Trần Trọng Kim
1883-1953
Là một Học Giả danh tiếng, Thủ Tƣớng của Việt Nam (1945) tác giả cuốn Việt Nam
Sử Lược.
Trần Trọng Kim, nhà giáo dục, nhà biên khảo văn học và sử học Việt Nam, bút hiệu
Lệ Thần, sinh năm 1883 (Quý Mùi) tại làng Kiều Linh, xã Đan Phố, Huyện Nghi Xuân, Tỉnh
Hà Tĩnh.
Xuất thân trong một gia đình Nho Giáo, ông học chữ Hán từ nhỏ. Năm 1897, ông học
Trƣờng Pháp-Việt Nam Định, học chữ Pháp. Năm 1900, ông thi đỗ vào Trƣờng Thông Ngôn
và đến 1903 thì tốt nghiệp. Năm 1904, ông làm Thông Sự ở Ninh Bình. Năm 1905, ông qua
Pháp học Trƣờng Thƣơng Mại ở Lyon, sau đƣợc học bổng vào Trƣờng Thuộc Địa Pháp. Năm
1909, ông vào học Trƣờng Sƣ Phạm Melun và tốt nghiệp ngày 31 tháng 7 năm 1911 rồi về
nƣớc. Ông lần lƣợt dạy Trƣờng Trung Học Bảo hộ (Trƣờng Bƣởi), Trƣờng Hậu Bổ và Trƣờng
Nam Sƣ Phạm.
Ông giữ nhiều chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc nhƣ: Thanh Tra Tiểu
Học (1921), Trƣởng Ban Soạn Thảo Sách Giáo Khoa Tiểu Học (1924), dạy Trƣờng Sƣ Phạm
thực hành 1931, Giám Đốc các Trƣờng Nam Tiểu Học tại Hà Nội (1939). Trần Trọng Kim
còn là Phó Trƣởng Ban Ban Văn Học của Hội Khai Trí Tiến Đức và Nghị Viên Hội Đồng
Dân Biểu Bắc Kỳ. Một năm sau khi ông về hƣu (1943), Nhật Bản kéo vào Đông Dƣơng và bí
mật đƣa ông cùng Dƣơng Bá Trạc ra nƣớc ngoài. 1945, ông đƣợc đƣa về nƣớc. Từ thập niên
1910 đến thập niên 1940, ông cũng viết nhiều sách về sƣ phạm và lịch sử.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm thuộc địa Đông Dƣơng.
Để tranh thủ sự ủng hộ của ngƣời Việt. Nhật tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam. Ngày 11
tháng 3 năm 1945, triều đình Huế tuyên bố hủy bỏ Hòa ƣớc Patenôtre ký với Pháp năm 1884,
khôi phục chủ quyền Việt Nam. Trần Trọng Kim đƣợc giao thành lập Nội Các vào ngày 17
tháng 4 năm 1945. Đây là chính phủ đầu tiên của nƣớc Việt Nam độc lập và Trần Trọng Kim
trở thành Thủ Tƣớng đầu tiên của Việt Nam.
Tháng 6 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Quốc Gia Việt Nam,
đặt quốc thiều là bài ‘’Đăng đàn cung’’, quốc kỳ có ‘’nền vàng hình chữ nhật, giữa có hình
quẻ Ly màu đỏ thẫm’’.
Chính phủ Trần Trọng Kim thực chất vẫn nằm dƣới sự bảo hộ của quân đội Nhật
chiếm đóng Đông Dƣơng, vì vậy có nhiều ngƣời cho rằng đây chỉ là một chính phủ bù nhìn
thân Nhật và không có đƣợc sự ủng hộ của dân chúng. Khi quân Nhật đầu hàng Đồng Minh,
chính phủ Trần Trọng Kim cũng chỉ tồn tại đƣợc đến ngày 23 tháng 8 năm 1945 thì sụp đổ.
Tuy nhiên, trong thời gian ngắn ngủi, chính phủ này cũng đã làm đƣợc một việc quan
trọng là thống nhất về mặt danh nghĩa đất Nam kỳ vào đất nƣớc Việt Nam và thay chƣơng
trình học bằng tiếng Pháp sang chƣơng trình học bằng tiếng Việt, do học giả Hoàng Xuân Hãn
biên soạn. Bộ Trƣởng Bộ Thanh Niên Phan Anh đã thành lập Đoàn Thanh Niên Tiền Tuyến,
Thanh Niên Xã Hội. Trƣờng Thanh niên tiền tuyến đã đào tạo ra nhiều tƣớng lĩnh, Sĩ Quan
của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sau này.
Sau khi Việt Minh giành đƣợc chính quyền và nƣớc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
đƣợc thành lập, Trần Trọng Kim lƣu vong ra nƣớc ngoài. Sau nhiều năm tháng long đong ở
Quảng Châu và Hồng Kông, ngày 6 tháng 2 năm 1947, ông trở về Sài Gòn và sống tại nhà
Luật Sƣ Trịnh Đình Thảo. Năm 1948, ông qua Nam Vang và sống với ngƣời con gái. Sau đó,
ông lại trở về Việt Nam sống thầm lặng và mất tại Đà Lạt vào ngày 2 tháng 12 năm 1953, thọ
71 tuổi.
Trần Trọng Kim đƣợc đánh giá là một học giả uyên thâm cả tân và cựu học, là ngƣời
tận tụy cho ngành giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, ông là ngƣời có tƣ tƣởng bảo
thủ và dân tộc-bảo hoàng. Tác phẩm Việt Nam Sử Lược đƣợc đánh giá là một trong những
quyển sử Việt Nam có phong cách ngắn gọn, súc tích và dễ hiểu, đƣợc tái bản nhiều lần.
2 MỘT CƠN GIÓ BỤI
Trần Trọng Kim CHƢƠNG I
CUỘC ĐỜI YÊN LẶNG VÀ VÔ VỊ
Sau 31 năm làm việc trong giáo giới, trải làm Giáo Sƣ ở Trƣờng Trung Học Bảo Hộ
và Trƣờng Sĩ Hoạn, kế lại sung chức Bắc Kỳ Tiểu Học Thanh Tra, rồi về giữ chức Giám Đốc
Trƣờng Nam Tiểu Học ở Hà Nội, đến năm 1942 mới đƣợc về hƣu. Tƣởng thế là đƣợc nghỉ
ngơi cho trọn tuổi già. Bởi vì trong một đời có nhiều nỗi uất ức sầu khổ về tình thế nƣớc nhà,
về lòng hèn hạ đê mạt của ngƣời đời, thành ra không có gì là vui thú. Một mình chỉ cặm cụi ở
mấy quyển sách để tiêu khiển. Ðó là tâm tình và thân thế của một ngƣời ngậm ngùi ở trong
cái hoàn cảnh éo le, và trong một bầu không khí lúc cũng khó thở. Ðƣợc cái rằng trời cho
ngƣời ta có sẵn cái tính tùy cảnh mà an, cho nên bất cứ ở cảnh nào lâu ngày cũng quen, thành
ra thế nào cũng chịu đƣợc.
Năm Quý Mùi (1943) là năm trăng mờ gió thảm, tiếng chiến tranh inh ỏi khắp hoàn
cầu, toàn xứ Ðông Dƣơng bị quân Nhật Bản tràn vào, họa chiến tranh mỗi ngày một lan rộng.
Dân Việt Nam bị đói kém đau khổ đủ mọi đƣờng, lại căm tức về nỗi nƣớc nhà suy nhƣợc phải
bị đè nén dƣới cuộc bảo hộ trong sáu bẩy mƣơi năm, cho nên ai cũng muốn nhân cơ hội ấy mà
gây lại nền độc lập đã mong mỏi từ bao lâu.
Tôi là một ngƣời nƣớc Việt Nam, lẽ nào lòng tôi lại không rung động theo với dịp
rung động của những ngƣời ái quốc trong nƣớc ? Nhƣng vì hoàn cảnh khó khăn, lòng ngƣời
ly tán, nhiều ngƣời lại muốn lợi dụng cái tiếng ái quốc để làm cái mối tƣ lợi cho mình, vì vậy
mà tôi chán nản không dự vào đảng phái nào cả, mà cũng không hành động về phƣơng diện
chính trị. Ngoài những lúc làm những công việc hàng ngày phải làm, khi rỗi rãi gặp những
bạn thân, nói đến chuyện thiên hạ sự và việc nƣớc nhà, thì tôi cũng nói chuyện phiếm và
mong cho nƣớc nhà chóng đƣợc giải phóng.
Thƣờng tôi gặp ngƣời Pháp, tôi cũng nói thẳng rằng: Nếu trong cái hoàn cảnh này,
ngƣời Pháp hiểu rõ tình thế mà buông tha chúng tôi ra thì không những là nƣớc Pháp không
thiệt thòi gì mấy về đƣờng kinh tế, mà về đƣờng văn hóa và thực tế lại có phần lợi vì đã làm
một cái ơn lớn cho cả một dân tộc. Mà thực tế nếu đƣợc nhƣ vậy thì dân Việt Nam không bao
giờ quên đƣợc cái ơn ấy, mà vui lòng hợp tác với nƣớc Pháp. Song đó là một cái mộng tƣởng
không thê có ở trong đời này, là đời đầy những sự tham, sân, si, cho nên nhân loại đã phải
chịu bao nhiêu nỗi đau buồn khổ não. Mà còn phải chịu không biết đến bao giờ mới thôi !
Trong khi nƣớc Pháp đang bị cái nạn chiến tranh, ngƣời Pháp đối với ngƣời Việt Nam
không đổi thái độ chút nào, mà ngƣời Nhật thì lại muốn lợi dụng lòng ái quốc của ngƣời Việt
Nam để quyến dụ ngƣời ta theo mình. Ngƣời Việt Nam không phải là không hiểu cái tâm địa
ngƣời Nhật, song có nhiều ngƣời muốn thừa cái cơ hội hiện tại mà phá vỡ cái khuôn khổ bé
hẹp nó ràng buộc mình đã bao lâu để gây ra cái không khí mới, rồi sau thế nào cũng tìm cách
đối phó. Phần nhiều ngƣời trí thức trong nƣớc đều có cái quan niệm ấy, nhƣng vì thế lực
không đủ, cho nên không ai hành động gì cả, trừ một bọn ngƣời hoặc vì lòng nóng nảy, hoặc
vì lòng ham danh lợi chạy theo ngƣời Nhật.
Nƣớc Nhật Bản trƣớc vốn là một nƣớc đồng văn đồng hóa ở Á Ðông, nhƣng về sau đã
theo Âu Hóa, dùng những phƣơng pháp quỉ quyệt để mở rộng chủ nghĩa đế quốc của họ,
trƣớc đã thôn tính Cao Ly và Mãn Châu, sau lại muốn xâm lƣợc nƣớc Tàu và các nƣớc khác ở
Á Ðông đã bị ngƣời Âu Châu chiếm giữ. Ngƣời Nhật tuy dùng khẩu hiệu ‘’đồng minh cộng
nhục’’ và lấy danh nghĩa ‘’giải phóng các dân tộc bị hà hiếp’’, nhƣng thâm ý là muốn thu hết
quyền lợi về mình. Bởi vậy chính sách của họ thấy đầy những sự trái ngƣợc, nói một đàng
làm một nẻo. Cái chính sách ấy là chính sách bá đạo rất thịnh hành ở thế giới ngày nay. Dùng
lời nhân nghĩa để nhử ngƣời ta vào chòng của mình mà thống trị cho dễ, chứ sự thực thì chỉ vì
lợi mà thôi, không có gì là danh nghĩa cả.
3 MỘT CƠN GIÓ BỤI
Trong hoàn cảnh khó khăn ấy tôi phải nén mình ngồi yên. Song mình muốn ngồi yên
mà ngƣời ta không để cho yên. Hết ngƣời này đến nói chuyện lập hội này, ngƣời khác đến nói
chuyện lập đảng nọ. Ðảng với hội gì mà tinh thần khôngcó, sự tổ chức chẳng đâu ra đâu thì
càng nhiều đảng và hội bao nhiêu lại càng thêm rối việc bấy nhiêu, chứ có ích gì ? Bởi vậy
đối với ai, tôi cũng lấy lòng ngay thẳng mà đáp lại, nhƣng không đồng ý với ai cả.
4 MỘT CƠN GIÓ BỤI
CHƢƠNG II
ĐI CHIÊU NAM ĐẢO (SINGGAPORE)
Vào khoảng cuối năm Canh Thìn (1940) sau khi quân Nhật đã vào đóng ở Ðông
Dƣơng rồi, có những ngƣời Nhật nói là Giáo Sƣ ở những Trƣờng Cao Đẳng bên Ðông Kinh
sang khảo cứu về văn hóa thƣờng đến tìm tôi hỏi về lịch sử và tôn giáo v.v...Tuy những ngƣời
ấy không nói gì đến việc chính trị, nhƣng ai cũng biết là họ đi dò xét tình ý những nhân sĩ
trong nƣớc. Vậy nên tôi cũng chỉ nói về mặt văn hóa mà thôi. Sau đó có những ngƣời Nhật
khác cũng hay đến nói chuyện, một đôi khi có nói đến việc chính trị, tôi chối ngay rằng tôi
không làm chính trị.
Sự đi lại của những ngƣời Nhật làm cho ngƣời Pháp để ý đến tôi. Có khi thấy có ngƣời
rất ám muội đến bàn làm những việc bất chánh để giữ tôi vào tròng pháp luật, và thƣờng lại
thấy các thám tử đứng rình luôn luôn ở trƣớc cửa.
Trong những ngƣời Việt Nam thỉnh thoảng đi lại nhà tôi, có ông Nguyễn Trác ở Thanh
Hóa, vì ông có ngƣời con rể là ông Ðặng Phúc Thông ở bên cạnh nhà tôi và lại là ngƣời vẫn
quen tôi. Bởi vậy mà ông Trác quen tôi và đi lại nhà tôi, một đôi khi cũng nói đến hành động
của ngƣời Nhật ở Ðông Dƣơng. Tôi thấy ông Trác có nhiệt tâm yêu nƣớc thì cũng vui lòng trò
chuyện và dặn ông phải cẩn thận, đừng có hấp tấp mà mắc mƣu gian. Song ông tin ngƣời
Nhật có thể giúp đƣợc mình. Việc nhì nhằng nhƣ thế một độ rồi ông đi Sài Gòn và ở trong ấy
độ chừng hai tháng mới ra.
Ðã từ mấy tháng trƣớc, có nhiều ngƣời bị bắt vì sự giao thông với ngƣời Nhật, nhƣ
Trƣơng Kế An khai với ngƣời Pháp rằng y ra Hà Nội có gặp tôi và ngủ ở nhà tôi một đêm. Ðó
thật là một việc bịa đặt, vì tôi không quen biết ngƣời ấy bao giờ và cũng không bao giờ gặp y.
Hà Nội thƣờng cũng có sự bắt bớ nhƣ thế, nhất là vào khoảng tháng Mƣời năm 1943 có mấy
ngƣời đi làm với phái bộ Nhật Bản bị bắt, ngƣời trong Thành Thị nôn nao cả lên. Lúc ấy
ngƣời con gái ông Trác là bạn con tôi ra Hà Nội để chữa mắt, có đến ở nhà tôi. Chợt đến ngày
25 tháng Mƣời, ông Nguyễn Trác ở Sài Gòn ra, có đến thăm con tôi và gặp tôi trong một chốc
lát, nói chuyện qua loa vài câu, rồi ông nói vài hôm ông sẽ về Thanh Hóa.
Ðộ ấy, cứ chiều chiều tôi đi đến Phố Hàng Bông vào nhà in Bắc Thành của ông Lê
Thăng, chữa những sách in lại. Chữa xong những bản đập, ngồi nói chuyện phiếm đến bẩy
giờ, thì tôi lại đi bộ từ Phố Hàng Bông về đến Nhà Rƣợu với vài ngƣời bạn cùng đi một
đƣờng.
Chiều ngày 27 tháng Mƣời, cũng nhƣ mọi ngày, tôi về đến đầu Phố Nhà Rƣợu thì thấy
ngƣời nhà chạy tất tả đến nói rằng: ‘’Không biết có việc gì mà có mấy ngƣời Nhật bảo tôi đi
tìm ông’’. Tôi nghĩ bụng: Lại mấy ngƣời mọi khi đến quấy rối chứ còn việc gì nữa. Tôi về
đến nhà thì thấy mấy ngƣời Hiến Binh Nhật với một ngƣời Nhật quen từ trƣớc ngồi chờ. Họ
thấy tôi liền hỏi ngay rằng:
- Ông có biết ông Nguyễn Trác và ông Trần Văn Lai đã bị bắt từ lúc bốn giờ rƣỡi rồi
không ?
- Tôi không biết.
- Ngƣời Pháp sắp bắt ông đấy.
- Bắt thì bắt, làm thế nào đƣợc.
- Ông nên vào Hiến Binh Nhật mà lánh đi mấy ngày.
- Tôi có làm gì với ngƣời Nhật mà chạy vào Hiến Binh Nhật ?
- Ông không thấy lính mật thám rình chung quanh nhà ông hay sao ?
- Tôi vẫn biết, nhƣng tôi không làm điều gì đáng lo sợ.
- Ông nên nghĩ đến tƣơng lai nƣớc ông mà tạm lánh đi mấy ngày.
- Tôi chẳng đi đâu cả !
Mấy ngƣời Nhật thấy tôi nói thế tỏ vẻ tức giận, đứng dậy ra về. Còn ngƣời Nhật quen
ở lại, nói rằng:
5 MỘT CƠN GIÓ BỤI
- Ông không vào Hiến Binh thì thôi, nhƣng tôi sợ đêm nay ngƣời Pháp sẽ đến bắt ông.
Chi bằng ông hãy sang ở tạm bên nhà tôi gần đây. Nếu mai không có việc gì, thì ông lại về.
Lúc ấy tôi nhìn ra cửa thấy hai ngƣời giống nhƣ mật thám đứng ở ngoài dòm vào. Tôi
nghĩ bụng: ‘’Ta hãy lánh đi một đêm cũng không sao’’. Tôi nhận lời sang ngủ bên nhà ngƣời
Nhật quen. Sang nhà ngƣời Nhật ấy, tôi dặn đừng cho Hiến Binh Nhật biết. Ngƣời Nhật ấy
hứa sẽ giữ lời. Ðêm nằm không ngủ đƣợc, nghĩ xa nghĩ gần: ‘’Mình đã không muốn làm gì
cả, mà lại bị ngƣời ta ngờ vực, rồi đây ra sao ? Rõ thật đất bằng nổi trận phong ba’’.
Sáng hôm sau, tôi đang ở trong buồng thấy mấy ngƣời Hiến Binh Nhật đem xe hơi đến
bảo có lệnh đón tôi về ở khách sạn của nhà binh Nhật! Nghe hai tiếng có lệnh, biết là mình
không sao từ chối đƣợc nữa. Tôi trách ngƣời Nhật quen rằng sao ông đã hứa với tôi không
cho Hiến Binh biết, mà lại còn đi báo để Hiến Binh đến ? Ngƣời ấy nói:
- Tôi là ngƣời thƣờng, nhỡ ngƣời Pháp biết mà đến bắt ông, thì tôi làm thế nào bênh
vực đƣợc ông. Vì vậy tôi phải cho Hiến Binh biết.
Thôi đành theo số phận, tôi lên xe đi đến khách sạn của Nhật. Ðến năm giờ chiều hôm
ấy, thấy Hiến Binh Nhật đem ông Dƣơng Bá Trạc cũng vào đấy.
Ông Dƣơng Bá Trạc là một Nhà Văn Học, đỗ Cử Nhân từ thủa mới 16 tuổi, vì tình
nƣớc mà bỏ không ra làm Quan, theo ông Phan Bội Châu đi làm cách mệnh, đã từng phải đày
ra Côn Lôn và phải cƣỡng bách lƣu trú mấy năm ở Nam kỳ. Ông cùng với tôi là bạn làm Bộ
Việt Nam Tự Ðiển ở Ban Văn Học Hội Khai Trí Tiến Ðức. Tôi trông thấy ông Dƣơng, cƣời
bảo:
- Sao bác lại vào đây ?
Ông Dƣơng nói:
- Mình đi ra ngoài đƣờng định lui về quê, bị bọn Hiến Binh Nhật mời lên xe đƣa vào
đây. Nghe đâu ở ngoài phố họ bắt lung tung cả, chƣa biết rõ những ai.
Sau một lúc chuyện trò về tình cảnh của nhau, ông Dƣơng nói:
- Bây giờ chúng ta lâm vào cảnh này thật là khó quá. Dù rồi ra chúng ta có về nhà nữa,
ngƣời Pháp cũng chẳng để yên. Chi bằng chúng ta nói với Hiến Binh Nhật cho chúng ta ra
ngoài để gặp ông Cƣờng Ðể, ta sẽ bàn cách làm việc gì có ích lợi cho tƣơng lai nƣớc nhà.
- Ông Cƣờng Ðể thì chỉ có bác quen mà thôi, và nghe nói ông ấy đã ủy quyền cho ông
Ngô Ðình Diệm và Huỳnh Thúc Kháng tổ chức mọi việc, tôi chạy theo ông ấy thì có ích gì ?
- Ông Cƣờng Ðể là ngƣời chính phủ Nhật Bản đã giúp đỡ, ta ra cùng làm việc với ông
ấy, rồi xin cùng ngƣời Nhật cho cả ông Huỳnh Thúc Kháng và ông Ngô Ðình Diệm ra nữa, ta
sẽ lập thành một cơ quan ở hải ngoại, thu thập hết thảy những nhà cách mệnh đã ở ngoài về
một chỗ thì sự hành động của ta sẽ có ý nghĩa lắm. Chẳng hơn là cứ lẩn nấp ở trong nƣớc, để
cho ngƣời Pháp chực bắt bớ.
Tôi nghe ông Dƣơng nói cũng bùi tai, liền bàn nhau viết thƣ xin ngƣời Nhật giúp
chúng tôi ra ngoài. Cách mấy hôm, viên Thiếu Tá Hiến Binh Nhật ở Hà Nội đến thăm chúng
tôi và nói: ‘’Việc các ông xin ra ngoài là rất phải, để tôi vào Sài Gòn hỏi ý kiến Tƣ Lệnh Bộ
trong ấy, lệnh trên định thế nào, tôi sẽ nói cho các ông biết.
Chúng tôi đợi ở khách sạn đến gần ba tuần lễ, viên Thiếu Tá mới trở về và đến nói cho
chúng tôi biết:
- Tƣ Lệnh Bộ cho hay các ông đi đâu bây giờ cũng không tiện, chỉ có ra Chiêu Nam
Ðảo là yên ổn hơn cả. Các ông ra đấy rồi ông Cƣờng Ðể cũng sắp về đấy cùng các ngƣời khác
nữa sẽ họp nhau làm việc, rất là thuận tiện.
Chúng tôi nghĩ miễn là mình thoát ra khỏi cái cảnh eo hẹp này là đƣợc, vậy có ra
Chiêu Nam Ðảo cũng chả sao. Chúng tôi nhận đi.
Từ đó ngƣời Nhật tổ chức đƣa chúng tôi vào Sài Gòn rồi đƣa ra Chiêu Nam Ðảo. Lúc
chúng tôi ở Hà Nội đi, có ngƣời giúp cho đƣợc 5.000 đồng giao cho ông Dƣơng giữ cả.
Chúng tôi đi xe lửa với một toán lính Nhật vào Sài Gòn. Trƣớc hết đến nhà Hiến Binh Nhật
6 MỘT CƠN GIÓ BỤI
mất 12 ngày, rồi sau ở nhà của hiệu Ðại Nam công ty 19 ngày. Ðến ngày mùng một tháng
Giêng năm 1944 mới xuống tàu thủy sang Chiêu Nam Ðảo.
Sau khi chúng thôi vào Sài Gòn đƣợc tám chín ngày, xem báo biết là cái nhà khách
sạn Nhật Bản chúng tôi ở trƣớc, bị tàu bay Mỹ ném bom ngày mồng 9 tháng 12 năm 1943,
đúng vào giữa cái phòng chúng tôi ở. Ấy là trong khi nguy nan vẫn có trời tựa, chứ nếu chậm
lại độ mƣơi ngày thì cũng đi đời rồi.
Kể chi những nỗi lo sợ ở dọc đƣờng từ Hà Nội sang đến Chiêu Nam Ðảo. Lúc ấy
chúng tôi chỉ mong chóng đến nơi để tổ chức công việc làm của mình. Ngƣời ta thƣờng có cái
tính lạ, là đang giữa lúc chiến tranh nhƣ thế, mà vẫn tƣởng tƣợng Chiêu Nam Ðảo nhƣ
Singapour ngày trƣớc, rồi dự định sẽ mời hết thảy những chính khách lƣu vong ở ngoài về
đấy để cùng nhau mà trù tính mọi việc. Ngờ đâu khi đến Chiêu Nam Ðảo rồi, mới biết cái đảo
khi xƣa thịnh vƣợng bao nhiêu, thì bây giờ tiều tụy bấy nhiêu. ngoài cảng chỉ có lơ thơ vài
chiếc tàu vận tải của Nhật, ở trong Thành Thị, những nhà cửa phố xá không hƣ hỏng mấy
nhƣng sự buôn bán đình trệ, sự sinh hoạt mỗi ngày một nghèo ngặt, lúa gạo mỗi ngày một
khan, các thực phẩm đắt đỏ không thể tƣởng tƣợng đƣợc. Sự đi lại với các xứ ngoài, ngƣời
Nhật kiểm soát nghiêm mật, thành ra không giao thông đƣợc với đâu cả.
Lúc chúng tôi ở Sài Gòn, đã biết có hai chính khách Việt Nam ở Nam Bộ đã sang bên
ấy, cho nên khi tàu ghé vào bến chúng tôi cứ rƣớn cổ để trông xem có ai là ngƣời Việt Nam ra
đón mình không. Trông chẳng thấy ai đã buồn bực bao nhiêu, lại thấy mấy ngƣời Nhật đƣa
chúng tôi đi giữa cái thái độ bí mật. Hỏi họ đƣa chúng tôi đến chỗ nào, họ cũng không nói
năng gì. Họ đƣa mình đến đâu cũng chẳng biết, trong bụng chỉ lo họ đem chúng tôi vào nhà
Hiến Binh nhƣ ở Sài Gòn thì cực quá. Thôi thì đã liều thì liều cho đến cùng.
Sau khi qua chỗ nọ chỗ kia rồi, ngƣời Nhật mới đem chúng tôi về khách sạn ‘’Quốc Tế
Phú Sĩ binh trạm’’ ở con Đƣờng Grame Road. Ðến đấy đƣợc một sự vui mừng trƣớc tiên là sự
gặp bạn đồng chí Ðặng Văn Ký và Trần Văn Ân đã nghe nói từ trƣớc. Ði ra chỗ xa lạ, tiếng
tăm không biết mà gặp đƣợc ngƣời cùng xứ sở chuyện trò vui vẻ kể sao xiết.
Lúc đầu còn hứng thú đi xem đây xem đó, và gặp mấy ngƣời Việt Nam sang làm việc,
hoặc buôn bán hay làm thuyền thợ, rồi vì sự chiến tranh mà mắc nghẽn bên ấy. Ai nấy đều vui
mừng đón mời. Gặp nhau nhƣ thế làm cho chúng tôi khuây khỏa ít nhiều, song cũng không
làm cho chúng tôi quên đƣợc sự nhớ nhà nhớ nƣớc.
Chiêu Nam Ðảo là Nhật đặt ra để gọi tên Đảo Singapoure (Làng Sƣ Tử) sau khi quân
Nhật đã chiếm đƣợc cả Bán Đảo Mã Lai. Ðảo ấy có cái Hải Cảng rất hiểm yếu ở giữa đƣờng
hải đạo từ Tây phƣơng sang các xứ bên Thái Bình Dƣơng. Dân cƣ ở đảo ấy có đến 75% là
ngƣời Trung Hoa, còn lại là ngƣời Mã Lai, ngƣời Ấn Ðộ và ngƣời Nhật.
Việc điều khiển, phòng bị và cai trị trƣớc đã ở tay ngƣời Anh, sau ở cả ngƣời Nhật.
Việc buôn bán và những công nghệ phần nhiều ở tay ngƣời Trung Hoa, còn ngƣời bản xứ chỉ
làm những nghề nhỏ mọn nhƣ chài lƣới và trồng trọt rau khoai phía ngoài Thành Thị. Phố xá
trong Thành Thị chia làm hai khu: Một khu là nơi bình thời buôn bán phồn thịnh có nhà cửa
rộng lớn, ngƣời đông đúc, chỉ ở gần bến tàu và ven bờ biển, một khu ở phía trong có đƣờng
xá sạch sẽ, hai bên có những biệt thự của những phú thƣơng ngƣời Anh hay ngƣời Tàu.
Những biệt thự ấy thƣờng làm ở sƣờn đồi có cây cối sầm uất và vƣờn tƣợc đẹp đẽ. Ngoài một
vài nơi có phong cảnh khả quan, còn là những nơi buôn bán và ăn chơi chứ không có di tích
gì đáng xem.
Từ khi chúng tôi vào ở khách sạn Nhật Bản ở Hà Nội cho đến khi sang tới Chiêu Nam
Ðảo, trong óc chúng tôi tính toán dự định bao nhiêu công việc phải làm, nào báo chí, nào ủy
ban này ủy ban nọ. Hễ lúc nào trong óc nẩy ra một ý tƣởng gì, thì tƣởng nhƣ thấy sự thực đã
hiện ra trƣớc mặt rồi. Ðến khi trông rõ sự thực, thì bao nhiêu mộng tƣởng của mình vẫn ngấm
ngầm vuốt ve, lại biến đi đâu mất cả.
7 MỘT CƠN GIÓ BỤI
Ở Chiêu Nam Ðảo hơn một tháng chẳng thấy gì khác, sáng nhƣ chiều, bốn ngƣời lủi
thủi với nhau. Những ngƣời mà Nhật hứa hẹn sẽ đƣa ra, cũng chẳng thấy ai, nỗi chán nản
ngày một tăng thêm, nghĩ mình mắc vào cái cạm không sao gỡ đƣợc.
Về đƣờng vật chất, thì trƣớc bốn chúng tôi ở hai buồng lớn trong căn nhà hai tầng lên
xuống dễ dàng. Từ tháng Tƣ dƣơng lịch trở đi, chủ khách sạn bảo chúng tôi dọn sang nhà lớn
ở từng thứ năm, thang máy chỉ chạy có giờ mà thƣờng lại hƣ hỏng, thành ra phần thì nóng nực
phần thì trèo thang nhọc mệt phần thì thấy công việc chẳng có gì làm, sự ăn uống lúc đầu
ngày ba bữa còn đƣợc sung túc, sau dần thiếu gạo, thiếu đồ ăn, có khi trong ba bữa phải hai
bữa ăn mì bột sắn nấu với nƣới sôi.
Sự ăn uống thiếu thốn, hoàn cảnh đìu hiu, tâm tình sầu muộn, lại ngày lên thang xuống
thang nhọc mệt, chẳng bao lâu tôi mắc bệnh máu bốc lên đầu. Thuốc thang lại không có, chỉ
có mấy ngày lấy bớt máu ra một lần. Thầy thuốc nhà binh Nhật chữa mãi không khỏi, tôi phải
chữa thầy thuốc ngoài. Có câu chuyện tự nhiên mà thành ra buồn cƣời: Tôi đến nhà Y Sĩ
ngƣời Trung Hoa. Ông xem xong rồi bảo tôi về ăn ít cơm và rau. Ông nói thế, thật là đúng
phép, nhƣng cơm đã không có đủ ăn, còn rau thì tìm đâu ra. Thôi thì việc sống thác phó mặc
trời xanh ta cứ ‘’cƣ dị dĩ sĩ mệnh’’. Ấy là trong bụng tôi nghĩ nhƣ vậy, rồi ngày ngày tôi lấy
Ðƣờng thi dịch ra Việt thi để làm việc tiêu khiển.
Bệnh tôi chƣa khỏi thì đến lƣợt ông Dƣơng Bá Trạc bắt đầu đau. Trƣớc thì mỗi khi tôi
có cơn chóng mặt, ông trông nom thuốc thang, sau dần ông thấy trong ngƣời mỏi mệt, và một
đôi khi có ho năm ba tiếng. Tôi hỏi ông nói không việc gì. Tôi tin ở lời ông biết thuốc, và
thƣờng ai đau yếu ông vẫn bốc thuốc cho ngƣời ta. Ông vẫn gƣợng đi chơi, hoặc ngồi dịch
Ðƣờng Thi với tôi, cho nên ai cũng tƣởng là bệnh xoàng.
Chúng tôi thấy từ năm 1944 trở đi, quân Nhật đánh ở các nơi thƣờng cứ bại trận, ở
Chiêu Nam Ðảo lại là nơi chiến địa, lƣơng thực cạn khô, mà ở bên Xiêm thì gạo thóc nhiều và
nhiều ngƣời Việt Nam ở bên ấy. Ông Dƣơng bàn với tôi rằng: ‘’Đây có nhiều điều nguy hiểm,
chi bằng ta xin ngƣời Nhật cho chúng ta về Băng Cốc để dù xảy ra việc bất ngờ gì, ta còn có
chỗ lui’’. Chúng tôi liền làm cái thƣ xin quân đội Nhật cho về Băng Cốc.
Thƣ gửi đi đƣợc mấy ngày, bấy giờ vào khoảng tháng Chín dƣơng lịch, chủ khách sạn
không hiểu duyên cớ gì lại bảo chúng tôi dọn về ở hai cái buồng cũ rộng rãi và mát mẻ hơn.
Một hôm ông Dƣơng đang ngồi dịch thơ với tôi, tự nhiên thấy ông lên cơn nấc. Nấc mãi
không thôi, uống thuốc gì cũng không khỏi. Chúng tôi khuyên ông nên đi đến thầy thuốc nhà
binh Nhật xem rõ bệnh tình ra sao. Ông cho là bệnh thƣờng, không chịu đi. Sau cơn nấc cứ
luôn mãi cả ngày và đêm, nhọc mệt vô cùng, ông mới chịu đi đến bệnh viện cho thầy thuốc
xem.
Thầy thuốc ở bệnh viện đem chiếu điện xem phổi, thì ra ông mắc bệnh phế nham, là
bệnh ung thƣ ở trong phổi. Ngƣời Nhật bảo ông phải vào nằm bệnh viện, ông không muốn
vào, nói rằng: Sống chết có mệnh, nay vào bệnh viện ngôn ngữ không biết, có nhiều sự bất
tiện. Ông Trần Văn Ân nói: ‘’Cụ cứ vào, tôi vào bệnh viện ở với cụ’’. Trong bốn ngƣời chúng
tôi, có ông Ân biết ít nhiều tiếng Anh và tiếng Nhật. Chúng tôi nói mãi, ông Dƣơng mới chịu
vào bệnh viện.
Ðịnh đến ba giờ chiều ngày mồng 5 tháng Một dƣơng lịch thì Tƣ Lệnh Bộ Nhật Bản
cho xe đến đƣa ông Dƣơng vào bệnh viện nhà binh. Bữa cơm trƣa hôm ấy ông Dƣơng với tôi
đi ăn cơm, bữa ăn chỉ có mỗi ngƣời một bát mì làm bằng bột sắn. Tôi nuốt không trôi, phần
thì thƣơng bạn, phần thì ngậm ngùi về số phận. Lúc mới đi tuy có nhiều điều cực khổ, nhƣng
lòng còn chứa nhiều hy vọng về công việc làm, thành ra vẫn hăng hái. Nay bao nhiêu hy vọng
ấy đã thành ra ngọn khói bay tan, lại nhớ những lúc đi đƣờng, đói no, lo sợ có nhau, giúp đỡ
lẫn nhau, bây giờ chẳng may tôi đau yếu chƣa khỏi mà bạn lại mắc phải cái bệnh nguy hiểm
tính mệnh chƣa biết ra sao. Hai ngƣời ngồi đối diện không nói năng gì mà tôi chắc rằng cũng
đồng một ý nghĩ nhƣ nhau thành ra trƣớc hai bát mì bột sắn, chỉ có bốn dòng lệ tuôn mƣa. Tôi
nói:
7 MỘT
- Bệnh bác tuy nặng, nhƣng chƣa đến nỗi thất vọng, bác chịu khó vào bệnh viện cho
ngƣời ta chữa, trời nào phụ lòng bác. Thỉnh thoảng tôi lại vào thăm bác.
Ông Dƣơng nói:
- Còn một ít tiền đây, bác giữ lấy phòng khi có việc gì mà tiêu.
Từ khi ở Hà Nội đi ra đến bây giờ, tiền nong có bao nhiêu ông Dƣơng vẫn giữ tôi
không biết. Anh em dặn dò nhau xong thì xe hơi đến, ông Trần Văn Ân đƣa ông Dƣơng vào
bệnh viện.
Lúc ấy tôi vẫn nằm một mình trong phòng khách sạn, tình cảnh mới thê thảm làm sao,
lại nhớ bài thơ thất ngôn tứ tuyệt của Vi Trang đời Ðƣờng tôi vừa dịch xong:
Than thân xa lạ quê người
Lại cùng người cũ bên trời chia tay
Trăng tàn quán khách sớm mai
Tỉnh say ai cũng lệ rơi ướt đầm.
Khi ấy có một ngƣời Việt Nam khá giả ở Chiêu Nam Ðảo đã lâu, thƣờng đem xe hơi
đến đƣa tôi đi chơi cho đỡ buồn. Một hôm ăn cơm tối rồi ngƣời ấy đƣa tôi ra bờ biển ngồi
xem trăng lên, tôi thấy cảnh động lòng thơ, mới vịnh một bài ngũ ngôn rằng:
Chiêu Nam ngụ đất khách
Hà Bắc nhớ quê hương
Mặt biển lô nhô sóng
Góc trời chênh chếch gương
Thân già đau đã nản
Bạn cũ bệnh càng thương
Tạo hóa chơi khăm quá
Trung trinh cũng đoạn trường!
Tôi ít làm thơ, khi cao hứng làm một vài bài, nghe nó vẫn thật thà nhƣ thế, nên không
hay làm. Dù sao nó cũng biểu lộ đƣợc chút tâm tình sầu muộn lúc bấy giờ.
Khi mới vào bệnh viện, ngƣời Nhật để ông Dƣơng ở nhà bệnh viện chung, nằm buồng
riêng của các tƣớng hiệu, và đối đãi rất tử tế. Ông nằm ở đó đƣợc mấy ngày thì phải đem sang
nằm ở nhà bệnh truyền nhiễm. Bệnh nấc tuy có đỡ, nhƣng bệnh phổi thì mỗi ngày một nặng
thêm. Ngày 13 tháng một, tôi cùng mấy ngƣời bạn khác vào thăm ông Dƣơng vừa đúng ngày
ông phải dọn sang phòng riêng rộng rãi mát mẻ. Chúng tôi thấy ông phải sang phòng rộng
nhƣ thế ai nấy đều lo, nhƣng không dám nói ra. Dọn sang phòng mới rồi, chúng tôi ngồi chơi
một lúc, tôi hỏi ông Dƣơng rằng:
- Tôi nghe bác có ngƣời con làm Y Sĩ ở Sài Gòn tên là gì và địa chỉ ở đâu ?
Ông nói:
- Nó làm ở nhà thƣơng Chợ Quán gần Sài Gòn nhƣng không nên cho nó biết làm gì.
Tôi biên tên và địa chỉ ngƣời con ông Dƣơng để phòng khi có xảy ra sự gì chẳng may
tôi có thể báo tinh cho biết.
Khi đang bối rối lo buồn nhƣ thế, vào khoảng đầu tháng Chạp dƣơng lịch, Tƣ Lệnh Bộ
Nhật cho viên Trung Úy đến nói rằng có lệnh bên Ðông Dƣơng sang cho ông Dƣơng và tôi đi
Băng Cốc. Tôi nói ông Dƣơng đang đau nặng nằm ở bệnh viện, đi làm sao đƣợc. Ðể hỏi trong
bệnh viện xem ông Dƣơng có đi đƣợc không, thì cùng đi cả hai ngƣời. Nếu ông Dƣơng đi
không đƣợc, thì hãy đình việc ấy lại. Thế là chuyện đi Băng Cốc ao ƣớc mãi nay lại không
thành.
Ông Trần Văn Ân, từ ngày ông Dƣơng sang ở nhà bệnh truyền nhiễm thì không ở
trong bệnh viện nữa, chỉ ngày ngày vào thăm mà thôi. Mỗi lúc ông ở bệnh viện về cho chúng
tôi biết bệnh tình nguy lắm. Qua đến ngày mồng 10 tháng Chạp hồi 14 giờ rƣỡi, một ngƣời
lính ở Tƣ Lệnh Bộ Nhật đến tìm ông Ân, bảo ông phải vào ngay bệnh viện, ông Dƣơng nguy
lắm.
9 MỘT CƠN GIÓ BỤI
Nghe nói chúng tôi biết là tin dữ. Ông Trần Văn Ân và ông Ðặng Văn Ký đi vào bệnh
viện, tôi thì lên cơn chóng mặt, nằm quay ra giƣờng. Hai ngƣời vào đến nơi thì biết ông
Dƣơng đã mất từ lúc 12 giờ rƣỡi, giờ Nhật Bản tức là hồi 10 giờ rƣỡi thƣờng. Thế là xong
một đời ngƣời Chí Sĩ Việt Nam, đã lăn lộn trong cuộc cách mệnh mƣu sự độc lập cho nƣớc
nhà.
Ðộ hơn một tháng trƣớc, một hôm ngồi nói chuyện, ông Dƣơng nói:
- Tôi thƣờng không tin sự bói toán, nhƣng tôi nghiệm thấy bói Kiều lắm lúc hay lắm.
Khi xƣa tôi có đi thi Hƣơng, bói một quẻ, biết là đỗ, mà rồi đỗ thiệt. Sau phải đầy ra Côn Lôn,
lại một hôm bói một quẻ, đoán là sắp đƣợc về, cách mấy ngày quả đƣợc về thiệt.
Chúng tôi nói:
- Bây giờ ông thử bói một quẻ xem.
Ông nói:
- Ðể sáng mai.
Sáng ngày hôm sau, ông vui mừng bảo chúng tôi:
- Về, chúng ta sắp đƣợc về.
- Sao ông biết ?
- Tôi vừa bói một quẻ Kiều đƣợc hai câu nầy:
Việc nhà đã tạm thong dong,
Tinh kỳ dục dã đã mong độ về.
Theo cái nghĩa cái câu ấy là chúng ta sắp đƣợc về.
Thấy ông nói thế, ai nấy đều vui vẻ mừng rỡ lắm. Kể ra đối với ông Dƣơng thì không
đúng, mà đối với cả bọn chúng tôi thì chỉ cách có mấy tháng là đƣợc về cả. Việc tin hay
không tin ở quẻ bói là chuyện khác, đây tôi cốt lấy một chuyện cỏn con đó mà chứng thực cái
lòng mong mỏi của chúng tôi lúc ấy là ai cũng muốn chóng đƣợc về.
Trƣớc ba ngày khi ông sắp mất, ông có viết một bức thƣ rất dài bằng chữ Nho đƣa cho
Tƣ Lệnh Bộ Nhật, nói ông chết thì xin ngƣời Nhật cho hải táng, nghĩa là đem ném thây xuống
biển. Ðến khi mất rồi, Tƣ Lệnh Bộ Nhật cho ngƣời đến bảo tôi rằng: Lễ hải táng phải có tàu
bè mà nay đang lúc chiến tranh, tàu bè bận việc khác, rất không tiện. Vậy xin theo lễ nhà binh
Nhật làm lễ hỏa táng ông Dƣơng nhƣ một ngƣời chiến sĩ tử trận. Tôi nói rằng:
- Ông Dƣơng một đời vì nƣớc tranh đấu, tuy không tử trận cũng nhƣ tử trận. Nay nhà
binh Nhật đãi ông Dƣơng nhƣ thế, chúng tôi rất cảm tạ.
Sáng ngày 12 tháng Chạp, làm lễ hỏa táng ông Dƣơng Bá Trạc ở Chiêu Nam Ðảo, đến
chiều đem di hài đựng vào cái hộp, ngoài đề danh hiệu, rồi đƣa thờ tại Chùa Bản Nguyên Tự
của Nhật Bản. Ðịnh đến ngày 16 tháng Chạp tức là ngày mùng 2 tháng Một năm Giáp Thân
làm lễ cầu kinh ở tại Chùa, có gần hết thảy ngƣời dân Việt Nam ở tại Chiêu Nam Ðảo đến dự
lễ.
Riêng về phần tôi, thì thật là sầu thảm. Lúc đi thì hai ngƣời với nhau, nay một mình
tôi, lại đau yếu chƣa biết sau này ra sao.
Kể sao xiết nỗi thảm sầu.
Ðoạn trường ai có qua cầu mới hay.
10 MỘT CƠN GIÓ BỤI
CHƢƠNG III
ĐI BANKOK VÀ VỀ SÀI GÒN
Việc ông Dƣơng xong rồi tôi nghĩ ở lại Chiêu Nam Ðảo càng đau đớn thêm, tôi bèn
viết thƣ về Tƣ Lệnh Bộ Nhật ở Sài Gòn xin cho tôi và ông Ðặng Văn Ký đi về Băng Cốc còn
để ông Trần Văn Ân ở lại Chiêu Nam Ðảo.
Chúng tôi chờ mất 15 ngày mới đƣợc tin bên Ðông Dƣơng sang cho chúng tôi đi Băng
Cốc. Trƣớc định chờ có tàu bay thì đi ngay. Sau nói tàu bay không có phải đi xe lửa. Chúng
tôi nghĩ đi lối nào cũng đƣợc, cứ đi cho xong. Ngày khởi hành đã định là mùng 5 tháng Giêng
năm 1945, rồi lại lần lữa đến ngày 16 mới đi đƣợc.
Trƣa ngày 16, cơm xong thì xe hơi đến đƣa ra nhà trạm xe lửa, chờ đến 3 giờ chiều xe
mới chạy. Thảm cảnh của tôi là phải mang cái hộp đựng hài cốt của ông Dƣơng đi theo. Tôi
đau phải nằm trên những thùng hàng xếp trong những toa bọc sắt, nóng nhƣ cái lò đốt lửa.
Khổ thì khổ thật, nhƣng nghĩ đƣợc ra khỏi cái địa ngục Chiêu Nam Ðảo là mừng rồi. Vả lại
chúng tôi thấy những tƣớng hiệu của Nhật cũng đi nhƣ thế cả, thì mình cũng an ủi mà vui
lòng.
Một ngƣời Hạ Sĩ Quan và ba ngƣời lính Nhật đƣa chúng tôi đi, đều hết lòng trông
nom, đi đến đâu họ lo cơm nƣớc không thiếu thốn gì. Dọc đƣờng lại hay có báo động, mỗi khi
nhƣ vậy phải chạy nấp vào trong rừng dừa thành ra dự định trƣớc chỉ độ 4 ngày đến nơi, mà
chuyến chúng tôi đi phải đến 10 ngày.
Ðất Mã Lai từ Tân Gia Ba đến biên giới nƣớc Xiêm, thấy những Thành Thị ở dọc
đƣờng xe lửa khi xƣa rất phồn thịnh, còn ở thôn quê thấy dân cƣ rất lƣa thƣa, trông bộ nghèo
khổ lắm. Ðất Mã Lai phần nhiều là rừng hoang ít đồng ruộng, chỉ thấy có nhiều khu trồng cao
su và dừa. Có một điều lạ, là ở bên ta thấy nói khi quân Nhật đánh lấy đất Mã Lai có nhiều
chỗ bị tàn phá, thế mà dọc đƣờng chúng tôi không trông thấy vết chiến tranh đâu cả, chỉ trừ
những chỗ bị tàu bay Mỹ mới sang ném bom mà thôi. Thì ra quân Anh lúc đầu không chống
giữ gì mấy, chỉ đánh qua loa rồi rút lui.
Xe lửa đi đến chỗ cách Băng Cốc độ 200 cây số, có cái cầu lớn bị tàu bay Mỹ bắn vỡ
tan, xe lửa phải dừng lại rồi dỡ hàng hóa xuống để xe cam-nhong chở về Băng Cốc. Ði đến
chỗ ấy, ngƣời Đội và mấy ngƣời Nhật ở lại, để một Trung Úy đƣa chúng tôi đi. Ðến trƣa ngày
24 tháng Giêng thì đến. Xe cam nhong đƣa chúng tôi đến Tƣ Lệnh Bộ Nhật ở Xiêm. Chúng
tôi vào đấy, ngồi uống chén nƣớc, rồi có ngƣời Nhật đi xe hơi khác đƣa chúng tôi đến nhà
riêng ở ngoại ô kinh thành.
Cái nhà riêng ấy rộng rãi, mát mẻ, và đã có hai ngƣời con của ông Cƣờng Ðể là Tráng
Liệt và Tráng Cử ở bên Ðông Dƣơng sang ở đấy từ trƣớc với một Sĩ Quan Nhật. Từ khi
chúng tôi về ở đấy, ăn uống đầy đủ, khác hẳn với cảnh ở Chiêu Nam Ðảo. Sau lại có ông
Nguyễn Văn Sâm là một chính khách Việt Nam cũng chạy sang ở Băng Cốc, ngày ngày đi lại
chơi với chúng tôi.
Cái hộp đựng di hài của ông Dƣơng Bá Trạc thì để trong phòng ngày đêm hƣơng đèn
thờ phụng. Song đƣợc độ chừng mƣơi ngày, ngƣời Trung Úy ở với chúng tôi về Sài Gòn. Tôi
nghĩ mình ở đây chƣa biết ra thế nào, chi bằng nhờ ngƣời Nhật ấy đem hài cốt của ông Dƣơng
về Sài Gòn, rồi sẽ giao lại cho con ông ấy ở Chợ Quán để chôn tạm chỗ nào đó, sau này sẽ
hay. Tôi ngỏ lời với ngƣời Trung Úy Nhật, ông ấy vui lòng nhận giúp ngay. Thế là việc ông
Dƣơng tạm yên.
Khi chúng tôi còn ở Chiêu Nam Ðảo định xin đi Băng Cốc, ông Dƣơng Bá Trạc nói
ông có hai ngƣời bạn đồng chí ngƣời Bắc là ông Vũ Mẫn Kiến, chủ một đồn điền lớn, và ông
Phạm Ðình Ðối đi tu làm Sƣ coi một cái Chùa. Ðến Băng Cốc, tôi liền nhờ ông Sâm đi tìm
hai ngƣời ấy để gặp nói chuyện. Ðƣợc mấy ngày, ông Sâm đƣa tôi đến một tiệm trà gặp ông
Vũ Mẫn Kiến. Ông là ngƣời trạc ngoài 60 tuổi. Ngồi nói chuyện mới rõ ông không phải là chủ
đồn điền nhƣng có thuê đƣợc mƣơi mẫu ruộng để vợ con lần hồi làm ăn. Tôi trông ông Vũ
Mẫn Kiến giống ông lão nhà quê ta. Ông nói có theo ông Cƣờng Ðể và ông Phan Bội Châu ra
11 MỘT CƠN GIÓ BỤI
ngoài, rồi sau về Xiêm tìm cách sinh nhai. Nói đến việc chính trị thì ông chẳng có ý kiến gì.
Hỏi tin ông Phạm Ðình Ðối thì nói ông ấy đi tu ở một Chùa và nay đã mất rồi.
Vậy mà ở xa nghe nói, tƣởng là các ông ấy có tổ chức, có thế lực, kỳ thực chẳng có gì
đáng kể. Cũng nhƣ là sau tôi thấy những ngƣời cách mệnh Việt Nam ta ở bên Tàu, nghe tuyên
truyền thì tƣởng là họ có cơ sở chắc chắn, lúc biết rõ sự thực, thật là buồn. Tôi kể câu chuyện
ra đây cốt để ngƣời ta biết rõ sự thực, đừng có nghe nhảm tin lầm. Mình là ngƣời một nƣớc
hèn yếu, ra ngoài không biết nƣơng tựa vào đâu, thành ra thƣờng hay bị cực khổ mà không
làm đƣợc việc gì ra trò.
Thành Băng Cốc, xƣa kia thƣờng gọi là Thành Vọng-Các là kinh đô của nƣớc Xiêm,
một Thành Thị rất lớn, có thể lớn gấp năm gấp bảy lần Hà Nội, dân cƣ rất trù mật có đủ các
thứ ngƣời, nhƣng phần nhiều là ngƣời Tàu ở lâu đã nhập tịch nƣớc Xiêm. Hạng ngƣời ấy rất
hoạt động về đƣờng kinh tế và chính trị.
Trừ khu nhà Vua, các cung điện làm theo lối cổ, nhà một tầng, mái dốc, nóc nhọn, có
các kiểu trang sức đặc biệt của Xiêm. Còn phố xá ở ngoài thành nhà Vua trông giống nhƣ
Thành Quảng Châu hay Thành Thƣợng Hải bên Tàu.
Cả nƣớc Xiêm, hình nhƣ chỉ ở Kinh Đô là có sự sinh hoạt rất náo nhiệt mà thôi, ngoài
ra ở vùng thôn quê, theo dọc đƣờng xe lửa đi từ Tân Gia Ba đến Băng Cốc, không thấy có
Thành Thị lớn nào cả. Ði đến đâu cũng thấy rặt những đồng áng mênh mông cùng những
ruộng vƣờn và rừng cây. Thỉnh thoảng thấy những hàng dừa lƣa thƣa với những đàn trâu ở
ruộng, hoặc ở nơi ven rừng cây thì thấy năm bảy con trâu kéo gỗ.
Ngƣời Xiêm cùng một nòi giống với ngƣời Tàu, tiếng nói cũng hơi giống nhau. Vì
ngƣời Xiêm và ngƣời Tàu xƣa kia ở mé tây Tỉnh Vân Nam và mé Đông Tây Tạng, đã từng
lập thành nƣớc Nam Chiếu vào khoảng đệ thất đệ bát thế kỷ. Sau vì ngƣời Tàu xâm lăng mới
theo sông Cửu Long xuống miền Nam, lập ra các bộ lạc ở xứ Tàu và nƣớc Xiêm ngày nay.
Tính ngƣời Xiêm cũng gần nhƣ ngƣời Tàu, đàn ông ƣa hoạt động lắm, làm gì đƣợc đủ ăn rồi
thì thích chơi bời, cờ bạc chớ ít cố gắng làm lụng. Gần hầu hết dân trong nƣớc theo Phật Giáo
tiểu thặng nhƣ Cao Miên và Tàu.
Ở vùng thôn quê có nhiều ngƣời Xiêm gốc tích là ngƣời Việt Nam. Phần nhiều theo
Đạo Gia Tô rồi, vì xƣa bên ta có sự cấm đạo họ chạy sang bên Xiêm. Ðã mấy đời nay lập
thành làng thành ấp ở với nhau, giữ phong tục của ta và vẫn nói trọ trẹ tiếng Việt Nam, họ tự
xƣng là An Nam cũ. Những ngƣời Xiêm An Nam cũ ấy có đến ba bốn vạn ở rãi rác các miền
gần biên giới chớ không có mấy ngƣời ở Kinh Đô.
Hiện nay ở mé ngoại ô Thành Băng Cốc có một khu gọi là làng Gia Long, tức là chỗ
Chúa Nguyễn Phúc Ánh bị Tây Sơn đánh chạy sang trú ngụ ở đây. Chỗ ấy nay có cái Chùa và
có một pho tƣợng rất lớn để lộ thiên.
Vì chúng tôi sang Băng Cốc một cách bí mật, thƣờng phải ở trong nhà ít khi đi ra
ngoài, nên chỉ biết qua loa thế thôi.
Chúng tôi ở Băng Cốc, bốn ngƣời ở một nhà đang vui vẻ, đến ngày mùng 6 tháng hai
thì xảy ra một việc không ngờ, làm chúng tôi lại phải chạy vào bệnh viện nhà binh của Nhật.
Số là ông Nguyễn Văn Sâm từ khi ngƣời Nhật đem sang ở Băng Cốc, có tụ hợp những thiếu
niên Việt Nam chạy sang đó, lập thành một tổ chức tiểu công nghệ làm đinh để bán cho nhà
Ðại Nam công ty của ngƣời Nhật, lấy tiền chi dụng. Cái tiểu công nghệ ấy đang tiến hành, thì
có một thiếu niên Việt Nam tên là Tân, nhập tịch dân Xiêm, cũng làm đinh nhờ ông Sâm đem
bán hộ. Mỗi khi đến cuối tháng có tên Thuận đi lãnh tiền, rồi về của ai bao nhiêu thì đến lấy.
Lần cuối cùng số tiền của tên Tân có hơn ba vạn bạc, tên Thuận lĩnh món tiền đƣợc hơn bốn
vạn rồi mang cả trốn đi mất. Chuyện ấy, mấy hôm trƣớc đã thấy ông Sâm nói nhỏ cho chúng
tôi biết, nhƣng vẫn tƣởng là tên Thuận đi chơi đâu chƣa về, chứ nó không nỡ lấy tiền của cả
bọn. Ðến khi tên Tân đi tìm mãi không thấy tên Thuận, lại có ý ngờ cho ông Sâm đồng tình
với tên Thuận rồi đem dấu chỗ nào. Tên Tân thấy ông Sâm đang đi lại chỗ chúng tôi ở, nó
tƣởng là tên Thuận trốn vào đó mới đi trình Hiến Binh Xiêm đến bắt tên Thuận. Song cứ nhƣ
12 MỘT CƠN GIÓ BỤI
chúng tôi biết thì ông Sâm không có dính dáng gì đến việc tên Thuận lấy tiền trốn đi, mà tên
Thuận cũng không bao giờ đến nhà chúng tôi.
Chiều ngày mùng 6 tháng Hai, bốn chúng tôi với ông Sâm đang ngồi nói chuyện, có cả
viên Đại Úy Nhật ở nhà, thấy mấy ngƣời Hiến Binh Xiêm vào xin phép tìm tên Thuận. Viên
Đại Úy Nhật ra tiếp một lúc rồi thấy hai ngƣời Hiến Binh Xiêm và tên Tân vào chỗ chúng tôi
ngồi, nói đi tìm tên Thuận. Họ nói thế rồi đi ra.
Việc ấy xảy ra xong, chúng tôi có bảo viên Đại Úy Nhật rằng chúng tôi ở đây là phải
dấu kín mà nay cho Hiến Binh Xiêm vào trông thấy nhƣ thế, nhỡ có việc gì thì sao. Ông nên
đi đến Tƣ Lệnh Bộ mà nói rõ nhƣ thế. Viên Đại Úy Nhật ngồi nghĩ một lúc, rồi mặc quần áo
ra đi, nói đến 6 giờ về ăn cơm. Ðến bữa cơm chúng tôi ngồi chờ không thấy về. Mãi đến 9 giờ
tối mới thấy viên ấy về với ba ngƣời Hiến Binh Nhật đến canh nhà. Chúng tôi thấy thế bảo
nhau: Có một tí việc nhƣ thế làm gì mà phải cho lính đến canh nhà. Ðoạn đến giờ chúng tôi đi
ngủ.
Vào khoảng 2 giờ sáng ngày mùng bảy chúng tôi đang ngủ, chợt nghe tiếng xe hơi và
tiếng nói xì xào, không biết rõ việc gì. Một lát thấy viên Đại Úy ở với chúng tôi vào đánh thức
cả dậy, nói có sự nguy cấp, phải đi ngay. Hỏi đi đâu, viên ấy không nói. Ai nấy mắt nhắm mắt
mở vội vàng mặc quần áo, rồi lên xe hơi, đi một cách bí mật đến Sở Hiến Binh. Nghỉ ở đấy
đến 8 giờ tối, họ đem chúng tôi đến bệnh viện nhà binh của Nhật ở ngoại ô. Bấy giờ ngƣời
Nhật đem cả ông Sâm vào ở với chúng tôi trong một cái phòng khá rộng.
Từ đó, năm chúng tôi ở đấy cho đến khi về, không đƣợc đi ra ngoài phố nhƣ trƣớc.
Chúng tôi không hiểu tại sao ngƣời Nhật lại dùng cách phòng bị bí mật nhƣ thế. Chúng tôi ở
đấy với một đời sống tẻ ngắt, quanh quẩn trong phòng riêng, chiều chiều ra vƣờn dạo chơi
một lúc rồi lại về nằm, hễ có báo động tàu bay thì chạy ra chui xuống hố.
Ðến sáng ngày 10 tháng Ba năm 1945 đƣợc tin ngƣời Nhật đã đánh quân Pháp ở Ðông
Dƣơng. Chúng tôi lúc ấy chẳng nghĩ gì cả, chỉ mong ngƣời Nhật cho chúng tôi về nƣớc.
Nhƣng mãi chẳng thấy tinh tức gì khác. Chúng tôi thấy cách ngƣời Nhật đối đãi với
ngƣời bản xứ làm chúng tôi thất vọng. Ai cũng mong chóng đƣợc về nhà cho yên phận mà
thôi.
Vì cớ gì sau cuộc xung đột ở Lạng Sơn ngƣời Nhật đã vào đóng đô ở Ðông Dƣơng từ
cuối năm 1940 đến bây giờ, và đã đƣợc ngƣời Pháp giúp đỡ cho mọi sự tiện lợi mà lại đánh
quân Pháp ? Chúng tôi xét ra là lúc đầu theo kế hoạch của ngƣời Nhật muốn bắt ép ngƣời
Pháp ở Ðông Dƣơng phải hợp tác với họ để thu mọi điều tiện lợi về việc chiến tranh. Họ tính
rằng nếu lúc cuối cùng mà họ đƣợc thắng lợi, thì tình hình chính trị ở Ðông Dƣơng tự nhiên
sẽ giải quyết theo ý định của họ. Vì thế cho nên trong hơn bốn năm quân Nhật đóng ở Ðông
Dƣơng vẫn không khiêu khích gì với quân Pháp. Song từ khi quân Anh, Mỹ ở Thái Bình
Dƣơng đã tấn công lấy lại đƣợc các đảo mé ngoài biển và đất Phi Luật Tân, tình thế nƣớc
Nhật đã nguy ngập lắm rồi. Ngƣời Nhật lúc ấy phải tìm cách đề phòng quân Ðồng Minh có đổ
bộ lên Ðông Dƣơng chăng. Vả bấy giờ ngƣời Pháp ở Ðông Dƣơng ngấm ngầm tổ chức sự
kháng chiến để tiếp ứng quân Ðồng Minh. Ngƣời Nhật biết mƣu ấy, bèn quyết ý đánh quân
Pháp để thu quyền phòng giữ cả dãy đất Ðông Dƣơng là địa thế rất quan trọng về đƣờng hành
binh ở cả vùng Nam Á.
Quân Pháp lúc ấy cũng đã dự bị cả mọi đƣờng, nhƣng vì thế lực không đủ và lòng dân
bản xứ không theo Pháp, nên thành ra thất bại. Quân Nhật lại biết xếp đặt mọi việc chu đáo
hơn, nên việc tấn công của họ đƣợc thắng lợi chỉ trong khoảng mấy ngày toàn thể đất Ðông
Dƣơng vào tay họ.
Chúng tôi lúc ấy cứ chờ đợi ở Băng Cốc, chợt đến ngày 29 tháng Ba có một viên
Trung Úy ở Sài Gòn sang Băng Cốc, đến bảo chúng tôi rằng có tàu bay sang đón về. Sau hỏi
ra thì chỉ có một mình tôi về. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Sao chỉ có một mình tôi ?
Viên Trung Úy nói:
13 MỘT CƠN GIÓ BỤI
- Tƣ Lệnh Bộ ở Sài Gòn mời ông về hỏi việc gì về lịch sử.
Chiều hôm ấy Tƣ Lệnh Bộ Nhật ở Băng Cốc đặt tiệc đãi tất cả mấy ngƣời chúng tôi và
mới nói chuyện hôm mùng 7 tháng Hai trƣớc phải đƣa chúng tôi đến ở bệnh viện là vì có tin
đồn có thích khách định đến giết chúng tôi. Nghe nói thế chúng tôi cho là một sự tƣởng tƣợng
thôi, chứ chúng tôi có làm gì mà ngƣời ta phải dùng đến thủ đoạn ấy.
Tiệc xong về ngủ, sáng sớm dậy, đi ra trƣờng bay đến 9 giờ 15 máy bay cất cánh.
Mƣời ba giờ 15 tới trƣờng bay Tân Sơn Nhất rồi về Sài Gòn vào hàng cơm ăn cơm trƣa, chờ
đến giờ vào Tƣ Lệnh Bộ của Nhật gặp viên Đại Tá coi về việc chính trị. Ngồi nói chuyện một
lúc rồi sang gặp bên Trung Tƣớng Tham Mƣu Trƣởng của Bộ Tƣ Lệnh Nhật.
Trung Tƣớng nói:
- Ông Phạm Quỳnh và các ông Thƣợng Thƣ cũ đã từ chức cả rồi. Vua Bảo Ðại điện
mời mấy ngƣời này về Huế để hỏi ý kiến.
Trung Tƣớng đƣa tôi xem tờ giấy kê tên những ngƣời ấy là ông Hoàng Trọng Phu, Vũ
Ngọc Oánh, Trịnh Bá Bích, Hoàng Xuân Hãn, Cao Xuân Cẩm và tên tôi mà lại không thấy
tên ông Ngô Ðình Diệm. Tôi lấy làm lạ sao lại có tên tôi đứng vào đấy.
Tôi nói với Trung Tƣớng rằng:
- Tôi không có hoạt động gì, và không có phe đảng nào cả. Gọi tôi về Huế không có
ích lợi gì. Xin cho tôi ra Hà Nội thăm nhà và uống thuốc.
Lúc ấy tôi còn đau, ngƣời gầy ốm, chỉ mong về nhà yên nghỉ, dƣỡng bệnh.
Trung Tƣớng nói:
- Ðó là ý của Vua Bảo Ðại muốn hỏi ông về việc lập chính phủ mới, ông cứ ra Huế rồi
sẽ biết.
Tôi thấy trong những ngƣời gọi về Huế có tên ông Hoàng Xuân Hãn, tôi quen lâu, có
thể rõ sự tình, vả lại ra Huế rồi ra Hà Nội cũng một con đƣờng. Tôi bèn nhận lời ra Huế.
Ngồi nói chuyện với Trung Tƣớng và Đại Tá Nhật, có ngƣời Trung Úy Nhật thông ngôn bằng
tiếng Pháp, độ hơn một giờ về tình thế nƣớc Việt Nam. Tôi cứ thành thực nói thẳng, không
kiêng dè, vì tôi không có mƣu cầu gì thành ra trong lòng thản nhiên.
Trung Tƣớng hỏi tôi rằng:
- Ông có quen ai ở Sài Gòn về ở tạm vài ngày trƣớc khi đi ra Huế không ?
Tôi nói:
- Đây tôi không có quen ai. Khi tôi ở Hà Nội vào có đến ở nhà của Ðại Nam công ty,
nếu không có điều gì bất tiện, thì cho tôi ra ở đấy vài hôm.
Trung Tƣớng bảo Trung Úy đƣa tôi đến nhà Tùng Hạ, chủ nhà Ðại Nam công ty. Ðến
đấy gặp ông Tùng Hạ, nói tôi mới về và muốn phiền ông cho ở nhờ vài hôm. Ông ta nói:
- Trƣớc cửa nhà tôi có Đảng Quốc Xã Việt Nam, có cái phòng rộng ở trên lầu, cụ sang
nghỉ đấy tiện lắm.
Tôi hỏi thăm ông Ngô Ðình Diệm và ông Nguyễn Xuân Chữ là những ngƣời mấy
tháng trƣớc Nhật đã đƣa vào ở Chợ Lớn. Ông nói rằng:
- Ông Diệm về Vĩnh Long ở với anh. Ông Chữ thì về Hà Nội đƣợc vài hôm nay rồi.
Tôi nghĩ bụng ông Diệm và ông Chữ là hai ngƣời Tƣ Lệnh Bộ Nhật đã chú ý lâu ngày,
và các ông ấy lại có tổ chức và đảng phái, sao ngƣời Nhật lại không nói gì hết ? Ðang nghĩ
ngợi nhƣ thế, thì chợt thấy ông Ngô Ðình Diệm đến. Ấy là lần đầu tôi gặp mặt ông Diệm vì
trƣớc kia tôi chỉ nghe nói thôi chứ không bao giờ gặp.
Ông Diệm hỏi tôi:
- Cụ mới về đây à ? Cụ có biết tin gì không ?
Tôi đáp:
- Tôi mới về, chƣa biết gì cả, chắc có tin gì thì ông biết trƣớc tôi. Ngƣời Nhật lạ quá,
họ chẳng cho chúng tôi biết gì cả. Tôi vừa thấy trong Bộ Tƣ Lệnh nói ở Huế các Bộ Thƣợng
Thƣ đã từ chức rồi. Vua Bảo Ðại gọi ông Hoàng Trọng Phu vào bàn việc lập chính phủ mới.
- Thế à ? Sao ngƣời Nhật không cho tôi biết ?
13 MỘT CƠN GIÓ BỤI
Ngồi nói chuyện qua loa vài câu, rồi ông Diệm đứng dậy nói:
- Tôi phải vào Tƣ Lệnh Bộ có chút việc, sáng sớm mai tôi lại về Vĩnh Long.
Cho đến ngày nay, tôi vẫn chƣa hiểu rõ tại sao bọn ông Diệm là ngƣời của ông Cƣờng
Ðể ủy quyền cho tổ chức việc lập chính phủ khi có đảo chính ở Ðông Dƣơng, và lại có một số
ngƣời Nhật Bản ủng hộ mà chính phủ Nhật lại bỏ rơi. Chỉ có một cách giải thích cái thái độ
ấy là những ngƣời Nhật cầm quyền lúc đó, sau khi đánh quân Pháp rồi họ sợ đem ông Cƣờng
Ðể về có điều bất tiện, để Vua Bảo Ðại về đƣờng chính trị lại có lợi hơn. Ðã không dùng quân
cờ Cƣờng Ðể thì tất nhiên phải để bọn ông Diệm ra ngoài cuộc. Ðó là theo ý tôi hiểu, còn lẽ
gì khác nữa, tôi không biết.
Tôi ở lại Sài Gòn ba ngày, biết có ông Cử Bùi Khải, anh nhà tôi, nhƣng tôi quên mất
địa chỉ. Ði tìm ngƣời hỏi thăm đến nhà Luật Sƣ Trịnh Ðình Thảo là ngƣời Bắc hỏi xem có
biết nhà ông Cử ở đâu. Ông Thảo hết lòng tử tế đánh xe hơi đƣa tôi đi tìm. Tìm đƣợc nhà ông
Cử lại gặp cả cậu Bùi Nam và mấy ngƣời cháu ở đấy, thật vui vẻ vô cùng. Tôi nhờ cậu Nam
đi đánh điện về Hà Nội báo tin tôi đã về cho nhà tôi biết.
Từ hôm ở Băng Cốc về Sài Gòn, chiều nào viên Đại Úy ở Bộ Tƣ Lệnh Nhật cũng mời
đến nhà ông Tùng Hạ, chủ Ðại Nam công ty ăn cơm và nói chuyện, có khi nói chuyện đến
một hai giờ khuya. Mấy ngày nhƣ thế đến chiều hôm mùng 2 tháng Tƣ, Đại Úy đƣa tôi ra xe
lửa còn ngồi nói chuyện đến lúc xe chạy.
15 MỘT CƠN GIÓ BỤI
CHƢƠNG IV
RA HUẾ LẬP CHÍNH PHỦ
Sự đi từ Sài Gòn ra Huế, Tƣ Lệnh Bộ Nhật nói rằng tôi đau đầu và nhiều tuổi, đi tàu
bay không đƣợc, vì phải bay cao, để đi xe lửa tiện hơn. Tôi bảo đi cách nào cũng đƣợc, miễn
là đi đƣợc mà thôi. Xe lửa lúc bấy giờ chỉ có những toa hạng ba và hạng tƣ, chứ không có
những toa hạng nhất và hạng nhì nữa. Song ngƣời Nhật lấy một toa hạng nhất cũ để hai cái
ghế dài cho tôi đi với viên Thiếu Úy và một ngƣời Nhật làm thông ngôn tiếng Việt Nam.
Khi xe lửa nghỉ ở Nha Trang, tôi ghé vào nhà ông Ðặng Phúc Thông coi xe lửa vùng ấy, và ăn
cơm ở đấy. Tôi vào đấy là cốt hỏi tin tức nhà vì bà Thông là bạn với nhà tôi. Ðến sáng ngày
mùng 5 tháng Tƣ, vào hồi 10 giờ rƣỡi thì tới Huế.
Xe lửa vừa đậu xong, thấy một ngƣời Nhật ra đón, xƣng tên là Urabé, làm Lãnh Sự
Nhật ở Huế, rồi về cả nhà ông Yokohama, Tối Cao Cố Vấn Nhật. Ðến tối gặp ông Hoàng
Xuân Hãn mừng quá, ngồi uống chén nƣớc và nói vài câu chuyện hàn huyên. Rồi tôi xin về
nhà ông Hãn nghỉ. Vừa về đến nhà chƣa đƣợc năm phút, thấy ông Urabé trở lại báo tin cho tôi
biết là vợ con tôi ở Hà Nội đã vào đến Huế rồi.
Tính ông Urabé rất vui vẻ, ông nói rằng:
- Kỳ quá, khi tôi trở về, đi qua Sở Hiến Binh Nhật, nhân có tí việc ghé vào đấy thấy có
một ngƣời con gái biết nói tiếng Nhật, nói định qua Xiêm tìm cha. Tôi hỏi thì chính là con cụ.
Tôi liền đến khách sạn đón bà cụ về nhà tôi.
Ngay lúc ấy con và rể tôi ở ngoài chạy vào, mừng rỡ khóc lóc.
Hỏi ra mới biết vợ và con tôi ở Hà Nội, nghe tin tôi ở Băng Cốc, thấy Nhật Bản đảo
chính rồi mà mãi không thấy tôi, mới mầy mò xin phép đi sang Xiêm tìm. Ði đến Huế nghe
ngƣời ta nói mang máng là tôi đã về Huế, nhân khi xe lửa nghỉ ở đấy đến tối mới chạy, bèn
vào Hiến Binh Nhật hỏi xem tin ấy có đúng không. Ấy là cùng một ngày không hẹn mà tôi và
vợ con tôi gặp nhau ở Huế.
Vua Bảo Ðại biết tin ấy, cho dọn cái nhà của viên Đại Úy Bon ở trƣớc trong thành cho
chúng tôi ngụ tạm. Lúc ấy tôi cũng chƣa biết rõ tình thế ra sao, chỉ đinh ninh chờ sau khi vào
yết kiến Vua Bảo Ðại rồi xin về Hà Nội dƣỡng bệnh.
Từ trƣớc tôi không biết Vua Bảo Ðại là ngƣời nhƣ thế nào. Vì trong thời bảo hộ của
nƣớc Pháp, hình nhƣ ngài chán nản không làm gì cả, chỉ săn bắn và tập thể thao. Hôm mùng 7
tháng Tƣ tôi vào yết kiến thấy có vẻ trang nghiêm và nói những điều rất đúng đắn.
Ngài nói:
- Trƣớc kia nƣớc Pháp giữ quyền bảo hộ nƣớc ta, nay đã không giữ đƣợc nƣớc cho ta,
để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ƣớc năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên
Bộ Thƣợng Thƣ đã tuyên hủy hiệp ƣớc ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trƣơng việc nƣớc và lập
chính phủ để đối phó với mọi việc.
Tôi tâu rằng:
- Việc lập chính phủ, ngài nên dùng những ngƣời đã dự định từ trƣớc, nhƣ Ngô Ðình
Diệm chẳng hạn, để có tổ chức sẵn sàng. Tôi nay thì phần già yếu bệnh tật, phần thì không có
đảng phái và không hoạt động về chính trị, tôi xin ngài cho tôi về nghỉ.
Ngài nói:
- Trẫm có điện thoại gọi cả Ngô Ðình Diệm về, sao không thấy về.
Tôi tâu:
- Khi tôi qua Sài Gòn, có gặp Ngô Ðình Diệm và ông ấy bảo không thấy ngƣời Nhật
nói gì cả. Vậy hoặc có sự gì sai lạc chăng. Ngài cho điện lần nữa gọi ông ấy về. Còn tôi thì
xin ngài cho ra Bắc.
Ngài nói:
- Vậy ông hãy ở đây nghỉ ít lâu, xem thế nào rồi hãy ra Bắc.
Lúc ấy tôi mệt nhọc lắm, và có mấy ngƣời nhƣ bọn ông Hoàng Xuân Hãn đều bảo tôi
trở lại. Tôi chờ đến gần mƣời ngày. Cách độ ba bốn hôm tôi lại đi hỏi ông Tối Cao Cố Vấn
16 MỘT CƠN GIÓ BỤI
Nhật xem có tin gì về ông Diệm chƣa. Trƣớc thì Cố Vấn Nhật nói chƣa biết ông Diệm ở đâu,
sau nói ông Diệm đau chƣa về đƣợc. Ðó là lời Tối Cao Cố Vấn, chứ tự ông Diệm không có
điện riêng xác định lại.
Vua Bảo Ðại thấy tình thế kéo dài mãi cũng sốt ruột, triệu tôi vào bảo tôi chịu khó lập
chính phủ mới.
Ngài nói:
- Trƣớc kia ngƣời mình chƣa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chƣa phải độc lập hẳn, nhƣng
mình cũng phải tỏ ra có đủ tƣ cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì ngƣời Nhật bảo
mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nƣớc ta. Vậy ông nên vì
nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nƣớc.
Tôi thấy Vua Bảo Ðại thông minh và am hiểu tình thế, liền tâu rằng:
- Nếu vì quyền lợi riêng tôi không dám nhận chức gì cả, xong ngài nói vì nghĩa vụ đối
với nƣớc, thì dù sao tôi cũng cố hết sức. Vậy xin ngài cho tôi vài ngày để tôi tìm ngƣời, hễ có
thể đƣợc tôi xin tâu lại.
Tôi ra bàn với ông Hoàng Xuân Hãn để tìm ngƣời xứng đáng làm Bộ Trƣởng. Nguyên
tắc của tôi định trƣớc là lựa chọn những ngƣời có đủ hai điều kiện.
Một: Phải có đủ học thức và tƣ tƣởng về mặt chính trị.
Hai: Phải có đức hạnh chắc chắn để dân chúng kính phục.
Cách lựa chọn nhƣ thế cũng khó, vì từ lâu nay chỉ có những ngƣời mềm lƣng khéo thù
phụng mới đƣợc ngôi cao, quyền cả, còn những ngƣời ngay chính ẩn nấp ở đâu đâu, ít khi biết
đƣợc. Ngƣời xu danh trục lợi thì rất nhiều, nhƣng không phải là ngƣời đƣơng nổi những việc
trong thời kỳ khó khăn nhƣ ngày hôm nay.
Có một điều nên nói cho rõ, là trong khi tôi chọn ngƣời lập chính phủ lúc ấy, ngƣời
Nhật Bản không bao giờ hỏi tôi chọn ngƣời này ngƣời kia. Tôi đƣợc hoàn toàn tự chủ tìm lấy
ngƣời mà làm việc. Và tôi đã định từ trƣớc rằng nếu ngƣời Nhật can thiệp vào việc trong nƣớc
thì tôi thôi ngay, không làm nữa.
Ðến ngày cuối cùng tôi chọn đƣợc đủ ngƣời rồi kê rõ danh sách các Bộ Trƣởng nhƣ
sau:
Trần Trọng Kim, Giáo Sƣ, Nội Các Tổng Trƣởng.
Trần Ðình Nam, Y Sĩ, Nội Vụ Bộ Trƣởng.
Trần Văn Chƣơng, Luật Sƣ, Ngoại Giao Bộ Trƣởng
Trịnh Ðình Thảo, Luật Sƣ, Tƣ Pháp Bộ Trƣởng
Hoàng Xuân Hãn, Toán Học Thạc Sĩ, Giáo Dục và Mỹ Nghệ Bộ Trƣởng
Vũ Văn Hiền, Luật Sƣ, Tài Chánh Bộ Trƣởng
Phan Anh, Luật Sƣ, Thanh Niên Bộ Trƣởng
Lƣu Văn Lang, Kỹ Sƣ, Công Chính Bộ Trƣởng
Vũ Ngọc Anh, Y Khoa Bác Sĩ, Y Tế Bộ Trƣởng
Hồ Bá Khanh, Y Khoa Bác Sĩ, Kinh Tế Bộ Trƣởng
Nguyễn Hữu Thi, cựu Y Sĩ, Tiếp Tế Bộ Trƣởng.
Chừng mƣời giờ sáng ngày 17 tháng Tƣ năm 1945, tôi đem danh sách ấy vào trình
Vua Bảo Ðại. Vào đến nơi, tôi thấy ông Yokohama, Tối Cao Cố Vấn Nhật, đã ngồi đó rồi.
Ông thấy tôi vào liền hỏi:
- Cụ đã lập thành chính phủ rồi à ?
Tôi nói:
- Vâng, hôm nay tôi đem danh sách các Bộ Trƣởng vào tâu trình Hoàng Thƣợng để
ngài chuẩn y.
Tôi đệ trình Vua Bảo Ðại, ngài xem xong phán rằng:
- Ðƣợc.
Khi ấy ông Yokohama nói:
- Xin cho tôi xem là những ai.
17 MỘT CƠN GIÓ BỤI
Ông xem rồi, trả lại tôi và nói:
- Tôi chúc mừng cụ đã chọn đƣợc ngƣời rất đứng đắn.
Sự thực là thế, chứ không nhƣ ngƣời ta đã tƣởng tƣợng là ngƣời Nhật Bản bắt tôi phải
dùng những ngƣời của họ đã định trƣớc.
Sau khi lập xong chính phủ, họp Hội Đồng Chính Phủ, tôi muốn đặt chức Nội Các Phó
Tổng Trƣởng để phòng khi tôi nhọc mệt, hay đi đâu vắng có ngƣời thay tôi làm việc. Tôi xem
các ông Bộ Trƣởng lúc ấy trừ ông Lƣu Văn Lang ở Sài Gòn không ra nhận chức, có ông Trần
Văn Chƣơng, Bộ Trƣởng Bộ Ngoại Giao, là ngƣời nhiều tuổi hơn, tôi xin cử ông Chƣơng
xung chức ấy.
Cả Nội Các đều ƣng thuận. Việc ấy là tôi định, chứ không phải do ngƣời Nhật can
thiệp. Tôi nói rõ việc ấy là vì sau này tôi thấy có ngƣời nói: Ngƣời Nhật bắt tôi phải để ông
Chƣơng làm Nội Các Phó Tổng Trƣởng. Ðó cũng là một sự tƣởng lầm.
Khi tôi đứng ra lập chính phủ, không phải không hiểu tình thế rất khó của nƣớc Việt
Nam đối với nƣớc Pháp, và nƣớc Pháp với các nƣớc Ðồng Minh. Sự biến xảy ra ở nƣớc Việt
Nam, nguyên là một nƣớc có văn hóa có chế độ phân minh, nhân khi trong nƣớc suy nhƣợc,
ngƣời Pháp sang lấy võ lực bắt phải chịu cuộc bảo hộ của ngƣời Pháp. Dù có hiệp ƣớc của
triều đình Việt Nam đã ký với ngƣời Pháp, chẳng qua cũng chỉ là một tờ hiệp ƣớc cƣỡng bách
mà thôi. Và chính ngƣời Pháp về sau cũng đã không giữ đúng những điều ký trong hiệp ƣớc
ấy. Nay nƣớc Pháp thất bại, để ngƣời Nhật chiếm giữ mất cả quyền lợi, Vua Bảo Ðại đã đứng
lên tuyên bố độc lập thì nghĩa vụ của ngƣời Việt Nam là ai nấy đều phải cố sức làm việc giúp
nƣớc, rồi sau tình thế thay đổi thế nào sẽ có cuộc điều đình cho đúng công lý và đúng phong
trào hiện thời.
Theo lý tƣởng ấy, nên ngay từ lúc đầu trong lời tuyên bố của chính phủ, tôi đã nói
những công việc quốc dân phải lo để gầy lại nền tự chủ nƣớc nhà mà thôi, chứ không nói về
việc chiến tranh của nƣớc Nhật với các nƣớc Ðồng Minh, chủ ý muốn tránh sự ngƣời Nhật có
thể lôi kéo ngƣời mình vào cuộc chiến tranh của họ. Lúc chính phủ chúng tôi mới lập ra, bao
nhiêu chính quyền của ngƣời Pháp giữ trƣớc và việc cai trị ở các Tỉnh đều do viên Tối Cao
Cố Vấn Nhật tạm thời quyết định. Những văn thƣ và tờ trình báo, các cơ quan ở Tỉnh đều gửi
qua bên Phòng Tối Cao Cố Vấn.
Những dinh thự của các Bộ Trƣởng, Thƣợng Thƣ cũ đều chật hẹp, dột nát, dơ bẩn,
không ở và làm việc đƣợc. Vậy trƣớc hết, phải lo tìm nhà và các sở làm việc.
Khi còn chính phủ bảo hộ thì có hai chính phủ, mọi việc quan hệ đến chính trị trong
nƣớc thì do chính phủ bảo hộ định đoạt. Chính phủ Nam Triều có Vua và triều đình, nhƣng
chỉ đặt ra để thi hành những mệnh lệnh của chính phủ bảo hộ mà thôi, chứ không có quyền
hành gì cả. Nay phải hợp nhất cả hai chính phủ này, bắt các Quan ở các Tỉnh chỉ đƣợc trực
tiếp với chính phủ Việt Nam mà thôi, và cấm không cho gửi văn thƣ về Sở Tối Cao Cố Vấn
Nhật nữa.
May lúc đó đƣợc viên Tối Cao Cố Vấn Nhật là ông Yokohama, một ngƣời am hiểu
tình thế và nhã nhặn, cho nên mọi việc cũng giải quyết đƣợc dễ dàng.
Ðem lại sự thống nhất trong việc cai trị nhƣ thế mà cũng mất hơn một tháng mới xong.
Ấy là chỉ nói việc sửa đổi cai trị thôi, còn các cơ quan trọng yếu nhƣ công an, sở tuyên truyền
công văn hãy còn ở trong tay ngƣời Nhật cả.
Quan lại ở các Tỉnh, phần nhiều là những tham quan ô lại chỉ quen sự thi hành mệnh
lệnh của ngƣời Pháp, chứ không mấy ngƣời có đủ tƣ cách làm ngƣời công chức một nƣớc tự
chủ. Muốn thay đổi các Quan lại là một chuyện rất khó. Những ngƣời làm chính trị nói huyên
thuyên thì nhiều, song những ngƣời chín chắn biết suy nghĩ và biết cách đối lại với dân chúng
cho êm ái thì ít. Việc chính trị là một việc rất phức tạp, cần phải có nhiều lịch duyệt và tài cán
mới làm đƣợc. Nay muốn thay đổi các Quan lại, thì phải từ từ lựa chọn nhân viên cho xứng
đáng, chứ đem ngƣời mới làm việc lại dở hơn ngƣời cũ, thì chỉ làm rối việc chứ không có ích
gì. Tuy thế, nhƣng chỗ nào có viên Tỉnh Trƣởng bất lực lắm, chúng tôi cố tìm trong những
18 MỘT CƠN GIÓ BỤI
nhân vật mới, xem ai có thể làm đƣợc đem ra thay. Hãy làm thử nhƣ thế một vài nơi xem hiệu
quả thế nào. Nhƣng xét ra hiệu quả mong đợi cũng không đƣợc mỹ mãn lắm.
Chính sách của chúng tôi lúc bấy giờ, vì tình thế chƣa đƣợc vững chắc nên phải đi từ
từ, không làm điên đảo hết cả, sợ gây ra rối loạn.
Việc quan hệ nhất về đƣờng nội trị lúc ấy là phải lo sự vận tải để tiếp tế miền Bắc, dân
tình đói khổ ngƣời chết đói hàng ngàn hàng vạn. Vì vậy chúng tôi ra Bộ Tiếp Tế chuyên coi
việc vận tải thóc gạo trong Nam ra Bắc. Bộ ấy không đạt đƣợc mục đích của chính phủ vì sự
vận tải khó khăn quá, đƣờng xe lửa bị hƣ hỏng, thuyền bè đi ngoài bể bị tàu ngầm đánh và bị
cƣớp bóc mất cả.
Việc binh bị trong nƣớc là việc quan trọng đến vận mạng cả nƣớc, mà lúc ấy quân lính
và súng ống không có. Kinh Đô Huế có tất cả hơn một trăm lính Bảo An, tức lính khố xanh
cũ, và sáu bảy chục khẩu súng cũ đạn cũ, bắn mƣời phát thì năm sáu phát không nổ.
Các Tỉnh cũng vậy, mỗi Tỉnh có độ 50 lính Bảo An, các Phủ Huyện thì độ chừng vài
chục ngƣời. Việc phòng bị do quân Nhật đảm nhiệm hết. Vì lẽ đó và các lẽ khác nữa mà lúc
đầu chúng tôi không đặt Bộ Quốc Phòng. Một là trong khi quân Nhật đang đóng ở trong
nƣớc, nếu mình đặt Bộ Quốc Phòng thì chỉ có danh không có thực, và ngƣời Nhật có thể lợi
dụng bắt ngƣời mình đi đánh giặc với họ. Hai là trƣớc khi mình có đủ binh lính và binh khí, ta
hãy nên gây cái tinh thần binh bị, thì rồi quân đội mình mới có khí thế.
Nhiều ngƣời ở ngoài không hiểu ý chúng tôi buông lời bài xích rằng sao có chính phủ
mà không có Bộ Quốc Phòng. Học không biết rõ tình thế lúc bấy giờ bắt chúng tôi phải trù
tính mọi việc cho chu đáo, tránh làm những việc hớ hênh có hại cho dân cho nƣớc. Không có
Bộ Quốc Phòng, nhƣng lại có Bộ Thanh Niên, lập ra các đạo thanh niên tiền tuyến, để một
ngày kia thành những đội quân có tinh thần mạnh mẽ.
Nói về chƣơng trình chính trị của chính phủ lúc ấy, chúng tôi đã có chƣơng trình dự
định trƣớc. Theo ý tôi, bất cứ trong một chính thể nào, việc của chính phủ là phải lấy sự dân
sinh làm trọng, nghĩa là phải làm cho dân an cƣ lạc nghiệp, rồi tìm cách giáo hóa nâng cao
trình độ dân chúng về đƣờng tinh thần và đƣờng vật chất cho hợp thời để tiến thủ với các dân
tộc khác, mà vẫn giữ đƣợc đặc tính của mình. Song trong tình thế của nƣớc Việt Nam mới
bƣớc đầu đi vào con đƣờng tự chủ, có nhiều sự cản trở khó khăn, chúng tôi phải lo làm những
việc cần kíp có thể làm ngay đƣợc, nhƣ việc tiếp tế đã nói ở trên, việc mời các chính khách
còn phiêu lƣu nƣớc ngoài trở về nƣớc, và xóa bỏ những hình ảnh bất công để những ngƣời ái
quốc còn đang bị giam cầm trong các lao ngục có thể tùy tài ra tham dự việc kiến thiết quốc
gia. Chúng tôi lại muốn gây nuôi lòng hy sinh vì nƣớc mà dựng đài kỷ niệm ở các nơi đô thị
lớn để ghi những sự nghiệp của các bậc anh hùng chí sĩ đã quên mình vì nòi giống, vì tổ quốc
trong khoảng bảy tám mƣơi năm vừa qua.
Ðối với Quan lại cũ, có nhiều ngƣời đã quen thói tham nhũng, chúng tôi định sẽ tìm
cách trừng trị rất nghiêm. Nhƣng lúc đầu chúng tôi muốn mở rộng con đƣờng cải thiện để ai
biết hối quá cải tà qui chính, thì đƣợc yên ổn làm việc, cốt để gây lại lòng biết liêm sĩ của
ngƣời đã đi lầm đƣờng lạc lối. Những công việc ấy, chúng tôi đã khởi đầu làm cả.
Về đƣờng cải tổ chính thể, là những việc quan trọng, cần phải có thì giờ suy nghĩ kỹ.
Trƣớc hết chúng tôi lập ra những Tƣ Vấn Hội Nghị ở các địa phƣơng theo phƣơng pháp của
chúng tôi đã định, để chọn lấy những ngƣời lịch duyệt và có học thức ra giúp các Cơ Quan
Hành Chính địa phƣơng, lo việc cai trị trong Hạt. Những Tƣ Vấn Hội Nghị địa phƣơng ấy sẽ
chọn lấy những ngƣời xứng đáng lập thành một Tƣ Vấn Hội Nghị toàn quốc, giúp chính phủ
trong việc cải tổ quốc gia và thảo một dự án về Hiến Pháp, đợi đến khi có Quốc Hội lập hiến
sẽ đem ra thảo luận.
Ðó là chƣơng trình những việc chính phủ dự định để tùy tình thế và phƣơng tiện mà
thi hành. Nhƣng vì thời gian eo hẹp quá, nên chƣa thực hiện đƣợc.
18 MỘT CƠN GIÓ BỤI
Nƣớc Việt Nam đã là một nƣớc tự chủ thì phải có Quốc Kỳ và Quốc Ca. Bài Quốc Ca
thì từ trƣớc vẫn dùng bài ‘’Ðăng Ðàn’’ là bài ca rất cổ, mà âm điệu nghe nghiêm trang. Chúng
tôi nghĩ: Trƣớc khi có bài nào hay hơn và có nghĩa lý hơn thì hãy cứ dùng bài ấy.
Còn lá Quốc Kỳ, mỗi ngƣời bàn một cách, chúng tôi định đem hỏi mọi ngƣời trong
nƣớc và ai có ý kiến gì, thì vẽ kiểu gửi về. Có kiểu lá cờ vàng có quẻ ly ở giữa là có ý nghĩa
hơn cả. Chúng tôi định lấy kiểu ấy làm Quốc Kỳ.
Lá cờ vàng là từ xƣa nƣớc ta vẫn dùng. Trong sách Quốc Sử Diễn Ca nói khi bà Triệu
Ẩu nổi lên đánh quân Tàu, đã dùng lá cờ ấy khởi nghĩa, nên có câu rằng ‘’Ðầu voi phất ngọn
cờ vàng’’. Vậy lấy sắc cờ vàng là hợp với cái ý cách mệnh của tổ quốc, lấy dấu hiệu quẻ ly là
vì trong lối chữ tối cổ của ta có tám chữ viết bằng vạch liền (dƣơng) và những vạch đứt (âm)
để chỉ tám quẻ, chỉ bốn phƣơng chính và bốn phƣơng bàng, nói ở trong kinh dịch, mà quẻ ly
chủ phƣơng Nam. Chữ LY còn có nghĩa là lửa, là văn minh, là ánh sáng phóng ra bốn
phƣơng.
Lấy sắc vàng là hợp với lịch sử, lấy quẻ ly là hợp với vị trí nƣớc nhà lại có nghĩa chỉ
một nƣớc văn hiến nhƣ ta thƣờng tự xƣng. Nhƣ thế là lá cờ vàng quẻ ly có đủ các ý nghĩa.
Song có ngƣời nói: Cờ quẻ ly là một điềm xấu cho nên thất bại, vì ly là lìa. Ly là lìa là một
nghĩa khác chứ không phải nghĩa chữ ly là quẻ. Và việc làm của một chính phủ là cốt ở cái
nghĩa lý, chứ không phải sự tin nhảm vô ý thức.
Việc thất bại là vì tình thế chứ không phải vì lá cờ. Giả sử dùng lá cờ khác mà trong
hoàn cảnh lúc ấy có thể thay đổi đƣợc gì không ?
Việc chính trị ở Trung Bộ dần dần đã rõ rệt, nhƣng ở Bắc Bộ và Nam Bộ còn trong tay
ngƣời Nhật. Chính phủ trƣớc phải lo thu lại hết toàn thể nƣớc Việt Nam về một mối. Nƣớc
Việt Nam từ Bắc chí Nam vốn là một nƣớc duy nhất về lịch sử, về phong tục và về ngôn ngữ.
Tuy về địa dƣ thì hình thể nƣớc chạy dài hơn hai ngàn cây số, nhƣng tính cách duy nhất thật
rõ rệt, ít nƣớc nào trong thiên hạ đƣợc nhƣ thế. Sau vì có sự lấy thuộc địa và sự bảo hộ của
nƣớc Pháp, đem chia nƣớc làm ba đoạn là Nam kỳ, Trung kỳ và Bắc kỳ. Mỗi một kỳ có một
chính sách khác nhau nhƣ ba nƣớc vậy. Sự chia ngắt ra nhƣ thế là một lối chính trị dùng
phƣơng pháp ‘’chia ra để thống trị’’. Song sự chia ngắt ấy lấy áp bức mà đặt ra, chứ về
phƣơng diện ngƣời bản quốc thì chữ ‘’kỳ’’ chỉ có nghĩa là khu, xứ, bộ, phận, nhƣ ta nói: Xứ
Bắc, xứ Trung, xứ Nam mà thôi, không có nghĩa gì là một nƣớc. Ngƣời Pháp cũng biết thế
nên mới dựng tiếng tàu là Tông Kinh (Ðông Kinh) gọi Bắc kỳ, và dùng tiếng Cochinchine là
tiếng gì chẳng biết để gọi Nam kỳ cho ra vẻ ba nƣớc khác nhau. Nhƣng khi ai hỏi một ngƣời
Việt Nam, bất cứ ở Nam hay Bắc, là ngƣời nƣớc nào, thì ngƣời Việt Nam ấy tự nhiên đáp lại
rằng: ‘’Tôi là ngƣời An Nam’’. Tiếng An Nam là tiếng ngƣời ta đã quen dùng từ đời Lê thành
ra phổ thông hơn.
Vậy việc thu cả ba kỳ về quyền trung ƣơng để thống nhất đất nƣớc nhƣ khi chƣa bị sự
bảo hộ của nƣớc Pháp là việc rất trọng yếu của chính phủ tôi. Trong sự điều đình với ngƣời
Nhật để thu lại lãnh thổ nƣớc Việt Nam gặp nhiều sự khó khăn. Trƣớc hết ngƣời Nhật bằng
lòng trả đất Bắc Bộ cho chính phủ Việt Nam, song những đất thuộc ba thành: Hà Nội, Sài
Gòn, Ðà Nẵng và Nam Bộ là đất Vua Việt Nam ngày trƣớc đã ký kết cho nƣớc Pháp thì ngƣời
Nhật đòi tạm giữ đến khi nƣớc Việt Nam hoàn toàn độc lập sẽ trả sau.
Chính phủ Việt Nam viện lẽ quân Nhật đánh quân Pháp để giải phóng cho Việt Nam
và Vua Bảo Ðại đã tuyên bố bỏ hết những hiệp ƣớc đã ký với nƣớc Pháp, thì lẽ tất nhiên là
ngƣời Nhật phải trả toàn lãnh thổ cho Vua Việt Nam. Nay nếu ngƣời Nhật cứ giữ lấy những
đất ấy là trái với lời hứa hẹn trƣớc.
Trong khi còn đang điều đình về việc thu toàn lãnh thổ, chúng tôi đã định áp dụng dự
án của chúng tôi về đƣờng chính trị, là chính phủ trung ƣơng nhiếp thống hết cả những cơ
quan quan hệ đến cuộc chính trị chung cả nƣớc nhƣ quốc phòng, ngoại giao, tài chánh, giáo
dục v.v...Còn về đƣờng cai trị thì chia nƣớc ra mấy địa phƣơng, đại khái nhƣ Bắc Bộ Ðịa
Phƣơng, Trung Bộ Ðịa Phƣơng và Nam Bộ Ðịa Phƣơng. Mỗi địa phƣơng đƣợc quyền tự trị về
20 MỘT CƠN GIÓ BỤI
phƣơng diện cai trị và kinh tế. Các Cơ Quan Hành Chính các địa phƣơng do chính phủ trung
ƣơng chọn ngƣời bản xứ cử ra và có các nhân vật Hội Nghị kiểm duyệt. Khi còn chờ có hiến
pháp và sự tuyển cử phân minh, các Cơ Quan Hành Chính ở các địa phƣơng hãy tạm cử
những nhân vật xứng đáng ra xung chức địa phƣơng Tƣ Vấn Nghị Viên. Chúng tôi cho chính
sách địa phƣơng tự trị nhƣ thế có nhiều điều tiện lợi và hợp với tình thế từng xứ về đƣờng cai
trị và đƣờng kinh tế, mà không hại gì cho sự thống nhất của nƣớc nhà.
Khi ngƣời Nhật đã trả lại đất Bắc Bộ, chính phủ cử ông Phan Kế Toại, đã làm chức
Tổng Đốc và có tiếng là ngƣời thanh liêm hơn cả, ra xung chức Bắc Bộ Khâm Sai. Nhật trả
đất Bắc Bộ, nhƣng vẫn giữ những Thành Thị Hà Nội, Hải Phòng, Ðà Nẵng và xứ Nam Bộ.
Nhật lại giữ hết những cơ quan trọng yếu nhƣ Sở Công An, Sở Tuyên Truyền và các công sở
thuộc Phủ Toàn Quyền cũ của Pháp, nhƣ Nha Học Chính, Nha Tƣ Pháp, Sở Bƣu Điện, Sở
Công Chánh, Sở Tài Chính v.v...
Trong khi chúng tôi phải lo làm mọi việc và còn phải điều đình với ngƣời Nhật để thu
lại những lãnh thổ nƣớc nhà, thì ở Huế có ngƣời phát truyền đơn nói thế nọ thế kia, nhất là nói
ông Ngô Ðình Diệm không về là vì chƣa lấy lại đất Nam Bộ. Lại có một ngƣời Nhật nói ra
nói vào rằng: Trong Nội Các chỉ có những ngƣời chuyên môn chứ không có ngƣời chính trị.
Cái ý của bọn ấy là muốn đƣa những ngƣời thân với họ vào Nội Các. Song chúng tôi nghĩ:
Ngƣời làm việc nƣớc lúc ấy cần phải là những ngƣời ngay chính và có học thức, chứ không
cần những ngƣời xảo trá, xƣng danh trục lợi, gió chiều nào theo chiều nấy. Vì vậy thành ra có
nhiều chuyện mè nheo rất khó chịu.
Tôi phần bị nhọc mệt, phần thấy nhiều sự trắc trở đã mấy lần muốn từ chức về nghỉ.
Song nghĩ nƣớc mình mới lần đầu lập một chính phủ có quyền tự trị, công việc chƣa xong gì
cả mà bỏ về, thì đối với nghĩa vụ không trọn vẹn. Vả trƣớc khi lui bƣớc, tôi cần biết rõ sự
thực. Thà ra Hà Nội trực tiếp với viên Tổng Tƣ Lệnh Nhật, kiêm chức toàn quyền cũ nƣớc
Pháp, xem tình ý thế nào rồi sẽ liệu. Trƣớc tôi đã nhờ ông Trần Văn Chƣơng, Bộ Trƣởng Bộ
Ngoại Giao, ra Hà Nội điều đình mọi việc, nhƣng không xong. Tôi định phen này ra, nếu
công việc thực hiện đƣợc thì lấy ngay ba Thành Thị: Hà Nội, Hải Phòng, Ðà Nẵng và đất
Nam Bộ, thế là làm tròn nhiệm vụ thu đƣợc toàn lãnh thổ nƣớc Việt Nam. Nhƣợc bằng không
xong thì tôi về xin từ chức cũng không sao. Tôi nghĩ thế nên trƣớc khi đi đã nhờ ngƣời thuê
cho cái nhà ở làng Lại Thế gần Huế, để có thôi việc tôi ra nghỉ đây ít lâu trƣớc khi về Hà Nội.
Trong khi tôi dự định ra Hà Nội thì ở ngoài Hà Nội xảy ra việc ngƣời Nhật bắt bọn
thanh niên Việt Nam theo đảng Việt Minh chống Nhật.
Tôi cần phải ra ngay để hiểu rõ tình thế.
Ðảng Việt Minh là gì và do đâu mà ra ? Trƣớc thì ít ngƣời biết rõ căn nguyên, sau đi
đây đó xét hỏi kỹ càng mới biết rõ nguồn gốc. Thoạt đầu vào khoảng năm 1938 ở Bắc Việt đã
nghe nói có đảng Việt Minh hành động ở mạn Thƣợng Du, nhƣng lúc ấy ai cũng tƣởng là một
đảng cách mệnh mới nào đó nên không để ý đến mấy.
Nguyên từ khoảng 1925-1926 trở đi, ở Việt Nam đã có ngƣời nói đến chủ nghĩa cộng
sản. Lúc ấy có một thiếu niên tên Nguyễn Tất Thành, sinh năm 1894, con nhà thi lễ, quê làng
Kim Liên Huyện Nam Ðàn thuộc Tỉnh Nghệ An. Trƣớc học Trƣờng Trung Học ở Huế rồi bỏ
sang Pháp theo Xã Hội Ðảng, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Sau lại sang Nga vào đảng Cộng
Sản, đến khoảng 1929-1930 ông trở về gây phong trào cộng sản cách mệnh ở vùng Nghệ
Tĩnh. Lúc ấy chính phủ bảo hộ Pháp dùng võ lực đàn áp một cách tàn nhẫn. Việc ấy thất bại,
đảng cộng sản tuy phải im hơi lặng tiếng, nhƣng vẫn ngấm ngầm tuyên truyền trong đám dân
gian và thợ thuyền, theo đúng phƣơng pháp đã định ở Mạc Tƣ Khoa bên Nga.
Trong khoảng thời gian ấy, Nguyễn Ái Quốc lánh sang Hƣơng Cảng, bị ngƣời Anh
bắt. Ngƣời Pháp muốn đòi ngƣời Anh giao trả cho chính phủ Ðông Dƣơng, song theo tục lệ
Anh, ngƣời Anh không giao trả những ngƣời can phạm vào việc chính trị, vì vậy ông phải
giam ít lâu rồi đƣợc tha và bị đuổi ra khỏi Hƣơng Cảng.
21 MỘT CƠN GIÓ BỤI
Ông Nguyễn Ái Quốc sang Quảng Châu và phao tin rằng ông đã chết trong ngục khi
bị bắt ở Hƣơng Cảng, và lại đổi tên là Lý Thụy rồi chen lẫn với những ngƣời cách mệnh Việt
Nam ở bên Tàu. Vào khoảng 1936-1937 ông lập ra đảng cộng sản gọi là Việt Nam Ðộc Lập
Ðồng Minh, gọi tắt là Việt Minh, và cho ngƣời về hoạt động ở miền Thƣợng Du Bắc Việt. Vì
vậy thuở ấy ngƣời ta mới biết là có đảng Việt Minh.
Ðến cuối năm 1940 nhân khi quân Nhật Bản ở Quảng Tây đánh vào Lạng Sơn, những
ngƣời nhƣ bọn ông Trần Trung Lập trong đảng Việt Nam Quang Phục Hội của ông Phan Bội
Châu lập ra khi trƣớc, theo quân Nhật về đánh quân Pháp hồi tháng Chín năm 1940. Sau vì
ngƣời Nhật ký hiệp ƣớc với ngƣời Pháp rồi trả lại Thành Lạng Sơn cho ngƣời Pháp, ông Trần
Trung Lập bị quân Pháp bắt đƣợc đem xử tử. Toán quân phục quốc vỡ tan, có một số độ 700
ngƣời, trong số ấy có độ 40 nữ đảng viên theo ông Hoàng Lƣơng chạy sang Tàu.
Vậy các đảng của ngƣời Việt Nam ở bên Tàu vào khoảng năm 1942 trở đi, có Việt
Nam Phục Quốc Ðồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Ðảng và những ngƣời cách mệnh
không có đảng phái v.v...
Thuở ấy, chính phủ Trung Hoa thấy những đảng viên Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh
Hội hành động theo chủ nghĩa cộng sản, bèn xuống lệnh giải tán đảng ấy và bắt Lý Thụy giam
trong hang đá ở Liễu Châu, ủy cho Tƣớng Trƣơng Phát Khuê chủ trƣơng việc tập hợp các
đảng phái cách mệnh Việt Nam lập thành một đảng để hành động cho có hệ thống. Trƣơng
Phát Khuê giao cho ông Hoàng Lƣơng trù liệu việc ấy.
Ngày mùng 1 tháng Mƣời năm 1942, ông Hoàng Lƣơng chiêu tập ở Liễu Châu những
ngƣời trong các đảng phái hay không có đảng phái để lập ra một đảng duy nhất gọi là Việt
Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội, gồm đại biểu các đảng sau đây:
1) Việt Nam Phục Quốc Ðồng Minh Hội, có Hoàng Lƣơng và Hồ Học Lãm làm đại
biểu.
2) Việt Nam Quốc Dân Ðảng, có Vũ Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ làm đại biểu.
3) Vô đảng phái, có Trƣơng Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Trần Báo, Trƣơng Trung
Phụng làm đại biểu.
Các đại biểu trƣớc hết lập thành một ủy ban trừ bị do Nguyễn Hải Thần chủ tọa để xếp
đặt mọi việc.
Lúc ấy Lý Thụy còn phải giam, ủy ban trừ bị đứng ra bảo đảm với chính phủ Trung
Hoa, xin lĩnh ra để cùng làm việc. Theo lời một ngƣời Việt Nam có mặt trong Hội Nghị ấy đã
nói: Lý Thụy có kết nghĩa với một ngƣời cộng sản Tàu tên là Hầu Chí Minh, làm chức Thiếu
Tƣớng trong quân đội thuộc quyền chỉ huy của Trƣơng Phát Khuê. Khi ở nhà ngục ra, ông
muốn tỏ tình thân ái với bạn mới lấy tên là Hồ Chí Minh. Khi ông đƣợc tha ra, liền tuyên thệ
xin hết lòng trung thành với Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội mà làm việc.
Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội đã thành lập, đổi ủy ban trừ bị ra làm ủy ban
chấp hành. Khi ấy ông Hoàng Lƣơng vì có sự gì xích mích với chính phủ Trung Hoa nên bị
bắt đem về Trùng Khánh. Bởi vậy ủy ban chấp hành chỉ có những ngƣời này:
Trƣơng Bội Công, chủ tọa.
Trần Ðình Xuyên.
Nguyễn Hải Thần.
Vũ Hồng Khanh, ủy viên.
Bồ Xuân Luật.
Trƣơng Trung Phụng.
Nông Kính Du.
Hồ Chí Minh đƣợc cử làm hậu bổ ủy viên và Trần Báo làm Tổng cán sự.
Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội vừa thành lập chƣa đƣợc bao lâu thì đã có sự
bất hòa trong nhóm ủy viên, nên chủ tọa là Trƣơng Bội Công từ chức và bỏ về Vân Nam rồi
mất ở đấy. Hội cử ông Nguyễn Hải Thần lên làm chủ tọa.
22 MỘT CƠN GIÓ BỤI
Trong những ngƣời cách mệnh Việt Nam hoạt động bên Tàu thuở ấy, ta có thể biết
những ngƣời này:
Trƣơng Bội Công, ngƣời Thanh Hóa, có nghị lực và cƣơng quyết, trƣớc học Trƣờng
Võ Bị và làm đến chức Thiếu Tƣớng trong quân đội Tàu.
Nguyễn Hải Thần, chính tên là Vũ Hải Thu, ngƣời Tỉnh Hà Ðông. Ông là ngƣời lão
thực, trƣớc đã thi đỗ Tú Tài, thƣờng gọi ông Tú Ðại Từ. Khi ông Phan Bội Châu xƣớng lên
việc xuất dƣơng vào quãng năm 1905-1906, ông ra ngoài vào học Trƣờng Võ Bị Hoàng Phố
gần Quảng Châu. Ông quen biết Tôn Dật Tiên, Tƣởng Giới Thạch, Ngô Thiết Thành, Trần
Lập Phu v.v...Vì có sự quen biết ấy, nên khi ông Tƣởng Giới Thạch làm Giám Đốc Trƣờng
Hoàng Phố, có đƣa ông vào làm một chức Giáo Sƣ ở Trƣờng, dạy về chính trị, mỗi tháng
đƣợc sáu bảy chục tiền Tàu, lúc ấy cũng đủ ăn tiêu. Một năm ở Nam Ðịnh có cuộc xƣớng
danh khoa thi Hƣơng, Toàn Quyền Sarraut về chứng cuộc ấy, ông về ném quả tạc đạn định
giết viên Toàn Quyền. Nhƣng tạc đạn không nổ, ông chạy thoát, đổi tên là Nguyễn Cẩm
Giang. Một lần nữa sau cuộc chiến tranh 1914-1918 ông đem một toán quân thổ phỉ về đánh
Châu Ðà Long, ta thƣờng gọi là Châu Ðà Lùng thuộc Cao Bằng. Việc thất bại ông sang ở luôn
bên vùng Nam nƣớc Tàu và đổi tên là Nguyễn Hải Thần. Sự nghiệp cách mệnh của ông chứng
rõ trong bài thơ sau này, ông gửi cho tôi khi tôi ở Quảng Châu vào khoảng cuối năm 1946:
Bốn chục năm nay vị nước nòi
Nước nòi chưa mạnh, quyết chưa thôi
Ðà Long phất trận gươm ba tấc
Nam Ðịnh tương bom lửa một mồi
Cha đứa cắn gà toan cõng rắn
Mẹ thằng giày mã dám đem voi
Nào ai mãnh sĩ mưu thần đó
Góp sức đun tay để cứu đời
Vũ Hồng Khanh, tức là Giáo Giản, trƣớc làm Giáo Học ở một Trƣờng Tiểu Học Bắc
Việt, sau theo Nguyễn Thái Học vào Quốc Dân Ðảng khởi nghĩa ở Yên Bái, rồi chạy sang
Tàu ở bên Vân Nam.
Nguyễn Tƣờng Tam, có bằng khoa học Cử Nhân, trƣớc đứng chủ trƣơng báo Phong
Hóa rồi Ngày Nay ở Hà Nội và lập ra Đảng Ðại Việt Dân Chính. Ðến khi quân Nhật vào đóng
ở Ðông Dƣơng, vì sự hành động của bọn ông, ngƣời Pháp toan bắt, ông nhờ quân đội Nhật
đƣa sang ở Quảng Châu rồi sang Quảng Tây, nhập vào Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh
Hội.
Những ngƣời ấy tuy nói là đảng nọ phái kia, nhƣng kỳ thực không có sự tổ chức gì ra
trò. Bọn ông Hồ chí Minh biết nhƣ thế nên mới lợi dụng danh hiệu Việt Nam Cách Mệnh
Ðồng Minh Hội để che đậy công việc làm.
Ðảng Việt Minh cộng sản có tổ chức rất chu mật và theo đúng phƣơng pháp khoa học.
Trong khi ông Hồ chí Minh ở bên Tàu để chờ đợi thời cơ, ở trong nƣớc đâu đâu cũng có cán
bộ, ngấm ngầm hành động và tuyên truyền rất khôn khéo. Họ lợi dụng lòng ái quốc của dân
chúng mà tuyên truyền Việt Minh không phải là đảng cộng sản, chỉ là một mặt trận gồm tất cả
các đảng phái lấy lại độc lập cho nƣớc nhà, vậy nên từ Bắc chí Nam đâu cũng có ngƣời theo.
Cách hành động của họ thì bất cứ công sở hay tƣ sở, hễ đâu có một tổ chức làm việc là có
ngƣời của họ chen lấn vào, hoặc để tuyên truyền, hoặc để hoạt động theo chủ nghĩa họ. Ðảng
viên cộng sản lại biết giữ kỷ luật rất nghiêm và rất chịu khó làm việc. Xem nhƣ Hội Truyền
Bá Quốc Ngữ khi mới thành lập ở Hà Nội là có ngay những ngƣời cộng sản vào hội rồi, và
những ngƣời nhận việc đi dạy học rất chăm, không quản công lao gì cả. Một tổ chức có kỷ
luật và chịu khó làm việc nhƣ thế, làm gì mà không mạnh.
Sự tổ chức của đảng cộng sản đã mạnh và nhất là từ khi quân Nhật Bản vào đóng ở
Ðông Dƣơng, rồi xem hình nhƣ ngƣời Pháp lại ngấm ngầm dung túng họ, có ý để họ quấy
nhiễu quân Nhật may ra có xảy biến đổi gì chăng. Cho nên ngƣời ta thấy lúc ấy chính phủ bảo
23 MỘT CƠN GIÓ BỤI
hộ vẫn bắt bớ những ngƣời làm thuyền thợ theo cộng sản, song ngƣời cộng sản nào có chút
thế lực thì bắt rồi lại thả ra, hoặc dùng để làm việc với mình. Cái tình thế đảng cộng sản ở
trong nƣớc trƣớc khi có cuộc đảo chính của quân Nhật là thế.
Trong khi ấy ông Hồ chí Minh ở bên Tàu vẫn cộng tác với Việt Nam Cách Mệnh
Ðồng Minh Hội, không có tranh dành địa vị nhƣ những ngƣời khác, cứ làm việc của một đảng
viên có kỷ luật. Cái khôn khéo của ông lúc ấy không để lộ cho ai biết ông là lãnh tụ đảng cộng
sản Ðông Dƣơng.
Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội ở Liễu Châu đƣợc ít lâu rồi vì sự tấn công của
quân Nhật, hội phải dời về Bách Sắc và đặt thêm hai chi bộ, một chi bộ ở Côn Minh do Vũ
Hồng Khanh quản lý, và một chi bộ ở Tỉnh Quảng Tây do Trƣơng Trung Phụng quản lý.
Về khoảng cuối năm 1944, Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội lại dời về Tỉnh Quảng Tây
và cho ông Hồ chí Minh về Bách Sắc để trù liệu kế hoạch nhập Việt. Sau đó hội cho ông Hồ
chí Minh cùng 22 đảng viên phần nhiều là ngƣời trong đảng Phục Quốc về nƣớc để khởi sự
hành động. Trong số 22 ngƣời ấy có một nữ đảng viên tên là Ðỗ Thị Lạc là ngƣời sau có đứa
con gái với Hồ chí Minh. Về sau thấy ngƣời ta nói khi về đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng
viên trong 22 ngƣời ấy bị giết vì không chịu theo cộng sản.
Lúc đầu bọn ông Hồ chí Minh chia ra làm hai đoàn. Một đoàn có ông Ðặng Văn Ý,
cựu Trung Úy trong quân đội Pháp trƣớc về Lạng Sơn đánh lấy đồn Bảo Lạc, thuộc Hà Giang.
Một đoàn đi với Hồ chí Minh có Vũ Nam Long, sau thƣờng gọi là Tƣớng Nam Long, đánh
lấy đồn Ðồng Mu ở Sóc Giang thuộc Cao Bằng. Việc ấy xảy ra vào khoảng tháng Hai năm
1945.
Từ đó bọn ông Hồ chí Minh bỏ danh hiệu Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội mà
dùng danh hiệu cũ là Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh, tức Việt Minh, và dùng cờ đỏ sao vàng
của cộng sản. Rồi đến quảng đầu tháng Ba năm 1945 thì về đến vùng Văn Lãng, thuộc Thái
Nguyên giáp Tuyên Quang và lập trụ sở bí mật ở đó. Từ bấy giờ trở đi, đảng Việt Minh hành
động rất mạnh, nhƣng cái tên Hồ chí Minh vẫn giữ rất kín cho đến gần cuối tháng Tám, sau
khi cƣớp đƣợc chính quyền ở Bắc Bộ, ngƣời ta mới nghe nói.
Các chi bộ cộng sản ở Trung và Nam Bộ đã sẵn sàng đâu đấy cả rồi, song cứ phải giữ
bí mật, đợi khi có mệnh lệnh mới đƣợc ra mặt hành động. Bắc Bộ, một mặt họ sai những
ngƣời táo tợn đi đánh phá các nơi, hễ đâu có ai ra mặt chống họ, họ bắt đi hay giết chết, làm
cho dân chúng khiếp sợ. Một mặt họ cho ngƣời đi diễn thuyết và tuyên truyền rằng đảng Việt
Minh đã có các nƣớc Ðồng Minh là Tàu, Nga, Mỹ ủng hộ và giúp cho binh khí để đánh bọn
độc tài Pháp và Nhật. Họ lại nói rằng quân Việt Minh đã đánh lấy đƣợc mấy tỉnh ở mạn
Thƣợng Du Bắc Bộ rồi.
Vào khoảng tháng 5 năm 1945, ngƣời Nhật thấy Việt Minh có thế mạnh, tƣởng là một
đảng theo chủ nghĩa quốc gia, bèn cho ngƣời đi tìm cách điều đình. Ðến ngày mùng 9 tháng
Năm, hai ngƣời Nhật và một ngƣời Việt Nam làm thông ngôn lên đến Ký Phú gần Huyện Ðại
Từ thuộc Thái Nguyên, đều bị quân Việt Minh giết cả. Việt Minh lại sai ngƣời về ám sát mấy
ngƣời Sĩ Quan Nhật ở giữa Hà Nội và cho ngƣời đi đánh Phủ nọ Huyện kia. Các Quan Phủ
Huyện, ngƣời thì bị bắt, ngƣời thì chạy trốn, dân tình nôn nao cả lên. Những thanh niên Việt
Nam lúc ấy phần nhiều cũng theo Việt Minh và đi tuyên truyền rầm rĩ. Ngƣời Nhật thấy vậy
bèn ra lệnh bắt các thanh niên và những ngƣời họ ngờ theo Việt Minh đem giam và tra tấn rất
cực khổ.
Khi tôi đƣợc tin ngƣời Nhật bắt các thanh niên ở Hà Nội, lập tức tôi thu xếp ra Bắc.
Hôm sau tôi nói chuyện với ông Yokohama, Tối Cao Cố Vấn Nhật, rằng hai ngày nữa tôi ra
Hà Nội. Ông ấy bảo tôi:
- Cụ đang nhọc mệt ra Hà Nội làm gì, mọi việc dần dần rồi đâu ra đấy cả.
Tôi nói thật ý định của tôi, ông Yokohama không nói gì. Ðến sáng hôm sau ông nói
rằng:
- Nếu cụ đi Hà Nội, thì tôi cùng đi với cụ.
24 MỘT CƠN GIÓ BỤI
Tôi bảo đƣợc thế càng hay.
Tôi ra Hà Nội, cùng đi có các ông Hoàng Xuân Hãn Bộ Trƣởng Bộ Giáo Dục, ông Vũ
Văn Hiền Bộ Trƣởng Bộ Tài Chính, ông Phan Anh Bộ Trƣởng Bộ Y Tế, đề phòng khi điều
đình ổn thỏa, sẽ lấy lại các công sở.
Ði lúc bấy giờ rất khó khăn, ngày đêm tàu bay Mỹ sang đánh phá, phải đêm đi ngày
nghỉ. Ra đến Hà Nội đƣợc mấy ngày ông Vũ Ngọc Anh đi về Thái Bình thăm nhà và xem
những bệnh viện vùng ấy, rồi đến khi trở về gần Bần Yên Nhân, bị tàu bay Mỹ bắn chết.
Thế là trong Nội Các mất một ông Bộ Trƣởng rất tận tâm về việc nƣớc, và chúng tôi mất một
ngƣời bạn hòa nhã và trung thành.
Tôi đến Hà Nội hôm trƣớc, hôm sau đến gặp ông Tsuchi-Hashi Yuitsu, Tổng Tƣ Lệnh
Nhật, quyền chức Toàn Quyền của Pháp ở Ðông Dƣơng, rồi bắt đầu nói chuyện. Trong cuộc
nói chuyện chỉ có viên Tổng Tƣ Lệnh, viên Cố Vấn và tôi. Viên Tối Cao Cố Vấn phiên dịch
tiếng Việt ra tiếng Pháp. Nói câu nào, trƣớc khi phiên dịch ra tiếng Pháp hay tiếng Nhật, viên
ấy biên lấy những câu hỏi và những câu đáp lại.
Trƣớc hết tôi nói:
- Quân đội Nhật đã đánh quân đội Pháp và công nhiên hứa hẹn trả quyền tự chủ cho
nƣớc Việt Nam. Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự khó khăn của hoàn cảnh mà đứng ra
lập chính phủ. Tôi làm việc một lòng giúp nƣớc tôi, cũng nhƣ các ông lo việc giúp nƣớc Nhật,
thế mà thấy nhiều ngƣời nói nọ nói kia rất khó chịu. Nếu các ông cho tôi là ngƣời làm việc
cho nƣớc Nhật, việc ấy không phải là phận sự của tôi, tôi sẵn lòng xin lui.
Tổng Tƣ Lệnh Nhật nói:
- Bao giờ ngƣời Nhật cũng giữ lời hứa hẹn nên những việc nội trị trong nƣớc Việt
Nam là không can thiệp đến. Còn những việc chƣa giải quyết đƣợc là vì cần phải có thì giờ để
thu xếp cho ổn thỏa. Cụ đừng nghe ngƣời Nhật hay ngƣời Việt Nam nói nhảm không có căn
cứ gì. Vả tôi phụng mệnh Thiên Hoàng sang đây, việc gì cũng trách cứ ở tôi, cụ đừng ngại.
- Ngài đã nói thế, phận sự của chính phủ chúng tôi là phải thu lại mấy Thành Thị Hà
Nội, Hải Phòng, Ðà Nẵng và toàn hạt đất Nam Bộ cho nƣớc Việt Nam. Nếu việc ấy không
xong, thì chúng tôi đối với quốc dân không có nghĩa lý gì cả.
- Chúng tôi bao giờ cũng định trả lại các lãnh thổ Việt Nam cho chính phủ Việt Nam.
Nhƣng vì sợ các ông chƣa xếp đặt đƣợc sẵn sàng, nên còn trì hoãn lại ít lâu.
- Chúng tôi vẫn sẵn sàng về việc ấy, chỉ còn đợi sự quyết định của các ông mà thôi.
- Vậy thì cụ định bao giờ lấy lại ba Thành Thị kia ?
- Nếu ngài bằng lòng, thì tôi xin lấy ngay tự bây giờ.
Viên Tổng Tƣ Lệnh Nhật nghĩ một lúc rồi nói:
- Vậy xin để đến sáng ngày kia, vào 11 giờ cụ cho làm lễ thu nhận ba Thành Thị ấy.
Còn Nam Bộ thì có nƣớc Cao Miên còn lôi thôi về mấy Tỉnh ở biên giới.
Tôi nói:
- Việc ấy hiện bây giờ không thành vấn đề đƣợc, vì địa giới Nam Bộ ngày nay với địa
giới Nam Bộ ngày trƣớc không có gì thay đổi. Vậy phận sự chúng tôi là phải lấy lại toàn lãnh
thổ của tổ quốc. Còn nhƣ Cao Miên có muốn nói chuyện gì về việc ấy, thì sẽ nói chuyện với
chúng tôi về sau. Vả theo ý tôi, thì nƣớc Cao Miên muốn thừa cơ chiếm lấy một ít đất của
Nam Bộ, nhƣ thế làm mất cái tinh thần thân thiện của hai nƣớc lân bang, và không đời nào
dân Việt Nam chịu.
Tổng Tƣ Lệnh Nhật cứ viện hết lý do nọ đến lý do kia, thành ra cứ bàn cãi đến một
ngày mới chịu nhận lời trả lại Nam Bộ. Có một điều nên biết, là từ ngày tôi ra Hà Nội, ngƣời
Nhật nói chuyện rất hòa nhã và có vẻ cung kính, chứ không có điều gì trịch thƣợng hay gai
ngạnh. Khi họ đã nhận lời trả lại đất Nam Bộ, có hỏi tôi rằng:
- Bao giờ cụ định vào nhận lấy đất Nam Bộ, hay cụ định cho ai đi thay cụ.
Tôi nghĩ trong cái việc khó khăn này, mình phải đi mới đƣợc, và tôi nói:
25 MỘT CƠN GIÓ BỤI
- Tôi về Huế vài ngày để tâu bày mọi việc với Hoàng Thƣợng, rồi độ chừng ngày
mùng 8 tháng Tám là tôi đã ở Sài Gòn rồi.
Tổng Tƣ Lệnh Nhật nói:
- Cụ định vào thì hôm ấy tôi cũng vào, để xếp đặt mọi chuyện cho chóng xong.
Tôi nói:
- Cám ơn ngài. Ðƣợc nhƣ thế thì có thể tránh đƣợc mọi sự khó khăn lặt vặt.
Việc lấy lại toàn lãnh thổ Việt Nam nhƣ thế là quyết định xong. Tôi nói đến việc lấy
lại các công sở trƣớc thuộc về chính phủ Ðông Dƣơng toàn quyền. Tổng Tƣ Lệnh Nhật nói
việc ấy có nhiều sự phức tạp vì các công sở ấy quan hệ đến các nƣớc lân bang nhƣ Cao Miên
và Ai Lao nữa.
Tôi nói:
- Các ông đã đánh đổ các thuộc địa của Pháp, đã nhận cho Việt Nam, Cao Miên và Ai
Lao đƣợc tự chủ thì các công sở ấy theo lẽ tất nhiên là phải trả lại cho các nƣớc ấy. Còn sự
giao thiệp về quyền lợi riêng của mấy nƣớc chúng tôi, sẽ theo tình thân thiện mà bàn với
nhau.
Có một điều tôi nhất định đòi cho đƣợc, là phải bỏ chế độ phủ toàn quyền cũ, mới hợp
cái nghĩa tự chủ của ba nƣớc trong xứ Ðông Dƣơng.
Sau cuộc đàm phán hơn một ngày bàn về chi tiết việc giao trả lại chính phủ Việt Nam
hết thảy các công sở, nhƣ sở hỏa xa, sở công an, vì còn chiến tranh, ngƣời Nhật xin để riêng
mấy phòng cho họ hợp tác với ngƣời Việt Nam. Tôi nghĩ: Trong lúc đầu còn lắm sự khó
khăn, ta phải tạm nhƣợng bộ ít nhiều, để cho êm chuyện. Tôi ƣng thuận. Còn ngày thu nhận
các công sở ấy định vào ngày 15 tháng Tám mà bấy giờ là ngày mùng 2 tháng Tám dƣơng
lịch.
Nhƣng công việc và mấy vấn đề trên xong đâu đấy rồi, tôi xin Tổng Tƣ Lệnh Nhật tha
và trả lại cho chính phủ Việt Nam hết thảy những Sĩ Quan và Quân Lính Việt Nam mà quân
đội Nhật còn giam giữ ở các nơi, để chúng tôi tổ chức lại Quân Đội Bảo An. Và nhân vì súng
ống không có, tôi lại xin cho chúng tôi đủ súng ống đạn dƣợc để những đội Bảo An ấy dùng.
Tổng Tƣ Lệnh Nhật nhận lời và tạm cho Bắc Bộ 2000 khẩu súng và đạn dƣợc. Tôi về lập tức
cho gọi Đại Úy Thu và một Trung Úy đã đƣợc tha từ trƣớc làm chƣơng trình cải tổ các đội
Bảo An.
Tôi xin tha cho những thanh niên bị Hiến Binh Nhật bắt vì theo Việt Minh. Lúc ấy
phần nhiều thanh niên hăng hái quá thƣờng hay bạo động. Tổng Tƣ Lệnh Nhật gọi viên Đại
Tá coi Hiến Binh Nhật đem sổ cho tôi xem, thì chỉ thấy độ 300 ngƣời bị bắt, chứ không nhƣ
ngƣời ta đồn có tới hàng ngàn ngƣời, và có non một trăm ngƣời đã đƣợc tha rồi. Những ngƣời
còn phải giữ lại là vì có chứng cớ, nhƣ cho tiền hay đã đi hội họp ở chỗ nào.
Tôi lấy mọi lẽ giải thích sự hành động của thanh niên, và bảo ngƣời Nhật rộng lƣợng
mà tha hết cả ra, để khỏi làm náo động lòng ngƣời. Hiến Binh Nhật hứa sẽ xét chóng mà tha
dần ra. Ngày hôm sau họ tha ra đƣợc năm, sáu chục ngƣời.
Nói rút lại, chúng tôi ra Hà Nội, điều đình với Tổng Tƣ Lệnh Nhật đƣợc kết quả nhƣ
là: Lấy lại toàn lãnh thổ của nƣớc Việt Nam, thu hết các công sở thuộc phủ toàn quyền cũ của
Pháp, lấy hết các binh sĩ Việt Nam để tổ chức đội quân Bảo An, lấy đƣợc 2000 khẩu súng mới
và đạn dƣợc, và xin tha đƣợc một số thanh niên bị bắt.
Sự điều đình của chúng tôi đƣợc ổn thỏa dễ dàng, có lẽ vì ngƣời Nhật tự biết họ sắp
thua nên họ đổi thái độ để mua chuộc lòng ngƣời. Hay là họ có ý gì khác nữa, ta không thể
biết đƣợc.
Lúc ấy chúng tôi còn dự định làm nhiều việc khác, nhất là chƣơng trình cải tổ quân
đội, luyện tập quân lính đề phòng khi hữu sự. Nếu có thì giờ thi hành đƣợc, thì độ năm bảy
tháng, hay độ mộtnăm, sẽ có kết quả khả quan lắm. Song ý ngƣời định thế, mà trời không cho
làm thì sao ?
25 MỘT CƠN GIÓ BỤI
- Tôi về Huế vài ngày để tâu bày mọi việc với Hoàng Thƣợng, rồi độ chừng ngày
mùng 8 tháng Tám là tôi đã ở Sài Gòn rồi.
Tổng Tƣ Lệnh Nhật nói:
- Cụ định vào thì hôm ấy tôi cũng vào, để xếp đặt mọi chuyện cho chóng xong.
Tôi nói:
- Cám ơn ngài. Ðƣợc nhƣ thế thì có thể tránh đƣợc mọi sự khó khăn lặt vặt.
Việc lấy lại toàn lãnh thổ Việt Nam nhƣ thế là quyết định xong. Tôi nói đến việc lấy
lại các công sở trƣớc thuộc về chính phủ Ðông Dƣơng toàn quyền. Tổng Tƣ Lệnh Nhật nói
việc ấy có nhiều sự phức tạp vì các công sở ấy quan hệ đến các nƣớc lân bang nhƣ Cao Miên
và Ai Lao nữa.
Tôi nói:
- Các ông đã đánh đổ các thuộc địa của Pháp, đã nhận cho Việt Nam, Cao Miên và Ai
Lao đƣợc tự chủ thì các công sở ấy theo lẽ tất nhiên là phải trả lại cho các nƣớc ấy. Còn sự
giao thiệp về quyền lợi riêng của mấy nƣớc chúng tôi, sẽ theo tình thân thiện mà bàn với
nhau.
Có một điều tôi nhất định đòi cho đƣợc, là phải bỏ chế độ phủ toàn quyền cũ, mới hợp
cái nghĩa tự chủ của ba nƣớc trong xứ Ðông Dƣơng.
Sau cuộc đàm phán hơn một ngày bàn về chi tiết việc giao trả lại chính phủ Việt Nam
hết thảy các công sở, nhƣ sở hỏa xa, sở công an, vì còn chiến tranh, ngƣời Nhật xin để riêng
mấy phòng cho họ hợp tác với ngƣời Việt Nam. Tôi nghĩ: Trong lúc đầu còn lắm sự khó
khăn, ta phải tạm nhƣợng bộ ít nhiều, để cho êm chuyện. Tôi ƣng thuận. Còn ngày thu nhận
các công sở ấy định vào ngày 15 tháng Tám mà bấy giờ là ngày mùng 2 tháng Tám dƣơng
lịch.
Nhƣng công việc và mấy vấn đề trên xong đâu đấy rồi, tôi xin Tổng Tƣ Lệnh Nhật tha
và trả lại cho chính phủ Việt Nam hết thảy những Sĩ Quan và Quân Lính Việt Nam mà quân
đội Nhật còn giam giữ ở các nơi, để chúng tôi tổ chức lại Quân Đội Bảo An. Và nhân vì súng
ống không có, tôi lại xin cho chúng tôi đủ súng ống đạn dƣợc để những đội Bảo An ấy dùng.
Tổng Tƣ Lệnh Nhật nhận lời và tạm cho Bắc Bộ 2000 khẩu súng và đạn dƣợc. Tôi về lập tức
cho gọi Đại Úy Thu và một Trung Úy đã đƣợc tha từ trƣớc làm chƣơng trình cải tổ các đội
Bảo An.
Tôi xin tha cho những thanh niên bị Hiến Binh Nhật bắt vì theo Việt Minh. Lúc ấy
phần nhiều thanh niên hăng hái quá thƣờng hay bạo động. Tổng Tƣ Lệnh Nhật gọi viên Đại
Tá coi Hiến Binh Nhật đem sổ cho tôi xem, thì chỉ thấy độ 300 ngƣời bị bắt, chứ không nhƣ
ngƣời ta đồn có tới hàng ngàn ngƣời, và có non một trăm ngƣời đã đƣợc tha rồi. Những ngƣời
còn phải giữ lại là vì có chứng cớ, nhƣ cho tiền hay đã đi hội họp ở chỗ nào.
Tôi lấy mọi lẽ giải thích sự hành động của thanh niên, và bảo ngƣời Nhật rộng lƣợng
mà tha hết cả ra, để khỏi làm náo động lòng ngƣời. Hiến Binh Nhật hứa sẽ xét chóng mà tha
dần ra. Ngày hôm sau họ tha ra đƣợc năm, sáu chục ngƣời.
Nói rút lại, chúng tôi ra Hà Nội, điều đình với Tổng Tƣ Lệnh Nhật đƣợc kết quả nhƣ
là: Lấy lại toàn lãnh thổ của nƣớc Việt Nam, thu hết các công sở thuộc phủ toàn quyền cũ của
Pháp, lấy hết các binh sĩ Việt Nam để tổ chức đội quân Bảo An, lấy đƣợc 2000 khẩu súng mới
và đạn dƣợc, và xin tha đƣợc một số thanh niên bị bắt.
Sự điều đình của chúng tôi đƣợc ổn thỏa dễ dàng, có lẽ vì ngƣời Nhật tự biết họ sắp
thua nên họ đổi thái độ để mua chuộc lòng ngƣời. Hay là họ có ý gì khác nữa, ta không thể
biết đƣợc.
Lúc ấy chúng tôi còn dự định làm nhiều việc khác, nhất là chƣơng trình cải tổ quân
đội, luyện tập quân lính đề phòng khi hữu sự. Nếu có thì giờ thi hành đƣợc, thì độ năm bảy
tháng, hay độ một năm, sẽ có kết quả khả quan lắm. Song ý ngƣời định thế, mà trời không cho
làm thì sao ?
26 MỘT CƠN GIÓ BỤI
Chúng tôi phải thu xếp về Huế. Giá lúc ấy có một ngƣời làm Khâm Sai ở Bắc Bộ
cƣơng quyết và hiểu việc, thì các việc tổ chức có thể mau chóng hơn, nhƣng ông Phan Kế
Toại là ngƣời chuyên làm việc trong thời bảo hộ của Pháp, tuy trong sạch hơn cả, song chỉ là
một ông Quan biết thừa hành mệnh lệnh, chứ về đƣờng chính trị thì không thông thạo lắm, và
tính lại nhát. Ông thấy một đƣờng thì ngƣời Nhật làm khó dễ, một đƣờng thì bọn Việt Minh
bạo động, nay đánh chỗ này, mai đánh chỗ nọ, ông sợ hãi và chán nản, chỉ nói chuyện xin từ
chức.
Phàm những ngƣời cầm quyền bính trong tay mà có những ngƣời tế nhị tài giỏi, biết
quyền biến, giúp việc thì dù việc dở cũng hóa hay, mà không thì việc hay cũng hóa dở. Ðó là
điều các nhà làm chính trị nên chú ý.
Trƣớc tôi thấy cách làm việc của ông Toại rất lộn xộn, tôi đã muốn tìm ngƣời thay,
nhƣng tìm ai ? Ngƣời nói giỏi thì nhiều, mà ngƣời làm đƣợc việc thì ít. Nếu ở trong quan
trƣờng cũ có ngƣời tài cán và hiểu việc thì hơn, vì chức khâm sai là một chức kiêm cả việc
chính trị và cai trị. Việc cai trị không có lịch duyệt không làm đƣợc. Ông Toại là ngƣời làm
Quan có tiếng hơn cả mà còn nhƣ thế, huống ngƣời khác rồi ra sao. Vì thế nên tôi cứ trù trừ
mãi. Sau ông Toại cứ nài. Tôi nghe nói ông Nguyễn Tƣờng Long là ngƣời biết chính trị và có
nghị lực hơn cả, nhƣng lúc ấy ông đang bị bệnh thƣơng hàn. Tôi nghĩ đến ông Nguyễn Xuân
Chữ là ngƣời trong Việt Nam Ái Quốc Ðảng, có tính cƣơng quyết và đứng đắn. Tôi gặp ông
Chữ nói chuyện, ông đã nhận lời, nhƣng hôm sau ông về bàn tính thế nào lại đổi ý, nói xin để
thong thả.
Tôi thì vội về mà ngƣời thì không có. Tôi phải bảo ông Toại phải cố ở lại mà làm việc
cho đến khi tôi thu xong đất Nam Bộ, tôi sẽ tìm ngƣời thay. Ông Toại nể tôi mà ở lại.
Ðảng Việt Minh lúc ấy rất hoạt động, đánh Huyện này, phá Phủ kia. Lính Bảo An ở
các nơi phần nhiều bị Việt Minh tuyên truyền, tuy chƣa theo hẳn, nhƣng không chống cự nữa.
Dân gian bấy giờ rất hoang mang, một đƣờng có chính phủ quốc gia, nhƣng vì thời gian eo
hẹp, chƣa kịp sắp đặt gì cả. Công việc thấy có nhiều sự khốn khó mà thƣờng nghe sự tuyên
truyền của Việt Minh, nói họ đã có các nƣớc Ðồng Minh giúp đỡ cho nƣớc Việt Nam đƣợc
hoàn toàn độc lập. Dân ta từ khi bị ngƣời Pháp sang cai trị, cứ khao khát độc lập, nay nghe
Việt Minh nói thế, lại nghe nói đảng Việt Minh lên cầm quyền, dân không phải đóng thuế
nữa, đƣợc hoàn toàn tự do và có nhiều hạnh phúc, thành ra ai cũng tin theo. Ngay những đạo
thanh niên tiền tuyến do Bộ Thanh Niên lập ra, cũng có ý ngã về Việt Minh.
Tôi thấy tình thế ấy, tôi bảo ông Phan Kế Toại đi tìm một vài ngƣời Việt Minh đến nói
chuyện, vì lúc ấy tôi còn tƣởng đảng Việt Minh dù theo chủ nghĩa cộng sản, nhƣng chắc cũng
nghĩ đến tƣơng lai nƣớc nhà. Hôm sau ông Toại đƣa một thiếu niên Việt Minh đến, tôi nói:
- Chúng tôi ra làm việc chỉ vì nƣớc mà thôi, chứ không có ý cầu danh lợi gì cả, tôi
chắc đảng các ông cũng vì nƣớc mà hành động. Nếu vậy chúng ta tuy đi con đƣờng khác
nhau, nhƣng cũng một mục đích nhƣ nhau, các ông thử xem ta có thể hợp tác với nhau, kẻ ở
trong ngƣời ở ngoài, để cứu nƣớc đƣợc không ?
Ngƣời ấy nói:
- Sự hành động của chúng tôi đã có chủ nghĩa riêng và có chƣơng trình nhất định để
đem nƣớc đến chỗ hoàn toàn độc lập. Chúng tôi có thể làm lấy đƣợc.
- Sự mƣu cầu cho nƣớc đƣợc độc lập cũng là mục đích của chúng tôi, nhƣng vì đi
đƣờng thẳng có nhiều sự khó khăn nên chúng tôi phải uyển khúc mà đi từ từ có lẽ chắc chắn
hơn.
- Chúng tôi chỉ có một con đƣờng thẳng đi đến hoàn toàn độc lập chứ không có hai.
- Theo nhƣ ý các ông nhƣ thế, tôi sợ rất hại cho dân, mà chƣa chắc đã thành công
đƣợc.
- Chúng tôi chắc thế nào cũng thành công. Nếu có hại cũng không cần, có hại rồi mới
có lợi. Dù ngƣời trong nƣớc mƣời phần chết mất chín, chúng tôi sẽ lập một xã hội mới với
một thành phần còn lại, còn hơn với chín phần kia.
27 MỘT CƠN GIÓ BỤI
Rồi ngƣời ấy ngồi đọc một bài hình nhƣ đã thuộc lòng để kể những công việc của
đảng Việt Minh. Tôi thấy thái độ ngƣời ấy nhƣ thế, tôi biết không thể lấy nghĩa lý nói chuyện
đƣợc.
Tôi nói:
- Nếu các ông chắc lấy đƣợc quyền độc lập cho nƣớc nhà, các ông không vào chính
phủ làm việc, cần gì phải đánh phá cho khổ dân ?
- Chúng tôi sẽ cƣớp lấy quyền để tỏ cho các nƣớc Ðồng Minh biết chúng tôi mạnh,
chứ không chịu để ai nhƣờng.
- Các ông chắc là các nƣớc Ðồng Minh tin ở sức mạnh của các ông không ?
- Chắc lắm. Chắc trăm phần trăm.
- Tƣơng lai còn dài, các ông nhận lấy trách nhiệm đối với quốc dân và lịch sử.
Xong việc ấy rồi cách hai hôm sau chúng tôi về Huế. Ông Phan Anh và ông Vũ Văn
Hiền cùng về với tôi, còn ông Hoàng Xuân Hãn ở lại Hà Nội đợi đến ngày thu nhận sở Ðông
Dƣơng Học Chính và Sở Công Chính.
Về đến Huế chúng tôi tâu bày mọi việc cho Vua Bảo Ðại biết. Ngày tỏ ý vui vẻ lắm.
Ðến khi họp hội đồng chính phủ trình bày công việc và kết quả việc chúng tôi ra Hà Nội, tôi
vừa nói xong, ông Trần Văn Chƣơng Bộ Trƣởng Ngoại Giao nói:
- Cụ ra Hà Nội lần này thành công là nhờ sự điều đình của tôi, khi tôi ra Hà Nội lần
trƣớc.
Tôi nghe lời ông Chƣơng nói, rất ngạc nhiên, vì lúc ấy tôi không nghĩ đến công cán gì
cả. Lời ông Chƣơng nói tỏ ra cái ý tranh công. Ngày trƣớc tôi vẫn thƣờng nói với các Bộ
Trƣởng: ‘’Chúng ta cùng nhau hết lòng làm việc giúp nƣớc, xin đừng ghen tị gì cả. Nếu ai
làm đƣợc việc gì ích lợi là công chung tất cả của chúng ta. Hễ tôi làm không nổi và có ai sẵn
lòng thay tôi, tôi xin nhƣờng ngay’’. Sự tôi muốn nhƣờng đó, ông Chƣơng biết rõ hơn mọi
ngƣời khác.
Tôi đáp lại ông Chƣơng:
- Việc tôi nói đây để trình bày những việc đã làm để Nội Các biết. Nếu có đƣợc một
chút hiệu quả nhờ sự điều đình của ông Chƣơng khi trƣớc, càng hay. Thế tỏ ra công chung
của mọi ngƣời trong Nội Các.
Sự thật sau khi ông Trần Văn Chƣơng ra Hà Nội, có viên Trung Tƣớng Tham Mƣu
Trƣởng của Tƣ Lệnh Bộ Nhật ở Ðông Dƣơng tôi đã gặp khi trƣớc, lúc mới ở Băng Cốc về Sài
Gòn, viên ấy ở Hà Nội trở vào Nam, đi qua Huế có viết cho tôi lá thƣ bằng tiếng Nhật, nhờ
ông Yokohama dịch ra tiếng Pháp đƣa tận tay cho tôi. Ðại ý trong thƣ nói: ‘’Việc ông Bộ
Trƣởng Ngoại Giao ra Hà Nội không có kết quả, vì ông ấy không biết giao thiệp, làm mếch
lòng ngƣời Nhật’’. Tôi đƣa thƣ ấy cho ông Hoàng Xuân Hãn và ông Phan Anh xem, để rõ tình
thực.
Xong việc ấy, nói đến việc đi vào Nam Bộ. Thấy ý kiến các ông Bộ Trƣởng phân vân.
Ông Trần Ðình Nam, Bộ Trƣởng Bộ Nội Vụ, nói:
- Nếu cụ đi Nam, ở Huế nếu có xẩy ra việc gì, không ai chịu trách nhiệm.
Ông Hồ Tá Khanh, Bộ Trƣởng Bộ Kinh Tế, đƣa thƣ nói đại ý: ‘’Phong trào Việt Minh
mạnh lắm, Nội Các Trần Trọng Kim nên thôi đi, để họ làm việc may ra họ cứu đƣợc nƣớc’’.
Tôi nói:
- Sự tôi thôi, thì tôi đã dự định rồi, nhƣng để lấy lại đất Nam Bộ cho trọn công việc
của mình, tôi thôi ngay.
Tôi thấy việc đi Nam có nhiều sự cản trở, trong Nội Các không có hòa khí nhƣ lúc
đầu, và có lắm chuyện nhỏ mọn không muốn nói ra, làm tôi mất cả lòng hăng hái làm việc,
thành ra đến ngày mùng 8 tháng Tám tôi vẫn không đi Nam đƣợc. Tổng Tƣ Lệnh Nhật ở Hà
Nội vào Sài Gòn không thấy tôi, điện ra dục. Tôi điện vào xin cứ cho lấy lại Nam Bộ, tôi
không phải vào Nam nữa.
28 MỘT CƠN GIÓ BỤI
Ðƣợc tin ngƣời Nhật ƣng thuận, và lúc ấy có ông Nguyễn Văn Sâm lãnh tụ đảng
Quảng Xã, vừa ở Sài Gòn ra Huế. Tôi vào tâu Vua Bảo Ðại, xin cử ông Sâm làm Nam Bộ
Khâm Sai. Ngày 14 tháng Tám năm 1945, ông Sâm đƣợc sắc chỉ bổ vào Nam.
Ông Nguyễn Văn Sâm đi rồi, tôi cho công việc làm của tôi nhƣ thế tạm xong. Tôi nói
tạm xong, vì lúc ấy tôi tƣởng Nhật khéo léo lắm cũng chỉ đƣợc năm bảy tháng nữa là cùng, rồi
ra quân Ðồng Minh kéo lên Ðông Dƣơng, những việc đã làm đó, ai kể vào đâu. Song dù sao
nó cũng thành cái hằn, cái nếp, thành một việc đã có rõ ràng, theo tình thế chính trị, ngƣời ta
không thể xóa bỏ hẳn đi đƣợc.
Việc lấy lại đất Nam Bộ xong, tôi vào tâu Vua Bảo Ðại, xin cho tôi từ chức. Ngài nói:
- Ông đang làm đƣợc việc, sao lại xin thôi, và ông thôi lấy ai thay.
Tôi tâu trình lên mấy ngƣời, ngài tỏ vẻ không thuận, bảo:
- Các ông hãy tạm làm việc, chờ đến khi tìm đƣợc ngƣời ra lập Nội Các hãy thôi.
Lúc ấy tôi nhƣ cất đƣợc gánh nặng, nhƣng tìm ai thay ? Tôi nghĩ nên tìm những ngƣời
thuộc về các đảng phái nhƣ Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Tạ Thu Thâu, Hồ
Hữu Tƣờng, Ðặng Thái Mai v.v...đã có tiếng hoạt động về chính trị, để vào lập Nội Các mới.
Tôi điện đi các nơi mời những ngƣời ấy vào Huế, nhƣng sợ một bức điện không đƣợc rõ, tôi
nhờ ông Phan Anh ra Bắc và ông Hồ Tá Khanh vào Nam gặp mọi ngƣời và nói chuyện cho rõ
đuôi đầu. Nhƣng ông Phan Anh ra đến vùng Phủ Diễn bị quân Việt Minh bắt giữ lại, ông Hồ
Tá Khanh vào đến Quảng Ngãi cũng bị giữ lại. Ðang lúc ấy đƣợc tin nƣớc Nhật Bản bị bom
nguyên tử không chịu nổi phải xin hàng.
Vua Bảo Ðại gọi tôi vào nói:
- Trong lúc rối loạn nhƣ thế này, các ông hãy lập ra lâm thời chính phủ để đợi xem
tình thế biến đổi ra sao đã.
Tôi bất đắc dĩ phải tạm ở lại. Lâm thời chính phủ vừa làm việc mấy ngày, ông Phan
Kế Toại điện vào xin từ chức. Lúc ấy bọn ông Nguyễn Xuân Chữ, Trần Văn Lai xin lập Ủy
Ban Cứu Quốc. Chính phủ nhận lời. Cách hai ngày sau, ngày 19 tháng Tám, các công chức ở
Hà Nội nghe bọn Việt Minh xúi tổ chức cuộc biểu tình. Ðảng Việt Minh nhân cơ hội ấy chiếm
lấy Bắc Bộ. Ðƣợc mấy ngày ông Hồ chí Minh về làm Chủ Tịch chính phủ lâm thời. Các đoàn
thể thanh niên và các ngƣời trí thức ở Bắc Bộ điện vào Huế xin Vua Bảo Ðại thoái vị và
nhƣờng cho Hồ chí Minh.
Trong tình thế nguy ngập nhƣ thế, ở Huế còn có ngƣời bàn sự chống cự. Tôi muốn biết
rõ sự thực, liền gọi Trung Úy Phan Tử Lăng ngƣời đứng coi đoàn thanh niên tiền tuyến ở
Huế, hỏi xem có thể trông cậy bọn ấy đƣợc không. Trung Úy Trƣơng Tử Lăng nói:
- Tôi có thể nói riêng về phần tôi thì đƣợc. Còn về phần các thanh niên tôi không dám
chắc.
Bọn thanh niên tiền tuyến trƣớc rất nhiệt thành nay còn thế, huống chi những lính Bảo
An và lính hộ thành tất cả độ vài trăm ngƣời, những lính để canh giữ công sở, súng ống không
ra gì, đạn dƣợc không đủ, còn làm gì đƣợc, cũng bị Việt Minh tuyên truyền xiêu lòng hết cả
rồi. Lúc ấy chỉ còn cách lui đi là phải hơn cả.
Tôi vào tâu Vua Bảo Ðại:
- Xin ngài đừng nghe ngƣời ta bàn ra bàn vào. Việc đã nguy cấp lắm rồi, ngài nên xem
lịch sử của Vua Louis XVI bên Pháp và Vua Nicholas II bên Nga mà thoái vị ngay là phải
hơn cả. Vì dân ta đã bị bọn Việt Minh tuyên truyền và đang hăng hái về việc cách mệnh nhƣ
nƣớc đang lên mạnh, mình ngăn lại thì vỡ lở hết cả. Mình thế lực đã không có, bọn Việt Minh
lại có dân chúng ủng hộ, nên để cho họ nhận lấy trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của nƣớc.
Vua Bảo Ðại là ông Vua thông minh, hiểu ngay và nói:
- Trẫm có thiết gì ngôi Vua đâu, miễn là bọn Việt Minh giữ đƣợc nền tự chủ của nƣớc
nhà là đủ. Trẫm muốn là ngƣời dân của một nƣớc độc lập còn hơn làm Vua một nƣớc nô lệ.
Nhờ ngài có tƣ tƣởng quảng đại nên có tờ chiếu thoái vị. Khi tờ chiếu ấy tuyên bố ra,
nhân dân có nhiều ngƣời ngậm ngùi cảm động, nhƣng lúc ấy phần tình thế nguy ngập, phần
29 MỘT CƠN GIÓ BỤI
sợ hãi, còn ai dám nói năng gì nữa. Ðến bọn thanh niên tiền tuyến, ngƣời chính phủ tin cậy
cũng bỏ theo Việt Minh, bọn lính hộ thành của Nhà Vua cũng không nghĩ đến nữa. Còn các
Quan cũ lẫn nấp đâu mất cả. Thật là tình cảnh rất tiều tụy. Nếu không mau tay lui đi, tính
mệnh nhà Vua và hoàng gia chƣa biết ra thế nào.
Lúc bấy giờ ngƣời Nhật có đến bảo tôi:
- Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Ðồng Minh đến thay.
Nếu chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân Nhật giúp, quân Nhật còn có thể giữ trật
tự.
Tôi nghĩ quân Nhật đã đầu hàng, quân Ðồng Minh sắp đến, mình nhờ quân Nhật đánh
ngƣời mình còn nghĩa lý gì nữa, và lại mang tiếng ‘’cõng rắn cắn gà nhà’’. Tôi từ chối không
nhận.
Sau thấy những ngƣời ở ngoài không biết rõ tình thế nói: Lúc ấy giá chính phủ không
lui vội, tìm cách chống cự lại, Việt Minh không làm gì đƣợc, vì họ không có binh lực gì cả.
Về đƣờng binh lực, lúc ấy Việt Minh không không có gì thật. Nhƣng cái phƣơng lƣợc của họ
đánh bằng tuyên truyền, bằng lối quỉ quyệt lừa dối để lôi kéo dân chúng đi theo, chứ không
đánh bằng binh khí. Sự tuyên truyền của họ đã có ngấm ngầm từ lâu trƣớc khi quân Nhật đảo
chính chứ không phải bây giờ mới có. Mình đem một vài trăm ngƣời trông cậy đƣợc ra chống
với mấy vạn ngƣời toàn thanh niên thuyền thợ và đàn bà trẻ con, lại có những ngƣời Việt
Minh táo tợn đứng sau lƣng xui khiến, chống sao đƣợc ? Chẳng qua chỉ gây một cuộc đổ máu
vô ích, cốt chỉ bảo cho Việt Minh chớ có cƣớp phá. Mình đã mở cửa mời họ còn đánh phá gì
nữa. Lúc bấy giờ chúng tôi nghĩ: Họ đã thắng thế, dù sao họ cũng lo đến sự kiến thiết của
nƣớc nhà, nên chúng tôi mong ít có sự phá hại.
Việt Minh đã lên cầm quyền, Vua Bảo Ðại đã thoái vị, tôi ra ở nhà đã thuê từ trƣớc tại
làng Vĩ Dạ gần Huế. Ðƣợc mấy ngày, Việt Minh vào đƣa Vua Bảo Ðại, bấy giờ gọi là công
dân Vĩnh Thụy, ra làm Tối Cao Cố Vấn ở Hà Nội để dễ quản thúc.
Sau thấy có ngƣời, hoặc vì tuyên truyền, hoặc vì không biết rõ sự thực nói: Chính phủ
Trần Trọng Kim là một chính phủ bù nhìn, ý nói là chúng tôi ra làm việc để bọn Nhật sai
khiến. Tôi dám cả tiếng bác lời nói đó.
Ngay từ lúc đầu, khi mới lập xong Nội Các, tôi đi với ông Hoàng Xuân Hãn sang
phòng làm việc của viên Tối Cao Cố Vấn Nhật, gặp ông Yokohama để đòi lại Dinh Khâm
Sai, Dinh Khâm Sứ cũ của Pháp, để làm Dinh Nội Các Tổng Trƣởng. Ông Yokohama lúc đầu
còn do dự và thấy những công chức Nhật muốn cản trở. Tôi quả quyết nói:
- Nếu các ông không trả chúng tôi dinh ấy và các phòng làm việc của viên khâm sứ thì
chúng tôi thôi ngay. Vì không phải chúng tôi muốn ở dinh lớn, nhƣng đó là biểu hiệu quyền
tự chủ của nƣớc Việt Nam theo lời hứa hẹn của ngƣời Nhật sau cuộc đảo chính ngày mùng 9
tháng Ba. Những dinh thự ấy bây giờ là của Việt Nam.
Ông Yokohama thấy tôi nói thế, liền nhận lời trả ngay, và xin để riêng mấy phòng trên
lầu của Phủ Khâm Sứ cũ cho nhân viên Sở Tối Cao Cố Vấn làm việc, vì ở ngoài phố không
có nhà khác.
Từ đó về sau, khi có việc gì, tôi gọi điện thoại mời viên Cố Vấn sang bên Dinh Nội
Các Tổng Trƣởng nói chuyện chứ tôi không sang bên ấy. Việc ấy ở Huế ai cũng biết.
Lúc đầu ngƣời Nhật có ý muốn đòi khi chính phủ Việt Nam có việc làm gì quan hệ, phải hỏi
trƣớc viên Tối Cao Cố Vấn, có thuận mới đƣợc làm. Tôi bác đi, viện lẽ việc nội trị là việc
chúng tôi, lẽ nào lại phải xin phép rồi mới đƣợc làm. Ngƣời Nhật đã đứng vào địa vị Cố Vấn,
khi nào có việc hệ trọng, chúng tôi sẽ thông báo cho biết là đủ. Lúc ấy cũng đƣợc ông
Yokohama là ngƣời thạo việc ngoại giao và am hiểu tình thế, nên mọi việc đều đƣợc êm ái và
ổn thỏa. Các Tỉnh có những ngƣời quen thói cũ, hễ có việc gì, chạy đi cầu cứu ngƣời Nhật.
Tôi còn nhớ, có một ngƣời con ngƣời bạn cũ của tôi, làm Y Sĩ trong cuộc y tế của một
Tỉnh khác, chạy đi nhờ một viên Sĩ Quan Nhật can thiệp để xin ở lại. Tôi thấy thế, liền bảo
30 MỘT CƠN GIÓ BỤI
No comments:
Post a Comment