Mao Trạch Đông Tác giả: Tân Tử Lăng Thông Tấn Xã Việt Nam dịch và in 2009 Người làm bản điện tử này: Mõ Hà Nội |
Cùng bạn đọc
Cuốn “Mao Trạch Đông ngàn năm công tội" do nhà xuất bản Thư Tác Phường ấn hành, ra mắt tại Hồng Công tháng 7-2007 và tới bạn tháng 6-2008, là một trong những cuốn sách đang được dư luận Trung Quốc hết sức quan tâm, với những luồng ý kiến nhận xét trái ngược nhau, từ hoan nghênh đến bất đồng, thậm chí phản đối gay gắt.
Tác giả Tân Tử Lăng nguyên là cán bộ nghiên cứu và giảng dạy tại Học viện quân sự cấp cao, Đại học Quân chính, Đại học Quốc phòng Trung Quốc. Ông nhập ngũ năm 1950, từng tham gia các phong trào chính trị do Mao phát động, về hưu năm 1994 với quân hàm Đại tá.
Đầu năm 2008, khi đề cập đến bối cảnh ra đời cuốn sách trên, Tân Tử Lăng nêu rõ: Công cuộc cải cách mở cửa ở Trung Quốc đã thu được những thành tựu lớn lao, đồng thời cũng nảy sinh nhiều vấn đề nghiêm trọng, đáng chú ý là việc không thể ngăn cản có hiệu quả nạn tham nhũng, việc phân phối của cải không công bằng dẫn đến xã hội bị phân hóa, khiến dân chúng rất bất mãn, nhiều người thậm chí công khai tỏ ra luyến tiếc thời đại Mao. Các thế lực cực tả ở Trung Quốc hiện nay muốn lợi dụng tâm trạng bất mãn này để phát động cuộc “Đại cách mạng văn hóa lần thứ hai”, gây cản trở cho việc thực thi các chính sách hiện hành. Nhân ngày giỗ Mao Trạch Đông 13-9-2005, nhiều cuộc mít tinh đã được tổ chức tại 18 thành phố lớn trong đó có Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân… với mục đích phê phân ban lãnh đạo hiện nay đã phản bội chuyên chính vô sản, phục hồi chủ nghĩa tư bản. Những người tham gia các cuộc mít tinh đã công khai hô các khẩu hiệu thời Đại cách mạng văn hoá, kêu gợi dấy lên bão táp cách mạng.
Tình hình trên khiến tác giả thấy cần phải làm cho mọi người thấy rõ thực trạng đời sống chính trị, xã hội và kinh tế của Trung Quốc dưới thời Mao, để từ đó có thể đánh giá một cách công bằng những công lao cũng như sai lầm của Mao đối với đất nước Trung Hoa, nhằm loại bỏ sự chống đối của phái cực tả đối với tiến trình cải cách mở cửa. Tuy nhiên, trong khi cố gắng làm điều đó, tác giả lại làm nổi lên một vấn đề quan trọng khác là: quan điểm của Trung Quốc về “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc" thực chất là gì? Và đâu là lối thoát chỗ Trung Quốc hiện nay?
Nhiều trong số những vấn đề được nêu ra trong cuốn sách như đánh giá về công lao và sai lầm của Mao, cuộc Đại cách mạng văn hoá, cái gọi là chủ nghĩa xã hội không tưởng dựa trên bạo lực của Mao, chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc, hay việc chuyển từ chủ nghĩa xã hội không tưởng sang chủ nghĩa xã hội dân chủ… hoàn toàn là những quan điểm riêng của tác giả.
Đây là cuốn sách có tính chất tham khảo về nhiều vấn đề liên quan đến lịch sử và vấn đề lý luận của nước Trung Hoa đương đại, nhằm giúp bạn đọc có được những cái nhìn nhiều chiều về những vấn đề đang được nhiều người quan tâm này.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Lời nói đầu (4)
Chương 1. Muốn trở thành lãnh tụ phong trào cộng sản quốc tế (19)
Chương 2. Sai lầm của Mao Trạch Đông về lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội (24)
Chương 3. Giang Thanh bước đầu tỏ ra lợi hại (26)
Chương 4. Vận dụng thuật cầm quyền của vua chúa (26)
Chương 5. Thiết lập thể chế chính trị chuyên chế một đảng (27)
Chương 6. Ba cuộc họp, một cuốn sách làm bùng lên cao trào hợp tác hoá nông nghiệp (29)
Chương 7. Các nhà tư bản gióng trống, khua chiêng đi lên chù nghĩa cộng sản (32)
Chương 8. Đường lối Đại hội 8 sát thực tế (34)
Chương 9. Địa ngục văn chương lớn nhất trong lịch sử loài người (35)
Chương 10. Hai đảng lớn Trung-Xô từ bạn thành thù (36)
Chương 11. Chu Ân Lai bị tước quyền lãnh đạo kinh tế (40)
Chương 12. Mao: Chúng ta phải thực hiện một số lý tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng (43)
Chương 13. Phải kết họp giữa Các Mác và Tần Thủy Hoàng (45)
Chương 14. Đủ hiểu biết để cự tuyệt nhưng lời khuyên răn, đủ lời lẽ để tô vẽ cho những sai lầm (49)
Chương 15. Ở chốn vô thanh nghe sấm động (52)
Chương 16. Bành Đức Hoài vì dân lên tiếng (53)
Chương 17. Lâm Bưu giúp Mao lộng hành (57)
Chương 18. Địa ngục trần gian (65)
Chương 19. Con gái ba đời bần nông giương biểu ngũ “Đả đảo Mao Trạch Đông” tại Trung Nam Hải (69)
Chương 20. Cuộc đọ sức tại đại hội 7.000 người (73)
Chương 21. Mao Lưu đoạn tuyệt (77)
Chương 22. Bộ tư lệnh thứ hai trong đảng (82)
Chương 23. La Thụy Khanh chơi với hổ, bị hổ vồ (87)
Chương 24. Giương ngọn cờ chống đảo chính để làm đảo chính (90)
Chương 25. Lợi dụng học sinh lật đổ chủ tịch nước (95)
Chương 26. Nhân dân run rẩy trong cuộc khủng bố đỏ (100)
Chương 27. Mao Trạch Đông chơi trò chính trị lưu manh (104)
Chương 28. Nhân vật số 4 đại bại dưới chân Giang Thanh (104)
Chương 29. Tổ cách mạng văn hoá thay thế Bộ chính trị, tổ làm việc Quân ủy thay thế Quân ủy trung ương (108)
Chương 30. Kết cục bi thảm của Lưu Thiếu Kỳ (112)
Chương 31. Lâm Bưu đắc ý, lăm le kế tục (113)
Chương 32. Mao - Lâm quyết đấu ở Lư Sơn (120)
Chương 33. Tướng quân bách chiến thân danh liệt (130)
Chương 34. Nixon mang đến cho Mao chiếc ô bảo hộ hạt nhân (139)
Chương 35. Mời Đặng Tiểu Bình làm quân sư (144)
Chương 36. Chu Ân Lai - trở ngại mà Giang Thanh không thể vưọt qua (152)
Chương 37. Chu Ân Lai mà người căm ghét, hãm hại: mãi mãi sống trong lòng trăm họ! Lũ bốn tên mà người tin cậy, bảo vệ: nhân dân rủa bay chết sớm đi! (155)
Chương 38. Mao để Giang Thanh cầm “cờ lớn” (158)
Chương 39. Mao chết, Giang tù (166)
Lời kết (172)
Nhà cách mạng vĩ đại - người xây dựng thất bại
Cuốn sách này tiếp theo cuốn “Mao Trạch Đông toàn truyện" (Nhà xuất bản Lợi Văn, Hồng Công. Bản in đầu tiên năm 1993), bổ sung sử liệu về Đại tiến vọt và Đại cách mạng văn hoá, tăng thêm phần bình luận, nhằm ủng hộ việc Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào cam kết sẽ đánh giá lại Mao Trạch Đông trong nhiệm kỳ của ông.
Cuộc đời Mao Trạch Đông dựng nước có công, xây dựng mắc sai lầm, Đại cách mạng văn hoá có tội. Đó là lời Trần Vân, bậc nguyên lão chỉ nói chân lý, không nói thể diện, rất được kính trọng trong Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đánh giá Mao sai lầm lớn hơn công lao đó có cơ sở quần chúng. Năm 1994, Ban Tuyên truyền Trung ương ĐCSTQ, Phòng Nghiên cứu chính trị Trung ương, Phòng Nghiên cứu chính sách Viện Khoa học Xã hội và Uỷ ban Giáo dục quốc gia đã phối hợp tiến hành một cuộc thăm dò dư luận về hai vấn đề. Một là Mao Trạch Đông công lao lớn hơn sai lầm, hay ngược lại? Hai là cơn sốt Mao Trạch Đông có bình thường không? Kết quả là:
a- Cán bộ cấp cao: 37% cho rằng sai lầm lớn hơn công lao. 30% cho rằng công lao lớn hơn sai lầm. 33% không trả lời.
b- Trí thức cấp cao: 67% cho rằng sai lầm lớn hơn công lao, 8% cho rằng công lao lớn hơn sai lầm, 25% không trả lời.
c- Nhà báo và những người làm công tác lý luận: 48% cho rằng sai lầm lớn hơn công lao 18% cho rằng công lao lớn hơn sai lầm, 34% không trả lời.
d- Giáo chức và học sinh: 40% cho rằng sai lầm lớn hơn công lao, 34% cho rằng công lao lớn hơn sai lầm, 26% không trả lời.
Khái niệm chung là sai lầm lớn hơn công lao
Về vấn đề cơn sốt Mao Trạch Đông, 63% đến 72% cho rằng không bình thường.
Những người không trả lời trên thực tế cho rằng sai lầm lớn hơn công lao, nhưng họ sợ công khai bày tỏ sẽ gặp rủi ro. Nếu gộp những người không trả lời vào số người cho rằng Mao Trạch Đông sai lầm lớn hơn công lao, thì số người này chiếm 70% cán bộ cấp cao, 92% tri thức cấp cao, 82% nhà báo và những người làm công tác lý luận, 66% giáo chức và học sinh, bình quân số người cho rằng Mao Trạch Đông sai lầm nhiều hơn công lao là 77,5%. Khái niệm chung là 3 phần công lao, 7 phần sai lầm.
Mao Trạch Đông là nhà cách mạng vĩ đại và người xây dựng thất bại. Trách nhiệm lịch sử của chúng ta là khẳng định và phát triển công lao của Mao thành lập nhà nước cộng hoà dân chủ mới, phủ định và uốn nắn sai lầm của ông khiến đất nước lạc lối vào chủ nghĩa xã hội không tưởng.
Trong thời kỳ cách mạng dân chủ mới, ĐCSTQ đứng đầu là Mao Trạch Đông đã lãnh đạo nhân dân cả nước lật đổ ách thống trị của đế quốc, phong kiến và tư bản quan liêu, sáng lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa vĩ đại. Là nhân vật lịch sử đã làm cho nhân dân Trung Quốc từng chịu đủ mọi sự áp bức và hà hiếp được ngẩng cao đầu, dứng thằng người trước toàn thế giới, Mao Trạch Đông sẽ được nhân dân Trung Quốc tưởng nhớ đời này qua đời khác. Cuộc cách mạng dân chủ mới thắng lợi và nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời là đỉnh cao huy hoàng trong sự nghiệp cách mạng của Mao, cũng là đỉnh cao sáng chói của tư tưởng Mao Trạch Đông. Sự nghiệp trên được ghi lại trong 3 cuốn "Mao Trạch Đông toàn truyện", chúng tôi không nhắc đến nữa. Cuốn sách này điểm lại quá trình phát triển của Mao Trạch Đông từ chủ nghĩa xã hội không tưởng tới chủ nghĩa xã hội phong kiến.
Chủ nghĩa xã hội phong kiến đương nhiên cũng là chủ nghĩa xã hội không tưởng nhưng lạc hậu và phản động hơn, nó trương chiêu bài chủ nghĩa xã hội để thực hiện nền độc tài chuyên chế và thể chế cha truyền con nối, gia đình trị. Dựa vào sử liệu đã nắm được, chúng tôi sẽ vạch trần nhưng không chút thổi phồng những sai lầm và tội ác của chủ nghĩa xã hội bạo lực Mao Trạch Đông, chú trọng phân tích nguồn gốc lịch sử và lý luận dẫn đến những sai lầm lớn đó. Đây là việc rất cần thiết để chúng ta cải cách-mở cửa sâu rộng hơn, phân rõ cái đúng, cái sai trong lịch sử và trên lý luận, loại trừ sự quấy rối "tả " khuynh.
Trong báo cáo chính trị miệng (không văn bản) tại Đại hội 7 ĐCSTQ ngày 24-4-1945, Mao Trạch Đông nói:
“Chúng ta khẳng định phát triển rộng rãi chủ nghĩa tư bản như vậy chỉ có lợi, không có gì hại cả. Trong thời gian khá dài, một số người trong đảng ta không hiểu rõ vấn đề này, tồn tại tư tưởng phái dân tuý. Tư tưởng này sẽ tồn tại lâu dài trong một đảng mà đa số đảng viên xuất thân nông dân. “Chủ nghĩa dân tuý” muốn phát triển trực tiếp từ kinh tế phong kiến lên kinh tế xã hội chủ nghĩa, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Đáng tiếc là sau khi nắm chính quyền, Mao Trạch Đông đã làm ngược lại ý kiến đúng đắn trên: theo con đường dân tuý.
Ngày 15-6-1953, Mao Trạch Đông chủ trì định ra đường lối chung của ĐCSTQ trong thời kỳ quá độ. Ông đã từ bỏ lý luận kiến quốc dân chủ mới, xoá bỏ cương lĩnh kiến quốc dân chủ mới được các tầng lớp nhân dân ủng hộ rộng rãi - “Cương lĩnh chung” có vai trò hiến pháp lâm thời, vội vã xoá bỏ chế độ tư hữu, tiến hành “cải tạo xã hội chủ nghĩa” đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, khiến chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất trở thành cơ sở kinh tế duy nhất của nhà nước và xã hội. Một bước ngoặt sang trái (tả), Trung Quốc đi theo con đường chủ nghĩa xã hội không tưởng dựa vào bạo lực. Tiếp đó Mao phát động phong trào Đại tiến vọt và Công xã hoá, tiến hành cuộc thực nghiệm chủ nghĩa xã hội không tưởng lớn chưa từng thấy và cũng gây ra tấn thảm kịch lớn chưa từng thấy trong lịch sử loài người: 37,55 triệu người chết đói.
Nghiên cứu những sai lầm cuối đời Mao Trạch Đông phải nắm lấy sự kiện lịch sử lớn này. Đây là chìa khoá để khám phá những bí ẩn về Mao.
Mọi hành động chính trị của Mao những năm cuối đời đều nhằm che đậy những sai lầm không tiền khoáng hậu này, trốn tránh trách nhiệm của bản thân. Cái gọi là “chống xét lại, phòng ngừa xét lại”, “ngăn chặn diễn biến hoà bình” và “ngăn chặn phục hồi chủ nghĩa tư bản” nhằm thần thánh hoá chủ nghĩa xã hội không tưởng làm bao người chết đói; cái gọi là “tiếp tục cách mạng dưới nền chuyên chính vô sản “chống phái đương quyền đi con đường tư bản chủ nghĩa trong Đảng” và “lôi ra nhân vật kiểu Khrusev” là muốn chủ động xuất kích, đánh đổ các nhà lãnh đạo theo đuổi chính sách kinh tế thực tế, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, cứu nhân dân khỏi nước sôi lửa bỏng. Vì vậy, Mao ngang ngược phát động “Đại cách mạng văn hoá” quyết một trận sống mái. Không có sai lầm của ba năm Đại tiến vọt thì không có Đại cách mạng văn hoá. Mao chơi con bài người kế tục, bức hại Lưu Thiếu Kỳ đến chết) đưa Lâm Bưu lên rồi lại ép Lâm Bưu phải bỏ di, sử dụng Đặng Tiểu Bình rồi lại đánh đổ Đặng Tiểu Bình, chọn một Hoa Quốc Phong “kém cỏi nhất”, mật chiếu của Mao cho Hoa là “Đồng chí làm việc tôi yên tâm, có vấn đề gì hỏi Giang Thanh”. Mục đích cuối cùng của Mao là muốn đưa Giang Thanh lên cầm quyền. Mao khoác chiếc áo lý luận hiện đại nhất, cách mạng nhất, làm cái việc Hoàng đế khai quốc Triều Minh từng làm hơn 600 năm trước: để Giang Thanh lên cầm quyền thuận lợi, thông qua Đại cách mạng văn hoá, Mao hầu như đã trị hết các công thần danh tướng. Mười năm tai hoạ, các nhân vật trên vũ đài chính trị lớp này đến lớp khác như chạy tiếp sức trên một vòng cung lớn nhằm chuyển chiếc gậy “Đại vương” đến tay Giang Thanh, để Giang kịp thời kế vị lúc Mao nhắm mắt xuôi tay. Âm mưu gia đình trị của Mao bị phơi trần đã làm nát vụn những phỏng đoán của các nhà trí thức lương thiện về động cơ cao thượng của cuộc Đại cách mạng văn hoá do Mao phát động. Nếu không có sai lầm của ba năm Đại tiến vọt, chưa chắc Mao đã phải dùng đến hạ sách này. Mao truyền ngôi cho Giang Thanh có phần bất đắc dĩ. Mao không tin vào ngàn đời vạn thế mà tính toán chỉ cần hai thế hệ (Giang Thanh và Mao Viến Tân) là đủ thời gian hoàn toàn viết lại lịch sử, chối phắt trách nhiệm làm 37,55 triệu người chết đói. Không thể xoá bỏ, cũng không thể sửa đổi phần lịch sử này. Phải đánh dấu đậm nét vào đây. Với cái giá bi thảm nặng nề qui mô lớn nhất, thời gian dài nhất, hy sinh nhiều nhất, người Trung Quốc đã chứng minh “chủ nghĩa cộng sản” ấy không ổn. Cuộc thực nghiệm này là một cống hiến lớn cho nền văn minh của loài người.
Đây là một toạ độ lịch sử, toạ độ chủ nghĩa xã hội không tưởng hoàn toàn thất bại ở Trung Quốc, trên thế giới, và trong lịch sử văn minh của loài người. Ý nghĩa chính diện của toạ độ này là; làm cho những người đời sau mơ tưởng về một thế giới đại đồng (thuật ngữ mác xít là chủ nghĩa cộng sản) đi tới đây sửng sốt mà dừng bước. Để trên thế giới này không còn nảy sinh việc mấy triệu, mấy chục triệu người chết đói vì sai lầm khi lựa chọn lối đi.
Chẳng có mục tiêu cao đẹp của “chủ nghĩa cộng sản” nào hết, đây là một mệnh đề do người sáng lập Chủ nghĩa Mác nêu ra hồi trẻ và đã từ bỏ vào những năm cuối đời. Tháng 10-1847, Ăng ghen viết tác phẩm “Nguyên lý chủ nghĩa cộng sản” phác hoạ ước mơ của chàng trai 27 tuổi về một xã hội lý tưởng trong tương lai. Ngày 11-5-1893 khi 73 tuổi, nói chuyện với phóng viên báo Pháp “Le Figaro”, Ăng ghen đã phủ định mô hình xã hội tương lai do mình thiết kế hồi trẻ. Ông nói:
“Chúng tôi không có mục tiêu cuối cùng. Chúng tôi là những người theo thuyết không ngừng phát triển. Không tính chuyện áp đặt cho loài người quy luật cuối cùng nào. Còn cách nhìn, dự định chi tiết trên phương diện tổ chức xã hội tương lai ư? Ngài không thể tìm thấy ở chỗ chúng tôi ngay cả hình bóng của chúng”
Theo hồi ức của Liuba, cháu gái cố Tổng bí thư Brezhnev, sinh thời Brezhnev từng nói với người em trai: “Chủ nghĩa cộng sản cái quái gì, đều là những lời nói trống rỗng lừa bịp dân chúng”. Sai lầm của nhà lãnh đạo Liên Xô cũ không phải ở chỗ từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản, mà ở chỗ ông tiếp tục lấy cái lý luận mà bản thân không còn tin nữa làm ý thức hệ chính thức để lừa gạt nhân dân. Một chính đảng lãnh đạo nhân dân tiến lên phải như Ăng ghen điều chỉnh mục tiêu phấn đấu của mình cho kịp thời đại, và trịnh trọng công bố trước nhân dân.
Trong một bức thư tháng 9-1890, Ăng ghen viết: “Theo quan diềm duy vật, nhân tố mang tính quyết định trong quá trình lịch sử nói cho cùng là sản xuất và tái sản xuất trong đời sống hiện thực. Mác và tôi đều chưa khẳng định được gì nhiều hơn thế”. Trước khi ra đời, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra năng suất lao động cao hơn chế độ phong kiến, nên chế độ tư bản đã hoàn toàn chiến thắng chế độ phong kiến. Chế độ xã hội chủ nghĩa bạo lực - giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản - trải qua hơn 70 năm nỗ lực hết sức mình để đuổi kịp và vượt các nước tư bản chủ nghĩa, chỉ riêng Liên Xô và Trung Quốc đã phải trả giá 50 triệu người chết đói (Liên Xô 13 triệu, Trung Quốc trên 37 triệu), mà cũng không đuổi kịp các nước tư bản chủ nghĩa chủ yếu trên phương diện “sản xuất và tái sản xuất trong đời sống hiện thực”. Chế độ xã hội chủ nghĩa bạo lực của Lenin, Stalin và Mao Trạch Đông thi thố hết tài năng cũng không tạo ra nổi năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản, đương nhiên bị lịch sử đào thải, giai đoạn cao hơn của nó là chủ nghĩa cộng sản tất nhiên cũng diệt vong.
Xu thế tiến hoá tự nhiên của lịch sử loài người không phải chủ nghĩa tư bản, cũng không phải chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa tư bản hiện đại do tiếp thu chính sách của chủ nghĩa xã hội mà nảy sinh tự cải lương, đi tới nền kinh tế hỗn hợp về chế độ sở hữu. Chủ nghĩa xã hội thông qua cải cách, tiếp thu các chính sách của chủ nghĩa tư bản cũng từ chế độ công hữu đơn nhất đi tới nền kinh tế hỗn hợp. Mô hình kinh tế hỗn hợp này gọi là chủ nghĩa tư bản mới, cũng gọi là chủ nghĩa xã hội dân chủ. Tình hình trên đã diễn ra ở Mỹ, Nga, Trung Quốc và nhiều nước phát triển khác.
Trong cuốn “Chủ nghĩa tư bản mới”, học giả Mỹ W.E Harral viết:
Kinh tế hỗn hợp: Một trật tự thế giới nối liền chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội. Vượt trên ý thức hệ xơ cứng của “chủ nghĩa tư bản cũ” và “chủ nghĩa xã hội cũ”, hai loại chế độ xã hội đều đang tiến tới mục tiêu chung: lợi dụng đặc điểm hấp dẫn của xí nghiệp tự do để tránh mọi khuyết tật của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn độc quyền và chủ nghĩa xã hội nhà nước tập quyền trung ương.
Nhà kinh tế học Pháp J. Rafael cũng nêu rõ: “Trong phần lớn các nước phát triển, toàn bộ nền kinh tế quốc dân đều đã trở thành kinh tế hỗn hợp, thậm chí xem ra đã trở thành một thể chế tổ chức xã hội nhất định. Là mô hình hỗn hợp của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, về lý luận, kinh tế hỗn hợp chính là biện pháp bổ cứu có ý nghĩa kép nhằm vào thất bại rõ rệt của nền kinh tế kế hoạch quốc hữu hoá toàn diện, và trào lưu tư tưởng tự do cổ dộng xoá bỏ sự quản lý của nhà nước, thực thi tự do hoá toàn diện.
Ông còn vạch rõ:
“Theo niên báo Thế giới phát triển 1982, thể chế kinh tế của 19 nước công nghiệp phát triển đều là kinh tế hỗn hợp. Bởi vậy, nếu lấy thành tích kinh tế cụ thể chứ không phải những lời cam kết trống rỗng để thảo luận chế độ nào có khả năng giải quyết vấn đề hơn, thì không nghi ngờ gì nữa, kinh tế hỗn hợp lấy thị trường làm trung tâm là chế độ tương đối ưu việt”.
Nước Anh đã hai lần thực hiện quốc hữu hoá trong thời gian 1945-1951 và 1971, tập trung trong tay nhà nước hàng loạt xí nghiệp lớn, kể cả Ngân hàng Anh, khiến kinh tế nước này trở thành nền kinh tế hỗn hợp điển hình kết hợp giữa kinh tế tư nhân và kinh tế quốc doanh. So với Anh, kinh tế quốc doanh của Pháp chỉ hơn, không kém. Từ năm 1944 đến 1946 căn cứ vào kế hoạch nhà nước lần thứ nhất, Pháp đã quốc hữu hoá các ngành than, điện, vận tải, Ngân hàng Pháp và 4 ngân hàng thương nghiệp toàn quốc. Đầu thập kỷ 80 thế kỷ 20, Pháp một lần nữa thực thi quốc hữu hoá, các xí nghiệp quốc hữu hoá không chỉ liên quan đến các ngành cơ sở, mà còn mở rộng sang các ngành công nghiệp mũi nhọn tính cạnh tranh rất mạnh, như công ty máy bay Taso(?), công ty vũ khí Matra. Các thành viên EU khác như Italy, Đức cũng thực hiện quốc hữu hoá ở mức độ khác nhau.
“Quyết định một số vấn đề cụ thể về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” của Hội nghị Trung ương 3 khoá 16 ĐCSTQ chỉ rõ: “Phải ra sức phát triển kinh tế chế độ sở hữu hỗn hợp với sự tham gia của các nguồn vốn quốc doanh, tập thể và phi công hữu, khiến chế độ cổ phần trở thành hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ công hữu”. Mỗi bước tiến triển lớn của công cuộc cải cách thể chế kinh tế Trung Quốc đều là sản phẩm nhận thức sâu hơn về chế độ sở hữu, và việc điều chỉnh quan hệ chế độ sở hữu. Là sản phẩm cải cách chế độ sở hữu, kinh tế hỗn hợp tất sẽ ảnh hưởng lớn lao tới công cuộc cải cách kinh tế và phát triển, trở thành luồng tư duy hoàn toàn mới mẻ trong công cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc.
Kinh tế hỗn hợp hoàn toàn không phải một loại chế độ do con người chủ quan tạo ra, mà là sản phẩm lịch sử ảnh hưởng và diễn hoá lẫn nhau giữa chế độ tư bản chủ nghĩa và chế độ xã hội chủ nghĩa. Chế độ do lịch sử hình thành tự nhiên mới hợp lý và tồn tại lâu dài. Kinh tế hỗn hợp là cơ sở kinh tế của chế độ xã hội chủ nghĩa dân chủ. Con đường của chủ nghĩa xã hội dân chủ đang trở thành con đường được loài người cùng chấp nhận, đưa loài người vào một thế kỷ mới phát triển hoà bình.
Ý nghĩa lớn nhất của công cuộc cải cách mở cửa 27 năm qua là thoát khỏi con đường của chủ nghĩa xã hội không tưởng dựa trên bạo lực của Mao Trạch Đông, từng bước hội nhập với nền văn minh chủ lưu trên thế giới, trở thành một thành viên được tôn kính trong đại gia đình quốc tế. Quá trình chuyển đổi mô hình do Trung Quốc, Liên Xô cũ và các nước Đông Âu hội tụ nên lần này đã từ con đường sai lầm của chủ nghĩa xã hội không tưởng quay trở lại chủ nghĩa xã hội dân chủ, là bước tiến lớn thứ hai của xã hội loài người từ khi nền văn minh hiện dại phương Tây ra đời đến nay. Cải cách-mở cửa đã hoàn toàn phủ định chủ nghĩa xã hội không tưởng. Đưa ra khái niệm “giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội” có nghĩa là ngấm ngầm khôi phục chủ nghĩa dân chủ mới. Ngấm ngầm khôi phục không bằng công khai giương ngọn cờ dân chủ mới. Khi sáng lập lý luận dân chủ mới, Mao Trạch Đông nói chủ nghĩa dân chủ mới là chủ nghĩa tư bản mới. Tiếp nối vào điểm này, tiến lên theo chủ nghĩa xã hội dân chủ, là đã triệt để giải quyết tính hợp pháp và chính thông công cuộc cải cách-mở cửa.
Thành tựu lớn lao của cải cách-mở cửa 27 năm qua đã đặt cơ sở hợp pháp cho ĐCSTQ cầm quyền. Nhắc lại giọng điệu “tả” khuynh là tự phủ nhận mình. Bảo vệ những sai lầm của Mao Thạch Đông, tìm kiếm tiếng nói chung với “phái tả”, thực hiện chính sách kinh tế “hữu khuynh” đi đôi với ý thức hệ “tả khuynh thì chỉ chứng minh được rằng 27 năm qua mình đã làm sai, không tăng cường mà chỉ có thể làm suy yếu vi trí cầm quyền của ĐCSTQ; không thể mang lại tính hợp pháp cho cải cách mở cửa, mà chỉ có thể mang lại tính hợp pháp cho chủ trương chính trị phản đôi cải cách mở cửa. Thách thức vị trí cầm quyền của ĐCSTQ không phải các thế lực phương Tây ở chốn xa xôi, mà là “phái tả” trong đảng vung vẩy ngọn cờ sai lầm của Mao Trạch Đông bên trong bức tường của Đảng. Xin hãy đọc những lời lẽ sát khí đằng đằng, mê hoặc lòng người trên lá cờ của chúng. Trong bài “Chỉ có Tư tưởng Mao Trạch Đông mới cứu được Trung Quốc”, chúng viết:
“Không phải Đại cách mạng văn hoá sai, mà là Đặng Tiểu Bình hoàn toàn phủ định Đại cách mạng văn hoá. Những người kế thừa Đặng đã theo đuổi đường lối xét lại, và chính vì thế cần phát động cuộc Đại cách mạng vãn hoá nữa để loại trừ”. Lúc lâm chung, Đặng Tiểu Bình dặn dò phải cảnh giác hữu, chủ yếu phản đối “tả”, ông thật có tầm nhìn lịch sử sâu xa. Mưu toan cùng “phái tả” bảo vệ những sai lầm của Mao để đổi lấy việc họ ủng hộ cải cách-mở cửa chỉ khiến họ càng hung hăng phản đối cải cách-mở cửa. Sách lược “bật tín hiệu rẽ trái, bẻ tay lái sang phải” đã đi đến điểm tận cùng.
Tháng 3-2004, kỳ họp thứ 2 Quốc hội Trung Quốc khoá 10 đã đưa điều khoản quan trọng bảo vệ chế độ tư hữu vào hiến pháp, tiếp nối quỹ đạo với “Cương lĩnh chung Hội nghị hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc” năm 1949, đánh dấu sau khi trải qua chặng đường quanh co, Trung Quốc đã trở lại điểm xuất phát đúng đắn, đi lên con đường chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc là sản phẩm kết hợp giữa tư tưởng chủ nghĩa xã hội dân chủ của Mác-Ăng-ghen những năm cuối đời và thực tiễn cụ thể cải cách-mở cửa của Trung Quốc, sẽ xây dựng Trung Quốc thành một nước xã hội chủ nghĩa dân chủ giàu có, văn minh, công bằng và hài hoà như châu Âu ngày nay. Đảng Cộng sản Trung Quốc chuyển sang chủ nghĩa xã hội dân chủ là tuân theo lời dạy của Mác và Ăng-ghen những năm cuối đời, kế thừa truyền thống cách mạng dân chủ mới, triệt để thoát khỏi mô hình Liên Xô, trở lại với chủ nghĩa Mác tiến cùng thời đại. Đó là định vị lịch sử của chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc.
Thời kỳ đầu cải cách-mở cửa để phát triển kinh tế nhiều thành phần, phái cải cách đưa vị trí chủ đạo của kinh tế quốc doanh vào hiến pháp nhằm làm yên lòng phái “tả” đến nay thành ra tự tròng dây vào cổ mình, phái “tả” đứng ra “bảo vệ hiến pháp”, dựa vào hiến pháp để chống lại. Tháng 3-2006, trong thời gian họp Quốc hội và Hội nghị hiệp thương chính trị toàn quốc, có uỷ viên Hội nghị hiệp thương chính trị chất vấn: “Điều 6 hiến pháp qui định cơ sở chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa nước CHND Trung Hoa là chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, tức chế độ sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu tập thể của quần chúng lao động. Kinh tế quốc doanh năm 1992 chiếm 48% kinh tế quốc dân Trung Quốc, nay còn chiếm tỉ trọng bao nhiêu? Những năm qua, kinh tế quốc doanh ào ạt bản rẻ cho tư nhân, hoặc chuyển thành sở hữu tư nhân. như vậy có vi phạm hiến pháp không?” Chính phủ tự biết mình đuối lý, chẳng ai dám đứng ra đối đáp.
Từ ngày cải cách-mở cửa đến nay, các khoá lãnh đạo các cấp ra sức tìm cách giữ cho được vị trí chủ đạo của kinh tế quốc doanh, đây là “trận địa cuối cùng của chủ nghĩa xã hội”. Tuy kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân đã ra đời, các xí nghiệp vốn nước ngoài cũng đã len chân vào, song phái cải cách vẫn phải nắm chặt con bài “xí nghiệp quốc doanh chiếm vai trò chủ đạo” để đối phó phái “tả” coi mình là “người bảo vệ đường lối cách mạng của Mao Chủ tịch”. Song các xí nghiệp quốc doanh thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội này làm ăn chẳng ra gì, liên tục thua lỗ. Thế là tài chính nhà nước và địa phương cấp vốn không hoàn lại, dùng tiền thuế do nông dân và các xí nghiệp tư nhân đóng góp để nuôi xí nghiệp quốc doanh. Khi nhà nước nuôi không nổi, liền đẩy cho ngân hàng.
Ngân hàng mỗi năm cho vay khoảng 1.500 tỉ NDT (Nhân dân tệ - đơn vị tiền tệ của Trung Quốc), 70% số này rót vào các xí nghiệp quốc doanh. Do các xí nghiệp quốc doanh chỉ vay không trả, nợ đọng một khoản tiền khổng lồ, hễ bùng nổ sóng gió tiền tệ, thể chế nhà nước tất sẽ lung lay, thế là nhà nước lại đẩy các xí nghiệp quốc doanh sang thị trường chứng khoán. Các công ty lên sàn mấy năm trước hầu như toàn là xí nghiệp quốc doanh. Những người chơi cổ phiếu ham phát tài, bị cuốn phăng 1.500 tỉ NDT để tiếp máu cho các xí nghiệp quốc doanh, nhưng cũng không cứu sống nổi các xí nghiệp này. Theo báo cáo của người phụ trách Uỷ ban kinh tế thương mại ba tỉnh Cát Lâm, Liêu Ninh, Hắc Long Giang, có xí nghiệp quốc doanh máy móc khởi động, chi phí than - điện - nước rót vào rồi, nhưng tiền lương công nhân viên chức, tiền lãi các khoản vay và lợi nhuận sau thuế đều không lo nổi, đành giảm tài sản tịnh để duy trì đời sống của công nhân viên.
Có xí nghiệp đi vay để chi trả lương công nhân viên và tiền lãi ngân hàng. Có xí nghiệp máy móc, nhà xưởng dần dần giảm giá, thống kê trong sổ sách trên thực tế trở thành “tài sản khống”. Có xí nghiệp tỉ lệ lợi nhuận chỉ có 1 đến 3%, cơ bản ngang tiền lãi công trái kỳ hạn 5 năm, có nơi còn thấp hơn.
Để chuyển lỗ thành lãi, các phương án cải cách lần lượt được đưa ra, cơ cấu quản lý nhiều lần chấn chỉnh, làm trong 20 năm mà vẫn thua lỗ, do đó mới có phương án cải cách, cổ phần hoá, tư hữu hoá.
Con đường cải cách các xí nghiệp quốc doanh sau Đại hội 15 ĐCSTQ là “nắm cái lớn, thả lỏng cái nhỏ”. Các xí nghiệp lớn nhập vốn tư nhân và vốn nước ngoài, thực hiện chế độ cổ phần; các xí nghiệp nhỏ thực hiện tư hữu hoá, nay Chính phủ trung ương chỉ nắm 1.200 (trước đây là 9.000) xí nghiệp quốc doanh cỡ lớn liên quan đến vận mệnh và an ninh quốc gia.
Cách làm này tương tự các nước tiên tiến trên thế giới. Các nước phát triển trên thế giới thực hiện thể chế kinh tế hỗn hợp đều có các xí nghiệp quốc doanh, chủ yếu là các nhà máy do nhà nước độc quyền (như đường sắt, hàng không, ngân hàng), các xí nghiệp tư nhân không đủ sức xây dựng (như điện hạt nhân, dầu khí), cùng các xí nghiệp mang tính công ích (như giao thông công cộng, điện nước). Các xí nghiệp này không lấy lãi làm chính, một số xí nghiệp mang tính phúc lợi toàn dân, phải dựa vào nhà nước đầu tư và trợ giá. Nhưng các xí nghiệp này không được chiếm tỉ trọng lớn, càng không thể chiếm vị trí chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân, mà đại thể chỉ 15 đến 20%. Theo Công ty Tài chính-tiền tệ quốc tế, năm 1996, Trung Quốc có 114.000 xí nghiệp quốc doanh, năm 2005 còn 27.000. 77% số công ty đã tư hữu hoá một phần hoặc toàn bộ. Tỉ trọng kinh tế quốc doanh tụt xuống còn 23%, gần bằng quan hệ tỉ trọng các nước phát triển. Đây là việc từ không bình thường chuyển sang bình thường, nhưng theo phái “tả” nó đã đụng chạm đến mạng sống của chủ nghĩa xã hội.
Phải sửa đổi hiến pháp. Lý do là: năm 1978, kinh tế quốc doanh Trung Quốc chiếm 99,1%, nhưng tổng sản phẩm quốc nội chỉ có 362,4 tỉ NDT. Năm 2005, kinh tế quốc doanh không chiếm vị trí chủ đạo nữa, song tổng sản phẩm quốc nội cả năm đạt 18,230 tỉ NDT. Chúng ta đứng trước sự lựa chọn cần 17.867,6 tỉ NDT, hay cần cái hư danh vị trí “chủ đạo” kia?
Đừng nhìn nhận quan hệ tỉ lệ đó quan trọng đến thế, ngày nay, chủ nghĩa tư bản mới và chủ nghĩa xã hội dân chủ đã trớ thành hai mặt của đồng tiền vàng, đều theo thể chế kinh tế hỗn hợp, chúng ta cần thoát khỏi xiềng xích xí nghiệp quốc doanh chiếm vị trí chủ đạo do mình tạo ra.
Phải nói thẳng là công cuộc cải cách thể chế xí nghiệp quốc doanh cũng nảy sinh một số vấn đề, như hàng loạt công nhân viên mất việc, quần thể yếu kém gặp nhiều khó khăn trong việc khám chữa bệnh, học hành, dưỡng lão, quan chức tham nhũng, nhất là phân phối không công bằng dẫn đến phân hoá hai cực, khiến lòng người xôn xao.
Công cuộc cải cách thể chế xí nghiệp quốc doanh cơ bản do chính quyền các cấp chủ trì. Chính quyền tham gia thiết kế bộ máy quản lý công ty, tìm kiếm người kinh doanh, định giá tài sản quốc doanh, thậm chí gánh vác một phần tiền nợ. Các xí nghiệp quốc doanh tương đối lớn có nhiều tài sản tồn đọng, khó mà bán được, liền mặc cho các quan chức chủ sự “giới định” nó từ sở hữu toàn dân sang sở hữu nội bộ, trong nội bộ lại chỉ định sau cải cách thể chế xí nghiệp quốc doanh, “người kinh doanh nắm cổ phần lớn”. Người ta gọi lối làm ăn này là “cải cách kiểu giới định”, nói trắng ra là chia bôi hành chính, lưu lại không gian vận hành rộng rãi cho các quan chức và thương nhân cấu kết với nhau phát tài qua cải cách. Nếu người chủ trì là một quan tham, thì cuốn “kinh” cải cách thể chế nhằm đưa xí nghiệp quốc doanh thoát khỏi nghèo nàn này liền bị đọc chệch hẳn đi. Trước sự dụ dỗ của lợi ích lớn lao nằm trong tầm tay, các quan chức rất khó giữ mình trong sạch. Chỉ cần nội bộ tập đoàn lãnh đạo chia đều lợi ích theo quyền lực lớn nhỏ, thì chính quyền, đảng uỷ, hội đồng nhân dân đều bật đèn xanh, mọi người vừa có tiền, lại có thành tích chính trị; vừa phù hợp chính sách, vừa đúng với luật pháp. Thế là hình thành “tập đoàn lợi ích” được thể chế, chính sách và luật pháp hiện hành bảo hộ.
Những vấn đề nảy sinh trong cải cách thể chế xí nghiệp quốc doanh cũng từng xảy ra trong các nước theo chủ nghĩa xã hội dân chủ. Họ không lùi bước để xí nghiệp quốc doanh tiếp tục thua lỗ rồi “hoá” sạch, mà lấy tư hữu hoá dân chủ phản đối tư hữu hoá quyền quí, phương hướng tư hữu hoá không thay đổi. “Tư hữu hoá quyền quí” là gì? Là quan chức câu kết với thương nhân vơ vét tài sản của nhà nước và nhân dân. Thực hiện kinh tế thị trường mà không đồng bộ với dân chủ hoá chính trị, tất sẽ nảy sinh quan chức câu kết với thương nhân, muốn đánh giá xí nghiệp quốc doanh thế nào cũng được, muốn đem tài sản quốc doanh cho ai thì cho, muốn đẩy công nhân ra đường thì đẩy ra ngoài đường, đấy là chỗ tệ hại của chủ nghĩa tư bản quan liêu. Giả dụ chúng ta khởi động tiến trình dân chủ, tiến hành cải cách chính trị, thật sự trao cho công nhân quyền dân chủ qui định trong hiến pháp, ủng hộ công nhân xí nghiệp quốc doanh giám sát công cuộc cải cách thể chế, dựa vào dân chủ giành lấy công bằng và chính nghĩa, bảo vệ quyền lợi của mình, thì vấn đề sẽ được giải quyết dễ dàng. Ở đây cần nhấn mạnh nhất định không phải là Đảng và Chính phủ thay mặt công nhân để chủ trì công bằng và chính nghĩa, anh cử một cán bộ Uỷ ban kiểm tra kỷ luật hoặc Viện kiểm sát đến giám sát quan chức chủ sự, một khi cán bộ này bị lôi kéo, liền biến thành đôi bàn tay đen khác lớn mạnh hơn.
Làm thế nào ủng hộ công nhân. Chẳng hạn cho phép công nhân thành lập công đoàn độc lập, tự do báo chí… Chỉ cần có tự do báo chí, kịp thời phơi trần hộp đen thao túng việc phân chia tài sản quốc doanh, thì có thể chặt đứt bàn tay đen mượn cải cách thể chế để vơ vét tài sản nhà nước. Mượn cớ “ổn định áp đảo hết thảy” không cho công nhân tham gia và nắm tình hình, kiểm soát báo chí, trên thực tế là bảo vệ cho các quan chức ăn chia, khiến công nhân giương cao ảnh Mao Trạch Đông biểu tình thị uy, dẫn đến không ổn định hơn. Chỉ có cải cách chính trị mới giải quyết được vấn đề này. Đây là kết quả tốt đẹp nhất phù hợp mong muốn của những người quan tâm ổn định và dân chủ, thị trường hoá và công bằng, tự do và trật tự ở Trung Quốc.
Do cải cách chính trị không theo kịp, làm nổi bật mặt tiêu cực của cải cách mở cửa, khiến số người phản đối và bất mãn với cải cách mở cửa tăng nhanh. Từ 1979 đến 1982, cả nước có 2 vạn vụ kiện cáo lên cấp trên, năm 2005, con số này là 30 triệu vụ, tăng gấp 1.500 lần, cũng có nghĩa là nhân tố không ổn định trong xã hội Trung Quốc tăng gấp 1.500 lần. Một số phần tử phái “tả“ cho rằng đây là tình hình có thể lợi dụng. Họ xui nguyên giục bị, tạo gió gây mưa, lừa dối quần chúng, lôi kéo lớp trẻ. Họ cho rằng “nước lùi, dân tiến” là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, họ cổ động quay lại thời đại Mao, lại gây ra cuộc tranh luận Trung Quốc nay là xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa. Một khi nắm được số quần chúng trên, lý luận “tả” khuynh có thể chuyển hoá thành lực lượng phá hoại khổng lồ. Củi kho Đại cách mạng văn hoá còn chất đống nơi đây. Phái “tả” tạo gió gây mưa vẫn đi theo con đường Đại cách mạng văn hoá, trương lá cờ phản đối “con đường tư bản chủ nghĩa”, trước tiên đẩy các nhà tri thức lên đàn tế, điểm tên phê phán một số “học giả chủ lưu” từng góp ý kiến hiến kế, có cống hiến cho cải cách-mở cửa, nói họ chủ trương thúc đẩy xây dựng kinh tế thị trường là “tự do hoá tư sản”, lại chia cán bộ lãnh đạo các cấp chủ trì cải cách-mờ cửa thành “phái cải cách tự do hoá tư sản” và “phái cải cách xã hội chủ nghĩa”, xúi giục triển khai cuộc đấu tranh lớn ở trong và ngoài Đảng, đoạt quyền của “phái cải cách tự do hoá tư sản” và đánh đổ phái này. Điều đặc biệt cần cảnh giác là Trưởng phòng Tổng hợp Ban nghiên cứu chính sách Trương Cần Đức đã gióng lên hồi trống trận về cuộc Đại cách mạng văn hoá lần thứ hai. Y tuyên bố: “Trận quyết chiến sắp tới về thực chất là cuộc vật lộn sống chết giữa hai tiền đồ, hai số phận: đi con đường tư bản chủ nghĩa hay con đường xã hội chủ nghĩa, phái cải cách tự do hoá tư sản nắm quyền hay phái cải cách xã hội chủ nghĩa nắm quyền, phụ thuộc vào đế quốc Mỹ hay bảo vệ được độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia”. Phải xem tên Trương Cần Đức này đại diện cho ý kiến của những người nào và đại diện đến mức nào. Đây là một động hướng vô cùng nguy hiểm. Tính chất dã man, tàn khốc, chuyên chế và không tưởng của Đại cách mạng văn hoá có thể phá hoại tan tành những gì hiện có. Một khi dân chúng bị phái “tả” kích động, gửi gắm hy vọng tìm ra lối thoát vào vong hồn Mao Trạch Đông, bộc lộ sự bất mãn của mình theo phương thức do Mao dạy bảo, trương ngọn cờ Mao Trạch Đông mà nhà cầm quyền không dám phản đối, lôi “phái cải cách tư bản chủ nghĩa” ra đấu tố, thì tình hình khó mà dàn xếp được. Đây là ẩn hoạ lớn nhất ở Trung Quốc trong 10 năm tới. Chỉ có tiến hành cuộc cải cách chính trị thật sự chứ không hời hợt, bao gồm cải cách ý thức hệ là cải cách thể chế chính trị, mới có thể tránh được một đại hoạ mới. Không thực hiện hiến chính dân chủ, sớm muộn sẽ bùng nổ cuộc Đại cách mạng văn hoá lần thứ hai.
Bài học lịch sử là không dễ gì nắm bắt được thời cơ cải cách chính trị khi cho rằng mình có đủ lực lượng kiểm soát tình hình, người cầm quyền thường ngoan cố cự tuyệt cải cách, hoặc chần chừ, coi nhẹ, đến khi tình thế qua đi, mới nghĩ đến cải cách nhưng lúc đó khủng hoảng đã bùng phát, họ không còn tư cách chủ đạo công cuộc cải cách chính trị nữa, chỉ còn cách bị dòng thác lịch sử cuốn phăng. Chẳng hạn nửa cuối năm 1945 và nửa đầu năm 1946 là thời cơ của Quốc Dân Đảng Tưởng Giới Thạch. Nếu Tưởng nắm lấy cơ hội hai đảng Quốc Cộng cùng bàn việc nước, không gây nội chiến, tiến hành cải cách chính trị, từ bỏ một đảng độc tài, cùng Đảng Cộng sản tổ chức Chính phủ Liên hợp, thì không đến nỗi bị đuổi khỏi Hoa lục, tình hình xấu nhất là hai đảng luân phiên cầm quyền, và để tranh thủ cử tri, đảng nào cũng lo làm việc tốt, chẳng bên nào dám làm bừa. Trung Quốc từ đó lập nên thể chế dân chủ tuần hoàn tốt đẹp. Một ví dụ khác: năm 1961 là thời cơ của Lưu Thiếu Kỳ. Khi ấy, Đại tiến vọt thất bại thảm hại, mấy chục triệu người chết đói, Mao Trạch Đông mất hết thể diện trên thế giới và mất sạch lòng người trong nước, tại Đại hội 7.000 người, lực lượng thúc giục hạ bệ Mao Trạch Đông từng có lúc chiếm đa số. Đó là giờ phút Mao suy yếu nhất về chính trị, nếu Lưu Thiếu Kỳ thừa thế triệu tập Đại hội 9, đoàn kết toàn đảng, triệt để thanh toán đường lối chủ nghĩa xã hội không tưởng tổng kết bài học đau đớn mấy chục triệu người chết đói, sắp xếp cho Mao một chức vụ danh dự để dưỡng lão, xoá bỏ thể chế chính trị độc tài cá nhân, thực hiện hiến chính dân chủ, thì có thể đẩy chính sách cải cách-mở cửa sớm lên 20 năm, đất nước tránh được một tai hoạ lớn, bản thân Lưu cũng không đến nỗi đi đến một kết cục bi thảm như vậy. Lưu Thiếu Kỳ khi phải quyết đoán lại không quyết, đợi đến khi Mao hoàn hồn, chuẩn bị phát động Đại cách mạng văn hoá, Lưu mói nghĩ đến triệu tập Đại hội 9; và đến khi bị phái tạo phản lôi ra đấu ở Trung Nam Hải, ông mới nghĩ đến hiến pháp.
Bởi vậy, một bước trọng đại phải thực hiện trong khi có thời cơ là đánh giá lại Mao Trạch Đông. Tổ hợp chủ nghĩa cơ hội “bật tín hiệu rẽ trái, bẻ tay lái sang phải” (đề cao ý thức hệ nhưng chống lại chính sách kinh tế của Mao) có thế tạm yên ổn một thời, nhưng sớm muộn sẽ lật xe. Các nhà lãnh đạo hiện nay cần biết rằng: các vị giương ngọn cờ Mao Trạch Đông trong tĩnh vực ý thức hệ càng cao, thì “sai lầm” của các vị về chính sách kinh tế càng lớn, phần “tả” về chính trị làm nổi bật phần “hữu” về kinh tế. Thật sự lấy cái đúng, cái sai của Mao làm tiêu chuẩn đúng sai, thì các vị là “phái theo con đường tư bản chủ nghĩa đang đi trên con đường tư bản chủ nghĩa”. Đề cao Mao như vậy là vác đá ghè chân mình. Cần xác lập vị trí chính thống của đường lối cải cách-mở cửa trong lĩnh vực ý thức hệ. Phái cải cách chỉ có quyền hành chính không có quyền phát ngôn, là không được. “Quyền phát ngôn” ở Trung Quốc ngày nay là quyền giải thích chủ nghĩa Mác. Kế thừa quyền giải thích chủ nghĩa Mác của Mao Trạch Đông để cải cách-mở cửa, tất sẽ gặp muôn vàn trở lực, làn sóng phản đối không dứt. Những người phản đối cải cách mở cửa nằm ngoài chính quyền khí thế như hổ, những người cầm quyền chủ trì cải cách-mở cửa lo ngại, thiếu tự tỉnh thế là đẻ ra sách lược “bật tín hiệu rẽ trái, bẻ tay lái sang phải”. Chỉ có chính sách kinh tế cải cách-mở cửa mà không có ý thức hệ bảo vệ chính sách đó thì không thể thành công, Lưu Thiếu Kỳ đã thất bại ở chỗ này. Chính sách “ba tự, một bao” (đất phần trăm, thị trường tự do, tự chịu lỗ lãi, và khoán sản tới hộ) của Lưu đã cứu vãn tình hình đang bên bờ vực thắm, cứu trăm họ, cứu đất nước, nhưng lại trở thành chiếc vòng kim cô trên đầu ông, mắc phải cái gọi là “sai lầm đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”. Còn “lãnh tụ vĩ đại” được Lưu cứu giá đã niệm chú xiết chặt vòng kim cô trên đầu Lưu, đẩy ông vào chỗ chết.
Nay những người kế thừa chính sách “ba tự, một bao” tuy đã tiến hành cải cách-mở cửa rất thành công, nhưng thường xuyên bị phê phán, ý thức hệ truyền thống coi họ là “phái cải cách tự do hoá tư sản”. Việc cấp bách là phải khôi phục bộ mặt vốn có của lịch sử, nói rõ với quần chúng nhất là thế hệ trẻ nguồn gốc sai lầm của chủ nghĩa xã hội không tưởng Mao Trạch Đông, nhìn lại thời kỳ đại hoạ “tả” khuynh tác oai tác quái, sinh linh lầm than, vạch trần chủ nghĩa Mác giả hiệu của Mao Trạch Đông, giành lại quyền phát ngôn, khiến chủ nghĩa xã hội không tưởng của Mao Trạch Đông mất sạch sức hấp dẫn ở Trung Quốc. Đó là tính toán mưu lược lâu dài, sâu xa của Đặng Tiểu Bình khi ông để lại lời căn dặn một số năm sau phải đánh giá lại Mao. Cuốn sách này phải hoàn thành nhiệm vụ lịch sử ấy.
Chúng tôi viết dưới hình thức sinh động để mọi người cùng thưởng thức, khiến các chính khách đọc không cảm thấy thô thiển, nông cạn, sinh viên đọc không thấy quá sâu xa. Các tài liệu và sự kiện lịch sử đều có chứng cứ, nguồn gốc. Cuốn sách này là tác phẩm học thuật nghiêm túc, xuất bản lần thứ 2 có thêm mấy trăm chú thích. Cuốn sách dài 70 vạn chữ muốn dùng những sai lầm lịch sử của Mao Trạch Đông nhắc nhở đời sau: không thể đi và cũng không đi nổi con đường chủ nghĩa xã hội không tưởng, “thiên đường của chủ nghĩa cộng sản” không có giai cấp, không có bóc lột, không có áp bức trong tưởng tượng là địa ngục trần gian đã làm chết đói 37,55 triệu người. Đi bước này rồi mới có thể đánh bại tận gốc rễ những giáo điều cực tả thiêng liêng bất khả xâm phạm, phái cải cách và đường lối của họ mới có thể thoát khỏi trạng thái uốn éo trong điệu múa ương ca “bật tín hiệu rẽ trái, bẻ tay lái sang phải” đứng vững trên đôi chân lịch sử.
Tôi năm nay ngoài 70 tuổi, đã trải qua những năm tháng của chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Trung Quốc, từng tham gia các phong trào chống phái hữu, ba cuộc cải tạo lớn, Đại tiến vọt và Đại cách mạng văn hoá, làm công tác giảng dạy và nghiên cứu ở Học viện quân sự cấp cao trong thời gian dài, hành trình tư tưởng bám sát Mao Trạch Đông, nếu không, không thể trải qua bấy nhiêu cuộc vận động chính trị mà vẫn tồn tại. Mao Trạch Đông là thần tượng của tôi thời trai trẻ, khi giảng dạy và viết bài, tôi từng thật lòng cổ vũ sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông, cổ vũ chủ nghĩa xã hội không tưởng mà ông ta thực hiện; thậm chí, tôi từng xuyên tạc chủ nghĩa Mác để biện hộ cho sai lầm của Mao, coi đó là thiên chức của người làm công tác lý luận, là tính đảng của người cộng sản.
Trong làn sóng cuồng nhiệt ca ngợi Mao cũng có bọt nước của tôi. Trên ý nghĩa đó, tôi cũng có phần trách nhiệm đối với sai lầm của Đảng. Xuất phát từ trách nhiệm ấy, tôi sẵn sàng kể với thế hệ sau lịch sử chân thực mình đã trải qua, mong họ đừng cuồng nhiệt như tôi hồi trẻ. Đánh giá lại Mao Trạch Đông sẽ là một đề tài lớn trong thế kỷ 21. Nhiều hồ sơ lịch sử về những sự kiện trọng đại chưa được giải mật, đó là hạn chế lịch sử mà cuốn sách này không có cách nào vượt qua, khó tránh khỏi những sai sót về sử liệu và bình luận không thoả đáng, hoan nghênh bạn bè chỉ giáo, để những ý kiến thô thiển của tôi đổi được những lời vàng ngọc.
♦ ♦ ♦
Muốn trở thành lãnh tụ phong trào cộng sản quốc tế
Tháng 7-1949, trong thời gian Lưu Thiếu Kỳ bí mật thăm Liên Xô, Stalin kiến nghị: Hai nước cần gánh vác nghĩa vụ lớn hơn trong phong trào cách mạng thế giới. Trung Quốc cần giúp đỡ nhiều hơn cho phong trào cách mạng dân tộc dân chủ ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Sau khi Mác và Ăng-ghen qua đời, trung tâm cách mạng thế giới đã từ phương Tây chuyển sang phương Đông, nay lại chuyển sang Trung Quốc và Đông Á. Do đó, Trung Quốc cần gánh vác trách nhiệm đối với cách mạng các nước Đông Nam Á.
Ý kiến của Stalin về trung tâm cách mạng chuyển sang Trung Quốc và muốn Trung Quốc giữ chiếc ghế thứ hai trong phe xã hội chủ nghĩa đã cổ vũ Mao Trạch Đông rất nhiều. Mao cho rằng ông ta có sứ mệnh lịch sử mở rộng con đường cách mạng “lấy nông thôn bao vây thành thị” sang các nước Á, Phi, Mỹ Latinh, lấy nông thôn thế giới bao vây thành thị thế giới, cuối cùng giành lấy châu Âu, tiêu diệt nước Mỹ lật đổ toàn bộ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa, hoàn thành cách mạng thế giới và trong quá trình này, Mao Trạch Đông trở thành người thầy vĩ đại và lãnh tụ vĩ đại của nhân dân cách mạng thế giới. Mao quyết không cam tâm chỉ làm lãnh tụ của Trung Quốc mà cho rằng thắng lợi của cách mạng Trung Quốc chỉ là bước đầu tiên trên con đường trường chinh vạn dặm. Các hoạt động nội chính và ngoại giao, văn trì và vũ công, thành công và thất bại, công lao và tội lỗi của Mao đều trực tiếp hoặc gián tiếp gắn liền với dã tâm muốn làm lãnh tụ thế giới của ông ta. Trong bối cảnh lịch sử ấy, Mao ngả hẳn sang Liên Xô, và việc lần đầu tiên của Mao sau khi thành lập nước CHND Trung Hoa là sang thăm Moskva, mừng thọ Stalin, ký Hiệp ước đồng minh tương trợ Trung-Xô.
Nhưng Stalin không hoàn toàn yên tâm về Mao Trạch Đông, lo ngại Mao trở thành “Tito phương Đông”. Một nước cờ quan trọng của Stalin là kéo Mao vào cuộc chiến tranh Triều Tiên.
Sau thế chiến II, bán đảo Triều Tiên bị phân chia làm hai miền Nam Bắc, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới, miền Nam do Mỹ cai quản, ngày 15-8-1945 đã thành lập Chính phủ Đại Hàn Dân quốc do Lý Thừa Vãn làm tổng thống; miền Bắc do Liên Xô cai quản, ngày 9-9-1948 đã thành lập Chính phủ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên do Kim Nhật Thành làm thủ tướng. Theo thoả thuận Yalta, quân đội Xô, Mỹ đã rút khỏi Triều Tiên vào cuối năm 1948 và tháng 6-1949. Lấy cớ hợp nhất, Kim Nhật Thành đã xoá bỏ Đảng Cộng sản mà ông ta từng gia nhập, thành lập Đảng Lao động Triều Tiên, xây dựng quân đội do Liên Xô trang bị và huấn luyện. Chính phủ hai miền đều có ý đồ dùng vũ lực nuốt chửng đối phương, nhưng Bắc Triều Tiên nổ súng trước.
Từ 30-3 đến 25-4, Kim Nhật Thành mang theo phương án tác chiến sang Liên Xô gặp Stalin, Stalin chấp nhận, hứa giúp đỡ vũ khí và cố vấn quân sự, nhưng nói rõ nếu Mỹ can thiệp, Liên Xô không thể ra mặt tham chiến, mà Triều Tiên phải dựa vào Trung Quốc. Từ 13 đến 15-5-1950 Kim Nhật Thành bí mật sang Bắc Kinh hội đàm với Mao Trạch Đông, giới thiệu kế hoạch tấn công chi tiết, và yêu cầu giúp đỡ. Mao nói: Trung Quốc vốn định giải quyết vấn đề Đài Loan rồi mới giúp Bình Nhưỡng giải phóng miền Nam, nay Stalin quyết định giải quyết vấn đề Triều Tiên trước. Trung Quốc cũng không có ý kiến gì. Tác chiến phải chuẩn bị kỹ. Binh quý thần tốc, phải bao vây các thành thị chủ yếu, tập trung binh lực tiêu diệt địch. Nếu Mỹ can thiệp, Trung Quốc có thể xuất quân.
Vào thời diềm đó, Bắc Triều Tiên có 135 ngàn quân, gồm 10 sư đoàn bộ binh với đầy đủ quân số và vũ khí, trang bị, 1 sư đoàn xe tăng với 150 chiếc T-34, nhiều pháo hạng nặng, 1 sư đoàn không quân với 180 máy bay chiến đấu tính năng cao. Trong khi đó, Hàn Quốc có 95 ngàn quân, 8 sư đoàn chỉ có 4 sư đoàn gần đầy đủ quân số, 24 máy bay huấn luyện, không có xe tăng và vũ khí hạng năng, thậm chí không có cả mìn chống tăng.
Rạng sáng 25-6-1950, quân đội của Kim Nhật Thành mở cuộc tấn công dữ dội xuống phía nam, chỉ 3 ngày đã chiếm Seoul, thủ đô Hàn Quốc. Ngày 30-6, tổng thống Mỹ ra lệnh cho lục quân Mỹ tham chiến ở Triều Tiên. Ngày 1-7, Sư đoàn 24 bộ binh Mỹ được không vận từ Nhật Bản sang Pusan ở mạn nam Hàn Quốc. Ngày 7-7, Liên hợp quốc thông qua nghị quyết tổ chức quân đội LHQ giúp Hàn Quốc tác chiến, ngoài quân Mỹ ra, 39 ngàn quân của 15 nước được cử sang Triều Tiên. Tướng Mỹ McArthur được cử làm Tổng tư lệnh quân đội LHQ, trung tướng Walker, tư lệnh Quân đoàn 8 Mỹ trực tiếp chỉ huy liên quân trên chiến trường. Ngày 5-7, quân đội Triều Tiên đụng độ sư đoàn 24 Mỹ tại khu vực cách Seoul 48 km về phía nam. Rồi với thế chẻ tre: tiếp tục tiến sâu về phương nam, chỉ trong 2 tháng đã tràn ngập phần lớn lãnh thổ Hàn Quốc, đẩy quân Mỹ ra bán đảo Pusan trên vĩ tuyến 35.
Tướng Walker tổ chức phòng ngự tại Pusan, Lữ đoàn 1 lính thuỷ đánh bộ hỗn hợp và sư đoàn 2 bộ binh Mỹ đã kịp thời sang tham chiến. Ngày 15-8, Kim Nhật Thành ra lệnh phải hoàn toàn giải phóng Nam Triều Tiên trong tháng 8. nhưng quân đội của ông lúc này đã như tên bay hết tầm, bị thương vong nặng nề mà không vượt qua nổi phòng tuyến Pusan.
Ngày 28-6, Hạm đội 7 Mỹ từ Philippines đi vào eo biển Đài Loan nhằm kiềm chế Trung Quốc. Mao Trạch Đông nhậy bén nhận ra Mỹ đưa quân sang Triều Tiên có thể đảo ngược cục diện chiến tranh. Từ giữa tháng 7 đến đầu tháng 9, Mao đã ba lần nhắc nhở Kim phải quan tâm đến hậu phương, bảo vệ đường giao thông, đề phòng Mỹ đổ bộ lên Incheon. Nhưng Kim Nhật Thành hy vọng đánh nhanh thắng nhanh, không chịu điều chỉnh chiến lược.
Ngày 15-9, McArthur cho Quân đoàn 10 Mỹ và 5.000 linh thuỷ đánh bộ Hàn Quốc được 260 tàu chiến và 500 máy bay phối hợp đổ bộ chiếm Incheon, cắt đứt đường tiếp tế của quân đội Bắc Triều Tiên. Mười ngày sau, quân Mỹ chiếm Seoul, rồi chia làm hai cánh tiến ra vĩ tuyến 38 theo ven biển miền dông và miền tây. Tám sư đoàn chủ lực Bắc Triều Tiên bị cô lập tại mặt trận Pusan, đã bị thương vong 58.000 người khi phá vây rút lui, ngày 1-10 rút về bắc vĩ tuyến 38, ngày 19-10 rút khỏi thủ dô Bình Nhưỡng. Kim Nhật Thành và cơ quan lãnh đạo đầu não Bắc Triều Tiên chạy ra Kangke cách Trung Quốc 50 km. Sau khi chiếm Bình Nhưỡng, quân đội LHQ theo nhiều ngả tiến về phía biên giới Trung-Triều, Tướng McArthur tuyên bố “sông Áp Lục không phải là trở ngại không thể vượt qua”.
Từ đầu tháng 7, Stalin đã nhiều lần thúc giục Trung Quốc xuất quân. Đây là một vấn đề gay gắt đặt ra trước Mao Trạch Đông và ban lãnh đạo Trung Quốc. Mao quyết tâm kháng Mỹ viện Triều, bởi gánh vác nghĩa vụ quốc tế là điều kiện để sau này trở thành lãnh tụ của phong trào cộng sản quốc tế. Nhưng hầu hết các nhà lãnh đạo khác không tán thành vì vừa giải phóng được một năm, Trung Quốc còn đầy rẫy khó khăn, nội chiến chưa chấm dứt, nạn thổ phỉ vẫn hoành hành, kho tàng trống rỗng, được Bành Đức Hoài ủng hộ, qua phân tích chỗ mạnh chỗ yếu của mỗi bên, nhất là lợi ích an ninh tạo ra khu đệm giữa Trung Quốc và Mỹ, đánh Mỹ ở bên ngoài còn hơn phải đánh Mỹ trên đất Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã thuyết phục được các nhà lãnh đạo khác tán thành đưa quân sang Triều Tiên. Liên Xô cam kết yểm trợ về không quân và giúp Trung Quốc trang bị 40 sư đoàn.
Ngày 19-10-1950, 4 quân đoàn Quân tình nguyện Trung Quốc gồrn 26 vạn người do Bành Đức Hoài chỉ huy vượt sông Áp Lục, sau 3 chiến dịch đã xoay chuyển tình thế, đẩy lùi quân Mỹ và LHQ. Ngày 31-12, Liên quân Trung-Triều vượt vĩ tuyến 38, chiếm Seoul. Quân Mỹ phải lùi tới vĩ tuyến 37.
Ngày 13-1-1951, Uỷ ban chính trị LHQ thông qua “báo cáo bổ sung” về nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề Triều Tiên trên cơ sở đề án của 13 nước (Anh, Thụy Điển, Ấn Độ), đề nghị ngừng bắn ngay, quân đội nước ngoài rút khỏi Triều Tiên, tổ chức bầu cử để thống nhất Triều Tiên, sau đó họp Hội nghị 4 bên Anh, Mỹ, Xô, Trung giải quyết vấn đề Viễn Đông, bao gồm vị trí của Đài Loan và quyền đại diện của Trung Quốc tại LHQ. Mỹ rất lủng túng trước đề nghi này, chấp nhận thì mất tín nhiệm với người Triều Tiên, khiến Quốc hội và dư luận Mỹ tức giận không chấp nhận sẽ mất sự ủng hộ của đa số trong LHQ. Mỹ chỉ mong Trung Quốc bác bỏ đề nghị trên.
Đối với Trung Quốc, đây là cơ hội tuyệt vời. Nếu Trung Quốc đóng quân gần vĩ tuyến 38, bắt đầu thương lượng ngừng bắn, thì có lợi cả về chính trị, quân sự, ngoại giao. Việc thông qua đề án trên cũng thể hiện sự đồng tình và thái độ hữu nghị của đa số các nước trên thế giới đối với Trung Quốc. Nhưng hồi ấy Stalin quyết tâm đánh tiếp. Ngày 17-l, Chu Ân Lai tuyên bố cự tuyệt đề án ngừng bắn, ông còn chỉ trích đây là âm mưu của Mỹ, làm tổn thương tình cảm của nhiều nước.
Hậu quả là ngày 30-1, với đa số 44/7 (có 7 phiếu trắng), Uỷ ban Chính trị LHQ đã thông qua đề án do Mỹ đưa ra, tố cáo Trung Quốc xâm lược. Tuy trong đó có nhiều nhân tố do Mỹ thao túng, nhưng nó cũng chứng tỏ nhiều nước thất vọng với Trung Quốc, vấn đề chiếc ghế của Trung Quốc ở LHQ cũng bị gác lại rất lâu.
Theo chỉ thị của Stalin, Liên quân Trung-Triều mở tiếp chiến dịch thứ 4 và thứ 5. Hai bên liên tục tăng quân, tổng binh lực trên chiến trường lên tới gần 3 triệu. Riêng Trung Quốc đã đưa sang Triều Tiên 27 quân đoàn bộ binh, 15 sư đoàn pháo binh, 12 sư đoàn không quân, 3 sư đoàn xe tăng, 14 sư đoàn công binh, 10 sư đoàn đường sắt, 2 sư đoàn công an… tổng cộng 1,34 triệu quân. Chiến tranh giằng co, thương vong nặng nề của quân tình nguyện Trung Quốc chủ yếu diễn ra sau khi Trung Quốc vượt vĩ tuyến 38. Cuối cùng quân Mỹ lại đẩy quân Trung Quốc ngược trở lại bắc vĩ tuyến 38.
Ngày 30-6-1951, Mỹ đề nghị thương lượng ngừng bắn. Một ngày sau, Bành Đức Hoài và Kim Nhật Thành trả lời đồng ý ngay. Stalin chỉ thị “không được có biểu hiện vội vã kết thúc đàm phán”, cục diện vừa đánh vừa đàm kéo dài.
Ngày 5-3-1953, Stalin từ trần. Ban lãnh đạo mới của Liên Xô yêu cầu Trung-Triều chủ động ngừng bắn. Ngày 27-7-1953, Hiệp định ngừng bắn được ký kết, trong cuộc chiến này. Phía Trung-Triều thương vong 1,03 triệu người, riêng Trung Quốc thương vong trên 30 vạn người (có 11,5 vạn chết trận), thương vong phi chiến đấu trên 41 vạn người.
Vào ngày đầu dựng nước, với đội quân đã mệt mỏi do chiến trận lâu dài, với nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, mà Mao dám quyết tâm tham chiến ở Triều Tiên, quả là đại trí, đại dũng. Từ đó, nhân dân Trung Quốc ngẩng cao đầu, chẳng ai dám đến hà hiếp họ nữa. Đây là trận đánh đặt nền móng cho nước Trung Hoa mới, là đỉnh cao huy hoàng trong sự nghiệp cách mạng của Mao Trạch Đông.
♦ ♦ ♦
Chương 2
Sai lầm của Mao Trạch Đông về lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội
Ban lãnh đạo Trung Quốc chưa chuẩn bị đầy đủ về lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhược điểm lớn nhất của Mao là “không đọc có hệ thống Tư bản luận, đó là chứng bệnh phổ biến của lãnh đạo cấp cao”. Chịu ảnh hưởng của cố vấn lý luận Trần Bá Đạt, Mao đưa ra quan điểm hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có thể dựa vào phân công để nâng cao năng suất lao động như các công trường thủ công thế kỷ 17. Theo lý luận đó, Mao lãnh đạo toàn dân thực hiện hợp tác hoá, công xã hoá, đại tiến vọt. Trong giai đoạn cách mạng dân chủ, Mao đã sáng tạo con đường nông thôn bao vây thành thị. giải quyết vấn đề các nước tiền tư bản chu nghĩa công nghiệp chưa phát triển, giai cấp công nhân quá nhỏ yếu làm thế nào tiến hành cách mạng, giành chính quyền, những người cộng sản Trung Quốc và toàn thế giới đều cho rằng đây là sự phát triển trọng đại đối với chủ nghĩa Mác. Nếu trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Mao có thể bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, một bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nên một nước Trung Hoa hùng mạnh, giàu có, văn minh trên biển cả mênh mông của nền kinh tế tiểu nông, thì không nghi ngờ gì nữa, đây sẽ là sự phát triển trọng đại hơn đối với chủ nghĩa Mác. Có hai cống hiến lý luận này, Mao có thể làm lu mờ Stalin, mà sánh vai Lenin, trở thành người thầy và lãnh tụ vĩ đại của Phong trào cộng sản quốc tế. Đến khi phong trào cưỡng bức nông dân vào hợp tác xã bị nông dân phản kháng tiêu cực, dẫn đến sản lượng nông nghiệp sụt giảm, Mao vẫn không hiểu vì sao các hợp tác xã nông nghiệp Trung Quốc thế kỷ 20 lại không thể dựa vào phân công tạo ra lực lượng sản xuất mới cao hơn như các công trường thủ công Âu Mỹ thế kỷ 17.
Thật ra, hai hình thái tổ chức sản xuất trên bề ngoài giống nhau, nhưng khác nhau về bản chất.
Làm việc trong các công trường thủ công là những người lao động làm thuê với hai bàn tay trắng. Họ vào đây là tự nguyện, là biện pháp mưu sinh, không có sự lựa chọn nào khác. Nông dân Trung Quốc là những người tư hữu nhỏ có ruộng đất, nông cụ thậm chí cả gia súc kéo, có tư liệu sản xuất và khả năng kinh doanh độc lập, gia nhập hợp tác xã đồng nghĩa với việc họ bị tước đoạt (ngay lập tức hoặc từng bước) tư liệu sản xuất, không được phép giàu lên. Mác coi nông dân, những người làm việc trong ngành chế tạo và thương nhân là sự phân công lớn, tạo thành cơ sở kinh tế của xã hội, nông dân cá thể nằm trong khái niệm phân công lớn, tức phân công trong nội bộ xã hội, nó khác với phân công trong nội bộ công trường thủ công. Hai sự phân công này khác nhau cả về mức độ và bản chất. Tiền đề của phân công trong công trường thủ công là tư liệu sản xuất tích tụ trong tay một nhà tư bản, nhà tư bản có quyền uy tuyệt đối đối với con người, con người chỉ là một phần trong tổng cơ cấu mà nhà tư bản chiếm hữu. Tiền đề của phân công xã hội là tư liệu sản xuất phân tán trong tay nhiều người sản xuất hàng hoá không dựa vào nhau, họ chỉ thừa nhận quyền uy cạnh tranh, không thừa nhận bất cứ quyền uy nào khác.
Qua nghiên cứu, Trần Bá Đạt nhận thấy xã viên hợp tác xã và công nhân công trường thủ công khác nhau ở chỗ một bên là người tư hữu nhỏ, một bên là người lao động làm thuê hai bàn tay trắng, vậy chỉ cần đẩy nhanh cải tạo XHCN đối với xã viên, cắt bỏ “cái đuôi” người tư hữu nhỏ, biến họ thành công nhân nông nghiệp không có ruộng đất, thành người vô sản từ đầu đến chân, cộng thêm tuyên truyền giáo dục lâu dài trên qui mô lớn, để họ “phá tư, lập công”, thì chắc chắn có thể làm cho các hợp tác xã nông nghiệp tạo ra kỳ tích nâng cao hiệu suất lao động như các công trường thủ công thế kỷ 17, bởi tập thể hoá đẻ ra phân công, phân công sẽ nâng cao hiệu suất. Trần Bá Đạt nói với Mao phát hiện trên. Mao liền gấp rút đẩy nhanh tiến trình “cải tạo xã hội chủ nghĩa” đối với nông nghiệp, từ tổ đổi công tới hợp tác xã bậc thấp, từ bậc thấp lên bậc cao, rồi công xã nhân dân, chỉ trong 3 năm đã tách nông dân khỏi ruộng đất, thu lại toàn bộ những ân huệ mà cải cách ruộng đất mang lại cho họ. Theo kế hoạch của Mao Trạch Đông và Trần Bá Đạt, chuyến này nông dân trần như nhộng, chỉ còn mỗi con đường hùng hục làm việc trong các đội sản xuất. Để tạo hiệu quả sản xuất, người ta cho tổ chức “hội thảo”, cờ đỏ rợp trời, trống chiêng dậy đất, các tiểu đội “cô gái thép”, “lão Hoàng Trung” ngày đông giá rét bắt xã viên trần đôi vai run rẩy làm việc. Nhưng hình thức tổ chức càng cao, năng suất càng thấp, lương thực làm ra càng ít, xã viên càng nghèo thêm. Mao không ý thức được rằng phong trào hợp tác hoá đã tách rời quần chúng cơ bản ở nông thôn từng theo ông ta làm cách mạng. Động cơ, nguyện vọng của Mao là cao cả, nhưng ông đã cản trở, bóp nghẹt sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nông thôn, chẳng thấy đâu một xã hội thái bình, an khang, thịnh vượng, mà chỉ thấy cảnh nghèo nàn, bệnh phù thủng và đầy rẫy người chết đói. Sự hạn chế của lịch sử và thiên kiến ý thức hệ hẹp hòi khiến Mao vẫn say sưa với cuộc thực nghiệm chủ nghĩa xã hội không tưởng.
♦ ♦ ♦
Chương 3
Giang Thanh bước đầu tỏ ra lợi hại
Mao Trạch Đông lên làm Chủ tịch nước, Giang Thanh khi ấy 35 tuổi thật sự trở thành đệ nhất phu nhân, nhưng Mao vẫn không cho bà ta xuất hiện trên vũ đài chính trị. Cùng sống ở khu Phong Trạch Viên trong Trung Nam Hải, song mỗi người một phòng, vì Mao đã đam mê những người đàn bà khác.
Mục tiêu lớn của Giang là giữ vững vị trí của mình, muốn vậy, phải góp phần củng cố và phát triển quyền lực tối cao của Mao. Giang đã từng bước thành công trong 20 năm sau đó. Được Mao công khai và ngấm ngầm ủng hộ, Giang đã từ lĩnh vực văn nghệ đi vào chính trị từ phê phán các bộ phim “Chuyện kín trong cung nhà Thanh” (1950), “Truyện Vũ Huấn” (1951), phê phán “Hồng Lâu Mộng” (1953), vụ án Hồ Phong (1955)…, giúp Mao loại trừ hoặc kiềm chế các nhà lãnh đạo khác. Mao thỉnh thoảng cũng giả vờ phê bình Giang trên thực tế ngày càng tin cậy, cho đến khi Giang được cử giữ chức Tổ phó thứ nhất Tổ Cách mạng văn hoá trung ương, có quyền lực thực tế hơn cả Chủ tịch nước, Tổng bí thư, Thủ tướng.
♦ ♦ ♦
Chương 4
Vận dụng thuật cầm quyền của vua chúa
Mọi sai lầm lớn của Mao những năm cuối đời, như giết hại công thần, gây bè phái trong đảng, bám chặt lấy chế độ lãnh đạo suốt đời và gia đình trị, dung túng phe đảng Giang Thanh, đều thuộc thuật cầm quyền của vua chúa.
Từ Đại hội 7 ĐCSTQ (1945), Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai là trợ thủ chủ yếu của Mao. Họ hiểu nhau, nhất trí về tư tưởng và đường lối, phối hợp rất ăn ý, vinh nhục có nhau. Nhưng sau khi vào Trung Nam Hải, môi quan hệ thân thiết ấy dần dần thay đổi. Lưu và Chu ngày càng thấy khó nắm bắt được ý đồ của Mao, ngày càng thấy lo ngại, phải thận trọng giữ gìn từng ly một. Cao Cương phụ trách 3 tỉnh Đông Bắc, là ngôi sao mới nổi lên thời kỳ đầu thành lập CHND Trung Hoa, thuộc phái thân Liên Xô, Mao cần dựa vào ông ta để khai thông quan hệ với Stalin. Tháng 6-1949, khi cùng Lưu Thiếu Kỳ và Vương Gia Tường sang Liên Xô thông báo tình hình và xin viện trợ, Cao Cương đã đề nghị sáp nhập 3 tỉnh Đông Bắc thành nước cộng hoà thứ 17 của Liên Xô. Nhận được báo cáo của Lưu Thiếu Kỳ, Mao Trạch Đông nổi giận, gọi Cao Cương về nước ngay.
Nhưng khi họ Cao có mặt tại Trung Nam Hải, Mao lại vỗ về, hứa cho Cao giữ chức Phó Chủ tịch nước. Tiếp đó Mao điều Cao Cương lên trung ương, cử giữ chức Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch nhà nước, đưa 15 cán bộ cấp cao như Trần Vân, Bành Đức Hoài, Lâm Bưu, Đặng Tiểu Bình, Bành Chân, Lý Phú Xuân… về Uỷ ban này làm việc dưới quyền Cao Cương.
Trong khi đó, Mao vẫn cho Cao Cương kiêm nhiệm 4 chức vụ chủ chốt ở Đông Bắc (Bí thư thứ nhất đảng uỷ, Chủ tịch Uỷ ban quân chính, Tư lệnh kiêm Chính uỷ Quân khu). Mao lại cho phổ biến rộng rãi “kinh nghiệm Đông Bắc”, tỏ ra ngày càng không tin cậy Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai… Tất cả những động thái đó khiến Cao Cương lầm tưởng rằng ông ta có vị trí và vai trò đủ để thay thế Lưu Thiếu Kỳ, khi Mao đi theo đường lối thân Liên Xô. Ông ta vẫn mưu toan dựa vào Stalin để củng cố thế đứng cho mình. Cao Cương và bạn đồng minh chủ yếu là Trưởng ban Tổ chức Trung ương Nhiêu Thấu Thạch tưởng đã nắm được ý đồ của Mao, họ trở thành những nhân vật quan trọng trong làn sóng ngầm chống Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai do Mao phát động. Nào ngờ, Stalin vừa qua đời, Mao liền tính sổ họ ngay với vụ án “Tập đoàn chống Đảng Cao Cương - Nhiêu Thấu Thạch”. Mao chẳng những trừ khử Cao-Nhiêu, mà còn làm suy yếu Lưu Thiếu Kỳ-Chu Ân Lai. Thủ đoạn của Mao lợi hại và đáng sợ đến mức các cán bộ cấp cao run rẩy, dù được tin cậy hay bị nghi ngờ, chỉ có tuyệt đối trung thành với Mao mới có thể giữ mình.
♦ ♦ ♦
Chương 5
Thiết lập thể chế chính trị chuyên chế một đảng
Thắng lợi trong cuộc chiến tranh Triều Tiên và việc Stalin qua đời khiến Mao cảm thấy mình là người hùng số một trên thế giới ngày nay, chỉ cần ông ta quyết tâm, vung tay lên là chẳng có việc gì không làm nổi trên đời này. Mao phải dựa vào vũ đài lịch sử là Trung Quốc, chỉ huy 600 triệu dân tiến hành sự nghiệp lớn long trời lở đất, ai bàn ra tán vào, ai kiềm chế, cản trở, phản đối Mao, ông ta sẽ đoạn tuyệt với người đó, bất kể là bạn cũ, chiến hữu cũ, bất kể nhân sĩ ngoài đảng hay đồng chí trong đảng. Mao cho rằng ông là người hiểu nông dân nhất, song người mà ông ta hiểu là nông dân thời đại “báo cáo khảo sát phong trào nông dân Hồ Nam”, ông ta không thật sự hiểu lý tưởng, ước mơ, những ưu tư và lo ngại của nông dân được chia ruộng sau cải cách ruộng đất. Địa vị chí tôn đã ngăn cách ông khỏi nông dân rất xa. Mấy năm sau, Mao đã ngã bật ngửa ngay trên địa bàn nông dân, nông nghiệp và nông thôn, lĩnh vực ông cho rằng mình hiểu nhất, thông thạo nhất.
Trung ương ĐCSTQ vốn định xây dựng xong chủ nghĩa xã hội mới định ra hiến pháp. Stalin cho rằng nếu “Chính phủ liên hiệp” tồn tại lâu dài, Trung Quốc có thể phát triển theo hướng dân tộc chủ nghĩa, nên ông kiên trì đòi Trung Quốc sớm định ra hiến pháp. Liên Xô đã thiết kế cho Trung Quốc mô hình chuyển đổi thể chế theo kinh nghiệm các nước Đông Âu.
Tháng 9-1954, Kỳ họp thứ nhất Quốc hội Trung Quốc khoá 1 đã thông qua hiến pháp do Mao Trạch Đông khởi thảo. Tại kỳ họp này, chính phủ liên hợp đổi thành chính phủ một đảng, các nhân sĩ dân chủ cơ bản bị gạt khỏi cơ cấu quyền lực. Hội nghị hiệp thương chính trị vốn có chức năng Quốc hội nay biến thành cơ quan tư vấn; Hội đồng Chính vụ và Hội đồng Chính phủ nhân dân trung ương thành phần chủ yếu là các nhân sĩ dân chủ bị xoá bỏ, thay vào đó là Hội nghị Quốc vụ tối cao; Chính Vụ Viện đổi thành Quốc vụ Viện (Chính phủ), quyền hạn tăng thêm, nhưng trong hàng Phó thủ tướng không có một nhân sĩ dân chủ nào. Tháng 9-1954, tái lập Quân uỷ Trung ương, quyền thống soái và chỉ huy quân đội nằm trong tay một mình Mao Trạch Đông.
Cơ cấu quyền lực mà Mao thiết kế về bản chất giống thể chế độc tài của Tưởng Giới Thạch. Đảng đứng trên Quốc hội, lãnh tụ đứng trên Đảng. Về lý luận nói sự lãnh đạo của Đảng nhất trí với nhân dân làm chủ. Vấn đề là khi nảy sinh tình trạng không nhất trí thì quyền quyết định cuối cùng thuộc về ai? Nói Đảng quyết định cũng không phải Ban chấp hành trung ương thảo luận, biểu quyết, mà do lãnh tụ độc đoán quyết định. Đây là một thể chế dân chủ giả, chuyên chế thật. Nó đã không ngăn cản nổi 50 vạn tri thức bị qui thành phái hữu và bị đàn áp, không ngăn chặn được việc điên cuồng phát động phong trào Công xã hoá và Đại tiến vọt, cũng không có phản ứng nào khi cuộc Đại cách mạng văn hoá kiểu phát xít xoá bỏ hiến pháp, đình chỉ hoạt động của Quốc hội.
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân đã được soạn thảo khá nghiêm túc. Tháng 8-1952, dự thảo khung kế hoạch đã được Chu Ân Lai, Trần Vân, mang sang xin ý kiến Stalin và Chính phủ Liên Xô. Tháng 10-1954, Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai đã dành một tháng cùng nhau thảo luận, sửa đổi bản thảo kế hoạch chi tiết, tháng 11 Bộ Chính trị thảo luận trong 11 ngày. Tháng 3-1955, Hội nghị toàn quốc của Đảng thảo luận, tháng 7 Quốc hội chính thức thông qua, tháng 11 và 12, Chính phủ ban bố lệnh thực hiện trong cả nước. Nhưng kế hoạch thực hiện được hơn 2 năm thì Mao Trạch Đông gạt Thủ tướng và Chính phủ sang một bên, với tư cách Chủ tịch đảng cầm quyền, đích thân đứng ra chỉ huy công cuộc xây dựng kinh tế. Thế là vừa ngủ dậy, Mao đã có một chủ ý mới, đang bơi hứng lên liền quyết định tăng sản lượng gang thép lên gấp 2 lần, chỉ tiêu kế hoạch thay đổi từng ngày, làm rối loạn cả nông nghiệp và công nghiệp, cuối cùng làm rối loạn kinh tế cả nước.
♦ ♦ ♦
Chương 6
Ba cuộc họp, một cuốn sách làm bùng lên cao trào hợp tác hoá nông nghiệp
Công cuộc hợp tác hoá, cộng thêm việc thu mua lương thực và cải tạo tư thương khiến tình hình nông thôn rất căng thẳng.
Trong cuộc họp Ban Bí thư ngày 20-4-1955, Mao và các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng cả nước đã có 67 vạn hợp tác xã lực lượng chủ quan kiểm soát không nổi, cần ngừng phát triển một năm rưỡi, để củng cố. Mao đưa ra mục tiêu cả nước hợp tác hoá xong trong 15 năm mỗi kế hoạch 5 năm hoàn thành 1/3. Nhưng chỉ hơn mười ngày sau, Mao lại hoàn toàn thay đổi ý kiến, yêu cầu tăng gấp rưỡi số hợp tác xã hiện có vào cuối năm 1957, và hơn một tháng sau lại đưa ra mục tiêu mới: tăng gấp đôi (lên 130 vạn) vào mùa xuân năm 1956. Ông chỉ thị 5 tháng cuối năm 1955, lãnh đạo các cấp từ tỉnh đến xã phải tập trung vào vấn đề hợp tác hoá. Cơ sở để Mao đưa ra quyết định trên là “cao trào xã hội chủ nghĩa đang xuất hiện ở nông thôn Trung Quốc”.
Tổng kết Hội nghị Trung ương 6 khoá 7 ĐCSTQ bàn về hợp tác hoá nông nghiệp tháng 10-1955, Mao kêu gọi làm cho phong kiến, đế quốc, tư bản và sản xuất nhỏ “tuyệt chủng” trên trái đất. Qua đó người ta thấy Mao coi đế quốc tư bản và sản xuất nhỏ đều là khái niệm chính trị, biện pháp tiêu diệt những thứ đó cũng là thủ đoạn chính trị, thể hiện ông không hiểu biết lý luận kinh tế đến mức ngạc nhiên.
Sau hội nghị trên, những ai dám nói thẳng, nói thật, nêu lên hiện trạng sản xuất và đời sống ở nông thôn đều bị phê phán, bị qui là hữu khuynh, nhiều người bị cách chức. Những ai biết lựa ý cấp trên, báo cáo dối trá bịa đặt, không cần biết đến “nhân từ, lương tâm”, được coi là đã “theo kịp tư tưởng, đường lối” của Mao. Lãnh đạo nhiều tỉnh gửi báo cáo lên Trung ương phản ánh tình hình “rất tốt đẹp”, chứng minh “cao trào xã hội chủ nghĩa ở nông thôn” mà Mao dự báo quả thật đã đến rồi!
Tạo ra cao trào hợp tác hoá nông nghiệp không phải do “tính tích cực xã hội chủ nghĩa” của đông đảo nông dân, mà do mệnh lệnh, cưỡng bức. Bi kịch của Mao là khác với thời kỳ chiến tranh, ông không có cách nào tiếp cận quần chúng, cũng có một số cuộc tiếp xúc, nhưng gặp ai, ở đâu, người được gặp ăn mặc ra sao, nói gì, đều được thao diễn trước, và sẽ diễn ra trong hàng rào bảo vệ dày đặc của lực lượng an ninh từ cơ sở tới trung ương ông rất khó biết được quần chúng nghe gì, cũng như nỗi lo âu và khát vọng của nông dân. Ông chỉ có thể dựa vào báo cáo của các tỉnh gửi lên. Trong tình trạng “báo tin vui được vui, báo tin buồn phải chịu buồn”, các Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ phải lần mò mẫm được ý hướng của Mao, rồi mới dám gửi tài liệu lên Trung Nam Hải. Họ lựa theo thuyết “cao trào” của Mao, phản ánh nông thôn đã xuất hiện cao trào xã hội chủ nghĩa, nông dân quả thật tích cực đi theo con đường XHCN.
Đến cuối tháng 11-1955, nông thôn cả nước đã thực hiện hợp tác hoá, 116,74 triệu hộ nông dân tham gia hợp tác xã, chiếm 96,1 số hộ nông dân trong cả nước, trong đó có 488.500 hợp tác xã cấp cao với 83% số hộ nông dân. Thế là kỳ tích xuất hiện: chỉ 4 năm đã hoàn thành kế hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, vốn dự định làm trong 15 năm: Giữa lúc đang trông đợi hợp tác hoá nông nghiệp đưa đến sản xuất đại phát triển, thì Mao nhận được nhiều thông tin xấu: nông dân nhiều nơi xin ra khỏi hợp tác xã vì thu nhập quá thấp. Mao cho rằng đây là cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa ở nông thôn. Cần có một cuộc đọ sức giai cấp quyết liệt, phải đẩy lùi “cuộc tấn công điên cuồng của các thế lực tư bản chủ nghĩa ở nông thôn”. Mao không có cách nào nâng cao năng suất lao động cho các hợp tác xã, tăng thu nhập cho xã viên, nhưng ông lại có cách hạ thấp năng suất lao động, giảm thu nhập của trung nông giàu. Số liệu phát triển kinh tế có thể bịa ra, nhưng bình quân lương thực, dầu ăn, phiếu vải đến tay mấy trăm triệu người thì không thể bịa ra được. Qua 20 năm vật vả trong nghèo nàn, sau khi Mao chết, hoàn bộ Công xã nhân dân đã sụp đổ, quay lại khoán sản tới hộ, khôi phục làm ăn riêng lẻ. Đó là sự lựa chọn của lịch sử.
Nay lại có người la lối khoán sản tới hộ là sai lầm, muốn nông nghiệp phát triển, nông dân giàu lên, vẫn phải tập thể hoá và hợp tác hoá. Khoán sản tới hộ là khởi đầu, không phải kết thúc tiếp sau bước khởi đầu, đó là tư hữu về ruộng đất (nông dân có thể mua, bán, thuê ruộng đất), hợp nhất, phân hoá, ruộng đất tập trung vào tay những người sản xuất giỏi, tư nhân, hình thành những hộ nông dân lớn, cuối cùng là nông trang tư nhân, đó là nội dung của chính sách nông nghiệp, đương nhiên không thể khoán sản tới hộ rồi kết thúc. Vấn đề hiện nay là không ai dám làm tiếp bài thơ mà Đặng Tiểu Bình đã phá đề. Lãnh đạo cấp cao sợ phải gánh trách nhiệm phục hồi chủ nghĩa tư bản ở nông thôn; ở cấp dưới thì chính quyền nắm trong tay quyền sở hữu ruộng đất, có thể tùy tiện khai thác, lợi dụng tài nguyên đất đai, tước đoạt ruộng đất vốn phải thuộc về nông dân (chỉ bồi thường chút ít mang tính tượng trưng).
Thế là “vấn đề tam nông” ngày càng nghiêm trọng. Nguồn gốc vấn đề “tam nông” ở Trung Quốc hơn 50 năm qua là nông dân bị tước quyền sở hữu ruộng đất trong phong trào hợp tác hoá, “Toàn bộ đất đai thuộc sở hữu nhà nước” đã treo cơ sở của “tam nông” lơ lửng trên không. Từ khi cải cách mở cửa đến nay đã ra 8 văn kiện số l của Trung ương vẫn chưa giải quyết được, bởi trong tư tưởng chỉ đạo vẫn lảng tránh vấn đề bản chất là “người cày có ruộng”. Trên cơ sở khoán sản tới hộ, phải thực hiện chính sách lớn người cày có ruộng, tư hữu hoá ruộng đất với 2 tiêu chí chủ yếu: một là quyền sở hữu không thời hạn có thể thừa kế, hai là có thể mua, bán, cho thuê.
Khi thức tỉnh về những sai lầm trong quá khứ, ĐCSTQ mưu toan lấy cuộc Đại tiến vọt năm 1958 làm ranh giới, cho rằng hợp tác hoá cơ bản đúng đắn, công xã hoá mới làm hỏng mọi chuyện. Như vậy là không đúng. Các nước trong tập đoàn Liên Xô tìm cách thông qua hợp tác hoá nông nghiệp để nông dân thoát khỏi nghèo nàn, cũng chẳng có nước nào thành công.
♦ ♦ ♦
Chương 7
Các nhà tư bản gióng trống, khua chiêng đi lên chủ nghĩa cộng sản
Sau mùa mùa hè năm 1955, “cao trào” hợp tác hoá nông nghiệp ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trong ngành thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh. Đến cuối năm 1956, ngành này đã cơ bản hoàn thành việc chuyển sang kinh tế tập thể, 92% số người làm nghề thủ công đã được tổ chức trong gần 10.000 hợp tác xã. Từ cuối năm 1955, Thượng Hải, tiếp đó là Bắc Kinh, Thiên Tân, cùng nhiều tỉnh và thành phố khác đã xuất hiện cao trào công ty hợp doanh trong toàn ngành công thương. Đến tháng 6-1956, đã hoàn thành toàn diện công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản trong cả nước.
Xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất ở nước Trung Hoa 600 triệu dân, một biến đổi xã hội long trời lở đất như vậy mà Mao Trạch Đông đã làm xong trong thời gian ngắn ngủi. Sức hấp dẫn chính trị của ông ta quả đáng thán phục. Tạo ra được một tình thế chính trị đặc biệt, trào lưu xã hội đặc biệt, để các nhà tư sản “gióng trống, khua chiêng” đi lên chủ nghĩa cộng sản, Mao Trạch Đông quả là một cao thủ trong đấu tranh chính trị.
Xét về chính trị, công cuộc cải tạo XHCN đối với công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa và cải tạo các nhà tư sản của ĐCSTQ rất thành công: không đổ máu; không “tước đoạt”, mà thực hiện chính sách “trưng mua”, đều là việc chưa từng có trong lịch sử. ĐCSTQ tự hào về điều đó. Nhưng người ta nghi ngờ tính tất yếu và tiến bộ của biện pháp này, xét về kinh tế về giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất về sáng tạo văn minh vật chất và thúc đẩy tiến bộ xã hội…
Kinh điển để Mao cải tạo xã hội chủ yếu là “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”. Tư tường chủ nghĩa xã hội không tưởng của “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” kết hợp với quan diềm “đại đồng” của Trung Quốc hình thành mô hình chủ nghĩa xã hội không tưởng Mao Trạch Đông. Sự phát triển của nó là Mác + Tần Thuỷ Hoàng, thêm thắt nhiều thứ mang tính chất phong kiến, cuối cùng biến chất thành chủ nghĩa xã hội phong kiến.
Vừa cầm quyền liền tính chuyện tiêu diệt chế độ tư hữu, tiêu diệt giai cấp tư sản, tiêu diệt phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, vội vã tiến hành ba cuộc cải tạo, dựa vào chính quyền nhà nước lấy bạo lực làm hậu thuẫn, không sợ giai cấp tư sản dân tộc chống lại, không sợ nông dân không nghe lời. Một số ý kiến và quan điểm của Mao về cải tạo xã hội chủ nghĩa và cách mạng xã hội chủ nghĩa có vẻ đúng đắn, song khảo sát tổng hợp thì đây là hệ thống tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng. Sai lầm cơ bản là nghiêm trọng xa rời thực tế, đi ngược lại quy luật kinh tế, chủ quan muốn đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, trên thực tế đã phá hoại và huỷ diệt hàng loạt lực lượng sản xuất, bóp nghẹt, cản trở lực lượng sản xuất ra đời và phát triển. Tuy chế độ tư bản chủ nghĩa có hàng ngàn, hàng vạn tội ác, đáng bị lật đổ hàng trăm lần, nhưng nó có cái hay như đã nêu trong “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” là sáng tạo ra lực lượng sản xuất cao hơn tổng lực lượng sản xuất của mọi thời đại trước đây. Mao muốn làm tuyệt chủng chủ nghĩa tư bản và sản xuất nhỏ, nhưng không làm nổi. Mao có thể tổ chức quân tình nguyện đánh bại người Mỹ trên chiến trường Triều Tiên, có thể dùng chính quyền trong tay tước đoạt tài sản của các nhà tư sản và những người sản xuất nhỏ, nhưng ông ta không tạo ra được lực lượng sản xuất cao hơn chủ nghĩa tư bản. Thậm chí không tạo ra được lực lượng sản xuất cao hơn sản xuất nhỏ ở nông thôn, nên không thể làm tuyệt chủng chủ nghĩa tư bản và sản xuất nhỏ. Bất cứ nhân vật vĩ đại nào cũng bất lực trước qui luật kinh tế, chỉ có thể thuận theo, không thể chống lại.
Động cơ cá nhân khiến Mao Trạch Đông vội vã từ bỏ lý luận đúng đắn của chủ nghĩa dân chủ mới và đường lối đúng đắn của Hội nghị Trung ương 2 khoá 7 là ông ta nôn nóng muốn làm lãnh tụ của Phong trào Cộng sản quốc tế. Sau khi Stalin từ trần, Mao cho rằng Trời sẽ trao nhiệm vụ lớn cho ông ta, chỉ có Mao đủ tư cách lấp chỗ trống do Stalin để lại. Muốn lãnh đạo Phong trào cộng sản và phe xã hội chủ nghĩa, mà nước mình lại thực hiện chủ nghĩa dân chủ mới, hình thái xã hội lạc hậu một thời đại so với các nước xã hội chủ nghĩa, thì không đủ tư cách lãnh tụ, do đó, phải nhanh chóng trở thành một nước XHCN hùng mạnh. Đó là nguồn gốc tư tưởng khiến Mao mắc phải chứng bệnh nóng vội trong vấn đề xây dựng.
“Ba cuộc cải tạo lớn” là việc làm rất sai lầm và ngu xuẩn của Mao với động cơ cao cả và lý luận thiêng liêng.
Cả đời Mao chưa hề đến thế giới tư bản chủ nghĩa chưa nhìn thấy phương thức sản xuất qui mô lớn và nền văn minh vật chất của chủ nghĩa tư bản. Khái niệm của ông về chủ nghĩa tư bản cố định ở mỏ than An Nguyên năm 1921. Ông chưa chuẩn bị đầy đủ về lý luận cho xây dựng kinh tế. Là những người tham gia quyết sách tối cao, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai cũng có phần trách nhiệm về những sai lầm của Mao làm cho đất nước rối tung lên.
♦ ♦ ♦
Chương 8
Đường lối Đại hội 8 sát thực tế
Đại hội 8 ĐCSTQ họp tháng 9-1956 trong tình hình quốc tế và trong nước phức tạp. Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô phê phán Stalin làm cho Mao Trạch Đông rất vui vì Stalin từng ủng hộ Vương Minh chống lại Mao, nhưng cũng khiến ông ta lo ngại làn sóng chống tệ sùng bái cá nhân trên thế giới sẽ ảnh hưởng đến vị trí của mình trong ĐCSTQ. Mao cho rằng sau khi Stalin qua đời, không ai đáng ngồi vào chiếc ghế lãnh tụ Phong trào cộng sản quốc tế hơn ông ta. Nhưng với sự kiện trên, một số cách nghĩ và cách làm của ông ta phải chậm lại.
Muốn làm lãnh tụ thế giới, làm người cầm cờ của Phong trào cộng sản, phải làm tốt mọi việc của Trung Quốc, tạo ra kỳ tích chấn động thế giới trong thời gian ngắn.
Đại hội đã đề ra đường lối thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội gồm 10 chính sách lớn với đặc điểm lấy mô hình phát triển kế hoạch 5 năm của Liên Xô làm mẫu, lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm.
Theo chỉ thị của Mao, Điều lệ đảng không nêu “Tư tưởng Mao Trạch Đông” nữa, bởi nội dung của nó đồng nhất với chủ nghĩa Mác-Lenin. Mao làm như vậy không phải do khiêm tốn, mà vì ông sợ bên ngoài hiểu lầm, cản trở ông ta trở thành lãnh tụ thế giới bởi sau thế chiến II, danh tiếng của Stalin lớn hơn Mao nhiều, mà Stalin chỉ nêu chủ nghĩa Mác-Lenin, không nêu chủ nghĩa hoặc “tư tưởng Stalin”.
Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành trung ương mới gồm 97 uỷ viên chính thức, 73 uỷ viên dự khuyết. Ban chấp hành trung ương đã bầu ra Bộ Chính trị gồm 37 uỷ viên chính thức, 6 uỷ viên dự khuyết. Thường vụ Bộ Chính trị gồm Chủ tịch Đảng Mao Trạch Đông, 4 phó Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức, Trần Vân. Tống Bí thư Đặng Tiểu Bình.
Khi bầu Chủ tịch Đảng, Mao không được 100% số phiếu, kiểm tra nét chữ trên các lá phiếu, phát hiện Mao không bầu mình, mà bỏ phiếu cho Lâm Bưu, dẫn đến nhiều phỏng đoán. 20 tháng sau, tại Hội nghị Trung ương 5 khoá 8, Lâm Bưu được bầu làm Phó Chủ tịch Đảng và Thường vụ Bộ chính trị.
Điều đáng tiếc nhất là Mao đã quay lưng lại với đường lối thực tế của Đại hội 8. Trong mấy năm sau đó, Mao lần lượt lật đổ 10 chính sách lớn, thay bằng 10 chính sách tương phản, hình thành đường lối chủ nghĩa xã hội không tưởng của ông ta.
♦ ♦ ♦
Chương 9
Địa ngục văn chương lớn nhất trong lịch sử loài người
Tháng 11-1956, Mao Trạch Đông tuyên bố chuẩn bị chỉnh phong, chống các bệnh chủ quan, bè phái, quan liêu.
Ngày 27-4-1957, Trung ương ĐCSTQ chính thức ra chỉ thị tiến hành chỉnh phong. Ngày 30-4, Mao gặp gỡ các nhà lãnh đạo các đảng phái dân chủ và đại diện giới trí thức, động viên họ góp ý kiến với ĐCSTQ, giúp chỉnh phong, sửa chữa khuyết điểm, sai lầm. Nhiều cuộc họp đã được tổ chức để lấy ý kiến phê bình. Đông đảo trí thức ngoài đảng từ giáo viên tiểu học tới giáo sư đại học, nhiều nhân vật có tên tuổi không những ở Trung Quốc mà cả trên thế giới đã thẳng thắn, chân thành, thiện chí vạch ra những yếu kém, sai lầm của ĐCSTQ từ trung ương đến địa phương. Thông tin về các cuộc họp này được đăng tải trên báo chí hàng ngày. Trưởng ban Mặt trận thống nhất trung ương Lý Duy Hán ba ngày một lần báo cáo Mao và Thường vụ Bộ Chinh trị. Tình hình diễn biến xem ra không như Mao mong đợi. Đến khi Lý phản ánh ý kiến của La Long Cơ rằng ở Trung Quốc hiện nay “tiểu trí thức của chủ nghĩa Mác-Lenin lãnh đạo đại trí thức của giai cấp tiểu tư sản, người mù chỉ đường người sáng mắt”, thì Mao nổi giận dữ dội. Mao vốn định thông qua cuộc vận động này để từng bước xác lập vị trí lãnh đạo tư tưởng của mình trong giới trí thức, nay thấy họ khác công nông, trong khi các nhà lãnh đạo cấp cao đều coi Mao là nhà lý luận và nhà tư tưởng vĩ đại, thì họ lại coi ông là “tiểu trí thức”. Xem ra không thể làm cho những người này sùng bái mình. Thế là Mao quyết tâm đánh đổ “những phần tử đại trí thức của giai cấp tư sản”, dùng quyền lực tạo dựng quyền uy của bản thân. Ông ta tiếp tục cho tổ chức các cuộc hội đàm nhằm “dụ rắn ra khỏi hang”, khiến phong trào chỉnh phong nửa đường biến chất, không còn là thành tâm phát động quần chúng góp ý kiến cho đảng cầm quyền, mà là trị những quần chúng góp ý kiến, lùng bắt phái hữu trong số đó. Mao dựng lên “vụ án chống đảng Chương-La”, (Chương Bá Quân, Chủ tịch Đảng Dân chủ Công Nông, Bộ trưởng Giao thông; và La Long Cơ, Phó Chủ tịch Đồng minh Dân chủ, Bộ trưởng Lâm nghiệp, lãnh tụ tinh thần của giới trí thức từ Âu Mỹ về). Theo thống kê chính thức, trong cuộc đấu tranh này, có 552.877 trí thức bị qui là phái hữu, bị đầy đoạ trong 20 năm trời. Đến khi sửa sai (1980), chỉ có 96 người thật sự là phái hữu, chiếm 1,8 phần vạn, nghĩa là trong 1 vạn người chưa đến 2 người.
♦ ♦ ♦
Chương 10
Hai đảng lớn Trung-Xô từ bạn thành thù
Giữa năm 1957, sau khi loại “tập đoàn chống đảng” Molotov, Malenkov, Kaganovic ra khỏi Trung ương, Khrusev cử Mikoyan sang Hàng Châu gặp Mao Trạch Đông, thông báo những thay đổi trong nội bộ ĐCSLX, được Mao cam kết ủng hộ. Đáp lại, Khrusev đồng ý giúp Trung Quốc phát triển bom nguyên từ, tên lửa, và nghiên cứu chế tạo máy bay tiêm kích kiểu mới. Ngày 15-10 sau 35 ngày thương lượng, hai nước ký hiệp định về việc Liên Xô viện trợ kỹ thuật tên lửa và hàng không cho Trung Quốc. Ngày 2-11, Mao dẫn đầu Đoàn đại biểu Trung Quốc tới Moskva dự kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười và Hội nghị các đảng cộng sản và công nhân thế giới.
Tại cuộc họp các đảng cầm quyền 13 nước xã hội chủ nghĩa từ 14 đến 16-11, Mao đã giúp Khrusev khẳng định và ghi vào tuyên ngôn của hội nghị vấn đề “Liên Xô đứng đầu Phe xã hội chủ nghĩa”. Mao chẳng coi Khrusev ra gì, nhưng Trung Quốc còn yếu, Mao muốn giành cho mình “vị trí thứ 2 trên danh nghĩa, vị trí thứ nhất trên thực tế”. Khi khởi thảo tuyên ngôn, phía Liên Xô nêu vấn đề “quá độ hoà bình từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”. Mao coi đây là quan điểm phi mác xít. Qua tranh luận, sửa hai điểm lớn: một là trong khi chỉ ra khả năng quá độ hoà bình, cũng chỉ ra con đường quá độ không hoà bình; hai là trong khi tranh thủ đa số trong nghị viện, cũng triển khai cuộc đấu tranh quần chúng bên ngoài nghị viện.
Từ 16 đến 19-11-1957, Khrusev chủ trì Hội nghị 64 đảng cộng sản và công nhân. Khi phát biểu, mọi người đều lên bục, riêng Mao cứ ngồi nói tại chỗ, để thể hiện thân phận mình khác người. Mao nói về quan hệ đồng chí, chiến lược sách lược chiến tranh thế giới, tình hình Trung Quốc. Một số người lắc đầu nhưng nhiều người giỏng tai nghe, coi Mao như Lenin thời nay. Với quá trình hoạt động truyền kỳ, vị trí lãnh tụ nước lớn, học vấn uyên bác, phong độ lãnh tụ không ai sánh kịp, Mao trở thành trung tâm của hội nghị này. Tuyên ngôn viết “Liên Xô đứng đầu, nhưng trong hội nghị Mao là trung tâm”.
Mỗi buổi họp kết thúc, Mao đứng dậy mọi người mới đứng dậy, và họ đứng yên chờ Mao đi trước. Đó là điều Khrusev không chịu nổi. Chuyến đi này khiến Mao rất hài lòng, cảm thấy lãnh tụ Phong trào cộng sản quốc tế trong tương lai chẳng thể là ai khác ngoài ông ta. Vấn đề là kinh tế Trung Quốc khiến Mao lực bất tòng tâm, xem ra không thể phát triển kinh tế theo con đường thông thường, thế là Mao nghĩ ra con đường mới là “Đại tiến vọt”.
Trong cuộc luận chiến sau đó, không phải Liên Xô hiếp đáp Trung Quốc, Khrusev ức hiếp Mao Trạch Đông, mà do Mao cố tình gây ra, nhằm giành giật vị trí minh chủ Phong trào cộng sản quốc tế. Do cần Mao Trạch Đông ủng hộ, trong quan hệ với Trung Quốc, Khrusev đã không tỏ thái độ kẻ cả như Stalin trước đây, mà thận trọng khiêm nhường, có gì trục trặc liền giải quyết qua con đường hiệp thương.
Khrusev đã từ bỏ một số đòi hỏi của Stalin đối với Trung Quốc, như đưa Tân Cương và khu Đông Bắc Trung Quốc vào phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô, áp đặt công ty hợp doanh không bình dẳng. Ông cử chuyên gia sang giúp Trung Quốc phát triển vũ khí hạt nhân và công nghiệp quân sự. Tám tháng sau cuộc gặp gỡ Moskva, “tuần trăng luật” Xô-Trung lên đến tột đỉnh, rồi bắt đầu xấu đi, kể từ chuyến thăm Trung Quốc của Khrusev.
Ngày 31-7-1958, Khrusev tới Bắc Kinh. Mao Trạch Đông bất chấp mọi lễ nghi ngoại giao tối thiểu, bố trí hội đàm với nhà lãnh đạo Liên Xô ngay cạnh bể bơi riêng trong Trung Nam Hải. Khi được mời vào, Khrusev thấy Mao mặc quần tắm, khoác khăn tắm, nhàn nhã hút thuốc lá, giống như Quốc vương Roma gặp sứ thần thuộc quốc, khác một trời một vực với sự tôn trọng và lễ nghi đặc biệt ông dành cho Mao mùa đông 1957 tại Moskva. Cách làm cố ý chọc tức này nhằm làm xấu quan hệ Trung-Xô, buộc đối phương trở mặt trước.
Tháng 9-1959, trước khi Khrusev sang thăm Mỹ, mượn cớ Xô-Mỹ đang thảo luận ký Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân, Liên Xô quyết định huỷ hợp đồng cung cấp mẫu bom nguyên tử và tư liệu kỹ thuật sản xuất bom nguyên tử cho Trung Quốc, khiến ĐCS và nhân dân Trung Quốc rất tức giận, sự tan vỡ giữa hai bên không còn cứu vãn được nữa. Sau chuyến thăm Mỹ, Khrusev điểu chỉnh chính sách, về đối ngoại đề xướng chung sống hoà bình, thi đua hoà bình, quá độ hoà bình; về đối nội đề xướng xây dựng đảng toàn dân và nhà nước toàn dân, làm mờ nhạt màu sắc chuyên chính của Nhà nước và màu sắc giai cấp của Đảng.
Lúc đó, trong ĐCSTQ tuyên truyền “thuyết trung tâm cách mạng, chuyển dịch”: thế kỷ 19 ở Đức, nửa đầu thế kỷ 20 chuyển dịch sang Nga, sau khi Stalin qua đời chuyển dịch sang Trung Quốc; ĐCSTQ do Mao lãnh đạo giương cao ngọn cờ Mácxít-Leninnít, phê phán chủ nghĩa xét lại Khrusev sẽ hoàn thành sự chuyển dịch này. Đầu năm 1960, nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh Lenin, Trung Quốc mở màn phê phán toàn diện Liên Xô. Nhưng Trung Quốc rất cô lập, ở châu Âu chỉ có Anbani ủng hộ, ở châu Á chẳng có ai. Mao Trạch Đông nghĩ đến Việt Nam.
Từ 1950 đến 1954, Trung Quốc đã giúp Việt Nam 116.000 khẩu súng các loại, 420 khẩu pháo, nhiều khí tài thông tin và công binh. Năm 1956, Trung Quốc ưu tiên viện trợ Việt Nam 50.000 khẩu tiểu liên và súng trường nửa tự động vừa định hình sản xuất, chưa kịp trang bị cho quân đội Trung Quốc. Từ năm 1953 đến 1963, Trung Quốc đã giúp Việt Nam xây dựng 6 tiểu đoàn pháo cao xạ, 1 trung đoàn công binh, 1 trung đoàn cầu nổi, 1 trung đoàn xe tăng, 1 trung đoàn máy bay tiêm kích, bổ sung nhiều vũ khí trang bị quân sự khác. Trung Quốc còn giúp 90.000 khẩu súng máy và súng trường để triển khai chiến tranh du kích ở miền Nam. Nhằm lôi kéo Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trong cuộc đấu tranh với Liên Xô, Mao cử Đặng Tiểu Bình sang Hà Nội, mang theo lời hứa giúp Việt Nam 20 tỉ NDT (tương đương 20% thu nhập quốc dân hoặc 60% thu nhập tài chính của Trung Quốc năm 1963), nhưng vẫn không lôi kéo được Việt Nam. Mao Trạch Đông cho rằng cuộc đấu tranh Trung-Xô sẽ diễn ra lâu dài, nên tiếp tục tác động đến Hồ Chí Minh, chính Mao nói với ông Hồ: “Chúng ta là người một nhà, cần người có người, cần vật tư có vật tư, cần bao nhiêu có bấy nhiêu. Việt Nam thiếu máu chữa chạy thương binh, Mao Trạch Đông chỉ thị: “Mạng người là quan trọng, viện trợ 2 triệu lít. Số máu này được chuyển tử Thượng Hải đến Côn Minh, qua Hà Khẩu, rồi đưa sang thị xã Lào Cai. Nó không như lúa mạch có thể nhập khẩu, mà là từng giọt máu rút từ cơ thể những người may mắn sống sót sau một nạn đói lớn.
Tháng 5-1965, Mao Trạch Đông tiếp Hồ Chí Minh tại Hàng Châu, phía Việt Nam đề nghị Trung Quốc giúp sửa đường bộ. Mao nhận lời ngay. Tám vạn công binh ăn cơm Trung Quốc, làm việc cho Việt Nam trong ba năm trời, quả thật là viện trợ vô tư. Do nhu cầu đấu tranh chống địch trên vùng biển Vịnh Bắc Bộ, Mao Trạch Đông còn khinh suất cho Bắc Việt Nam sử dụng đảo Bạch Long Vĩ, thuộc Hải Nam, trên đảo có 2.000 dân Trung Quốc sinh sống, vùng biển xung quanh là mỏ dầu lớn trữ lượng dồi dào. Đến nay lâu ngày qua đi, nảy sinh ý kiến khác về chủ quyền. Thế là tình hữu nghị “vừa là đồng chí, vừa là anh em” cũng không giữ nổi.
(Tác giả Tân Tử Lăng sai ở đoạn này. Năm 1955, theo hiệp nghị Genève, sau khi quân đội Pháp rút khỏi Bắc Việt nam phải giao lại đảo Bạch Long Vĩ (cách Hải Phòng 350 km) cho chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, và thuộc tỉnh Hải Phòng cho đến tận ngày hôm nay. Từ ngàn năm trước đến hiện giờ, chưa có một phút nào Bạch Long Vĩ thuộc quyền của Trung Quốc - Chú thích của người gõ Mõ Hà Nội)
Sau thất bại của phong trào “Đại tiến vọt”, Mao vẫn chưa từ bỏ dã tâm làm lãnh tụ cách mạng thế giới, ngược lại, ông ta còn cho rằng đó là lối thoát để đánh lạc hướng chú ý của nhân dân, thoát khỏi tình thế khó khăn của bản thân. Trong 5 năm 1957-1962, Trung Quốc viện trợ nước ngoài tổng cộng 2,36 tỉ NDT, riêng 2 năm 1961-1962 là 1,37 tỉ; trong đó phần viện trợ các nước XHCN Anbani, Triều Tiên. Việt Nam, Cuba, Mông Cổ là 0,87 tỉ, các nước châu Phi 500 triệu NDT.
Tuy nhiên, vẫn không hình thành được trung tâm Phong trào cộng sản quốc tế mới do Mao lãnh đạo, cũng không mua nổi hư danh “lãnh tụ cách mạng thế giới”. Họ chỉ thừa nhận Mao là “lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Trung Quốc”.
Tháng 3-1970, tập đoàn Lon Nol thân Mỹ đảo chính lật đổ chính phú Vương quốc Campuchia, Sihanouk trở thành con át chủ bài trong tay Mao. Quân đội cộng sản Campuchia được Trung Quốc và Việt Nam nâng đỡ đối đầu với quân đội Lonnol do Mỹ ủng hộ, chiến tranh kéo dài 4 năm, đến 17-4-1975 giải phóng Phnôm Pênh. Tháng 6 năm đó, Pol Pot sang triều kiến Mao Trạch Đông. Sau khi về nước, thực hiện chỉ thị của “lãnh tụ vĩ đại”. Pol Pot tuyên bố xoả bỏ tiền tệ, đóng cửa thị trường, thực hiện chế độ cung cấp trong cả nước, đuổi 3 triệu dân thành thị kể cả sư sãi và giáo sư đại học về nông thôn làm ruộng. Mọi hành động của ĐCS Campuchia sau khi giành được chính quyền đều mang dấu ấn “tả khuynh” của Mao. Bi kịch “Đại tiến vọt" ở Trung Quốc cuối thập kỷ 50 đã tái diễn ở Campuchia.
♦ ♦ ♦Chương 11
Chu Ân Lai bị tước quyền lãnh đạo kinh tế
Nôn nóng muốn làm lãnh tụ cách mạng thế giới, Mao Trạch Đông quyết tâm phát động phong trào Đại tiến vọt, làm cho kinh tế nông nghiệp lạc hậu Trung Quốc xuất hiện “kỳ tích” trong thời gian ngắn. Qua phong trào chống phái hữu, các đảng phái dân chủ và những người trí thức đã bị áp chế, chẳng còn ai dám nói gì. Vấn đề hiện nay là làm thế nào thống nhất tư tưởng và ý chí của cán bộ toàn đảng, từ trung ương tới cấp xã. Nhưng Mao vấp phải một trở ngại lớn là Chu Ân Lai và bộ máy chính quyền do ông lãnh đạo. Thủ tướng Chu Ân Lai là người có tài kinh bang tế thế, nhà lãnh đạo, tổ chức và quản lý kinh tế kiệt xuất. Ông chủ trương tôn trọng các qui luật kinh tế lượng sức mà làm, cân bằng tổng hợp, vững bước đi lên được các Phó thủ tướng Trần Vân, Lý Tiên Niệm, Bạc Nhất Ba… ủng hộ. Không áp chế những người này, thì đừng mong gì thực hiện “Đại tiến vọt”.
Nửa đầu năm 1958. Mao liên tiếp triệu tập các hội nghị Hàng Châu, Nam Ninh, Thành Đô, Vũ Hán… rồi Đại hội 8 kỳ 2, với chủ đề phê phán những người phản đối làm liều chống bảo thủ hữu khuynh, ép Chu Ân Lai kiểm điểm, gạt bỏ những ý kiến đúng đắn phù hợp qui luật kinh tế khách quan của Chu, mở rộng đường thực hiện trong toàn đảng đường lối chủ nghĩa xã hội không tưởng tả khuynh của Mao với đặc điểm làm liều. “Tội chứng” chủ yếu đề phê phán Chu là báo cáo của ông tại Hội nghị Trung ương 2 khoá 8 tháng 11-1956.
Tại Hội nghị Nam Ninh ngày 16-1-1958, trước mặt mọi người, Mao bảo Chu: “Chẳng phải ông phản đối làm liều đó sao? Tôi chống lại những ai phản đối làm liều”.
Tối 19-1, Chu Ân Lai kiểm điểm, thừa nhận phản đối làm liều là sai lầm hoàn toàn đi ngược lại phương châm “xúc tiến” của Mao, và xin nhận trách nhiệm chủ yếu đối với sai lầm trên.
Đến Hội nghị Thành Đô tháng 3-1958, Mao đưa ra khẩu hiệu “loại bỏ mê tín, giải phóng tư tưởng”, và đường lối chung “Dốc hết lòng hăng hái, phấn đấu vươn lên hàng đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội nhiều, nhanh, tốt rẻ“. Mao nói rất nhiều về “tính đúng đắn và sự cần thiết” của sùng bái cá nhân.
Đại hội 8 kỳ 2 họp từ 5 đến 23-5 tại Bắc Kinh. Về dự có 977 đại biểu chính thức, 389 khách mời, bao gồm một số Bí thư Huyện uỷ và cấp tương đương, Bí thư Đảng uỷ các xí nghiệp lớn do các tỉnh và thành phố trực thuộc lựa chọn. Mao Trạch Đông chủ trì, Lưu Thiếu Kỳ đọc báo cáo công tác. Kỳ họp chính thức đưa ra đường lối chung, chính thức tuyên bố khởi đầu phong trào “Đại tiến vọt”.
Chu Ân Lai hiểu rõ kiểm điểm trong phạm vi lớn như thế có nghĩa là công khai tuyên bố từ chức Thủ tướng. Ông quá hiểu Mao Trạch Đông, sau khi tiến vào Bắc Kinh, quan hệ đồng chí và chiến hữu giữa ông và Mao đã chấm dứt, bắt đầu quan hệ vua tôi. Lệnh do Mao ban, công việc do Chu làm, tuy dưới một người và trên vạn người, nhưng làm bạn với vua như chơi với hổ, có thể bị hổ ăn thịt bất cứ lúc nào, nên ông cực kỳ thận trọng. Trước mắt Chu có ba con đường. Toàn bộ nền kinh tế quốc dân đang lồng lên như con ngựa hoang, có thể lượng trước những nguy hiểm, là thủ tướng ông phải thuyết phục Mao, nhưng chưa chắc người ta đã hiểu ý tốt của mình, mà ông rất có thể bị qui là đại biểu của đường lối cơ hội hữu khuynh, đại diện cho phái hữu và giai cấp tư sản. Không thể đi theo con đường này. Con đường thứ hai là từ chức Thủ tướng, không kiểm điểm trái với lòng mình để lịch sử chứng minh ai đúng ai sai. Như vậy chẳng khác gì chơi bài ngửa với Mao Trạch Đông. Mao đã dám chỉ con hươu bảo là con ngựa, đổi trắng thay đen, trong đảng cũng không hiếm gì kẻ mưu toan xu nịnh, tâng bốc Mao để ngoi lên, như vậy mình sai sẽ bị lật đổ mình đúng càng bị lật đổ nhanh hơn, Con đường cuối cùng là kiểrn điểm trái với lòng mình, lấy Mao làm tiêu chuẩn đúng sai, theo sát Mao, giữ sự nhất trí về đường lối và chính sách. Sau này nếu xảy ra rối loạn, Chu lại đứng ra nhận trách nhiệm về mình, chấn chỉnh tình hình, đặt Mao ở tuyến hai “vĩnh viễn đúng đắn”. Tư duy của Chu dừng lại ở điểm thứ ba này. Ông gọi thư ký riêng Phạm Nhược Ngu đến đêm khuya thanh vắng, ông nói câu nào, thư ký ghi lại câu đó nói rất chậm, có lúc mấy phút liền chẳng nói được câu nào. Bản kiểm điểm viết xong, ông cân nhắc sửa từng câu một, rồi gửi Mao Trạch Đông và các uỷ viên thường trực Bộ Chính trị. Qua mấy ngày, Mao gửi lại sau khi xoá bớt hoặc sửa cho nhẹ đi một số câu chữ quá nặng, hạn chế tính chất của vấn đề trong phạm vi nhận thức, hình như Mao không có ý định thay Thủ tướng. Chu hiểu rằng việc Mao ép mình kiểm điểm lần này cũng như đã làm với Lưu Thiếu Kỳ tại Hội nghị Trung ương 4 khoá 7, bởi Mao cho rằng làm như vậy là tuyệt đối cần thiết để củng cố địa vị lãnh tụ của ông ta, chỉ cần Lưu và Chu không đứng ra phản đối, thì toàn Đảng chỉ có thể đi theo Mao.
Trong tâm trạng rất phức tạp, Chu Ân Lai đã đọc bản kiểm điểm trước hội nghị. Ông thừa nhận sai lầm của mình là nghiêm trọng, nguồn gốc tư tưởng là mắc bệnh chủ quan, siêu hình, giáo điều kinh nghiệm. Ông ca ngợi Mao Trạch Đông đại diện cho chân lý, là người không bao giờ mắc sai lầm, kêu gọi mọi người học tập tư tưởng, tác phong, phương pháp làm việc, các tác phẩm và các chỉ thị của Mao. Ngày 25-5, theo đề nghị của Mao, Hội nghị Trung ương 5 khoá 8 đã bầu Lâm Bưu làm Phó chủ tịch đảng, Kha Khánh Thi, Lý Tỉnh Tuyền và Đàm Chấn Lâm làm uỷ viên Bộ Chính trị. Trong đảng lan truyền tin Kha Khánh Thi (Bí thư Thành uỷ Thượng Hải) sẽ lên làm Thủ tướng. Chu Ân Lai đệ đơn từ chức, Bành Đức Hoài cũng xin thôi chức Bộ trưởng quốc phòng. Ngày 9-6-1958, Mao triệu tập cuộc họp Thường vụ Bộ chính trị thảo luận vấn đề trên. Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Trần Vân, Đặng Tiểu Bình nhất trí giữ hai ông lại, Hội nghị quyết định hai ông tiếp tục giữ cương vị công tác cũ.
Mao Trạch Đông biết rõ Chu Ân Lai là người có lương tâm, mà dựa vào một thủ tướng có lương tâm thì không thể hoàn thành nhiêm vụ lịch sử Đại tiến vọt. Khi ấy, Mao đã quyết tâm tước đoạt nông dân tới mức tối đa, tập trung lương thực trong tay để chi viện cách mạng thế giới, khiến ông ta trở thành lãnh tụ vĩ đại của Phong trào cộng sản quốc tế.
Mao phải đích thân ra tuyến một chỉ đạo sản xuất công nông nghiệp, tổ chức và chỉ huy Đại tiến vọt. Không thể cách chức Thủ tướng Chu, Mao liền thực thi nhiều động tác nhỏ để vô hiệu hoá ông. Trước hết. Mao thành lập 5 tổ trực thuộc Bộ Chính trị và Ban Bí thư:
1. Tổ kinh tế-tài chính gồm 12 người, do Trần Vân làm Tổ trưởng, Đàm Chấn Lâm Tổ phó.
2. Tổ chính pháp 5 người, Bành Chân làm Tổ trưởng.
3. Tổ Ngoại sự 6 người, Trần Nghị làm Tổ trưởng.
4. Tổ Văn Giáo 10 người, Tổ trưởng là Lục Định Nhất.
5. Tổ Khoa học 6 người, Tổ trưởng là Nhiếp Vinh Trăn.
Khi thông báo vấn đề này, Mao đẩy Chu từ vị trí thứ 3 xuống thứ 6. Như vậy Quốc vụ viện (Chính phủ) trở nên hữu danh vô thực, vai trò của thủ tướng trở nên mờ nhạt, bị tước quyền lãnh đạo và quyền quyết sách công việc chính trị, nhất là xây dựng kinh tế của đất nước. Mao Trạch Đông trực tiếp chỉ huy 5 tổ trên, hình thành “Viện thiết kế chính trị” do ông ta đứng đầu, lãnh đạo công cuộc xây dựng kinh tế, phát động phong trào Đại tiến vọt và công xã nhân dân. Các nơi dồn dập phóng “vệ tinh” về sản lượng lương thực và bông.
♦ ♦ ♦
Chương 12
Mao: Chúng ta phải thực hiện một số lý tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng
Trong cao trào đua nhau “phóng vệ tinh” ấy, tháng 8-1958, Mao tuần du ba tỉnh Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông. Mỗi chuyến đi như vậy, tuỳ theo nhu cầu, Mao cho mang theo rất nhiều sách, không khác gì Khổng Tử dọn nhà. Vệ sĩ trưởng Lý Ngân Kiều đã cho đóng hai hòm gỗ lớn để đựng sách mang theo, đến nơi ở, sách lại được bày ra, đảm bảo Mao có thể tìm được ngay những cuốn cần đọc. Trong chuyến đi này, ngoài những bộ sử đang đọc dở như “Tam quốc chí”, “Sở từ”, Mao còn cho mang theo những cuốn sách về luyện kim và thổ nhưỡng.
Tại một số huyện ở ba tỉnh trên, Mao đã nghe báo cáo về tình hình sản xuất và đời sống, xem viện dưỡng lão, nhà trẻ, bếp ăn tập thề không mất tiền, những cánh đồng cao sản đạt năng suất mỗi héc ta trên 187 tấn ngô, hoặc 300 tấn lúa, hoặc 1.500 đến 7.500 tấn khoai. Huyện Từ Thuỷ tỉnh Hà Bắc, một huyện có 31 vạn dân đã đề ra mục tiêu “tiến lên chủ nghĩa cộng sản trong ba năm”, vụ hè vừa thu hoạch được 45.000 tấn lương thực, đã đề ra mục tiêu sản xuất 1,1 triệu tấn ngay trong vụ thu tiếp theo (tăng gấp hơn 24 lần, bình quân đầu người 1,8 tấn), Mao tin vào tất cả những báo cáo đó, thu hoạch chung của ông trong chuyến đi này là: vấn đề nông nghiệp đã được giải quyết. Hơn thế nữa, ông bắt đầu một mối lo kéo dài mấy tháng liền: “lương thực nhiều quá, làm thế nào đây?” Theo chỉ thị của Mao, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng họp tại Bắc Đới Hà từ 17 đến 30-8-1958 thảo luận 17 vấn đề, chủ yếu là công xã nhân dân về luyện thép. Phát biểu trong cuộc họp ngày 21, Mao nói: “Chúng ta phải thực hiện một số lý tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng. Công xã nhân dân có mầm mống của chủ nghĩa cộng sản. Sản phẩm rất phong phú, lương thực, bông… là của chung mọi người. Khoảng 10 năm nữa, có thể sản phẩm hết sức phong phú, đạo đức vô cùng cao thượng, chúng ta có thể thực hiện chủ nghĩa cộng sản về ăn, mặc, ở, ăn tại bếp tập thể không phải trả tiền là chủ nghĩa cộng sản”.
Ngày 29-8, Hội nghị Bắc Đới Hà ra nghị quyết về thành lập các công xã nhân dân nông thôn, “chiếc cầu đi tới thiên đường cộng sản chủ nghĩa”. Cơ sở thành lập công xã nhân dân là hợp tác liên xã, liên huyện, tổ chức quân sự hoá, hành động chiến đấu hoá, sinh hoạt tập thể hoá, nâng cao hơn nữa giác ngộ cộng sản chủ nghĩa của 500 triệu nông dân. Qui mô công xã nói chung 2.000 hộ là thích hợp, cũng có thể nhiều xã hợp nhất, khoảng 7.000 hộ, thậm chí trên 20.000 hộ. Thành phần tổ chức là phát triển toàn diện nông lâm ngư nghiệp, nghề phụ, chăn nuôi kết hợp công-nông-thương-học-binh”. Điều lệ vắn tắt qui định: Các hợp tác xã hợp nhất thành công xã phải nộp toàn bộ tài sản công hữu. Xã viên phải nộp lại đất phần trăm, toàn bộ tư liệu sản xuất của xã viên thuộc sở hữu của công xã, song có thể giữ lại một ít gia súc, gia cầm. Căn cứ vào nhu cầu, công xã có thể dỡ dần nhà riêng của xã viên để lấy vật liệu sử dụng, nhà mới dựng thuộc sở hữu của công xã, xã viên ở phải trả tiền thuê.
Phần quan trọng của điều lệ này là nông dân bị tước đoạt hết ruộng đất, nhà cửa, gia súc, cây cối…, họ chỉ được một cái: già trẻ, nam nữ, gái trai đều đến ăn tại bếp tập thể không phải trả tiền.
Sau hội nghị trên, “cơn bão cộng sản” tràn khắp vùng nông thôn Trung Quốc, chỉ trong vòng một tháng, Ban công tác nông thôn đã tuyên bố công cuộc “Công xã hoá đã cơ bản hoàn thành, tại 22 tỉnh và thành phố trực thuộc, 85% đến 100% số hộ nông dân đã tham gia công xã, còn lại 4 tỉnh sẽ cơ bản hoàn thành trước 1-10, tỉnh chậm nhất là Vân Nam cũng cam kết hoàn thành vào cuối tháng 10”.
Mao chưa chuẩn bị đầy đủ về lý luận để lãnh đạo kinh tế, và cũng thiếu kinh nghiệm thực tế trong lĩnh vực này, nhưng lại không khiêm tốn, cho rằng mình biết tất cả, việc gì cũng làm được. Khi sáng lập thể chế công xã nhân dân, Mao Trạch Đông suốt ngày chìm đắm trong “Truyện Trương Lỗ”, “Sách đại đồng”, mà không đọc lấy một trang “Tư bản luận”, do đó, ông ta mới có dũng khí đưa thể chế công xã ra trước lịch sử, coi đó là sự phát triển mới của chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc, gây cười cho thiên hạ mà không biết. Bên bãi biển Bắc Đới Hà, Mao không hề biết rằng ông ta đã gây tai hoạ lớn, mà vẫn tràn dầy niềm tin đối với “Đại tiến vọt” và “Công xã hoá”.
Trong bài đăng trên Nhân dân nhật bao ngày 27-8-1958, Lưu Tây Thụy, cán bộ Văn phòng Trung ương Đảng được cử xuống tìm hiểu tình hình huyện Thọ Trường, tỉnh Sơn Đông cho biết: Huyện uỷ đề ra khẩu hiệu đảm bảo 15 tấn, cố gắng đạt 22,5 tấn một héc ta, nhưng thực tế toàn huyện đang có phong trào thi đua mỗi héc ta sản xuất 750 tấn lương thực. Cán bộ quần chúng nơi đây nói đến sản lượng cao mỗi héc-ta làm ra 150 tấn ngô, 750 tấn khoai một cách thản nhiên, loại xoàng cũng nêu năng suất 60 tấn, chẳng ai nói đến mục tiêu 15 tấn nữa.
Mao lo lương thực quá nhiều, ngoài nuôi người và gia súc, chẳng biết để làm gì, ngày 19-11-1958, Mao phê chuẩn báo cáo của Đàm Chấn Lâm quyết định giảm diện tích trồng lương thực từ 122 triệu xuống 100 triệu héc ta, kết quả các địa phương chấp hành, giảm 11,6 triệu héc ta, trong đó diện tích trồng lúa nước giảm 9,1%, tiểu mạch giảm 8,5%. Hai ngày sau, tại Hội nghị Vũ Xương, Mao nêu vấn đề “quá độ lên chủ nghĩa cộng sản”.
♦ ♦ ♦
Chương 13
Phải kết họp giữa Các Mác và Tần Thủy Hoàng
Năm 1958 phải nâng sản lượng thép lên gấp 2 lần 1957, câu nói tuỳ tiện của Mao trong lúc tắm ấy đã làm cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân rối tung lên. Sản lượng thép Trung Quốc năm 1957 là 5,35 triệu tấn, tăng gấp 2 lần là 10,7 triệu tấn. Giữa tháng 8-1958 khi Hội nghị Bắc Đới Hà ra quyết định cuối cùng về vấn đề này, cả nước mới sản xuất được 4,5 triệu tẩn thép, hoàn toàn không thể sản xuất thêm 6,2 triệu tấn thép trong 4 tháng rưỡi còn lại. Mao quá tin vào ý chí lãnh tụ của mình, hình như chỉ cần ông ta quyết tâm vung tay lên, là nhân dân cả nước sẵn sàng đi vào nơi nước sôi lửa bỏng, chẳng có việc gì là không làm nổi. Tại hội nghị trên, Mao nói: “Phải chuyên chế. Không thể chỉ nói đến dân chủ. Phải kết hợp giữa Các Mác và Tần Thuỷ Hoàng. Hoàn thành 11 triệu tấn thép là việc lớn liên quan đến lợi ích của toàn dân, phải cố sống chết làm cho bằng được. Phải ra sức thu gom sắt phế liệu, có thể tháo dỡ các đường sắt tạm thời không có giá trị kinh tế như đường sắt Ninh Ba, đường sắt Giao Đông”.
Lẽ nào Mao Trạch Đông hoang đường đến mức ra lệnh dỡ đường sắt làm phế liệu đúc thép, để gom đủ số lượng hoàn thành nhiệm vụ “tăng gấp 2 lần”? Nhưng biên bản hội nghị ghi rành rành như vậy đấy. Thực tế là Mao ngầm nói với cán bộ lãnh đạo trung ương và các tỉnh rằng phải thực hiện chính sách bàn tay sắt, mệnh lệnh, cưỡng bức, phải hoàn thành nhiệm vụ bầng bất cứ giá nào kể cả đưa các thanh ray đường sắt vào lò nấu thép.
Hội nghị bí thư phụ trách công nghiệp các tỉnh và thành phố họp tại Bắc Đới Hà 7 ngày cuối tháng 8-1958, Bộ trưởng luyện kim Vương Hạc Thọ giao chỉ tiêu cho các tỉnh, tổng cộng cả nước trong 4 tháng cuối năm 1958 phải sản xuất 11,5 triệu tấn gang, 7 triệu tấn thép. Tối 9-4, Ban Bí thư triệu tập hội nghị điện thoại các bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc; động viên “Đại tiến vọt” về gang thép. Tổng Bí thư Đặng Tiểu Bình tránh mặt, giao cho Bành Chân và Đàm Chấn Lâm chủ trì cuộc họp này. Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ Hà Nam hăng hái nhất, “Nhân dân nhật báo” đưa tin Hà Nam trước 10-9 mỗi ngày sản xuất 780 tấn gang, nhưng đến 15-9 đã xây dựng được 45.000 lò luyện gang, huy động 3,6 triệu nông dân và 407.000 xe vận tải các loại, một ngày sản xuất 18.693 tấn gang!
Thủ tướng Chu Ân Lai không tin vào thông tin trên. Ông cử Cố Minh, thư ký phụ trách công nghiệp xuống tìm hiểu tình hình. Cố Minh từng lưu học ở Nhật Bản, là người am hiểu sản xuất gang thép. Ông xuống xã Tân Hương nơi báo cáo đã sản xuất mỗi ngày 102 tấn gang, quan sát hiện trường sản xuất gặp gỡ cán bộ quần chúng, rồi mang theo sản phẩm mẫu về báo cáo Chu:
- Thưa Thủ tướng, toàn là chuyện dối trá. Ở Công ty gang thép Yên Sơn, muốn có một tấn gang, phải dùng ba bốn tấn quặng sắt, hai ba tấn than cốc, cộng thêm vật liệu phụ trợ khác, tổng cộng hơn 10 tấn. Một ngày làm ra 102 tấn thép phải vận chuyển trên 1.000 tấn nguyên vật liệu, xã Tân Hương làm gì có khả năng ấy. Xin Thủ tướng xem, sản phẩm tốt nhất là miếng gang xốp này đây.
Ông Chu cầm mẫu sản phẩm lên xem, im lặng rất lâu.
Chu Ân Lai biết rõ chuyện sản xuất gang thép ở Hà Nam là dối trá, nhưng lúc đó chưa thể nói gì. Thứ trưởng Bộ Công nghiệp và Giao thông Cao Dương được lệnh dẫn một tổ công tác xuống tìm hiểu tình hình luyện gang thép ở Hà Nam. Ông phát hiện sản lượng dối trá, chất lượng kém, liền gửi thư lên Trung ương, nêu ý kiến riêng về cách làm phản khoa học này.
Mao đọc báo cáo trên, đùng đùng nổi giận, coi Cao Dương là phần tử cơ hội hữu khuynh, bắt đem theo cả vợ con đi lưu đày ở Quí Châu. Thế là Mao bịt mồm tất cả cán bộ các cấp. Hồi đó cán bộ các cấp có một câu “tự giải thoát”: “phải tính giá thành chính trị, đừng tính giá thành kinh tế”. “Giá thành chính trị” là thể diện của Mao, “giá thành kinh tế” là thiệt hại tài sản của nhân dân. Vì thể diện của lãnh tụ vĩ đại, Đảng cộng sản và nhân dân Trung Quốc đã “phát cuồng”. Cuối tháng 7-1958, lực lượng lao động trong ngành gang thép là vài chục vạn người, cuối tháng 8 tăng lên vài triệu, cuối tháng 9 lên 50 triệu, đến cuối năm lên đến 90 triệu, cộng thêm lực lượng chi viện trực tiếp và gián tiếp, số lao động đổ vào ngành gang thép lên đến trên 100 triệu người.
Ngày 22-12-1958, Tân Hoa Xã công bố cả năm đã sản xuất 11,08 triệu tấn thép, 13,69 triệu tấn gang, hoàn thành vượt mức nhiệm vụ tăng gấp đôi sản lượng thép.
Những điều không công bố: trong đó bao gồm 3,08 triệu tấn thép và 4,16 triệu tấn gang phế phẩm, hoàn toàn không thể gia công sử dụng. Giá thị trường một tấn gang lúc đó là 150 NDT, gang làm ra theo phương pháp thủ công giá thành 315 NDT. Nhà nước phải trợ giá 5 tỉ NDT.
Thiệt hại kinh tế trong ba năm “Đại tiến vọt” là 120 tỉ NDT, tương đương khoản tiền vốn dùng cho 2 kế hoạch 5 năm của Trung Quốc hồi đó.
Năm 1958, Mao còn đề xướng thành lập các nhà ăn tập thể, coi đó là biện pháp có hiệu quả để các công xã nhân dân thực hiện tổ chức quân sự hoá, hành động chiến đấu hoá, sinh hoạt tập thể hoá, là vấn đề then chốt để bồi dưỡng tinh thần tập thể và tư tưởng cộng sản chủ nghĩa cho nông dân. Các nhà ăn tập thể ồ ạt ra đời, đến cuối năm 1959, nông thôn cả nước đã lập được 3,9l triệu nhà ăn tập thể, có hơn 400 triệu người tham gia, chiếm 72,6% số người trong các công xã, riêng Hà Nam lên tới 99%. Cơ sở để Mao đưa ra chủ trương trên là lương thực quá nhiều, không biết dùng vào việc gì nữa. Mao tuyên bố lương thực của Trung Quốc đủ dùng cho tất cả mọi người trên trái đất.
Báo cáo của Đảng đoàn Bộ Nông nghiệp gửi Bộ Chính trị ngày 25-8 viết: tổng sản lượng lương thực cả năm 1958 đạt trên 400 triệu tấn, gấp hơn 2 lần năm 1957. Tháng 10, tại Hội nghị hợp tác nông nghiệp các tỉnh Đông Bắc và Tây Bắc, Đàm Chấn Lâm nhấn mạnh 400 triệu tấn và khẳng định, có khả năng đạt 500 triệu tấn. Về sau mới biết sản lượng lương thực năm 1958 chỉ có 200 triệu tấn.
Lúc đầu nhà ăn tập thể quả cũng “tưng bừng” một thời, khẩu hiệu chung là “ăn thật no” và “không phải trả tiền”, nhiều nơi đề ra “ăn no, ăn ngon, ăn sạch”, “mỗi bữa 4 món thức ăn”, thậm chí có nơi tuyên bố phấn đấu một tháng 90 bữa ăn, không bữa nào món ăn trùng lặp, ngang tiêu chuẩn bếp ăn của vua chúa Trung Quốc, có nơi coi nhà ăn tập thể là khởi điểm để “tiến lên chủ nghĩa cộng sản trong vòng ba năm”.
Nhưng chẳng mấy chốc lương thực thực phẩm cạn dần, từ thả sức ăn ngày ba bữa cơm chuyển sang ăn cháo, rồi cháo loãng, rau dại. Lãnh đạo địa phương không dám giải tán nhà ăn tập thể vi sợ làm sai chỉ thị của lãnh tụ vĩ đại, bị kết tội hữu khuynh, “đi con đường tư bản chủ nghĩa”. Nông dân không thể bỏ nhà ăn tập thể vì toàn bộ khẩu phần lương thực của họ do nhà ăn quản lý rồi, đành mỗi ngày hai lần đến nhận khẩu phần cháo loãng. Nhà kinh tế học Tiết Mộ Kiều, Cục trưởng Thống kê hồi đó cho biết lãng phí lương thực trong các nhà ăn tập thể lên tới 17,5 triệu tấn, tương đương 11% số lương thực cung ứng cho nông thôn. Ngoài ra, khoảng 10% lương thực bị hư hỏng ngoài đồng do không kịp thu hoạch, bởi phần lớn lao động khỏe mạnh đã bị huy động đi làm gang thép. Huyện Tỉnh Nghiên (Tứ Xuyên) vào lúc thiếu lương thực nghiêm trọng nhất năm 1959, bình quân mỗi người một ngày được phân phối không đến 100 gam lương thực, cứ 8 người có một người chết đói. Nửa đầu năm 1959, đi thăm một số tỉnh, nguyên soái Chu Đức không tán thành nhà ăn tập thể. Ông nói cần chia lương thực cho các hộ nông dân, cần giữ lại một chút chế độ tư hữu cho nông dân làm nghề phụ, chăn nuôi. Ông nói với Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Đông Đào Chú: “Hai việc lớn nhất năm 1958 là ồ ạt làm gang thép và công xã hoá đã gây thiệt hại rất lớn cho nhà nước và cá nhân”. Ý kiến của Chu Đức được lưu truyền rất nhanh trong cả nước. Mùa hè năm đó, Bí thư Tỉnh uỷ An Huy Trương Khái Phong ra lệnh giải tán toàn bộ hơn 4.000 nhà ăn tập thể ở huyện Vô Vi. Sự kiện này khiến Mao đùng đùng nổi giận. Trong bút phê báo cáo về vụ này. Mao viết: “Trương Khải Phong đứng trên lập trường giai cấp tư sản, mưu toan phá hoại nền chuyên chính vô sản, chia rẽ Đảng cộng sản”. Ý kiến trên còn ngầm phê phán Chu Đức. Hai ngày sau tại cuộc họp Thường vụ Bộ Chính trị. Mao “lo ngại Chu Tổng tư lệnh gây rối loạn”.
Nhưng Mao cũng đã sớm nhận ra nhà ăn tập thể đang đứng trước nguy cơ nghiêm trọng. Tháng 2-1959, ông cử thư ký riêng kiêm Phó văn phòng Trung ương Điền Gia Anh dẫn một tổ công tác xuống Tứ Xuyên điều tra. Điền Gia Anh đã báo cáo với Mao thực trạng ông ta nghe mắt thấy ở nông thôn trong chuyến đi này.
Tình hình các tỉnh dần dần trở nên nghiêm trọng. Do thiếu lương thực, lao động quá sức, từ nửa cuối năm 1959, vùng nông thôn đã xuất hiện tình trạng bệnh phù thũng và chết đói, nhiều người bỏ nhà ra đi. Tỉnh uỷ Hà Bắc báo cáo toàn tỉnh có 44 huyện, 235 công xã đã phát hiện gần 6 vạn người mắc bệnh phù thũng, trên 450 người đã chết. Nhưng Mao vẫn đặt thể diện, uy tín của mình lên trên những hoạn nạn sống chết của mấy trăm triệu nông dân, ngoan cố tiếp tục tổ chức các nhà ăn tập thể. Mao giấu báo cáo của Tỉnh uỷ Hà Bắc, nhưng lại cho phân phát trong cả nước, báo cáo của Bí thư Tỉnh uỷ Quí châu Chu Lâm miêu tả “80% số nhà ăn tập thể ở tỉnh này là vững chắc” Lựa theo khẩu vị của Mao, Chu Lâm nhấn mạnh “nhà ăn tập thể là trận địa xã hội chủ nghĩa phải giữ vững, để mất trận địa này, không thể củng cố công xã nhân dân, cũng không thể giữ vững phong trào Đại tiến vọt”. Mao yêu cầu các nơi làm theo Quý Châu.
Trước tình hình nghiêm trọng này, tư tưởng chỉ đạo của Mao là “giữ vững thành thị, hy sinh nông thôn”. Mao hiểu rõ chủ nghĩa xã hội không tưởng của ông ta đã gây hậu quả cực kỳ nghiêm trọng, nếu thực sự cầu thị đánh giá “3 ngọn cờ hồng” (đường lối chung, đại tiến vọt, công xã nhân dân) thì ông ta phải từ chức, để tạ lỗi với toàn đảng, toàn dân.
Mao suy nghi rất sâu xa. Phải phát minh lý luận, tổ chức đội ngũ, để bào chữa cho sai lầm của mình. Ai bào chữa cho sai lầm của Mao, người đó là chiến hữu thân thiết; ai chuẩn bị uốn nắn đường lối sai lầm “tả khuynh”, người đó là kẻ thù không đội trời chung của ông ta. Từ đó, đã khởi đầu những năm tháng nhiều biến động trong Đảng cộng sản Trung Quốc.
♦ ♦ ♦
Chương 14
Đủ hiểu biết để cự tuyệt những lời khuyên răn, đủ lời lẽ để tô vẽ cho những sai lầm
Chiều 26-10-1958, đoàn tàu riêng chở Mao Trạch Đông dừng lại ở đường nhánh ga Hiếu Cảm tỉnh Hồ Bắc. Chính uỷ Quân đoàn 15 đổ bộ đường không Liêu Quan Hiền đã bố trí cảnh giới dày đặc khu vực xung quanh. Mao tiếp cán bộ lãnh đạo Quân đoàn 15, rồi gặp gỡ đại diện lãnh đạo tỉnh Hồ Bắc, chuyên khu Hiếu Cảm, một đội trưởng sản xuất và một cán bộ Hội Phụ nữ ở cơ sở, nhằm tìm hiểu tình hình thực tế. Được động viên số cán bộ trên đã mạnh dạn phản ánh hiện trạng nông thôn. Về chỉ tiêu 30 triệu tấn lương thực Trung ương giao cho Hồ Bắc năm 1958, đại diện Tỉnh uỷ nói chỉ làm được 10 triệu, nhiều nhất là 11 triệu tấn. Mao tỏ ra đau lòng, nói ông ta “có lỗi với nhân dân”.
Nhưng Mao là con người rất phức tạp và nhiều mâu thuẫn, chỉ ít ngày sau, ông không còn là Mao Trạch Đông trên đoàn tàu ở ga Hiếu Cảm nữa. Trong 8 tháng từ 11-1958 đến tháng 6-1959, Mao triệu tập Hội nghị Trung ương 6 và Hội nghị Trung ương 7 khoá 8, các Hội nghị Trịnh Châu, Vũ Xương, Thượng Hải. Tổng hợp những phát biểu của Mao tại các cuộc họp trên, có 5 điểm chinh:
1. Quan hệ giữa 9 ngón tay và 1 ngón tay (9 ngón đúng, chỉ có 1 ngón sai). Đông đảo quần chúng tận mắt thấy năm 1958 đã thu thành tích vĩ đại, vấn đề chỉ là chế độ sở hữu của công xã đi quá xa một chút.
2. Sai lầm của “một ngón tay” là điều không tránh khỏi trong phong trào quần chúng.
Dựng tấm lá chắn “phong trào quần chúng”, Mao đã lảng tránh trách nhiệm của mình.
3. Với tư thế nhà lý luận mác xít, Mao chỉ đạo cán bộ và nhân dân cả nước uốn nắn những lệch lạc nóng vội.
4. Giải thích sự cần thiết phải cưỡng chế mấy chục triệu người làm gang thép.
5. Không cho nêu ý kiến khác đối với nhà ăn tập thể, ăn không phải trả tiền.
Trong một loạt hội nghị do Mao đích thân chủ trì nói trên, nhận thức của phần lớn các uỷ viên Bộ Chính trị, uỷ viên Trung ương, Bí thư tỉnh uỷ bị gò trong khuôn khổ “9 ngón tay và một ngón tay”, không dám nhích ra ngoài một bước. Chỉ có Bành Đức Hoài nói lên nỗi cực khổ và tâm nguyện của nhân dân.
Tại Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng họp ở Thượng Hải từ 25-3 đến 1-4-1959, Bành Đức Hoài đã tổng hợp những điều mắt thấy tai nghe ở 6 Đại quân khu 10 tỉnh và thành phố. Ông nói thẳng:
- Các đồng chí đừng cho là tôi nói quá lời. Chính sách Đại tiến vọt phải chăng đã sai từ gốc rễ? Tôi cho rằng sai rồi. Cái sai không thể chỉ nói trong hội nghị, nếu không có biện pháp sửa đổi, hậu quả của nó chẳng những ảnh hưởng đến việc không có cách nào huấn luyện quân đội chuẩn bị chiến tranh, mà nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng đến vận mệnh và tương lai của đất nước. Đến lúc ấy, e rằng nhân dân không còn tin vào chủ nghĩa cộng sản nữa.
Mao Trạch Đông sợ ý kiến của Bành Đức Hoài ảnh hưởng đến người khác, vội chen vào:
- Ông nắm quân đội, không nên can thiệp nhiều như vậy, can thiệp nhiều quá, các đồng chí khác nhìn nhận ra sao? Những vấn đề một số đồng chí nói, tôi thấy chỉ là vụn vặt, chỉ là vấn đề bên dưới quán triệt không đầy đủ.
Bành Đức Hoài vội tuyên bố:
- Thưa Chủ tịch, tôi không có ý gì khác, tôi nói như vậy là thật lòng vì uy tín của Chủ tịch và của Đảng ta.
Mao mỉm cười:
- Tôi hiểu, tôi hiểu, ông xưa nay vẫn vậy.
Sau cuộc họp, Chu Ân Lai sợ Bành Đức Hoài quá thẳng thắn mang vạ vào thân, đã gặp riêng Bành, lưu ý tình hình bây giờ không còn như thời kỳ chiến tranh nữa, phương pháp công tác phương pháp tư tưởng đều phải thay đổi cho phù hợp.
Từ 2 đến 5-4-1959, chuyển sang Hội nghị Trung ương 7 khoá 8, thông qua “Dự thảo kế hoạch kinh tế quốc dân năm 1959” 18 vấn đề về công xã nhân dân”, “Phương án bộ máy nhà nước và nhân sự“, “Kế hoạch hùng vĩ kinh tế quốc dân tiếp tục Đại tiến vọt” với chỉ tiêu 18 triệu tấn thép, 525 triệu tấn lương thực.
Ngày 5, Mao phát biểu “16 điều về phương pháp công tác”, trong đó vẫn nhấn mạnh ông ta đại diện cho “đường lối đúng đắn” có lúc “chân lý không nằm ở phía số đông, mà nằm ở phía số ít hoặc một người”. Mao còn cảnh cáo những người từng phản đối ông ta. Mao đề cao Hải Thụy, một viên quan đời Mình đã dũng cảm phê bình, can ngăn hoàng đế. Mao đề xướng tinh thần Hải Thụy nhằm buông mồi dụ Bành Đức Hoài và Chu Ân Lai thẳng thắn nói hết ý kiến riêng, để kiếm cớ trừng trị vào lúc thích hợp.
Theo đề nghị của Mao, Hội nghị Trung ương 6 khoá 8 đã có quyết định tán thành để Mao thôi chức Chủ tịch nước CHND Trung Hoa khoá tới. Theo dự kiến danh sách lãnh đạo bộ máy nhà nước do Ban Tổ chức Trung ương chuẩn bị theo sự uỷ thác của Ban Bí thư, nguyên soái Chu Đức sẽ lên làm Chủ tịch nước, Lưu Thiếu Kỳ tiếp tục giữ chức Chủ tịch Quốc hội. Nhưng Chu Đức đã gửi thư cho Tổng Bí thư Đặng Tiểu Bình xin rút lui, và tiến cử Lưu Thiếu Kỳ. Trung ương ĐCSTQ và Mao Trạch Đông chấp nhận đề nghị trên. Kỳ họp thứ nhất Quốc hội Trung Quốc khoá 2 đã bầu Lưu Hiếu Kỳ làm Chủ tịch nước, Chu Đức làm Chủ tịch Quốc hội. Mao Trạch Đông về hình thức rút về tuyến 2, Chu Ân Lai tlêp tục được cử làm Thủ tưởng. Nhưng mãi đến Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng tháng 6-1960, khi Mao thừa nhận ông ta mắc sai lầm, thì Chu Ân Lai mới được phục hồi danh dự, chính thức gánh vác trách nhiệm Thủ tướng.
♦ ♦ ♦
No comments:
Post a Comment