XUÂN VŨ
với
34 tác phẩm chống Cộng
với
34 tác phẩm chống Cộng
Năm 1998 tổ hợp xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ cho ra cuốn ký sự “Những bậc thầy của tôi” của Xuân Vũ. Trong bức thư riêng gửi nhà xuất bản, tác giả viết: “Cuốn sách này coi như là “trạm nghỉ chân” cuối cùng, nghỉ xong rồi ngủ luôn không đi đâu nữa hết…” Không biết một người viết “như thác đổ” có chịu ngừng thật chưa. Nhưng dựa vào câu nói của tác giả ta có thể tạm tổng kết số lượng sách ông viết từ 1972 đến nay, nghĩa là trong vòng 27 năm, không kể những cuốn ông viết khi còn ở bên kia chiến tuyến.
Ông là nhà văn chuyên nghiệp, đa năng. Sách ông viết thuộc nhiều loại – không kể trường ca “Trả Ta Sông Núi” và một số bài thơ khác, trong đó có bài “Ta về hôn đất” 395 câu – nhiều nhất là truyện ngắn, 13 tập gồm tổng cộng hơn hai trăm truyện. Hồi ký có 11 cuốn, trong đó có bộ “2000 ngày trấn giữ Cử Chi”, viết chung với Dương Đình Lôi, gồm 7 tập trên hai nghìn trang. Tiểu thuyết: 11 cuốn. Còn lại là truyện ký, ký sự, khảo luận, kịch . Tổng cộng 57 cuốn. (Theo bản liệt kê có thủ bút của XV gửi cho MV tháng 7-00, thì con số 57 đã tăng lên 61, và XV viết rằng vẫn chưa “dừng chân” được.) Trong số đó có tới (ít nhất là) 34 cuốn trực tiếp đánh vào thành trì xhcn mà ông thường gọi tắt là “xã nghĩa”.
Ít nhất đã có 7 nhà xuất bản thay nhau in tác phẩm của ông: Đất Mới, Nam Cường, Xuân Thu, Người Việt, Đại Nam, Trời Nam và Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông.
Trong số những tác phẩm của ông có cuốn hồi ký “Đường Đi Không Đến” được giải thửơng Văn Học của tổng thống VNCH. Cuốn này đã tái bản tới 8 lần và in “chui” nhiều lần ở trong nước. Một độc giả ở Bỉ (Belgique), cô Hương kể lại rằng cả công an cũng thích đọc hồi ký và tiểu thuyết của Xuân Vũ: Nhà XB Xuân Thu đã trích đăng những bức thư của 13 nhân vật ca ngợi sách của Xuân Vũ trong số đó có Phạm Duy, Võ Phiến, Hà Huyền Chi, Lê Xuân Nhị, Hải Bằng, Lê Nhật Thăng, Vũ Uyên Giang, nhà cách mạng lão ký giả Trần Văn Ân … Cô Hương ở Bỉ kể:
“…Lúc sắp lui ghe vượt biên, tôi bị công an xét. Chúng thấy cuốn “Đường Đi Không Đến” giắt trong mui ghe. Tên công an bảo là sách cấm. Tôi sợ quá, định “đấm mõm” hắn, nhưng hắn lại hỏi mua quyển sách. Tôi tưởng hắn nói chơi ai dè thiệt. Tôi không dám lấy tiền. Hắn bèn cho tôi mấy lít gạo tịch thu của ai… Qua đây tôi mua lại “Đường Đi Không Đến” mua luôn “Xương Trắng Trường Sơn” và “Mạng Người Lá Rụng”, định mua luôn “Đồng Bằng Gai Góc” cho đủ bộ mà chưa kiếm được.”
Tờ Thế Giới Magazine số 126 ở Houston viết: “Các chuyện có số lượng bán chạy nhất ở Saigon hiện giờ là tiểu thuyết và hồi ký “Xương Trắng Trường Sơn” của Xuân Vũ. Cán bộ đua nhau tìm đọc… Các sách truyện hàng đầu được công an lùng sục là các truyện của Xuân Vũ, tập thơ Tiếng Vọng Từ Đáy Vực (1) của Nguyễn Chí Thiện, tập Huyết Hoa của Lý Đông A.”
Chính soạn giả được biết một độc giả ở Nouvelle Calédonie, khi hỏi mua cuốn “Ngô Đình Diệm Lời Khen Tiếng Chê”, cũng đã nhờ Thông Vũ mua giùm ông cuốn “Đến Mà Không Đến” của Xuân Vũ. Một tháng sau cũng độc giả đó lại nhờ mua giúp cuốn “Mạng Người Lá Rụng”, vì thấy trong cuốn Ngô Đình Diệm Lời Khen Tiếng Chê có trích dẫn tác phẩm này của Xuân Vũ.
Sở dĩ người ta thích đọc Xuân Vũ vì ông có lối viết hết sức lôi cuốn, kết cấu rất đặc biệt. Nhà thơ Xuân Tước đã viết về Xuân Vũ như sau: “Tôi đã đọc rất nhiều truyện ngắn cũng như truyện dài của Xuân Vũ, thấy rằng anh đã có một lối kết cấu rất đặc biệt…phải đọc hết, đọc cho đến chương cuối hay đoạn chót của truyện, thì mới thấy nổi bật cái kết cuộc khéo léo và bất ngờ”
“Với tôi, chưa có nhà văn nào hiểu biết thấu đáo về cảnh quê và dân quê miền Nam hơn Xuân Vũ. Anh đã đi khắp miền Nam, từ Nam ra Bắc, rồi từ Bắc trở về Nam, anh đã sống, đã từng tranh đấu với dân quê. Vì thế mỗi ngôn từ mà anh viết ra đều chính là ngôn từ của họ, mỗi mảnh đời anh vẽ lại, đều chính là cuộc đời của họ. Anh thấu hiểu tâm tình người dân quê hơn ai hết.”
Đó là khi Xuân Vũ nói về miền Nam. Còn khi ông tả nhân vật người miền Bắc ông cũng tỏ ra am tường ngôn ngữ miền Bắc lắm. Đọc những lời đối thoại giữa tác giả với cô vũ ba lê Thu thì rõ. Hoặc một đoạn trong tập truyện ngắn “Thiên Đàng Treo” rất linh động và đặc biệt “Bắc Kỳ” từ trang 143 đến 147. (“Chuyện Tục Về Một Vùng Thanh”)
Về ảnh hưởng tai hại của tác phẩm của Xuân Vũ đối với xhcn. một cán bộ công an Saigon đã nói với bác sĩ Phạm Thành Tài, giám đốc cũ của Xuân Vũ ở nha Chiêu Hồi: “…Thằng Thiệu trốn, bỏ lại đất nước, ta còn có thể sửa lại, còn thằng Xuân Vũ bỏ lại tác phẩm thì chả ai sửa lại được, vì nó là chất độc, cực độc.”
Vài nét về cuộc đời trôi nổi Nam-Bắc, Bắc-Nam của Xuân Vũ:
Xuân Vũ, tên thật là Bùi Quang Triết, sinh ngày 19 tháng 3 năm 1930, tại làng Minh Đức, Quận Mỏ Cầy, tỉnh Bến Tre (Kiến Hòa). Cha ông là một nhà nông nhưng rất thích thơ văn, đã có hàng ngàn bài thơ, chưa in thì bị mất trong chiến tranh. Xuân Vũ chỉ có một người em gái suốt đời ở vậy nuôi cha mẹ vì người anh duy nhất là ông đã “lậm kháng chiến rồi.”
Bất chấp sự khuyên can của cha mẹ, cậu bé Triết 15 tuổi đi theo người cậu kháng chiến chống Pháp và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Xuân Vũ học làm thơ với nhà thơ Tâm Điền, tức “nhà thơ vàng” Xuân Tước, và có bài thơ đăng báo đầu tiên ở Hà-nội khi mới 17 tuổi. Năm 1950 ông làm cho báo “Tiếng Súng Kháng Địch” của khu 9. Sau hiệp định Genève ông tập kết ra Bắc.
Thấy cảnh xhcn miền Bắc không giống như ông mơ tưởng khi còn ở tuổi mơ mộng 16, ông bèn ngây thơ vào trụ sở Ủy hội quốc tế kiểm soát đình chiến xin trở về Nam, trong thời gian chưa hết hạn. Dĩ nhiên lính gác người Việt là mật báo viên của đảng đã báo cáo việc này và ông bị kiểm thảo, phải lên đài đọc lời cải chính là mình không bao giờ xin trở về Nam. Từ đó ông bó buộc phải làm việc cho đảng để lập công, chuộc tội. Ông sáng tác và được vào hội nhà văn cùng với Phùng Cung năm 1958. Đến năm 1965, nhờ có Trần Bạch Đàng là cán bộ cao cấp ở miền Nam, cũng là thủ trưởng cũ của Xuân Vũ vận động cho nên Xuân Vũ được nhập đoàn đi B, (tức là vào chiến trường miền Nam).
Ông nhận nhiệm vụ vào miền Nam để sáng tác nâng cao tinh thần chiến đấu của quân cán chính và lấy chất liệu cho sáng tác văn nghệ gửi ra Bắc. Ông đã tả lại cuộc vượt Trường Sơn gian lao hiểm trở đầy chết chóc, bệnh tật, hiểm nguy trăm điều trong bộ hồi ký “Đường Đi Không Đến” 5 tập (gần 2000 trang): Đường Đi Không Đến (I), Xương Trắng Trường Sơn (II), Mạng Người Lá Rụng (III), Đến Mà Không Đến (IV) và Đồng Bằng Gai Góc (V).
Nhưng vào đến nơi ông mới thấy những điều người ta tuyên truyền ở ngoài Bắc là giả dối: “vùng giải phóng con chó nằm còn thò cái đuôi ra ngoài”. Hơn nữa ông nhìn rõ thực tại phũ phàng:
“Dòng họ tôi nội ngoại ủng hộ cách mạng, con cháu đi theo cách mạng, hy sinh cho cách mạng để mất trên hai chục ngôi nhà lớn…..Như vậy cách mạng đã “trả công” cho tôi bằng cách giết một người dì, một người cậu và một người cô, còn ai nữa thì tôi chưa tính sổ” ( trang 164-166)
Ông liền tìm cách bỏ “cách mạng”, về thành. Ông được trọng đãi, được cử làm giám đốc một nha, bộ chiêu hồi, nhưng ông không dám nhận, chỉ nhận làm phó cho một người bạn và đồng chí cũ cũng mới hồi chánh là giáo sư (đại học Hà-nội) Phạm Thành Tài.
Khi miền Nam mất vào tay cộng quân, ông đã thoát được ra nước ngoài. Mấy năm đầu ông phải làm đủ mọi công việc để kiếm sống nên tạm ngưng viết trong vài năm. Đến khi đã dành dụm được một số tiền ông liền “trở lại cầm bút với một sức mạnh vũ bão, ông viết như thác đổ…” (2) Ngoài bộ hồi ký 5 tập nói trên, sau đây là những sách ông đã viết từ khi tới Mỹ:
– 2000 Ngày Đêm Trấn Giữ Củ Chi (7 tập).
– Văn Nghệ Sĩ Miền Bắc Như Tôi Biết.
– Mười Năm Mưa Phùn Gió Bấc.
– Những Bậc Thầy Của Tôi.
– Tình Trên Cánh Gió.
– Nửa Thế Kỷ Phạm Duy
– Trả Ta Sông Núi (thơ, trường ca)
– Lệnh Tấn Công (kịch)
Và 36 cuốn vừa truyện dài, vừa truyện ngắn:
– Cách Mạng Tháng 8, Cha Đẻ Còng Số 8
– Kẻ Sống Sót.
– The Survivor (Anh ngữ)
– Đỏ Và Vàng.
– Đỏ Và Bùn.
– Bùn Đỏ.
– Biển Lửa Và Núi Tro.
– Ta Về Hôn Đất.
– Sông Nước Hậu Giang.
– Cái Rác.
– Coi Chừng Chó Dữ.
– Ngọn Rạch Bằng Lăng Thiên Đàng Treo.
– Thiên Đàng Treo Đứt Giây.
– Con Người Vốn Quý Nhất
– Tự Vị Thế Kỷ.
– Thiên Đàng Chuột.
– Ông LãoThổi Bong Bóng
– Trăng Kia Chưa Xế.
– Vàng Mơ Bông Lúa.
– Những Độ Gà Nòi.
– Thầy Tư Cóc
– Dưới Bóng Dừa Xanh.
– Xóm Cái Bần.
– Mưu Trí Đàn Bà.
– Buồng Cau Trổ Ngược.
– Tấm Lụa Đào…
– Cô Ba Trà.
– Ngọc Vùi.
– Hột Xoàn Là Của Trời Cho
– Quê Hương Yêu Dấu.
– Đồng Bạc Để Nái.
– Cái Móng Tay.
– Bữa Tiệc Thịt Chó
– Dưới Trời Cần Vương (l.s. tiểu thuyết)
Khuôn khổ của chương này cũng như mục đích của toàn soạn phẩm không cho phép lược tóm và trích dẫn tất cả 34 tác phẩm của Xuân Vũ, mà tác phẩm nào cũng chứa đầy dẫy dữ kiện. Chúng tôi sẽ chỉ chọn một vài đoạn vắn rải rác ở một số tác phẩm nói lên nhận xét của tác giả về chế độ và những nhà lãnh đạo trong chế độ “xã nghĩa” đó, theo từ ngữ của Xuân Vũ. Tuy nhiên chúng tôi sẽ nói kỹ hơn về tập “Đường Đi Không Đến”, đã đoạt giải nhất văn học miền Nam dưới thời tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Cuốn sách đó thuộc loại hồi ký. Về tiểu thuyết sẽ trích dẫn bộ ” Đỏ Và Vàng”.
Đường Đi Không Đến
Đường Đi Không Đến là cuốn đầu trong bộ hồi ký (Vượt Trường Sơn) mang cùng tên “Đường Đi Không Đến” gồm 5 cuốn. Vào những năm 1968-1969, cuốn này đã được đăng dần trên tờ báo Tiền Tuyến của Nha Chiến Tranh Tâm Lý, Bộ Quốc Phòng VNCH rồi được xuất bản tại Saigon năm 1973. Tác phẩm đã được giải thưởng của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Không đầy 1 năm sau nó đã được tái bản tại Saigon và tính đến năm 1993 thì nó đã được tái bản 8 lần tại Mỹ. Tuy là một cuốn hồi ký gồm những sự việc có thật được thuật lại theo thứ tự thời gian nhưng đã được tác giả viết một cách trau chuốt đến độ hấp dẫn không kém gì những tiểu thuyết thời danh. Có lẽ vì nguyên những sự việc xảy ra tự chúng đã rất ư độc đáo và đã để lại trong tâm trí tác giả những ấn tượng sinh động khác thường. Để trả lời những ai nghi ngờ tác giả cường điệu, xin trưng dẫn lời tác giả trong bài tựa cuốn tiểu thuyết “Đỏ Và Vàng”:
“…Đó có phải là “cường độ” không? Ai CƯỜNG nổi đến ĐỘ đó?? Chính cái thực tế đó, tự nó đã là một sự cường độ tối cao rồi, cần gì phải cường độ nữa. Đúng tiếng của nó là cường điệu. Không có nhà văn nào không cường điệu. Nhưng khi sáng tác về Cộng Sản thì không cần. Chỉ sợ không viết nổi sự thực về c.s. thôi.”
Tôi không phải là một nhà phê bình văn học. Mục đích soạn phẩm này cũng không phải để nêu lên những cái hay cái đẹp của một tác phẩm văn chương. Tuy nhiên với tư cách là một độc giả thường tôi muốn chia sẽ với bạn đọc sự cảm phục của tôi đối với lối viết chuyện linh hoạt, tài hoa của tác giả, bằng cách trích dẫn dưới đây một vài đoạn vắên mà tôi cho là hay, để kéo sự chú ý của độc giả tới những điều chân thật, sâu sắc mà tác giả giãi bày trong cuốn sách liên quan đến cái nhìn của ông đối với Cộng Sản Việt Nam trước và sau khi ông rời bỏ Cộng Sản.
1. Đôi chân ngọc của cô vũ công vũ Ba Lê tên Thu:
“Tôi trỏ vào Thu đang từ suối đi lên. Vì sợ ướt quần nên Thu xắn lên quá đầu gối rất xa. Màu da trắng loáng thoáng qua những kẽ cây rừng. Tôi rỉ tai anh trạm trưởng: Cặp đùi đẹp nhất thủ đô đó, anh xem giùm một chút là hết bi quan ngay.(trang 178)
- Khậc, khậc! Anh trạm trưởng nhìn theo hướng tay tôi chỉ rồi quay lại, nét mặt hững lên, thơ ngây như một anh chàng lần đầu mới nhìn thấy đàn bà.
Thu không thấy tôi và anh trạm trưởng, nên cứ tự nhiên đi tới, càng lúc càng gần chúng tôi. Cái màu trắng mơ hồ lúc nãy bây giờ đã hiệân lên gần quá. Có thể nom thấy những hạt nước còn đọng trên làn da như những hạt sương điểm trên những cành hoa bạch huệ. Nhưng anh trạm trưởng không nhìn thẳng. Hình như anh bị lóa mắt trước một hiện tượng kỳ lạ, xa lạ với cuộc sống lâu nay của anh. Còn tôi thì có thói quen, khi thì công khai , khi thì lén lút, khi thì thiệt tình khi thì vờ vịt tôi đã nhìn cái hiện tượng đó, cái kỳ quan đó không biết bao nhiêu lần, mỗi lần mỗi rung động, mỗi ý nghĩ, mỗi diễn biến tâm trạng, mỗi dục vọng. Tôi đã tìm thấy tất cả an ủi trong cái hiện vật lạ lùng ấy. Thơ tứ ở trong đó và những ý nghĩ sôi nổi, những cảm tình nồng cháy cũng ở trong đó….
Nói đến Thu là tôi nghĩ ngay đến đôi thỏi ngà thon thon, không no tròn quá cũng không mong manh quá, một cái gì gần như được cân tiểu ly cân đo và một bàn tay điêu khắc kỳ diệu nhào nặn tác hợp.”
(và nơi trang 245): “Coi chừng …hòn đá đó trơn lắm!” Tôi chỉ hòn đá mà mắt tôi không rời chân nàng. Làn da trắng vừa xanh mét vừa ướt nước. Những hạt nước còn đeo dính rải rác trên chân nàng như luyến tiếc những giây phút sinh thú của chúng nên chúng cố bám vào đấy như những hạt ngọc để trang điểm cho những vật thể mà sắc đẹp vốn đã thừa. Thu ơi! Nếu tôi được là một hạt nước dính nơi chân em! (…) (tr.245)
- Ước gì anh được làm một hạt bụi dưới chân em.
- Em sẽ nghiền nát anh ra.
- Không, anh sẽ bay tung lên và đáp lên tóc lên má em.
Thu đỏ rừ hai má…. “
Sách có hơn ba trăm trang thì gần một trăm trang tác giả dành cho cặp chân cô vũ nữ Ba Lê. Vì chẳng những nó đẹp, nó còn bị thương, bị sưng, bị độc nữa. Biết bao người chiêm ngưỡng nó, ao ước nó, giành nhau săn sóc nó. Khi đôi chân ngọc sưng húp cần qua suối hết người này đến người kia ước mong được cõng nàng con gái đẹp có đôi chân ngà. Tác giả cũng đòi cõng, nhưng vừa qua cơn sốt rét xong sức đâu mà cõng. Khi nàng té trên dòng suối, chàng cố tiến tới chỉ mong được đỡ nàng lên nhưng không kịp vì đã có những anh lính trẻ ôm lấy nàng trước rồi. Nhưng dầu sao chàng vẫn có ưu thế với nàng hơn bất cứ ai. Những lúc không cần sức thì chỉ có chàng có cơ hội và quyền lực để săn sóc nàng. Nàng vẫn biết chàng đa tình:
” Ai anh cũng yêu! Tôi vui vẻ: – Em trách anh làm gì chuyện đó? – Không, em đâu có trách anh. Thu lặng lẽ nhìn tôi với đôi mắt đờ dại không còn ánh sáng. Rồi Thu khẽ lắc đầu: – Anh đừng yêu em! – Tình yêu như trái chín. Làm sao ngăn cản được? – Em không chịu đựng nổi tình cảm mãnh liệt của anh!” Tôi quỳ sụp xuống và ôm chặt lấy đôi chân nàng. Tôi nghe như có một khối nam châm hút tôi vào một vật gì mền mại và ngọt ngào hương. Bên tai tôi tiếng gió rít, tiếng suối reo. Một cánh buồm đang no gió hứa hẹn một cuộc vượt trùng dương” (tr 318-319)
Cũng vẫn đôi chân nõn nà, thon thon của Thu sẽ là đề tài tranh cãi gay go giữa ông Chín, ngoại ngũ tuần, với đám lính trẻ về “Lập Trường” (Lập trường chính trị, lập trường cách mạng hay lập trường giai cấp?) kéo dài trong nhiều trang sách linh động mà duyên dáng gần cuối sách nói lên hết cái thâm ý của tác giả nhằm chế riễu lập trường của Đảng.(tr. 257-262)
2. Tiếng gọi ân tình của đôi chim gi gợi nhớ lại cuộc giao tình của cặp trai gái (Chính là tác giả và cô bạn gái tên Phương):
“Tôi nghiêng đầu ra mép võng. Không gian sầu thảm. Một con chim gi đang đậu ngay trên đỉnh đầu tôi, tự nãy giờ đứng ở đấy, chốc chốc lại kêu lên những tiếng ai oán. Tôi không thấy nó nhưng tôi chắc nó mầu xanh sậm và có đôi mắt chan chứa u buồn. Ở đàng kia có một cô luôn luôn đáp lời, mỗi lần chú đàng này gióng lên tiếng gọi. Dường như chúng đang hò hẹn tìm kiếm nhau. Tôi có cảm giác đó là linh hồn của hai người chết vì một mối tình nan giải, và đôi linh hồn ấy đêm đêm lại quờ quạng tìm đến nhau để nối lại cuộc tình ái dang dở trên dương trần. Tiếng kêu của chúng nghe não nùng ai oán lạ. Nghe chim kêu tôi thấy đau khổ tràn lòng. Tôi nghe như gan ruột mình chín từng đoạn một, nỗi tình yêu, nỗi cuộc đời.(trang 202-206)
“Dội lên trong tâm tư tôi một nỗi ai hoài xa xót. Hiện lên trong đầu óc tôi một đôi nhân tình …Họ yêu nhau. Họ bị cấm đoán…Nhưng rồi họ vẫn yêu nhau. Họ bị cảnh cáo (….)
…Rồi nàng nghe tất cả những cảm giác của nàng dồn lại ở một trung tâm, một nơi, một cái rốn đại dương ào ào sóng dậy mà cây thiết bảng thần thông trấn giữ vừa cắm thẳng vào, đau đớn mà êm ái. Nàng nghe nàng trôi bập bềnh trên mặt của một biển nhạc mênh mông với một nhịp điệu đều đều với những trường canh chắc nịch. Nàng không thấy ngọn cây đang quay tít bên ngoài, không thấy đôi chim đang trố mắt nhìn nàng. Giây phút đó kéo dài. Đột nhiên nàng muốn rít lên, nàng thấy toàn thân nàng rắn lại thành một tảng băng và đồng một lúc nàng cũng nghe có một làn nước ấm đê mê chảy qua suốt khối băng ấy. Hai cánh tay nàng giơ lên ôm siết lấy, quấn chặt lấy, ghì xuống, miết xuống một vật gì vừa nặng vừa ấm làm cho khối băng kia tan vỡ, đầm đìa. Ngọn gió hiếm hoi của rừng già thổi qua như một người khách lãnh đạm. Lá lại rơi, đàn ve lại thổi điệu nhạc sầu muôn thuở.
Nàng đã nghe lại tiếng vỡ của lá khô dòn và nàng gọi: -Anh!
(…) Chao ôi tôi nằm một mình ở đây, treo lủng lẳng trên cành cây mà tiếc cái kỷ niệm của chính tôi. Cái cảnh đó đối với tôi đáng lẽ ra là cuộc sống thực hàng ngày, thế mà nó đã trở thành kỷ niệm, đáng lẽ là tương lai, nó lại là dĩ vãng, đáng lẽ là hạnh phúc, nó lại là khổ đau, và tôi biếât tôi với Phương từ đó chỉ còn sống với nhau bằng kỷ niệm.
Ý nghĩa của nhan đề “Đường Đi Không Đến”.
Sau 30 tháng tư, khi đã chiếm được miền Nam rồi, các người Cộng Sản, các đồng chí cũ của tác giả đã cười đắc thắng, nếu như họ gặp được tác giả chắc sẽ ngạo nghễ bảo ông rằng: “Đấy, mày đã thấy là đường đi có đến hẳn hòi… “Chúng tao đã đến. Cách Mạng đã đến. Thống nhất đã đến. Mày còn dám nói không đến nữa hay thôi?”
Đó là ý nghĩa tiềm ẩn sâu xa của cái tựa, cái nhan sách. Có lẽ khi đặt tên cho cuốn sách Xuân Vũ không phải không nghĩ tới điều đó. Và chắc ông cũng không ngờ rằng Cộng Sản lại có thể chiếm được miền Nam. Nhưng ông vẫn có thể trả lời không nao núng: “Đến mà vẫn là không đến. Để rồi xem có đúng vậy không.” Và cho đến khi tác phẩm này được tái bản ở Hoa Kỳ thì mọi người, nhất là những đồng chí cũ người Nam Bộ của ông, đều thấy rằng cuộc “chiến thắng” đã chẳng đi đến đâu, vì người miền Nam đã bị lừa gạt, lợi dụng, bạc đãi và bóc lột, phải sống kiếp sống tù túng, kìm kẹp và cực khổ gấp trăm lần hơn xưa. Vàø không phải chỉ có người miền Nam mà cả người miền Bắc cũng cùng chung số phận. Chỉ trừ một số rất ít thuộc giai cấp lãnh đạo mới, giai cấp “tư bản đỏ”. Vậy thì đường đi vẫn không đến, theo ý nghĩa tượng trưng, chung cuộc. Vì vậy tập 4 trong bộ hồi ký này mang tựa đề: “Đến Mà Không Đến”
Nhưng tựa đề của cuốn sách (tập 1) còn có ý nghĩa cụ thể, giai đoạn của nó đối với một số đông những người đi trên con đường đó, con đường Trường Sơn gian lao hiểm trở ngàn dặm, thiếu lương thực, thuốc men, nhất là thiếu tổ chức, thiếu lãnh đạo. Cụ thể nhất, đau đớn nhất, chua xót nhất là những người bạn thân của tác giả, kể cả cô bạn gái tên Phương, đã bỏ thây ở dọc đường.
Lý do khiến số đông đã không đến nơi được là đói, bệnh; đáng sợ nhất là sốt rét rừng; dã thú, hùm beo, rắn rít, ve, đỉa, vắt; mưa rừng làm đổ cây đè chết người; sông sâu, núi cao phải vượt trong khi chân đau, sức yếu, bụng đói. Và trên hết là biệt kích của đối phương , máy bay trực thăng, B52 và trọng pháo lúc nào cũng có thể “thụt” tới. Tác giả đã tả tất cả những cái đó một cách sinh động với những chi tiết độc đáo mà chính ông cũng phải nhận rằng mặc dầu là một nhà văn đã từng dựng lên những cốt chuyện lôi cuốn người đọc chỉ nhờ óc tưởng tượng của mình, nhưng vẫn không sao có thể tưởng tượng ra nổi những sự việc thực sự xảy ra trước mắt. Chính vì vậy mà tác phẩm của ông đã có sức lôi cuốn, dẫn độc giả từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác trên mỗi trang sách.
Ông đã nói nhiều về cái đói nơi nhiều người, như Roánh, như Hồng em ruột của Thu… Cái đói không những làm biến đổi hình thể con người, mà còn biến đổi hẳn tính tình, phẩm cách và lương tri con người. Cứ lấy một ví dụ thiết thực nhất là chính tác giả. Ông đã không thể hiểu nổi tại sao có lúc ông đã từ chối một củ khoai mì với một anh lính trẻ vì quá đói đã ngửa tay xin ông, trong khi củ khoai mì của ông chưa cần tới vì ông còn đang sốt chưa có thể lấy ăn. Dưới đây tôi chỉ xin chọn một vài hàng trích lảy từ câu chuyện thương tâm khá dài của tác giả:
“Bỗng một tiếng người hỏi tôi: – Anh ngủ à?(trang 262-263)
- Tôi định nằm chơi nhưng lại buồn ngủ, nguy hiểm quá! Tôi trả lời và mở mắt ra thì thấy một anh bộ đội đứng sừng sững ở đầu võng. Mặt anh ta phù lên no tròn như một cái bánh bao, mắt anh ta lờ đờ, hình như anh ta đang sốt. Anh ta nói ngay:
- Đồng chí còn khúc sắn trên đầu võng. Chắc đồng chí không dùng cho tôi…tôi xi..xin.
“Tôi ngồi bật dậy. Tôi như bị điện giật vì có người đụng tới cái bao tử sắp thủng của tôi. Tôi không nói năng gì mà cứ bàng hoàng. Tôi không hiểu anh ta nói gì cả. Và tôi cũng đáp lại như một cái máy, không hiểu rằng mình đã nói gì!
“- Không được đâu đồng chí, đây là của một đồng chí khác, mà đồng chí đó đang sốt không ăn cơm được. Chứ phải của tôi thì tôi cho đồng chí ngay rồi. Đồng chí với nhau mà! Hơn nữa đồng chí vào giải phóng miền Nam của tôi.
“Bây giờ nhớ lại những lời đó, tôi thấy thật xấu xa. Ghê gớm thay cái miệng con người, cái miệng khôn ngoan hay ngu xuẩn cũng chỉ vì cái dạ dầy. Trong một con người cái cao nhất không phải là cái đầu mà là cái dạ dầy.…”
Triết lý về cái dạ dầy còn được tác giả nói tiếp thật dài… Sau đó tác giả đã hối hận, tự trách và cố tìm cách chuộc tội bằng cách nhờ một người khác chuyển củ sắn tới anh lính đói kia. Nhưng người này đi được một quãng thì bóc ăn, còn ngoái nhìn lại như chế riễu tác giả.!
“…mắt tôi trông thấy từng người rõ ràng. Chỉ cách tôi độ mười bước thì vỏ sắn đã rơi tơi tả xuống đất….Anh ta đã nuốt trửng cái lương tâm của tôi…”
Đến đây tôi xin trích nguyên văn một đoạn của tác giả để mô tả con đường họ đi và lý do tại sao không đến:
“Tất cả những người tìm ra con đường xuyên qua hàng ngàn cây số rừng sâu núi thẳm để đưa quân về “giải phóng miền Nam” thật là giỏi chứ chẳng phải chơi đâu. Nhưng vạch đường là để cho người ta đi. Muốn cho người ta đi một con đường dài một trăm ngày thẳng thét, liên tục như vậy và là con đường núi, đường đèo, đường lội, đường trèo, đường đi đêm không đốt đèn, đường đi hai ngày với một bi đông nước với mấy vắt cơm thiu, con đường mang vác khổ sai mà không đủ muối gạo ăn, con đường qua sông không thuyền, con đường chưa ai đi và sẽ không ai đi nếu người ta biết trước và…v.v..Muốn cho quân sĩ hành quân trên một con đường nguy hiểm như vậy, ít ra phải cho nó ăn uống, phải có thuốc men, có bóng cây, có nhà có trạm nghỉ ngơi thì mới hòng mong nó đi tới nơi được. Đàng này thì không có gì cả ngoài con đường trơ ra đó với những dẫn đường bất mãn hà khắc, đôi khi ác nghiệt, và lúc nào cũng muốn rời bỏ chức nghiệp của mình, một con đường đầy những người bệnh liệt võng (không phải liệt giường, vì ở đây không có giường) với bom đạn máy bay không ngớt với những toán đào ngũ trở lui do cả cán bộ tiểu đoàn “lãnh đạo” với những tên bất mãn tự gây thương tích để khỏi đi tới nơi v.v….Một con đường như vậy bảo sao người ta vui vẻ hy sinh mà đi cho được?…
…chỉ nội cái sốt rét thôi cũng đủ đánh tan một nửa lực lượng vô Nam rồi. Vượt trường Sơn vai đeo ít nhất 30 kí súng đạn mà trong lưng chỉ có mỗi một kí muối và 20 viên kí ninh. Tôi nghĩ lại mà rùng mình.”
Hãy đọc thêm về con đường Trường Sơn vinh quang qua ngòi bút quặn đau của Xuân Vũ:
“Trường Sơn, cái tên đó hùng vĩ thật, nghe thì thích lắm, xem ảnh thì ai cũng mê say cảnh lạ kỳ thú, nhưng than ôi! Trường Sơn xanh bạt ngàn, xanh vô tận mà chẳng bới ra đâu được một lá rau, còn nấm của Trường Sơn nhiều người thèm quá, ăn bừa, ăn xong , lỗ chân lông ra máu, mồm hộc máu ra mà chết. Nước Trường Sơn uống to bụng, phải nấu thật kỹ rồi mới dám nuốt vào. Mưa Trường Sơn thì bất ngờ và day dẳng thúi đất, thúi cả da thịt.(tr.111)
“Trường Sơn đứng về mặt dinh dưỡng thì không có gì đáng ca ngợi cả, ngoại trừ những bầøy khỉ, voi và trâu rừng rất nhát, rất nguy hiểm. Tôi biết rằng con đường về là con đường đầu thai một lần nữa, con đường về là con đường đói khát, con đường sấm sét, con đường đau khổ và gian khổ, con đường dốc, con đường dài, con đường đi không đến mà rồi vẫn phải đi, trên vai phải mang theo những sứ mạng bày đặt, không biết ai trao cho, một thứ vinh quang không có, một thứ tình cảm ái quốc cũng giả tạo nốt, chỉ còn lại có tình cảm gia đình là thực thôi!”
Mỗi trang giấy trong tác phẩm, mỗi ngày trên con đường vào Nam, mỗi chặng đường trèo đèo vượt núi lội sông băng suối đều thấy toàn đói, khát, bệnh tật, hiểm nguy và chết chóc, chết vì đói, chết vì bệnh, chết vì bom, vì hỏa tiễn, chết nằm trên võng, chết trong hốc đá, chết không ai chôn, hay chôn mà để lòi hai bàn chân ra, chết trôi sông, chết vì bị cây đè, hay vì cây gẫy trong mưa đâm vào ngực, thậm chí chết vì bị huyện ủy làm tình trên võng, võng bị đứt, lưng cô gái rơi xuống đúng hòn đá nhọn bị trọng thương, không ai cấp cứu vì huyện ủy đã bỏ trốn! V.v. và v.v….
Tất cả những thảm cảnh đó do ai gây nên? Tác giả không nói một cách minh thị. Nhưng cứ đọc lời tựa và những trang cuối của cuốn sách thì thấy rõ đó chính là “Đảng ta” vậy. Vì lời tựa và đoạn kết không dài nên tôi xin trích nguyên văn ở đây để thay kết luận riêng đối với cuốn đầu của bộ hồi ký ĐĐKĐ:
“Thay lời tựa.(ĐĐKĐ, tr.10-11)
Thuở bé đi học trường quận tôi thường đi một chiếc xe ngựa quen ở chợ làng. Chủ xe là một lão già có lẽ đưa xe ngựa chuyên nghiệp. Khi tôi đến trường làng tôi đã thấy lão đánh xe đưa khách, và về sau, khi tôi lớn lên, tôi vẫn không thấy lão làm nghề nào khác.
Thời ấy con ngựa của lão thật gầy. Không biết nó đã chạy mấy vạn lần trên con đường đá lởm chởm từ làng lên quận, cũng không rõ nó đã mang lại cho chủ bao nhiêu bạc cắc xu năm, chỉ thấy nó gầy quá, hầu như không đủ sức kéo xe nữa, nhưng nó vẫn nện móng hằng ngày trên con đường quen thuộc ấy.
Nó chạy chậm nổi tiếng. Điều đó làm cho lão già không hài lòng. Lão ta dùng roi. Nhưng roi không có kết quả. Thực ra không phải con ngựa chạy chậm vì lười mà chính vì nó kiệt sức. Để lợi dụng cái sức còn lại trong con vật, lão già đã nghĩ ra một cách có vẻ nhân đạo hơn. Lão ta buộc một mớ cỏ non trên đầu cần câu và buộc chiếc cần câu dọc theo gọng xe.
Mồi lần con ngựa bị mắc vào xe nó cứ nhìn thấy mớ cỏ non đó nhảy múa trước mặt nó, tưởng chừng nó có thể ngoạm được và nhai ngấu nghiến đi ngay.
Nhưng tôi nghiệp con vật ngây thơ, có ngay xương sống ra kéo chiếc xe đầy khách, mong rút ngắn cái khoảng cách giữa mồm nó và mớ cỏ. Cái mớ cỏ vẫn nhảy múa trước mặt nó, quyền rũ vô cùng, giục nó chạy tới, chạy nhanh tới.
Con vật ngây thơ vẫn cố sức phi tới với chút sức tàn, mong đớp được mớ cỏ. Có bao giờ lão chủ xe lại giải thích cho con vật thân yêu của lão vì sao nó chạy hoài mà không ngoạm được mớ cỏ?
Saigon tháng năm, 1973. Tác giả.”
Đến cuối sách, có lẽ ngụ ý chặng cuối của con đường đi không đến, tác giả viết về chiếc xe và con ngựa như sau:
“Mái nhà, bờ ruộng với những hàng trâm bầu râm mát trưa hè. Và đây rồi cái kỷ niện sâu sắc nhất của cậu học sinh trường làng. Trên con đường đá xanh đầy ổ gà từ làng lên quận, một chú ngựa còm kéo chiếc xe ọc ạch với lão già đầu bạc cầm con roi nẹt đen đét trong không khí. (trang 357-358)
Không hiểu sao cứ mỗi lần nhớ tới quê tôi thì tôi lại bắt gặp cái hình ảnh ấy. Chiếc xe ngựa quá thân thuộc với tuổi thơ của tôi. Từ lúc chú ngựa hãy còn tơ sung sức đã từng oanh liệt đuổi theo xe hơi cho đến chú ngựa gầy yếu đi cam chịu cho chúng bạn lướt qua mặt mình, tôi vẫn đi chiếc xe ấy.
Rồi cho đến khi chú ngựa kiệt sức, lão già đem một mớ cỏ non treo trên đầu cần câu buộc dọc theo gọng xe để khuyến khích chú ngựa chạy nhanh lên, tôi cũng không đi chiếc xe nào khác.
Một hôm tôi nói với lão già:
- Sao bác chơi chi ác vậy?
Lão già chỉ cười, cái cười thỏa mãn của một kẻ thi hành một quỷ chước thành công. Vì là khách quen cho nên một hôm tôi được chứng kiến một cảnh não lòng. Hôm đó chiếc xe sắp về tới chợ. Cái dốc cầu cao quá. Lần nào về đến đây lão già cũng hò hét nẹt roi vang trong không khí. Lần này cũng thế. Chú ngựa bỏ vó rầm rập xuống mặt đường đá xanh, tóe lửa, cố lôi chiếc xe lên đến nửa dốc. Bỗng nó bỏ vó lơi hẳn đi. Mớ cỏ non đang nhảy múa tung tăng trước mặt nó bổng lắc lư như quả lắc đồng hồ.
Lão già vừa nẹt roi vừa quát, nhưng chiếc xe sựng lại rồi tụt xuống dốc. Lão già vội nhảy xuống đất, cắn chiếc roi vào mồm và hai tay bắt bánh xe lăn tiếp với con vật. Nhưng chiếc xe nặng quá và đằng sau chiếc xe còn có cả hàng chục năm lao lực, cho nên lão già dù có tài cán mưu kế đến đâu cũng không đẩy nổi chiếc xe và con ngựa già kiệt sức của lão lên dốc.
Chiếc xe cứ tutï dần, rồi bỗng đánh rầm một cái, chiếc xe lật ngang qua. Lão già chạy vụt tới nắm lấy cái hàm thiếc của chú ngựa lôi nó đứng dậy, nhưng chú ngựa đã ngã xuống, bốn vó bơi lia, cùng với hai bánh xe quay tít trong không khí. Lão già vội vã rứt lấy mớ cỏ đã héo ở ngọn cần câu nhét vào mồm con vật đã sùi bọt lên trắng xóa, và thân mật bảo:
- Ăn đi, ăn đi con là khỏe lại ngay!
Con vật như nghe thấy lời nói ân nghĩa đó của lão chủ, nó cố há mồm ra mà nhận lấy cái phần thưởng độc nhất của đời nó trước khi nó trợn đôi mắt lên mà nhìn lão chủ …lần cuối cùng. (…)
Chao ôi! Sao giữa cái cảnh hãi hùng này mà tôi nhớ lại một chuyện buồn làm chi vậy?
Tiếng rên rỉ của anh lính gẫy chân làm cho tôi chợt nhớ ra rằng mình đang nằm bên bờ một con suối lũ. Trời vẫn mưa. Nước đã dâng lên sát đít võng tôi.Gió hú trên những ngọn cây cao như bước đi của những đám cô hồn tìm chỗ nghỉ chân. Một nhánh cây thò vào trước đầu võng tôi chập chờn như một mớ cỏ non nhún nhảy. Nếu quả thật đó là mớ cỏ non thì đây chính là chiếc xe đã gẫy đổ dọc đường.”
Xương Trắng Trường Sơn (tập II của Đường Đi Không Đến).
Tác giả vẫn cùng với cô văn công vũ “ba-lê” tên Thu tiếp tục đi vào Nam. Độc giả sẽ thấy những ngón tay búp măng điệu nghệ của một vũ công ưu tú đã từng trổ tài trước khán giả Liên Xô cầm con dao găm mà bổ củi. Độc giả cũng sẽ thấy Xuân Vũ se lòng nhìn cô gái đương có tháng mà phải giầm mình trong nước suối đầy chất độc “Một con suối nước trong vắt, nhưng mỗi lần nhúng chân xuống rút lên tôi có cảm giác là lông chân tôi rụng hết”. (trang 144). Và đây cái cảnh cô gái Hà-nội khiếp đảm vì một vật lạ đang đêm xâm phạm …làn da của nàng:
“Thu bỗng hét lên thất thanh. Ớ ớ, anh ơi anh ơi!…Rồi Thu ngất lên. Tôi ngồi bật dậy. –Gì thế? Gì thế? –Ơ…ơ…bớ bớ. Tiếng thu bị tắt trong cổ họng. Tôi quờ quạng tìm chiếc đèn pin rọi sang Thu. Trong vệt sáng xanh nhạt của chiếc đèn pin, tôi nhìn thấy một mảng tuyết trắng muốt trên đó nạm một mẩu cẩm thạch đen ngời ngời. Tôi nhìn không chớp mắt cái hình tượng nghệ thuật đó. Nhưng Thu lại dẫy dụa và kêu lên kinh hãi. Tôi chạy vọt sang và bất gíác tôi đưa tay ra cào cái vật đen ngời đang bám chặt vào đùi nàng. Nhưng cái vật đó, chú vắt đeo chắc quá. Tôi bắt mãi mà không kết quả. Có lẽ tôi cũng hốt hoảng vì tiếng kêu và sự vùng vẫy bạt mạng của nàng. – Cứu em! Cứu em! Tôi quát: Thì nằm êm xem nào! – Ơ ơ … chết em, chết em! –Cái gì mà ghê thế! Vừa quát, tôi vừa đè chặt đùi nàng xuống võng và gỡ chú vắt ra, và vút cái tôi vứt nó ra rừng. Cái thân hình tròn nung núc của nó vút đi trong không khí như một đầu đạn và rơi xuống đất như một quả dâu” (trang 104-105)
Những cảnh gần gũi giúp đỡ nhau ban đêm như thế năng xảy ra, khi hai người giăng võng nằm ngủ gần nhau, chẳng bao lâu dẫn tới những tình cảm mà cả hai người ban đầu chẳng ai mong muốn. Tác giả đã có cô Phuơng. Thu cũng đã có một thanh niên đã vào Nam trước nàng.
“Tình yêu là một thứ khách không mời mà đến hoặc ngược lại mời mà không đến. (…) Yêu là một thứ bệnh không thể được miễn về sau cũng không có tiêm chủng ngừa được.” (trang 217)
Sau khi đã rào trước đón sau như thế rồi tác giả đã thành thật thuật lại đầu đuôi biến cố “khách không được mời mà đến” với hai người ra sao từ trang 118 đến trang 123. Khởi sự bằng hai câu đối đáp:
“Em biết anh yêu em. Như một kẻ đi trên sa mạc bất thần gặp một con suối nhỏ. Anh uống thỏa thuê rồi anh lại đi. … (tr.118)
- Và không bao giờ anh quên con suối ấy. Tôi tiếpngay
Nhưng cùng đi với Xuân Vũ không phải chỉ có Thu, còn có rất nhiều người khác, trong số đó phải kể đến trước tiên là Hoàng Việt, nhạc sĩ số một của miền Bắc lúc ấy, và bác sĩ “Năm Cà Dom”, là hai người bạn của tác giả, và cũng còn có cái cô Ngân nào đó, kỹ sư nông lâm, cũng có bàn tay tuyệt đẹp nhiều lần thu hút cặp mắt của tác giả khiến Thu phải ghen ghen. Nhưng đáng nói đến ở đây hơn cả là Mạnh (Mạnh Rùa) và Tuất là hai người cầm đầu một tiểu đoàn vượt biên. Tiểu đoàn của Mạnh Rùa hết bị B52 lại trực thăng và phóng pháo cơ tiêu diệt quá nửa quân số.
Hãy xem bác sĩ “Năm Cà Dom” xử lý một thương binh bị trúng bom bi như thế nào, theo lời ông nói với tác giả:
“Chưa từng thấy ở đâu lại có trường hợp như thế này. Cậu biết không tớ đã trở thành một tên đồ tể làm lợn. Mặc cho lợn kêu, mình vẫn cứ đâm họng nó. Cậu hãy tưởng tuợng tớ đã moi hết tất cả ruột của anh ta ra xếp trên một tấm ni lông trải dưới đất bên cạnh anh ta. Và dưới ánh sáng chập chờn của mấy ngọn đèn pin đã hết điện cộng với mấy ngọn đuốc, tớ phải dần dò mằm mò từng khúc tìm những chỗ thủng của đường ruột. Tất cả là 9 lỗ. Ruột thủng phẩn chảy tràn ra ngoài sẽ làm nhiễm trùng tất cả các bộ phận khác. Không mổ nó cũng chết thôi, chi bằng cứ mổ may ra nó có thể sống. Tôi đã vá lại bằng chỉ may quần áo, tất cả những lỗ thủng đó, xong rồi tôi rửa bằng thuốc đỏ cả đường ruột rồi dồn trở lại vào bụng nó như cũ. (…) Ruột nó để lâu ngoài gió nó sình lên to tướng cậu ạ. Cho nên khi tớ vá xong rồi thì tớ nhét nó không vô hết bên trong nữa mà cứ thừa ra bên ngoài. Thế mới chết. Không có cách nào khác! Cậu biết đấy, người ta mổ là phải ở trong buồng kín, không có tí gió lọt vào. Còn mình thì cứ phơi nó ra đấy trên tấm ni lông trải dưới đất thì làm sao mà nó không sình chướng lên. (trang 301-302)
- Thế rồi cậu làm sao?
Thì mình vẫn cứ làm hết sức thì thôi.
- Vậy là anh ta vẫn sống à?
- Sống thế nào mà sống? Tôi có nói nó sống bao giờ đâu!
- Cậu thiệt!
- Sao?
- Vậy mà nãy giờ cứ nói lằng nhằng, tôi tưởng cậu làm cho khoa học hiện đại lùi lại thời kỳ đồ đá.
Tớ nói thật với cậu, tớ hết biết cái sự đời ở đây nữa, Tớ hơi tiếc rằng cậu không đến xem sơ qua thôi. Chỉ nhìn cái bọng không của nó và cái mớ ruột đã tuông ra ngoài, thì cậu sẽ có thêm tài liệu mà “sáng tác”.
Năm Cà Dom không phải bác sĩ của trạm xá. Ông bác sĩ Cường ở trạm xá có nhiệm vụ săn sóc thương binh còn làm ngơ cho thuộc cấp chôn sống thương binh. Và những người Thựơng mà đoàn quân bắt tải thuơng cũng chôn sống thưong binh. Cả hai truờng hợp đều không phải vì bác sĩ Cường và người Thượng bản chất tàn ác. Họ chỉ làm vì hoàn cảnh, và gián tiếp vì chính sách, đẩy họ vào chỗ tán ác. Bác sĩ Cường bào chữa:
“Ừ, đúng thật. Vô nhân đạo, dã man, tán tận lương tâm nữa, nhưng mà nếu để cho họ rên siết, vật vã, lăn lộn, mà mình không cứu chữa, cũng không kéo dài được sự sống của họ thêm phút nào, thì lại càng dã man, tán tận lương tâm hơn. Tớ đã suy nghĩ rất nhiều, thấy mình ác, tệ thật. Nhưng làm sao? Đứt động mạch, vỏ não bị thuơng, gẫy đốt xương sống v.v…cậu có là thánh cũng đành bó tay ở đây…Nhưng tớ không ra lệnh. Tớ cứ để cho tổ lao động họ làm. Bề nào cũng chết thà chết sớm cho đỡ đau khổ.” (trang 263)
Tác giả đã làm cho độc giả hồi hộp khi ông thuật lại những trận oanh kích của phóng pháo cơ, tiếp theo liền sau trận B52 thả bom trải thảm, và sau đó là máy bay trực thăng xạ kích, tiểu đoàn của Mạnh Rùa và Tuất còn mấy chục mạng, không thuốc men không bệnh xá, không người tải thương, lại còn xô xát với trưởng trạm giao liên. Mạnh Rùa đã phấn đấu bằng mọi cách không giải quyết được gì đành bắn vào đầu tự sát. Ông Chín “lập trường” cũng kiệt sức chết dọc đường. Và trên cành cây cao một xác chết nằm trên võng.
Đặc biệt là cảnh Thu gặp em là Hồng cũng đã bỏ nhà đi theo đoàn vào Nam trước nàng hơn một năm, nhưng nàng cầm chắc là nó đã chết nên không bao giờ nhắc đến nó với tác giả. Khi nó đối diện với chị nó thì nó đã biến dạng về hình thể, về tâm tính về hành động đến nỗi nó không dám nhìn chị, và chị nó cũng chẳng nhìn ra nó. Nó mang những cái tên: Uùm Ba La, King Kong, Biệt Kích, “Con quỷ rừng xanh”…Nó đã làm đủ mọi chuyện xấu xa chỉ vì quá đói, quá khổ, đến đỗi người ta nghi nó là biệt kích của Saigon. Nó gửi cho chị nó một lá thư gọi đích tên chị nó là Bích (chứ không phải Thu). Bấy giờ Thu mới biết đứa em sống. Đang đêm nàng bắt tác giả dẫn nàng đi tìm em. Nhưng không tìm được. Để rồi bỗng một đêm khác, nhớ chị quá, nó lẻn về đứng sát bên võng của chị mà nhìn. Khi Thu chợt thức giấc, trông thấy nó, giơ tay chạm vào nó thì nó vụt chạy biến đi, khiến mọi người tưởng là ma, hay mơ chứ không phải sự thật.
“-Sao nó lại làm kỳ vậy nhỉ? -Ai biết…em không hiểu sao nó làm khổ em như vậy? Tôi ngồi xuống đất. Tôi thở dài. Rồi tôi ngồi nhích lại võng Thu. Từ một chuyện oái oăm lại đẻ ra thêm một chuyện oái oăm. Đã bảo là trên đường này không có người nào bình thường, cho nên không có sự gì bình thường được.” (trang 266)
Từ khi gặp được em và hai chị em đã nhìn nhau, bắt đầu săn sóc cho nhau, thì tác giả cảm thấy Thu trở nên lạnh nhạt với ông. Ông cho rằng nàng đã quyết chí “B quay” (nghĩa là trở lại Hà-nội). Nhưng Hà-nội xa cả ngàn cây số. Làm sao mà trở về. Cuối sách người đọc thấy tác giả được cô kỹ sư nông lâm săn sóc với nắp gà men cháo loãng.
“Ngân đang nấu cháo. Trong những gợn nước sôi trào những hạt gạo nhào lộn một cách thỏa thích như một bầy tiên nữ nõn nà bơi lội đùa cợt nhau trong một dòng sông thần kỳ. (…)
“Ngân sớt cháo ra nắp gà men và trao cho tôi. Không chút ngần gại tôi đỡ lấy cái nắp gà men gần đầy cháo loãng. Mùi thơm xộc vào mũi tôi ngây ngất. Nước mồm ứ ra, tôi nuốt chận vào hai ba lượt để có đủ sức bình tĩnh mà thưởng thức món cháo do những ngón tay của Ngân tạo nên. Những ngón tay lúc nãy đã vo những hạt gạo này, những ngón tay dính tro lọ lem và có vết bỏng lửa, và rươm rướm mồ hôi.
“Tôi nâng chiếc nắp gà men cháo lên môi mà mắt vẫn không rời những ngón tay của Ngân đang hoạt động.
- Ngân ạ!
- Dạ!
- Bao giờ về đến Châu Đốc, anh ghé nhà em thì sẽ được thết một bữa cháo cá phải không?
“Ngân nhìn tôi đôi má ửng hồng, đôi mắt nhấp nháy. Tôi chờ đợi ở Ngân một tiếng nói.
“Nhưng, “đoàng!” Tiếng súng, tiếng nổ!
“Ở phía đàng kia, cách nơi này hơi xa. Tôi cho là không quan trọng, nhưng chỉ một loáng là người ta đã đồn khắp khu rừng:
- Tiểu đoàn trưởng tự sát.
- Ai tự sát?
- Mạnh Rùa.
- Có chết không?
- Bắn vào đầu mà không chết?
“Sau mấy cái chết liền nhau, lại đến một cái chết.
“Sau cái chết của Mạnh Rùa, mọi người đều cảm thấy mình mất linh hồn. Cuộc hành quân giải phóng miền Nam đang đến hồi vui vẻ nhất. Chúng tôi đi lang thang trong rừng, mò mẫm tìm đường đi với sự lãnh đạo của Tuất. Nhưng Tuất kém xa Mạnh. Tuy vậy chúng tôi vẫn phải vạch một con đường đi.
“Tôi bảo Năm Cà Dom xem lại kỹ vết thương, ông bác sĩ lắc đầu. Tôi quay trở về võng nằm chúi mũi vào mép võng, tay chân như rã ra từng mảnh. Chung quanh tôi những mẩu xương trắng ánh lên trên một bãi đất mênh mông đầy những hố bom, chào đón thêm một linh hồn.
Saigon, Hè 1974. ” (trang 406)
Sau đây là một vài đoạn vắn nói lên nhận xét cay đắng của tác giả và mấy người cùng đi B với ông:
“Để vun bồi “uy tín” (hão) cho một người hoặc một vài người mà trên dẫy Trường Sơn này, núi rừng đã phải nhận hàng vạn bộ xương khô, hàng vạn nấm mồ, không có nấm, không có bia.
“Trong không khí Trường Sơn lúc bấy giờ có vô số sự uế tạp: nào mùi thuốc đạn, nào mùi thây ma sình thối, nào hơi lá mục muôn thuở của rừng hoang, cộng vào đó trời mưa nắng bất thường. Cứ mưa xong lại nắng, đang nắng lại đổ cơn mưa, cho nên bệnh thương hàn kiết lỵ rất phổ biến.
“Hay có thể nói là gần 70 phần trăm người mắc những chứng bệnh này. Thế là ngoài sốt rét rừng ra, chúng tôi còn có thêm thương hàn và kiết lỵ. Có người bị cả hai chứng: thương hàn và kiết lỵ, hoặc kiết lỵ và sốt rét. (trang 330)
“Thật là ghê gớm. Một cái anh lương thiện như Cà Dom mà cũng sanh ngụy. Ở đây ai làm được gì để sống, để khỏe thì cứ làm, không có kể lập trường lập bò gì cả.” (trang 230)
(Roánh nói:) “Thì ở đây nó như thế đó đồng chí ạ. Chẳng có ai coi ai là đồng chí hết. Tình đồng chí có khi nhẹ hơn nắm cơm thực ra chỉ bằng quả trứng.” (tr.306)
“Liêm bỗng ngoặc sang chuyện khác: “Này mình cho cậu biết nhé. Con đường vào Nam là con đường lót bằng xương và tưới bằng máu, cậu nhé! Những đốt xương nối lại với nhau sẽ bằng bề dài con đường này” (trang 348)
Nhưng kinh khủng nhất là xác chết la liệt trên đường đi. Có cái được chôn vội vàng chìa cả bàn chân ra. Nhưng cũng nhiều cái nằm rữa trên võng hay trong một hốc đá. Và nhất là những bộ xương trắng rợn người. Vì vậy mà cuốn II mang tựa đề “Xương Trắng Trườn Sơn”. Cuốn sách ra mắt độc giả lần đầu ở Saigon vào đầu tháng tư, 1975. Chưa được một tháng thì tác giả bỏ chạy, không màng gì đến nó. Nếu không có một người bạn được ông tặng sách cố mang ra nước ngoài, để rồi sau tặng lại cho tác giả, thì chắc chỉ có người trong nước được thưởng lãm. Tuy vậy vì không có tiền in nên phải 14 năm sau nó mới tới tay độc giả lần thứ hai.
Hãy đọc mấy dòng tác giả thuật về ông Chín với cái “lập trường” của ông ta:
“Ông Chín nói: Các cậu nên giữ lập trường một chút. Tại sao đồ của mình lại thua đồ của đế quốc? (….)
“Tôi và Thu đã đụng với ông Chín nhiều trận trên cái chiến địa “lập trường” này nhiều rồi. Trốn máy bay ông cũng rở sách Các Mác ra mà lý luận, rồi xem đùi đàn bà, ông cũng cho là mất lập trường; bảo chân bộ đội như những cái cọc màn, ông cũng cho là khinh rẻ quân đội cách mạng, và những người nói như thế là mất phẩm chất; lần này khen đồng hồ Thụy Sĩ tốt hơn đồng hồ Liên Xô, có lẽ tội nặng hơn tất cả những trường hợp ở trên kia” (trang 60-61)
Và đây lý do tại sao tác giả bỏ đảng vào thành:
“Tôi cảm thấy chủ nghĩa Cộng Sản không hợp với cá nhân tôi, từ khi tôi biết rõ bộ mặt thật của đảng, sau một thời gian ngắn đi kháng chiến, hay nói cho cẩn thận hơn là vài năm, qua tác phong và đạo đức một số lãnh tụ
“Tôi vốn sinh trưởng trong môt gia đình không thuộc thành phần “lý tưởng” và tôi lớn lên cũng không cùng với giai cấp “lý tưởng”.
“Vô đảng là một sai lầm của tuổi trẻ, một sự sai lầm to nhất, mà nó đáng giá bằng sự mất mát cả tuổi thanh xuân, một sai lầm không thể sửa chữa được.” (tr 74)
“…Vậy xin nói thẳng ra rằng đa số người vô đảng là vì không hiểu đảng là cái gì hết.”
Trong số những người mà tác giả gặp trên đường đi B, có một huyện ủy viên. Hãy nghe ông này tâm sự:
“Ở trong Nam tôi làm huyện ủy. Ra đất Bắc tôi suýt đi gác cổng. Cũng may người ta cho đi làm trong đội cầu. Lặn lội với sắt, siết bù lon, sơn cầu v.v…Mình không có nghề nên chuyện gì cũng phải làm. Mình có tranh đấu xin việc nhẹ thì nó bảo: Đảng viên phải gương mẫu. Thế là thôi. Kịp đến khi có phong trào về Nam thì nó móc mình lên từ dưới bùn đen. Nó lại cho mình về. Mình nói mình già rồi, vợ con mình ở ngoài này cả. Vả lại mình bệnh yếu sức. Nhưng nó lại cũng bảo: Đảng viên nọ kia! Thế là phải đi. Đấy đồng chí xem, bây giờ chồng Nam vợ Bắc. Vợ tôi nó đòi đi theo. Đi làm sao được mà đi?” (tr.188)
Sữa trên đường đi B và sữa ở Hà-nội:
“Tôi nhìn thấy hộp sữa mà tưởng như một bảo vật chưa từng thấy. Thế mà Cường lại đem ra đãi chúng tôi! Ở Hà-nội có những lần tôi mua được sữa, nhưng mang về nhà để đó chớ không dám ăn. Mua được hộp sữa cầm đi ngoài hè phố đã thấy hãnh diện vô cùng rồi. Để hộp sữa ngự trong nhà, có khách đến trông thấy mình rất lấy làm tự hào, còn nói gì bạn gái đến mà mình khui hộp sữa đãi một ly thì còn gì bằng?” (trang … )
Tác giả coi việc đem quân vượt Truờng Sơn, vượt sông Bến Hải, vào xâm chiếm miền Nam là việc phi pháp, bất lương và:
“Tôi phản đối tới cùng việc đưa những đội quân miền Bắc, vượt qua ranh giới đã đuợc quy định bởi công pháp quốc tế này, còn những người miền Nam tập kết nếu họ muốn trở về quê quán thì họ phải đuợc trở về như những Việt Kiều đi xa xứ nay hồi hương, nghĩa là sự hồi hương của họ cũng phải được tổ chức công khai và họ phải được đưa đón hẳn hoi. Không một người Nam Bộ nào muốn sống trên đất Bắc kể cả những ông ủy viên trung ương đảng hoặc những ông cao cấp khác.” (trang 351)
Tác giả gắn bó với đất Nam bộ và ghét cay ghét đắng cái miền Bắc xã nghĩa đến độ khi đã đặt được chân trên phần đất phía Nam con sông Bến Hải, ông viết:
“Thằng nào giỏi theo đây mà bắt tôi, tôi nói thiệt ngay bây giờ, tôi gục ngã xuống tôi chết thì cái xác của tôi vẫn lăn về phía Nam chứ không bao giờ để cho người ta lôi ra phía Bắc. Đúng là “vái cả mũ”. Vái cả mũ tất cả những cái gì ở phía sau lưng tôi.” (trang 352)
Chỉ sau đó mấy trang ông cầu xin Thượng Đế:
“Lạy Chúa, con là dân Nam Kỳ. Xin Chúa hãy ban cho con cái ân huệ nhỏ bé nhất là cho con được trở về sống trên xứ sở của con.” (trang 367)
Và đó không phải chỉ là ước muốn cũa riêng ông. Ông cho biết:
“Tôi đã từng đọc một dòng chữ như những vết sẹo trên da một cây cổ thụ: “Thà chết không quay lại cuộc đời đất Bắc bạc bẽo”.
Về dòng chữ này ông bình luận: “Thế mới biết người Nam Bộ vượt Trường Sơn trở về miền Nam với vô số ý nghĩ phức tạp, nhất là ý nghĩ oán hận chớ không phải “đi giải phóng miền Nam” như những kẻ lãnh đạo lầm tưởng.” (trang 373)
Trên đất Bắc, chẳng những lòng người bạc bẽo mà cảnh sống lại quá thê thảm bộc lộ rõ bản chất của cái thứ “thiên đường xã nghĩa” mà tác giả đã để hai tập truyện ngắn để miêu tả, cuốn “Thiên Đàng Treo” (Người Việt xuất bản 1990) và cuốn “Thiên Đàng Treo Đứt Giây”
Mạng Người Lá Rụng là cuốn thứ 3 trong bộ hồi ký Đường Đi Không Đến. Tác giả cùng bạn bè và đám tàn quân của tiểu đoàn Mạnh Rùa vẫn leo đèo lội suối, băng rừng đi dưới bom đạn tiến vào miền Nam. Đây là chặng cuối. Vắt, muỗi đòn xóc, suối nước độc có giảm. Nhưng bom đạn thì bị nhiều hơn. Người chết cũng nhiều hơn: “Đường đi nắng sớm mưa chiều Bao nhiêu lá rụng bấy nhiêu mạng người”
Hãy đọc vài hàng cảm nghĩ của tác giả lác đác trong tập này:
“Sống một ngày ở chế độ XHCN đau khổ bằng sống 20 năm trong chế độ tư bản. Đói rét, ốm đau, bệnh tật, ly tán…đủ thứ.” (trang 193)
“60 năm có đảng có Bác trên cõi đời này, dân tộc VN điêu linh cùng cực. Hãy nhìn, hãy nhìn thôi, hãy nhìn cũng đủ rồi, không cần phải suy nghĩ.” (trang 195)
Nhìn cảnh Thiệp, một cán bộ giải phóng đứng khấn vái cầu cho vong linh người vợ vừa bỏ mạng, tác giả viết:
“Tôi thấy lòng quặn đau như vò. Lời van vái đơn sơ của Thiệp chạm tới tâm can tôi. Ừ nhỉ? Mình cũng mang một nỗi đau như nó, nhưng mình không biết làm như nó. Tại sao? Mười năm qua, tôi đã sống trong những “cái nhà” không có bàn thờ, không có ông bà, cha mẹ, những cái nhà chỉ treo hình cụ Hồ và đám mặt mo, những tên lạ hoắc lạ huơ mà phải gọi là ông nọ ông kia, gọi là tiên tổ.” (tr.218)
“Cái tâm lý Bắc cai trị Nam, Bắc Kỳ nuốt sống dân Nam Kỳ có trong tôi và trong toàn dân tập kết…Thế nhưng tôi chưa từng biết tới vụ người địa phương chống người địa phương đi tập kết về.” (tr.234)
Tác giả cũng tế nhị phân biệt cái thành kiến Bắc Nam như sau:
“Thành kiến với tụi lớn đầu không nên nết kìa! Chứ tụi tao đâu có thành kiến với cả đồng bào miền Bắc. Mày hiểu không? Chúng mình cùng là nạn nhân của chính sách kỳ lạ hết cả mà.” (trang 239)
Về tình cảm của dân miền Nam đối với ông Hồ biến đổi, tác giả kể lại lời một ông già:
“…Cụ Hồ ngày xưa đang hóa ra cụ Ngô rồi đó! Có ca dao chạy trong dân rồi cơ mà! -Ông già chớp chớp mắt như để nhớ ra câu ca dao- À nó như thế này:
“Một mai mưa rã tan “hồ”
Lúa lên, “ngô” tốt ăn “ngô” no lòng.’ (trang 266)
Lúa lên, “ngô” tốt ăn “ngô” no lòng.’ (trang 266)
Về cảnh đói khát, ốm đau, tai nạn, chết chóc ở dọc đường tác giả đã viết:
“Nguyên tắc của đường giây là ai đi được cứ đi, ai đau ốm cứ nằm lại, ai chết cứ chết mà” (trang 309) Và:
“Cuộc đời ở Trường Sơn là như thế. Văn minh vô cùng. Cái chết cũng chỉ đáng cười. Người ta có thể giở một chiếc mùng trùm trên võng, thấy một mạng người nằm trong đó, hố mắt đã lọi nhọi những dòi mẹ dòi con, và bịt mũi quay mặt như tránh một bãi phân, người ta thấy một bàn chân lòi ra dưới mô đất lè tè và cứ lạnh lùng đi qua, cũng như người ta thấy những bộ xương rũ trong hốc đá và chẳng có cảm súc gì ngoài sự gớm ghiếc.
“Chính tôi cũng thế. Cái chết, xác chết, xương người, tai nạn chết người, thấy như cơm bữa nên thần kinh chùng dần không run nữa, và ai cũng có ý nghĩ nay mai tới phiên mình…” (trang 311)
Nhờ những kinh nghiệm bản thân khi còn ở miền Bắc, khi vượt Trường Sơn, Xuân Vũ đã không ngần ngại nói lên đúng tiếng nói của thâm tâm mình:
“Tôi căm ghét xã hội chủ nghĩa. Tôi cảm thấy xã hội chủ nghĩa là cái cùm đeo trên cổ dân tộc ta mà kẻ tạo ra nó chính là đảng.” (trang 314)
Đến Mà Không Đến, Tập thứ 4 của bộ hồi ký, đã chứa đựng nỗi đau đớn của bản thân tác giả. Ông đã đến nơi phải đến tức bộ chỉ huy cục R, trong một khu rừng ngay giữa biên giới Việt Miên. Ở đây ông gặp lại Hoàng Việt, Thu và nhất là Nguyệt, vợ chưa cưới của ông. Ông đã có một quyết định quan trọng, cưới Nguyệt trong hoàn cảnh vô cùng khốn khổ, không có tiền, không có nhà, không có cả một cái giường, cái mùng. Hai người đã yêu nhau trên võng, trên nền đất rừng với nệm cỏ và lá khô mục, dưới trời mưa như trút nước, …và trong giông bão. Nước ngập tràn lan. Trong lúc ông đi mượn ny lông che cho vợ thì cây đổ đè chết vợ ông.
“- Mưa anh ạ.
- Kệ nó. Mưa thì mưa.
- Lều của mình dột hết.
“- Anh yêu em giữa mưa, giữa bão, giữa trời long đất lở.
(…) Bỗng Nguyệt kêu lên: – Nước ngập hết rồi anh ạ. (…)
Lập ở khá xa Sử, nên lúc trở về tôi lại đi lạc. Mưa vẫn trút ào ào…Tôi cất tiếng gọi to nhưng không có tiếng đáp lại. Sấm sét nổi lên trên đầu. Lưng trời rách ra bởi những tia chớp. Gió xoáy. Những ngọn cây quay ù ù như những cái đầu tóc của người điên. Tiếng cây đổ ầm ầm. Một gốc cây to nằm ngổn ngang trước mặt. Tôi hoàn toàn mất hướng về. Tôi sốt ruột muốn về với Nguyệt ngay tức khắc. Tôi ân hận đã bỏ Nguyệt mà đi trong lúc giông gió. Dù có một ít kinh nghiệm ở rừng, nhưng tôi cũng chưa từng lâm vào cái cảnh hãi hùng như đêm nay: lạc lối hoàn toàn.
Mãi đến lúc tạnh mưa tôi cũng vẫn không về được lều. Tôi bắt đầu thấy ánh đèn xa xa lấp loáng trong màn đêm. Đó là những toán an ninh đi cứu cấp. Họ biết trận mưa đã làm bật gốc cây rừng. Đã có nhiều người chết vì bị cây đè. Tôi đã từng thấy một anh lính bị một nhánh cây gãy phóng ngay bụng như một lưỡi kiếm khổng lồ, trên Trường Sơn.
Toán an ninh đến gần. Tôi kêu cứu. Họ đi tới và chập sau chúng tôi về lều. Nhưng tôi đã không tìm thấy chiếc lều hạnh phúc của tôi nữa. Loay hoay mãi lúc lâu tôi mới tìm ra gốc cây và dưới những nhánh cây khổng lồ, chiếc lều mong manh của chúng tôi nằm bẹp dí. Tôi thét lên: – Nguyệt! Nguyệt!
Không có tiếng đáp. Một nhân viên an ninh trèo lên thân cây bò theo những nhánh cây mà đu người xuống đất. Từ trong những nhánh cây ngổn ngang, anh ta gọi ra: – Chết rồi! – Ai chết? – Không biết ai chết trong này.
Tôi đứng lặng ngắt, không còn biết nói gì, làm gì nữa.
…Phải đợi tới sáng người ta mới đem cưa đến cắt những nhánh cây để lôi xác Nguyệt ra. Nó bẹp dí như nghiền. Tôi không còn nhận ra Nguyệt nữa.
Năm tấm linh hồn đã quy tiên trong đêm mưa bão hãi hùng đó. Gã nhạc sĩ Clarinette cũng chung số phận của Nguyệt!…. (Đến Mà Không Đến trang 113–116)
Khi đã đến được bộ chỉ huy rồi, tác giả mới thấy những gì báo đài miền Bắc nói về sinh hoạt văn học trong vùng giải phóng chỉ là láo khoét, và:
“Té ra đài Giải Phóng gạt được cả bồ nhà. Tài thật. (…)Vô tới đây nằm mắc kẹt ở đây vì tỉnh quận giải phóng của ông Thọ đâu có rộng bằng cái bánh bẻng của bé gái lên ba mà có sinh hoạt văn học. Không có văn học thì lấy gì để phê bình?” (ĐMKĐ trang 41)
Sau khi thuật lại những điều bỉ ổi mà cấp lãnh đạo đảng đã làm, tác giả viết:
“Bạn đọc tới đây có lẽ sẽ vứt sách tôi xuống đất mà chửi: Thằng nhà văn viết tởm quá! Nhưng sự thực còn tởm hơn nhiều, tởm đến mức độ tôi chỉ dám viết một phần. Không có nhà văn nào bịa nổi những chuyện như vậy, cũng không có con người nào làm những chuyện như vậy. Chính là bọn súc vật Hà-nội dồn những con người vào hang cùng và biến con người thành những con vật. Bạn thử nghĩ lứa tuổi mười tám hai mươi đi kháng chiến chống Pháp, ra Bắc chín mười năm liền không biết đàn bà con gái là gì. Trong khi đó các lãnh tụ ở Hà-nội vợ bé, vợ mọn tha hồ, bơ sữa no phè, lại còn có tên ủy viên trung ương là Nguyễn (Văn) Quyết dùng vi trùng giết vợ lớn để lấy con gái nuôi (Hãy giở báo Nhân Dân mà xem, tôi không nói bịa đâu)
Và trong khi lính chết như gà toi trên Trường Sơn thì các ông tướng họp nhau trong triều đình ở cục R, uống bia, hút thuốc lá thơm, phân chia chế độ cơm bưng nước rót, cần vụ giặt quần áo, vệ binh khiêng các mệnh phụ phu nhân như hoàng hậu lại còn dâm dật loạn xà bì. Cách mạng đó! Thắng lợi một trăm phần trăm rồi đó và những con người ở rừng ngày nay đã cởi bỏ hết bộ mặt dã man chưa? Xin thưa rằng họ còn dã man hơn lúc ở rừng. Họ bậy bạ hơn chính họ trước đây.
Đất nước mà họ dẫn dắt sẽ đi đến một nơi thôi: đó là một cơn đại nguy, đại loạn. (ĐMKĐ trang 183)
Tác giả đã trưng dẫn hai câu thơ của Xuân Diệu, qua cửa miệng của một người bạn đồng hành, tên Thuần. Anh này bảo anh chỉ thích Xuân Diệu, vì hai câu thơ:
“Khuyên ai chớ khá lại gần ta!
Nhân loại trông gần cũng xấu xa” rồi nói tiếp:
Nhân loại trông gần cũng xấu xa” rồi nói tiếp:
“Ở xa xa nhìn cách mạng thì nó là mỹ nhân, khi tới với nó rồi, nó thành thường dân, đi với nó lâu ngày thì nó là thằng cùi, và bây giờ thì không biết nó là gì trong tao, tao ớn lắm.” (SĐD trang 165)
Tác giả đã đến cục R. Ông còn về đến làng quê để gặp được bà ngoại trong cảnh bần cùng tang thương. Cuối sách ông tả cảnh gặp lại bà ngoại của ông đang:
“đứng trước một căn chòi lụp sụp thấp lè tè như một cái chuồng vịt hẫng, tôi kêu lên: “Ngoại!” (….) Khi tôi nhìn thấy ngoại tôi thì tôi rụng rời hết chân tay và trời đất dường như sụp đổ….Tôi đột nhiên tự hỏi. Và đây không phải là lần đầu. Giải phóng là cái gì? Ai giải phóng và ai được giải phóng? Giá tôi đừng về để nhìn thấy bộ mặt giải phóng. Tất cả đều là một sự giả dối, lừa bịp, tàn bạo và ngu muội. Bọn Cộng Sản bất lương chẳng những đã phá nát quê hương, Tổ Quốc mà còn tàn phá cả TÂM HỒN DÂN TỘC VIỆT NAM. Tôi sẽ để tất cả thì giờ trong những năm còn lại của cuộc đời tôi để chứng minh cho kỳ được điều này. Saigon 1974 / Hoa Kỳ tháng 5 năm 1989. Xuân Vũ. (ĐMKĐ, trang 312-313)
Trong tập cuối của bộ ĐĐKĐ, cuốn Đồng Bằng Gai Góc, tác giả thuật lại lời bà ngoại ông nói với ông:
“Cuộc kháng chiến này là một sự phản bội. Nuôi dưỡng nó để rồi nó trở lại hại mình, giống như một thứ chó điên cắn cả chủ nhà. (ĐBGG trang 68)
Ông cũng nhận xét:
“Không người kháng chiến nào dù còn theo đuổi hay bỏ về thành, mà không hận kháng chiến. (ĐBGG trang 47)
Về trường hợp của mình, Xuân Vũ cay đắng hơn:
“Ở trong Nam cứ cắm đầu lạy ơn Bác, ơn Đảng và bỏ vợ, bỏ con, nhảy xuống tàu ra Bắc để:
“Mười năm dồn lại một ngày
Là ngày tay mẹ cầm tay Bác Hồ (5)
Khi ra đó vài tháng rồi, chàng thanh niên tên Xuân Vũ này lại cũng mần thơ–nhưng không dám đăng báo:
“Mười năm rõ mặt Bác Hồ
Là con quái vật miệng hô mắt lồi.” (ĐBGG trang 50)
“Tôi theo cách mạng để nhìn thấy những cảnh nát đất, nát nhà và nát cả tim. Cách mạng dần dần đối với tôi trở thành vô nghĩa và thù hận.” (ĐBGG trang 230)
“Đã lỡ tay đã nhúng chàm rồi khó rửa sạch, cũng như theo Cộng Sản không dễ gì rứt ra. Cộng Sản không rộng lượng như người quốc gia. Chúng là loại người đê tiện nhất thế gian. Chúng có thể làm bất cứ việc gì để trả thù.” (ĐBGG trang 281)
Xuân Vũ nói về trận Ấp Bắc (6) do một đại đội phó Việt Cộng tên Bình, họ Lê, tham dự trận đó kể lại như sau:
“Tiểu đoàn em chết gần hết. Ban chỉ huy tiểu đoàn không còn ai. Các ban chỉ huy đại đội hi sinh hoàn toàn. Em lúc đó là tiểu đội phó được cho làm đại đội phó. Nhưng đại đội em chỉ được 2 tiểu đội. Cả tiểu đoàn quân số trên 200 còn lại độ năm mươi.”
“Rồi sao?
-Dạ rồi ở trên xuống úy lạo, tuyên dương phong chức và đặt tên là đơn vị anh hùng Tiểu Đoàn Aáp Bắc. Nếu không có số vũ khí này thì tiểu đoàn em đâu có chết dữ vậy.” ( Đồng Bằng Gai Góc trang 89)
Đó là số vũ khí chuyển vào Nam để thành lập một đơn vị chủ lực Khu II có liên quan đến những cái chết của tư lệnh Lê Quốc Sản, chánh ủy sư đoàn 330 Nguyễn Văn Bảo, và tư lệnh khu III Nguyễn Hoài Pho.
Về cái chết thê thảm của nhạc sĩ Hoàng Việt đồng hành với tác giả suốt cuộc vượt Trường Sơn, Xuân vũ đã chua xót so sánh với anh vợ của Lê Đức Thọ, vợ của Nguyễn Chí Thanh và vợ bé của Lê Duẫn:
“Hoàng Việt là nhạc sĩ sáng tác nhiều nhất và hay nhất trong suốt 9 năm kháng chiến Nam Bộ. Anh là hạt ngọc của Việt Nam, chứ không phải riêng của Cộng Sản. Đến năm 1965, theo tôi biết thì ở miền Bắc chỉ có Hoàng Việt là người độc nhất có khả năng sáng tác nhạc giao hưởng. Từ Bungari về với mái tóc bạc quá nửa, anh được đưa vào trường vác gạch chuẩn bị đi Nam. Với tiêu chuẩn của một binh nhì….”
(…) Tổng bí thư Lê Duẫn có vợ bé bị vợ lớn đánh đuổi phải đem gửi cho Mao chủ tịch, mỗi lần sang thăm vợ bé, tốn ít nhất là 10 năm lợi tức của một xã viên….” (SĐD trang 100-101)
Con của Lê Trực (tức Hoàng Việt) được cha đặït tên trước là Lê Tương Phùng đã mồ côi cha khi còn trong bụng mẹ sẽ được ru bằng bài ca bất hủ của người cha nhạc sĩ sáng tác trước đó hơn chục năm:
“Tiếng còi trong sương đêm, Nghe vi vu oán than. Thôi khóc chi đau lòng. Con cố yên giấc nồn.g Khi ra đi có hứa thu nay về.”
Sau khi đã thuật lại những điều tai nghe mắt thấy và nêu lên bằng chứng về người về việc sống động trong chế độ xã nghĩa, tác giả đã viết ở gần cuối sách:
“Đảng Cộng Sản sinh ra để làm hai việc: Nói láo và làm bậy. Hễ chúng nói là nói láo, hễ làm là làm bậy. Xin độc giả nhớ dùm cho như vậy. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi.” (SĐD trang 335)
Trong tập truyện “Thiên Đàng Treo” tác giả có thuật lại hai câu chuyện thương tâm tại hợp tác xã, hai người đàn bà lăng mạ nhau bằng những lời tục tũi, rồi ẩu đả nhau chỉ vì cái hố phân. Hai người đàn ông chém giết nhau chỉ vì vài con cá. Rồi kết luận:
“Cuộc sống ở miền Bắc trong một thời gian ngắn, đã cào tuốt tất cả những mộng tưởng tốt đẹp trong đầu tôi có được từ quyển “Au pays de Staline”, về nông trường , về hợp tác xã, về cái hạnh phúc thiên đàng với tới được dễ dàng mà ông Tây đã vẽ ra kia.” (SĐD trang 147) Và ở trang sau:
“Nhờ đó tôi nghe được tiếng dân than tự đáy lòng: “Bây giờ khó sống hơn thời Pháp”. Tôi bật ngửa ra. Hóa ra thế! Lúc ấy chủ trương hợp tác xã đã thi hành được đâu hơn ba năm rồi. Đọc báo nhân dân thì thấy phấn khởi lắm…” (SĐD trang 148)
Năm 1990 tác giả viết xong “Tự Vị Thế Kỷ” gồm 18 chuyện về Cộng Sản trong đó độc giả sẽ thấy: “tàn bạo, vô luân , xảo quyệt, dâm ô, lưu manh, rởm, đểu, v.v…” Ngay lời tựa ông viết:
“Dùng sức dân để phá ngục Bastilles để xây ngục Bastilles khác lớn hơn để nhốt dân. Đó là Cộng Sản. Không đợi đến biến động xảy ra ở Đông Âu tôi mới “sáng mắt và sáng lòng”. Năm 1956, tức là sau khi ra Bắc được một năm, tôi đã lên ủy ban quốc tế để xin về Nam theo đúng tinh thần hiệp định Giơ Ne Vơ. Vì sao? Vì tôi thấy cái xã hội chủ nghĩa nó kỳ cục thế nào ấy. Thuở ấy mới 26 tuổi chưa biết Cộng Sản là cái quái gì nhưng thấy mặt mũi nó hiện lên tôi hết ham. Nó không phải là chân dung người đẹp của tôi mong đợi. Cảm giác đầu tiên là cảm giác đúng nhất. Kỳ cục là cảm giác của tôi đối với Cộng Sản. (….)
“Bây giờ lưu vong. Sống xa Cộng Sản một vạn cây số, và sống trên một nước tự do, tôi thấy Cộng Sản càng kỳ cục. Nhiều nhà văn, nhà chính trị, nhà trí thức và người thường – không nhà gì cả – cho rằng Cộng Sản là loại người không tim, không có nhân tính, Tôi đồng ý hoàn toàn. Nhưng chúng giỏi che giấu và giỏi lừa bịp. Cho nên con quỷ khát máu mang bộ mặt người vẫn sống chung được với loài người thậm chí còn được loài người tin yêu mới lạ chứ. (…)
Cuốn sách gồm 18 chuyện thật này dày gần 400 trang không thể nào tóm tắt hay trích dẫn đầy đủ. Nhưng chỉ mấy hàng sau đây của tác giả cũng đủ cho biết nội dung nó gồm những gì:
“Viết về những chuyện này tôi có ý định mô tả bản chất và mặt mũi Cộng Sản, không phải chung chung mà bằng xương bằng thịt, có tên có tuổi. Tên sách nghe hơi khô khan, nhưng khi giở vào trong bạn sẽ bắt gặp nào bộ mặt của tổng bí bị mèo quào, nào ủy viên bộ chính trị o gái bị gái mắng, nào giảng viên trường Nguyễn Aùi Quốc nhảy lầu tự vẫn vì muốn chạy tội dâm ô, nào chính ủy giật vợ thuộc cấp, nào đại tướng nghe nhạc tím, nhạc vàng, nào chính trị viên đi bia nhộng, nào đồng chí cuỗm vợ đồng chí, nào thi sĩ nham nhở…Cả một quyển tự điển sống…” (trang VII)
Đỏ Và Vàng
Nếu Xuân Vũ có bộ hồi ký 5 cuốn, thì ông cũng có bộ trường thiên tiểu thuyết 5 tập, gồm: “Đỏ và Vàng”, “Đỏ và Bùn”, “Bùn Đỏ”, “Biển Lửa Núi Tro” và “Ta Về Hôn Đất” Ông lấy chất liệu từ báo chí trong nước nói lên sự tha hóa đến sa đọa của các cấp cán bộ đảng từ trung ương đến địa phương đã mất hết tin tưởng ở xã hội chủ nghĩa, mạnh ai nấùy làm tiền và hưởng thụ đủ mọi thú dâm ô trác táng. Từ chủ trương của chính phủ cho một số người rời xa tổ quốc một cách “bán chính thức” trong năm 1979 cán bộ các cấp đã thừa nước đục thả câu vơ vét của người dân lương thiện. Những người, vì chán ngấy chế độ đành nhắm mắt rời bỏ nhà cửa, quê hương tìm đường ra ngoại quốc. Có người đi được, cũng có người tiền mất tật mang trở thành đồ chơi cho cán bộ lợi dụng dã man. Những vụ buôn lậu, khai thác mỏ vàng cũng được tác giả triển khai kèm theo những tệ nạn tham ô, dâm đãng của cán bộ, tạo nên những cảnh cười ra nước mắt. Óc hài hước châm biếm của tác giả đã biểu hiện trong những màn, những cảnh có một không hai. Chúng tôi sẽ trích môt vài đọan vắn từ hai cuốn Đỏ Và Vàng và Bùn Đỏ:
“Hai Liêm Khiết thực tình không hiểu nổi tình trạng dân Nam Kỳ nghèo không gạo nấu như hôm nay. Cách mạng khi chưa thành công thì cần dân như cá với nước, khi thành công rồi thì cách mạng vô nhà lầu ở kỹ, đi xe hơi đóng cửa bịt bù nên dân đi lang thang khắp thế giới, cách mạng cứ tỉnh bơ, thậm chí dân đi ăn mày ngay trườc mặt cũng không thấy nốt. Đó là cách mạng vô sản nhập cảng từ miền Bắc vào, thứ cách mạng đúc rập một khuôn: Dân đang giầu làm cho dân mạt rệp.” (…)
Và Hai Liêm Khiết hiểu tại sao người ta khoác rất kỹ chiếc áo vô sản? Để dễ bề giành các chiếc ghế. Khi ngồi lên ghế nọ, ghế kia được rồi thì chiếc áo vô sản tự nhiên tụt xuống để trở thành miếng giẻ vừa lau chân chủ nhân vừa lau cẳng ghế. Chính những kẻ đã từng hát “vùng lên hỡi các nô lệ…” một vạn lần lại trở thành chủ nô một cách có ý thức. Tất cả mọi cuộc cách mạng bất cứ dưới danh nghĩa gì và bất kỳ ai lãnh đạo cũng đều dẫn tới một mục đích: chiếm quyền và đoạt lợi. Chỉ có điều khác nhau ở chỗ là: khi giai cấp tư sản lãnh đạo thì nó không đội mão đeo râu giả còn khi giai cấp vô sản lãnh đạo thì lại bịp dân bằng râu giả, mão giả. Do đó có tình trạng vô sản giả cai trị vô sản thiệt. (Đỏ Và Vàng, trang 42-43)
“Hai Khiết nghĩ vậy. Mà thận trọng là phải. Thời này tình đồng bào, đồng đội, đồng chí đều vô nghĩa trước đồng tiền. (trang 66)
Hãy nghe trưởng ty công an Hai Khiết lên lớp đàn em:
“-Lập trường gì mày?
-Dạ từ lâu mình đâu còn kêu Mâu “chủ tịt” là đồng chí nữa. Mình kêu là bọn bành trướng Bắc Kinh mà.
-Nhưng đó là hồi 1979, 80, 81, 82, 83 và đầu 84 kìa, chứ còn bây giờ mình hết kêu như vậy rồi! Cái mép phải tùy cái lưỡi câu. Lúc nào cũng lép nhép mắc câu thấy mẹ. Mày hiểu không, đảng mình khôn lắm. Lúc muốn chửi thì ông cố nội cũng bươi lên, lúc cần thờ thì cứt chó cũng vái lậy! Đó là bản chất không thay đổi của đảng mình. Nhớ chưa nào. Được rồi! Cơ quan mình như thế nào, nói đi tao sẽ thưởng. (tr.320)
Râu Bác và đảng kỳ trong Bùn Đỏ (cán bộ tẩm bổ bằng rượu rắn):
“…Cô gái lập tức đưa chai rượu vào hứng lấy tia máu nhỏ như sợi râu Bác. Chú rắn đau đớn gồng mình lên và quấn tròn quanh bắp tay gã. Máu tia vào chai. Màu rượu trắng biến dần sang màu hồng, nhưng vì lượng máu ít mà ruợu nhiều nên huyết tửu hãy còn cách xa với màu đảng kỳ một bậc. Muốn được như màu đảng kỳ, phải giết ít nhất một trăm mạng rắn.’ (Bùn Đỏ trang 21)
Về cái đảng khỏa thân tranh đấu cho tự do:
“Công an Bường vốn là tên chăn bò chỉ hiểu cách mạng tháng 8 qua cái còng số 8, quát: -Hồi đó khác, bây giờ khác!- Rồi ra lệnh cho du kích đẩy “ông” (3) Tổng bí thư vô văn phòng. Lập tức các đảng viên ào tới thành một vòng vây bảo vệ vị lãnh tụ của họ hô khẩu hiệu:
-Đảng khỏa thân cách mạng muôn năm!
-Đả đảo bắt bớ, đả đảo độc tài sắt máu!
“Ông” Tổng Bí Thư, vẫn tỏ rõ tài hùng biện của mình, tuyên bố:
-Bị thực dân Pháp đô hộ trên tám mươi năm, dân Việt Nam đã vùng lên làm cách mạng để giành lại độc lập, nhưng cho đến nay vẫn bị Cộng Sản tiếp tục thống trị bằng một đường lối còn tàn ác hơn cả thực dân. Dân tộc Việt Nam phải vùng lên làm cách mạng đòi tự do. Đảng Cộng Sản không thể nào ngăn chặn nổi làn sóng đấu tranh đang hòa hợp cùng trào lưu tiến bộ của nhân loại. Chúng tôi đòi đảng Cộng Sản Việt Nam phải để chúng tôi hoạt động với những quyền tự do dân chủ ghi rõ trong bản tuyên ngôn dộc lập.” Rừng người nhiệt liệt hưởng ứng. Họ ôm nhau nhảy múa cuồng nhiệt không phân biệt tuổi tác giai cấp, trước những cặp mắt kinh ngạc và thèm thuồng của đám du kích và công an.” (trang 57-58)
Hãy nghe Hai Bường, một đảng viên Cộng Sản trình cấp trên của y về đảng Khỏa Thân tên gọi đảng Hắc Môn, hay đảng Nhộng:
“- Dạ không, đảng khỏa thân này không hắc ám như đảng mình đâu…” (!)
Đọc đến chỗ tác giả gọi những cái ấy của các đảng viên nữ khỏa thân là “cương lĩnh” và cái ấy của một anh công an bị lột truồng là “ông cụ”, người đọc lại nhớ tới hai chữ “cụ hồ” được một số người dân dùng trước đây. Giọng lưỡi của tác giả thật hài hườc mà cay độc khôn tả. Xin miễn trích dẫn ở đây. (trang 58-59)
Nhưng cũng nên trích dẫn đọan tác giả diễu Bác một cách nhẹ nhàng văn vẻ:
“Xe chạy tới Ngã Ba Ống Quần. Đêm nay không cắt điện nên phong cảnh hiện rõ từng nét một dưới ánh đèn. Những liếp hoa không được tưới hàng ngày héo xào ủ rũ quanh chân (tượng) Bác. Bác đứng đó trên bục, ba ngàn ngày đêm nên bác mỏi chân, xiêu xiêu có vẻ muốn đi tìm chỗ ngồi nghỉ. Tay trái bác cầm một quyển sách, tay phải bác giơ lên xòe đủ 5 ngón.
Nhân dân ta rất anh hùng và cũng rất tài hoa trong khoa tiếu lâm, nên thấy thế thì bảo là Bác ôm quyển Playboy. Những “đêm Bác không ngủ” (4) Bác lén lén dở ra liếc cho đỡ nhớ bác gái. Còn bàn tay xòe 5 ngón kia là ý bác bảo: dân vượt biên cho đi thả dàn, nhưng 5 cây một thủ cấp, chắc giá, bốn cây rưỡi cũng không được!
(…) Chín Lắc bảo:
- Đối với dân, bác lấy gía cao, chớ đối với bọn cán gáo mình chắc Bác thông cảm chừng bốn cây rưỡi thì được.
“Hai vị cán cười với nhau coi như chuyện tiếu lâm, không có gì phải kiêng cử, cử kiêng gì nữa trong khi trẻ con nghêu ngao hát đầy đường những bài hát cách mạng được đặt lời thứ hai còn ăn nhạc hơn cả lời gốc:
‘Đêm qua em nằm mơ thấy Bác Hồ
Chân Bác dài bác đạp xích lô
Trông thấy Bác em kêu xe khác
Bác bảo rằng, Mút chỉ nghe con!
“Chín Lắc cười thầm: “Bộ Bác Hồ cũng tranh mối xích lô nên thấy cháu kêu xe khác thì dọa bỏ tù mút chỉ!”
“Đi đâu cũng nghe trẻ hát bài này. Tụi con nít qủi không ai bụm họng kịp! Không ai bắt chúng nó được. Chiếc xe đã qua khỏi mà Chín Lắc còn ngoảnh lại nhìn. Bác đã quay lưng nhưng tay Bác vẫn xòe đủ 5 ngón. Bác nhất định 5 cây là 5 cây. Mình đã tự động lên 7 cây có lẽ Bác không vừa ý nên cứ giơ hoài để cảnh cáo chúng mình đừng đi quá lố. Vật giá lên cao quá Bác ơi! Một chầu bia nhộng từ 35 đến 40 thì đầu người vượt biên cũng lên theo. Xin Bác thông cảm!” (trang 63-64)
(Nghe ở ngoài đường vang dậy những tiếng hô : “đảng Hắc Môn Khỏa Thân Hành Động muôn năm! Muôn năm! Đảng khắp nơi khỏa thân thành Nhộng muôn năm! Đảng Nhộng muôn năm!”…một cán lớn nói:)
- Họ hô đảng Lao Động muôn năm! Tôi ra bảo cho họ biết là đảng Lao Động đã hóa kiếp là đảng Xuẩn Động . Không nên hô Đảng Lao Động muôn năm nữa mà phản luật tiến hóa xã hội loài người. (…)
Mười Hỷ hất hàm:
- Loạn ở đâu kéo tới đây vậy?
- Dạ ở xã Lê Thị Ngái…
- Dạ, đảng này mới thành lập nhưng ảnh hưởng to lớn lắm, thưa hai đồng chí bộ Chính Trị.
- Tại sao nó lại có cái cơ bản nhộng thế kia? Ba Bô đập bàn gắt.
- Dạ tôi nghĩ là đảng này căn cứ trên câu ca dao giải phóng ca ngợi chánh sách ba thước vải một năm của đảng
“May quần, để vú tô hô
May áo thì để bộ đồ em ra”
May áo thì để bộ đồ em ra”
đấy ạ. (…)
(Tên đầu đảng) không phải đàn bà cũng không phải đàn ông. Trước kia làm nghề đồng bóng kiêm giáo sư đại học Hà-nội. Nó vừa phát tướng nên đứng ra lập đảng và tự xưng là lãnh tụ nhân dân. Vì nó chống đảng ta nên rất được lòng quần chúng.–Nó hoạt động mới có ba tháng mà kết nạp trên một trtiệu đảng viên. Trong buổi ra mắt nó nhận vô thêm một lô nữa. Sau lễ tuyên thệ lại có cả trăm quần chúng xin đăng ký. Đặc biệt con lãnh tụ này được quần chúng công kênh lên vai tại buổi lễ ra mắt. (…)
- Lãnh tụ của đảng là đàn bà à?
- Dạ không hẳn đàn bà mà cũng không rõ rệt là đàn ông ạ!
- Thế là thế nào?
- Dạ tôi cũng không rõ thế nào! Mụ bảo mụ hành nghề đồng bóng kiêm giáo sư học đại. Mụ bảo chồng mụ rất chung thủy với mụ, cũng là giáo sư đại học Hà-nội và cũng là đàn bà. Tôi dọa đem “lận mề gà”, mụ hoảng hồn khai mụ là đàn ông và vợ lại cũng là đàn ông.
Tái Tước lắc đầu:
- Thế là cái đảng này thuộc loại xuất quỷ nhập thần! Cũng như Bác hồi trước thay tên đổi họ, thay hình đổi dạng liền liền, mật thám đâu có theo dõi nổi. Cái hiện tượng này rất là nguy hiểm.” (trang 76)
Hồng Long, nhân vật trong truyện, cán bộ địa phương nói:
“Tôi phải nghiên cứu điều lệ, tôn chỉ và mục đích của cái đảng (khỏa thân) này đề nghị trung ương sửa đổi theo nó mới được.
Hai Khiết nói:
“Tôi có đây một bản. Tôi cũng đọc qua rồi. Tôi nhận thấy có mấy điểm nổi bật. Thứ nhất là nó hứa sẽ không nói láo với quần chúng. Thứ hai là nó hướng dẫn cho dân làm giầu chứ không làm cho dân giầu trở thành vô sản. Cuối cùng là nó không che giấu cái gì…hết…” (trang 271)
Hai đảng viên (đảng Cộng Sản) đối đáp:
“…-Chúng ta là gì mà không như người khác?
-Chúng ta là một lũ súc vật mặc áo người nói tiếng người. (trang 318)
Trưởng ty công an Hai Khiết chỉ thị không được cho hai tên nịnh thần lên tàu vượt biên:
“Ở nước ta hiện giờ có hai tên lưu manh Ngụy mặc áo trí thức giả hiệu chạy theo chúng ta để kiếm canh thừa cá cặn cũng tên Trung. Đó là Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn Trung. Tên Trung nhưng lại nịnh thần. Hai tên này già đầu rồi và hiện nay đang bưng bô lau cầu cho đồng chí Trần Độ không có ló xuống tàu được đâu.” (trang 322)
Dân vượt biên nói với công an:
“Dân tỵ nạn chúng tôi trên không còn răng, dưới chỉ còn một trứng cúc, một trứng thì Bác đã nuốt rồi, vậy có gì quý giá mà các ông bạn dân hòng tước đoạt, còn gì có thể chống cự mà các ông phải đề phòng?” (trang 325)
Trước khi chấm dứt phần trích dẫn cuốn “Bùn Đỏ”, chúng tôi mời bạn đọc nghe những lời đối đáp của hai nhân vật chính trong truyện, Hai Liêm Khiết và Bửu Liệp, cô bán nước mía xinh đẹp, vợ của một trung úy Quốc Gia, có hai con nhỏ đang ở trên một chiếc tàu nhỏ sắp vượt biên. Nhưng trước tiên hãy đọc đoạn sau đây của Chúa Nhộng nói với Hòa, chồng Bửu Liệp, để hiểu qua liên hệ giữa Bửu Liệp và Hai Liêm Khiết:
“Chúa Nhộng tiếp ngay:
“Em nói lại cho anh biết, tên trưởng ty (Khiết) muốn ly gián chị Liệp với anh đó. Nó biết chị Liệp đi bán nước mía nên lâu lâu nó sai lính đem tiền lại nhà cho chị Liệp thì gặp anh. Làm gì anh khỏi nghi. Hoặc nó cho người đem tiền đút vào xe chi Liệp. Chị Liệp về nhà thuật lại với anh làm gì anh không nghi? Anh hành hạ, đuổi xua chị Liệp là anh trúng kế nó. Xong rồi nó tỏ vẻ đàng hoàng nó cậy người đến đánh tiếng mua chị Liệp một trăm cây. Anh đang ghen tức anh bán liền. Phải không? Ở cái xã hội này thiếu gì kẻ bán vợ. Vì nghèo khó cũng có, vì vợ muốn có tiền cho chồng con vượt biên nên hy sinh cũng có…” (trang 188)
(Hai Khiết nói với Bửu Liệp:)
“- Cô nói mau đi. Không còn thì giờ nữa đâu. Hai tiếng đồng hồ nữa tầu mới ra hải phận quốc tế. Cô quyết định đi! Hai Khiết đến nhắc chiếc phôn trên tường quay và nói tiếp:
- Trung úy cứ lấy mục tiêu đi…chạy sát vào con mồi,–Hai Khiết quát– Không! Tôi không thỉnh thị Thiếu tướng nữa. Ổng giao quyền cho tôi rồi. Hãy chờ lệnh tôi.
- Tôi van các ông! Bửu Liệp chạy tới giật phôn và hét to: Các ông không được giết đồng bào, không được giết chồng tôi.
Hai Khiết lên giọng: Tôi là người thông cảm với đồng bào và với cô hơn ai hết. Nếu là người khác ở địa vị tôi thì chiếc tàu đã tan ra như bọt biển rồi. Tôi cho cô quyền tối hậu quyết định sinh mạng mấy trăm ngưòi trong đó có chồng cô. Nói đi, có phản động hay không? Nếu có thì tôi lệnh cho lệnh hải quân khai hỏa liền, còn không thì tàu sẽ được hải quân hộ tống ra hải phận quốc tế an toàn.
- Tôi xin ông tha cho họ, thương xót chồng tôi.
- Còn cô, cô có thương xót họ không? (…)
- Ông chỉ chiếm được người tôi, ông không chiếm được tim tôi, cũng như các ông chiếm được miền Nam bằng võ lực nên dân miền Nam không phục các ông.
Hai Khiết cười nhạt:
- Thưa bà trung úy. Vấn đề không phải là chiếm được trái tim hay không, mà là ai phải tựa vào ai mới sống. Vấn đề không phải kính phục hay không mà là ai bỏ tù được ai. Nếu chúng tôi không xảo quyệt thì chúng tôi không còn là chúng tôi nữa. Rồi hắn dịu giọng: (….)
Hứa hẹn, vuốt ve, dọa nạt… cuối cùng hắn đã đạt được mục đích. Trong khi còn thương lượng về hình thức và thủ tục, thì một cú phôn, rồi một bức điện:
“Điện khẩn: Ban bí thư trung ương thừa lệnh đồng chí tổng bí thư đảng điện khẩn cho đồng chí Tỉnh Uûy tỉnh….đưa gấp cô Bửu Liệp về văn phòng Trung Ương Đảng ở số 6 Hoàng Văn Thụ để nhận công tác!…” …. (trang 370)
Vài cảm nghĩ về Xuân Vũ:
Trong số 18 nhân vật được chọn đứng đầu mỗi chương trong soạn phẩm này, Xuân Vũ là người đứng sau chót. Nhưng số trang dành cho ông nhiều nhất. Sự cảm phục của soạn giả dành cho ông cũng to lớn nhất. Không phải vì khối lượng tác phẩm của ông đồ sộ hơn tất cả. Cũng không phải vì văn chương của ông thuộc vào bậc thầy. Mà vì sự xác tín của ông về mối họa Cộng Sản mãnh liệt nhất. Đọc Xuân Vũ tôi lại nhớ tới lời Koestler nói với Crossman: “Chỉ những người cựu cán bộ Cộng Sản chúng tôi mới hiểu rõ Cộng Sản là cái gì” và lời của Silone, một cựu cán bộ Cộng Sản khác nói với Togliatti, lãnh tụ cộng đảng Ý: “Trận chiến cuối cùng sẽ là trận giữa những người Cộng Sản với những người cựu Cộng Sản”.
Xuân Vũ là một nhà văn lỗi lạc, là một chiến sĩ kiên cường, dũng cảm. Ông bộc lộ tình cảm của ông không chút sợ sệt, không chút dè dặt. Ông tin vào nhận xét của mình. Ông tin ở người đọc. Ông biết người đọc sẽ đồng ý với ông. Vì đa số nhân dân ta đều có cùng một ý nghĩ chung: Cộng Sản là xấu, là tai họa. Người nào dám nói thẳng ra điều đó là người can đảm, đáng cảm phục.
Tiểu thuyết của Xuân Vũ thuộc loại hiện thực. Càng có dịp sống gần Cộng Sản độc giả càng thấy hay. Dĩ nhiên độc giả ở hải ngoại từ 1975, chưa có dịp sống trong xhcn, không thể nào hiểu hết ý, nên không thấy hay bằng độc giả trong nước.
Chỉ hơi tiếc một điều là báo giới và văn giới Việt Nam hải ngoại chưa dành cho Xuân Vũ một địa vị xứng đáng hơn. Có lẽ vì phần đông các nhà văn thường không thích dấn thân vào lãnh vực chống Cộng, vì cho rằng nó là chính trị chứ không phải văn học. Đó là chưa kể có một số người không bao giờ dám chống một cái gì vì thấy nguy hiểm cho bản thân. Có người nhận xét một cách chua chát: Sở dĩ Cộng Sản còn tồn tại một phần vì người Việt hải ngoại hãy còn thích “Thúy Nga Paris by night” gấp vạn lần hơn những tác phẩm của Xuân Vũ. Cứ so sánh số lượng sách của Xuân Vũ với số băng video của TNPBN bán ra mỗi năm thì rõ.
Chú thích
(1) Xin xem chương 13, Nguyễn Chí Thiện.
(2) Lời nhà xuất bản đầu cuốn sách mới nhất của Xuân Vũ: Những bậc thầy của tôi”, 1999.
(3) Đúng ra là một cô gái trần như nhộng.
(4) Thơ của Minh Huệ: “Đêm nay bác không ngủ”
(5) Thơ Xuân Vũ đăng trên báo Văn Nghệ, Hà-nội, năm 1954.
(6) Trận đụng độ lớn cấp tiểu đoàn đầu tiên thời đệ nhất Cộng Hòa tháng 1-1963 xảy ra ở Ấp Bắc, Mỹ Tho, cách Saigon hơn 60 cây số. Một số phóng viên Mỹ đã theo trung tá cố vấn Mỹ Paul Vann mô tả là một thất bại lớn của VNCH. Nhưng theo báo cáo chính thức được đô đốc Felt, cũng như tướng Harkins, tư lệnh Mỹ xác nhận thì đó là một thắng lợi. Dĩ nhiên phía Việt Cộng cũng hô lên là thắng lợi của họ.
Filed under: Phản Tỉnh Phản Kháng: Thực hay Hư
Kính,
Nguyễn Đức
Rất cám ơn bạn đã theo dõi baovecovang.wordpress.comi. Tác phẩm của anh Xuân Vũ thì hiện tôi đã đánh máy xong:
- Thiên Đàng Treo (tập truyện ngắn)
- Thiên Đàng Treo Đứt Dây (tập truyện ngắn)
- Đứa Bé Đi Tìm Cha (truyện dài)
-Cô Ba Trà (truyện dài)
-Tấm Lụa Đào (truyện dài)
và anh bạn Thái Thụy Vy vừa gởi cho tôi hồi ký Đường Đi Không Đến và ký sự văn học Những Bậc Thầy Của Tôi . Tôi đang nhờ người tìm cho tôi quyển 2000 Ngày Đêm Trấn Giữ Củ Chi (7 tập). Tôi sẽ từ từ đưa lên để bạn đọc.
Kính,
Lê Thy