KIM CỔ KỲ QUAN III
CÁO THỊ 2
21
Dừng dạ thuở than trung can sao phải
Muốn vi tứ hải người phải tri ân
Dạ muốn
Quí chi lê lựu tri cựu mãng cầu
Việc quấy nhứt đầu thãm sầu đau bụng
Nói thời lụng dụng bất tụng bất
thiệt khi không biết
Nói thời tha thiết chổ biết chổ không
Chẳng chổng chồng mông lạy ông mình lổi
Chẳng ưa cây
Phật đã dạy hoài ỷ tài chi vậy
Phật mà nói bậy người cậy thì rồi
Cũng chẳng nên ngồi thôi rối mắc thịt
mặt ngồi trịch một bên
Hai tay chấp lên việc quên nhớ lại
Bấy lâu ngây dạy nay lạy đức Thầy
theo thầy giữ Đạo
Bỏ lòng hung bạo giữ đạo từ bi
Khật dạy việc chi tôi
nan phân
Nước lớn thương dân khó phân nước nhỏ
dạng
Xem đời thiệt loạn việc cạn khó phân
Nhiều việc xảy sàn xóm làng xính vính
Việc
chủ ăn ngủ thời hư
Sanh dạ cẩu trư thời hư
chẳng đặng
Đứt lìa hai chặn việc nặn khổ go
Lo hởi là lo một kho đất sét
thấy tài hớn hài nhiều lắm
Muốn ra ai cấm muốn tấm ai gan
Sợ có xóm làng nhà hàng thiếu cũa
giúp của khó trông
22
Chó sủa lỗ không vội trông thấy bóng
Ta mau chóng chóng nhà tống hưng binh
Để vậy làm thinh
Phải lo lập thất hộ quốc cầu linh
Vọng đắc vạn binh hội minh trợ thế
Đêm nằm nghe dế
Thảnh thót nam lầu ve sầu vắn vỏi
Cầu linh thượng cõi về hỏi quốc gia
Nay ngó thấy cha hôm
mang tật cầu Phật cứu kỳ
Thương việc biên thùy không quì không lạy
Việc lành không đậy việc vạy
nghe chác the mắc ý
Ở cho có trí chơn lý trèo cao
Nhiều gánh lao xao biết sao kể
gay gắt khó đi
Muốn lạy cụng ly ngặt đi không đặng
Gánh không mấy nặn ruột quặn đau lời
chưa thấu
Sá chi châu chấu bây đấu chống xe
Tiếng nói chẳng nghe pháo tre nỗ tốt
Một mình rơm
Một tiếng nói thơm nhiều thơm gặp thúi
Nói nhiều mệt đúi búi băng xăng
Nói chuyện không căn khó ngăng
dám chưỡi nào lưỡi làm hung
Tự ý nịnh trung nó xung khẩu thiệt
Xuất ngôn nhiều việc hoặc thiệt hoặc phi
Khiến thừa dụ
Nhơn tâm bất cụ chư dụ bất kham
Mười việc mười tham phải đam vào sổ
khó ôm nói om khó chịu
Trước dựng chậu kiệu
tét bét khó lòng
Diêm chúa dự phòng để
tiên Thánh
Một trăm món bánh bá tánh đều ăn
23
ma
Thấy việc người ta phật tha không đặng
Thúi thây khảo lúa hoảng múa khảo tiền
Heo sống chồng tiền cảm phiền mấy lạy
Sống ăn
Trò lể tay che xướng ghe cúi lạy
Thiệt làm tầm bậy hiếu đậy trong lòng
Sánh hiếu nghĩa
Tế chi cổ dỉa hiều nghĩa của mình
Làm việc bất bình e tình mắc đọa
Những người tai họa
Tội phước cạn sâu biết đâu mà tránh
Phước thời hiền Thánh họa tránh đi xa
Tội xuống Diêm la ra
phải nghỉ phải tỷ phải suy
Sự tất thức trì sự phi sự phước
Phải lo tội phước có
lâu nhiều tội
Cũng như hát bội đầu đội vai mang
Trong bụng dọc ngang thôi mang khổ lớn
mất ngôi
Nam việt thã trôi thương ôi không chúa
Bắc kỳ tay múa là chúa bắc kỳ
Nam việt chịu
ong lộn kíp người tiếp hơi vua
Nam việt nhịn thua thiết chua xót dạ
Nam ký mắc dọa hạ
tôi day chưa thôi mấy kíp
Nước nào ăn hiếp người tiếp bợ bưng
Trở mặt đấm lưng dặm chưn
sợ té có khi
Trời Phật thức tri đứng khi nước đọa
Phật Trời phép lạ gở họa nước Nam
Lòng người đừng điện
Còn e tu luyện hiển hiện phép tài
Diệu thuật bất hoài nằm dài liệt địa
Miệng người niệm lịa thị
thấy chuối tiêu hỏa thiêu ung mục
Chờ khi nước dục tẩy tục tu phần
Tay kễ lần lần tẩy trần
24
chưa tan
Việc nầy đào hang không toan xuống đất
ai mua quế bán ế ngồi nài
Sao chẳng thấy
chẳng nhớ con chữ son hai mặt
Trong
trực sự cực chí lao
Nhiều thuở chiêm bao
lành hành uổng
Chẳng dụng cuốc xuống uổng cái thây
Lòng tôi chẳng ngay thiêu thây cho mất
Sống cũng khó ngồi nguyện hồi Tiên động
Trời cao lồng lọng đất ruộng thinh thinh
Soi sét chứng minh trung tinh lời
hiện kiến diện minh tường
Dạ bao tâm cường sa đường âm phủ
Nguyện vong việc cũ âm phủ khán tường
Diêm tường khán quá
Nguyện cầu tiêu đá non hóa điện đền
Tôi chứa vững bền một nền phước hậu
Nguyện cầu
Một dạ ưu tư phước dư vạn thọ
Trách thay trăm họ bắt thọ giáo truyền
Nhiều việc cảm phiền
Cơ Gia là cậu kế hậu là tôi
Tình bậu muốn thôi việc tôi không ép
Sách in thơ chép có
anh hào việc nào cũng tốt
Chẳng ngon thuở sốt không tốt mới tinh
Để vậy làm thinh không linh
Phật rặt tiếng la
E nổi quỉ ma cang qua hổn chiến
Trước đây nguy biếng nhớ tiếng tại Trời
đời không có
25
Đi đâu đứng đó tôi ngó thiệt đà
Hay việc bất hòa tới mà dực gạo
Tôi đạo điên
Ai chẳng dám khuyên đạo điên khuyên lại
Dạ lo tồi bại lao dại làm vầy
Chẳng dám ngũ ngày
Đừng ngồi tu rũ ăn ngũ mà hư
Trầm tóc trong lư bất tư tiêu hết
Dạ lo câu kết bạc hết hay còn
mòn thân thể
Đời nầy khó dễ đổ bể nhiều khi
Việc nào bất tri hỏi đi hỏi lại
Đừng nghe
Kẻ giận người phiền việc hiền gây dữ
Đa ngôn
dục lời tục khó nghe
Cây ngã bề ghe nát
mang áo bo
Hai tay chóng tó mặt ngó
coi đồng-nai
Saigon có oai con ai dữ vậy
Tôi nay Ba Thới tùng Quới Mỷ-trà
Tên Thạnh Phật bà chủ nhà Sadec
Nhiều người ghen ghét mở bét bạc bôi
Nhiều việc thương Vôi thương ôi ong Bướm
Việc đời lụy ướm như bướm gầy ong
Tên Thành là ông Quan-Công thuở trước
Phò vua giúp nước thuở trước rất miêng
Phật Thầy Trần Nguyên dạy yên lê thứ
Trần Nhu chiếm cứ nhị tứ Lang linh
Hai Lảnh trung tinh độ tinh gò sặt
Hai Ngôn thậm ngặt oán giặt hỏa thiêu
Cam hờn quần yêu bao nhiêu chẳng cử
Chú tư biện xử tích cữ tòa chương
Nhiều việc tủ thương lưới vương Châu đốc
26
Hai Nhơn tử tốc vị bốc cáo trình
Nhiều việc bất bình thương tình chú bảy
dám bì
Nói chuyện phấn chì biên thùy chử dạ
Vợ tôi người đọa đồng tọa tên Thìn
Nhiều việc bất bình thương tình
tôi nói không nghe
Mẹ con một phe be be lòng giận
Để tôi lận đận chẳng giận vợ con
Đời cũng thon don
Trời định lý hiệp ý thời nhờ
Có thuở dại khờ có giờ minh lý
Hậu tồn tự ý thị quí
vị thân sao phải
Nói ra ải ải như chệt hải hon
Sỡ nổi vợ con nước non thẹn lắm
cho
Những việc đói no để cho Phật định
Đừng lòng trung nịnh thậm bịnh đa mang
Giứt đạo tào khang hung
Gia lòng cách thậm trách bất văn
Lo việc ở ăn lăng xăng thời khổ
Cửu quyền thất tổ biết khổ hay
huờn căn đem lại
Biết thiền hay bại biết hại hay nên
Chẳng tưởng bề trên cho nên quên
suy
Niệm chẳng xét suy lưu ly khó niệm
Vinh
cửa khổng các tổng qui mòn
Một người biết khôn
đi làm Phật
Đất sanh vạn vật Trời Phật riêng
Chổ điểm chổ khuyên quấy riêng phãi
Có ông Thiện đế có kế ác vương
Có lập nhà thương có vương Hớn thất
27
Có cất chùa công
Có bạc dằn kho có lo Thầy-kiện
Có truyện Tây-Minh,có kinh giữ đạo
Có gạo hai lu có tu thiền
sanh có anh Tiên đức
Có tức nhà thờ có cờ ông thẻ
Có kẻ không soi có người coi thấy
khuấy cho hôi
Có chúa có tôi có ngôi Bồ-tát
Có con Ngã bác có cát vàm nao
Có lập
Có đường hung kiết có Tiết Ứng Luông
Có tròn có vuông có truông có núi
Có sông có suối
người hay có Tây bên cẳn
Tay nghe văn vẵng người chẳng cầu siêu
Ý muốn xử tiêu làm yêu
mưu kế phong thần
Người phải ân cần Thánh Thần chứng chiếu
Dạ no nước yếu nhơn tiếu ưu
đập đầu cầu Phật
Đời nầy thiểu Phật đa vật đa ma
Người chẳng xét ra việc ta khó xét
ít thương
Chẳng nói quốc vương ăn tương với ớt
Đầu quăn môi trớt chịu ớt chịu gừng
Ăn nói không chừng
nhiều bí rợ không sợ bó đau
Việc phải có dao lao xao đủ lẻ
Biết thời ít kẻ nói lẻ nhiều đường
xanh quanh biết họ
Cứ kỳ hai họ thượng thọ qui căn
Tuy nói lăng xăng lo ăn cho chúng
Người không bị đau
Trời Phật giải lao biết sao cứu độ
Kẻ xưng Phật ngộ người độ Phật Thầy
Chim ăn mắc bẩy chim sẩy nhẹ lo
Kẻ đói
buội tre việc e phải trùng
Việc nầy nói túng
28
Cao-lảnh Phật phiền
Bất dụng lương tiền dĩ hiền
hồi nhâm tý
Cờ thời nước bí lượng ý thấp cao qua
Kêu bớ nhà chớ tu mà về bển
Con bò lển nghển về bển đem theo
Để đây
ăn lể tết không chết không còn
Càng hao càng mòn không dòn một bửa
Nước nam dậy lửa khó chửa
xăm lăng mạt căn tận số
Tu xao xưng cố chức ố thượng thiên
Nói việc Tây-phiên ngữa nghiêng thân
đổ bề từ manh
Tu thời khôn lanh hôi tanh không thấy
Chẳng thà cày cấy dơ dái chẳng nài
hoài khổ hũy
Tu không biết nghĩ tu vĩ tu vơ
Tu đạt thiên cơ tu ngơ
ngẩn tội mình
Sao chẳng tu tình tu hình chi vậy
Tu chi tầm bậy tu vậy uổng công
Tu thương
Tu sao bất lượng bất trượng bân linh
Cửu huyền thất kinh Phật linh ngồi ván
Thấy việc ngao ngán
ngó đông ngó không đặng tỏ
Tây ngồi cho rõ để cõ xõ nhà
Trước lạy ông bà sau hòa
Phật cho mau
Áo tẫy khăn lau rửa mau sạch mặt
Giữ lòng cho chặt nước ngặt khó soi
Kẻ thấy cọp
Saigòn câu lọp không cọp ở rừng
Nói việc lẩy lừng ngó chừng Tây-Điện
29
Việc nào hiển diện
việc trồng tre người nghe không hiểu
Tiền trình vị liễu thượng biểu tờ chương
Nhiều nổi oan ương phụ vương khai khán
ngán năm tháng ngày giờ
Chí dốc phụng thờ huỳnh cờ an vị
Đồng lai Gia Nghị nhứt vị thanh long
phước thọ
Cầu cho hai họ tý ngọ bất vi
miển si vi thức trí bương ấp
Đào sâu khó lấp Long ấp hởi bây
Trách thạnh mỷ-tây không ngay một đứa
Trai thời lứa lứa nhiều đứa hỗn hào
Cách tê bài cào
thầy lủ mầy kèo hủi
Rủ nhau chạy lủi kẻ
ăn
Còn cửa lăng xăng tranh ăn thời khó
Việc ăn thời có việc ó thời không
Cầu chệt sơn đông
cú miệng thú chỉnh ghê
Thấy kẻ tu tê chĩnh ghê chĩnh sợ
Miệng kêu cậu mợ mau bợ bán bưng
chưng trái bướt
Tuy là nói trước thấy nước mới hay
Thậm khổ việc nay thương thay Gia Nghị
Nhiều người hung
Nhiều việc suy lung kẻ trung người nịnh
Mỷ-tho Gia-định nhứt lịnh Định tường
Tân-an cang cương
xuyên cấm cốc tóc Cần-thơ
Nhiều việc ngẩn ngơ su sơ Rạch-giá
Tây-ninh phong hóa bề đá
cất am cất cốc
Cà mau dục tóc cấm cóc chùa voi
30
Việc thế không soi chẳng coi Ba-vác
đại tây
Cầu tàu qua đây búa tay dao Bảy
Banam chưng nhảy Phật tẩy Trà vinh
Thấy việc thất kinh hồ
hét đều ghét Bổn sư
Bổn đạo phân chư lo tư lục tỉnh
Nam vang bất vỉnh thác nghỉnh Cần thơ
vọng hò bải cải
Bến tre làm phải người cải Ba xiên
Tới án Hà tiên sầu riêng cần dọt
Nói Bạc liêu
Ông cấm đá tiêu Thuấn nghiêu tỏ rỏ
Phật Trùm Tây bỏ nhiều ngỏ Takeo
Người sợ mang eo không
đền trục trặc dục dặc Biên hòa
Nhiều kẻ cần cả cất nhà Xà tón
Việc làm nhiều món không ngón Bacnam
vàm đất bạc
Vận còn bất đạt xiêu lạc Vĩnh long
Sadéc vòng trong minh mông đồng
Gò công mang tai chịu hai trận bảo
Tử đa ấu
thị Sơn chà
Tra án bất hòa tại tòa Chaudoc
trường cải bé bến Nghé trương giương
Cá cóc oan ương
khôn nhứt môn kế khổng
Bất an chú tổng trống
lượng Cả dầu
Ngả-bát bắt cầu dạ sầu sơn lảnh
Các nơi coi bảnh ba
lăng xăng Hồngngự
Việc làm dụ dự bất tự Vàm Nao
Nói thấp nói cao lao xao Cần lố
31
Xuất long tráo thố
Những việc lo ăn lăng xăng Cải-sách
Ăn no đánh phách thậm trách Mái-dầm
Lòng chẳng âm thầm sợ lầm vàm
phấn dạ tấn chắcđau
Nói việc làm sao Vàm Nao ở lại
Tối thời nói dại người lại nói khôn
cải lớn
Chưn hài chun hớn chợ lớn Trà Tân
Cái bé hiếp dân ỷ thân quan lớn
Chê con
Rạch-Kiến Kỳ son núi non Thị Rịa
Nam Bang Tần địa nó lịa Mặc dưng
Ông văn lở
mười lo đạo giả mạo chiếu chương
Hết kẻ vận lương oan ương Tứ-sở
Bắc-đai mắc cở nhà
du mù u Láng-Thé
Ăn no ó ré vạch xé Láng-hầm
Tôi thiệt ăn nằm, ăn nằm
xào hết Trà niên
Cù là sợ Phiên cất riêng Rạch sỏi
Ông Hiển thiệt giỏi chạy khỏi sốc suông
tuông núi lấp
Việc làm bất cập phải lập Ba Thê
Nhiều người đều chê lập quê Tấn Đức
Việc mình mình lao
Nước chảy lao xao xa ao khó lội
Bằng tăng là cội khó lội Bắc Giang
Thóc-nóc la làng
Vinh tre lộn kíp chạy tiếp Cỏ-bon
Vỉnh Tế núi son đề son Cầu Muốn
Nuốc
mệt dừng quên ở trên Tam Cấp
Miệng đừng lấp
tức Thủ Thiêm
Thủ một cổ kim lập nghiêm bến Thế
Rạch
32
Vĩnh thông vật quới đi tới Tịnh Biên
Vòng cú
lổi lầm hỏi thầm Cái lộc
Nhiệc nhiêu ăn giải
giải phải thảy Trà-bư
Lửa để trong lư bất cư Thị-đại
Tuy là nói bậy khó đậy
đi qua Tổng-cáng
Dạ lo ngao ngán chơ oán Dầy-tho
Bảy xào chưa no còn lo Quản phát
sợ nát Thú Hồ
Kể hết cơ đồ một hồ xóm mới
Bạch-Ngưu vận tới hỏi nới Trà lòng
Phải
nước đục
Tứ phương tùng phục nước lụt Láng Linh
Dạ dốc thỉnh nghinh quản thinh Trà-kiết
Dạ lo
Xa-keo thảm phiền tìm miền Bố thảo
Năm di chí lảo vỉ bảo Giang-Cơ
Nhiều việc ngẩn ngơ
thơ thẩn chỉ dẫn Cái-thịa
Hai cái phân chia nói lia Cái tắc
Một đường gai gắt ngó tắc
chê vàng ham bạc
Bến tranh mặn lạc nước bạc giòng Huê
Nhiều việc khen chê người ê Tân Định
Rau râm
Miệng vái lâm dâm cơ thâm Bến-Bạ
Phèn-đen chê lạ chung chạ Lăng gù
Cái Dầu
Cái thế thưa đấm ông Cấm như son
Bà-đội không con ở non thành đá
Cái-sơn Cái-lá
cưa minh mông kể không đủ hết
Hòn tre mối kết sợ chết Hòn Dờ
Nhiều việc vật vờ gần
sau mất vong đất chẳng còn
Tuy việc hao mòn giai dòn chưa tỏ
Chữ nầy chê bỏ không ngỏ qua truông
uông lụy tuông nước mắt
33
Việc đời gay gắt nam bắc một tôi
Nhiều nổi thương ôi khó thôi
cơ Gia
Nay phải nhắc ra quỉ ma khũng
Gia Nghị
Mậu dần Kỷ Tỵ Gia-Nghị đồng đăng
cố hương lân làm thân sao đặng
Than bề ông
thả sợ Ngã ba Vinh
Chẳng nói làm thinh
của kho chẳng có
Hóa-Cù la ó người ngó Cái-tiêu
Sở hạ buồn hiu sao siêu sở
việc trọng Long-đà
Nói việc thiệt nhà sợ mà không thiệt
Nói thời phân biệt sợ việc không phân
Bàn cững đồng phước
Việc nào nói trước chưa bướt than
Đồng điền khô khan thở than sao thấu
Thượng văn biểu tấn lảo
đao binh gương linh Thần huệ
Từ sanh số hệ nhứt nghệ nam mô
Mặc kẻ ra vô nam mô
khép nép thưa qua
Hữu Phật hữu ma phân qua tà chánh
Diêm đình lập tánh thượng thánh lập danh
Tri bạo
Tri nhơn thức đạo tri bạo thức gian
Đi tới cải ngan trở sang Mỷ-Thiện
Cái lân
lợi ở đâu chẳng thâu Rạch ruộng
Cổ đau cuộn cuộn muốn guộng lên đàm
Quen mặt coi nhàm
Cái Nổ chịu khổ tháp mười
Bắc chiên nhiều người quên cười biến khốc
34
Tây phiên nả tróc bắt tốc
cường thọ trường dân bộ
Đa binh nhứt ngộ nhập mộ đa điền
Làng bắt đi liền kinh tiền Vỉnh Tế
tận thế đa nhơn
Quan cựu vô phân hành đàn nhựt dạ
Minh quân dỉ đọa sát hạ Phật hình
Cầu tử bất chừng
Bịnh con chẳng đứng nghi chứng sanh cờ
Truyền phá nhà thờ mấy giờ tan hết
Việc còn câu về
Nhiều việc phân lìa trở về Tây trước
Thập tự vô phước bắt bước ngan qua
Việc tại quốc gia
chịu cực chịu cực nhiều phen
Chịu khó mới khen
không trơn cũng phải
Nói sao không cải quấy phải
giữ của cho ai
Người khỏi họa tai ơn ai
ăn cho uổng
Con mèo thiệt nạn ăn uổng
Có tình Ngã-bác có giác vạy ngay
Đi tới phương Tây mới hay công chuyện
Gỏi qua Nam điện mười
năm hỏi thăm một tuổi
Cớ sao bỏ chuổi theo buổi đeo kiền
lạc thiệt bạc cũng tiêu
Thiệt dạ Thuấn Nghiêu còn tiêu phần xác
Có ai ham rác ham cát ham bùn
chẳng dụng tiền của
Có ai ham đủa bỏ của bỏ cơm
lộn xà
Thấy thiệt kỳ đà la mà rắn mối
Sáng Trời như tối có mối như chưa
Nằm võng hết
Nói ra câu kết nhiều nết khó lường
35
Kẻ thời tâm cường người thường dạ nhượt
Thương cường sao
hai bên muốn nên nhỉ thính
Thiện ngôn chỉ tính bất thính ác ngôn
Mười việc mười khuyên không điên không
tri lý tri tâm
Tri siểng tri thâm tri lâm tri thị
Mới tri việc chị mới vị việc em
Mới hung hung
Mới biết việc trung mới tung tùng nịnh
Mới định việc nhà mới hòa nhơn thế
Mới kế nhơn lương
Mới tỏ anh hùng mới tùng hào kiệt
Mới thiệt trung lương mới thương trong dạ
Mới tạ nhứt môn biết tôn lể
dỉa nhơn nghĩa tuyệt đoan
Dạ người tham gian làm quan sao phải
Tri hòa tắc cải quấy phải tắc phân
Bất vị phải vậy
Làm người nói bậy nói vậy làm sao
Kẻ thấp người cao lao xao cười nói
Nói ra
biết nói hoài nói hoài quên mất
Nhơn giai hửu
khẩu kiết hung
Cầm thú suy lung vật hung vật kiết
Lập tiền Gia định đạt lịnh cải danh
Saigòn
ly qui việc quỉ
Ở đời không nghỉ việc thủy việc
bể rồi
Tàu tây phản hồi chưa rồi bể nửa
Chớ sơn theo bửa gập lửa phải tiêu
Bộ hành lịnh
nằm lăng trở than thở chẳng an
36
Thấy dấu mà than mà than cho dấu
Có ai muốn xấu vật báo
không ham lòng ham tiền bạc
Thẳng qua cực lạc cho đạt tánh linh
Chẳng trải sử kinh cho minh nhơn thế
Tóc trần chi
Nghèo mới bán đi giàu khi nào bán
Thế chưn ít tháng chịu nán năm nay
Năm tới thấy Tây
nhắc dắc tới ma mới dắc đi
Giữ chắc lời ghi lời ghi cho chắc
Lòng nam dạ bắc nó
ngồi việc hồi năm mới
Con ai đẻ nới tuổi mới hăm lăm
Trời Phật tích tâm hỏi thăm thời
hỏi việc chi
Quì trước cung ly tội chi xưng tội
Ơn người ơn đội việc tội phải cai
ai mà ỷ
E như con đỉ hũ hỉ không con
Chẳng dạ sắt son nước non tiêu hết
sân si
Phật ngồi cung ly nói chi thời nói
Trước nhiều cơn đói việc nói cơ Gia
Nhiều nổi hiếp
Đời nầy lộn kiếp ăn hiếp cơ Gia
Thấy thời người ta quỉ ma tại đó
Kêu chồng bằng nó kêu
Phật ma người ta nghe rỏ
Trâu bò ăn cỏ không ngỏ tội chi
Người ta sân si e khi tội dử
tội dử chẳng hèn
Trời mới đỏ đèn gói phèn chưa dạ
Người chung của chạ người chạ của chung
Sanh chớ hỏi
Làm hung thời giỏi tớ khỏi hỏi
lóng
Căn nợ cái lòng vợ chồng hiếp ý
Tam
37
nửa lời chửa muốn thôi
Dụng nước chế vôi châu ôi
đó
Ăn thời muốn ngó việc khó muốn không
Phước tội
quân ân lập thân Hưng Thới
An-giang quyền quới thấu tới cửu trùng
Quản cơ anh hùng phục tùng quan
quan lớn nào hay
Lòng chẳng đầu Tây giử ngay một dạ
Nay tôi làm lạ lưỡng dạ bá tâm
Chổ nào có chổ
Hổ thời miệng hổ giử chổ sơn lâm
Có miệng mà câm có thâm tại vỉ
Dạ lo đấp lủy
Cho thấu lời nguyền tới miền Ngọc Đế
Hoàng ân thập tuế ngự chế mười hai
Tích thiện huờn lai
Việc đời tứ thứ chiếm cứ ba ngôi
Tam thứ thương ôi khổ thôi là khổ
Một ngày một trổ
đạo lưỡng bình sự ninh sự loạn
Hoàng ân con trạng sự loạn khó phân
Mối nước chăn dân
đời chưa hỏi tai giỏi thời nghe
Đốn một buội tre sạch que ván nhện
Xanh quanh vần vện
phách vật vờ bàn cờ khó đứng
Tướng ngồi làm chứng sỉ đứng một bên
Hai nước hư nên
mê biển khổ mã khổ quá giang
Gặp thuở hiển vang trung cang nghĩa khí
Phật Trời lập ý
tưởng ma mà nói mà giả ngộ
Nói vui cười rộ việc ngộ khó han
Nói móc trong gan soi
cà nát bấy chưa thấy Tây vô
sống xô phơi khô dân chúng
38
Động đau lòng súng thới
Ta chẳng thương ta thương ma mới khổ
Động đau lòng gổ thời gổ mới kêu
Lời nói trớ trêu miệng kêu châu ổi!
Thiên cơ sao chổi gió thổi tiêu ma
Ta chẳng tưởng ta tưởng ma mới dắc
Tri dỉ tri ân tri thân nan dị
Thức kỳ Gia Nghị nam dị tiền căn
Giặc dậy lăng xăng lăng xăng giặc dậy
Đánh nhau tầm bậy tầm bậy đánh nhau
Nước nào ở đâu ở đâu đánh đó
Vận nghèo thấy ngó thấy ngó vận nghèo
Người thác bá bèo bá bèo người thác
Đâu đâu tan nát tan nát đâu đâu
Đặng chổ ruộng sâu ruộng sâu ở đặng
Mặc tình lội lặng hết nặng tới nề
Chưa đặng chọn bề việc hề sung sướng
Hữu nhơn vi tướng đất mướn ruộng thuê
Nhiều việc thiệt quê con tê còn dại
Tạm an liều trại nhứt bại cửu thiền
Dỉ biện qui tiên dỉ hiền qui chánh
Lập thân vi Thánh lập tánh vi hiền
Lòng phải chi tiền làm hiền mới nổi
Nói ra biết lổi khó nổi ăn ngồi
Lòng phải trau dồi nương hồi ly loạn
Ngộ nhơn ngộ loạn dỉ đoạn ngôn phàn
Đức thánh lương nhìn dĩ ân phế oán
oán phế ân
Phàm ngộ ngôn nhân dĩ phân nhơn nghĩa
Ví như chén dĩa nhân nghĩa phi ân
Hai thuở
Nói ra nói dở theo thuở loạn ly
Chớ nói sân si dể dì khó ở
Lo ăn
Ngao ngán cho đời nhiều lời thậm khổ
Nói ra xấu hổ thậm khổ Cơ Gia
Hửu Phật hửu ma
Du lâm đa vật hửu Phật hửu ma
Tiên trị kỳ gia hậu ta xử bỉ
Tiên kỳ xử kỷ hậu
phân quan dân bất luật
39
Nhơn dân dụng thực trung thực dụng ân
Quân tắc dụng dân dỉ ân tứ hải
phục tùng
Lập tri anh hùng tương phùng tứ hải
Biết thời chẳng phải dạ cải rằng ngu
Khó tỏ rừng nhu Thánh
Bá nhơn bá tánh bá tánh bá tâm
Xuất khẩu như lâm xuất tâm như khẩu
Cao phi viển tẩu
Phật ngồi từ bi nhơn khi khó trốn
Đoài ly chấn tốn nan tốn càn khôn
Sự cựu
Khá dãm hậu cảm sương phong
Bất kiến phương
ban nhơn an Tây điện
Xuất ngôn cựu truyện đông
thọ ấn minh quân
Các sự đồng tuấn thiện quân
đồng gia Tứ Thánh
Tam tài nhứt tánh vi Thánh tam
Trời
Dỉ hậu lập đời phân Trời phân Phật
Nhị thiên túc vật ngoại Phật nội Trời
Tây đặt thuận thời
lòng nội mẹ việc nhẹ ngoại cha
Tuyệt cỏi diêm la tâu cha Thượng cỏi
Ở đời dể hỏi người giõi
thân nghĩa nhân phòng khẩu
Lập-Thần Thiên cẫu mang khẩu bất tề
Bất oán thiên hề bất tề tiêu nhơn
nhơn phải hỏi
Hai sao qua khỏi chẳng hỏi hai sao
Hai ngọn lại giao cái cao cái thấp
nát hướng Tây
Canh Tuất đều hay góc tây sau hậu
Thiên cơ dỉ lậu cơ hậu nan tường
40
Người sự thế
Thiên cơ lập kế trần thế bất tri
Kẻ ở người đi kẻ ly người hiệp
Giao An-giang
Tây đắc thắng bang dạ mang thất ước
Thức tri việc nước việc nước lo sau
quân tử
Dự ngôn Hứa sử ngôn ngữ Mục Liên
Tri sự Tây Phiên tri Tiên Nam-Việt
Trị nghiêm
Tri cổ tri kim lập nghiêm mới nổi
Xuất điềm sao chổi khiến nổi Tây qua
Chẳng xử trở lại
Tiền vinh hậu bại tiền hại hậu vinh
Nước nào đắc linh chư binh ủng hộ
Phật
Cứu độ phò hộ chư gia
Tích ác phùng ma thiện gia phùng Phật
Nhơn thân tri vật vật bất
cựu dể phân việc tân khó nói
bất tri dạ chói lời nói như không
Nghe nói bên đông dạ trông bên bắc
gay gắt chưa chắc lo âu
Lúa cốc ở đâu
chê đây người nay nói quấy
Tôi thời ngó thấy
giấy ngó thấy chữ son
Bút mực nước non
mai rau trai rau muống
Trước trong muốn uống
nhà bạo hết cơm
Úp chạ hư nôm trái thơm nhiều mắt
Đông Tây Nam Bắc có mắc ngó
ngó cùng bốn phía
Ngó tiền ngày vía thấy phía đàng sau
Thấy việc mới lâu trước sau thấy hết
No comments:
Post a Comment