Ở chốn vô thanh nghe sấm động
Từ mùa hè 1958 chính quyền và nông dân đã triển khai cuộc đại chiến giành giật lương thực. Do sức ép từ trên xuống, các nơi đều phải khai tăng sản lượng lương thực lên gấp bội.
Dựa vào con số lương thực “tự báo” đó, trên lại giao mức lương thực phải bán cho nhà nước. Cán bộ cơ sở và nông dân đứng trước một thực tế gay gắt: nếu bán lương thực theo chỉ tiêu, thì không còn cái ăn và cũng hết sạch cả hạt giống. Thế là khắp nơi diễn ra chiến dịch nông dân cất giấu lương thực dưới nhiều hình thức: chôn dưới hầm, dưới gốc cây, chân tường, vùi trong thức ăn gia súc, thậm chí chia thành gói nhỏ, cài trong tổ chim trên cây cao, hoặc đặt dưới hố nước tiểu. Các đội công tác được cử xuống nông thôn truy bức nông dân giao nộp lương thực, phát động mọi người tố giác lẫn nhau, nhiều đội trưởng sản xuất đã bị bất, bị tra tấn cực kỳ dã man, vì đã đứng về phía nông dân trong cuộc cất giấu lương thực này.
Tình hình nghiêm trọng ở nông thôn thông qua mọi con đường truyền vào thành thị, vào quân đội, vào các cơ quan đảng và chính quyền. Trung ương ĐCSTQ và Mao Trạch Đông kêu gọi toàn đảng “nói thật”. Hưởng ứng lời kêu gọi trên, cán bộ Trường Đảng Giang Tây, Văn phòng Quốc vụ viện, Quân đoàn 42 đã nói thật suy nghĩ của mình. Họ cho rằng “Đại tiến vọt” là bịa đặt, “luyện gang thép” chỉ hao người tốn của, phá hoại qui luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, công xã nhân dân là đứa trẻ đẻ non, nhà ăn tập thể không phải nhân tố cộng sản chủ nghĩa, kinh tế căng thẳng kéo dài do sai lầm về đường lối. Theo báo cáo Bí thư tỉnh uỷ Sơn Tây Đào Lỗ Già gửi Mao Trạch Đông, tại hội nghị cán bộ toàn tỉnh, có người nói “cả 10 ngón tay của các ông đều thối rữa rồi, mà vẫn nói 9 ngón còn tốt”, “Trước đây người Nhật đến Trung Quốc thực hiện chính sách “ba sạch” (giết sạch, đốt sạch, cướp sạch), còn công xã nhân dân là chính sách “5 sạch”…
Mao Trạch Đông đã nghe sấm động ầm ầm dưới chân Trung Nam Hải.
Mùa xuân 1959, 15 tỉnh Sơn Đông, Giang Tô, Hà Nam, Hà Bắc, An Huy… xảy ra nạn đói, trên 25 triệu người không có lương thực. Đến giữa năm 1959, khắp Trung Quốc đầy rẫy người đói khát, tiếng oán hờn thấu tận trời xanh.
Mao quyết định triệu tập Hội nghị công tác tại Lư Sơn. Phần đầu (2-7 đến 1-8) là Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng.
Ngày 2-7, Thường vụ Bộ Chính trị thông qua 18 vấn đề do Mao nêu ra trong hội nghị này, trong đó có vấn đề cán bộ 3 cấp (trung ương, tỉnh, chuyên khu) phải đọc “Sách giáo khoa chính trị kinh tế học Liên Xô”, Mao nhượng bộ đôi chút về đánh giá khuyết điểm (từ chỉ “1 ngón tay” chuyển sang “2,3 ngón tay” có vấn đề), song vẫn khẳng định phải kiên trì đường lối chung, Đại tiến vọt, công xã nhân dân. Mao giao cho Chu Ân Lai chủ trì công việc hội nghị. Các bí thư tỉnh uỷ, Thành uỷ, các Bộ trưởng đều phát biểu theo khuôn khổ Mao đã định sẵn, nói nhiều về thành tích “Đại tiến vọt” chỉ nói sơ qua về khuyết điểm, năm tới cần tiếp tục Đại tiến vọt ra sao. Tại Tổ Tây Nam, Điền Gia Anh nói đến tình hình chân thực ông nắm được khi về điều tra, nghiên cứu ở Tứ Xuyên, liền bị Tổ trưởng Lý Tỉnh Tuyền (Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ Tứ Xuyên) phê bình và ngăn chặn.
Tại Tổ Tây Bắc, Bành Đức Hoài phát biểu 7 lần, có một số lần gay gắt. Để bảo vệ Bành Đức Hoài, khi đưa vào thông báo tình hình thảo luận ở các tổ, Chu Ân Lai và Dương Thượng Côn đã cho “mài bớt các góc cạnh” hoặc lược bỏ.
Bành Đức Hoài không hiểu điều đó, ông quyết định gửi thư cho Mao Trạch Đông.
♦ ♦ ♦
Chương 16
Bành Đức Hoài vì dân lên tiếng
Mao Trạch Đông ăn không ngon, ngủ không yên trước dòng nước ngầm trong đảng, quân đội và nhân dân phủ định đại tiến vọt và công xã nhân dân. Phải đánh gục một hai nhân vật có trọng lượng mới có thể chặn đứng dòng nước ngầm này.
Chiều 14-7, “Thư gửi Chủ tịch” của Bành Đức Hoài được chuyển đến bàn làm việc của Mao. Ông ta đọc kỹ hai lần, mừng quá, cầm bút lông viết thêm hàng chữ nổi bật: “Ý kiến của đồng chí Bành Đức Hoài”, rồi trao Ban thư ký Hội nghị in phát cho từng người, làm văn kiện hội nghị.
Bức thư gồm hai phần:
A. Thành tích đại tiến vọt năm 1958 là khẳng định.
Thông qua Đại tiến vọt đã cơ bản chứng minh đường lối chung nhiều nhanh, tốt, rẻ là đúng đắn. Trong phong trào toàn dân làm gang thép đã làm thêm nhiều lò cao nhỏ, lãng phí một số tài nguyên và nhân lực, đương nhiên là một tổn thất khá lớn, nhưng đã bước đầu điều tra trên qui mô lớn tình hình địa chất toàn quốc, đào tạo nhiều nhân viên kỹ thuật. Trong phong trào này, đông đảo cán bộ đã được rèn luyện và nâng cao.
B. Làm thế nào tổng kểt bài học kinh nghiệm trong công tác
Mâu thuẫn nổi bật chúng ta gặp phải trong công tác xây dựng là tỉ lệ không cân đối dẫn đến căng thẳng trên các mặt.
Tình hình này phát triển đã ảnh hưởng đến quan hệ giữa công nhân và nông dân, giữa các tầng lớp ở thành thị và các tầng lớp ở nông thôn, nên cũng mang tính chính trị, là vấn đề then chốt liên quan đến việc động viên đông đảo quần chúng tiếp tục Đại tiến vọt trong thời gian tới.
Bành Đức Hoài nêu hai vấn đề:
1. Một hiện tượng giả. Mọi người đều cảm thấy vấn đề lương thực đã được giải quyết, nên có thể rảnh tay làm công nghiệp rồi. Nhận thức về phát triển gang thép phiến diện nghiêm trọng, không nghiêm túc nghiên cứu luyện thép, cán thép, than, quặng, thiết bị nghiền quặng, thiết bị luyện cốc, nguồn than, năng lực vận chuyển, lực lượng lao động tăng, sức mua mở rộng, hàng hoá sắp xếp ra sao. Tóm lại, không có kế hoạch cân bằng cần thiết, mắc chứng bệnh chưa đủ thực sự cầu thị. E rằng đây là nguyên nhân gây ra một loạt vấn đề.
Thói huênh hoang, khoác lác tràn ngập các địa phương, các ngành, một số kỳ tích không tin nổi cũng xuất hiện trên báo chí, quả thật đã làm tổn hại nghiêm trọng uy tín của Đảng.
2- Bệnh cuồng nhiệt tiểu tư sản khiến chúng ta dễ mắc sai lầm tả khuynh. Trong phong trào Đại tiến vọt năm 1958, tôi cũng như nhiều đồng chí khác đã bị mê hoặc bởi thành tích Đại tiến vọt và nhiệt tình của phong trào quần chúng, một số khuynh hướng “tả” phát triển khá mạnh, chỉ muốn một bước lên chủ nghĩa cộng sản, tư tưởng vượt trước người khác từng một dạo chiếm thế thượng phong, quên phắt đường lối quần chúng và tác phong thực sự cầu thị của Đảng được hình thành trong thời gian dài.
Ngày 16-7, Mao gọi Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức đến bàn bạc, quyết định kéo dài hội nghị để bình luận tính chất bức thư của Bành Đức Hoài, đồng thời cho gọi Bành Chân, Hoàng Khắc Thành, Bạc Nhất Ba, An Tử Văn lên Lư Sơn ngay. Đây là 4 nhân vật quan trọng từng phê phán Bành Đức Hoài trước khi họp Đại hội 7. Mao lợi dụng mọi cơ hội, tranh thủ gặp nốt số người cần gặp, đến lúc này, ông ta đã quyết tâm thanh toán Bành toàn diện, từ lịch sử tới hiện thực.
Từ 17 dân 22-7, các tổ thảo luận thư của Bành Đức Hoài.
Nhiều người hoan nghênh, khen Bành thẳng thắn và trung thành, cho rằng thư trên có tác dụng thúc đẩy cuộc thảo luận ở hội nghị này. Cũng có ý kiến nói Bành nên phân tích sâu hơn, và cũng nên thận trọng hơn khi nói về tính cuồng nhiệt “tiểu tư sản” và sai lầm “mang tính chất chính trị”, để tránh hiểu lầm. Riêng nguyên soái Hạ Long cho rằng ý kiến của Bành không xác đáng, thắng lợi năm 1958 là vĩ đại, chỉ có một số sai lầm về phương pháp công tác, và sai lầm này cũng đang được khắc phục. Hạ Long chẳng những phê phán mà còn tố giác Bành Đức Hoài, đây là một tín hiệu cho thấy cuộc đấu tranh phê phán Bành sẽ tiếp tục leo thang.
Ngày 21-7, phát biểu 3 giờ liền tại Tổ Hoa đăng Trương Văn Thiên điểm laị và khẳng định những ý kiến chủ chốt của Bành Đức Hoài trong thư gửi Mao Trạch Đông. Ông nhấn mạnh cần cảnh giác với bệnh kiêu ngạo, tự mãn, và cần tạo ra bầu không khí dân chủ trong Đảng. Ngay tối hôm đó, Tổ trưởng Tổ Hoa Đông Kha Khánh Thi chạy đến báo cáo Mao: “Đại sự hỏng rồi, nếu Chủ tịch không tỏ rõ thái độ, cán bộ sẽ bị họ lôi kéo hết”.
Mao bước ra khỏi phòng đi bách bộ quanh vườn trúc, trầm ngâm suy nghĩ, 36 kế lướt nhanh trong đầu. Kha Khánh Thi nói đúng, đã đến lúc phất cờ, tổ chức đội ngũ rồi. Mao biết kinh tế quốc dân đã bên bờ vực thẩm, nhân dân đang đói khát, tâm lý bất mãn trong dân chúng đang lan tràn, cán bộ các cấp đều đang truy cứu trách nhiệm cấp trên, công xã oán huyện, huyện oán chuyên khu, chuyên khu trách tỉnh, tỉnh trách trung ương… Lúc này, nếu Chu Ân Lai đứng ra lo liệu thì hay biết mấy, có thể đổ hết lỗi cho Chính phủ. Nhưng cái anh Chu này lại chẳng oán trách nửa lời, chỉ chăm lo chỉnh đốn nền kinh tế đã bị xới tung lên. Nay nhảy ra hai anh Bành Đức Hoài và Trương Văn Thiên, một nắm quân đội, một phụ trách ngoại giao, nói vòng vèo thế nào thì cũng không đến họ phải chịu trách nhiệm về những sai lầm trong xây dựng kinh tế. Ý kiến của họ phản ánh quan điểm của đông đảo cán bộ và nhân dân, đều nói lên tinh hình thực tế, có căn cứ, thực sự cầu thị, nhưng nguy cơ cũng xuất phát từ 4 chữ “thực sự cầu thị” này. Một khi quan điểm của họ thống nhất tư tưởng trên dưới, thì vị trí của mình còn giữ nổi không?
Tư duy của Mao tập trung vào một điểm: tình hình hiện nay là chống “tả” hay chống “hữu”? Bành và Trương đòi triệt để uốn nắn sai lầm “tả” khuynh, nêu khẩu hiệu chống “tả”, thuận theo lòng đảng, lòng dân, đế cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân thoát khỏi cơn cuồng nhiệt “Đại tiến vọt”, giảm nhẹ gánh nặng và ổn định đời sống nhân dân, phát triển sản xuất. Nhưng chống “tả” cuối cùng chẳng phải mọi chuyện đều đổ lên đầu mình hay sao? Chẳng lẽ ta rút khỏi vũ đài lịch sử như vậy?
Quyết không thể được! Bảo vệ chiếc ghế “Hoàng đế” của mình cao hơn hết thảy. Các vị vua “hùng tài đại lược” trong lịch sử đều không từ thủ đoạn nào để củng cố ngai vàng của họ. Chu Nguyên Chương hầu như đã giết sạch các công thần giúp ông ta dựng nên nghiệp lớn. Lịch sử xưa nay đều do kẻ thắng viết nên.
Mao Trạch Đông châm tiếp điếu thuốc, bắt đầu một vòng tư duy mới. Phải từ gốc rễ xoay chuyển phương hướng hội nghị và phương hướng toàn đảng, toàn dân. Tình hình hiện nay không chống “tả“, mà phải chống “hữu”, chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, bảo vệ đường lối chung, Đại tiến vọt, và công xã nhân dân. Để bảo vệ ba ngọn cờ hồng này, phải tổ chức đội ngũ tác chiến với phe phản động, dẹp cho bằng được sự phẫn nộ và tâm lý bất mãn đang lan tràn, sau đó, trong công tác thực tế, lặng lẽ uốn nắn những lệch lạc “tả” khuynh.
Xem ra phải hy sinh lão Bành rồi. Một nhân vật tầm cỡ như Bành Đức Hoài - uỷ viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng, nguyên soái thứ hai, anh hùng đánh thắng đế quốc Mỹ - bị đánh đổ sẽ làm chấn động toàn đảng, toàn quân và toàn dân. Ai còn nêu chống “tả”, ai còn đề cập đến sai lầm Đại tiến vọt, Công xã hoá, hãy coi số phận Bành Đức Hoài.
Mao đã quyết tâm, khi cần chống “tả”, ông ta chống “hữu” chỉ khác nhau một từ, đã đẩy sự nghiệp xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc vào chỗ bế tắc không còn khả năng thay đổi, chừng nào ông ta còn sống. Từ đó, Mao không còn đại diện cho lợi ích của nhân dân nữa, đang sau một chữ khác nhau ấy là hàng trăm triệu sinh linh lầm than, mấy chục triệu người chết đói, vượt qua bất cứ thiên tai, địch hoạ nào trong lịch sử.
Thêm một ngày đêm Mao suy nghĩ. Sớm 23-7, mọi người được thông báo lên hội trường nghe Mao nói chuyện. Đây là một cuộc tập kích bất ngờ, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức cũng không biết Mao định nói gì. Theo biên bản khoảng 6.000 chữ do Lý Nhuệ ghi, trong cuộc họp trên, Mao thừa nhận tình trạng tỉ lệ mất cân đối, nông nghiệp, công nghiệp, và giao thông đều căng thẳng, thiếu hàng tiêu dùng, nhưng ông nói nhẹ đi rất nhiều. Mao nói tình trạng xa rời quần chúng chỉ là tạm thời, kéo dài trong hai, ba tháng, nay quần chúng vẫn ủng hộ ta, kết hợp với chúng ta rất tốt; bệnh cuồng nhiệt tiểu tư sản có nhưng không nhiều, từ tháng 3, tháng 4 đã kiên quyết uốn nắn, ngăn chặn được “làn sóng cộng sản” tước đoạt của cải và thành quả lao động của người khác. Mao tán thành tích cực tổ chức tốt nhà ăn tập thể theo nguyên tắc tự nguyện tham gia, và tỏ ra hài lòng nếu cả nước duy trì được 30% nhà ăn tập thể. Mao đề xướng cán bộ các cấp học tập chính trị kinh tế học, ai mù chữ thì đọc cho họ nghe. Mao khuyên mọi người chớ dao động trong giờ phút khó khăn này, phát biểu phải chú ý phương pháp, nội dung phải chính xác, mọi người phải thấy rõ trách nhiệm của mình…
♦ ♦ ♦
Chương 17
Lâm Bưu giúp Mao lộng hành
Bài nói của Mao như tiếng sấm kinh hồn “có sức mạnh san phẳng Lư Sơn, khiến trái đất ngừng chuyển động”, người nghe nói chung đã biết phải hướng về đâu, dựa vào đâu.
Song ba đảng viên cộng sản chính trực Chu Tiểu Châu, Chu Huệ, Lý Nhuệ thấy không sao hiểu nổi. Họ chưa quên được 12 ngày trước đó, Mao đã gọi ba người tới “họp đồng hương”, nói chuyện thật thoải mái. Chu Tiểu Châu hồi ở Diên An từng làm thư ký cho Mao Trạch Đông, nên may mắn được cử làm Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ Hồ Nam. Trong phong trào “Đại tiến vọt”, ông đã làm một việc có lợi cho dân là toàn tỉnh xây 50.000 lò cao nhỏ, ông ra mật lệnh không cho 20.000 lò nổi lửa, tránh được tổn thất lớn. Đối với tình hình trước mắt, quan điểm của ông là “thành tích rất lớn, vấn đề khá nhiều, tương lai sáng sủa”. Mao rất tán thưởng câu trên, lấy đó làm quan điểm cơ bản cho hội nghị Lư Sơn. Chu Huệ là Bí thư tỉnh uỷ Hồ Nam, phụ trách lương thực, không chủ trương “ăn thả sức”, nên Hồ Nam ít người chết đói hơn nơi khác. Lý Nhuệ là Thứ trưởng Bộ thuỷ điện đã phản đối xây đập Tam Hiệp, được Mao ủng hộ, trở thành Thư ký kiêm nhiệm của Mao.
Trong cuộc “họp đồng hương” này, Mao tỏ ra thẳng thắn thừa nhận sai lầm và trách nhiệm của mình. Ba người kia lòng phơi phới gió xuân, nói thật những suy nghĩ của mình, kể cả những điều rất cấm kỵ. Họ quên mất thân phận “đấng chí tôn” của Mao, quên giới luật cung đình “làm bạn với vua như chơi với hổ”. Ba vị trung thần rút ra kết luận: Chủ tịch quyết tâm sửa chữa mọi sai lầm từ “Đại tiến vọt” đến nay, rất lặng nghe những lời trung thành mà trái tai.
Sáng hôm sau, Chu Tiểu Châu gặp Bành Đức Hoài kể lại cuộc gặp gỡ trên, khuyên Bành trực tiếp gặp Mao.
Trong khi một dạ trung thành giúp Mao khiêm tốn tiếp nhận những lời can ngăn, bước ra khỏi tình thế khó khăn, để cuộc Đại tiến vọt nhẹ nhàng hạ cánh, Chu Tiểu Châu không ngờ bản thân ông lại trở thành miếng mồi để câu “con cá mập lớn” Bành Đức Hoài, tương lai chính trị của ông bị chôn vùi ở Lư Sơn theo Bành.
Nghe xong bài nói ngày 23-7 của Mao, ba thành viên “hội đồng hương” Hồ Nam thấy Mao đã quay ngoắt 180 độ.
Tối hôm đó, họ rủ nhau đến gặp Tổng tham mưu trưởng Hoàng Khắc Thành, nguyên Bí thứ thứ nhất Tỉnh uỷ Hồ Nam.
Tâm tư đang nặng nề sau buổi họp, Hoàng từ chối, nhưng sau nghĩ cả ba đều là cận thần tâm phúc của Mao, nên lại nhận lời Thấy ba người ăn nói bạo mồm bạo miệng quá, Hoàng thất sắc ngăn lại. Vừa lúc đó, Bành Đức Hoài đến gặp Hoàng bàn việc Quân khu Tây Tạng xin cấp thêm ô tô, ba người cáo lui. Trên đường về, họ gặp La Thụy Khanh. La báo cáo ngay với Mao: “Bành Đức Hoài có hoạt động phi tổ chức”. Thế là từ phê phán tư tưởng chuyển sang điều tra tập đoàn chống đảng.
Tối 26-7, Mao Trạch Đông gặp Bành Đức Hoài. Trong quan niệm của Bành, ý thức vua tôi rất mỏng manh, dường như quan hệ giữa hai người vẫn dừng lại ở thời đại Tỉnh Cương Sơn.
Trong phần lớn tình huống, Bành không gọi Mao là “Chủ tịch” mà gọi là “Lão Mao”. Bành rất phản cảm trước bài nói của Mao. Trong cuộc gặp này, chẳng ai nhường ai, Bành tức giận văng ra: “Ở Diên An ông chửi bố tôi 40 ngày, nay tôi chửi bố ông 20 ngày không được à?” Ý nguyên soái Bành là trước Đại hội 7, ông tổ chức phê phán tôi 40 ngày, nay ông làm cho đất nước ra nông nỗi này, hội nghị Lư Sơn họp 20 ngày để tổng kết bài học kinh nghiệm, tôi nêu một số ý kiến với ông, lẽ nào không được? Câu nói đó của Bành không được ghi âm, ghi chép, nhưng nguyên bản được lưu lại trong óc Mao. Ba năm sau tại Hội nghị Trung ương 10 khoá 8, Mao nói: “Hội nghị Lư Sơn lần thứ nhất năm 1959, vốn định bàn công tác, sau Bành Đức Hoài nhảy ra nói ông chửi bố tôi 40 ngày, tôi chửi bố ông 20 ngày không được hay sao? Thế là tình hình rối loạn lên, ảnh hưởng đến công tác, 20 ngày ấy vẫn không không đủ, chúng ta bỏ cả công việc”.
Cuộc đối thoại tan vỡ, Bành Đức Hoài đại bất kính mắng “Hoàng thượng”, đó là điều Mao cần. Thế là “ vấn đề Bành Đức Hoài” leo thang.
Sớm 27-7, Mao Trạch Đông triệu tập Ban Thưởng vụ Bộ chính trị để “định tính” vấn đề Bành Đức Hoài. Chu Ân Lai nói: “Bành Đức Hoài 3 phần sai lầm, 7 phần công lao, không nên phủ định sạch trơn”. Lưu Thiếu Kỳ và Chu Đức tán thành ý kiến trên. Mao một phiếu phủ quyết 3 phiếu. Cả ba uỷ viên Thường vụ phục tùng Mao, tán thành đánh đổ Bành.
Sáng 27-7, Lưu Thiếu Kỳ họp các tổ trưởng truyền đạt chỉ thị của Mao “tiếp tục phê phán tập đoàn chống đảng Bành Đức Hoài, Hoàng Khắc Thành, Trương Văn Thiên, Chu Tiểu Châu, vạch rõ ranh giới, không những nhằm vào công việc mà còn nhằm vào con người phải gắn với những sai lầm của Bành trong lịch sử”. Mao nói: Bành đối với Mao bao năm qua “3 phần hợp tác, 7 phần không hợp tác. Uông Đông Hưng tuyên bố với lực lượng bảo vệ: Bành, Hoàng, Trương, Châu không được tự tiện đi vào nơi ở của Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ, không được tiếp xúc với nhau, ôtô của họ không được xuống núi, máy bay trên sân bay Cửu Giang không được cất cánh nếu không được Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ phê chuẩn. Ngày 30, Nhiếp Vinh Trăn và Diệp Kiếm Anh, phải đến khuyên Bành Đức Hoài nhận sai lầm.
Ngày 29-7, Lâm Bưu phụng chiếu lên Lư Sơn “cần vương” kịp dự cuộc họp Thường vụ Bộ Chính trị ngày 31-7 và 1-8. Hội nghị do Mao chủ trì, 4 uỷ viên Thường vụ Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức, Lâm Bưu có mặt, ngoài ra còn có uỷ viên Bộ chính trị Bành Chân (thực tế là phó Tổng bí thư) người được cử thay Chu Ân Lai phụ trách công việc hội nghị, uỷ viên Bộ chính trị, nguyên soái Hạ Long, người đã tố giác Bành Đức Hoài. Bành có mặt với thân phận bị xem xét, Hoàng Khắc Thành, Chu Tiểu Châu, Vương Huệ, Lý Nhuệ có mặt để được giáo dục.
Chu Đức phát biểu, hy vọng việc Bành Đức Hoài nhận sai lầm sẽ được Mao thông cảm. Ông nói từ khi Bành Đức Hoài dẫn Quân đoàn 5 Hồng quân lên Tỉnh Cương Sơn, đã cùng sống chết chung hoạn nạn, phấn đấu quá nửa đời người, đừng chia tay nhau như vậy. Đột nhiên Mao giơ chân trái lên cao hon mặt bàn, tay phải cầm tẩu thuốc, tay trái sờ vào mặt giày, mọi người đều hiểu Mao muốn nói Chu Đức “gãi ngứa qua giày”. Chu Tổng tư lệnh đỏ mặt, không nói nữa.
Với lời lẽ gay gắt, Lâm Bưu phê phán Bành Đức Hoài là kẻ có dã tâm, có âm mưu, độc đoán chuyên quyền, giả dối, hiếu danh, chẳng coi ai ra gì, lợi dụng hình thức thẳng thắn để mê hoặc người khác, trong và ngoài đảng, trong và ngoài nước bàn tán Bành là phần tử đầu cơ…
Bành Đức Hoài thừa nhận mình có biểu hiện anh hùng cá nhân, cộng thêm tư tưởng vô chính phủ, tư tưởng hỗn loạn, lập trường không vững,… Khi Bành tỏ ý xin thôi các chức vụ trong quân đội, Mao nói:
- Chưa bàn việc này, vẫn do ông làm.
Lâm Bưu nói:
- Không phải đánh đổ, không phải từ nay không tín nhiệm. Công việc vẫn do ông làm.
Mao còn tỏ ỷ “gừi gắm hy vọng” ở Bành.
Dưới đòn vừa đánh (kẻ có dã tâm, có âm mưu, giả dối) vừa xoa (vẫn “do ông làm”, không cách chức) của Mao Trạch Đông và Lâm Bưu, Bành Đức Hoài đã mềm lòng, từ tấn công chuyển sang phòng ngự, từ nguyên cáo biến thành bị cáo. Từ người góp ý kiến trở thành người bị thanh toán, từ chỗ cân nhắc xem cho người khác đội chíếc mũ nào thì thích hợp, đến chỗ tính xem mình nên nhận chiếc mũ nào, từ đó bước lên con đường kiểm thảo nhận tội dài dằng dặc.
Trị xong Bành Đức Hoài, Mao rảnh tay trị Trương Văn Thiên.
Từ 8-2, Hội nghị Lư Sơn biến thành Hội nghị Trung ương 8 khoá 8, là đại hội đấu Bành Đức Hoài, Trương Văn Thiên, Hoàng Khắc Thành, Chu Tiểu Châu. Cuộc họp ngây 13 do Chu Ân Lai chủ trì. Buổi sáng, Trương Vãn Thiên kiểm điểm sai lầm. Trương nói nay ông “đã nhận thức được đường lối Mao Trạch Đông là đường lối duy nhất đúng đắn”. Hội nghị Lư Sơn chứng minh “ai không đi theo Mao Chủ tịch, người đó sẽ mắc sai lầm”, và nguyện từ nay “thật thà làm học trò” của Mao.
Buổi chiều, đấu Bành Đức Hoài. Bằng giọng trầm đục đầy bi thương, Bành kiểm điểm đối với chủ trương của Mao, ông “không hiểu, không tán thành, hoặc ủng hộ không mạnh, quán triệt không hết”, và nâng lên thành mấy lần sai lầm đường lối. Ông buộc phải thừa nhận lá thư ngày 14-7 trên thực tế là phản đối đường lối chung, phản đối Trung ương Đảng và Mao Chủ tịch. Bành biết rõ không nhận tội danh này thì không xong, mà nhận tội danh này thì bản thân cũng chẳng còn gì nữa.
Bành nói:
- Quan điểm hữu khuynh của tôi chủ yếu biểu hiện ở coi nhiệt tình cao xây dựng chủ nghĩa xã hội của đông đảo quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng là bệnh cuồng nhiệt tiểu tư sản, phiến diện thổi phồng khuyết điểm đã và đang được uốn nắn là “tả” khuynh, coi ý nghĩa lớn lao của 90 triệu người làm gang thép là có mất, có được, càng sai lầm hơn nữa là dùng biện pháp bóng gió làm tổn hại uy tín cao cả của đồng chí Mao Trạch Đông. Cuộc công kích này diễn ra trong tình hình Đảng bị giáp công tự bên trong và bên ngoài, nên nguy hại càng nghiêm trọng. Những lời lẽ cơ hội hữu khuynh của tôi xuất phát từ lập trường giai cấp tư sản, phản đối sự nghiệp của giai cấp vô sản, trên thực tế tôi đã trở thành đại diện cho giai cấp tư sản ở trong Đảng. Tính chất nghiêm trọng của sai lầm này còn ở chỗ đây không phải là sai lầm ngẫu nhiên của cá nhân tôi, mà là một hành động có chuẩn bị, có tổ chức.Câu lạc bộ quân sự mà đồng chí Mao Trạch Đông chỉ ra là bộ tư lệnh của cuộc tấn công này.
Bành kiểm điểm xong, Lý Tỉnh Tuyền, Khang Sinh, Đàm Chấn Lâm và nhiều người khác đua nhau lên tiếng phê phán Bành và bày tỏ trung thành với Mao Trạch Đông. Chỉ có Chu Đức Lưu Bá Thừa và một số ít người khác giữ im lặng. Hai vị nguyên soái đau lòng nhớ đến câu “cung nỏ tốt cũng vứt đi, khi trên cao không còn chim nữa”. Lưu Bá thừa lo cho số phận các công thần: sắp tới sẽ đến lượt ai đây?
Nguyên soái Bành Đức Hoài từng đánh bại tướng 5 sao McArthur trên chiến trường Triều Tiên đã ngã xuống bởi xung đột ý kiến vơi Chủ tịch Mao Trạch Đông. McArthur cũng từng va chạm, tranh cãi kịch liệt với Tổng thống Truman, và trên tiền tuyến Triều Tiên, ông đã công khai phê bình chính sách châu Á của đương kim Tổng thống Mỹ. Truman ra lệnh cách chức McArthur. Điều khiến McArthur cảm thấy mất mặt hơn là Tổng thống không hề thông báo trước, ông chỉ biết mình bị mất hết binh quyền khi nghe bản tin thời sự trên đài phát thanh. Chính phủ có uy quyền, quân nhân kể cả những người lỗi lạc như McArthur cũng không thể đứng trên Chính phủ. Mặt khác, việc xử phạt McArthur cũng chỉ có thế thôi. McArthur không chịu, sau khi về Mỹ, ông đã thuyết trình trước Quốc hội và khắp nơi trong cả nước phê phán chính sách châu Á của Truman, về sau còn ra tranh cử Tổng thống Mỹ, mưu toan thay thế Truman. Tuy không đắc cử, nhưng McAthur đã qua những năm tháng cuối đởi trong thể diện. Mọi hoạt động của ông sau khi bị cách chức đều được coi là bình thường, được luật pháp và thể chế bảo hộ, không bị coi là “kẻ có dã tâm”, càng không bị gán cho tội danh “cướp đảng, cướp nước”, bị phê phán đến tận cùng.
Cảnh ngộ khác nhau trong những năm cuối đời của nguyên soái Mỹ và nguyên soái Trung Quốc đã phản ánh hai thể chế chính trị, hai truyền thống lịch sử, hai bối cảnh văn hoá khác nhau. Tội phạm hàng đầu tạo ra vụ án oan Bành Đức Hoài đương nhiên là Mao Trạch Đông, nhưng không chỉ có ông ta, mà là hợp lực lịch sử của một thể chế, một truyền thống, một nền văn hoá. Chính Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu, Hạ Long, Đào Chú, La Thụy Khanh, Lý Tỉnh Tuyền trong mấy năm sau đó lại bị hợp lực lịch sử không thể kháng cự mà họ đã góp phần tăng cường ấy làm cho thân tàn ma dại, tan cửa nát nhà.
Ngày 16-8-1959, Hội nghị ra nghị quyết nêu rõ cần đưa Bành Đức Hoài, Trương Văn Thiên, Hoàng Khắc Thành, Chu Tiểu Châu ra khỏi các cương vị công tác của họ trong cơ quan quốc phòng, ngoại giao và tỉnh Hồ Nam, song vẫn giữ các chức vụ của họ trong Bộ Chính trị và Ban chấp hành trung ương, để xem xét hiệu quả. Đồng thời, Hội nghị còn ra nghị quyết về triển khai phong trào tăng sản xuất và tiết kiệm. Nghị quyết viết:
“Đường lối chung, Đại tiến vọt và công xã nhân dân biểu hiện quyết tâm vĩ đại và trí tuệ vĩ đại của 650 triệu nhân dân cần cù, dũng cảm, là sản phẩm lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông kết hợp sáng tạo chân lý phổ biến của Chủ nghĩa Mác-Lenin với tình hình thực tế Trung Quốc. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, như tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiên trì chính trị thống soái, kiên trì đường lối quần chúng, giữ vững ngọn cờ vẻ vang đường lối chung. Đại tiến vọt, công xã nhân dân, chúng ta đã giành được thắng lợi vĩ đại năm 1958 và nửa đầu năm 1959. Thời gian tới, chúng ta sẽ dũng cảm tiến lên trên con đường vẻ vang này, phấn đấu giành thắng lợi vĩ đại mới”.
Đoạn trên bề ngoài có vẻ như những lời lẽ sáo rỗng ĐCSTQ quen dùng, thật ra nó mang ý nghĩa đánh dấu giai đoạn lịch sử. Đàng hoàng dưới danh nghĩa văn kiện trung ương, nó tuyên cáo ĐCSTQ đoạn tuyệt với nguyên tắc thực sự cầu thị. Sai lầm có thể nói thành đúng đắn, thất bại có thể bảo là thắng lợi. “Ba ngọn cờ hồng” mà 600 triệu nhân dân ghét cay ghét đắng lại nói liều đó là “biểu hiện quyết tâm vĩ đại và trí tuệ vĩ đại” của họ. Nhận thức và nghị quyết của Đảng hoàn toàn đi ngược lại lương tri của lòng đảng, lòng dân, từ đó ĐCSTQ đi vào ngõ cụt của chủ nghĩa xã hội không tưởng Mao Trạch Đông. Để thay đổi đường lối “tả” khuynh đem lại tai hoạ nặng nề cho nhân dân này, sau Bành Đức Hoài, hàng loạt đảng viên cộng sản lên tiếng vì nhân dân đã phải trả giá thê thảm, nhiều người hy sinh cá tính mạng. Chỉ riêng “khoán sản tới hộ” mà biết bao cán bộ tốt muốn cho trăm họ được một bữa ăn no đã bị tan cửa nát nhà.
Ngày 17-8, với tư thế người chiến thắng, Mao Trạch Đông triệu tập Hội nghị công tác Bộ Chính trị, các cán bộ cấp cao có mặt tại Lư Sơn đều tham gia. Mao chỉ nói về tầm quan trọng của lãnh tụ. Sau đó, theo gợi ý trước của Mao, Lưu Thiếu Kỳ nói nhiều về sự cần thiết và đúng đắn của sùng bái cá nhân, phê phán Bành Đức Hoài từ sau Đại hội 20 ĐCSLX đã phản đối sùng bái cá nhân ở Trung Quốc, mấy lần đề nghị không nên hát “Đông phương hồng”, phản đối hô “Mao Chủ tịch muôn năm”, lần này Bành còn nói nào là “không có lãnh đạo tập thể”. “Mao Trạch Đông không tự phê bình, lại nhận hết công lao về mình”.
Lưu Thiếu Kỳ nói xưa nay ông vẫn đề xướng sùng bái cá nhân, đề cao uy tín lãnh đạo của Mao, trước Đại hội 7 đã tuyên truyền vai trò của Mao, nay vẫn tiếp tục. Lưu còn nói sẽ tuyên truyền sùng bái cá nhân Lâm Bưu và Đặng Tiều Bình. Đây là điều tối kỵ, vì Mao đã chỉ định Lưu làm người kế vị, nhưng chưa nói người kế vị sau Lưu là ai.
Về việc theo sát Mao, Lưu Thiếu Kỳ khác Chu Ân Lai. Mao nói 100, Chu quyết không nói 99, cũng không nói 101. Lưu thường nói quá đi, 101 thậm chí 102. Lần này Mao muốn Lưu nói về sùng bái cá nhân đối với Mao, Lưu lại thêm cả Lâm Bưu và Đặng Tiểu Bình nghiễm nhiên tôn Mao lên làm Thái Thượng hoàng, để mình làm Hoàng đế, chỉ định Lâm, Đặng làm người kế vị. Lưu không thận trọng, tưởng rằng nói thêm vái câu theo hướng Mao gợi ra, có biết đâu đã để lại bóng đen lớn trong đầu Mao.
Chưa hết, Lưu Thiếu Kỳ còn đưa ra lập luận kinh người, dường như đang phát triển ý kiến của Mao, nhưng lên đến 103. Lưu nhấn mạnh:
- Nói trắng ra, Bành Đức Hoài phản đối sùng bái cá nhân đối với Mao Trạch Đông, nhưng chưa chắc đã phản đối sùng bái cá nhân đối với bản thân mình. Trên thực tế, tôi thấy Bành thích thú với thứ ấy (việc sùng bái cá nhân Bành). Đây cũng là sự thật được vạch trần mấy ngày qua. Để Bành thực hiện sùng bái cá nhân, không bằng để Mao Trạch Đông và các đồng chí khác thực hiện sùng bái cá nhân. Bành nói Lưu Thiếu Kỳ cướp Đảng, tôi cũng nói: để đồng chí cướp Đảng, không bằng tôi cướp luôn. Nói thật, đồng chí cướp Đảng, tôi không tán thành, nếu đồng chí cướp, tôi nhất định cướp. Đồng chí không cướp, vậy được, tôi cũng có thể không cướp.
Cả hội trường bỗng im ắng tới mức đáng sợ. Những người có mặt lắng tai nghe, không để lọt một chữ nào. Một tiếng ho của Mao Trạch Đông làm rụng đoạn tàn thuốc lá dài trên tay ông, phá vỡ sự im lặng trên hội trường, cũng che đậy một chấn động nhỏ trong tim ông: Lẽ nào ta loại trừ Bành Đức Hoài là đang dọn sạch đường cho một Khrusev? Lòng người thật khó lường.
Trong khi đấu Bành Đức Hoài, Mao vẫn thường xuyên theo dõi chặt Chu Ân Lai. Hội nghị Lư Sơn kết thúc, Mao chỉ thị biên soạn cuốn từ điển triết học nhỏ mang tên “Chủ nghĩa kinh nghiệm hay chủ nghĩa Mác?” Lời tựa do Mao viết có đoạn:
“Để từ lý luận phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm, chúng ta phải đọc triết học. Về lý luận, trước đây chúng ta phê phán chủ nghĩa giáo điều, nhưng không phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm. Chủ nghĩa kinh nghiệm là mối nguy hiểm chủ yếu hiện nay”.
Cán bộ trung cấp trở lên trong ĐCSTQ đều hiểu động thái này nhằm vào Chu Ân Lai. Mao muốn ngầm nói với phe cánh rằng Chu Ân Lai là nhân vật chủ yếu tranh giành quyền lãnh đạo với ông ta, song sự ủng hộ của nhà lãnh đạo tài năng và có uy tín lớn ở trong và ngoài nước này lại là điều Mao không thể thiếu.
♦ ♦ ♦
Trong 4 năm sau khi Mao tuyên bố thực hiện một số lý tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng (tháng 9-1959) Trung Quốc đã xảy ra thảm kịch làm 37,55 triệu người chết đói (số liệu chính thức được giải mật theo quyết định của Bộ chính trị ĐCSTQ tháng 9-2005), nhiều hơn cả số người chết trong Chiến tranh thế giới II. Đây là cuộc thử nghiệm chủ nghĩa xã hội không tưởng thời gian dài nhất, quy mô lớn nhât, thiệt hại thảm khốc nhất trong lịch sử loài người. Thiên đường cộng sản chủ nghĩa do chính Mao thiết kế và lãnh đạo xây dựng đã biến thành địa ngục trần gian.
Đại tiến vọt thực tế gồm hai lần. Lần thứ nhất diễn ra trước Hội nghị Lư Sơn 1959, cuối măm 1958 đã phát hiện có vấn đề nghiêm trọng. Sau Hội nghị Lư Sơn để chứng minh ba ngọn cờ hồng đúng đắn, Mao phát động phong trào chống hữu khuynh trong toàn đảng rồi dấy lên cao trào Đại tiến vọt 2 trong cả nước, lần “tiến vọt” này kéo dài hơn một năm từ nửa cuối 1959 tới cuối năm 1960, gây tội ác lớn nhất.
Ngày 3-9-1958, Mao tuyên bố: “Sản lượng lương thực năm nay có thể tăng xấp xỉ gấp hai lần năm ngoái, từ 185 triệu tấn lên khoảng 370 triệu tấn nếu năm 1959 lại tăng gấp hai lần năm nay, lên 750 triệu tấn”. Tin lên ra cả thế giới đều biết. Sau vụ thu hoạch, đột nhiên các tỉnh báo cáo không nộp đủ lương thực như dự định. Mao sốt ruột, bởi đây là việc thật bẽ mặt. Ông ta đích thân viết thông tri gửi toàn quốc, nhận định “vấn đề phổ biến trong cả nước là các công xã, đội trưởng sản xuất che giấu sản lượng, chia nhau lương thực, tình hình nghiêm trọng, phải giải quyết ngay”, hơn nữa, “phải tiến hành một đợt giáo dục kiên quyết mới giải quyết được”. Song “kiên quyết” như thế nào Mao không nói rõ, để cho cấp dưới đầy đủ không gian tha hồ tưởng tượng, phát huy. “Chống che giấu sản lượng và chia nhau lương thực” bằng thủ đoạn “giáo dục kiên quyết moi cả khẩu phần lương thực của nông dân là nguyên nhân chủ yếu gây chếl đói trên qui mô lớn.
Tỉnh Hà Nam vụ thu 1958 có tới 50% mùa màng bị hư hỏng ngoái đồng (do lao động khỏe bị huy động đi làm gang thép). Năm 1959 sản lượng lương thực giảm, chỉ có 9,75 triệu tấn, nhưng các nơi hư báo lên tới 22,5 triệu tấn. Bí thư tỉnh uỷ Ngô Chi Phó lấy đó làm cơ số giao chỉ tiêu cưỡng bức thu mua lương thực, cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ bị coi là “Bành Đức Hoài con”. Chuyên khu Tín Dương thực sản chỉ có 2 triệu tấn, Bí thư Khu uỷ Lộ Hiến Văn vống lên 4,15 triệu tấn, tỉnh giao chi tiết thu mua 48 vạn tấn đã là quá cao, Khu uỷ xung phong nhận 52 vạn tấn. Khẩu phần lương thực, hạt giống và thức ăn gia súc của nông dân bị cướp đi rất nhiều, bình quân đầu người chỉ còn hơn 50 kg, đủ ăn trong 4 tháng, một số huyện thậm chí không đủ 3 tháng. Chưa đến cuối năm 1959 bếp ăn tập thể của nhiều công xã không còn đỏ lửa và hết lương thực.
Để quán triệt tinh thần “kiên quyết giáo dục” của Mao Trạch Đông, Khu uỷ đã tổ chức cuộc họp 6.000 người ở huyện Hoàng Xuyên, lôi hơn 60 người ra đấu tố, lại lôi thêm 4 người từ nhà tù ra xét xử công khai. Những nông dân đến dự đều gầy gò, vàng vọt, khoảng 40% mắc bệnh phù thũng, một người chết đói tại chỗ, 19 người chết trên đường về nhà.
Ngày 8-11-1959, cán bộ Đội sản xuất Lê Thụ, Công xã Hoài Điếm, huyện Quang Sơn, nghi ngờ xã viên Từ Phó Chính có lương thực mà không giao nộp đã cho dân quân treo Từ lên xà nhà, đánh đập dã man, 6 ngày sau tử vong. 6 người trong gia đình Từ sau đó đều chết đói. Xã viên Yên Gia Tâm do không nộp đủ lương thực, bị đánh đập tàn bạo, 5 ngày sau qua đời. Vợ Yên là Hoàng Tú Anh rang lúa mạch cho con ăn, bị trói lại đưa ra đấu, bị dội nước lạnh giữa ngày đông giá rét và giày vò cho đến chết. Còn lại 5 người con, chỉ có đứa lớn 14 tuổi bỏ chạy đến nhà họ hàng thoát thân, còn lại 4 đứa nhỏ đều chết đói. Biết bao nông dân bị tan cửa nát nhà vì cuộc “giáo dục kiên quyết” này!
Mùa xuân 1960, nạn đói tràn lan, có làng 80 ngày người dân không được một hạt lương thực vào bụng. Nhiều người chết đói hoặc bỏ đi nơi khác kiếm ăn. Vậy mà Bí thư Khu uỷ Lộ Hiến Văn vẫn lên giọng: “Không phải thiếu lương thực, mà lương thực rất nhiều, 90% là vấn đề tư tưởng”. Ông ta chỉ thị cho cán bộ cơ sở và dân quân phong toả mọi nẻo đường, không cho dân chúng bỏ đi nơi khác, chỉ thị cho các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, trường học ở các thị trấn không được đón tiếp người từ vùng nông thôn lên. Bưu cục Tín Dương đã giữ lại trên một vạn lá thư của cán bộ và quần chúng xin cứu đói.
Theo báo cáo của Khu uỷ gửi Trung ương sau này, chỉ riêng đông xuân 1959-1960, Tín Dương có hơn 1 triệu người chết đói, dân số giảm mạnh, đồng ruộng hoang vu, nhiều nhà chết không còn một ai. Đội sản xuất Ngô Viên Tử thuộc Công xã Thập Lý huyện Quang Sơn có 120 nhân khẩu, thì chỉ trong tháng 10 và tháng 11 năm 1959 đã có 72 người chết đói. Danh sách 72 người này năm 2004 đã được khắc trên tấm bia để nhấc nhở đời sau.
Sự kiện Tín Dương bị phơi trần, để bảo vệ mình, Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ Hà Nam Ngô Chi Phố hạ lệnh bắt Lộ Hiến Văn cùng 16 Bí thư Huyện uỷ và Huyện trưởng thuộc Khu Tín Dương, cách chức 982 cán bộ cấp dưới, bắt và đưa ra xét xử 275 người, kết án tử hình Dương Thủ Tích, Bí thư Huyện uỷ Cố Sử và Mã Long Sơn, Bí thư Huyện uỷ Quang Sơn.
Sự kiện trên làm chấn động Bắc Kinh. Bí thư Ban Kiểm tra kỷ luật trung ương Đổng Tất Vũ cử hai vụ trưởng về điều tra tại chỗ. Càng điều tra, càng phát hiện nhiều vấn đề nghiêm trọng. Tháng 5-1960, Đổng Tất Vũ chuyển báo cáo điều tra lên Thường vụ Bộ Chính trị, Mao xem xong, định hướng đây là sự kiện phản cách mạng, do địa chủ, phú nông lọt lưới chui vào đội ngũ cách mạng, phá hoại quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Thế là Mao rũ sạch trách nhiệm thủ phạm đầu sỏ làm cho mấy chục triệu người chết đói, và một lần nữa trở thành cứu tinh của nhân dân.
Số người chết đói ở Trung Quốc trong thời gian 1959- 1962 là 5,11% dân số cả nước. Sáu tỉnh nặng nhất là An Huy 18,37%, Tứ Xuyên 13,07%, Quý Châu 10,23%, Hồ Nam 6,81%, Cam Túc 6,45%, Hà Nam 6,12%. Sáu tỉnh bị nhẹ nhất là Hà Bắc (gồm cả Bắc Kinh, Thiên Tân) 11% Giang Tây 1,06%, Thiểm Tây 1,02%, Cát Lâm 0,94%, Chiết Giang 0,55%, Sơn Tây 0,37%. Sự chênh lệch này liên quan rất lớn tới tố chất của các Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ: nơi nào càng bám sát “đường lối cách mạng” của Mao, thì tỉ lệ người chết đói càng nhiều.
Nạn ăn thịt người đã diễn ra ở Tứ Xuyên và nhiều nơi khác: khi chôn người chết chỉ vùi nông, tối đến bới lên xẻo lấy thịt ăn, hoặc tang chủ đã lóc thịt thân nhân trước khi mai táng. Tàn nhẫn hơn là nạn ăn thịt trẻ con, điển hình là chuyện xảy ra ở Đội sản xuất số 1, Đại đội 5, Công xã Đông Dương, huyện Sùng Khánh, Khu Ôn Giang, tỉnh Tứ Xuyên.
Theo lời Trịnh Đại Quân, nguyên cán bộ Ban công tác nông thôn huyện Sùng Khánh. Đội sản xuất trên có 82 hộ, 491 nhân khẩu, chỉ trong một năm từ tháng 12-1959 đến tháng II-1960, đã có 48 bé gái 7 tuổi trở xuống bị người lớn làm thịt, chiếm 90% số bé gái cùng độ tuổi ở nơi này. 83% số gia đình ở đội này từng ăn thịt người. Chuyện đau lòng đó diễn ra trong bối cảnh lương thực hết sạch, mọi người từng nhiều ngày phải ăn giun dế, côn trùng, lá cây, vỏ cây, cỏ dại, và cả đất thó. Kế toán Vương Giải Phóng là người đầu tiên phát hiện vụ ăn thịt trẻ con. Hồi đó, tuy nhà ăn tập thể thực tế đã ngừng hoạt động vì không còn lương thực nữa, nhưng lệnh cấm các gia đình nấu nướng vẫn còn hiệu lực, bếp nhà ai nổi lửa là phạm pháp.
Đêm ấy, đến lượt Vương cùng hai người khác đi tuần. Các mái nhà phủ trắng tuyết đầu mùa sáng hẳn lên khi vầng trăng nhô ra khỏi đám mây. Nhóm tuần tra phát hiện một dải khói mỏng toả ra từ mái nhà bần nông Mạc Nhị Oa. Họ chia nhau bao vây vu hồi, rồi đồng loạt bấm đèn pin nhảy vào nhà, nổ một phát súng cảnh cáo: tất cả ngồi im! Đèn dầu được châm lên, nhà Nhị Oa có 8 nhân khẩu, đã chết đói 2, còn lại 6 người, nhưng lúc này chỉ thấy có 5. Thành viên thứ 6 là bé gái Thụ Tài 3 tuổi vừa bị giết hại, xẻ ra lấy thịt, đang luộc trong nồi. Trong lúc tổ tuần tra tìm cây trói can phạm, Nhị Oa và mấy đứa con lao vào cướp thịt Thụ Tài, ăn ngấu nghiến. Khi cả 5 người lớn bé bị trói thành một xâu đưa về trụ sở Đại đội sản xuất, trời đã sáng bạch. Cán bộ lãnh đạo địa phương sau khi nghiên cứu cân nhắc, đã quyết định ỉm vụ này đi, vì sợ bị kỷ luật. Sau một ngày bị giam giữ, cả nhà Mạc Nhị Oa lại được tha. Dân làng bàn tán, cho rằng chính phủ ngầm cho phép ăn thịt trẻ con. Thế là nạn ăn thịt trẻ con lan tràn, do “trọng nam khinh nữ”, họ chỉ ăn bé gái, giữ lại bé trai.
Không những ăn thịt, mà còn nghiền vụn xương đầu và tay chân ăn cho bằng hết. Kẻ nhẫn tâm thì làm thịt con ngay tại nhà mình. Kẻ mềm yếu hơn thì “gạt nước mắt đánh đổi với hàng xóm”: trao con mình cho người khác ăn, mang con người khác về làm thịt. Một số xã viên “nhìn xa trông rộng”, đã đi bắt cóc trẻ con ở vùng lân cận về ăn, hoặc gài bẫy trẻ con như bẫy thú, kể cả việc sử dụng một loại thuốc nổ xưa kia dùng để bẫy sói: trẻ nhỏ nhặt được chiếc “kẹo” mùi vị thơm ngon, cho vào miệng nhai liền phát nổ, đầu mặt tan tành, khi gia đình hay tin tìm đến, thì chỉ còn lại vũng máu.
Trong ba năm đói kém ấy, tình hình xã hội rối ren nghiêm trọng. Tháng 12-1960, Chuyên khu Vô Hồ tỉnh An Huy xảy ra 180 vụ cướp lương thực. Nhiều vụ khác xảy ra ở Cam Túc, Quảng Đông, Quí Châu, Tứ Xuyên. Nhiều vụ bạo động qui mô lớn, các hoạt động phiến loạn vũ trang nổ ra ở Vân Nam, Quí Châu, Quảng Đông, Quảng Tây, An Huy, Hồ Bắc, các chính đảng hoạt động bí mật mọc lên như nấm, mãi đến năm 1970 mới dẹp xong.
Số người chết đói trong Đại tiến vọt không bởi thiên tai, mà do “nhân hoạ”, “Mao hoạ”, quyết sách sai lầm. Cuối tháng 6-1959, dự trữ lương thực trong cả nước 17 triệu tấn, đủ đáp ứng nhu cầu thành thị trong một năm. Nhưng trong tình hình lương thực giảm 30 triệu tấn, Mao lại quyết định xuất khẩu 4,19 triệu tấn để đổi lấy vàng và USD, bầng 24% dự trữ lương thực.
Nếu Quốc hội Trung Quốc thật sự có quyền làm chủ, không chấp nhận chỉ tiêu tăng sản lượng gang thép lên gấp hai lần, không thông qua thể chế công xã hoá, hoặc có quyền lực kiên quyết ngăn chặn cuộc Đại tiến vọt hại nước hại dân, thì có thể tránh hoặc giảm nhẹ tai hoạ này. Đáng tiếc là Kỳ họp thứ 2 Quốc hội Khoá 2 họp tại Bắc Kinh từ 30-3 đến 8-4-1960, 2.000 đại biểu đều phụng mệnh “ba không”: không nói đến nhiệm vụ trưng mua lương thực quá nặng; không nói nông thôn thiếu lương thực; không nói nhiều người chết đói, mà chỉ được phép nói về “tình hình tốt đẹp” ở địa phương mình, giơ tay thông qua kế hoạch kinh tế Đại tiến vọt hơn nữa.
♦ ♦ ♦
Chương 19
Con gái ba đời bần nông giương biểu ngữ “Đả đảo Mao Trạch Đông” tại Trung Nam Hải
Từ 10 đến 18-6-1960, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng họp tại Thượng Hải, chủ yếu thảo luận tình hình quốc tế và kế hoạch bổ sung cho 3 năm cuối (1960-1962) của Kế hoạch 5 năm thứ hai. Chiều 18, Mao tự phê bình trước hội nghị. Đây là lần đầu tiên Mao nhận sai lầm sau thất bại của cuộc “Đại tiến vọt” nhưng rất hời hợt, cố làm nhẹ mức độ sai lầm, tổn thất, lại phê bình cấp dưới “không hiểu lập trường, quan điểm, phương pháp mác xít”. Ông nhấn mạnh “đường lối chung là đúng đắn, công tác thực tế cơ bản làm tốt”. Hội nghị kết thúc, ngày 3-7 Mao đến khu nghỉ mát Bắc Đới Hà, tiếp tục suy nghĩ làm thế nào vượt qua khó khăn mà vẫn giữ được thể diện.
Giữa lúc đó, một sự kiện kinh thiên động địa xảy ra ở Trung Nam Hải, khiến Mao mất hết thể diện.
Một buổi trưa, dưới chân tường cửa bắc Trung Nam Hải trên đường Văn Tân, nơi có nhiều tuyến xe công cộng qua lại, xuất hiện một nữ thanh niên mặc bộ đồ xanh công nhân, hai tay giơ cao hai tấm bìa cứng, một tấm viết: “Tiêu diệt công xã nhân dân!” Tấm kia viết: “Đả đảo Mao Trạch Đông! Bành Đức Hoài muôn năm!” Cô gái bị cảnh sát mặc thường phục túm cổ xách vào bên trong cửa bắc, khoá còng số 8. Tại đây, cô khai tên là Lưu Quế Dương, người Hồ Nam, công nhân nhà máy nhiệt điện Lý Ngư Giang, tổ tông ba đời bần cố nông, bản thân là đoàn viên Đoàn thanh niên cộng sản. Bố mẹ mất sớm, cô được chú thím nuôi khôn lớn, đến năm 1956 vào học việc tại nhà máy điện, 3 năm liền không về thăm nhà. Gần đây nghe tin thôn quê xảy ra nạn đói, cô về thăm chú thím và 4 em, cả nhà 6 người đều đã chết đói. Dân làng phải ăn rau dại, vỏ cây, đất thó. Cả thôn hơn 30 người chết đói, và nhiều người khác đang ngắc ngoải. Cô nói: “Trở về nhà máy, loa phát thanh suốt ngày ra rả ba ngọn cờ hồng, tình hình tốt đẹp. Tôi chẳng dám nói gì hết, hễ nói liền bị qui là phản cách mạng. Tôi biết rõ kẻ nào là hung thủ tổ chức Đại tiến vọt, công xã nhân dân, nhà ăn tập thể, làm nhiều người chết đói. Là hậu duệ ba đời bần cố nông, đoàn viên thanh niên, nữ công nhân điện, tôi không thông. Tôi lên Bắc Kinh hô khẩu hiệu, muốn đánh đổ công xã nhân dân, đánh đổ Mao Chủ tịch? Tôi muốn hô to: Bành Đức Hoài muôn năm, muôn muôn năm!” Phòng trực ban cửa bắc gửi gấp khẩu cung của Lưu Quế Dương lên Bắc Đới Hà, nơi đang diễn ra Hội nghị công tác Trung ương. Tổng Bí thư Đặng Tiểu Bình đọc xong chuyển ngay Lưu Thiếu Kỳ. Lưu tái mặt, cho đăng vào tin ngắn hàng ngày của hội nghị. Thư ký thường trực Bộ Chính trị Điền Gia Anh không chuyển bản tin này cho Mao đang lâm bệnh, vì sợ làm như vậy khác nào “tát vào mặt ông già”. Điền tin chắc rồi sẽ có người mang cho Mao xem kèm theo mật tấu Lưu cho in khẩu cung trên vào bản tin ngắn là có dụng ý xấu. Cả nửa đầu năm 1960, Mao vẫn kêu gọi tiếp tục Đại tiến vọt, phấn đấu cho 18 triệu tấn thép, 300 triệu tấn lương thực. Đến trước hội nghị này, Mao mới thừa nhận cả nước đã xảy ra nạn đói. Hành động của cô gái Hồ Nam kia khiến Mao hoàn toàn tỉnh ngộ.
Một chiếc lá rụng biết mùa thu đến, Mao hiểu uy tín của mình trong toàn đảng, toàn dân đã xuống tới đáy vực. Mao thường ngồi một mình im lặng. Sau khi suy nghĩ kỹ, Mao xin nghỉ ốm, nhiều lần uỷ thác Điền Gia Anh chuyển ý kiến tới Bộ Chính trị: trong thời gian ông ta dưỡng bệnh, Lưu Thiếu Kỳ giữ chức Quyền chủ tịch Đảng.
Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Bành Chân đã thuyết phục được Mao đồng ý khôi phục danh dự cho trên một triệu cán bộ trong cuộc vận động chống phái hữu đã bị quy là phần tử cơ hội hữu khuynh, trong đó có Phó thủ tướng kiêm trưởng ban công tác nông thôn Đặng Tử Khôi. Trong một cuộc hội ý Thường vụ Bộ Chính trị, Chu Đức đề nghị phục hồi danh dự cho Bành Đức Hoài, nhưng Mao không chịu: “Mời Bành Đức Hoài trở lại, việc ở Lư Sơn cho trôi qua, ba lá cờ hồng không cần nữa. Được thôi, tôi và Lâm Bưu sẽ dưỡng bệnh lâu dài ở miền Nam, trao Bắc Kinh cho các ông”. Lưu Thiếu Kỳ đành dàn hoà giữa hai người: “Việc Bành Đức Hoài để lại sau, hãy vượt qua đại nạn trước mắt đã”.
Hội nghị Bắc Đới Hà lần này họp hơn một tháng (5-7 đến 10-8), xác định phương châm 8 chữ “chỉnh đốn, củng cố, bổ sung, nâng cao”, đánh dấu chấm dứt “Đại tiến vọt”. Hôm bế mạc, với bộ mặt ốm yếu, đáng thương, tâm tư nặng nề, Mao kiểm điểm, thừa nhận mình không hiểu kinh tế, gây hoạ lớn, gây ra nạn đói lớn chết nhiều người như vậy, khó tránh khỏi trách nhiệm; các uỷ viên Bộ Chính trị, uỷ viên Trung ương, Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ và Thành uỷ cũng khó tránh khỏi trách nhiệm. Mao tuyên bố sau hội nghị này ông sẽ thật sự lui về tuyến 2, không nắm công tác kinh tế, công tác đảng, không chỉ huy sản xuất công nông nghiệp nữa, chỉ cùng Lâm Bưu nắm công tác quân sự và Phong trào cộng sản quốc tế, thời gian còn lại đọc sách, nghiên cứu lý luận. Mao một lần nữa đề nghị chính thức thông qua văn kiện nội bộ, để Lưu Thiếu Kỳ làm Quyền Chủ tịch Đảng trong thời gian ông ta dưỡng bệnh.
Từ đó Mao rút về tuyến 2 (nhưng không từ bỏ quyền lực), bắt đầu thời kỳ Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Trần Vân, Đặng Tiểu Bình chỉnh đốn, phục hồi kinh tế quốc dân. Sau hội nghị trên, trừ Mao Trạch Đông và Lâm Bưu dưỡng bệnh ở miền Nam, các uỷ viên Bộ Chính trị đều chia nhau xuống nông thôn điều tra nghiên cứu, giải quyết nạn đói và các vấn đề tại chỗ.
Ba năm “Đại tiến vọt” hậu quả cực kỳ nghiêm trọng, toàn bộ nền kinh tế quốc dân rối tung lên, các tỉ lệ mất cân đối.
Một là mất cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, tỉ lệ tích luỹ trong 3 năm 1958-1960 là 33,9%, 43,9% và 39,6%, vượt xa tỉ lệ tích luỹ bình quân hàng năm 24,2% trong Kế hoạch 5 năm thứ nhất.
Hai là mất cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp, công nghiệp gang thép phát triển dị hình, từ 1958 đến 1960, công nghiệp nặng tăng trưởng 330%, trong khi nông nghiệp giảm 22,8%.
Ba là mất cân đối trong nội bộ ngành công nghiệp, sản xuất gang thép chiếm nhiều năng lượng, nguyên vật liệu, giao thông vận tải, khiến các ngành khác không có cách nào sản xuất bình thường.
Bốn là mất cân đối trong thu chi tài chính và mất cân đối nghiêm trọng giữa sức mua xã hội và khả năng cung cấp hàng hoá.
Năm là mất cân đối giữa khả năng cung ứng lương thực hàng hoá và nhân khẩu thành thị tăng nhanh. Lương thực năm 1959 đánh giá đạt 270 triệu tấn, thực tế chỉ có 170 triệu tấn. Năm 1960 giảm xuống còn 143,5 triệu tấn. “Đại tiến” biến thành “đại thoái”.
Trước tình hình ấy, Chu Ân Lai đã thể hiện trách nhiệm chính trị lớn lao, và năng lực trị quốc an dân tuyệt vời.
Năm 1960 là một năm tình hình kinh tế đất nước tồi tệ nhất, nhiều người chết đói nhất, là năm khủng hoảng niềm tin đối với Mao Trạch Đông xuất hiện trong toàn đảng, toàn quân, toàn dân, là năm Mao Trạch Đông nên rút khỏi vũ đài chính trị. Trong bối cảnh ấy, tháng 9-1960, Lâm Bưu triệu tập Hội nghị Quân uỷ Trung ương mở rộng, ngày 20-10 ra nghị quyết ủng hộ Mao, với lời lẽ kinh thiên động địa:
“Đồng chí Mao Trạch Đông là người Mác xít - Leninnít vĩ đại thời nay. Tư tưởng Mao Trạch Đông là chủ nghĩa Mác-Lenin được phát triển sáng tạo trong thời đại chủ nghĩa đế quốc đi tới sụp đổ, chủ nghĩa xã hội tiến tới thắng lợi, trong thực tiễn cụ thể của cách mạng Trung Quốc, trong sự phấn đấu tập thể của Đảng và nhân dân. Tư tưởng Mao Trạch Đông là kim chỉ nam của nhân dân Trung Quốc trong công cuộc cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã bội, là vũ khí tư tưởng hùng mạnh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa giáo điều… Nhiệm vụ căn bản nhất trong công tác chính trị tư tưởng của quân đội là giương cao ngọn cờ hồng Tư tưởng Mao Trạch Đông, lấy đó vũ trang hơn nữa đầu óc cán bộ, chiến sĩ toàn quân, kiên trì dùng tư tưởng Mao Trạch Đông thống soái mọi công tác”.
Từ Đại hội 7 năm 1945 trở đi, tuyên truyền Tư tưởng Mao Trạch Đông là bản quyền của Lưu Thiếu Kỳ, nhân vật số 2 trong đảng. Tại Đại hội 8 (1956), Báo cáo chính trị và Điều lệ đảng đã xoá bỏ cách nêu Tư tưởng Mao Trạch Đông, những năm gần đây vẫn nói “Học tập tác phẩm của Mao Chủ tịch”. Lâm Bưu đột ngột lấy danh nghĩa Hội nghị Quân uỷ Trung ương mở rộng đưa ra văn kiện vượt trên Đại hội 8, vượt trên điều lệ đảng này không khác nào cướp ngọn cờ lớn sùng bái cá nhân trung tay Lưu Thiếu Kỳ, phá vỡ trật tự cuộc sống của tầng lớp cấp cao trong ĐCSTQ. Toàn quân, toàn đảng đều phải tuyên truyền Mao Trạch Đông và Tư tưởng Mao Trạch Đông theo giọng điệu của Quân uỷ Trung ương, trên thực tế hình thành một bộ tư lệnh khác đối lập với Lưu Thiếu Kỳ (chủ trì Bộ Chính trị) và Đặng Tiểu Bình (chủ trì Ban Bí thư), mà Mao Trạch Đông lại đứng về phía Lâm Bưu. Việc làm của Lâm đã thách thức Điều lệ đảng, thách thức Lưu, Đặng, thách thức Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Trước sự uy hiếp của Lâm Bưu và mấy triệu quân, chẳng ai dám vạch ra sai lầm của ba ngọn cờ hồng, chẳng ai dám truy cứu trách nhiệm về hàng chục triệu người chết đói, mà chỉ lặng lẽ uốn nắn sai lầm của “cấp dưới”.
Tháng 9-1961, nguyên soái Anh Montgomery thăm Trung Quốc. Ngày 23, gặp nhau tại Vũ Hán, khi vị khách hỏi về người thừa kế. Mao trả lời: “Rất rõ ràng, đó là Lưu Thiếu Kỳ. Nay Lưu là Phó Chủ tịch thứ nhất ĐCSTQ. Sau khi tôi chết, ông ta sẽ lên thay”. Về Anh, Montgomery thuật lại lời Mao, khiến thế giơi xôn xao, và ở Trung Quốc còn xôn xao hơn.
Thông tin trên ít nhất thể hiện 3 ý tứ sâu xa:
1. Đại tiến vọt và công xã nhân dân gây hậu quả rất nghiêm trọng, Mao từ lâu đã rút về tuyến 2, Lưu phải chịu trách nhiệm về giai đoạn lịch sử này.
2. Mao khuyến khích Lưu Thiếu Kỳ toàn lực chỉnh đốn kinh tế quốc dân đang bên bờ vực thẳm tan vỡ, khôi phục sản xuất công nông nghiệp.
3. Mao chơi con bài Lưu, khống chế Lâm, lại chơi con bài Lâm, khống chế Lưu, để cho hai người tranh nhau trung thành với lãnh tụ vĩ đại, lại chỉ trích nhau không trung thành với lãnh tụ như vậy, vị trì của Mao càng vững chắc, an toàn.
Mao không thật sự có ý định để Lưu Thiếu Kỳ kế tục mình.
♦ ♦ ♦
Chương 20
Cuộc đọ sức tại đại hội 7.000 người
Sau khi xảy ra sự kiện hàng loạt người chết đói, lãnh đạo các tỉnh lấy ổn định lòng dân làm chính, không nghe theo sự chỉ huy mù quáng của Trung ương. Một vấn đề nổi bật là không huy động được lương thực, đến trung tuần tháng 11-1961, các địa phương mới hoàn thành 20% chỉ tiêu. Cung ứng lương thực ở ba thành phố lớn Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân cấp báo toàn diện. Lãnh đạo Trung ương lòng như lửa đốt, quyết định triệu tập Hội nghị công tác trung ương mở rộng, với sự tham gia của những người phụ trách chủ yếu các tỉnh uỷ, thành uỷ, khu uỷ, huyện uỷ, các nhà máy, hầm mỏ quan trọng, và một số cán bộ lãnh đạo quân đội. Do có hơn 7.000 người dự, nên gọi là Đại hội 7.000 người. Chủ đề của Hội nghị là “chống chủ nghĩa phân tán”.
Đại hội khởi đầu ngày 11-1-1962, không có lễ khai mạc trọng thể, theo ý kiến của Mao, ngày đầu các đại biểu tự đọc tài liệu từ ngày 12 đến 14-1 thảo luận ở tổ. Các tổ phản ứng dữ, tập trung vào một điểm là không tán thành dự thảo báo cáo nêu vấn đề “chống chủ nghĩa phân tán”, đổ mọi trách nhiệm về sai lầm thất bại trong mấy năm qua lên đầu cán bộ cấp tỉnh trở xuống. Mao thấy không ổn: liền thay đổi sách lược, cho tổ chức lại Uỷ ban khởi thảo báo cáo gồm 21 người, trong đó có Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai. Trần Vân, Đặng Tiểu Bình, Bành Chân…
Ngày 18-1, Bành Chân nói:
- Uy tín của Mao Chủ tịch nếu không cao như ngọn Chumulungma thì cũng cao tựa Thái Sơn, bớt đi vài tấn đất vẫn cao như thế. Cũng chẳng phải Mao Chủ tịch không có khuyết điểm gì, nếu một phần trăm, một phần nghìn sai lầm của Mao cũng không kiểm điểm, thì sẽ để lại ảnh hường xấu trong Đảng ta.
Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình đều nhận trách nhiệm về mình, làm nhẹ sai lầm, tội lỗi của Mao. Thành quả quan trọng nhất của Uỷ ban khởi thảo dự thảo báo cáo sau 4 ngày làm việc là đoạn sau đây:
“Nếu nhiều đồng chí chúng ta lĩnh hội tốt hơn Tư tưởng Mao Trạch Đông, biết vận dụng phương pháp thực sự cầu thỉ, điều tra nghiên cứu mà đồng chí Mao Trạch Đông vẫn đề xướng, nghiêm túc chấp hành những ý kiến chỉ đạo đồng chí đưa ra trong mỗi giờ phút then chốt, thì có thể tránh được, hoặc giảm nhẹ đi rất nhiều những sai lầm trong công tác mấy năm qua, hoặc có thể uốn nắn nhanh hơn sau khi những sai lầm đó nảy sinh”.
Phát biểu trong phiên họp toàn thể đầu tiên 27-1, Lưu Thiếu Kỳ nói thật: Tình hình rất khó khăn, lương thực, quần áo và đồ dùng đều thiếu, ba năm 1959-1961 sản lượng lương thực giảm khá nhiều, sản xuất công nghiệp năm 1961 giảm 40%. Nguyên nhân là “ba phần thiên tai, bảy phần nhân hoạ”.
(Nói “ba phần thiên tai” cũng oan cho ông Trời, bởi ba năm đó ở Trung Quốc nhìn chung, mưa hoà, gió thuận). Buộc Mao chịu trách nhiệm tới 70% là điều Mao không chịu nổi. Phát biểu trên của Lưu khiến Mao thù ghét, ghi thêm món nợ với ông, nhưng lại được đông đảo những người dự hội nghị nhiệt liệt hoan nghênh. Họ thấy Trung ương đã nói thật, không đeo mặt nạ dạy người nữa. Hàng ngày, Lưu đến thảo luận ở các tổ, phát biểu một số ý kiến quan trọng, như đã đến lúc phải phục hồi danh dự cho Bành Đức Hoài. Ông còn dặn Bí thư tỉnh uỷ Hồ Nam cần trả lại tự do cho Lưu Quế Dương (cô gái bị kết án 5 năm tù vì tội mang biểu ngữ “đả đảo Mao Trạch Đông” đến Trung Nam Hải). Chỉ có Lâm Bưu hiểu được nỗi cô độc, bị động và lo ngại của Mao ở hội nghị này, hiểu được giới hạn lớn nhất Mao có thể nhượng bộ, và phòng tuyến cuối cùng Mao phải giữ vững.
Vào lúc Mao cần được ủng hộ nhất, Lâm Bưu bước lên diễn đàn, mang đến cho Mao vòng hào quang mới. Lâm Bưu tiếp tục khẳng định đường lối chung, Đại tiến vọt và công xã nhân dân là đúng đắn. sáng tạo, những khó khăn vấp phải là do không làm theo chỉ thị của Mao. Lâm Bưu nhấn mạnh lịch sử mấy chục năm qua là khi nào tư tưởng của Mao không được tôn trọng, là khi ấy sinh chuyện; do đó, trong thời kỳ khó khăn càng phải đoàn kết đi theo Mao, chỉ có như vậy, Đảng mới có thể đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác… Lâm Bưu đã ủng hộ mạnh mê vị trí thống trị đang lung lay dữ của Mao. Lâm nói xong, Mao đứng dậy vỗ tay, Lưu Thiếu Kỳ và các uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị chần chừ một lát rồi đứng lên theo, họ không có dũng khí để cho quan hệ với Mao đổ vỡ. Tuy vỗ tay hoan hô, nhưng đại đa số những người dự hội nghị rất phản cảm trước phát biểu của Lâm Bưu. Ngay hôm đó trên hội trường xuất hiện biểu ngữ “Đả đảo Mao Trạch Đông”. Mao không cho điều tra vụ việc, và nghiêm cấm để lọt thông tin này ra ngoài.
Được phát biểu của Lâm Bưu dọn đường, ngày 30-1, Mao đã có bài nói dài, nhấn mạnh tập trung thống nhất, khôi phục và tăng cường chế độ tập trung dân chủ, chống chủ nghĩa phân tán. Mao nói: Đại tiến vọt do toàn Đảng ra tay làm, nảy sinh một số vấn đề phải do toàn Đảng chịu trách nhiệm, chứ không đùn đẩy cho người khác. Có thể phục hồi đảng tịch và công tác cho những người bị quy sai là cơ hội hữu khuynh, song đối với những ké trùm cơ hội hữu khuynh, chẳng những không phục hồi, mà còn phải lập tổ chuyên án tiếp tục thẩm tra vấn đề “câu lạc bộ quân sự” và tư thông với nước ngoài.
Sau đó, bài nói trên của Mao qua 7 lần sửa chữa, lược bỏ những câu thoái thác trách nhiệm quá rõ, rồi mới phát cho cán bộ từ cấp huyện và trung đoàn trở lên.
Trong phát biểu, Đặng Tiểu Bình đã khéo léo lẩn tránh việc đánh giá ba ngọn cờ hồng và trách nhiệm về mấy chục triệu người chết đói. Tự đáy lòng, ông mong trong tình hình giữ được thề diện, Mao chủ động rút khỏi vũ đài lịch sử, để Lưu Thiếu Kỳ lãnh đạo toàn đảng toàn dân vượt qua thời kỳ không bình thường này. Lên tiếng tại buổi họp cuối cùng, Chu Ân Lai bám sát định hướng do Mao vạch ra, và nhận hết trách nhiệm về mình.
Qua Đại hội 7.000 người, Mao thấy đại đa số cốt cán không còn ủng hộ ông ta nữa. Sau Đại hội, vấn đề trung tâm Mao ngày đêm suy nghĩ là dùng hình thức và phương pháp nào để đánh bại các lực lượng chống đối mình. Còn điều Lưu, Chu, Trần, Đặng trăn trở là làm thế nào khôi phục sản xuất, vượt qua khó khăn, để nhân dân ăn no, đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Mao tính toán: hãy để các người khôi phục sản xuất, đợi khi khó khăn trước mắt qua đi, không để các người kịp thanh toán ba ngọn cờ hồng, ta sẽ ra tay trước, phát minh lý luận mới, tổ chức lực lượng mới, phê phán các người hữu khuynh, đi con đường tư bản chủ nghĩa, khiến các người rơi vào thế bị động, trở tay không kịp.
Cuộc đấu tranh mới đã bắt đầu dưới cái vỏ bề ngoài “nhất trí”. Theo nhật ký của Đặng Dĩnh Siêu, tại Đại hội trên, nhiều người yêu cầu Mao rút lui. Ngày 10-2, Mao họp Thường vụ Bộ Chính trị để làm rõ điều này. Chu Đức, Trần Vân, Đặng Tiểu Bình hoan nghênh Mao thôi chức Chủ tịch Đảng. Chu Ân Lai kiên trì: “Chủ tịch tạm lui về tuyển 2, Chủ tịch vẫn là Chủ tịch”. Với vị trí và ảnh hường của Chu Ân Lai trong đảng, lá phiếu của ông mang tính quyết định, Lưu Thiếu Kỳ không nói nổi một câu ép Mao rút lui.
Trong những năm tháng nhân dân cả nước đói kém, để tỏ ra cùng nhân dân chung hoạn nạn, Mao tuyên bố không ăn thịt lợn, thịt gà từ 1-1-1961. Việc này kéo dài được 7 tháng.
Nhưng trên thực tế, trong những ngày nhân dân cả nước đói rét, Mao sống rất sa đoạ. Nguyên soái Bành Đức Hoài trong ngăn Mao tuyển phi tần, đã bị giam lỏng, chẳng ai còn dám bàn tán về đời tư của Mao. Phòng Bắc Kinh trong Nhà Quốc hội được đổi thành “Phòng họp 11-8”, bên trong trang hoàng còn lộng lẫy hơn cả điện Kremlin, thật ra đây là hành cung để Mao chuyên bí mật vui thú với các nữ nhân viên phục vụ. Thư Ngẫu Trai trong Trung Nam Hải được sửa sang lại, trở thành sàn nhảy riêng, mỗi tuần tổ chức hai lần vũ hội, các nhân viên nữ trong Trung Nam Hải và nữ diễn viên Đoàn văn công quân đội được tuyển lựa làm bạn nhảy của Mao, họ đồng thời là đối tượng để Mao chọn gái qua đêm. Mao làm như vậy để tiêu khiển, cũng để Lưu Thiếu Kỳ tưởng rằng Mao đã chìm đắm trong nữ sắc, không quan tâm công việc triều chính nữa.
Do Mao gợi ý, nhiều nơi đua nhau xây dựng hành cung cho ông ta. Khu biệt thự tựa lưng vào phần mộ họ Mao ở Thiều Sơn (Hồ Nam) diện tích xây dựng 3.638 m2, có hầm ngầm dài hàng trăm mét có thể chống động đất, chống bom nguyên tử, phòng độc, một đại đội thường xuyên bảo vệ. Khu nhà được xây dựng từ nửa cuối năm 196l đến cuối năm 1962, vào lúc tỉnh Hồ Nam có 2,48 triệu người chết đói, phí tổn xây dựng 120 triệu NDT, đủ để nuối sống 2,48 triệu người trong một năm. Khách sạn Tây Giao xây riêng cho Mao ở Thượng Hải cả khuôn viên xung quanh rộng hơn 60 héc ta, trên 100 nhân viên túc trực ngày đêm. Cả hai “hành cung” trên, trong suốt mười mấy năm, Mao chỉ đến ở mỗi nơi có vài ngày. Việc phung phí tiền bạc như trên khiến sự tích Mao mấy tháng không ăn thịt, mặc chiếc áo ngủ vá víu… trở nên mờ nhạt.
Suốt đời Mao chú trọng quyền lực, coi thường của cải. Việc Mao ra lệnh hoặc ngầm cho phép các nơi trong những năm tháng khó khăn nhất vung tiền như rác xây dựng các công trình xa hoa phục vụ ông ta mang ý nghĩa chính trị nhiều hơn ý nghĩa hưởng thụ, chiếm hữu. Mao biết rõ chẳng dùng được mấy ngày, cung không thể để lại cho con cháu. Mao muốn dùng phương thức đó để củng cố vị trí của mình, cho toàn đảng biết rằng tuy lui về tuyến 2, nhưng ông ta vẫn nắm chắc quyền lực, vẫn là vị thần số một, toàn đảng tôn thờ.
♦ ♦ ♦
Đại hội 7.000 người không giải quyết được vấn đề “tả” khuynh từ gốc rễ, chính sách điều chỉnh không được quán triệt, nhiều người mang tâm lý cầu may, chỉ cần năm nay nông nghiệp được mùa, là sang năm mọi việc đều tốt đẹp.
Dựa vào kinh nghiệm chính trị, cán bộ cấp cao cảm thấy Mao Trạch Đông sẽ tiếp tục chống hữu, nên án binh bất động.
Đầu tháng 5-1962, Lưu Thiếu Kỳ triệu tập Hội nghị công tác trung ương thảo luận báo cáo kế hoạch điều chỉnh năm 1962 do Chu Ân Lai, Trần Vân, Lý Tiên Niệm chủ trì khởi thảo, chủ yếu là giảm số người làm công ăn lương và số dân thành thị, khôi phục danh dự cho những người bị qui là phái hữu, và phát triển nông nghiệp. Mao Trạch Đông an dưỡng ở Vũ Xương. Lâm Bưu nghỉ ngơi ở Tô Châu Trần Vân ốm không dự họp.
Vào lúc này, trên dưới đều thấy khoán sản tới hộ có thể cứu đói thoát nghèo, nhưng việc này trái với Tư tưởng Mao Trạch Đông, nên không dám làm. Nhưng một số nơi vẫn làm chui, như 30% tổng số đội sản xuất ở An Huy, có vùng đến 70%. Ở Hà Nam, đất phần trăm và đất cho nông dân mượn chiếm 16% đất canh tác, có nơi tới 28%. Nông dân gọi đó là “chính sách cứu mạng”. Đa số uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị đều ủng hộ ý kiến của nông dân mong muốn khoán sản tới hộ, nhưng Mao bác bỏ. Nếu việc Mao bắt đầu thực hiện Công xã hoá là xuất phát từ hảo tâm, hậu quả mấy chục triệu người chết đói là điều ông ta không ngờ tới, thì việc vẫn không chịu thay đổi chính sách lúc này lại do ác ý.
Ngày 6-8-1962, Mao triệu tập Hội nghị công tác trung ương tại Bắc Đới Hà. Đây là cuộc phản công của Mao kể từ khi kiểm điểm sai lầm và thực hiện chính sách điều chỉnh. Ngay buổi họp đầu, Mao đã nói về đấu tranh giai cấp, phê phán “làm ăn riêng lẻ”. Thế là những người chủ trương khoán sản đến hộ từ Trần Vân, Đặng Tử Khôi trở xuống đều kiểm thảo.
Tiếp đó, Hội nghị Trung ương 10 khoá 8 họp tại Bắc Kinh. Trong cuộc họp trù bị kéo dài 29 ngày, Mao phê phán “làn sóng làm ăn riêng lẻ” của Đặng Tử Khôi, làn sóng “lật án” của Bành Đức Hoài, cuối cùng lại phê phán tiểu thuyết “Lưu Chí Đan” lật án cho Cao Cương, nêu lên “tập đoàn chống đảng” Tập Trọng Huân, Giả Thác Phu, Lưu Cảnh Phạm để chặt phăng “nhóm Tây Bắc” của Bành Đức Hoài. Ngày 24-9, hội nghị chính thức bắt đầu. Mao không bảo vệ “đường lối chung” nữa, mà đưa ra “đường lối cơ bản”: “Xã hội XHCN là một giai đoạn lịch sử khá dài. Trong giai đoạn này còn có giai cấp mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp, tồn tại cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, có nguy cơ phục hồi chủ nghĩa tư bản… Từ nay, chúng ta phải nhắc đến hàng năm, hàng tháng, hàng ngày, để có nhận thức tương đối tỉnh táo về vấn đề này, có một đường lối Mác xít-Leninnít”. Mao lặng lẽ dùng “đường lối cơ bản” ấy thay thế “đường lối chung”. Nắm kinh tế thất bại, Mao muốn thắng lại về chính trị. Mao không biện hộ cho “ba ngọn cờ hồng” nữa, không biện hộ cho quan hệ giữa “một ngón tay và chín ngón tay” nữa, vì như thế rất bị động. Mao rút khỏi lĩnh vực kinh tế mà ông không am hiểu, chuyển sang lĩnh vực chính trị quen thuộc, rút lui về kinh tế để chuyển sang tấn công về chính trị. Địch thủ Mao tấn công chẳng phải ai xa lạ, chính là Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Trần Vân… những người đã lãnh đạo đất nước vượt qua thời kỳ khó khăn, giữ cho chính quyền không sụp đổ, khiến Mao Trạch Đông vẫn ngồi được trên ngôi báu chí tôn.
Công cuộc điều chỉnh kinh tế quốc dân bắt đầu từ nửa cuối năm 1960 đã thu được thành quả nổi bật, kinh tế quốc dân năm 1963 có xu thế hồi phục toàn diện. Kinh tế vừa chuyển biến tốt, Mao lại bắt đầu vật vã, chuyển sang tấn công về chính trị, đột phá khẩu vẫn là nông thôn. Tại Hội nghị công tác trung ương tháng 2-1963, Mao quyết định triển khai phong trào “tứ thanh” (trong sạch về chính trị, kinh tế, tổ chức, và tư tưởng) trong nông thôn cả nước.
Ngày 15-11-1960, Mao từng viết: “Cả nước 2/3 khu vực tình hình rất tốt đẹp, 1/3 rất không tốt đẹp. Phải có thời gian chú ý đến 1/3 này, nơi đó kẻ xấu cầm quyền, giết người, nhân dân đói rách, cuộc cách mạng dân chủ chưa thành công, các thế lực phong kiến tác oai tác quái, càng thêm thù địch chủ nghĩa xã hội phá hoại quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa”.
Ngày 8-6-1964, Mao nói rõ hơn: “1/3 quyền lực ở nước ta không nằm trong tay nhân dân, mà trong tay kẻ thù”. Mao đổ trách nhiệm về tình hình nghiêm trọng do “ba ngọn cờ hồng” gây ra lên đầu đông đảo cán bộ nông thôn và những phần tử địa chủ, phú nông đang bị quản chế.
Căn cứ vào đánh giá trên, tỉnh Hồ Nam xác định có 30 huyện nằm trong tay Quốc Dân Đảng, chiếm trên 1/3 số huyện trong toàn tỉnh. Trong phong trào Đại tiến vọt và Công xã hoá, 30 huyện trên đều là những huyện chấp hành chỉ thị của Mao kiên quyết nhất, liều lĩnh khoác lác nhất, tỉ lệ ăn tập thể cao nhất, nộp lương thực nhiều nhất, do đó số người chết đói cũng nhiều nhất, tình hình các tỉnh khác cũng tương tự.
Để chứng tỏ mình luôn luôn đúng đắn, Mao Trạch Đông cần hy sinh hàng loạt phần tử tích cực đã theo Mao; qui họ là kẻ thù giai cấp, coi tội ác tày trời làm chết đói 37,55 triệu người do đường lối cực tả của ông ta gây ra là “tiếp tục cuộc đấu tranh sống còn giữa hai giai cấp lớn đối kháng trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa 10 năm qua”, coi phong trào “Tứ thanh” là cuộc đấu tranh lâu dài của bần nông và trung nông lớp dưới tiếp tục chống kẻ thù giai cấp, Mao biến mình từ tội phạm đầu sỏ của tai hoạ trên thành đại cứu tinh đưa nhân dân thoát khỏi nước sôi lửa bỏng.
Lưu Thiếu Kỳ lãnh đạo phong trào “Tứ thanh”, muốn theo luồng tư duy của Mao Trạch Đông, đổ trách nhiệm về tai hoạ lớn này lên đầu kẻ thù giai cấp. Mao kêu gọi cán bộ các cấp xuống cơ sở tham gia “Tứ thanh”, nhưng không chuyển. Để thực hiện chỉ thị của Mao, Lưu Thiếu Kỳ gọi Trưởng ban Tổ chức Trung ương An Tử Văn đến sắp xếp cụ thể, đồng thời tuyên bố: những ai không tham gia “Tứ thanh”, thì không được làm uỷ viên Trung ương, Bí thư Tỉnh uỷ, Thành uỷ, Khu uỷ nữa, thế là 180 cán bộ cấp bộ và cấp tỉnh, trên 1.000 cán bộ cấp khu sôi nổi tham gia. Điều đó khiến Mao giật mình: quyền lớn rơi vào tay kẻ khác rồi!
Tuy chính sách “ba tự một bao” khiến trăm họ có cơm ăn, đất nước thoát khỏi khủng hoảng. khiến ngai vàng của Mao không sụp đổ nhưng Mao không công nhận, vì như vậy là thừa nhận mình sai lầm, Mao cần trước tiên lợi dụng “phái đi con đường tư bản” này để ổn định nông thôn, làm ra lương thực, giữ vững giang sơn, sau đó sẽ đánh đổ họ. Mao cho rằng người uốn nắn sai lầm của Mao tất sẽ là phái phản đối trong tương lai. Mao không thể quên tình cảnh đáng sợ tại Đại hội 7.000 người khi toàn đảng nghi ngờ đường lối và truy cứu trách nhiệm của ông ta. Mao nói “ba tự một bao” là tội ác rất lớn, coi những cán bộ thực hiện chinh sách này là “phái đương quyền trong đảng đi con đường tư bản chủ nghĩa”.
Sự việc Lưu Thiếu Kỳ lo ngại nhất đã xảy ra. Trong cuộc họp ngày 28-12, Mao nói trong đảng hiện ít nhất có hai phái, phái xã hội chủ nghĩa và phái tư bản chủ nghĩa. Rồi nói vỗ mặt Lưu: “Ông thì có gì ghê gớm, tôi chỉ cần động ngón tay út là có thể đánh đổ ông ngay”. Đó là khởi điểm đoạn tuyệt giữa hai người.
Mao cho rằng tuyệt đại đa số cán bộ trong hệ thống đảng và chính quyền theo Lưu Thiếu Kỳ rồi, giờ phải gửi gắm hy vọng vào quân đội. Tháng 10-1963, Mao viết thư cho Lâm Bưu, yêu cầu cử La Thụy Khanh, Dương Thành Vũ… dẫn đầu cán bộ quân đội tham gia phong trào “Tứ thanh” kèm theo bài thơ của Tào Tháo “Quy tuy thọ”, ngầm cho biết Mao sẽ thay đổi người kế tục, nhắc Lâm giữ gìn sức khỏe, chuẩn bị gánh vác trọng trách.
Ngày 26-12-1964, Lâm Bưu, Trần Bá Đạt, Khang Sinh trở thành thượng khách nhân kỷ niệm ngày sinh thứ 71 của Mao.
Nhật ký Lâm Bưu viết: “Mao uống một bình Bạch sa dạ, thứ rượu ngon nhất Hồ Nam, hỏi đi hỏi lại: “Trung ương có người muốn cướp quyền, muốn thực hiện chủ nghĩa xét lại, làm thế nào đây? Chắc quân đội không theo họ chứ. Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương, Chính phủ đều muốn loại bỏ họ Mao này. Ta vẫn là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Quân uỷ, ép ta tạo phản, ta sẽ làm cho trời nghiêng, đất lệch”
Cuối năm 1964 do các nguyên soái Hạ Long, Diệp Kiếm Anh và đại tướng La Thụy Khanh đề xướng và tổ chức, quân đội Trung Quốc dấy lên cao trào đua tài kỹ thuật quân sự trong các quân binh chủng, Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo khác rất hoan nghênh, và từng trực tiếp đến xem các cuộc thi đấu này. Nhưng ngày 29-12 năm ấy, Lâm Bưu đột nhiên ra chỉ thị phủ định hoạt động trên, phê bình huấn luyện quân sự làm quá nổi bật, chiếm quá nhiều thời gian, ảnh hưởng đến công tác chính trị trong quân đội. Lâm Bưu yêu cầu năm 1965 phải ra sức tăng cường công tác chính trị tư tưởng, dấy lên cao trào học tập tác phẩm của Mao.
Vậy là Lâm Bưu chỉ một phiếu đã phủ định Quân uỷ Trung ương, phủ định cả Mao Trạch Đông. Chỗ tế nhị nhất là Mao đã ngầm tán thành sự phủ định này. Không được Mao bật đèn xanh, Lâm Bưu đâu dám làm như vậy. Sở dĩ Mao cho phép Lâm Bưu đụng đến quyền uy của mình, một là bởi Lâm Bưu chủ trương thay thế hoạt động huấn luyện và đua tài quân sự bằng dấy lên cao trào học tập tác phẩm Mao rộng lớn hơn trong toàn quân, phần quyền uy Mao mất mát sẽ được bù lại hàng chục, hàng trăm lần. Hai là Mao đang đánh bài ngửa với Lưu Thiếu Kỳ, người đang chiếm được đa số trong Bộ Chính trị và Ban chấp hành trung ương, Mao cố ý tăng cường quyền uy của Lâm Bưu tới mức có thể áp đảo đa số ấy. Quả nhiên Mao không thất vọng, một phong trào quần chúng học tập và vận dụng tác phẩm của Mao mang màu sắc cuồng nhiệt tôn giáo đã được dấy lên trong 3 triệu quân đội rồi phổ cập trong cả nước. Đây là sự chuẩn bị về dư luận, tư tưởng và chính trị quan trọng nhất cho đại cách mạng vãn hoá. Từ 1965 đến khi kết thúc Đại cách mạng văn hoá, Trung Quốc đã phát hành tổng cộng 5 tỷ cuốn “Trích lời Mao Chủ tịch”.
Việc Mao tuyên bố “đánh đổ” Lưu Thiếu Kỳ (tại Hội nghị công tác Trung ương 28-12-1964) khiến toàn Đảng chấn động. Để hàn gắn vết rạn lớn này, chiều 13-l-1965, Lưu chủ động tự kiểm điểm trước cuộc họp nội bộ có 17 uỷ viên Bộ Chính trị tham gia, mọi người phê bình, giúp đỡ, Trần Bá Đạt ghi chép về báo cáo Mao. Trong hơn một năm sau đó, bề ngoài Lưu Thiếu Kỳ vẫn chủ trì công tác tuyến một, tiến hành các hoạt động nhà nước bình thường trên cương vị Chủ tịch nước, nhưng Mao không làm việc với Lưu và Ban Bí thư nữa, mà ngầm chỉ huy Lâm Bưu, Giang Thanh cùng một số ít người khác chuẩn bị cuộc đấu tranh mới, thực tế là thành lập một Trung ương mới, một Bộ tư lệnh riêng.
♦ ♦ ♦
Chương 22
Bộ tư lệnh thứ hai trong đảng
Thất bại trong ba năm Đại tiến vọt trở thành cơn ác mộng của Mao Trạch Đông. Làm 37,55 triệu người chết đói, tổn thất 120 tỉ NDT là một chính sách bạo ngược mà không một hôn quân, bạo chúa nào trong lịch sử có thể theo kịp. Bất kể trước đây sáng suốt, vĩ đại đến đâu, có cống hiến lớn lao đến chừng nào, cũng không thể bù đắp được sai lầm khủng khiếp này. Mao không thể quên được quang cảnh Đại hội 7.000 người, một hình ảnh thu nhỏ của toàn đảng, sự tin cậy, yêu mến và ủng hộ đối với Mao lung lay rõ rệt. Chỉ cần Lưu Thiếu Kỳ giơ tay hô to “Ba ngọn cờ hồng là sai lầm đường lối!”, thì toàn đảng, toàn dân sẽ cùng hỏi tội Mao. Không thể tiêu cực ngồi chờ Lưu Thiếu Kỳ triệu tập Đại hội 9 thanh toán sai lầm của “ba ngọn cờ hồng”, Mao phải tích cực, chủ động tấn công, lợi dụng ưu thế nắm quyền phát ngôn, đổi trắng thay đen, thanh toán “sai lầm ba tự một bao”.
Tháng 2-1964, Kim Nhật Thành thăm Trung Quốc. Hội đàm với Kim, Mao đã phủ định sạch trơn các chính sách điều chỉnh trong thời kỳ khó khăn, phê phán Lưu Thiếu Kỳ muốn đánh sập chủ nghĩa xã hội, với cương lĩnh đối nội “ba tự một bao”, cương lĩnh đối ngoại “ba hoà một ít” (hoà hoãn với đế quốc xét lại và chủ nghĩa dân tộc phản động, ít ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc). Nội dung trên được truyền đạt trong cán bộ cấp cao, Lưu Thiếu Kỳ liền trở nên mờ nhạt.
Phản đối “ba tự một bao” và “ba hoà một ít” là căn cứ lý luận và cương lĩnh chính trị để Mao đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ. Không một ai trong ĐCSTQ dárn đứng ra bênh vực Lưu, mặc dù họ đều biết các chính sách do Lưu thực hiện đã cứu vãn cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị ở Trung Quốc, giữ vững chính quyền cộng sản.
Mao cần trợ thủ để tác chiến với hệ thống đảng và chính quyền do Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình đại diện. Lâm Bưu và quân đội chỉ có vai trò phối hợp về chiến lược. Tiến hành một cuộc đấu tranh lớn như vậy cần một đấu sĩ xông pha trận mạc trong chiến dịch và chiến đấu. Chân lý đã tuột khỏi tay Mao, chỉ dựa vào quyền thế ép người nên rất khó tìm được bạn tri kỷ tâm đầu ý hợp. Trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư có nhiều chính khách tài trí hơn người như vậy mà chẳng dùng được ai, phần lớn họ theo Lưu, Đặng, đứng về phía đối lập với Mao cả rồi. Thế là Mao quyết tâm bồi dưỡng Giang Thanh, hình thành một phái do Giang Thanh làm trung tâm xuất hiện trên vũ đài chính trị Trung Quốc, bản thân Mao đứng sau Giang, tăng cường mạnh mẽ sức mạnh hô phong hoán vũ của phái này.
Cơn lốc Đại cách mạng văn hoá bùng lên năm 1966 khiến nhân dân toàn Trung Quốc chóng mặt, cũng làm cho các nhà quan sát trên toàn thế giới sững sờ, không biết Mao định làm gì. Các nhà trí thức lương thiện thường hiểu Mao theo ý nghĩa chính diện, cho rằng Mao muốn phát động quần chúng cải tạo đảng, giám sát đảng, khiến đảng cách mạng hoá và dân chủ hoá. Bốn mươi năm sau khi màn kịch lịch sử đó qua đi, những gì để lại vẫn khiến người ta hoa mắt. Có người nói Mao muốn phòng ngừa và chống xét lại, nhưng chọn nhầm đối tượng đả kích; có người nói Mao vẫn theo đuổi một xã hội mới công bằng hợp lý, nhưng phương pháp có vấn đề; có người nói Mao đầy động cơ cao thượng, nhưng hai tập đoàn chống đảng Lâm Bưu, Giang Thanh làm cho mọi việc rối tung lên. Thật ra, sự việc rất giản đơn. Muốn che đậy sai lầm trong 3 năm “Đại tiến vọt” (chủ yếu là làm 37,55 triệu người chết đói), Mao lại mắc sai lầm 10 năm Đại cách mạng văn hoá. Muốn không bị thanh toán sau khi chết, không thể dựa vào Lưu Thiếu Kỳ. Còn Lâm Bưu chỉ là chiếc gậy để đánh đổ Lưu thôi. Mao chơi con bài “người kế tục” cuối cùng muốn truyền ngôi cho Giang Thanh, rồi Mao Viễn Tân. Chỉ có thể dựa vào vợ và cháu. Đại cách mạng văn hoá là dùng cái “lý luận tiếp tục cách mạng dưới nền chuyên chính vô sản” cấp tiến nhất để che đậy thực chất quá độ từ đảng trị sang gia đình trị. Điều này đã được chứng minh bởi các sử liệu đáng tin cậy do Diêu Văn Nguyên và Trương Ngọc Phượng tiết lộ.
Năm 1938 khi Giang Thanh kết hôn với Mao Trạch Đông, Bộ Chính trị đã có quyết định cấm Giang Thanh trong 20 năm không được giữ chức vụ nào trong đảng, không được dính líu đến vấn đề nhân sự và tham gia sinh hoạt chính trị.
24 năm qua đi, tháng 9-1962, Hội nghị Trung ương 10 khoá 8 vừa họp, Mao từ rút lui về kinh tế chuyển sang tấn công về chính trị, miệng niệm chú đấu tranh giai cấp giành lại quyền chủ động về chính trị. Vừa lúc đó, phu nhân Tổng thống Indonesia Sukarno thăm Trung Quốc. Theo nghi lễ ngoại giao, Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và phu nhân Vương Quang Mỹ tiếp đón, báo chí đã đăng in ảnh. Đột nhiên, Mao Trạch Đông quyết định ông ta phải tiếp bà Sukarno. Thế là trên đầu trang nhất “Nhân dân nhật báo” ngày 30-9 năm đó nổi bật tấm ảnh Giang Thanh tươi cười bên Mao, khi Mao bắt tay bà Sukarno. Mao đã khéo léo đưa Giang lên vũ đài chính trị.
Nhiệm vụ đầu tiên Mao trao cho Giang Thanh là tổ chức viết bài phê phán vở kịch “Hải Thụy bãi quan” của Ngô Hàm làm đột phá khẩu cho Đại cách mạng văn hoá. Sau Tết nguyên đán 1965, Giang đi chuyến xe lửa riêng xuống Thượng Hải. Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư thứ nhất Thành uỷ Thượng Hải Kha Khánh Thi vốn là phần tử tích cực trong “Đại tiến vọt”.
Được biết Mao cần tổ chức viết bài phê phán Ngô Hàm nhằm tiếp tục thanh toán Bành Đức Hoài, Kha mừng lắm, giới thiệu với Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Bí thư kiêm Trưởng ban tuyên truyền Thành uỷ, Trương Xuân Kiều lại giới thiệu một thuộc hạ là Diêu Văn Nguyên. Công việc này được giữ kín với cả Thường vụ Bộ Chính trị.
Sau Quốc khánh năm 1965. Bành Chân gặp Mao báo cáo công việc của Tổ cách mạng văn hoá (được thành lập từ tháng 7-1964, phụ trách chỉnh phong và triển khai phê bình học thuật trong giới văn nghệ, do Bành Chân làm Tổ trưởng, Lục Định Nhất làm Tổ phó, ba thành viên còn lại: Khang Sinh, Chu Dương, Ngô Lãnh Tây), nhân đó can ngăn Mao đừng phê phán Ngô Hàm, chuyên gia sử học, Phó Thị trưởng Bắc Kinh, một trí thức được Bành Chân đánh giá là trung thành với ĐCSTQ, hơn nữa, Ngô Hàm viết tác phẩm đề cao khí tiết của Hải Thụy chính là hưởng ứng việc Mao đề xướng cán bộ cấp cao học tập tinh thần Hải Thụy, nói thẳng, nói thật (Hội nghị Trung ương 7 khoá 8 tháng 4-1959). Nhưng Mao bác bỏ ý kiến của Bành Chân.
Sau khi Mao Trạch Đông sửa đến ba lần, ngày 7-11-1965 bài bình vở kịch lịch sử mới “Hải Thụy bãi quan” ký tên Diêu Văn Nguyên được đăng trên tờ “Văn Hối” Thượng Hải. Từ Hàng Châu, Mao lặng lẽ quan sát thái độ của Bắc Kinh đối với Diêu Văn Nguyên, nhưng đến 20-11, các báo phát hành ở Bắc Kinh vẫn im lặng. Mao chỉ thị cho Giang Thanh in bài của Diêu Văn Nguyên thành sách nhỏ, phát hành trong cả nước.
Ngày 24, hiệu sách Tân Hoa Thượng Hải điện khẩn yêu cầu cả nước đặt mua. Cơ quan phát hành sách Bắc Kinh xin ý kiến Thành uỷ, Bành Chân nói dứt khoát:
- Bắc Kinh một cuốn cũng không mua. Then chốt là xem chân lý ở phía nào. Trung ương nhiều lần họp, năm uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị không ai nói phải phê phán Ngô Hàm”.
Hai ngày sau, Bành Chân nhận được điện thoại của Chu Ân Lai:
- Mao Chủ tịch chỉ thị báo chí ở Bắc Kinh phải đăng ngay bài của đồng chí Diêu Văn Nguyên, kèm theo lời nhà xuất bản.
Theo gợi ý của Chu, Bành Chân triệu tập hội nghị công tác tuyên truyền, quyết định các báo ở Bắc Kinh đăng lại bài của Diêu Văn Nguyên, nêu rõ đây là thảo luận học thuật. Để bảo vệ Ngô Hàm, Bành Chân xuống Hàng Châu, hai lần gặp Mao Trạch Đông can gián. Đến lúc này, Mao vẫn muốn lôi kéo Bành Chân, vì cần một chính khách có trọng lượng tham gia Đại cách mạng vãn hoá. Mao khuyên Bành nên gặp Trương Xuân Kiều, và hẹn gặp lại Bành tại Thượng Hải vào 26-12, đúng ngày sinh thứ 72 của ông ta. Hôm ấy, Bành được xếp ngồi đối diện Mao tại bàn tiệc chính. Mao gọi Trương Xuân Kiều đến ngồi cạnh, giới thiệu Trương là “tú tài đỏ” “nhà lý luận” đã cùng Diêu Văn Nguyên tổ chức viết bài phê phán Ngô Hàm. Khi Bành nâng cốc chúc thọ, Mao uống cạn, rồi nói bằng giọng Hồ Nam the thé:
- Đồng chi Bành Chân, tôi cũng kính ông một cốc, hy vọng ông học tập các đồng chí Thượng Hải, đưa cuộc đấu tranh phê phán “Hải Thụy bãi quan” vào chiều sâu, đây là cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản trong lĩnh vực ý thức hệ, mong ông vượt qua cửa ải này.
Trở lại Bắc Kinh, Bành Chân tiếp tục đưa cuộc phê phán “Hải Thụy bãi quan” vào lĩnh vực thảo luận học thuật. Đầu tháng 2-1966, Tổ cách mạng văn hoá 5 người soạn thảo “Đề cương hội báo” được Hội nghị thường vụ Bộ Chính trị dưới sự chủ trì của Lưu Thiếu Kỳ chấp nhận, ngày 8-2, 5 người mang theo bản đề cương lên gặp Mao Trạch Đông. Mao xem xong nói “không có ý kiến gì”. Do đó, ngày 12-2, Đặng Tiều Bình phê chuẩn cho phân phát đề cương trên (gọi tắt là Đề cương tháng Hai) tới cấp huyện và trung đoàn trở lên trong cả nước.
Động thái trên khiến Lưu Thiếu Kỳ lầm tưởng Mao vẫn công nhận vị trí Trung ương của Bắc Kinh. Lưu liền đề nghị đi thăm nước ngoài theo kế hoạch đã định, Mao cũng đồng ý, có nghĩa là đối ngoại, Lưu vẫn đại diện nhà nước Trung Quốc. Thế là Lưu cùng Trần Nghị đi thăm Pakistan, Afganistan và Myanma từ 22-3 đến 19-4.
Bất ngờ, ngày 30-3, Mao đùng đùng nổi giận gọi điện chất vấn Chu Ân Lai:
- Vị Hoàng đế nào quyết định dùng danh nghĩa văn kiện trung ương phân phát đề cương hội báo của Bành Chân trong toàn Đảng?
Chu báo cáo quá trình Thường vụ Bộ chính trị thảo luận, quyết định, và nhận trách nhiệm về mình.
Mao dặn Chu:
- Trước tiên hãy giữ kín, xử lý thế nào chờ ý kiến tôi”.
Lợi dụng thời cơ Lưu Thiếu Kỳ ở nước ngoài, với thế sấm vang, chớp giật, Mao Trạch Đông đã đánh đổ Bành Chân và Lục Định Nhất, vô hiệu hoá Ban Bí thư Trung ương, làm cho Thành uỷ Bắc Kinh và Ban Tuyên truyền Trung ương tê liệt.
Cuối tháng 3 tại Thượng Hải, Mao đã gặp Khang Sinh, Nguỵ Văn Bá, Triệu Nghị Mẫn, Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, phê phán Bành Chân, Lục Định Nhất và “Đề cương tháng Hai” với lời lẽ gay gắt chưa từng thấy:
- “Đề cương tháng Hai” không phân rõ phải trái, Thành uỷ Bắc Kinh và Ban Tuyên truyền Trung ương bao che kẻ xấu, không ủng hộ phái “tả”; Bắc Kinh kim châm không vào, giọt nước không lọt, phải giải tán Thành uỷ; Ban Tuyên truyền Trung ương là điện Diêm vương, phải đánh đổ Diêm vương, giải phóng tiểu quỷ; Ngô Hàm, Tiệm Bá Tán là học phiệt, được đại đảng phiệt bên trên bao che; “Thôn ba nhà” do Đặng Thác, Ngô Hàm, Liêu Mạt Sa viết và “Yên Sơn dạ thoại” của Đặng Thác là ngọn cỏ độc lớn chống Đảng, chống Chủ nghĩa xã hội.
Mao mượn lực lượng của Lâm Bưu để nâng Giang Thanh trên vũ đài chính trị. Từ 2 đến 20-2-1966, Giang Thanh mời một số cán bộ phụ trách công tác văn hoá, tuyên truyền thuộc Tổng cục Chính trị tổ chức 4 cuộc toạ đàm về tình hình văn nghệ trong quân đội. Gọi là toạ đảm, thực tế là nghe Giang Thanh nói. Bản tổng hợp “những ý kiến cực kỳ quan trọng” của Giang Thanh trong cuộc toạ đàm này dài khoảng 3.000 chữ, theo lệnh của Mao, Trần Bá Đạt, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên sửa chữa, bổ sung, nâng cao, dài thêm 7.000 chữ nữa. Cuối cùng Mao sửa thêm mấy lần, đặt tên là “Kỷ yếu cuộc toạ đàm về công tác văn nghệ quân đội do đồng chí Giang Thanh triệu tập theo uỷ thác của đồng chí Lâm Bưư”.
Mao triệu tập cuộc họp Thường vụ Bộ Chính trị mở rộng từ 16 đến 24-4 tại Hàng Châu. Ngày 19-4, Lưu Thiếu Kỳ từ Yangun về đến Côn Minh thì nhận được thông báo đến Hàng Châu dự họp. Sự thật đặt ra trước mắt Lưu lúc đó là: Bành Chân và Lục Định Nhất đã bị đánh đổ, Thành uỷ Bắc Kinh và Ban Tuyên truyền Trung ương tê liệt, Tổ Cách mạng văn hoá 5 người bị giải tán, “Thông tri của Ban chấp hành trung ương ĐCSTQ” đốt lên ngọn lửa Đại cách mạng văn hoá đã định hình, Tổ Cách mạng văn hoá mới đã được thành lập với 13 thành viên, gồm Tổ trưởng Trần Bá Đạt, cố vấn Khang Sinh, Tổ phó thứ nhất Giang Thanh, Tổ phó Vương Nhiệm Trọng, Lưu Chí Kiên, Trương Xuân Kiều… Nhân vật trung tâm trong Tổ Cách mạng văn hoá trung ương là Giang Thanh. Để toàn đảng hiểu rõ điều này, một thông tri mang danh nghĩa Ban chấp hành trung ương ngày 30-8-1966 viết:
“Đồng chí Trần Bá Đạt do ốm đau được Trung ương cho nghỉ ngơi. Trong thời gian đồng chí Trần Bá Đạt nghỉ ốm hoặc đi công tác, đồng chí Giang Thanh làm Quyền Tổ trưởng”.
Bá Đạt là anh đồ gàn, khi có mặt cũng nghe theo Giang Thanh thôi. Khang Sinh từ lâu đã là cố vấn riêng của Giang Thanh, về sau qua mấy lần đào thải, Giang Thanh đã đuổi hết những người không vừa ý, chỉ còn lại Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Lực, Quan Phong, Thích Bản Vũ. Thế là hình thành “Đảng Hoàng hậu” của Giang Thanh. Cái Tổ Cách mạng văn hoá trung ương này ban đầu cũng không làm người ta chú ý lắm, nhưng về sau nó đã thay thế cả Ban Bí thư và Bộ Chính trị, trở thành cốt lõi chủ thể trạng “Bộ Tư lệnh vô sản” của Mao Trạch Đông, Ban chấp hành trung ương ĐCSTQ trở thành “Cửa hàng Mao-Giang”, Giang Thanh leo lên đỉnh cao quyền lực.
♦ ♦ ♦
Chương 23
La Thụy Khanh chơi với hổ, bị hổ vồ
Ngày 3-1-1965, tại Quốc hội Trung Quốc khoá 3, Lưu Thiếu Kỳ lại được bầu làm Chủ tịch nước. Khi ấy tuy đã quyết tâm lật đổ Lưu, nhưng Mao không cản trở Lưu tái cử, bởi ông ta thấy mình đang ở vào thiểu số trong Đảng, chưa lật nổi đối thủ. Mao đang tìm kiếm lực lượng mới, phương thức đấu tranh mới.
Theo hiến pháp, Chủ tịch nước đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Trong danh sách Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng khoá này do Lưu đề nghị có thêm Tổng Tham mưu trưởng La Thụy Khanh. Tuy đây chỉ là chức vụ danh dự, không có thực quyền, nhưng sự đề bạt này có nghĩa là La đã đứng vào hàng ngũ các nguyên soái. Về sau trong một lần phát biểu công khai, Lưu nói La Thụy Khanh sẽ kế tục chức Bộ trưởng Quốc phòng, khiến Mao và Lâm Bưu cảnh giác.
Ngày 22-4, Lâm Bưu một mình triệu kiến Mao Trạch Đông, tố cáo Lưu Thiếu Kỳ đang nắm quân quyền, đã lôi kéo được La Thụy Khanh. Hai người bàn bạc quyết định cử thêm Dương Thành Vũ làm Phó Bí thư trưởng Quân uỷ Trung ương, kiêm Phó Tổng tham mưu trưởng thứ nhất, có thể trực tiếp báo cáo thỉnh thị Trung ương, trực tiếp liên hệ với các Đại quân khu, các quân binh chủng. Sự phân quyền này là bước thứ nhất Mao, Lâm không tin cậy La Thụy Khanh.
Tháng 5, La Thụy Khanh chủ trì hội nghị tác chiến tại Bắc Kinh. Những người dự hội nghị hy vọng được Mao tiếp, nhưng Mao đang ở miền Nam. La kiến nghị các uỷ viên Thường vụ Bộ chính trị có mặt tại Bắc Kinh tiếp, Lâm Bưu đồng ý. Buổi tiếp diễn ra vào 19-5, do Lưu Thiếu Kỳ chủ trì, nghe 3 Tổ trưởng báo cáo, đương nhiên các báo cáo đều do La thẩm định. Lâm Bưu lúc đầu nói không thể đến dự vì lý do sức khỏe, nhưng rồi ông ta lại đột nhiên có mặt, và khi buổi tiếp sắp kết thúc, lại đột ngột đứng dậy nói một thôi dài, bác bỏ ý kiến của ba vị tổ trưởng kia. Cuối tháng 5, những người tham gia hội nghị yêu cầu Tổng tham mưu trưởng phát biểu tổng kết. Lâm Bưu nói đề nghị này không thoả đáng, vì “hội nghị tác chiến chỉ có thể lấy ý kiến của Chủ tịch, các uỷ viên Thường vụ Bộ chính trị và văn kiện hội nghị làm kết luận, không cho phép bất cứ ai phát biểu dưới danh nghĩa tổng kết”. La Thụy Khanh hiểu đây là bước thứ hai nghiêm trọng hơn của Lâm Bưu: công khai hạ thấp vai trò Tổng tham mưu trưởng.
Vui mừng được Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Hạ Long và các nhà lãnh đạo khác trong Quân uỷ Trung ương tin cậy, La Thụy Khanh không nhận ra mối nguy hiểm đang bao bọc quanh mình. Diệp Quần vẫn đang thu thập những tài liệu chống La, nhất là từ phía Hải quân.
Tối 26-11-1965, Giang Thanh gặp La Thụy Khanh, yêu cầu giúp Giang tổ chức cuộc toạ đàm về tình hình văn nghệ trong quân đội, cấp cho Giang quân phục, và cho đăng lại bài của Diêu Văn Nguyên phê “Hải Thụy bãi quan”, nhưng ông chỉ đáp ứng yêu cầu thứ 3, khiến Giang rất tức giận, về kể lại với chồng. Qua việc La không cấp quân phục cho Giang Thanh vì bà ta không có quân tịch, Mao càng thấy ông là người có tính nguyên tắc rất mạnh, vốn là phẩm chất ưu tú của người cộng sản. Nhưng trong cuộc đấu tranh với Lưu Thiếu Kỳ, Mao không cần những người quân tử ngay thắng, mà cần những kẻ láu lỉnh lựa gió chèo thuyền. Trong cuộc đấu tranh lớn sắp tới, không thể lôi kéo nổi một người ngay thẳng như thế ủng hộ mình, mà nếu quân đội chia rẽ, Lâm Bưu một phái, La Thụy Khanh một phái, có thể làm hỏng toàn cục bố trí chiến lược của Mao. Thế là Mao quyết định hy sinh người vệ sĩ một dạ trung thành này.
Ngày 30-11, Diệp Quần bí mật đáp máy bay riêng từ Tô Châu tới Hàng Châu xin gặp Mao Trạch Đông, lúc đó đang ở biệt thự Uông Trang. 5 giờ sáng 1-12, Mao cho gọi Diệp vào gặp gấp Mao xem thư Lâm Bưu, nhận các tài liệu do Diệp chuyển, rồi nghe bà ta báo cáo trong 5 giờ liền. Nội dung và tình tiết cụ thể cuộc gặp gỡ này mãi mãi là một bí mật, bởi chỉ có hai người bên nhau suốt 5 giờ đó. Rồi Mao bảo Diệp không nên nấn ná ở lại Hàng Châu. Ông ta cừ Uông Đông Hưng dùng đoàn xe lửa riêng của mình đưa Diệp trở lại Tô Châu, và đón Lâm Bưu đến.
Cuộc hội kiến Mao-Lâm đêm 1-12 mang đậm sắc thái một âm mưu. Mao muốn lật đổ Lưu Thiếu Kỳ và Bành Chân, dặn Lâm Bưu “nắm chắc quyền chỉ huy quân đội, không để rơi vào tay kẻ khác, phải đảm bảo cuộc đấu tranh trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá diễn ra bình thường”. Lâm Bưu thúc giục Mao lật đổ La Thụy Khanh:
- Không giải quyết vấn đề La Thụy Khanh, quân đội có thể sẽ chia rẽ. Tôi không thể đảm bảo người này biết nghe lời.
Mao khen Lâm tiến bộ, hy vọng Lâm “một lần nữa đọc báo cáo như tại Đại hội 7.000 người, nói rõ sự cần thiết phải phát động Đại cách mạng văn hoá”.
Từ 8 đến 15-12-1965, Hội nghị Thường vụ Bộ Chính trị mở rộng họp tại Thượng Hải. Ngoài 7 uỷ viên Thường vụ Bộ chính trị, các uỷ viên Bộ Chính trị và Ban Bí thư, tổng cộng 38 người có mặt. Một số người phụ trách cơ quan hữu quan ở trung ương và tướng lĩnh cao cấp dự thính. Mao bảo Lâm Bưu chủ trì Hội nghị.
Điều bất ngờ là Diệp Quần đăng đàn tố cáo La Thụy Khanh âm mưu cướp quyền lãnh đạo quân đội, ép Lâm Bưu nhường ghế bộ trưởng. Diệp đã bước lên vũ đài chính trị, khởi đầu bằng việc vu cáo, hãm hại La.
Hội nghị ra quyết định tước hết các chức vụ của La Thụy Khanh: Bí thư Trung ương Đảng, Phó thủ tướng, Tổng tham mưu trưởng. Khi Thường vụ Bộ chính trị biểu quyết, Lưu Thiếu Kỳ, Trần Vân, Đặng Tiểu Bình bỏ phiếu chống. Khi Bộ Chính trị biểu quyết, Bành Chân, Lưu Bá Thừa bỏ phiếu chống, Lưu Thiếu Kỳ, Trần Vân, Đặng Tiểu Bình, Hạ Long, Lục Định Nhất, Lý Phú Xuân, Đàm Chấn Lâm bỏ phiếu trắng.
Là “bị cáo”, nhưng La Thụy Khanh không được có mặt tại Hội nghị và bào chữa cho mình. Đang đi kiểm tra biên giới Tây Nam thì nhận được thông tri hội nghị họp, La cùng vợ đáp máy bay về đến Thượng Hải liền bị giam lỏng ngay. La nổi giận đùng đùng, lòng đầy căm phẫn, xin gặp Mao không được, xin gặp Lâm Bưu không xong. Ngày 17-12-1965. La về đến Bắc Kinh, đóng cửa suy nghĩ. Từ 4-3-1966, Quân uỷ Trung ương lập Tổ chuyên án thẩm tra, phê đấu La Thụy Khanh. Ngày 18, La tức quá nhảy lầu tự sát, nhưng chỉ bị gãy chân.
♦ ♦ ♦
Chương 24
Giương ngọn cờ chống đảo chính để làm đảo chính
Tháng 4-1966, Mao yêu cầu họp Bộ Chính trị mở rộng để giải quyết vấn đề Bành Chân, Lục Định Nhất, La Thụy Khanh, Dương Thượng Côn, những người tham dự đều có quyền biểu quyết. Mao muốn đưa các nhân vật cánh “tả” Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Lực, Quan Phong, Thạch Bản Vũ đến hội nghị đế thị uy. Lưu Thiếu Kỳ nhấn mạnh biến động nhân sự quan trọng trong Đảng phải được Hội nghị toàn thể Ban chấp hành trung ương thông qua. Họp Ban chấp hành trung ương, chưa chắc Mao được đa số ủng hộ.
Mao nhận ra điều này, nên kiên quyết không họp Trung ương, không cho những người phụ trách các Trung ương cục, các tỉnh và thành phố trực thuộc đến dự, Mao nắm chặt quân đội, quyết tâm dùng “súng chỉ huy đảng” khi cần thiết để cứu vãn tình thế. Nắm quân đội chủ yếu là lôi kéo Lâm Bưu, thiết lập liên minh Mao-Lâm, để áp đảo Thường vụ Bộ Chính trị, Bộ Chính trị và Ban chấp hành trung ương. Nhưng Mao cũng đề phòng Lâm Bưu, nên không sử dụng bộ đội thân tín của Lâm. Nước cờ then chốt nhất là Mao nắm Quyền Tổng tham mưu trưởng Dương Thành Vũ. Trong những năm tháng chiến tranh, Lâm và Dương từng có bất đồng. Quân đoàn 63 và Quân đoàn 65 là bộ đội Hoa Bắc mà Dương từng chỉ huy. Dương bị cuốn hút bởi niềm hy vọng thay thế toàn diện La Thụy Khanh, đứng vào hàng ngũ những người lãnh đạo quan trọng của Đảng, Chính phủ và Quân đội, lúc đó ông ta tuyệt đối trung thành với Mao. Ngày 22-2-1966, Mao chỉ thị cho Diệp Kiếm Anh và Dương Thành Vũ sáp nhập Cảnh sát vũ trang vào Quân đội bởi La Thụy Khanh từng nhiều năm làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ lực lượng này. Ngày 15-5, Mao quyết định thành lập Tổ công tác Thủ đô, gồm Tổ trưởng Diệp Kiếm Anh. Hai Tổ phó Dương Thành Vũ, Tạ Phú Trị và 8 thành viên khác, trong đó Dương Thành Vũ giữ vai trò quyết định. Dương giới thiệu Đinh Lai Phu và Vương Thọ Nhân, Chính uỷ và Tham mưu trưởng Quân đoàn 63, làm Bí thư thứ nhất Đảng uỷ và Phó Cục trưởng Cục phát thanh, kiến nghị đưa hai sư đoàn thuộc các Quân đoàn 63 và 65 từ Thạch Gia Trang và Trương Gia Khẩu vào Bắc Kinh làm nhiệm vụ cảnh vệ, đều được Mao phê chuẩn. Dựa vào ưu thể vũ lực, Mao đã áp đảo đa số trong Thường vụ Bộ Chính trị, đánh bại ý đồ triệu tập Hội nghị Trung ương của Lưu Thiếu Kỳ:
Ngày 4-5-1966, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng họp tại Bắc Kinh, các thành viên Tổ Cách mạng văn hoá trung ương đều tham gia. Mao chỉ định hội nghị do Lưu Thiếu Kỳ chủ trì, nhưng lại do Khang Sinh giữ vai trò liên lạc với Mao để chì đạo như vậy Lưu chỉ còn là người giới thiệu chương trình. Hai ngày đầu, Khang Sinh truyền đạt những ý kiến của Mao từ tháng 9-1962 tới tháng 3-1966, chủ yếu là phê phán Bành Chân, Lục Định Nhất, giao nhiệm vụ ủng hộ phái tả, tiến hành Đại cách mạng văn hoá. Xuyên suốt nội dung truyền đạt là Trung ương đã xuất hiện chủ nghĩa xét lại, như Bành Chân, La Thụy Khanh, Dương Hiến Trân, Dương Thượng Côn, Điền Gia Anh. “Thông tri của Ban chấp hành trung ương ĐCSTQ” mà hội nghị này cần thông qua nhấn mạnh phải triệt để phê phán tư tưởng tư sản phản động trong giới học thuật, giáo dục, báo chí, văn nghệ, xuất bản, giành lại quyền lãnh đạo trong lĩnh vực văn hoá, đồng thời phê phán các đại diện của giai cấp tư sản len lỏi trong đảng, chính phủ, quân đội và lĩnh vực văn hoá, trong đó có kẻ đã được bồi dưỡng thành người thừa kế kiểu Khrusev… Trong phát biểu ngày 18-5-1966, Lâm Bưu điểm lại các cuộc đảo chính từ thời thượng cổ đến nay, và nói Mao đã nhiều lần cùng người phụ trách hữu quan bàn việc đề phòng đảo chính quân sự. Lâm nói La Thụy Khanh nắm quân đội, Bành Chân nắm rất nhiều thứ, Lục Định Nhất nắm văn hoá, tư tưởng, Dương Thượng Côn nắm cơ yếu, tình báo, liên lạc, họ liên minh với nhau, có thể làm đảo chính trên chiến trường cũng như trong phòng họp, do đó về tư tưởng không thể tê liệt, trong hành động phải có biện pháp cụ thể. Lâm đề cao Mao Trạch Đông, coi Mao là “thiên tài vĩ đại nhất của giai cấp vô sản”, vượt trên Mác, Ăng-ghen, Lênin, Stalin.
Xin nhắc lại một sự kiện liên quan đến nội dung phát biểu trên của Lâm Bưu là “vụ Watergate” kiểu Trung Quốc diễn ra đầu thập kỷ 60. Tháng 2-1961, Mao tuần du phương Nam, chuyên xa dừng tại ga Trường Sa. Trong lúc Mao gặp Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ Hồ Nam Trương Bình Hoá, các nhân viên đi dạo trên sân ga, một nhân viên vô tuyến điện hứng lên, nói với cô gái xinh đẹp phục vụ Mao:
- Anh đã nghe thấy tiếng em trong buồng ngủ Mao Chủ tịch.
Cô gái tái mặt, vào báo cáo:
- Có người đặt máy nghe trộm trong buồng ngủ!
Mao bảo Trương Bình Hoá về, rồi gọi ngay La Thụy Khanh và Dương Thượng Côn có mặt trong chuyến đi này đến hỏi:
- Ai bảo các ông đặt máy nghe trên xe lửa?
La, Dương nhìn nhau, đành nói thật:
- Từ Đại tiến vọt đến nay, Chủ tịch thường tiếp một số đồng chí trên xe lửa, phát triển nhiều ý kiến, thư ký ghi chép không đầy đủ, bỏ sót nhiều chỉ thị quan trọng. Để bám sát tư tưởng của Chủ tịch, Ban Bí thư quyết định đặt máy nghe trên xe lửa…
Khả năng tự kiềm chế của Mao thật ghê gớm. Biết rõ đây là lúc quyền thống trị của mình suy yếu nhất, không thể làm căng, nhưng phải hiểu rõ tình hình, Mao bình thản nói:
- Các ông cũng tốn nhiều công sức, tôi không trách. Thiết bị có phải do Anh Cả cung cấp không?
Dương Thượng Côn đáp:
- Thưa, lấy danh nghĩa Văn phòng Trung ương, thông qua con đường hữu quan, nhập từ nước ngoài.
Mao nói:
- Thế thì tiên tiến lắm. Lắp đặt từ bao giờ vậy?
- Dạ, từ tháng 1-1959 ạ.
Mao lại giật thót mình, nhưng giọng vẫn ôn hoà:
- Ồ, đã hơn hai năm rồi dấy. Các ông giữ bí mật khá lắm. Số nhân viên công tác của tôi có biết không?
La Thụy Khanh:
- Các thư ký đều biết, nhưng yêu cầu họ giữ kín.
Mao cười lớn:
- Mọi người đấu biết, thì còn bí mật gì nữa, cũng không phải là một âm mưu. - Rồi Mao hờ hững hỏi - Vậy là các đồng chí Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình đều biết trước việc này?
Dương Thượng Côn:
- Hai đồng chí ấy tán thành. Ban bí thư có một nghị quyết nội bộ về vấn đề trên.
- Còn Chu Ân Lai, Uông Đông Hưng?
Dương Thượng Côn:
- Thủ tướng biết, còn chỉ thị: đã xuất phát từ lợi ích toàn đảng, thì phải làm sao để không có chuyện hiểu lầm. Đồng chí Uông Đông Hưng bảo lưu, nhưng qua Ban bí thư giải thích, đồng chí ấy phục tùng nghị quyết của Trung ương.
Mao cười:
- Chu vẫn suy nghĩ chu toàn. Giờ tôi không hiểu lầm nữa, những nghi ngờ cũ xoá sạch rồi, được không?
Cuộc nói chuyện kết thúc. Dương Thượng Côn lạnh toát mồ hôi, vội gọi điện thoại cho Lưu Thiếu Kỳ. Lưu bay ngay xuống Quảng Châu, đón gặp Mao tại đó. Ông trình Mao nghị quyết của Ban Bí thư tháng 12-1958 về việc đặt máy ghi âm tại buồng ngủ của Mao trên xe lửa, và giải thích việc này chỉ nhằm bám sát, học tập chỉ thị của Mao, không có ý gì khác.
Lưu đề nghị trao cho Uông Đông Hưng kiểm tra, tiêu huỷ toàn bộ số băng ghi âm cùng các bản chỉnh lý lưu trữ tại phòng bảo mật Văn phòng Trung ương. Lưu nói tuy đây là chủ kiến của Ban Bí thư, nhưng Lưu đã tán thành cho làm, nên ông xin lỗi Mao, và sẵn sàng chịu kỷ luật. Mao giấu kín những suy nghĩ riêng, làm bộ tươi cười:
- Các ông rõ là tốt bụng mà làm một việc không hay lắm. Sự việc đã nói rõ, coi như kết thúc. Ông yên tâm đi, việc này làm theo ý ông. Từ nay trong Đảng không ai được nhắc lại, tôi cũng không đề nghị Trung ương thi hành kỷ luật bất cứ ai. Việc quan trọng nhất hiện nay là toàn Đảng đoàn kết, một lòng một dạ, ổn định lòng đảng, lòng quân, cùng nhau vượt qua khó khăn…
Từ đó, Mao không tin cậy Lưu Thiếu Kỳ và Ban Bí thư nữa, nó là bước ngoặt khiến quan hệ Mao-Lưu trở nên thù địch.
Thông tri của Trung ương ĐCSTQ ngày 16 và phát biểu của Lâm Bưu ngày 18-5-1966 đã đặt cơ sở cho Đại cách mạng văn hoá với mục tiêu đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ. Bỏ qua hiến pháp và Quốc hội, dùng phong trào quần chúng được quân đội ủng hộ để phế truất nguyên thủ quốc gia, bản thân nó là một cuộc đảo chính. Mao và Lâm đã trương lá cờ chống đảo chính để làm đảo chính.
Phát biểu của Lâm Bưu như một quả bom nguyên tử chính trị, tăng cường quyền uy của Mao tới mức tối đa, đẩy Mao lên vị trí chí tôn, giúp Mao hoàn toàn thoát khỏi tình thế lúng túng, bị động từ Đại hội 7.000 người. Không còn ai dám nghĩ đến việc truy cứu trách nhiệm làm mấy chục triệu người chết đói. Trong tiềm thức, đông đảo cán bộ, đảng viên, quần chúng cảm thấy chỉ có tín ngưỡng vô hạn, sùng bái vô hạn Mao Trạch Đông, thì mới có an toàn chính trị cho bản thân và gia đình. Một cao trào sùng bái cá nhân mang tính chất toàn dân vừa bị ép buộc, vừa tự nguyện, như một dòng thác lũ tràn ngập nước Trung Hoa.
Mao rất hài lòng về bài nói của Lâm. Song ngày 8-7-1966, Mao lại viết thư cho Giang Thanh phàn nàn việc Lâm chỉ nói về đảo chính, Mao cũng tỏ ra lo ngại trước một số cách nêu vấn đề của Lâm, nhưng đành chấp nhận, và đây là lần đầu tiên trong đời, Mao phái tán thành ý kiến tâng bốc của người khác, trái với lòng mình. Là người giỏi ứng biến, đương nhiên Mao biết Lâm tâng bốc ông ta như vậy nhằm đổi lấy vị trí người kế tục đổi lấy “giang sơn xã tắc” của Mao. Sự tâng bốc này có hiệu quả nếu dùng làm một sách lược, một thủ đoạn để tấn công Lưu Thiếu Kỳ, nhưng để đánh giá một nhân vật lịch sử thì không thể lâu dài. Mao còn cho Chu Ân Lai xem thư trên nhằm cho thấy giữa Mao và Lâm có khoảng cách, Thủ tướng đừng quá gần gụi Lâm. Chu Ân Lai hiểu ngay rằng: vào lúc Mao “chúng phản, thân ly” chỉ còn mỗi Lâm Bưu là “bạn chiến đấu thân thiết”, lại có một chiến hữu “thân thiết“ hơn Lâm, là Giang Thanh. Chu một mặt lẳng lặng giữ khoảng cách thích đáng với Lâm Bưu, mặt khác, bằng mọi cách giữ quan hệ bình thường với Giang Thanh, tuyệt đối không va chạm, nhưng cũng quyết không cho phép mụ trở thành Lã Hậu. kiên quyết ngăn chặn mưu toan của Mao truyền ngôi cho người nhà. Đó là nguồn gốc của cục diện chính trị rối ren phức tạp, kỳ quặc xuất hiện trong cuộc đấu tranh nội bộ ĐCSTQ những năm cuối đời Mao.
Ngày 4-10-1966, trong buồng ngủ cách âm của vợ chồng Lâm Bưu, Giang Thanh đột nhiên hỏi Diệp Quần: “Cô nói xem, Đại cách mạng văn hoá là gì?” Diệp Quần sững người, chưa biết trả lời ra sao, Giang Thanh nghiến răng nói tiếp: “… là đánh đổ hết kẻ thù của ta!” Hai người thoả thuận: Giang Thanh giúp trừng trị những kẻ thù của Diệp Quần, đổi lại, Diệp Quần giúp đánh đổ những kẻ thù của Giang Thanh. Hành động của hai người đàn bà trong những năm tháng tiếp theo là sự chú giải tuyệt vời cho lý luận của hai người chồng họ.
♦ ♦ ♦
Chương 25
Lợi dụng học sinh lật đổ chủ tịch nước
Khi cảm thấy đã chắc chắn thao túng được Ban chấp hành trung ương, Mao ra lệnh triệu tập Hội nghị Trung ương 11 khoá 8 từ 1 đến 12-8-1966. Trước cuộc họp, Mao gọi Chu Ân Lai, Đào Chú, Trần Bá Đạt, Khang Sinh đến hỏi ý kiến về người thay thế Lưu Thiếu Kỳ. Mao và 4 người viết lên người đó lên bàn tay mình, khi mở ra, tất cả đều một chữ “Lâm”.
Dự Hội nghị có 141 uỷ viên và uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng. Những người phụ trách các Trung ương cục, các tỉnh và thành phố trực thuộc, các cơ quan trung ương và các thành viên Tổ Cách mạng văn hoá trung ương được mời dự thính. Chương trình Hội nghị gồm thông qua quyết định phát động Đại cách mạng văn hoá, thảo luận và phê chuẩn các biện pháp lớn về các vấn đề trong nước và quốc tế từ kỳ họp trước đến nay, thông qua thông cáo của hội nghị này, truy nhận quyết định thay đổi nhân sự của Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng.
Đọc báo cáo công tác, Lưu Thiếu Kỳ chủ động nhận trách nhiệm về vấn đề cử các tổ công tác vào các trường đại học và học viện, Mao liên tục cắt ngang với lời lẽ gay gắt.
Sau khi châm ngòi lửa Đại cách mạng văn hoá, Mao bỏ xuống Hàng Châu nghỉ ngơi, mặc cho Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình chủ trì công tác trung ương, đối phó tình trạng rối loạn ở Bắc Kinh và cả nước, đây là một âm mưu lớn, một cái bẫy lớn, Lưu-Đặng làm thế nào cũng sai, cũng bị Mao nắm thóp. Kết quả là Lưu-Đặng đứng ra lo liệu, đưa các tổ công tác vào các trường đại học, Mao liền nói họ đàn áp quần chúng cách mạng, thực hiện khủng bố trắng, đẩy lùi Đại cách mạng văn hoá, thực hiện đường lối tư sản phản động, buộc họ kiểm thảo mắc sai lầm đường lối. Nếu Lưu-Đặng không đứng ra lo liệu, đề mặc cho tình hình rối loạn. Mao sẽ nói đây là cuộc bạo loạn phản cách mạng, Trung Quốc xuất hiện “sự kiện Hungary” do Lưu-Đặng đứng đằng sau. Khi ấy, Mao sẽ hy sinh mấy chục vạn học sinh, đứng ra bảo vệ những người bị hại, một lần nữa trở thành “đại cứu tinh của nhân dân”.
Mao nắm quyền phát ngôn, tiếng nói có sức nặng ghê gớm, đó lâ chỗ lợi hại của kẻ độc tài. Nhưng Mao đã dự đoán Lưu-Đặng sẽ không bỏ mặc cho tình hình rối loạn không kiểm soát nổi, thông qua cuộc đấu tranh chống phái hữu, các bộ, các cấp mặc cho tình hình hỗn loạn. Mao ung dung ngồi xem họ mắc sai lầm đường lối tư sản phản động.
Khi Diệp Kiếm Anh xen vào “Chúng ta có quân đội, không sợ yêu ma quỷ quái”. Mao nói như quát lên: “Yêu ma quỉ quái đang có mặt tại đây”. Chiều 5-8, trên cương vị Chủ tịch nước, Lưu Thiếu Kỳ tiếp Đoàn đại biểu Zambia, về đến nhà liền nhận được điện thoại của Chu Ân Lai yêu cầu ông không xuất hiện công khai, không tiếp khách nước ngoài. Lưu hiểu đây là lệnh của Mao.
Chuẩn bị xong xuôi, tại cuộc họp Thường vụ Bộ Chính trị, Mao tuyên bố muốn thay người kế tục, và giới thiệu Lâm Bưu. Lưu Thiếu Kỳ đã sớm nhìn ra nước cờ này, ông lên tiếng tán thành ngay. Các uỷ viên Thường vụ khác cũng bỏ phiếu tán thành. Ngày 8-8, Hội nghị Trung ương thông qua quyết định về Đại cách mạng văn hoá, rồi chuyển sang phê phán Lưu, Đặng. Hội nghị bổ sung Đào Chú, Trần Bá Đạt, Khang Sinh, Từ Hướng Tiền, Nhiếp Vinh Trăn, Diệp Kiếm Anh làm uỷ viên chính thức, Lý Tuyết Phong, Tống Nhiệm Cùng, Tạ Phú Trị làm uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị, Tạ Phú Trị, Lưu Ninh Nhất vào Ban Bí thư, Đào Chú làm Bí thư trực, đưa Bành Chân, La Thụy Khanh, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn ra khỏi Ban bí thư.
Mao Trạch Đông chuẩn bị một danh sách Thường vụ Bộ chính trị 11 người, gồm Mao, Lâm, Chu, Đặng, Trần Bá Đạt, Khang Sinh, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Trần Vân, Lý Phú Xuân, Đào Chú. Do được 100% số phiếu, Đặng được xếp ở vị trí thứ 4. Sau đó, theo ý Giang Thanh, Mao đưa Đào Chú lên vị trí thứ 4, đẩy Đặng Tiểu Bình xuống vị trí thứ 7, Trần Vân xuống vị trí cuối cùng. Mao muốn cử hai Phó Chủ tịch Đảng là Lâm Bưu và Chu Ân Lai. Song Chu đề xuất chỉ có một Phó Chủ tịch là Lâm Bưu, để nêu bật vị trí người kế tục. Chu chủ động lùi một bước, vừa tránh được sự đố kỵ của Mao, Lâm, vừa được lòng người.
Qua việc Giang Thanh tham gia cải tổ Thường vụ Bộ Chính trị có thể thấy Đại cách mạng văn hoá vừa bắt đầu, Mao đã coi Giang Thanh là người kế tục để bồi dưỡng. Sau khi Đặng Tiểu Bình bị đánh đổ, Ban Bí thư tê liệt, Mao đã lấy Tổ cách mạng văn hoá trung ương thay thế Ban Bí thư, vị trí và vai trò thực tế của Giang Thanh trong Đại cách mạng văn hoá tương đương Tổng Bí thư.
Sau Hội nghị Trung ương 11 khoá 8, từ Bắc Kinh đến cả nước, đông đảo cán bộ và quần chúng tỏ ra không sao hiếu nổi việc Mao Trạch Đông phát động Đại cách mạng văn hoá và phê phán đường lối tư sản phản động của Lưu Thiếu Kỳ, xuất hiện tình trạng “HAI ĐẦU NÓNG, GIỮA LẠNH” (đầu trên là Mao và Tổ Cách mạng văn hoá trung ương, đầu dưới là các “tiểu tướng Hồng vệ binh” bị lừa dối, lợi dụng thì sôi sùng sục, còn ở giữa - các cơ quan đảng và chính quyền các cấp đông đảo cán bộ, quần chúng - thì phát mà không động, một trạng thái chống đối Lưu Thiếu Kỳ được đông đảo cán bộ, quần chúng ủng hộ như vậy khiến Mao rất lo. Thế là ngày 1-10 Mao kêu gọi “triệt để phê phán đường lối tư sản phản động”, tổ chức lực lượng mở cuộc tổng công kích vào “Bộ tư lệnh tư sản” Lưu-Đặng. Mao kết hợp cuộc tiếp kiến Hồng vệ binh lần thứ 4 với lễ mừng Quốc khánh thứ 17, nên có tới 1,5 triệu Hồng vệ binh tham gia hoạt động này. Một nhóm Hồng vệ binh nhận nhiệm vụ bí mật căng trên quảng trường Thiên An Môn khẩu hiệu lớn “Đả đảo Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình!” Họ công khai hô khẩu hiệu đánh đổ Lưu, Đặng, công khai tuyên bố trước toàn thế giới mũi nhọn của Đại cách mạng văn hoá chĩa vào đâu.
Trước sức ép của phong trào Hồng vệ binh, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình buộc phải thừa nhận đã mắc sai lầm về đường lối. Theo nhịp điệu do Mao định ra, Lưu Thiếu Kỳ đã phủ định toàn bộ công tác chỉnh đốn kinh tế quốc dân, ngăn chặn nạn đói lan tràn, khiến đất nước tránh khỏi sụp đổ do ông lãnh đạo. Như vậy là Mao Trạch Đông, người phát động phong trào Đại tiến vọt, Công xã hoá làm 37,55 triệu người chết đói lại trở thành nhà lãnh đạo “luôn luôn đúng đắn”, còn Lưu Thiếu Kỳ, người đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, khiến nhân dân thoát khỏi nạn đói lại là người mắc sai lầm về đường lối, phải đánh đổ.
Phát biểu trước Hội nghị công tác Trung ương ngày 25-10, Mao Trạch Đông đổ hết mọi trách nhiệm cho Lưu Đặng. Mao nói: Trong 17 năm (từ 1949 đến 1966), Mao ở tuyến 2, “không chủ trì công tác hàng ngày”, các đồng chí ở tuyến 1 “xử lý công việc không tốt lắm” (nghĩa là đường lối chung, Đại tiến vọt, công xã nhân dân, chết đói trên 37,5 triệu người… đều do người khác làm), thiếu sót của Mao chỉ là phân chia tuyến 1 tuyến 2, và quá tin vào Lưu, Đặng.
Do Giang Thanh đạo diễn ngày 6-1-1967 đã xảy ra vụ “dùng mưu bắt Vương Quang Mỹ” đem đến Đại học Thanh Hoa phê đấu, sau nhờ Chu Ân Lai can thiệp, bà Vương được tha về. Đêm 13-1, Mao cho thư ký đón Lưu Thiếu Kỳ đến gặp tại Nhà Quốc hội. Đây là cuộc gặp cuối cùng giữa hai người. Lưu nhận trách nhiệm về “sai lầm đường lối” lần này. Ông nói đông đảo cán bộ đều tốt, yêu cầu nhanh chóng thả họ ra để Đảng bớt bị thiệt hại. Ông cũng xin từ chức Chủ tịch nước và uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị, cùng vợ con về quê làm ruộng, để sớm kết thúc Đại cách mạng văn hoá, giảm thiệt hại cho đất nước. Mao rít thuốc lá, lặng lẽ nghe, im lặng hồi lâu rồi khuyên Lưu đọc cuốn “Chủ nghĩa duy vật máy móc” của Hê-ghen. Mao còn vờ hỏi thăm tình hình con Lưu, nhắc Lưu chú ý giữ gìn sức khỏe.
Ngày 4-10, vẫn do Giang Thanh dày công đạo diễn, Hồng vệ binh Đại học Thanh Hoa tổ chức đại hội phê phán Vương Quang Mỹ, có 30 vạn người tham gia, lôi cả hơn 300 cán bộ thuộc “phái đi con đường tư bản chủ nghĩa” trong đó có Bành Chân, Bạc Nhất Ba, Lục Định Nhất, Tưởng Nam Tường ra đấu.
Từ sáng sớm, ôtô của Hồng vệ binh đã vào Trung Nam Hải bắt người. Vương Quang Mỹ bị dẫn đến tầng 7 toà nhà chính của Đại học Thanh Hoa, bị cưỡng bức mặc bộ trang phục hồi thăm Indonesia, và bị choàng lên cổ một chiếc “dây chuyền” cực lớn xâu bằng những quả bóng bàn. Màn kịch xấu xa trên đã bộc lộ hết sự hẹp hòi, đố kỵ, tâm lý đen tối và nhân cách hạ đẳng của Giang Thanh. Hôm sau, tin ảnh về “ba lần thẩm vấn Vương Quang Mỹ” xuất hiện trên các bản tin của Hồng vệ binh làm chấn động dư luận thế giới, sự tôn nghiêm của Lưu Thiếu Kỳ trên cương vị Chủ tịch Nhà nước Trung Quốc bị quét sạch trơn.
Đầu tháng 7-1967, 1,5 vạn người đại diện cho hơn 500 tổ chức tạo phản ở Bắc Kinh và hàng chục tỉnh thành khác, dựng trên 7.000 chiếc lều kéo dài hàng chục dặm từ cửa tây tới cửa bắc Trung Nam Hải, tuyên bố thành lập “Bộ chỉ huy hoả tuyến đấu Lưu Thiếu Kỳ”, 500 loa phóng thanh công suất lớn ra rả suốt ngày đêm phê phán Lưu. Mao hài lòng thấy Lưu bị bao vây trong thiên la địa võng của Hồng vệ binh. Ngày 13-7, Mao rời Bắc Kinh “tuần du phương Nam”. Chuyến tàu chở Mao vừa chuyển bánh, Giang Thanh liền thúc giục Hồng vệ binh đấu Lưu Thiếu Kỳ.
Ngày 18-7, phái tạo phản đồng thời đấu ba cặp vợ chồng Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Đào Chú tại nơi ở của họ trong Trung Nam Hải. Ngày 5-8, kỷ niệm một năm ngày Mao viết bài “Nã pháo vào bộ tư lệnh”, Tổ cách mạng văn hoá tổ chức cuộc họp một triệu người tại quảng trường Thiên An Môn, hỏi tội Lưu, Đặng, Đào, đồng thời tổ chức đấu họ tại nơi ở. Hôm ấy, Lưu Thiếu Kỳ bị đánh sưng mặt, tuột cả giày.
13-9-1967 là ngày gia đình Lưu ly tán: bà Vương Quang Mỹ bị bắt giam, ba người con ở tuổi đi học buộc phải vào trường chịu thẩm tra, bé út 6 tuổi phải theo bảo mẫu ra khỏi Trung Nam Hải. Lưu Thiếu Kỳ bị giam ngay trong Văn phòng Chủ tịch nước. Mao muốn giày vò Lưu ngay trước mắt mình, muốn thấy ông ta từng bước suy sụp về tinh thần và thể chất, từng bước đi vào chỗ chết. Lợi dụng học sinh đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ, nhưng Mao vẫn quan tâm đến hiến pháp và pháp luật. Mọi người thấy đấy: Mao không hề hạ lệnh bắt Lưu, không giam Lưu vào nhà tù, không cử người ám sát hoặc ra lệnh xử bắn Lưu; Lưu vẫn là Chủ tịch nhà nước Trung Quốc, vẫn ở trong Văn phòng Chủ tịch của ông ta; còn việc quần chúng không ủng hộ, muốn lật đổ ông ta, thì đấy là phong trào quần chúng tự phát, trách ai được. Nếu truy cứu vụ án bức hại Chủ tịch nước cho đến chết thì chẳng nắm được sơ hở nào của Mao, rất khó mà định tội. Mao không bảo Lưu phải ngừng thực thi chức quyền Chủ tịch nước, không nói phải giam Lưu, đấu Lưu, về văn tự chẳng để lại dấu vết nào. Việc quy Lưu là phản bội, nội gian, công đoàn vàng, thì với tư cách Chủ tịch Đảng, Mao không ký, mà do Chu Ân Lai thay mặt Ban chấp hành trung ương ký. Thế là Mao lẩn hết trách nhiệm. Hành động chính trị lưu manh này là sự sa đoạ về phẩm chất chính trị của Mao. Nhưng Mao không thoát khỏi sự phán xét của Toà án đạo đức.
Năm ấy Lưu đã 69 tuổi, sự bức hại đối với ông ngày càng gia tăng. Mấy lần đấu đá khiến ông tổn thương nặng nề cả về tinh thần và thể chất. Tay ông bị thương trong chiến tranh, qua mấy lần bị đánh, nay không tự do cử động được nữa, mặc một chiếc áo cũng phải mất hàng giờ. Mỗi bữa ăn, khoảng cách đến nhà ăn chỉ chừng 30 mét, mà ông phải lê đôi chân bị thương đi mất 50 phút. Người ta đã nhắc nhở lính canh không được đỡ Lưu. Về sau Lưu không đi nổi, phải mang cơm tận nơi, rồi lại một lần mang cơm cho mấy bữa, cơm thiu cũng mặc. Lưu chỉ còn 7 chiếc răng, ăn uống như vậy khiến ông thường bị tiêu chảy, lại không thể thay quần áo, trong phòng hôi thối nồng nặc. Ngày nào cũng bị đấu, quanh phòng đầy khẩu hiệu làm nhục ông, tên ông chúng viết thành Lưu Thiếu Cẩu. Ông đầy lòng căm phẫn mà không nói ra được, muốn nghỉ ngơi mà không được yên, có bệnh không được chữa chạy. dần dần tâm trí hoảng loạn, sụp đổ về tình thần.
Khi chân lý trong tay, Mao có thể bao dung các đối thủ, đoàn kết phe phản đối. Thường khi Mao đuối lý, phát hiện mình sai rồi, thì ông ta không thể bao dung phái phản đối, mà quyết tâm đẩy họ vào chỗ chết, để trừ hậu hoạ. Đó là lý do vì sao Mao tàn bạo đến tận cùng đối với những người bạn cũ như Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài…
♦ ♦ ♦
Chương 26
Nhân dân run rẩy trong cuộc khủng bố đỏ
Ở Trung Quốc, từ khi có trường học kiểu mới liền có phong trào học sinh. Từ thời đại Bắc Dương đến Tưởng Giới Thạch, phong trào học sinh xuất hiện trên vũ đài lịch sử với tư thế yêu nước, tiến bộ, cách mạng, trở thành lực lượng tiên phong thúc đẩy xã hội tiến bộ. Chưa một nhà thống trị nào có thể lợi dụng học sinh làm điều xấu. Chỉ có Mao Trạch Đông làm nổi việc này. Mao đã lợi dụng học sinh làm rối loạn cả xã hội, lật đổ cơ quan đảng và chính quyền các cấp, mượn bàn tay học sinh để giày vò các bạn chiến đấu hôm qua, đối thủ chính trị hôm nay.
Từ 18-8 đến 26-11-1966, Mao 8 lần tiếp tổng cộng 13 triệu Hồng vệ binh từ các nơi trong cả nước đến Bắc Kinh “xâu chuỗi”, sự cuồng nhiệt sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông sôi lên sùng sục, Mao là “mắt bão” làm cho cơn bão đỏ tạo phản tràn khắp Trung Hoa. Hồng vệ binh được tâng bốc lên tận trời xanh, khiến họ nảy sinh ảo tưởng vô cùng tận. Vào lúc con em dân thường bất bình vì các vị trí công tác tốt đều lọt vào tay con em cán bộ, Mao kêu gọi đánh đổ “phái cường quyền đi con đường tư bản”, tức là đánh đổ bố mẹ những học sinh được ưu đãi kìa, các học sinh xuất thân dân thường liền đứng lên tạo phản. Để thoát khỏi thế bị động, học sinh con em cán bộ cũng tham gia tạo phản với tư thế còn “tả” hơn, họ không lôi bố mẹ mình, mà lôi cấp trên, đồng cấp hoặc cấp dưới của bố mẹ ra đấu. Bất kể là con em cán bộ hay dân thường, tất cả đều phát điên. Mao ủng hộ và ra lệnh bảo vệ những hoạt động tạo phản này. Quân đội và công an đều được lệnh cấm nổ súng vào Hồng vệ binh, kể cả bắn doạ, bị chúng đánh cũng không được đánh trả. Hồng vệ binh kéo nhau đi lục soát, đập phá, bắt bớ phê đấu cán bộ lâu năm, các giáo sư và văn nghệ sĩ nổi tiếng. Họ không có sức đánh trả, nên chúng chẳng gặp nguy hiểm gì, mà lại được nhiều không kể xiết. Đó là cơ sở tư tưởng sâu xa của phong trào Hồng vệ binh.
Khởi đầu bằng việc đập phá tượng Thích ca mâu ni trên Phật Hương Các ở Di Hoà Viên, Hồng vệ binh đã phá hoại 4.922 trong số 6.843 di tích cổ ở Bắc Kinh. Theo thống kê chưa đầy đủ, cả nước có 10 triệu nhà bị lục soát, trong đó Bắc Kinh 11,4 vạn, Thượng Hải 10 vạn. Nhà riêng nguyên Bộ trưởng Giao thông Chương Bá Quân bị Hồng vệ binh chiếm làm trụ sở, hàng vạn cuốn sách ông lưu trữ bị chúng đốt suốt ngày đêm để sưởi ấm. Hơn 200 sinh viên Đại học Sư phạm Bắc Kinh kéo về Sơn Đông “san bằng” mộ Khổng Tử. Lăng mộ của nhiều nhân vật lịch sử hoặc danh nhân như lăng Viêm đế, mộ Hạng Vũ, Gia Cát Lượng. Thành Cát Tư Hãn, Chu Nguyên Chương, Ngô Thừa Ân, Từ Bi Hồng… bị đập phá.
Mao còn tạo ra cuộc khủng bố đỏ, cho Hồng vệ binh nông dân thả sức giết hại “kẻ xấu” (địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phái hữu, nhà tư bản, xã hội đen) để áp chế sự phản kháng của nhân dân. Chỉ riêng hạ tuần tháng 8-1966, nội thành Bắc Kinh đã có hàng ngàn người bị đập chết tươi.
Nhiều người khi ấy đã được chứng kiến những cuộc tắm máu, những kiểu giết người cực kỳ man rợ như thời trung cổ. Ôn lại chuyện trên, cựu Hồng vệ binh Trần Hướng Dương sau này viết:
“Vì sao những đứa trẻ mười mấy tuổi đầu lại dã man giết người không chớp mắt như vậy? Vì từ nhỏ đã được giáo dục hận thù. Thù địa chủ, thù nhà tư bản, thù Quốc Dân Đảng: Trả thù bằng thủ đoạn tàn nhẫn là thiên kinh địa nghĩa, vấn đề duy nhất là không biết chĩa vào đâu. Kè thù bên cạnh đã bị các bậc tiền bối quét sạch rồi, còn lại Tưởng Giới Thạch và đế quốc lại ở quá xa, không với tới được. Đại cách mạng văn hoá vừa nổ ra, mới đột nhiên biết quanh mình còn ẩn náu nhiều kẻ thù, chúng tôi vui mừng đến phát cuồng, bao nhiêu sức lực dồn nén dều bung ra. Sự cuồng loạn ấy chẳng những hiện nay không mấy ai tin, mà ngay bản thân chúng tôi nhớ lại cũng không dám tin nữa. Những việc làm xấu xa của Hồng vệ binh thật đáng nguyền rủa, nhưng chúng tôi cũng có đủ tư cách lớn tiếng hỏi lại: ai đã giáo dục chúng tôi thành những thằng điên?
Bắc Kinh "nêu gương", những vụ tàn sát lan ra cả nước. Huyện Đạo ở Hồ Nam là một trong những điển hình. Khắp nơi là những bố cáo giết người của “toà án tối cao bần nông và trung nông lớp dưới", những khẩu hiệu kêu gọi giết sạch 4 loại người, (địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phái hữu).
Trong hai tháng 7 và 8 năm 1967, Quan Hữu Chí, Trưởng ban vũ trang khu Thanh Đường đã chỉ uy dân quân dùng cuốc xẻng, súng bắn chim, gậy gộc giết hại 207 người, kể cả trẻ em. Do công lao trên, y được bầu là “phần tử tích cực học tập và vận dụng tư tưởng Mao" cấp tỉnh năm 1967. Viên Phủ Lễ, Khu trưởng Lâm Phô tổ chức 120 dân quân nòng cốt trong ba ngày giết 569 người.
Trần Đăng Nghĩa, Chủ tịch Hội Bần nông Đại đội sản xuất Hạ Tưởng là thủ phạm chính trong một vụ giết người, cưỡng dâm tập thể. Thấy vợ mới cưới của con em địa chủ Trần Cao Tiêu xinh đẹp, y sinh lòng ghen ghét và sớm có ý đồ bất lương, thì nay thời cơ đến. Tối 26-8-1967. Nghĩa cho gọi Tiêu đến trụ sở đại đội và trói nghiến lại. Y cầm giáo đâm một nhát vào dùi anh Tiêu, rồi khoát tay ra hiệu. 7,8 dân quân xông vào dùng gậy đập anh Tiêu chết tươi. Để chứng tỏ mình “kiên quyết cách mạng”, y dùng mã tấu cắt đầu anh Tiêu, cùng hai con em địa chủ, phú nông khác cũng vừa bị đánh chết. Chị Tiêu (xuất thân bần nông) sợ quá trốn về nhà mẹ đẻ ở làng khác, Nghĩa cho dân quân bắt chị trở lại, y tuyên bố các nơi khác vợ địa chủ đều phải “phục vụ tập thể bần nông”.
Sau khi cơm no, rượu say, Chủ tịch Hội Bần nông và dân quân, tất cả 12 tên, luân phiên cường hiếp chị Tiêu khi ấy đang mang thai 3 tháng. Xong xuôi. Nghĩa không quên thực hiện “chính sách của ĐCSTQ”: cho dân quân khiêng nạn nhân đã ngất xỉu đến nhà bần nông Trần Nguyệt Cao, buộc chị làm vợ người nông dân già độc thân này.
Cô giáo Chu Quần ở Đại đội sản xuất Hoành Lĩnh xuất thân bần nông, kết hôn với Tưởng Hán Chính xuất thân địa chủ, họ đã có với nhau ba mặt con. Tưởng Hán Chính bị bắt ngay hôm đầu. Đêm 26-8-1967, Bí thư chi bộ Đường Hưng Hạo cùng Tiểu đoàn trưởng dân quân Tưởng Văn Minh xông vào nhà bắt chị Chu đưa ra sân kho. Tại đây chị thấy dân quân mang súng, mã tấu đang quây tròn quanh 14 người đều là con cháu địa chủ, phú nông, họ đều bị trói giật cánh khuỷu bằng dây thép. Đường hạ lệnh dẫn họ lên núi Mộc Phong, nơi có nhiều hang sâu hàng chục mét. Dọc đường, có người nhắc Bí thư chi bộ vợ chồng Tưởng Hán Chính-Chu Quần còn ba trẻ nhỏ, y cho người quay lại bắt cả ba đứa mang theo. Tới nơi, y bắt mọi người đứng im không được nhúc nhích, rồi tuyên bố: “Chúng tao là Toà án tối cao của bần nông, hôm nay tuyên án xử tử hình tụi bay!” Bí thư chi bộ bắt đầu đọc tên, lần lượt giết từng người một.
Lối hành hình của chúng mang “đặc sắc bản địa”: bắt nạn nhân quỳ bên miệng hang, dùng xà beng quật vào sau não cho gục xuống, rồi đạp xuống hang… Người thứ 3 là Tưởng Hán Chính, anh sợ hãi không lê nổi đôi chân, bị dân quân lôi đến cửa hang. Mấy đứa trẻ sợ quá, vừa khóc, vừa la hét. Người thứ 4 là thầy thuốc Đông y Tưởng Văn Phàm, ông ung dung xin ngụm nước để đi vào cõi chết. Dân quân quát: “Làm gì có nước cho mày uống?”. Ông nói: “Trước khi chết tôi xin ngụm nước có gì quá đáng đâu, ngày xưa khi chặt đầu còn cho 3 chiếc bánh bao nóng!” Vừa nói xong đã bị đạp xuống hang sâu.
Người thứ 8 là Chu Quần. Ba đứa trẻ nhìn mẹ bị hại, khóc lóc thảm thiết. Không biết ngất đi trong bao lâu, Chu Quần bỗng thấy tiếng gọi mẹ văng vẳng bên tai. Tỉnh lại, chị thấy đứa con gái 8 tuổi nằm bên, thì ra mấy cháu cũng bị ném xuống hang theo mẹ. Nhờ đống xác người bị giết trước, hai mẹ con chị sống sót. Chị bảo con cởi trói cho mình. Hôm sau, những kẻ giết người phát hiện dưới hang còn người sống sót, liền ném đá xuống. Hai mẹ con từ tầng trên rơi xuống tầng dưới nơi có những góc chết. Chị phát hiện chồng và hai đứa con trai nằm ở đó. Cả nhà may mắn thoát chết, một cuộc đoàn tụ hiếm hoi và thảm thương trên đống xác người dưới hang sâu tối tăm, lạnh lẽo. Anh Tưởng đã hoảng loạn, sợi dây thép trói chặt quá không làm sao cởi ra nổi, anh đi đi lại lại trên đống xác người, miệng lảm nhảm như mê sảng. Chẳng biết mấy ngày đêm qua đi, cả ba đứa trẻ lịm dần tất thở. Anh Tưởng khát, chị Chu lấy áo thấm vào vũng nước trộn máu, vắt ra cho chồng uống, Song anh không nuốt nổi, gục đầu xuống lìa đời. Sau nhờ hai học sinh đến cứu, chị thoát chết, và vụ giết người rùng rợn này mới có ngày được phơi trần.
Theo tư liệu điều tra của tỉnh Hồ Nam, trong 66 ngày từ 13-8 đến 17-10-1967, huyện Đạo có 4.519 người thiệt mạng, gồm 4.193 người bị giết, 326 người bị buộc phải tự sát.
Trong cơ cấu chính trị đương thời, số “tiện dân” nghe nói chiếm 5% này hoàn toàn không phải có thể có hoặc không, mà nhất thiết phải có. Đó là chiến lược quan trọng để ổn định 95% kia. Ý nghĩa của hòn đá đệm chân này là: có thể làm cho càng nhiều người về tinh thần say sưa với vị trí “người thống trị” mà quên mất cảm giác bị trị, cảm thấy mình may mắn thuộc 95% và lo sợ bị rơi vào 5% kia, từ đó được cân bằng tâm lý trong sợ hãi. Nó khiến đông đảo công chúng dịu đi nỗi đau thiếu thốn vật chất và sự nghẹt thở về tinh thần. Đó là lý do vì sao sau cải cách ruộng đất, Mao Trạch Đông vẫn nhấn mạnh “lấy đấu tranh giai cấp làm then chốt”, kích động sự đối lập giai cấp ở nông thôn.
♦ ♦ ♦
Chương 27
Mao Trạch Đông chơi trò chính trị lưu manh
Chương này kể lại việc Mao Trạch Đông bức hại Bành Đức Hoài và Hạ Long, hai vị nguyên soái từng lập công rất lớn trong chiến tranh giải phóng, là bạn chiến đấu trung thành của Mao. Khi đã quyết tâm mượn tay Hồng vệ binh đẩy hai người vào chỗ chết thảm khốc, Mao vẫn giả dối tỏ ra quan tâm và tin cậy họ.
♦ ♦ ♦
Chương 28
Nhân vật số 4 đại bại dưới chân Giang Thanh
Đào Chú sinh năm 1908 được coi là bậc cách mạng lão thành ở Trung Quốc. Mao Trạch Đông từng nói Đào như con trâu có cặp sừng mạnh, dám chọi lại bất cứ ai. Năm 1953, Đào từng phê bình Lưu Thiếu Kỳ mắc sai lầm “tả” khuynh trong Cải cách ruộng đất. Đại cách mạng văn hoá bùng nổ, đang là Bí thư thử nhất Cục Trung Nam kiêm Chính uỷ thứ nhất Đại quân khu Quảng Châu, Đào được Mao điều lên Trung ương, đề bạt vượt cấp vào vị trí thứ 4 trong Đảng, giữ chức Thường trực Ban Bí thư, Phó thủ tướng, Trưởng ban Tuyên truyền, Cố vấn Tổ Cách mạng văn hoá. Rõ ràng Mao muốn ông ta xông pha trận mạc, đóng vai trò lớn trong cuộc đấu tranh lật đổ Bộ tư lệnh của Lưu Thiếu Kỳ.
Nhưng Đào Chú quả thật lạc hậu với tình hình chính trị trong nước. Ông chỉ coi Tổ Cách mạng văn hoá là một tổ chức lâm thời lệ thuộc Bộ Chính trị. Ông rất phản cảm với Giang Thanh, coi chức Tổ phó của mụ thấp hơn một Thứ trưởng, nên đã đề nghị Chu Ân Lai bổ nhiệm Giang làm Thứ trưởng Bộ Văn hoá “để có danh nghĩa liên hệ công tác”. Ông say sưa với việc khôi phục hoạt động của Ban Bí thư, mà không biết rằng Mao đã tính chuyện để Tổ cách mạng văn hoá thay thế chức năng Bộ Chính trị và Ban Bí thư.
Một lần Giang Thanh ép Đào Chú đến Viện Khoa học xã hội tuyên bố Chủ biên tạp chí “Nghiên cứu triết học” Ngô Truyền Khởi là phái “tả”. Đào Chú không đi, Giang đập tay vào thành ghế xalông, trợn mắt lớn tiếng: “Ông phải đến đó ủng hộ Ngô Truyền Khởi, không đi không được!” Một tiếng “chát” dữ dội, Đào Chú đập tay xuống mặt bàn, mấy cốc trà nảy cả lên: “Tôi không đi! Đây là tổ chức của Đảng cộng sản. Bà can thiệp quá nhiều rồi!” Đào Chú muốn nói Đảng có hệ thống tổ chức, bà không phải uỷ viên Trung ương, có tư cách gì chỉ huy uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị?
Câu nói trên không sai, lý ra là như thế. Nhưng trong Đại cách mạng văn hoá, Đảng cộng sản Trung Quốc trên thực tế đã trở thành giang sơn riêng của vợ chồng Mao-Giang rồi, Giang ra lệnh với thân phận Hoàng hậu, đại bất kính với Hoàng hậu là đại bất kính với Hoàng đế, làm sao Mao Trạch Đông có thể bỏ qua?
Giang Thanh sững người không nói nên lời. Từ khi nhậm chức Tổ phó Tổ Cách mạng văn hoá đến nay chưa ai dám đương đầu với bà ta như vậy. Được Mao ngầm cho phép, Giang quyết tâm lật Đào. Ngày 28-11-1966, tại lễ duyệt đại quân văn nghệ, Giang Thanh nói: “Mao Chủ tịch và các chiến hữu của người Lâm Bưu, Chu Ân Lai, Trần Bá Đạt, Khang Sinh… đều khẳng định thành tích của chúng ta”. Trong câu trên, Đào Chú ở vị trí thứ 4 (sau Chu Ân Lai) không được nhắc đến, có nghĩa là Đào không còn là “bạn chiến đấu thân thiết” của Mao, có thể “nã pháo” vào ông ta được rồi.
Đúng vào lúc đó, Đào Chú gửi báo cáo lên Mao Trạch Đông, kiến nghị cho Vương Nhiệm Trọng thôi chức Tổ phó Tổ cách mạng văn hoá, trở lại Cục Trung Nam, trước mắt chủ yếu là chữa bệnh. Bất ngờ, Mao yêu cầu họp liên tịch giữa Bộ Chính trị và Tổ Cách mạng văn hoá đề góp ý kiến với Vương.
Cuộc họp diễn ra vào 28-12 dưới sự điều khiển của Chu Ân Lai, ngoài các uỷ viên Bộ Chính trị, toàn thể thành viên Tổ Cách mạng văn hoá có mặt, nghĩa là thân phận của họ ngang với các uỷ viên Bộ Chính trị. Họ hăng hái phát biểu, Vương Lực, Quan Phong. Thích Bản Vũ ra đòn trước, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên đóng vai trung phong. Giang Thanh, Trần Bá Đạt, Khang Sinh phát biểu tổng kết. Trước tiên họ phê phán Vương Nhiệm Trọng, rồi gió đổi chiều chĩa sang Đào Chú, phê phán ông đàn áp quần chúng, bảo vệ phái đi con đường tư bản, là phái bảo hoàng lớn nhất ở Trung Quốc, đại diện cho đường lối phản cách mạng Lưu-Đặng. Chỉ có 2 uỷ viên Bộ Chính trị phát biểu: Lý Tiên Niệm nói phương thức và phương pháp công tác của Đào Chú “không theo kịp tình hình”; Lý Phú Xuân nói “Tôi thấy để lão Đào cũng về Trung Nam cho yên chuyện”.
Hôm sau. Mao triệu tập Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng, khen Đào Chú “làm việc tích cực, có trách nhiệm”, rồi chuyển sang phê bình Giang Thanh quá phóng túng, chưa qua Trung ương chính thức thảo luận mà nói một uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị mắc sai lầm về phương hướng, đường lối, rồi tuỳ tiện phê phán trong cuộc họp là vi phạm nguyên tắc tổ chức của Đảng”. Ngay sau đó, Mao gặp riêng Đào Chú, bảo Đào đi xem xét tình hình các tỉnh với tư cách uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị. Mao còn trao một danh sách 20 Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ, yêu cầu Đào bảo vệ khiến ông rất xúc động. Ông mang danh sách trên gặp Chu. Sau khi trực tiếp thỉnh thị Mao, trong cuộc họp buổi chiều hôm đó, Chu chính thức truyền đạt chỉ thị của Mao, và tuyên bố Đào Chú sẽ lên đường sau tết dương lịch. Nhưng ông không đi nổi nữa.
Ngày 30-12, “Đoàn tạo phản” Hồ Bắc lên Bắc Kinh, ra thông lệnh đòi Đào Chú nộp Vương Nhiệm Trọng. Vừa nhận chỉ thị của Mao bảo vệ một số cán bộ trong đó có Vương, Đào Chú như đã nắm được thượng phương bảo kiếm trong tay, bình tâm tiếp đoàn tạo phản trên tại Nhà Quốc hội. Vừa gặp, đám tạo phản đã như ong vỡ tổ. Chúng đến đây theo mật chỉ của Giang Thanh, cố ý gây chuyện nhằm lật đổ Đào Chú. Chúng hô khẩu hiệu, kết tội, chất vấn, nhục mạ Đào Chú 6 giờ liền.
Chiều 4-1-1967 khi tiếp “Đoàn tạo phản” Hồ Bắc, Trần Bá Đạt phê phán Đào Chú từ khi lên Trung ương không chấp hành đường lối của Mao, mà thực hiện đường lối Lưu-Đặng.
Giang Thanh nói Đào là đại diện mới của Lưu-Đặng. Ngay tối hôm đó, cửa tây Trung Nam Hải vang lên khẩu hiệu “Đánh đổ Đào Chú!” Loa phóng thanh trên ô tô liên tục phát lại phát biểu của Trần Bá Đạt lúc chiều. Ngày 8-1, Mao chỉ định Vương Lực làm Tổ trưởng Tuyên truyền Trung ương (tương đương Trưởng ban Tuyên truyền). Mao thừa nhận Đào Chú đã bị đánh đổ. Thật ra trong cuộc họp Thường vụ Bộ Chính trị mở rộng 10 ngày trước đó, Mao đã muốn phế truất Đào, nhưng thấy tình hình chưa thuận, liền quay sang diễn màn kịch bảo vệ ông, phê phán Giang Thanh, rồi nhắm trúng nhược điểm của Đào, khuyến khích Đào mạnh dạn đứng ra bảo vệ cán bộ cũ. Quả nhiên Đào Chú mắc mưu, đối chọi với Hồng vệ binh.
Từ 8-1, cơ quan hữu quan không gửi tài liệu cho Đào nữa, một tháng sau, điện thoại đỏ (dành cho lãnh đạo cấp cao) bị dỡ đi. Nơi ở của ông tăng thêm 4 lính gác. Đắc tội Giang Thanh, nhân vật số 4 trong Đảng bỗng chốc thành người tù. Tháng 3-1968, theo lệnh Giang Thanh, lực lượng canh gác Đào tăng lên 2 tiều đội, trong nhà có 3 vọng gác, một cửa trước, một cửa sau, một người luôn theo sát bên cạnh 24/24 giờ, lúc ngủ cũng có lính gác đứng cạnh giường. Tháng 8-1968, Đại hội phê phán Lưu-Đặng-Đào qui mô một triệu người được tổ chức trên quảng trường Thiên An Môn, chia làm ba khu vực, phê phán ba cặp vợ chồng Lưu, Đặng, Đào. Do phản kháng dữ dội, Đào Chú bị đánh thương tích đầy người. Tháng 8-1968 phát hiện Đào bị ung thư tuyến tuỵ, nhờ Chu Ân Lai can thiệp được phẫu thuật cắt tá tràng, 18-10-1969, Đào Chú bị đưa đi lưu đày ở An Huy, 43 ngày sau ông qua đời.
Việc Đào Chú bị đánh đổ với tội danh “phái bảo hoàng lớn nhất” đã chỉ ra phương hướng hành động cho các tổ chức tạo phản, không ai dám đứng ra bảo vệ các đảng uỷ nữa. Các bí thư tỉnh uỷ, tỉnh trưởng bị cô lập hoàn toàn. Bộ máy đảng và chính quyền các cấp bị Hồng vệ binh đánh cho tơi tả. Đầu tháng 1-1967, các phái tạo phản liên minh cướp quyền ở Thượng Hải. Ngày 14-1 cướp quyền ở Sơn Tây, rồi Quý Châu 25-1, Sơn Đông 27-1, Bắc Kinh 28-1, Hắc Long Giang 31-1… Tham gia ban lãnh đạo là có xe riêng, thư ký riêng, thật hấp dẫn, nên nhiều kẻ có dã tâm điên cuồng lao vâo các cuộc đấu tranh đoạt quyền, thế là diễn ra nội chiến toàn diện; bắt đầu là gậy gộc cuốc xẻng, rồi phái tạo phản cướp vũ khí của quân đội hoặc quân đội cung cấp vũ khí cho phái tạo phản mà mình ủng hộ, từ súng trường tự động đến súng máy, lựu đạn, thậm chí pháo lớn, ở Thành Đô sử dụng cả xe tăng. Qua 20 tháng xã hội đại loạn, đấu tranh cướp quyền và chống cướp quyền, 29 tỉnh và thành phố trực thuộc trong cả nước đã thành lập chính quyền mới mang tên Uỷ ban cách mạng. Các bí thư đảng uỷ và tỉnh trưởng hầu hết bị đánh đổ, đứng đầu chính quyền mà phần lớn là chỉ huy quân đội đóng tại địa phương, một số người cầm đầu các phái tạo phản tham gia chính quyền các cấp.
Vì sao tự huỷ hoại giang sơn như vậy? Phải chăng Mao Trạch Đông phát điên rồi? Không, Mao không điên, mục tiêu của ông ta là trị những người tham gia Đại hội 7.000 người và đồng liêu các cấp của họ, ghép cho họ tội danh “đi con đường tư bản chủ nghĩa”, đánh đồ hàng loạt. Mao cần trút lên đầu họ món nợ lịch sử làm chết đói 37,55 triệu người và gây thiệt hại 120 tỉ NDT, vì họ “xuyên tạc ba ngọn cờ hồng, làm hỏng mọi việc”. Rồi Mao trực tiếp lãnh đạo phái tạo phản đánh đổ “phái đi con đường tư bản” các cấp, cứu nhân dân khỏi bể khổ “phục hồi chủ nghĩa tư bản”, thế là Mao trở nên sáng suốt hơn, vĩ đại hơn, một lần nữa làm “đại cứu tinh” của nhân dân. Đó là bối cảnh chính trị Mao phát động cướp quyền từ trên xuống dưới.
Trong nhật ký ngày 9-1-1967, Lâm Bưu viết:
“Cuộc đấu tranh đoạt quyền ở Thượng Hải do B-52 (Mao Trạch Đông) uỷ quyền Rắn mắt kính (Trương Xuân Kiều) và Bà Nàng (Giang Thanh) thực hiện… Cướp quyền của ai? Bà Nàng thay B-52 nã pháo, đánh đập, cướp bóc, bắt người, đấu đá, gieo hận thù khắp nơi”.
♦ ♦ ♦
Chương 29
Tổ cách mạng văn hoá thay thế Bộ chính trị, tổ làm việc Quân ủy thay thế Quân ủy trung ương
Tổ Cách mạng vãn hoá trung ương ủng hộ phái tạo phản các nơi chống quân đội, làm loạn quân đội. Phó tư lệnh Đại quân khu Nam Kinh Nhiếp Phượng Trí bị phái tạo phản bắt cho vâo bao tải, đánh gãy 8 chiếc răng. Phó Tư lệnh Đại quân khu Nam Kinh kiêm Tư lệnh Hạm đội Đông Hải Đào cũng bị dìm trong giếng nước tại nhà khách của Hạm đội, đầu chúc xuống, chết sặc. Nhiều tướng lĩnh cấp cao bị tuỳ tiện bắt giam, khám nhà, hành hạ, có người tự sát, lãnh đạo Quân uỷ Trung ương lòng như lửa đốt.
Trong cuộc hội ý Thường vụ Quân uỷ mở rộng 19-1-1967, Trần Bá Đạt, Giang Thanh phê phán quân đội “đã ở bên bờ chủ nghĩa xét lại”, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Tiêu Hoa là “chính khách tư sản”. Diệp Kiếm Anh chủ trì công việc hàng ngày của Quân uỷ kiện lên Lâm Bưu. Lâm gọi ngay Giang Thanh đến, giận dữ phê phán Giang trực tiếp thọc tay vào quân đội, doạ gặp Mao xin từ chức. Giang túng thế, đổ lỗi cho Trần Bá Đạt, và xin lỗi Lâm. Trong nhật ký ngày 23, Lâm Bưu viết: “Lâm này quyết không để Bà Nàng thọc tay vào quân đội. Đưa quân đội vào trường học là chủ ý của B-52. Cổ động phe tạo phản đánh đổ phái đương quyền đi con đường tư bản trong quân đội cũng do B-52 chỉ huy, Bà Nàng châm ngòi, tấn công quân đội là nhằm vào ai đây?”
Trong các cuộc hội ý Bộ Chính trị ngày 11 và 16-2, có các thành viên Tổ Cách mạng văn hoá tham gia, nhiều uỷ viên Bộ Chính trị, nhất là Đàm Chấn Lâm và Trần Nghị, phản ứng gay gắt trước tình trạng nhiều cán bộ lão thành ở trung ương và địa phương bị đánh đổ. Các nguyên soái đoàn kết quanh Lâm Bưu phản đối Giang Thanh và Tổ cách mạng văn hoá can thiệp vào công việc của quân đội. Mao Trạch Đông thấy nếu không đứng ra chống đỡ, Tổ Cách mạng văn hoá có thể sụp đổ. Đại cách mạng văn hoá sẽ chết non, thế là ngày 15-2, Mao lệnh cho Quân đoàn 38 từ Cát Lâm về Bảo Định, thay thế Quân đoàn 69 (bị điều đi Sơn Tây), đưa vào biên chế của Đại quân khu Bắc Kinh. Sau ba ngày, toàn bộ Quân đoàn 38 đã có mặt, Mao vững tâm chơi bài ngửa với các nguyên soái đại thần. Sớm 19-2. Mao triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị, danh sách tham gia do Mao chọn, gồm: Chu Ân Lai, Diệp Quần (thay mặt Lâm Bưu), Khang Sinh, Lý Phú Xuân, Diệp Kiếm Anh. Lý Tiên Niệm, Tạ Phú Trị.
Mao nổi giận lôi đình, lớn tiếng:
- Tôi kiên quyết phản đối bất cứ ai chống lại Tổ Cách mạng văn hoá. Các người muốn phủ định Đại cách mạng văn hoá, để Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình trở lại cầm quyền, không làm nổi đâu. Diệp Quần về nói với Lâm Bưu vị trí của đồng chí ấy cũng không vững, có người muốn cướp quyền, để đồng chí ấy chuẩn bị. Nếu Đại cách mạng văn hoá thất bại, tôi lại cùng Lâm Bưu lên núi đánh du kích. Các người bảo Trần Bá Đạt, Giang Thanh không được, vậy hãy để Trần Nghị làm Tổ trưởng, Đàm Chấn Lâm làm Tổ phó Tổ Cách mạng văn hoá, chưa đủ thì mời thêm Vương Minh, Trương Quốc Đào trở lại, vẫn chưa đủ thì mời cả Mỹ và Liên Xô nữa, bắt Trần Bá Đạt. Giang Thanh mang ra xử bắn! Cho Khang Sinh xung quân! Tôi cũng thôi việc… Trần Nghị muốn lật lại vụ án chỉnh phong ở Diên An, toàn đảng không cho phép. Đàm Chấn Lâm là đảng viên lâu năm, sao lại đứng trên đường lối tư sản? Tôi đề nghị Bộ Chính trị thảo luận việc này, một lần không được thì hai lần, một tháng không xong thì hai tháng, Bộ Chính trị không giải quyết nổi thì phát động toàn đảng giải quyết.
Từ 25-2 đến 18-3, Bộ Chính trị mở rộng họp 7 lần, phê phán Trần Nghị, Đàm Chấn Lâm, Từ Hướng Tiền, Lý Phú Xuân, Lý Tiên Niệm, Diệp Kiếm Anh, Nhiếp Vinh Trăn.
Giang Thanh chỉ huy phê đấu 7 người, đồng thời tổ chức các cuộc biểu tình thị uy trên đường phố Bắc Kinh chống “Dòng nước ngược tháng 2”, với khẩu hiệu dùng máu tươi bảo vệ “Tổ Cách mạng văn hoá”. Sự kiện trên khiến 4 vị nguyên soái và 3 Phó thủ tướng trong tình trạng “nửa bị đánh đổ”.
Như vậy Bộ Chính trị tổng cộng có 4 người bị đánh đổ (Lưu, Đặng, Đào, Hạ), 9 người “nửa bị đánh đổ” (thêm Chu Đức, Trần Vân), rơi vào tình trạng tê liệt. Tổ Cách mạng văn hoá trung ương do Giang Thanh làm hạt nhân không những thay thế Ban Bí thư, mà còn thay thế cả Bộ Chính trị, trở thành cơ quan quyền lực cao nhất trong Đảng. Về danh nghĩa, có vẻ như Chu Ân Lai thay mặt Mao Trạch Đông lãnh đạo Tổ Cách mạng văn hoá, trên thực tế là Giang thay mặt Mao lãnh đạo và giám sát Chu. Quyền quyết sách tối cao nắm trong tay Mao, quyền chấp hành tối cao nằm trong tay Chu dưới sự giám sát của Giang Thanh. Lâm Bưu là công cụ răn đe tập đoàn Lưu-Đặng và cán bộ cũ, chẳng nắm được quyền hành gì. Quyền lực tối cao của Đảng và Nhà nước lặng lẽ chuyển sang tay Giang Thanh.
Câu nói của Mao “vị trí của Lâm Bưu cũng không vững” đã ly gián quan hệ giữa Lâm Bưu và các nguyên soái khác, từ đó, không còn tồn tại cục diện Lâm Bưu liên minh với Diệp Kiếm Anh, Từ Hướng Tiền, Nhiếp Vinh Trăn để đối kháng Tổ Cách mạng văn hoá. Đến khi Lâm Bưu chĩa mũi nhọn vào Từ Hướng Tiền và Phương diện quân thứ 4, Mao lại đứng ra bảo vệ Từ Hướng Tiền và các tướng lĩnh thuộc Phương diện quân trên. Lâm Bưu bị cô lập trong quân đội.
Ngày 20-7-1967, trong lúc Mao đang nghỉ ngơi ở Vũ Hán, Vương Lực và Tạ Phú Trị xuống đây, thay mặt Tổ Cách mạng văn hoá trung ương công khai ủng hộ phái tạo phản “Tổng bộ công nhân”, khiến phái “Bách vạn hùng sư” (được Đại quân khu Vũ Hán ủng hộ) nổi giận, Hai phái tổ chức đánh nhau dữ dội trên toàn thành phố, Vương Lực bị bắt giữ, Chu Ân Lai phải xuống tận nơi giải quyết, và bí mật chuyển Mao xuống Thượng Hải. Phái cách mạng văn hoá đổ lỗi cho Tư lệnh Đại quân khu Vũ Hán Trần Tái Đạo (người của Từ Hướng Tiền) đứng sau sự kiện này, nhưng Mao lại nói với Dương Thành Vũ:
- Nếu Trần Tái Đạo chống lại tôi, chúng ta không thể đi khỏi Vũ Hán.
Chiều 25-7, Giang Thanh cho tổ chức cuộc mít tinh một triệu người trên quảng trường Thiên An Môn hoan nghênh Vương Lực, Tạ Phú Trị từ Vũ Hán trở về như những người anh hùng. Lâm Bưu cùng những người thân tín đến dự đầy uy phong.
Lâm Bưu nói sự kiện Vũ Hán mang tính toàn quốc, cần nắm lấy cơ hội này để hành động, và dự báo “một tháng tới sẽ là thời kỳ mâu thuẫn gay gắt nhất trong cả nước”. Ngày 27-7, Lâm Bưu chủ trì một cuộc họp, quyết định cách chức Tư lệnh Đại quân khu Vũ Hán Trần Tái Đạo và Chính uỷ Chung Hán Hoa, bổ nhiệm Lưu Phong làm Chính uỷ thứ nhất, Tăng Tư Ngọc làm Tư lệnh Đại quân khu. Cùng lúc ấy, Mao chỉ thị Chu Ân Lai đón Trần Tái Đạo, Chung Hán Hoa, và cả Sư trưởng cùng Chính uỷ Sư đoàn độc lập về Bắc Kinh bảo vệ.
Ngày 1-8-1967 kỷ niệm 40 năm ngày thành lập quân đội Trung Quốc, Lâm Bưu là Phó Chủ tịch Quân uỷ Trung ương kiêm Bộ trưởng Quốc phòng, nhưng Mao lại giao cho Quyền Tổng tham mưu trưởng Dương Thành Vũ đọc diễn văn tại tiệc chiêu đãi, mọi việc để Dương báo cáo Chu Ân Lai chứ không báo cáo Lâm Bưu, lại chỉ thị rõ để các vị nguyên soái xuất hiện công khái trong dịp kỷ niệm này. Việc làm trên đã xoá sạch uy phong của Lâm Bưu trên thành lầu Thiên An Môn chiều 5-7. Chưa hết, xã luận tạp chí Hồng Kỳ ngày 1-8 năm đó viết Quân đội Trung Quốc do Mao Trạch Đông “đích thân sáng lập”, Lâm Bưu “trực tiếp chỉ huy”. Đọc mấy dòng trên, Mao sầm mặt, lẩm bẩm thốt lên: “Thì ra người sáng lập không thể chỉ huy quân đội!” Mao phê ngay vào đầu bài xã luận mấy chữ “ngọn cỏ độc lớn”. Xem tiếp, lại có câu “lôi ra một nhúm trong quân đội là phương hướng lớn của cuộc đấu tranh hiện nay” Mao nói làm như vậy ở thời điểm này là huỷ hoại quân đội và Mao viết thêm “trả lại ta trường thành” (quân đội).
Ngày 12-8, Chu Ân Lai truyền đạt cho Tổ Cách mạng văn hoá lời phê trên của Mao. Họ kinh hoàng, biết Mao đã thay đổi phương châm cách mạng văn hoá trong quân đội và sẽ có người phải hy sinh vì sự thay đổi này.
Được Mao cử làm Tổ trưởng Tổ Tuyên truyền trung ương, Vương Lực trong trạng thái đê mê, không còn biết trời cao, đất dày là gì nữa. Ngày 7-8, Vương đến Học viện ngoại ngữ cổ động cướp quyền ở Bộ Ngoại giao. Hôm sau, Hồng vệ binh áp giải hai Thứ trưởng Ngoại giao Cơ Bằng Phi và Kiều Quán Hoa ra Vương Phủ Tỉnh bán “Chiến báo phê Trần Nghị”, tin ảnh truyền sang Washington, London, Moskva… Ngày 22-8, lực lượng tạo phản đốt cơ quan đại diện Anh tại Bắc Kinh. Chu Ân Lai cử Dương Thành Vũ mang theo tư liệu liên quan về sự kiện trên xuống Thượng Hải báo cáo Mao. Sau hai ngày suy nghĩ, Mao bảo Dương Thành Vũ: “Vương Lực, Quan Phong, Thích Bản Vũ phá hoại Đại cách mạng văn hoá, không phải người tốt. Anh về báo cáo riêng với Chu Ân Lai, cho bắt 3 tên đó, yêu cầu Thủ tướng phụ trách xử lý”.
Ngày 23-9-1967, Mao về Bắc Kinh; cử Dương Thành Vũ làm Tổ trưởng Tổ làm việc Quân uỷ Trung ương, các thành viên khác là Ngô Pháp Hiến, Diệp Quần, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác. Dương Thành Vũ mấy lần theo Mao đi các tỉnh, thực hiện các chỉ thị của Mao, mỗi lần về Bắc Kinh chỉ báo cáo Chu Ân Lai, không báo cáo Lâm Bưu, đó là điều Lâm không thể chấp nhận. Nửa năm sau, tức tháng 3-1968, Lâm cùng Giang Thanh dựng lên “vụ Dương-Dư-Phó”, ép Mao Trạch Đông tán thành, đánh đổ Quyền Tổng tham mưu trưởng Dương Thành Vũ, Chính uỷ không quân Dư Lập Kim, Phó Tư lệnh Khu cảnh vệ Bắc Kinh Phó Sùng Bích.
Lâm Bưu cử Hoàng Vĩnh Thắng (Tư lệnh Đại quân khu Quảng Châu) làm Tổng tham mưu trưởng kiêm Tổ trưởng Tổ làm việc Quân uỷ. Mao đồng ý, vì Hoàng từng tham gia cuộc khởi nghĩa Vụ thu do Mao lãnh đạo.
♦ ♦ ♦
Chương 30
Kết cục bi thảm của Lưu Thiếu Kỳ
Khang Sinh, Giang Thanh tổ chức lực lượng lục lọi hàng triệu hồ sơ trong mấy thập kỷ trước để tìm kiếm chứng cứ kết tội Lưu Thiếu Kỳ nhưng không kết quả gì, liền cho bắt một số người từng làm việc trong các cơ quan tư pháp, cảnh sát, đặc vụ của Nhật Bản và Tưởng Giới Thạch doạ dẫm, ép cung, buộc họ “khai ra” những điều phù hợp ý muốn của ban chuyên án, làm “chứng cứ” kết tội Lưu Thiếu Kỳ “phản bội, nội gián, công đoàn vàng”, “tay sai của đế quốc xét lại, Quốc Dân Đảng”.
Từ 13 đến 31-10-1968, Hội nghị Trung ương 12 khoá 8 họp tại Bắc Kinh. Trong 97 uỷ viên Trung ương khoá 8 có 10 người chết, 47 người bị đánh đổ, chỉ còn 40 người đến họp. Mao đã cho bổ sung thêm 10 uỷ viên dự khuyết lên chính thức, cho đủ quá bán hợp lệ (50/97). Mao Trạch Đông chủ trì hội nghị, thông qua báo cáo thẩm tra về “tội ác” của Lưu Thiếu Kỳ do Giang Thanh đệ trình. Dưới sức ép của Mao-Lâm, bằng cách giơ tay biểu quyết, Hội nghị “nhất trí thông qua nghị quyết vĩnh viễn khai trừ Lưu Thiếu Kỳ ra khỏi Đảng”, chỉ có một phụ nữ không giơ tay: Bà Trần Thiếu Mẫn, uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Tổng Công hội Trung Quốc.
Nghị quyết công bố ngày 31-10, nhưng chờ đến 24-11, đúng ngày sinh thứ 70 của Lưu Thiếu Kỳ, Giang Thanh mới cho Lưu nghe băng ghi âm nghị quyết trên. Nghe xong, Lưu Thiếu Kỳ run bắn toàn thân, mồ hôi ra đầm đìa, thở dốc, huyết áp đột ngột lên 260/130, thân nhiệt lên tới 40 độ C.
Tối 17-10-1969, Lưu Thiếu Kỳ hơi thở thoi thóp, mũi cắm ống xông, họng gần ống hút đờm, phủ một tấm chăn, được cáng lên máy bay quân sự, bí mật đưa đến Khai Phong. Nơi cuối cùng giam giữ Lưu Thiếu Kỳ này nguyên là kho bạc của một ngân hàng từ trước năm 1949, các cánh cửa là những tấm thép dày, chấn song cửa sổ to đùng. Hai trung đội được cử canh giữ ngày đêm, với 4 khẩu súng máy đặt trên các nóc nhà xung quanh đề phòng bất trắc.
6 giờ 40 phút sáng 12-11-1969, ngày thứ 27 sau khi bị đưa đến lưu đày ở Khai Phong, Lưu Thiếu Kỳ qua đời trong tinh trạng không được cấp cứu. Khi Lý Thái Hoà, vệ sĩ của ông năm xưa đến nhận xác, thi hài vị Chủ tịch nước đặt trên nền đất dưới gian hầm, chân tay khẳng khiu, đầu tóc rối bời, miệng mũi méo xệch, máu ứ bên khoé mép. Người vệ sĩ dùng kéo xén bớt mái tóc bạc dài gần hai gang tay, sửa sang chòm râu, mặc quần áo, xỏ giày cho ông. Nhân viên chuyên án chụp ảnh để mang về trình Mao, Giang. Sau đó, họ đặt thi hài Lưu Thiếu Kỳ trên xe quân sự nhỏ, chân thò ra ngoài, bí mật đưa đi hoả táng, dưới cái tên “Lưu Vệ Hoàng, không nghề nghiệp”.
Gần 3 năm sau, ngày 16-8-1972, mấy người con của Lưu Thiếu Kỳ xin thăm cha mẹ, Mao Trạch Đông phê vào báo cáo của Tổ chuyên án: “Bố đã chết, có thể thăm mẹ”.
Lịch sử phải ghi bằng dòng chữ to đậm: Mao Trạch Đông chà đạp Hiến pháp nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, giam cầm trái phép Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ, và bức hại Người cho đến chết.
♦ ♦ ♦
No comments:
Post a Comment