gogh giữa đám người bị nhốt trong một dưỡng trí viện! Tuy nhiên chính trong những nơi chốn kì lạ này mà cả hai người tìm thấy một chút an bình thoả nguyện tương đối. Trong tám năm, Enid Starkie viết “người bạn và người an ủi duy nhất của Rimbaud dường như là Djami, cậu bé Harar mười bốn hay mười lăm tuổi gì đó, người hầu cận, người bạn đồng hành thường trực của ông… Djami là một trong ít người duy nhất trong đời ông mà ông nhớ và âu yếm nói tới, người bạn duy nhất ông nhắc nhở trên giường lâm chung, trong khi tư tưởng những người khác thường quay trở về những người họ biết khi còn trẻ. ”Về phần Van Gogh chính bác phu trạm Roulin là người đứng bên chàng trong những giờ phút đen tối nhất. Niềm khao khát mãnh liệt tìm kiếm một người nào đó chàng có thể sống và làm việc chẳng bao giờ thành tựu ở thế giới bên ngoài. Kinh nghiệm với Gauguin không những tai hại mà còn thảm khốc nữa. Khi cuối cùng chàng tìm thấy bác sĩ Gachet có dạ nhân từ ở Auvers thì đã muộn quá, những sợi dây tinh thần chàng đã rời rã kiệt quệ. “Đau khổ không than van là bài học duy nhất chúng ta phải học trong cuộc đời này!” Đó là kết luận Van Gogh đã rút ra từ kinh nghiệm đắng cay này. Chính trên ghi nhận cực kì nhẫn nhục này cuộc đời chàng kết liễu. Van Gogh từ trần tháng Bẩy 1890. Năm sau Rimbaud viết cho gia đình: “Adieumariage, alieu famille, adieu avenir! Ma vie est pasée. Je ne suis plus qu’ troncon immobile”. [3]

Không người nào khát khao tự do và độc lập cho bằng hai tâm hồn bị cầm tù này. Cả hai dường như lựa chọn có chủ định con đường trắc trở nhất cho mình. Với cả hai chén đắng được đổ đầy đến độ trào ra. Trong cả hai người có một vết thương sống mãi không bao giờ chữa lành được. Khoảng tám năm trước ngày nhắm mắt, van Gogh cho thấy trong một lá thư của chàng điều mà mối thất vọng lớn lao trong tình yêu lần thứ hai đã gây ra cho chàng thế nào. ”Chỉ một câu nói khiến tôi cảm thấy không có gì trong tôi thay đổi về điều đó hết, rằng nó còn đó và mãi mãi là một vết thương lòng, tôi mang theo với tôi, nhưng nó nằm sâu và sẽ chẳng bao giờ hàn gắn được, sẽ còn mãi năm này qua năm khác”. Một chuyện tương tự như vậy cũng đã xảy ra cho Rimbaud, dầu chúng ta gần như chẳng hiểu chút gì về câu chuyện bất hạnh này, thật khó mà tin rằng hậu quả cũng tác hại như vậy.

Có một đức tính mà họ cùng chia xẻ với nhau cũng đáng ghi nhận ở đây – sự đơn giản vô cùng của nhu cầu hàng ngày của họ. Họ khổ hạnh như những bậc thánh mới có thể khổ hạnh bằng. Có thể cho rằng Rimbaud sống một cách cơ cực bởi chàng nghèo thật. Nhưng khi chàng đã góp nhặt được một số tiền đáng kể chàng cho thấy chàng sẵn sàng ra đi với nó bất cứ lúc nào. Viết cho mẹ chàng từ Harar năm 1881, chàng nói: ”Si vous evez besoin, prenez de quoi est à moi: c’est à vous. Aapour moi je n’ai personne à qui songer, sauf ma propre personne, qui ne demande rien”, khi người ta nghĩ rằng những người này, những người mà tác phẩm đã là một suối nguồn bất tận cho những thế hệ nối tiếp, bị bắt buộc phải sống như nô lệ, rằng họ gặp khó khăn trong việc kiếm ăn, khó khăn hơn cả nhu yếu của một tên cu li, thì chúng ta nghĩ sao về xã hội từ đó nảy sinh? Chẳng phải rõ ràng rằng một xã hội như thế này đang sửa soạn cho sự sụp đổ nhanh chóng của chính nó sao? Trong một trong những lá thư viết từ Harar, Rimbaud so sánh những thổ dân ở Abyssinie với người văn minh da trắng: ”Les gens du Harar ne sont ni plus bêtes, ni plus canailles, que les règres blanes des pays civilisés; ce n’est pas du même ordre, voilà tout. Ils sont mêmes moins méchants et peuvent, dans certain cas, manifester de la reconnaissance et de la fidélité.” Giống như Van Gogh, chàng dễ chịu với những kẻ bị khinh bỉ và chà đạp hơn những người cùng giới chàng Rimbaud lấy một người đàn bà bản xứ để thoả mãn lòng yêu thương của chàng, trong khi Van Gogh cư xử như một người chồng (và như cha các con của nàng) với một thiếu phụ đáng thương thấp kém hơn chàng về đủ mọi phương diện, một người đàn bà khiến đời chàng trở thành địa ngục. Ngay cả về phương diện luyến ái xác thịt họ cũng bị khước từ những đặc ân của người đàn ông bình thường. Họ đòi hỏi ở cuộc đời ít bao nhiêu họ nhận được ít bấy nhiêu. Họ sống như những thằng bù nhìn, giữa những tài nguyên phong phú của thế giới văn hoá chúng ta. Tuy nhiên không có hai người nào của thế hệ họ có thể nói đã tinh luyện giác quan để hưởng trước bữa tiệc nhiều hơn họ. Trong khoảng thời gian vài năm họ không những đã nghiến ngấu mà còn ngốn tiệt di sản tích luỹ của vài ngàn năm. Họ đối diện với đói khát ngay giữa trung tâm bề ngoài có vẻ sung mãn. Đã đến lúc diệt vong. Châu Âu đã rất sẵn sàng phá huỷ cái khuôn mẫu đã trở nên chật hẹp như một cỗ áo quan. Năm tháng đã trôi qua kể từ ngày họ từ trần thuộc về khía cạnh đen tối đó của đời sống mà trong bóng tối của nó họ đã tranh đấu để thở. Tất cả những gì là man rợ, sai lầm, phá tán đang dềnh lên bề mặt với sức mạnh của một sự tuôn trào như núi lửa. Cuối cùng chúng ta đang bắt đầu nhận thức được lạc hậu biết bao nhiêu cái thời đại tự xưng là “tân tiến” này. Những tinh thần tân tiến đích thực chúng ta đã ra công tiêu diệt hết. Quả thực niềm khao khát của họ ngày nay có vẻ lãng mạn; họ nói ngôn ngữ của tâm hồn. Ngày nay chúng ta đang nói bằng ngôn ngữ chết, mỗi người một ngôn ngữ khác nhau. Sự cảm thông đã chấm dứt; chúng ta chỉ chuyển giao xác ngôn từ.

“Có thể tháng tới tôi sẽ tới Zanzibar”, Rimbaud viết trong một lá thư của chàng. Trong một lá thư khác chàng nghĩ tới việc tới Trung Hoa hay Ấn Độ. Luôn luôn chàng hỏi tin tức về kênh đào (Panama?). Chàng sẽ du lịch tới chân trời góc biển nếu ở đó có hy vọng bù đắp cho cuộc sống. Chẳng bao giờ chàng nghĩ tới chuyện trở về quê hương và làm lại cuộc đời. Luôn luôn tâm trí chàng nghĩ về những miền đất lạ.

Thật là hoà điệu thân mật sao! Biết bao lần trong lúc ban đầu tôi mơ tưởng tới chuyện đi tới Timbuctoo! Nếu không thể, thì tới Alaska hay tới những hải đảo Polynésie. Có lần trong viện bảo tàng Trocadero, tôi đứng lặng hồi lâu ngắm nhìn khuôn mặt những thổ dân quần đảo Caroline. Vì tôi ngắm nghía kỹ những nét đẹp của họ tôi nhớ lại rằng họ hàng xa xôi của tôi có thể tới đó, tôi nghĩ, cuối cùng chắc chắn tôi sẽ cảm thấy “thoải mái như ở nhà mình” cho mà xem. Còn về Đông phương, nó luôn nằm trong đáy tâm hồn tôi, một khát vọng sớm bắt đầu từ lúc tuổi còn xanh. Không những chỉ Trung Quốc và Ấn Độ mà thôi mà còn cả Java, Bali, Miến Điện, tiểu bang Nepal và cả Tây Tạng nữa. Chẳng bao giờ tôi nghĩ tôi sẽ gặp khó khăn tại những nơi xa xăm đó. Luôn luôn tôi có cảm tưởng tôi sẽ được đón tiếp bằng những vòng tay rộng mở. Trái lại, trở lại New York lại là một ý tưởng ghê sợ. Thành phố mà mỗi con đường tôi biết rõ như một cuốn sách, nơi tôi có biết bao nhiêu bạn bè, lại là nơi cuối cùng trên trái đất tôi sẽ quay về. Thà tôi chết còn hơn bị bắt buộc quay về sống những ngày cuối cùng của tôi tại nơi chôn nhau cắt rốn. Tôi chỉ có thể hình dung tôi khi trở về New York như một kẻ hoàn toàn xác xơ, như một kẻ què quặt, như một kẻ đã hoá ra ma.

Tôi tò mò đọc những lá thư đầu của Rimbaud xiết bao! Chàng vừa mới bắt đầu những cuộc phiêu đãng; chàng nói huyên thiên về những cảnh tượng chàng đã thấy, thiên nhiên của những vùng đất chàng đã qua, những chuyện tầm phào mà những kẻ ru rú ở nhà luôn luôn đọc một cách thích thú say mê. Chàng quả quyết rằng khi chàng đi tới nơi chàng muốn tới chàng sẽ kiếm được việc làm thích hợp. Chàng tin tưởng ở mình, tất cả mọi việc sẽ tốt đẹp. Chàng còn trẻ, tinh thần hăng hái, và có biết bao nhiêu điều để nhìn ngắm trong thế giới vĩ đại này. Chẳng bao lâu giọng điệu chàng thay đổi. Bởi tất cả nhiệt tình và sôi nổi chàng tỏ lộ, bởi tất cả sự hăng hái làm việc, bởi tất cà những cái chàng thủ đắc về phương diện tài năng, lòng ngây thơ, kiên gan, khả năng thích nghi, chàng đã khám phá ra từ rất lâu rằng quả thực không có chỗ nào cho một ngừơi như chàng, ở bất cứ nơi đâu. Thế giới không muốn cái độc đáo, nó muốn sự tương hợp thủ cựu, nô lệ, nhiều nô lệ hơn nữa. Nơi dành cho thiên tài là đầu đường xó chợ, cống rãnh, đường mương, hoặc trong các mỏ than hay hầm đá, nơi mà tài năng của hắn sẽ không được dùng đến. Một thiên tài đi kiếm chỗ làm là một trong những cảnh bi đát nhất trong cuộc đời. Hắn không thích hợp với bất cứ nơi nào, không ai cần hắn. Hắn bất khả thích nghi, xã hội nói vậy. Với nhận định đó, các cánh cửa đóng sầm một cách tàn nhẫn vào mặt hắn. Vậy thì chẳng có chỗ nào cho hắn hết cả sao? Ồ có chứ, bao giờ mà chẳng có chỗ nơi hang cùng? Không bao giờ bạn nhìn thấy hắn chất những bao cà phê hay hàng “nhu yếu” phẩm dọc theo bến tàu sao? Bạn không để ý thấy hắn rửa bát đĩa khéo thế nào trong nhà bếp một tiệm ăn bẩn thỉu sao? Bạn không nhìn thấy hắn vác hành lý, va li nhà ga sao?

Tôi sinh trưởng ở New York, nơi có đủ mọi cơ hội để thành công như người ta tưởng tượng. Nhưng cũng chẳng khó khăn cho tôi bao nhiêu khi tưởng tượng chính tôi đứng nối đuôi tại những sở kiếm việc làm và văn phòng cứu tế xã hội. Công việc duy nhất mà dường như bao giờ tôi cũng có đủ khả năng làm tròn trong những ngày tháng này là việc rửa bát. Nhưng rồi tôi cũng luôn luôn đến quá trễ. Có hàng vạn người lúc nào cũng sẵn sàng và hăng hái làm công việc này. Thường tôi nhường chỗ của tôi cho một kẻ đáng thương dường như tả tơi hơn tôi cả trăm ngàn lần nữa. Đôi khi, ngược lại, tôi mượn tiền đi xe hay ăn một bữa ăn nơi một trong những người đứng xếp hàng xin việc làm và rồi quên tất cả việc kiếm việc. Nếu tôi thấy có cơ hội có người giúp đỡ cho một việc gì tốt hơn ở một tỉnh lân cận là tôi mò tới đó trước hết dầu có mất cả ngày trời để đến đó. Một đôi lần tôi đi cả ngàn cây số hay hơn nữa để kiếm một việc làm tưởng tượng, một việc làm như làm bồi chẳng hạn. Thường thường ý tưởng phiêu lưu kích thích tôi xa nhà lạc nẻo. Dọc đường tô có thể bắt chuyện với một người có thể thay đổi toàn thể dòng đời tôi. Tôi có thể “bán” tôi cho hắn chỉ vì tôi quá tuyệt vọng. Tôi tự biện luận như vậy. Đôi khi tôi được nhận công việc tôi đã đi kiếm, nhưng thầm hiểu rằng mình chẳng bao giờ cầm giữ được lâu dài, tôi bèn đổi ý kiến và lộn trở về nhà. Bao giờ cũng với một cái dạ dày lép kẹp. Đó là điều thứ nhì luôn luôn liên kết với thiên tài – sự thiếu ăn. Trước hết tại vì không ai cần hắn cả, thứ đến không có thực phẩm cho hắn, và sau cùng hắn không biết ngả đầu vào chỗ nào cả. Ngoài những cái phiền bực đó ra, hắn sống một cuộc sống, như ai đó đều biết, cuộc sống của tên đại lãn. Hắn lười biếng, vụng về, bất định, không ngay thật, một kẻ dối trá, trộm cắp, du đãng. Hắn tạo ra bất mãn bất cứ nơi nào hắn lang thang tới. Quả thực, một con người không thể chịu nổi. Ai có thể hoà thuận với hắn? Không một ai, ngay cả chính hắn.

Tại sao nói đi nói lại mãi về những điều xấu xí, trái điệu hoài vậy? Cuộc đời của một thiên tài không hoàn toàn là nhớp nhúa và đói khổ bần cùng. Người nào cũng có những nỗi khổ hệ luỵ riêng, Mặc dầu hắn là thiên tài hay không. Vâng, điều đó cũng là thực sự nữa. Và không một người nào biết rõ thực sự đó hơn thiên tài cả.Thỉnh thoảng bạn sẽ gặp thiên tài đi với một chương trình cứu vớt thế giới hay ít ra một phương pháp cải tạo. Những thứ đó tức cười như những giấc mộng điên, như thể hoàn toàn ảo tưởng. ”Giáng sinh trên trần gian!“ Chẳng hạn. Thật là một giấc mộng hão huyền! Trước hết hãy để hắn chứng tỏ rằng hắn có thể lèo lái được chính hắn đã nào, bạn nói. Làm sao hắn có thể cứu vớt được người khác nếu hắn không thể cứu vớt chính hắn được? Câu trả lời cổ điển. Không thể bác được. Nhưng thiên tài không học hỏi. Hắn sinh ra với một giấc mộng Thiên thai, và dù giấc mộng đó có vẻ điên rồ thế nào đi chăng nữa, hắn sẽ tranh đấu để biến nó thành khả thi không biết bao nhiêu lần. Hắn bất trị, một kẻ tái phạm trong tất cả mọi ý nghĩa của danh từ. Hắn thấu hiểu quá khứ, hắn ôm ghì tương lai – nhưng hiện tại vô nghĩa đối với hắn, hắn cự tuyệt một cách khinh bỉ mọi phần thưởng, mọi cơ hội. Hắn là một kẻ bất mãn. Dầu khi bạn chấp nhận tác phẩm hắn, hắn vẫn vô ích đối với bạn. Hắn đã lao đầu vào một tác phẩm khác; khuynh hướng của hắn đã đổi chiều, lòng say đắm của hắn đã ở nơi khác. Bạn có thể làm gì cho hắn? Bạn có thể an ủi hắn bằng cách nào? Bạn không thể làm gì được cả. Hắn ở ngoài tầm tay. Hắn theo cái bất khả.

Cái hình ảnh chẳng được đáng yêu này của thiên tài có lẽ là một hình ảnh khá chính xác. Dù rằng có đôi chút khác nhau, một cách thiết yếu, có thể nó mô tả tình trạng của con người bất bình thường ngay cả trong những xã hội sơ khai. Những dân tộc sơ khai cũng có những kẻ bất khả thích nghi, những kẻ loạn óc, loạn thần kinh của họ. Tuy nhiên chúng ta vẫn chủ trì tin tưởng rằng thân phận này không cần phải như thế, rằng sẽ tới một ngày kia khi mẫu cá thể này không những sẽ tìm được một chỗ đứng trên đời mà còn được tôn kính và ngưỡng vọng nữa. Có thể đó cũng là giấc mơ tinh luyện nữa. Có thể sự thích nghi, hoà điệu, thanh bình và cảm thông là những sai biệt của ảo ảnh muôn đời còn lừa phỉnh chúng ta. Tuy thế, sự kiện chúng ta đã tạo ra những khái niệm trên, chúng có một ý nghĩa sâu thẳm đối với chúng ta, có nghĩa rằng chúng ta có thể thể hiện được. Những khái niệm trên có thể được tạo ra vì nhu cầu, nhưng chúng có thể trở thành thực tại qua ước vọng. Thiên tài luôn luôn sống như thể những giấc mộng của họ có thể tựu thành. Hắn quá chất đầy khả năng của những giấc mộng để sống tận cùng chúng cho chính hắn; trong ý nghĩa này, hắn giống như những kẻ khước từ tối thượng, từ chối Niết bàn cho đến khi tất cả mọi chúng sinh đều có thể hiện Niết bàn cho chính họ.

“Những con chim vàng bay liệng qua bóng những bài thơ của chàng!”. Từ đâu bay lại những con chim vàng đó của Rimbaud? Và chúng bay về đâu? Chúng không phải là bồ câu cũng chẳng phải là diều hâu; chúng ở trong thinh không. Chúng là những đặc sứ ấp trứng trong bóng tối và thoát bay trong ánh sáng giác ngộ. Chúng không giống những sinh vật của không gian chúng cũng chẳng phải là thiên thần. Chúng là những con chim hiếm của tinh thần, những con chim đưa tin lướt bay từ thái dương này sang thái dương kia. Chúng không bị giam cầm trong những bài thơ, chúng được giải phóng ở đó. Chúng bay lên với những đôi cánh xuất thần và tan biến trong lửa đỏ.

Được điều kiện hoá để xuất thần, thi nhân tựa như con chim lạ rực rỡ sa lầy trong tro tàn của tư tưởng. Nếu hắn thành công trong việc giải thoát chính hắn thì chỉ để thực hiện một cuộc bay theo nghi thức về phía mặt trời. Những giấc mộng của hắn về một giới cải tạo chỉ là những tiếng vang dội lại của nhịp đập hối hả của mạch máu hắn. Hắn tưởng tượng thế giới sẽ theo hắn, nhưng trong trời xanh hắn thấy mình cô đơn. Cô đơn nhưng được bao bọc xung quanh bởi những sáng tạo của hắn; do đó, được nâng đỡ để gặp gỡ cuộc hy sinh tối thượng. Cái bất khả đã được hoàn thành. Và từ nay mãi mãi qua các thời đại bài hát lan rộng, sưởi ấm mọi lòng, thấu nhập mọi tâm thức. Tại ngoại biên thế giới đang lịm đi; tại trung tâm nó đỏ rực như than hồng. Trong lòng thái dương vĩ đại của vũ trụ những con chim vàng hợp bầy. Ở đó muôn đời là bình minh, muôn đời hoà bình hoà điệu và cảm thông. Con người không hướng vọng mặt trời một cách vô ích; hắn đòi hỏi ánh sáng và sự ấm áp không phải cho thi thể mà một ngày kia hắn sẽ loại bỏ không dùng tới nữa mà là do tâm thể hắn. Niềm ao ước lớn lao nhất của hắn là cháy với xuất thần, giao thoa ngọn lửa nhỏ của hắn với khối lửa trong lòng vũ trụ. Nếu hắn hoà hợp với những đôi cánh thiên thần để thiên thần có thể bay đến hắn với thông điệp hoà bình, hoà điệu và ánh sáng chói lọi từ những thế giới bên kia thì chỉ là để nuôi dưỡng chính những giấc mộng bay bổng tuyệt vời của hắn, nâng đỡ chính niềm tin của hắn rằng một ngày kia hắn sẽ vượt qua chính hắn và trên những đôi cánh bằng vàng.

Một sự sáng tạo cặp đôi với một sự sáng tạo khác; trong yếu tính chúng đều giống nhau. Tình huynh đệ giữa con người không hệ tại sự suy tưởng giống nhau, cũng không ở sự hành động giống nhau, nhưng ở trong khát vọng ngợi ca sáng tạo. Bài ca sáng tạo trỗi lên từ những tàn tích của nỗ lực trần gian. Con người ngoại tại chết đi để phát lộ cánh chim vàng đang tung cánh bay về thần tính.


[1]Ghi chú (Tiếng Hy Lạp: Sarakènos): 1. nguyên thuỷ: một cá nhân thuộc bộ lạc Bắc Syrie. 2. Sau này: một người Ả rập, 3. Bất cứ một người Hồi giáo nào, nhất là người chống lại Thập tự quân – G. c. D
[2]Đọc bài khảo luận nhan đề “Thư ngỏ giữa những nghệ sĩ siêu thực ở khắp nơi” trong The cosmological Eye, New Directions, New York.
[3]Pháp văn trong nguyên bản: “vĩnh biệt hôn nhân, vĩnh biệt gia đình, vĩnh biệt tương lai! Đời tôi đã hết, tôi chỉ còn là một khúc bất động không hơn không kém” G. c .D.
Nguồn: Henry Miller, The Time of the Assassins - A Study of Rimbaud, New Directions 1955. Bản Việt ngữ của Nguyễn Hữu Hiệu: Thời của những kẻ giết người - Nghiên cứu về Rimbaud. Hồng Hà, 1970

===

No comments: