Sunday, March 21, 2010

ĐẨU TIẾP * THẦN SIÊU 3

ĐẨU TIẾP * THẦN SIÊU 3

Bài số 21 ( Anh Ngôn I, bài 11, tờ 22)



(1). 萬重須到海
(2).
(3).
(4). 人


TÔ GIANG QUAN THỦY

(1).Vạn trùng tu đáo hải
(2).Nhất lộ thủy ly sơn
(3).Thành quách phân lưu chuyển
(4).Nhân tâm không tự nhàn

(1).Vạn lớp sóng nước đều chảy về biển cả
(2).Một dòng nước chảy phân chia núi và sông.
(3).(Nước chảy xiết khiến ta thấy) thành quách chuyển động.Cũng có thể hiểu lả theo thời gian, thành quách cũng đổi khác.
(4).Lòng người khó được thảnh thơi .

NHÌN NƯỚC SÔNG TÔ LỊCH

(1).Nước về biển muôn trùng
(2).Nước chia núi và sông
(3).Thành quách đà thay đổi
(4).Lòng người khó thung dung.


Bài số 22 (Anh Ngôn I,15, tờ 7)



(1).
(2).
(3).
(4).
(5).
(6).滿
(7).
(8).



ĐĂNG SƠN ĐÍNH THIÊN PHÚC TỰ CHUNG LÂU

(1).Dung nhân nhất lộ khả tê phan
(2).Điểu tự u thê, hoa tự nhàn.
(3).Thiên cổ lâu đài tư thế giới,
(4).Bán thiên vân vũ hội thiền quan.
(5).Yên quang trước thụ tàng cô động,
(6).Chung hưởng tùy phong lạc mãn san.
(7).Hứng nhập cao không thùy tự cấm
(8).Phân hiêu hồi thủ giác nhân hoàn.


LÊN LẦU CHUÔNG CHÙA THIÊN PHÚC


(1).Vin từng vách đá cứ leo lên,
(2).Chịm đậu, hoa cuời rất tự nhiên.
(3).Muôn kiếp lâu đài lập thế giới,
(4).Nửa trời, mưa gió hội chùa chiền.
(5).Mây bay, cỏ mọc ẩn trong động,
(6).Gió thổi, chuông ngân khắp mọi miền.
(7).Ai lại cấm ai lên núi thẳm?
8).Quay nhìn trần thế lắm ưu phiền
__

Hai câu thực (3, 4) khuyên tròn, hai câu luận (4,5) điểm.




Bài số 23 (Anh Ngôn I, 36, tờ 14)



(1).
(2).
(3).
(4).

Vũ hậu sơn

(1).Độc thắng vũ tiền sắc
(2).Kỳ như vũ hậu sơn
(3).Đạm tình vân tự biệt
(4).Nồng thúy tụ tương ban


(1).Phía trước núi mưa rất lớn , màu sắc đậm
(2).Rồi mưa đến núi sau.
(3).Mưa tạnh thì mây bay đi chỗ khác
(4).Màu đậm, màu nhạt cùng hòa với nhau.

MƯA NÚI SAU

(1).Núi trước mưa rất lớn,
(2).Núi sau mưa dữ tợn.
(3).
Mưa tạnh, mây bay đi
(4).Đậm nhạt cùng.pha trộn.



Bài số 24 (Anh Ngôn II,137, tờ 27)

辭里門

(1). 故鄕 無恙獨零 丁
(2).纔一春來偶一經
(3).去 路有橋通野市
(4).廢江無水抱村 亭
(5).草留過雨團 餘 白
(6). 山捲浮雲露半青
(7).對 景不禁回首望
(8).茘 枝千樹鬱林坰



TỪ LÝ MÔN

(1).Cố hương vô dạng độc linh đinh,
(2).Tài nhất xuân lai ngẫu nhất kinh.
(3).Khứ lộ hữu kiều thông dã thị,
(4).Phế giang vô thủy bảo thôn đình.
(5).Thảo lưu quá vũ đoàn dư bạch,
(6).Sơn quyển phù vân lộ bán thanh.
(7).Đối cảnh bất câm hồi thủ vọng,
(8).Lệ chi thiên thụ uất lâm quynh.

Từ biệt cổng làng

(1).Ta làm kẻ tha hương sống lênh đênh xứ người
(2). Xuân đến làm khách du lữ
(4).Đường đi có cầu thông với phố chợ
(5).Con sông cạn khô không hoạt động nữa chạy quanh thôn.
(6).Cỏ xanh lưu luyến mưa, vườn đầy nước trắng xóa.
(7).Nhìn cảnh không thể nào không quay đầu lại
(8).
Ngàn cây lệ chi rất rậm rạp ở ven rừng

TỪ BIỆT CỔNG LÀNG

(1).Sống xa làng xóm, kiếp linh đinh,
(2).Xuân đến, ta làm khách lữ hành.
(3).Đường sá có cầu thông xóm chợ,
(4).Sông ngòi cạn nước lượn thôn đình.
(5).Cỏ ôm mưa đọng, vườn còn trắng,
(6).Núi quyện mây bay, móc vẫn xanh.
(7).Nhìn cảnh, không đành không ngoảnh lại,
(8).Lệ chi ngàn gốc ở ven rừng.


Bài số 25 (Anh Ngôn I, 44, tờ 12)



(1).
(2).
(3).造化
(4).
(5).
(6).
(7).
(8).


Đối cúc hũu sở tư

(1).Bất cộng xuân hoa tạp
(2).Thùy phân vãn tiết hương.
(3).Văn chương lưu tạo hóa
(4).Thần tháo định phong sương
(5).Hà xứ không tam kính
(6).Dư hoài tự nhất phương
(7).Mỹ nhân bất phục kiến
(8).Vạn cổ thử thu quang.


(1).Hoa cúc không cùng hàng, cùng loại, không thể lẫn lộn với các hoa xuân. (Hoa cúc là hoa mùa thu, khác với các hoa xuân)
(2).Ai có thể phân biệt được cái hương thơm của hoa cúc vào tỉết muộn (tiết thu)?
(3).Văn chương lưu với tạo hóa ( Cái đẹp của hoa cúc cùng sống với trời đất)
(4).Khí tiết thanh cao của hoa cúc có thể bền vững trong sương gió
(5).
Nơi nào có ba hàng cúc mọc bơ thờ ?(a)
(6).
Ta nhớ trời một phương
(7).
Mỹ nhân không trở lại lần thứ hai (b).
(8).Muôn đời còn lại ánh sáng của mùa thu.


SUY TƯ ĐỨNG TRƯỚC HOA CÚC

(1).Cúc hoa khác giống với hoa xuân,
(2). Tiết muộn hương thơm ai biệt phân?
(3).Vẻ đẹp lưu truyền cùng tạo hóa,
(4).Sắc thanh đứng vững với phong trần
(5).Nhớ nhung quê cũ ba hàng cúc,
(6).Mong mỏi người xa mấy hải tần?
(7).Người đẹp đã đi không trở lại
(8). Sắc thu còn mãi với thời gian.

___

(a).Ba hàng cúc:
Trong bài Quy khứ lai từ 歸去來辭, Đào Uyên Minh tức Đào Tiềm 陶淵明 viết ngụ ý muốn từ quan về ẩn dật.
歸去 來兮!田園將 蕪胡不歸?既自以心為形役,奚惆悵而獨 悲?
悟已往之不諫,知來者之可追;實迷途其未遠,覺今是而昨 非。. .
三徑就 荒,松菊猶 存。. .
Quy khứ lai hề, điền viên tương vu, hồ bất quy?

Ký tự dĩ tâm vi hình dịch, hề trù trướng nhi độc bi ?
. . .. Tam kính tựu hoang, tùng cúc do tồn.
(Về đi thôi hề, ruộng vườn sắp hoang vu, sao không về? Đã tự đem lòng cho hình sai khiến, sao còn một mình buồn bã, đau thương? . . .Ra lối nhỏ đến vườn hoang, hàng tùng, cúc hãy còn đây. )


(b). Trong bài Tiền Xich Bích phú 前赤壁賦, Tô Thức 蘇軾 có câu: "渺渺兮於懷, 望美人兮天一方 (Diểu diểu hề dư hoài,
Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương) Nhớ ai canh cánh bên lòng,
Nhớ người quân tử ngóng trông bên trời. ( Mỹ nhân là vua, là người quân tử)



Bài số 26 (Anh ngôn I, 33, tờ 14)



(1).
(2).
(3).
(4).
(5).
(6).
(7).
(8).滿

XUÂN NHẬT CẢM HOÀI

(1).Bán liêm họa vĩnh độc thành ngâm
(2).Hứng dĩ đa thần cảm dĩ thâm.
(3).Nhàn tĩnh toán lai nan cưỡng đắc,
(4).Phân hoa đáo để dị tương xâm
(5).Do đa ngưỡng sự phủ dục trách(a)
(6).Huống phục tiên ưu hậu lạc tâm.(b)
(7).Xuân khứ xuân lai hà thái cấp
(8).Bách hoa y cựu mãn viên lâm.


(1). Bên bức rèm có hình vẽ, ta ngồi lâu một mình ngâm thơ
(2).Hứng lên cao mà càng lúc cảm xúc cũng dâng cao.
(3).Đừng cố gắng mà tính chuyện thanh tĩnh.
(4).Vẻ bối rối và nét rực rỡ nhiều khi xâm chiếm nhau.
(5).Còn có trách nhiệm về việc cúi đầu và ngửng mặt.
(6).Huống hồ còn lòng lo trước vui sau.
(7).Xuân đến xuân đi sao quá gấp?
(8).Trong vườn, trong rừng, trăm hoa vẫn như cũ.

NGÀY XUÂN CẢM HOÀI

(1).Bên bức rèm hoa thi hứng cao,
(2).Càng ngâm, tình cảm lại tuôn trào.
(3).Đôi khi sáng tối dễ hòa hợp,
(4).Lắm lúc thanh nhàn khó cưỡng cầu!
(5).Trên đầu phủ ngưỡng còn canh cánh,
(6). Trong dạ lạc ưu vẫn dạt dào.
(7).Xuân đến, xuân đi sao vội vã?
(8).Muôn kiếp hoa xuân chẳng đổi màu!

__

(a).Thành ngữ Trung Quốc: "phủ ngưỡng bất quý thiên địa "仰俯不愧天地 nghĩa là người tạo nên sự nghiệp, sống theo luân lý, đạo đức, thì ngửng lên không thẹn với trời, cúi xuống không xấu hổ với đất.
(b). Phạm Trọng Yêm 范仲淹(989-1052) đời Tống nói lý tưởng của kẻ sĩ là “先天下之憂而憂,後天下之樂而樂" tiên thiên hạ chi ưu như ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc, nghĩa là " Kẻ sĩ phảỉ lo trước dân nhưng hưởng thụ sau dân." Câu này trở thành thành ngữ và người ta rút gọn thành ra" tiên ưu hậu lạc" 先憂後樂.





Bài số 27 ( Anh Ngôn I, 18, tờ 8)





(1).
(2).
(3).菩薩
(4).
(5).擁護
(6).
(7).
(8).濯濯


TRĨ SƠN (a) CÔ THÁP
Trịnh dĩ thử sơn vi linh tương vô tự cung nhân lập tháp áp chi

(1).Khởi thị đương niên ân ái đa
(2).Giai thành ổn trúc bích nham a.
(3).Cố cung mộng đoản y Bồ Tát
(4).Minh nguyệt sơn không chiếu ỷ la.
(5).Nhứt đái vân yên trường ủng hộ
(6).Bách niên phong võ kỷ tiêu ma.
(7). Chiêu dương (b) khứ hậu thành lăng cốc
(8).Trạc trạc năng vô oán phủ kha.

NGỌN THÁP TRĨ SƠN
Chúa Trịnh cho núi này là linh địa nên đưa một nàng cung phi vô tự ra chôn ở đấy, dựng tháp để yểm trừ. Vì vậy mà có ngọn tháp này (.鄭以此山為靈將無嗣宮人立塔壓之)

(1).Há phải hồi ấy ái ân đằm thắm mặn mà,
(2).Cớ sao lại có cái thành đẹp ấy xây dựng trên ngọn núi này?
(3). (Ai ngờ) nơi



(TS,116)
nơi cung xưa giật mình tỉnh mộng, lại thấy mình đương nương bóng Bồ Đề.
(4).(Tình buồn thế này, cảnh vui mà chi?)Bóng trăng sáng luống soi gì trên thân phận gấm hoa?
(5).(Có lòng với tháp này, duy có) một giải mây ráng thường che chở xung quanh.
(6).Trăm năm mưa gió đã hao mòn đi hết mấy phần?
(7).Sau lúc Minh phi (b) đi rồi thì cái tháp mĩ miều này) hóa ra nơi hang gió (hoang vu tịch mịch)
(8).Nếu mà hồn có linh thiêng thì đâu khỏi oán giận người mai mối (c)?.


Ngọn tháp xưa trên núi Phật tích

(1). Có phải xưa kia quá đắm say,
(2).Mà nay dựng tháp để tình hoài?

(TS, 116)
(3).Cung xưa cảnh Phật không lưu luyến,
(4).Trăng sáng lụa là mãi chiếu soi.
(5).Một giải ráng mây luôn ấp ủ,
(6).Trăm năm mưa gió đã pha phôi !
(7).Minh phi đi biệt, non hoang vắng.
(8).Hồn có oán hờn kẻ mối mai?


_____

Tân chú.
Bản Đẩu Tiếp ghi là Phật tích, bản Khảo Cổ ghi là Trĩ Sơn.
Chùa Phật Tích (Phật Tích tự 佛跡寺) còn gọi là chùa Vạn Phúc (Vạn Phúc tự 萬福寺) là một ngôi chùa nằm ở sườn phía Nam núi Phật Tích (còn gọi núi Lạn Kha, non Tiên), xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Trong chùa có tượng đức Phật bằng đá thời nhà Lý lớn nhất Việt Nam. Vào thời nhà Lê, năm Chính Hòa thứ bảy đời vua Lê Hy Tông, năm 1686, chùa được xây dựng lại với quy mô rất lớn, có giá trị nghệ thuật cao và đổi tên là Vạn Phúc tự. Người có công trong việc xây dựng này là Bà Chúa Trần Ngọc Am - đệ nhất cung tần của Chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, khi Bà đã rời phủ Chúa về tu ở chùa này. Bia đá còn ghi lại cảnh chùa thật huy hoàng. Đời vua Lê Hiển Tông (1740-1786), một đại yến hội đã được mở ở đây. Nhưng rồi vẻ huy hoàng và sự thịnh vượng của chùa Phật Tích cũng chỉ tồn tại sau đó được gần 300 năm. Chùa đã bị quân đội Pháp đốt cháy hoàn toàn vào năm 1947.
b. Minh phi tức Chiêu Quân cống Hồ .Bản KC ghi là Chiêu Dương
c. Kinh Thi có câu: phạt kha như hà, phỉ phủ phất khắc, thủ thê như hà, phi môi bất đắc 伐柯如何匪 斧弗克取妻如何匪媒不得 -Chặt cây thế nào? Không búa không được; lấy vợ thế nào? Không mối không xong. Vì thế nên đời sau gọi sự làm mối là chấp kha .Trong bài thơ này nói Cung phi trách mối mai làm lỡ duyên mình.


Bài số 28 (Anh Ngôn I, bài số 19, tờ 8)



(1).西
(2).
(3).
(4).
(5).
(6).
(7).滿
(8).

Khóa Thủy (a) song kiều

(1).Nhất (b) khâu trung đoạn thủy tây đông
(2).Nhật nguyệt tiên kiều tả hữu thông.
(3).Hí hải trường kình tranh thượng hạ
(4).Ẩm tuyền thái luyện hội thư hùng.
(5).Liễu yên giao tỏa hàn sơn bán,
(6).Nhân ảnh bình phân hạo cảnh trung.
(7).Mãn đạo thần linh năng giá hải
(8).Chỉ kim tài thị tế xuyên công.



(TS, 118)

(1).Vốn là một gò đất mà ở giữa đứt ra làm hai, làm cho nước rẽ ra hai bên, bên thì về đông, bên thì về tây.
(2).Hai bên cầu tiên, mặt trăng và mặt trời qua lại tự do.
(3).Đứng trên cầu trông ra ngoài biển, thấy bầy cá kình đương đua nhau bỡn sóng, thi nhau nhảy nhót, con thấp con cao.
(4).Quay lại trên núi thì cầu vồng đương thả xuống hút nước nguồn.
(5).Khói dương liễu bốn bề giao lại trùm mất nửa núi
(6).Khách đứng trên cầu, nhìn xuống mặt nước trong veo, thấy bóng mình san ra đều đặn trong gương thủy.
(7).Ai khéo nói khoác rằng thuyền từ có thể đưa người qua bể ?
(8).Đây dịp cầu tiên này chỉ có công đưa người qua sông.


Cầu Khóa Thủy một cảnh đẹp ở núi Phật Tích

(1).Một gò giữa đứt làm đôi,
(2).Một dòng nước rẽ đông đoài hai bên.
(3).Khóa sông một dịp cầu tiên,
(4).Hai xe nhật nguyệt xuống lên đời đời.
(5).Xa trông trên biển dưới trời,
(6).Thấp cao kình ngạc nhảy chơi từng đoàn.
(7). Xanh vàng mống họp trên ngàn,
(8).Trên đèo khói liễu mịt mù,
(9).Từ trong khói liễu chun ra nửa đèo.
(10).Cúi nhìn mặt nước trong veo
(11).Bóng người cao lớn san đều trong gương.
(12).Nhà chùa đặt chuyện hoang đường,
(13).Bể trầm đã thấy từ hàng đưa ai?
(14).Ở đây chỉ thấy cầu này,
(15).Đưa người qua suối lấy vầy làm công!


Bản dịch khác:

(1).Giữa gò giòng nước chảy tây đông,
(2).Nhật nguyệt bên cầu qua lại thông.
(3).Ngoài bể vui đùa đàn cá vược,
(4).Trên non rực rỡ ánh cầu vồng.
(5).Khói sương dương liễu mờ bên núi,
(6).Hình bóng trường giang rõ giữa giòng.
(7).Ai dám khoe khoang tài tế độ
(8).Cầu này đưa khách để sang sông!


_

Tân chú:
(a).Khóa Thủy là một cảnh đẹp ở Hương Tích. Hương Tích là một động đẹp, trọng tâm của khu du lịch quốc gia Hương Sơn thuộc huyện Mỹ Đức tỉnh Hà Tây nay thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam. Động Hương Tích cách Hà Nội gần 70km về phía Tây Nam.
(b).Bản Đẩu Tiếp ghi là nhất khâu, bản Khảo Cổ ghi" nhị khâu".
Trong bản Khảo Cổ, hai câu luận (5,6) khuyên kín.


Bài số 29 (Anh Ngôn I, 16, tờ 7)



(1).
(2).
(3).
(4).
(5).
(6). 觸
(7). 徒倚
(8).

SƠN ĐỘNG TRIỀU VÂN

(1).Tán nguyên (a) tuyệt đính bức hư không
(2).Dung đắc nhàn vân trú thử trung.
(3).Động khẩu tự phong vi đái nguyệt
(4).Nham yêu do tĩnh vị tòng long.
(5).Hợp phu dị tác xuân sơn vũ,
(6).Xúc thạch sơ hàm viễn hác phong
(7).Đồ ỷ bất tri hà sở tự,
(8).Cao đường Thần nữ quá Vu phong.(b)


(1). Đỉnh núi Tán Nguyên cao ngất, xâm lấn từng không
(2).Những đám mây nhàn (bay lang thang) ở trong đó.
(3).Cửa động giống như mặt trăng nhỏ,
(4).Lưng đèo yên tĩnh như con rồng nằm.
(5). Cảnh vật bên ngoài dễ tạo nên những trận mưa xuân
(6).Núi đá khiến cho mây trong các hang hốc say sưa
(7).Khách du chẳng biết tại sao các vật lại giống nhau.
(8).Ấy là do Thần nữ Vu Phong đi qua.

ĐÁM MÂY MAI TRÊN ĐỘNG PHẬT TÍCH

(1).Tán Nguyên cao ngất mấy tầng không
(2).Những đám mây nhàn bay ở trong.
(3).Cửa động tròn vo vừng tiểu nguyệt
(4).Lưng đèo yên tĩnh thế phi long
(5).Gió lùa trong núi khắp hang hốc
(6).Mưa đổ ngoài trời ngập núi sông.
(7).Sự vật tại sao lại giống thế?
(8).Bởi vì Thần nữ đến Vu phong.

____

(a). Bản Đẩu Tiếp ghi là " Toàn ngoan " , bản KC ghi là Tán nguyên có bộ sơn nhưng tự điển hiện nay không có. Câu 4, 5, 6 : điểm; câu 8 khuyên.
(b).Bài "Cao Đường Thần nữ phú" có đưa ra hình tượng "Vu sơn thần nữ"Đất Cao Đường, bên cạnh đầm Vân Mộng có hai ngọn núi là Vu Sơn và Vu Giáp thuộc tỉnh Hồ Bắc nước Tàu. Đời Chiến Quốc, vua Sở Tương Vương thường đến du ngoạn. Một hôm, nhà vua đến đấy, say sưa ngắm cảnh, một lúc mệt mỏi mới nằm ngủ dưới chân núi Vu Sơn.
Trong lúc mơ màng giấc điệp, vua Sở mộng thấy thiếu nữ tuyệt sắc, mặt hoa, da phấn, duyên dáng thướt tha đến bên mình, rồi cùng nhà vua chung chăn gối vô cùng thỏa thích.
Sau khi cùng giai nhân ân ái mặn nồng, vua Sở hỏi:
- Chẳng hay ái khanh ở đâu đến đây để quả nhân duyên may gặp gỡ?
Giai nhân mỉm miệng cười duyên, thưa:
- Muôn tâu thánh thượng! Thiếp là thần nữ núi Vu Sơn qua chơi đất Cao Đường, vốn cùng nhà vua có tiền duyên, nay được gặp gỡ thật là phỉ nguyền mong ước. Ở thiên cung, thiếp có nhiệm vụ buổi sớm làm mây, buổi chiều làm mưa ở Dương Đài.
Nói xong, đoạn biến mất.
Cảm nhớ người đẹp trong mộng, vua Sở thuật lại cho quan Đại phu Tống Ngọc nghe. Vốn là một danh sĩ đương thời, Tống Ngọc bèn làm bài phú "Cao Đường" để ghi lại sự tích Sở Tương Vương giao hoan cùng thần nữ Vu Sơn.





Bài số 30 (Anh Ngôn II, 135, tờ 26)



(1).
(2). 飛
(3).宿
(4).

Dã khê độ

(1).Tế vũ mai tiền lộ
(2).Phi hoa đoạn dã kiều.
(3).Tiểu đồng soa lạp túc
(4).Cô đỉnh cách khê chiêu.

Qua đò Dã khê

(1).Mưa bụi lấp nơi đường trước
(2).Hoa bay chận cái cầu giữa đồng
(3).Cậu bé ( đưa đò) lăn tơi nón nằm ngủ
(4).Có một cái đò cách sông phải kêu


QUA DÃ KHÊ

(1).Trước đường mưa bụi mịt mù,
(2).Hoa bay ngang cống chẳng chừa lối đi.
(3).Cậu đồng tơi nón nằm lì,
(4).Cách sông có một đò kia gọi hoài.

(TS, 122)

Bình:
Người thì gấp việc, đò thì cách sông, bên sông lại chỉ có một cái đò, mà thằng bé chèo đò thì lại nằm ngủ. Nó nằm ngủ vì chán đò thưa khách. Ừ mà có ai như ta đương lúc trời mưa rét mà lại phải qua đò như thế đâu!




Bài số 31.(Anh Ngôn I, 92, tờ 5)



(1).
(2).
(3).蜘 蛛
(4).

KHÁN ĐIỆP

(1).Tranh phi tế điệp mổi song song,
(2).Các bảo xuân tâm bất khẳng hàng.
(3).Vị trục tri hà phao tận võng
(4). Khẳng tha hứng đáo ngộ tương chàng.

(1).Đàn bướm nhỏ xíu kia đua nhau bay song song
(2).Con nào con nấy cũng ôm một lòng xuân không chịu hạ bớt xuống với!
(3).Thôi để ta vì chúng mà xua giùm nhện và màng nhện đi cho
(4).Kẻo khi cao hứng lại bay đụng vào nhau.


CON BƯỚM

(1).Tranh nhau, bướm lượn song song,
(2).Cành xuân rực rỡ cho lòng mê say,
(3).Lưới nhện bày sẵn nào hay,
(4).Nhởn nhơ đâu biết có ngày tai ương!



Bài số 32

宿

(1).愔愔
(2).
(3).耀
(4).
(5).
(6).
(7).
(8).

Dạ vũ trú hữu gia

(1).Thúy trúc âm âm dẫn xá thanh
(2).Liên sàng tiếu ngữ dạ tam canh.
(3).Quá môn diệu ảnh lưu đăng ảnh
(4).Duyên bích trùng thanh cấp vũ thanh
(5).Nội tẩu mộng tình phận chúc chỉ
(6).Chủ nhân ngâm tựu tục trà phanh.
(7).Minh triêu tân trưởng bình hồ ngạn
(8).Dã thị u cư nhất phiến tình.

Đêm mưa ngủ lại nhà bạn

(1).Tre xanh nước biếc phản chiếu vào
(TS, 124) xanh biếc cả nhà
(2).Anh em đặt giường gần nhau cười nói suốt đêm.
(3). Chớp nhoáng qua cửa, lưu ánh đèn lại
(4).Dế kêu bên vách, họa tiếng mưa rơi.
(5).Bà vợ bạn trong nhà mộng tỉnh, bưng cháo ra
(6). Ông chủ ngâm được câu thơ nào,lại gọi chế thêm trà.
(7).Mai đây ngủ dậy nước dợn đầy ao.
(8).Ây là tầm tình riêng của ta ở nơi cô tịch.

Đêm mưa ở nhà bạn

(1).Bốn bề tre, nước bọc xanh nhà
(2).Câu chuyện nằm đêm ta với ta
(3).Chớp nhoáng qua đèn còn lửa bén
(4).Dế reo bên vách với mưa hòa.
(5).Mộng rồi bà chi ra san cháo
(6).Ngâm thích,ông anh giục chế trà.
(7).Ngoài chái mai coi hồ nước dợn
(8).Một bầu tâm sự cảnh thôn gia.




Bài số 33 (Anh Ngôn II, 145, 32)



(1).
(2).
(3).
(4).佛法
(5).
(6).
(7).
(8).


Sùng Ân tự

(1).Thúy hoa lâm hạnh xứ
(2).Cổ tự đắc Sùng Ân (a)
(3).Thiên thủy lâu đài thế

(TS, 125)
(4).Phong vân thập pháp môn
(5).Lão tăng đầu diện bạch
(6).Xuân điểu ngữ năng ôn
(7).Lạc nhật tiều ngư ngoại
(8).Do văn cách phố huyên.

Chùa Sùng Ân

(1).Chỗ mà bóng cờ thúy hoa của nhà vua ngự đền
(2) (Ấy là chỗ mà)ngôi chùa cũ này. được hai chữ Sùng Ân.
(3).Chùa dựng giữa trời trên nước làm cái thế cho lâu đài.
(4).Trong cửa Phật có mây, có gió ( cửa Phật cũng có gió mây chả trách có lần đã được cung nghing ngự giá).
(5).Ngày xưa đức Phật tổ thấy người đời hay bịnh, mau già và mau chết mà bỏ cuộc đời đi tu. Té ra tu lâu nhà sư cũng phải bạc đầu!
(6).(Trái lại trời đương tiêt lạnh), con chim xuân kia học nói,lại có thể làm cho trời ấm lại được.
(7).Ngoài chỗ người ta hái củi, đánh cá, mặt trời đã lặn.
(8). Còn nghe tiếng ào ào bên kia bến sông.

CHÙA SÙNG ÂN

(1).Chốn xưa nghênh giá một lần
(2).Chùa xưa đặng chữ Sùng Ân muôn đời

(TS, 126)
(3).Chùa xây giữa nước cùng trời
(4).Gió mây cửa Phật có hồi nào tan (a)
(5).Riêng thương đầu trọc một đàn
(6).Tuổi già rồi cũng bạc chan mái đầu
(7).Hơn ai mõ sớm chuông chiều
(8).Chim xuân chỉ một tiếng kêu âm trời.
(9).Đám tiều ngư đã tối rồi
(10).Ồn ào chi hãy reo cười bên sông!

(a) Sùng Ân tự: Chùa này đời Lý là chùa Báo Ân, tọa lạc gần mé nước phía tây bắc Hồ Tây (nay thuộc đất thôn Quảng Bá, phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội). Đến thời nhà Nguyễn, vua Minh Mạng (1820 – 1840) đổi tên chùa thành Hoằng Ân tự .Còn theo văn bia dựng ngày 12/8/1844 hiện lưu giữ ở chùa, nguyên tên chùa từ thời Lê là Long Ân. Năm Minh Mạng thứ hai (1821), nhân chuyến tuần du ra Bắc, vua đã đến thăm chùa, lúc này chùa đã mang tên Sùng Ân tự. Năm Tân Sửu (1841), vua Thiệu Trị đến thăm chùa Sùng Ân mới cho đổi thành chùa Hoằng Ân và cho 200 quan tiền tu sửa chùa để sửa nhiều chỗ dột nát. Theo văn bia ấy, chùa còn có hai tên nữa là Long Ân tự và Sùng Ân tự…Tuy nhiên, chùa Vạt ở thôn Dương Ổ - xã Phong Khê - Bắc Ninh cũng có tên là Sùng Ân tự.



Bài số 34 (Anh Ngôn II, 143, tờ 25)



(1).西
(2).
(3).
(4).
(5).
(6).
(7).使
(8).悠悠

Hồi châu

(1).Tiểu đỉnh đông hồi nhật hướng tê
(2).Nam phong thiên thương lạc bồng di.
(3).Hậu loan điệp thất tiền loan khứ
(4).Thủy kỉnh phân khai thảo kỉnh tề.
(5).Lưỡng huyện yên hoa giao hạn cảnh
(6).Trùng thành kỳ ảnh chủy hồng nghê.
(7).Sứ quân tình thái như Phan Nhạc (a)
(8).Nhật mộ du du (b) vị yếm đề

(1).Lá thuyền con ở phương đông về thì mặt trời đã xế về tây
(2).Gió nam đè

(TS 127)
mui thuyền xuống mà bay vút lên trời.
(3).Khúc sông sau vừa tới thì khúc trước đã bị che lấp đâu mất rồi.
(4).Đường nước bằng phẳng như một con đường cỏ.
(5).Khói mây hai huyện giao lại và in giữa tấm gương sáng, nghĩa là giữa giòng nước trong vắt như gương.
(6).Bóng cờ xí cả hai huyện thành cũng rút lên phất phới giữa cầu vồng đỏ.
(7).(Phong cảnh đã đẹp mà) quan huyện có tính liêm khiêt thanh nhã như Phan Nhạc đời Tấn, làm quan Doãn ở huyện Hà Dương bên Tàu.
(8).Bởi vậy khách chơi ( qua chốn này) dầu trời đã tối, cũng không chán thú ngâm nga.


Thuyền về

(1). Thuyền ở Đông về bóng xế tây
(2).Mui thuyền đè thấp, gió cao bay
(3).Khúc sông khúc khuỷu, hình rồng rắn,
(4).Mặt nước xanh rờn, sắc cỏ cây
(5).Hai huyện ráng hoa như kính sáng,
(6).Mỗi thành cờ xí tựa trời mây
(7).Cảnh xinh, chủ lại người thanh nhã
(8).Khiến khách ngâm nga mãi tối ngày.

(a).
(b). Bản Đẩu Tiếp ghi là du nhân, bản Khảo cổ ghi du du.



(TS, 128)

Bài số 35 (Anh Ngôn I,43, tờ 17)



(1).
(2).
(3).
(4).
(5).
(6).
(7).
(8). 故人


Tiên Hưng (a) giáo thụ Lê Thường Lĩnh cửu bất tương kiến,phú thử dữ ký

(1).Lục (b) thiên lý ngoại sơ quy khách
(2).Nhị thập tuần dư vị tiếp quân
(3).Thất mã ông khuy tái thượng nguyệt,
(4).Điêu trùng sư ngọa hải biên vân
(5).Bế môn tự giác đa thô bỉ
(6).Khai quyển chung tàm thiểu kiến văn
(7).Thùy liệu tuyết môn xuân ký khứ
(8).Cố nhân Nam Bắc hựu ly quần.

Ta lâu chưa gặp quan giáo thụ Tiên Hưng là Lê Thường Lĩnh, nay có bài thơ:

(1).Ngoài nghìn dặm ta vừa trở về
(2).Đã hơn hai mươi tuần nhật, ta chưa ( có hân hạnh) gặp bạn
(3).Ta thì như cái ông già mất ngựa, mắt cứ đăm đăm nhìn bóng nguyệt ở trên đèo (c)
(4).Còn cái ông thầy trổ phượng


(TS, 129) chạm rồng kia thì vẫn nằm yên giữa đám mây ven biển (d)
(5).(Vắng nhà mô phạm ấy, ta chẳng thèm tiếp ai, muốn khép cửa lại, song) khép cửa lại ( làm ra cách bí mật nhu thế) thì cũng thô bỉ.
(6).Lại muốn mở sách ra đọc nhưng đọc sách lại cảm thấy kiến văn của mình còn hẹp hòi, ít ỏi quá, mà tự lấy làm thẹn thuồng.
(7).Ai ngờ nơi cửa tuyết, xuân đã qua rồi (e). ( đạo


(TS, 130) học đã đến ngày suy vi sụp đổ)
(8).Mà bạn cũ lại kẻ Nam người Bắc không được đoàn kết với nhau.)


Gửi thăm quan giáo thụ Lê Thường Lĩnh

(1).Cõi ngoài lui bước chịu nằm queo,
(2).Người cũ trông tin vẫn vắng teo.
(3).Rồng chạm, mùng thầy ,mây dọc biển
(4).Ngựa dông, mắt chủ nguyệt trên đèo.
(5).Khép buồng e cũng quê mùa nhỉ,
(6).Lật sách buồn cho kiến thức theo.
(7).Cửa tuyết ai ngờ xuân đã tếch,
(8).Bạn thân lại giận cách Ngô Lèo!

Bản khác:

(1).Ngàn dặm ta nay đã trở về
(2).Bao nhiêu tháng rộng đã xa quê.
(3).Tái ông mất ngựa trăng đêm chiếu
(4).Thi sĩ chạm rồng mây biển che.
(5).Vắng mặt bạn vàng, đóng cửa chặt.
(6).Xem trang sách cũ, thẹn lòng quê.
(7).Luân thường đạo lý nay suy sụp
(8).Bằng hữu bắc nam đã biệt ly.

__

Tân chú:
(a).Tiên Hưng : xưa là phủ Tiên Hưng, rồi huyện Đông Hưng, sau thành thị trấn của tỉnh Thái Bình
(b).Bản Đẩu Tiếp ghi là nhất 一; bản Viên Khảo Cổ là lục
Hai câu thực (3,4) đươc khuyên đặc cả hàng
.

Cựu chú
(c).Xưa có một ông già ở trên đèo mất ngựa, người ta an ủi rằng"Biết đâu chẳng phải là phúc!" Sau nhựa lạc sang Hồ rủ về một con ngựa khác. Người ta bảo:"Biết đâu chẳng là họa?" Quả nhiên người con ông cỡi ngựa té gãy tay. Người ta an ủi ông:" Biết đâu chẳng là phúc!" Sau giặc giã nổi lên, con ông có tật nên khỏi đi lính.
(d). Nguyên văn chữ Hán điêu trùng là chạm trổ. Theo điển trong sách Dương Tử có câu đại khái ta yêu thơ phú lắm cũng như đứa trẻ ưa chặm hình con sâu, xoi hình con mọt mà chơi, chắc kẻ tráng phu không thèm như thế".Ở câu thơ cụ Phương Đình vì có mấy chữ mây nên ký giả đổi chữ sâu ra chữ rồng để chôi với mây.Sách nho có câu" điêu trùng đắc lực" là cham rồng nên việc. Ý nói làm được bài văn hay.Người điêu trùng tiểu kỹ là thi văn sĩ có tài đẽo gọt từng câu, từng chữ.Ý khen là tay thi văn sĩ tài ba.
(e).Ông Trình đi dạy học một ngày kia có hai đứa học trò đứng hầu tiên sinh mắt lòa nên không thấy cứ để đứng vậy cho đến tối mò, mà hai cậu cũng không dám bỏ ra về. Sau tiên sinh mới biết ra mới cho lui gót. Do đó người sau dùng cửa tuyết để chỉ nhà học
.


Bài số 36 (Anh Ngôn II,150, tờ 32)



(1).
(2).
(3).
(4).
(5).
(6).
(7).
(8).


Tam nguyệt hối nhật giang thượng ngâm

(1).Bất biện thiên nhi, dữ thủy (nhai) nhi
(2).Bán không vân nhật ý câu trì.
(3).Tam xuân chung cổ hà năng dĩ
(4).Nhất trạo thanh giang tứ sở chi
(5).Lưu thủy đào hoa triêu dục lãng
(6).Hải môn yên vũ mộ như xuy
(7).Du nhân tài lĩnh đông phong tống
(8).Hoàn tống đông phong hựu thử thì


(TS, 131)

Trên sông đêm ba mươi tháng ba

(1).Đêm này ba muơi tháng ba. Ừ đêm ba mười nên trời tối mò mò, khó phân biệt đâu là chân trời đấu là mặt nước.
(2).Ý hẳn vừng hồng và đám mây kia đều bị chậm trễ (vì việc gì) ở giữa trời ( nên vừng hồng chưa ló mặt, mà đám mây kia cũng chưa hé mở cho vừng hồng ló mặt ra). Âu có lẽ vì Xuân có một đêm nay nên tiếc Xuân đi, mà trời còn do dự chưa chịu sáng ra chăng?)
(3).Từ xưa ba tiết Xuân (Mạnh xuân là đầu xuân, trọng xuân là giữa xuân, Quý xuân là cuối xuân) mà sao mà đi hết đi được ( Xuân qua rồi xuân lại, xuân có bao giờ đi dài đi đâu?)
(4).(Đã không sợ xuân đi dài, thì sợ chi thuyền đi lạc?) Đẩy một mái chèo cho thuyền trôi ra giữa dòng nuớc trong xanh, rồi thả cho thuyền muốn trôi đi đâu thì trôi.
(5).Mai đây (rồi rẽ thấy bao nhiêu) hoa đào cuốn theo dòng nước ( thì xuân tàn thì hoa rụng lạ gì sẽ thường xưa nay?)
(6).Bây giờ trong đêm tối cảm thấy mưa như từ miệng biển (cửa biển) phun ra.
(7).Khách đi chơi thuyền, bổng dưng mà được gió đông.


(TS, 132) theo tiễn đưa
(8).Cùng một lúc ấy khách cũng tiễn đưa gió đông đi một thể. (Ôi, xuân đi gió đông đâu còn ở lại!)


Trên sông tối ba mươi tháng ba

(1).Nước trời nào thấy chi chi
(2).Trong mây do dự việc gì vừng soi
(3).Xuân đi nào đã đi dài
(4).Giữa giòng thả mặc thuyền trôi phương nào.
(5).Mai coi sóng cuộc hoa đào
(6).Giờ nghe miệng biển phì phào mưa bơi (a)
(7).Gió đâu theo tiễn thuyền ai,
(8).Thuyền ai cũng tiễn gió xuôi một lần.

Bản khác:

Khó phân mặt đất với chân trời,
Bóng ác trong mây chẳng chiếu soi.
Ba tháng xuân dài ngày chửa hết,
Một dòng nước bạc, thuyền còn xuôi.
Đã nghe mưa bụi ngoài bờ nổi
Sẽ thấy hoa đào trên sóng trôi.
Đưa tiễn khách du, cơn gió thối
Khách du cũng biệt gió đông thôi!




(TS, 133)


(a). Mưa bơi: dịch chữ yên vũ là mưa bụi ở ngoài biển.

Bình:
Bài này hay nhất câu kết, tác giả lập tứ thật khéo: Gió xuân từ sau thuyền thổi tới, nên tác giả nào cho rằng gió xuân đưa thuyền đi. Nhưng thuyền đi không kịp gió, nháy mắt, gió đã lên trước thuyền đi theo sau như đi đưa, thế là thuyền đưa gió đông đi, gió đi rồi thì thuyền ở lại! Thuyền khách đưa gió xuân, gió xuân đưa thuyền khách, in hệt cảnh người ta đưa nhau.






Bài số 37 (Anh Ngôn II, 158, 34)



(1).
(2).
(3).
(4).


An Sơn (a) huyện

(1).Tà nhật ỷ lâm chuyển
(2).Du vân cộng điểu hoàn
(3).Đông phong xuy thái cấp
(4).Lôi vũ bất ly san


QUA TRẠM YÊN HƯƠNG

(1).Mặt trời lúc về chiều vẫn xế về rừng y như cũ.
(2).Tầng mây kia( buổi mai từ trên núi ) bay đi đó đây, tối lại trở về cùng đàn chim.
(3).Gió đông thổi gấp quá
(4).Những trận mưa dông vẫn xây quanh hoài bên núi không rời (Những cái ta đã thấy đều tỏ ra tình quyến luyến nơi xưa chốn cũ của mình, khiến ta cũng chạnh lòng thương nhớ quê khôn biết chừng nào.


QUA TRẠM YÊN HƯƠNG

(1). Bóng chiều vẫn xế về tây
(2).Chim rừng tối vẫn theo mây bay về.
(3).Núi xuân mưa vẫn không lìa,
(4).Gió đông dù mạnh khôn bề thổi bay.

__
( a). Bản Đẩu Tiếp ghi An Hương, bản Khảo Cổ ghi An Sơn.




Bài số 38 ( Anh Ngôn II, 119, 16)



(1).西
(2).
(3).
(4).

Bàng thôn túy tẩu

(1).Đảo kỳ thôn cổ triệt đông tê
(2).Tế vũ liên triêu dĩ tác nê
(3).Hà khách đáo môn duy loạn khiếu
(4).Túy ông điên đảo quỵ đồn đề.


(1).Tiếng trống làng cầu mưa vang khắp đông tây
(2).Mưa bay cả buổi mai, đã làm cho đất thành lầy lội.
(3).Người khách nào trước cửa kêu om sòm lên thế?
(4).Té ra một ông già say rượu bị té chỏng giò đến biếu cái giò heo.


Lão say làng bên

(1).Trống cầu mưa đổ hạt mưa gieo,
(2).Mưa mãi đường đi hố lộn phèo.
(3).Ầm ĩ kìa ai kêu trước cửa
(4).Lão say trượt té biếu giò heo.



Bài số 39 (Anh Ngôn II, 138, tờ 27)

西
年,援,西



(1).
(2).西崛起
(3). 他人為國
(4).
(5).
(6).
(7).
(8).


Điếu thành tây Loa Sơn cổ chiến trường xứ
Chiêu Thống sơ niên, cầu Thanh sư nhập viện, Tôn Sĩ Nghị dữ Tây Sơn chiến bại, Quảng Châu thái thú Sầm Nghi Đống tử chi.


(1).Sự ký đồi ba bất khả chi
(2).Tây Sơn quật khởi diệc tùy di
(3).Tha nhân ỷ trọng nan vi quốc
(4).Khách địa khinh phù mãn khí sư
(5).Tự thử quan hà đa hữu lệ
(6).Tùng tiền thảo mộc tận sinh bi
(7).Khả liên tích cốt vô quy nhật
(8).Loạn dữ quần sơn nhứt vọng nguy.

Viếng bãi chiến trường Loa Sơn

(1).Việc lớn khi đã như sóng rã, thế khôn chống đỡ được nữa.
(2).Dầu tài cao sức mạnh

(TS, 136) như Tây Sơn hung hăng nổi dậy.. . cũng phải nghiêng đổ nữa thay! (Thế thì không lạ gì sự suy sụp của nhà Hậu Lê.)
(3).Quá tin cậy ở người ngoài, vua Lê chiêu Thống đã không thể giựt lại được non sông đất nước đã mất.
(4).Mà đất khách bồng bềnh, luống mong người cứu viện, binh người cầu không được,còn binh mình mang theo thì chết lần chết mòn (a).
(5).Bởi vậy từ đó non sông xiết bao ngậm ngùi khóc tình ly biệt
(6).Những cây cỏ hồi ấy, nếu may còn sống sót đến giờ, thì trông xơ xác buồn rầu như chưa hàn gắn được vết can qua ngày trước.
(7).Đáng thương thay những đống xương ai để lại kia! Ngày

(TS, 137) nào thì trở về quê nhà?
8).Thoáng trông qua thấy lô nhô như gò đống lẫn lộn với núi non

Viếng bãi chiến trường Loa Sơn (a)

(1).Sóng ngã, việc đành chống chẳng lên
(2).Tây Sơn nổi dậy cũng còn nghiêng.
(3).Cậy người cứu nước không xong chuyện
(4).Đất khách quân nhà mỏi đợi tin.
(5).Sông núi sụt sùi sầu biệt quyết
(6).Sông núi rên rĩ vứt cung tên.
(7).Nằm dai thương kẻ nhăng gò đống
(8).Trước mắt lô nhô lẫn núi lèn.


Bản khác:

(1).Thế nước suy rồi cứu được đâu!
(2).Tây Sơn hùng mạnh cũng tan mau!
(3).Vua Thanh , tướng Mãn lòng dối trá
(4).Đất khách, quân ta dạ đớn đau.
(5).Non nước một thời nhiều tủi hận
(6).Cỏ cây muôn thuở lắm u sầu!
(7).Thương thay cho những người binh sĩ
(8).Thành những đống gò ở núi sâu!

__

(a).Loa Sơn: Đêm 4 rạng ngày 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789) quân Tây Sơn do Đô đốc Long (còn có tên là Đặng Tiến Đông) chỉ huy. Trận này diệt tan đồn Khương Thượng ,tướng nhà Thanh là Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự tử ở núi Ốc (Loa Sơn) gần chùa Bộc bây giờ. Trận đánh đã mở đường cho đại quân Tây Sơn từ Ngọc Hồi thừa thắng tiến vào Thăng Long.

Bình:
Đứng trước bãi chiến trường đã đem lại sự suy vong cho nhà Lê, tác giả muốn an ủi hồn người thiên cổ nên đem lẽ hưng vong ở đời ra mà nói, lại dẫn ngay chuyện Tây Sơn là kẻ đã giựt nhà Lê và sau bị Nhà Nguyễn dứt lại, lý thuyết mạnh mẽ là dường nào!"Sóng ngã việc đành chống chẳng nên/ Tây sơn nổi dậy cũng còn nghiêng"" Đọc 14

(TS, 138) chữ ấy lên đủ làm tiêu tan cả mấy trăm năm buồn giận của Lê hoàng ở chín suối.Còn gì thỏa thích bằng khi nghe kẻ địch trước đã da91nh ngã mình nay lại bị người khác đánh ngã? Tình đời vẫn thế!




Bài số 40 ( Anh Ngôn II, 146, tờ 31 )



(1).
(2).
(3)
(4).
(5).
(6).
(7).
(8).

Chí Mễ Sở quan phỏng Lê Trác Phong đài

(1).Phàm chuyển Văn giang lộ
(2).Lâu khai Mể Sở quan
(3).Tế thiên duy lục thụ
(4).Bình địa thất thanh sơn
(5).Hứng tá xuân đào tráng
(6).Tâm như điếu đỉnh nhàn
(7).Cố nhân gia thử ngạn
(8).Mạc cấp độ tiền loan!

Qua cửa Mễ Sở thăm bạn Lê Trác Phong

(1).Thuyền buồm qua Văn Giang
(2).Qua Mễ sở thấy lầu nhô ra.
(3).Giữa trời chỉ có cây cối xanh ngắt một màu.
(4).Đất bằng làm mất vẻ non xanh (Không ai biết đâu là núi)
(5).Nhờ có sóng xuân (nhấp nhô giữa giòng) mà hứng thơ ta càng thêm mạnh.

(TS. 139)
(6).Lòng ta thấy nhẹ nhàng, thảnh thơi như chiếc thuyền câu kia vậy.
(7).Bạn xưa, nhà ở bên bờ sông( gần đò nào phải đâu xa)
(8).Đừng vội gì vượt qua khúc sông trước mặt.

Qua Mễ Sở hỏi thăm nhà bạn


(1).Văn giang buồm đã quay đầu (a)
(2).Trên đèo Mễ Sở mái lầu nhô ra.
(3).Trời sanh cây biếc bao la
(4).Đất bằng ai dễ biết là núi đâu.
(5).Sóng xuân dội hứng lên cao,
(6).Lòng này như lá thuyền câu kia nhàn.
(7).Bờ kia nhà bạn chi lan
(8).Qua đây chi dại vội vàng đi đâu!

Bản khác:

Thuyền hướng về Văn Giang
Mễ Sở đã thấy lầu.
Trời đất xanh một màu,
Chằng thấy núi ở đâu!
Nhờ sóng xuân thêm hứng
Lòng nhẹ như thuyền câu
Bạn ta nhà trên bến,
Cần gì vội đi đâu!

___

(a). Trước là chữ "vào", Thúc Giạ Thị đổi lại là "đầu" cho sát vần.



Bài số 41 (Anh Ngôn 155, 33)



(1).
(2).
(3).

(4).

(5).

(6).

(7).

(8).後疊亂孱顏
(9). 倏忽爭顯晦
(10).
(11).

(12).

(13).

(14).
第一
(15).

(16).



Tam Điệp hành

(1).Đáo thiên tri hữu lộ
(2).Tuyệt địa tức đăng san
(3).Tạo hóa phân kỳ xảo
(4).Thế đồ khởi tri gian?
(5).Bất tri kỷ vạn điệp?
(6).Thí lập trung phong gian.

(TS, 140)
(7).Tiền điệp đê phó hải
(8).Hậu điệp loạn sàn nhan
(9).Thúc hốt tranh hiển hối
(10).Bất biện vân dữ loan
(11).Thiên lâm (a) vãn đáo thử
(12).Đồng bộc quyển tê phan
(13).Ngã dục vãn tồ ảnh
(14).Lăng phong đệ nhất quan
(15).Đại hóa bỉnh cao chúc(b)
(16).Chung vô nhất khắc nhàn.


Qua đèo Tam Điệp (Ba Dội)


(1).Lên trời vẫn có đường
(2).Hết đất thì lên núi
(3).Thợ trời (xây ra núi non), muốn khoe khôn, khoe khéo mà chơi.
(4).Trời nào có biết bày ra cảnh cheo leo mà làm khó cho người đời đâu.
(5).Chẳng hay đèo này mấy vạn điệp nhỉ?
(6).Thử đứng giữa cái chóp chính của đèo giữa đèo mà xem.
(7).Điệp trước thỉ đâm sâu xuống dưới bể
(8).Điệp sau dựng đứng giữa trời
(9).Chốc lát ba điệp tranh nhau sáng tối
(10).Không làm sao phân biệt đưọc núi và mây.
(11). Núi có tự muôn nghìn đời, bây giờ ta mới qua đây một bận
(12).Lũ

(TS 141) tôi tớ theo ta đến mỏi gối chồn chân
(13).(Đường đã hiểm mà trời lại tối).Ta muốn kéo lại những tia sáng đã thoáng qua của mặt trời.
(14).Bèn vượt gió mà lên cái cửa cao nhất đèo
(15).Trời vẫn giơ cao đuốc (vẫn soi sáng cho đời).
(16).Rốt lại trời cũng chẳng nhàn hạ chút nào cả (Huống chi ta dám thấy mình cực khổ mà than phiền hay sao?)


Qua đèo Ba Dội

(1).Lên trời đường đã sẵn
(2).Hết đất, núi đây trèo!
(3).Tạo hóa khoe khôn khéo
(4).Biết đâu đặt hiểm nghèo
(5).Mấy dội đèo nào biêt!
(6).Thử đè dội giữa leo
(7).Dội sau trời chởm đá
(8).Dội trước biển quăng neo
(9).Ba dội tranh mờ sáng
(10).Núi mây ngó lộn phèo
(11).Nghìn đời qua đấy một
(12).Tôi tớ mỏi chân theo
(13).Bức tranh trời mới cuốn
(14).Ta muốn lôi ra treo

(TS, 142)
(15).Nhẹ nhàng lên với gió
(16).Lên cửa cao nhất đèo
(17).Trời cũng không nhàn hạ
(18).Nhật nguyệt tháng ngày treo

Bản khác:

(1).Đã có đường lên trời
(2).Hết đất thì lên núi
(3).Tạo hóa bày trò chơi
(4).Con người lâm hiểm nghèo
(5).Phải qua những mấy đèo
(6).Leo lên ngọn đèo giữa
(7).Đèo trước đâm xuống bể
(8).Đèo sau dựng lên trời!
(9).Ba đèo tranh sáng tối
(10).Khó phân mây và núi.
(11).Núi có tự muôn đời
(12).Nay ta mới qua chơi
(13).Bọn tùy tòng mỏi gối
(14).Ta muốn thấy mặt trời
(15).Vượt gió lên cao ngất
(16).Trời không hề thanh nhàn
(17).Luôn soi sáng ( theo dõi ) nhân gian.

Bình:

"Mấy dội đèo nào biêt!/Thử đè dội giữa leo/Dội sau trời chởm đá
Dội trước biển quăng neo/Ba dội tranh mờ sáng
Thế là ba đội, rõ là đèo Ba Dội.
Trong Hán văn và quốc văn ta cũng thế, hễ khi tả một vật gì mà trong bài không hề dùng đến tên ấy mà vẫn tả ra vật ấy, ấy là cái riêng của tác giả. Như cụ Nguyễn Văn Siêu đã tả đèo Ba Dội trên đó.


__
Chú:

(a). Bản ĐT ghi thiên thu. Bản KC thiên lâm.Ngàn rừng mà nay cuối cùng ta mới qua đây.
(b). Bản ĐT ghi chúc là đuốc, bản KC ghi chúc là soi xét. Theo bản KC thì Trời trên cao vẫn luôn soi xét.


Bài số 42 (Anh Ngôn II, 82, tờ 2)



(1).
(2).

(3).

(4).

(5).

(6).

(7).

(8).


Đăng chung lâu

(1).Lão ông giải cấu cộng huề châu
(2).Loạn đả lâu chung hoán thượng lâu
(3).Nhơn ngữ trà yên thiên bán lạc
(4).Thủy quang vân ảnh tọa trung phù
(5.Tà tà phi điểu qua cao thụ
(6).Cổn cổn tình vân điệp tế lưu.
(7).Bất vị di nhàn yên chí thử
(8).Giang san mạc thác cổ kim sầu.

(1).Tình cờ gặp ông đầu bạc (tức ông già Nguyễn Tín Trai có chùa tu ở trên Hồ Gươm), ông rủ ta cùng bơi thuyền vào chơi núi Ngọc.
(2).Trên núi chuông đánh inh ỏi, như giục khách lên lầu.
(3).Giữa khói trà thơm ngát, tiếng người nói ra rơi vào lưng chừng trời
(4).Ánh nước giọi lên mây, ánh mây giọi vào phòng lơ lửng giữa chỗ khách ngồi chơi
(5).Ngang tầm mắt chúng ta, trên ngọn cây cao ngất, chim bay qua bay lại (nhẹ nhàng)
(6).Trông xuống đất thấy hồ Gươm nhỏ xíu, sóng lăn tăn gợn lên những vẻ sáng chói của bầu trời quang tạnh.
(7).Nếu chẳng cốt ở sự cầu vui, thì ai có đến đây làm gì?
(8).(Bởi vậy) hỡi giang sơn ta Những việc đáng buồn đáng giận xưa nay, xin chớ gợi ra làm gì cho lòng ai thêm bận

Lên lầu chuông chùa Ngọc Sơn

(1).Gặp ông đầu bạc ghé con xuồng
(2).Kêu khách trên lầu gióng giả chuông.
(3).Tiếng nói thơm trà rơi giữa trống
(4).Bóng mây loè nướv giỡn trong buồng.

(TS, 143)
(5).Cành cao chim liệng ngang tầm mắt
(6).Dòng hẹp sóng dồn chói vẻ gương.
(7).Chẳng cốt mua vui ai đến đấy
(8).Non sông đừng gợi mối bi thương.

(Hai câu 3, 4 : điểm)

Bài số 43



(1).
(2).

(3).

(4).


Trung thu ngọa bệnh

(1).Tu tri nhân sự diệc do thiên
(2).Nguyệt đáo trung thu nguyệt tự viên
(3).Đối thử bất kham yêm bệnh ngọa
(4).Khởi khan nhi bối cạnh đặng tiền.

Trên giường bệnh dưới trăng thu

(1).Cho hay việc người cũng do trời
(2).Vừng trăng (khuyết )kia, hễ đến rằm tháng tám thì tự nhiên lại tròn.
(3).Trước cái cảnh ấy, lòng nào ta lại ôm bịnh mà nằm cho được?
(4).Nên dậy mà xem đàn con tranh giành nhau đùa giỡn trước đèn.

Trên giường bệnh dưới trăng thu

(1).Cho hay muôn việc tại trời
(2).Đêm rằm tháng tám vừng soi tụ tròn!
(3).Người đâu chịu cảnh ốm mòn,
(4).Trước đèn dậy ngắm đàn con nô đùa.




Bài số 44. (Anh Ngôn II, 159, 34)

暮宿山涇 陽王廟

(1). 一去螺城萬事荒
(2).長途遺廟海山蒼
(3).臨 風孔雀雙雙舞
(4).曾聽鵑聲拜蜀王

MỘ TÚC SƠN KINH DƯƠNG VƯƠNG MIẾU

(1).Nhất khứ Loa thành, vạn thụ hoang,
(2).Trường đồ di miếu hải sơn thương.
(3).Lâm phong khổng tước song song vũ,
(4).Tằng thính quyên thanh bái Thục vương.

(1).Một phen ( vua Thục An Dương vương) bỏ trống thành Loa mà đi , cây cối Loa Thành đã bị bỏ hoang.
(2).Hai bên vệ đường đi dài thăm thẳm một ngôi miều để lại giữa chốn biển non xanh ngắt.
(3). Bầy chim cuông trước gió, song song đua nhau bay múa
(4).Ấy là vì đã nghe tiếng quốc kêu, nên bầy cuông mới bay múa như thế để chầu lạy Thục vương.

ĐỀN CUÔNG THỜ VUA THỤC

Một bỏ Loa Thành, cây mọc hoang,
Non xanh còn miếu ở ven đường.
Đàn công trong gió cùng nhau múa,
Nghe tiếng Đỗ quyên lạy Thục vương.

Bình:

Sách Tàu chép Đỗ Vũ tức Đỗ chủ tức Bồ ti làm vua Thục hiệu là Vọng Đế bởi buồn rầu về nỗi mất nước mà hóa ra làm chim Đỗ Quyên, hoặc gọi là Tử Quyên, là Tử Quy là Tử Tấn, ta gọi là con cuốc. Vua nước Thục và vua nước Thục Cồ Việt cũng đồng gọi là vua Thục, và cũng cùng chung hoàn cảnh mất nước như nhau nên mượn vua Thục này để nói vua Thục kia mà có lẽ hai ông cũng là một, bởi bên đền Thục An Dương Vương thì có tiếng Đỗ Quyên là hậu kiếp của Đỗ Vũ nước Thục.



Bài số 45 (Anh ngôn I, 90, tờ 5)







(1).
(2).
(3).
(4).
(5).

(6).

(7).
(8).


Hữu nhân phú cổ cú tam thiên kiến ký nhân phúc
Kỳ nhị


Hoa tận điệp tình mang
Thất luật đắc mang tự

(1).Khả liên mạng bạc thậm ư trang
(2).Nhứt hóa không viên vị liễu mang
(3).Hồn mỗi thác hương năng bất đoạn
(4).Thân tuy thị mộng hảo tri thương
(5).Ảnh phao diệp diệp chi chi sấu
(6).Hận trục phong phong vũ vũ lương.

(TS,147)
(7).Xuân tận tích xuân xuân tự tận
(8).Giao tâm khổ xứ thị tâm phương.

Có người đưa cho ba đề cổ phú bèn đáp lại
Bài thứ hai

Hoa tàn vương tình bướm
Thơ thất ngôn bát cú, theo vần mang.


(1).Khá thương con bướm phận mỏng hơn ông Trang (a)
(2).Vườn đã tàn, hoa đã rụng mà lòng yêu hoa vẫn còn.
(3).Hồn vẫn còn phảng phất theo hương, có thể không bao giờ dứt được.
(4).Tuy thân mình là mộng (a) song cũng biêt đau lòng
(5).Bóng dáng theo cành lá mà gầy mòn
(6).Sầu hận những gió gió mưa mưa thêm lạnh nhạt
(7).Xuân hết, tiếc xuân Xuân cũng tự hết
(8).Thôi thì chỗ mà khổ lòng bướm, ấy là chỗ thơm lòng hoa.

Bài thứ hai
Hoa rụng thương tình bướm


(1).Xót mệnh bạc chẳng bằng Trang Tử
(2).Hoa hết vườn còn nhớ còn thương.
(3).Hoa tàn hồn mãi theo hương,

(TS, 148)
(4).Biết mình là mộng đời còn buồn tênh
(5).Theo cành lá, thân hình gầy ốm,
(6).Những gió mưa sầu hận pha phôi.
(7).Tiếc Xuân,. Xuân vậy thời thôi
(8).Chỗ lòng cay đắng, là nơi thơm lòng.

___

(a).Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa ra bướm mà bụng vẫn tỉnh, vẫn biết mình là Trang Chu.Sau lúc mộng tàn, lòng tự hỏi lòng:Là Trang Chu sao lại hóa bướm?Là bướm sao lại hóa ra Trang Chu?


Bài số 46 (Anh Ngôn II,67, tờ 31)



(1).
(2).蕭蕭
(3).
(4).
(5).
(6).
(7).
(8).


Vịnh thủy tiên hoa

(1).Chất bạch thần thanh uẩn lí hoàng
(2).Tiêu tiêu độc lập thủy vi hương
(3).Nhân gian mạn tự khoa kim ốc
(4).Tiên tử nguyên lai hiệu ngọc đường
(5).Liên chúc dạ thâm hàn kiến ảnh
(6).Lan đài xuân hiểu đạm di hương
(7).Cách lâm hà sự tranh hồng tử
(8).Tằng dữ Đông quân kết Tố Phương.

(1).Cái chất thì trắng, cái thần thì trong, giữa lại ngậm vàng.
(2).Ong óng đứng một mình, lấy nước làm làng.
(3).Người đời thường ( tự cho là đẹp) tự khoe khoang là nhà vàng ( không biêt có nhà vàng thật)

(TS, 149) không?(a)
(4).Chớ người tiên này thì nguyên hiệu là "nhà ngọc" đấy.
(5).Đêm khuya trời lạnh lẽo là dường nào, thế mà soi đuốc sen lên thì thấy bóng hoa thủy tiên ta vẫn đó.
(6).Ngày xuân mới rạng, đã thoang thoảng đưa hương tới đàn lan.
(7).Ở trong rừng sâu ( ai đâu biết đến) việc gì mà cũng tranh hồng tranh tía ( với trăm hoa)
(8).( Chỉ vì) đã trót cùng chúa xuân nguyền chữ " vốn thơm" với nhau ( nghĩa là hễ xuân đến thì tự nhiên thơm chẳng có ý muốn so đo cùng ai hết)


Vịnh hoa thủy tiên

(1).Chất trắng thần trong, giữa ngậm vàng
(2).Tánh riêng, riêng lấy nước làm làng.
(3)."Nhà vàng" miệng thế ai khoe khoác
(4)."Bệ ngọc " người tiên hiện rõ ràng.

__

(a).Vua Hán Vũ đế lúc còn nhỏ mê nàng Ất Kiều, thường nói rằng" nếu được người đẹp ấy thì nên rước vào nhà vàng mà thôi. Đó là một điển nhà vàng. Còn một điển này nũa. Theo sách Thi Thoại, Thạch Sùng vuốt ve hoa hoa hải đường:"Nếu mà hương thơm thì nên chứa nhà vàng.

(TS, 149)
(5).Đêm tuyết, đuốc lòe, xa thấy bóng,
(6).Đài lan, xuân rạng thỏng đưa hương.
(7).Việc gì cách núi đua hồng tía
(8).Thơm sạch vì xuân nghĩa cũ càng.


Bài số 47. (Anh Ngôn II,111, tờ 13)

人自北寧來言北寧事感作

(1). 怪事怪事不忍聞
(2).自畫殺人全家去
(3).軍吏過者顧之他
(4).鄊里藏匿不敢語
(5).語者十人無一生
(6). 家 家 灰 盡成飛絮
(7).捉人官道如 深山
(8). 往來星散無人拒
(9).讐 者索 錢復殺之
(10).人家 牛 酒日厭飫
(11).朝夕橫行圍里閭
(12).府縣衙邊辰散處
(13).頃刻連破 二三 村
(14).驚 惶走散老兒女
(15). 太 甚弗獲已之官
(16).尋復一空軸與杼
(17).嗚呼嗚呼北寧民
(18). 一望平原無險 阻
(19).朝廷威 德與 天齊
(20).天下東西咸安居
(21).湖為乎一方鴻雁長悲鳴
(22).偷生尔田狐及野 鼠
(23). 一婦含冤六月霜
(24).况乃連年填溝淤
(25).千里門門不盡 聞
(26).宜乎春來疾風與疾暑
(27). 早挽 三軍西塞回
(28).看 尔逋誅 何處所
(29).願言守土急為 謀
(30). 勿 使聞者徒憂慮
(31).滴遛不塞為頹波
(32).大火燎原 纔一炬



Nhân tự Bắc Ninh lai, ngôn Bắc Ninh sự cảm tác

(1).Quái sự! quái sự, bất nhẫn văn,
(2).Bạch trú sát nhân toàn gia khứ.
(3).Quân lại quá giả cố chi tha.
(4).Hương lý tàng nặc bất cảm ngữ.
(5).Ngữ thập nhân vô nhất sinh,
(6).Gia gia hôi tân thành phi nhứ.
(7).Tróc nhân quan đạo như thâm sơn
(8).Vãng lai tinh (a) tán vô nhân cự
(9).Thù giả sách tiền phục sát chi
(10).Nhân gia ngưu tửu nhật yêm ứ
(11).Triêu tịch hoành hành vi lí lư.
(12).Phủ huyện gia biên thời tán xử
(13).Khoảnh khắc liên phá nhị tam thôn,
(14).Kinh hoàng tẩu tán lão nhi nữ
(15).Thái thậm phất hoạch dĩ chi quan.
(16).Tầm phục nhất không trục dữ trữ.
(17).Ô hô! Ô hô! Bắc Ninh dân
(18).Nhất vọng bình nguyên vô hiểm trở
(19).Triều đình uy đức dữ thiên tề
(20).Thiên hạ đông tây hàm yên cư
(21).Hồ vi hồ nhất phương hồng nhạn trường bi minh
(22).Du sinh nhĩ điền hồ cập dã thử
(23).Nhất phụ hàm oan lục nguyệt sương
(24).Huống nãi liên niên điền câu ứ
(25).Thiên lý môn (b) môn bất tận văn
(26).Nghi hồ: xuân lai tật phong dữ tật thử
(27).Tảo vãn tam quân tây tái hồi
(28).Khan nhĩ bô tru hà xứ sở
(29).Nguyện ngôn thủ thổ cấp vi mưu
(30).Vật sử văn giả đồ ưu lự
(31).Trích lưu (c) bất tái vi đồi ba
(32).Đại hỏa liêu nguyên, tài nhất cự


Có người ở Bắc Ninh tới kể chuyện Bắc Ninh cảm xúc mà làm thơ


(1).Việc quái lạ, việc quái lạ! Không nỡ nghe!
(2).Giữa ban ngày mà giết cả nhà người ta.
(3).Quan quân qua đó cũng ngó lơ đi chỗ khác
(4).Hương lý thì giấu diếm đi không dám nói.
(5).Hễ nói ra thì mười người

(TS, 152) không còn một
(6).Nhà nào nhà nấy bị đốt ra tro, đều bị hóa ra tàn mà bay (lên trởi) hết
(7).Chúng nó bắt người giữa đường cái như trong rừng sâu.
(8).Chúng tự do qua lại trong làng, không ai chống cự.
(9). Thù ai thì chúng cướp cả của, giết cả người.
(10).Trong nhà người ta, chúng nó mổ trâu đánh chén, lần lửa ở lại ngày này qua ngày khác.
(11).Buổi mai cũng như buổi chiều, chúng nó làm ngang, vây lấy các làng.
(12).Lúc bấy giờ các quan phủ huyện ở gần đã cùng nha lại chạy trốn mỗi người một phương.
(13).Chỉ trong giây lát mà lũ giặc cướp kia phá hết hai ba làng đi liền.
(14).Trai, gái, trẻ, già chẳng còn hồn nào nữa, xô đạp nhau mà chạy quàng, chạy hoảng.
(15).Cực chẳng đã mới chạy lên quan mà thưa (biết đâu quan đã chạy trước mình).
(16).Lúc ở quan về thì hỡi ơi cơ nghiệp, máy cửi bỏ không.
(17).Này dân Bắc Ninh! Dân Bắc Ninh!
(18).Chỗ xưa núi non sầm uất, nhà cửa chập chùng bây giờ trông ra chỉ còn là một cái đồng bằng, còn gì hiểm trở nữa đâu!
(19).Triều đình uy đức bằng trời
(20).Thiên hạ bốn phương

(TS, 153) đều được an ổn
(21).Sao mà riêng một phương này dân thì như chim hồng ,chim nhạn mãi mãi kêu sầu.
(22).Mà lũ giặc cướp kia thì như chuột nội, chồn đồng cứ lén lút mà sống dai để làm hại dân trời!
(23).Xưa một người đàn bà bị oan mà tình oan còn động đến trời, đương tháng sáu mà sương rơi xuống (c)
(24).Huống gì

___



(TS, 154) luôn mấy năm nay, thây ma lấp đầy rãnh, đấy mương (tình cảnh lại càng đáng thương biết là dường nào?)
(25).Cung điện của nhà vua ở cách xa muôn dặm, làm sao mà nghe biết hết cả?
(26).Có lẽ vì thế mà đương tiết xuân lại có cái nắng gay gắt và cái gió nồng nực như thế này.
(27).Sớm muộn rồi đây, ba quân đóng ở ải tây cũng sẽ kéo về.
(28).Để rồi xem chúng chạy đi đâu cho khỏi chết.
(29).Xin nhắn những ai có chức vụ giữ gìn đất nước phải toan tính làm sao gấp gấp.
(30).Đừng để cho người nghe mà luống buồn!
(31).(Chớ nên khinh việc nhỏ mà bỏ qua) Một cái lỗ mội nhỏ xíu ở bờ đê mà không lấp ngay, sẽ làm cho sóng mạnh tuôn vào
(32).Và cái

(TS, 155) sức lửa dữ dội cháy cả ruộng đồng kia nguyên cũng tại vì một chút tàn đuốc mà xẩy ra đấy!


Thời loạn nghe chuyện Bắc Ninh

(1).Tin đâu chẳng nở nghiêng tai,
(2).Ban ngày giết sạch nhà ai cả nhà.
(3).Quan quân qua đó ngó qua,
(4).Lý hương biết đó dám đà hở môi.
(5).Hở ra mười mạng mất mười,
(6).Nhà nhà lửa dậy, một trời tàn bay (e).
(7).Như trong rừng rậm, truông dày
(8).Người đi đường cái trói vày, bắt ngang!
(9).Thong dong vào xã, ra làng,
(10).Đã gan cướp của, lại gan giết người!
(11).Trâu người mổ thịt chén chơi
(12).Nhà người cứ ở nay mai mặc lòng.
(13).Quanh miền vây bũa một vòng
(14).Các quan phủ huyện đã đông khỏi thành
(15).Mãy làng một phút tan tành,
(16).Gái, trai già trẻ thất kinh chạy dài.

__


(TS. 156)
(17).Đi quan, quan vắng kêu ai?
(18).Về nhà trở lại kêu trời nhà không.
(19).Này dân tỉnh Bắc dậy trông,
(20).Vẻ xưa cẩm tú, non sông thôi rồi.
(21).Triều đình uy đức bằng trời,
(22).Đông tây nam bắc nơi nơi thái bình.
(23).Cớ chi riêng một vùng mình
(24).Để chi hồng nhạn thất thanh kêu sầu?
(25).Để chi chuột, cáo bấy lâu
(26).Trong hang lén lút ngoi đầu làm hung!
(27).Riêng oán chút phận má hồng
(28).Một ngày mạng bạc, ba đông nắng vàng.
(29).Phương chi loạn mấy năm trường
(30).Biết bao xương máu lấp đường, đầy khe.
(31).Chín trùng thăm thẳm có nghe,
(32).Trời xuân sao có nóng kia lạnh này?
(33).Rồi đây chẳng chóng thì chầy
(34).Ba quân đồn trú ải tây kéo về.
(35).Thử xem lũ giặc giã kia
(36).Cao bay xa chạy được đi đằng nảo?
(37).Nhờ trang hào kiệt lo mau
(38).Sao cho đừng để ầu sầu người nghe
(39).Đừng khinh việc nhỏ không dè,
(40). Cháy rừng tàn đuốc, vỡ đê hang trùn!


(a). Bản DT ghi là li tán
(b).Bản ĐT " lư môn", Bản KC " môn môn"
(c). Bản ĐT ghi "quyên", bản KC ghi " lưu"
(d).Dưới triều Tuyên đế nhà Hán tại quân Đông Hải có người dân hiền là Trương thi, theo sách Nữ Phạm, thờ bà gia rất hiếu. Chồng chết vẫn không chịu cải giá, quyết ở vậy nuôi mẹ tới già.Bà mẹ bảo rằng ta đã già rồi không lẽ cứ sống dai vậy mà làm khổ cái đời trẻ trung, đẹp đẽ của con? Rồi bà tự vẫn, con gái bà vu cho Trương thi giết mẹ. Vu công làm ngục lại biết rõ đầu đuôi minh oan cho Trương thị song không được, rốt cuộc nàng bi rơi đầu dưới lưỡi kiếm bất công của quan quận thú. Từ đó trong quận hạn đến ba năm .Quan quận thú cũ đổi đi, quan quận thú mới đổi lại, Vu công thưa rằng vì quan thái thú trước giết oan Trương thị nên mới mất mưa lâu thế. Vị thái thú cho làm chay và dựng bia cho nàng, tức thì trời đuơng nắng vàng bỗng rơi mưa ngọc. Điển người đàn bà bị oan theo sách Nữ Phạm là vậy, xét ra không thấy nói gì
đến việc tháng sáu có sương. Có lẽ cụ Phương Đình đọc qú nhiều sách nên nhớ lộn điểu trên với điển này chăng? Trâu Diễn nhà Chu thờ vua Huệ vương nước Yên rất trung thành, các quan tả hữu nói dèm sao đó mà Trâu Diễn bị hạ ngục. Họ Trâu đêm ngày ngửa mặt lên trời kêu khóc. Chắc tình oan động đến trời nên đương tháng sáy mà trời có sương lẽ ra tháng 9 mới có!

Tân bình:

Dù là cùng duy tâm, tin thần thánh nhưng các tôn giáo và dư luận giải thích các sự kiện khác nhau, nhiều khi vô lý, hoặc mâu thuẫn. Nếu thượng đế công minh tại sao lại sinh ra những người ác tâm vu khống và bọn quan lại ngu dốt xử án sai lầm? Nếu thượng đế biết sai sao không cứu cho nạn nhân khỏi chết mà lại để cho nạn nhân chết thảm? Sao không trừng trị kẻ phạm tội mà lại làm hạn hán khiến cho mọi người phải khổ? Trời linh thiêng không? Quỷ thần linh thiêng không? Thánh thần có công bằng không? Rất khó mà trả lời việc này!
(e).Nguyên dịch giả viết "Một lần lửa dậy một trời nhà bay"
Đây sửa lại theo lời Thúc Giạ Thị tiên sinh.




Bài số 48

真樂

(1).數盌 清香一小 童
(2).盡 書誦 罷卧南風
(3). 滿 園桂月分分
(4). 夾壁 橊花 隱 隱 紅
(5).獨 立每 驚成褊狹
(6).端居正恐落虛 空
(7).自 從真樂無人識
(8).寥寂多為避 俗翁

Chân lạc

(1).Sổ uyển thanh hương nhất tiểu đồng
(2).Tận thư tụng bãi ngọa nam phong.
(3).Mãn viên quế nguyệt phân phân bạch,
(4).Giáp bích lưu hoa ẩn ẩn hồng.
(5).Độc lập mỗi kinh thành biển hiệp
(6).Đoan cư chính khủng lạc hư không
(7).Tự tùng chân lạc vô nhân thức,
(8).Liêu tịch đa vi tị tục ông.

Niềm vui thật

(1).Mấy chén trà thơm, một cậu đồng (hầu hạ)
(2).Sách xem xong rồi thì nằm hóng gió nam
(3).Đầy vườn bóng quế ( nghĩa là bóng trăng) lốm đốm bạc.
(4).Sát vách, hoa lựu rực rỡ hồng
(5).Đứng riêng thì hằng sợ ra người bỏn xẻn.
(6).Ngồi nghiêm (như Bụt) thì e lạc cõi hư không.
(7).(Cho nên) tự mình tìm lấy điều vui chân thật mà không ai biết
(8).Ở những noi liêu tịch như thế này phần nhiếu là những ông muốn lánh xa cõi tục.

UỐNG TRÀ ĐỌC SÁCH

(1).Một chén trà thơm, một cậu đồng.

(TS,158)
(2).Đọc xong nằm khểnh dưới nam phong.
(3).Ánh trăng man mác, vườn rơi bạc,
(4).Hoa lựu lơ thơ tựa điểm hồng.
(5).Đứng tách e ra người ích kỷ,
(6).Ngồi nghiêm sợ lọt cõi hư không.
(7).Theo điều "vui thật" ai mà biết?
(8).Hiu quạnh xui người dễ sạch trong.



Bài số 49 ( Anh Ngôn II, 83, 2)

樓上偶得二 絕

(1).一 水中浮地
(2).長流到載天
(3). 漁舟春送客
(4).迴棹宿 花邊


(1).來無車馬跡
(2).去與鷺鷗羣
(3).久有忘機興
(4). 漁翁肯 半分

Lâu thượng ngẫu đắc nhị tuyệt

(1).Nhứt trản (a) trung phù địa
(2).Trường lưu đảo hải thiên.
(3).Ngư châu xuân tống khách,
(4).Hồi trạo túc hoa biên.

*
(5).Lai vô xa mã tích
(6).Khứ dữ lộ âu quần.
(7).Cửu hữu vong cơ hứng
(8).Cư ông khẳng bán phân


Lên lầu
hai bài tứ tuyệt

(1).Cái hồ này giữa có một hòn núi đất (trông như cái chén giữa có đất ) nổi lên.
(2).Cả dòng nước dài lật ngửa trời mà

(TS,159) chở đi.
(3).Lá thuyền chài đưa khách đi chơi xuân.
(4).Quay chèo lại ngả ở bên hoa.
(5).Lại tì không có dấu xe ngựa
(6).Qua thì có bạn ngỗng cò.

TRÊN LẦU TRÔNG XUỐNG HỒ GƯƠM

(1).Giữa hồ đất nổi một vồng
(2).Tận trời nước chảy đi vòng bốn phương
(3).Thuyền ngư đưa khách tìm hương
(4).Quay chèo về đậu ở luồng hoa kia.

*

(5).Đường qua không dấu ngựa xe,
(6).Ngỗng trời, vịt nước đi về cùng vui.
(7).Đã lâu ta muốn xa đời,
(8).Chủ nhân có chịu chia đôi cảnh này?

Bản dịch khác:

(1).Bốn bề nước bao la
(2).Giữa hồ nổi một gò
(3).Thuyền câu chở khách du
(4).Quay chèo về bến hoa.
(5).Đường không dấu xe ngựa
(6).Hồ có nhiều ngỗng, cò.
(7).Cảnh này ta muốn tu
(8).Xin chia ta một nửa!

(a). Bản ĐT ghi trản, bản KC ghi thủy.



Bài số 50

紅日

(1).丹桂 一叢梅 一叢
(2).半園紅日滿園風
(3).覺来問 僕眠多少
(4). 曾有高吟出夢中

Hồng nhật

(1). Đan quế nhất tùng, mai nhất tùng

(TS, 160)
(2).Bán viên hồng nhật, mãn viên phong.
(3).Giác lai vấn bộc miên đa thiểu
(4).Tằng hữu cao ngâm xuất mộng trung.

(1).Quế đỏ một bụi, mai một bụi
(2).Nắng hồng nửa vườn, gió đầy vườn.
(3).Tỉnh dậy hỏi tiểu đồng (rằng ta đã) ngủ nhiều hay it,
(4).(Mà sao) trong mộng đã từng có khúc ca ngâm?


(1).Mai một bồn, quế một bồn,
(2). Nửa vườn nắng lọt, cả vườn gió thâu.
(3).Tỉnh ra hỏi giấc mau lâu?
(4).Đã nghe trong mộng mấy câu thơ thần!


(TS, 162)

Bài số 51

懷古

(1).當年石虎不 生風
(2). 一帶荒山綠野中
(3).盤據千秋 猶白地
(4).杜鵑聲處落花紅

Hoài cổ

(1).Đương niên thạch hổ bất sinh phong,
(2).Nhứt đái hoang sơn lục dã trung.
(3).Bàn cứ thiên thu do bạch địa
(4).Đỗ quyên thanh xứ lạc hoa hồng.

Hoài cổ

(1).Hồi ấy những con cọp đá kia không

(TS, 161) thét ra gió (a) được
(2).(Bấy giờ) chỉ thấy một giải núi hoang ở trong đồng cỏ xanh.
(3).Muôn nghìn năm trước cái chỗ hang hùm ổ cọp ( nghĩa là chỗ anh hùng ẩn nấp) nàyvẫn còn đất trắng ( chưa có ai cày cấy)
(4).Nơi nghe tiếng cuốc kêu sầu, hoa hồng rơi rụng (Ấy là hoa hồng thật hay là máu hồng của của chim Đỗ quyên? (b).

QUA NÚI CỔ BI

(1).Từ ngày cọp đá im hơi
(2).Đồng nằm thải ruột, núi ngồi co ro.
(3).Nghìn thu đất trắng một gò,
(4).Chỗ nghe tiếng cuốc rụng no hoa hồng.


Bản khác:

Từ ngày cọp đá mất oai phong
Chỉ thấy núi hoang đứng giữa đồng.
Hổ huyệt nay thành đồng cỏ mọc,
Cuốc kêu thảm thiết, rụng hoa hồng.


____

(a). Ý nói chúa Trịnh muốn cướp ngôi Lê mà việc không thành, cũng như cọp đá không thét ra gió. Chúa Trịnh muốn cướp ngôi Lê nên dời phủ về Cổ Bi đem về nhữnbg voi đá, cọp đá để chầu quanh núi.
(b).Vua Thục buồn vì mất nước nên hóa làm chi Đỗ Quyên tức là chim cuốc. Đây ám chỉ chúa Trịnh



Bài số 52. (Anh Ngôn I, 60, 30)

珥河曉泛

(1).珥河曉泛日玲瓏
(2).流水桃花接 遠空
(3).雲淡風疎帆自
(4).碧山烟樹有無中

NHỊ HÀ HIỂU PHIẾM

(1).Nhị hà hiểu phiếm nhật linh lung,
(2).Lưu thủy đào hoa tiếp viễn không.
(3).Vân đạm phong sơ phàm tự khứ,
(4).Bích sơn yên thụ hữu vô trung.

BUỒI SÁNG TRÊN SÔNG NHỊ

(1). Buổi sáng dạo chơi trên sông Hồng hà, ánh mặt trời long lanh dưới nước.
(2).Hoa đào theo dòng nước biếc dâng lên tận ch6an trời xa xăm.
(3).Mây lợt nên gió thưa, và vì gió thưa nên buồm đi chậm như tự đi lấy
(4).Giữa khói cây non xanh khi ẩn khi hiện, khi thấy khi không như khi không khi có, như nằm giữa " có không", nghĩa là giữa cõi mơ hồ.


BUỔI SÁNG TRÊN SÔNG NHỊ HÀ


(1).Sớm dạo sông Hồng, ánh gơn hồng
(2).Chân trời vin vói sóng dâng bôn.
(3).Mây thưa gió nhẻ, buồm đi lấy,
(4).Cây khói mơ màng, núi có không!

Bản khác:

(1).Sông Hồng buổi sáng ánh linh lung,
(2).Nước đẩy hoa đào đến viễn không.
(3).Mây nhạt, gió thưa, buồm tự chuyển,
(4).Núi xanh, khói tỏa chốn hư không.

Dịch xong tại Vĩnh Lộc ngày 15 Mats 1938
Nguyễn Như Thiệp và Đẩu Tiếp

XIN XEM
ĐẨU TIẾP * THẦN SIÊU 4


No comments: