Wednesday, May 18, 2011

VII. THỪA NHÀN 2


KIM CỔ KỲ QUAN VI
THỬA NHÀN 2



23

Kế hậu nhơn sanh ư Dần
Ba ngôi đồng đẳng quân thần quan dân

Thương cảnh Phật thánh hội ân
920. Cỏi trung Phật Thánh quan dân bịt đường

Hạ giái Diêm chúa khán tường
Hậu qui nhứt thống thái bường một ngôi

Không thẵng làm độ dân ôi!
Đời nầy tích của để thôi làm gì

Tích đức phùng thiện Hương kỳ
Tích tài để oán biên thuỳ người ôi!

Đời nầy cổ thiệt tanh hôi
Hậu lai đệ tử chúa tôi nan tầm

Bửu-sơn thế yếu âm thầm
930. Kỳ-hương đơn quế tốc tầm quảng thinh

Bao giờ Phật thức tánh linh
Trời cho phép lạ âm binh hộ tùng

Tưởng ơn sư phụ tạm dùng
Quán trung rước khách chiêu hùng võ văn

Vô tài hữu thực chuyên năn
Hữu sư hữu đệ lạc căn nan tầm

Làm tôi phò chúa sợ lầm
Có đâu ngang dọc không nhằm phép khuôn

Hậu vô đệ tử lụy tuông
Nhứt sư an trị tròn vuông gia tề

Ở đây éo xách nhiều bề
Mai dời chỗ khác hội thề bá gia

Thân con nghỉ lại thân cha
Cuộc thời khác cuộc nghỉ ra một bề

Tàu Tây lộ lở dựa kề
Chiều qua cha sở mai vìa con Tiên

Thuở xưa Đường-Tống hoà phiên
Lời ghi hai nước Thánh Tiên trị vì

Cận đại viển tiểu nương tùy
950. Xôi kinh nấu Sử trị vì mới an.

Chùa hư miễu nát tan hoang
Huỳnh Thanh a ý Tàu mang khuấy đời

Con nhà Ngũ-đế của Trời
Huỳnh Thanh Hắc bạch tùng thời châu-vương

Khúc tùng tác loạn đao thương
Hai người trung trực oan ương lỡ thời

Bất tùng Thánh đạo Phật Trời
Mưu gian hại ngã giữa vời chẳng an

24

Tới nơi lộ lở sửa sang
Qui lai lục tỉnh dạy an đạo mầu

Lòng ai sớm đánh tối đầu
Âm thinh ba tiếng mất hầu Phật Vương

Cận Phật xa chí vùa hương
Cận hầu xa chí Phật vương bất hòa

Bất an tâm tánh trẻ già
Qui châu phế Trụ xử mà mạt Thương

Tiêu mất hồn xác thịt xương
Đừng chê Tiên Thánh Phật-Vương mà lầm

Ngoài nghe súng nổ ầm ầm
Long-Châu ẩn tích ăn nằm thảnh thơi

Thấy người khi Phật nói chơi
Chừng nào thấy họa mệt hơi cho người

Rẻ ăn rẻ nói rẻ cười
Mắc trong tâm phúc đố người thấy đâu

Thả chà nhử cá bực sâu
Còn đua mặt biển thấy đâu đóng chà

Kình ghê giởn lội là đà
Sao chưa dựa bực ẩn chà bao đăng

Không mồi chê chổ không ăn
Còn đương kiếm chác dởn trăng vui cười

Sơn đông ỷ giỏi chi người
Sơn Tây có phép chín mười xem coi

Sơn Tây có phép kiến soi
Có tài trì huệ xem coi Phật trời

Ngó thấy động tịnh trong đời
Thấy ngoài càn điện thấy thời Thánh Tiên

Thương đời trời phật chẳng yên
Nhơn dân gọi hiển nước Phiên cơ cầu

Nghe thôi nghẹt mũi nhức đầu
Năm canh thổn thức dạ sầu lụy tuông

Trời tròn chỉ thị đất vuông
Biển tròn như nhựt nước tuông không chừng

Cho nên thiên địa bất thuần
Chuyển luân vạn lý không chừng mới sai

Thiên viên địa phúc bất khai
Nhựt trầm nhựt tuyệt nguyệt khai nguyệt lì

Âm dương giao hội ngoại lìa
Dư ngoài bốn gốc bốn bìa bốn ngôi

Qui tà cải chánh thế thôi
1000.Hạ-ngươn đem dạ bạc vôi bất tùng

25

Hậu lai tà quỉ xưng hùng
Bàn môn bá đạo bất tùng Thánh Tiên

E người độ giải chẳng yên
Phật Trời phế thế xưng tiên dối phàm

Cỏi trần cũng phải lo làm
Đừng tham ít tội thân phàm để chi

Cư an tâm tất lự nguy
Bất an da trạch tắt tri vận thời

Long đong nay đổi mai vời
Khó theo việc khó cãi Trời dễ chi

Thường hành chiêm ngưỡng xét suy
Việc nào tội phước thức tri tâm tà

Chẳng xét Thánh đạo rừng già
Trung thiên khổ hạ quỉ tà rừng thông

Trung niên tuý mẹo hiệp công
Đáo đầu niệm Phật tỏ trong chánh tà

Xét theo tâm chánh Di Đà
Tỵ trần lánh ngử xác mà kể chi

Bại thành thiên lý chiếu tri
Vị nhiên thiên tất ngôn khi nan hoà

Đâu đâu vi phú cửa nhà
Vi nhơn ít kẻ sau mà còn chi

Minh tâm thích chí trí tri
Phật trời soi xét kể chi mắt phàm

Từ ngôi Thánh chúa ra làm
Một muôn năm chẳng ngoài phàm nhị thiên

Phân chư lịch sách Đại-miêng
Bất tùng Thánh giáo nhị thiên tiêu điều

Văn chương kim-cổ thiệt nhiều
Bất tùng Thánh đạo tiêu điều lòng khi

Tầm sư học đạo để chi
Việc nào bất chánh bất tri hỏi Thầy

Hoang mang dạ bạc nương ngày
Cải tâm vong tớ phụ Thầy rằng ma

Về nhà tự ý xướng ca
Độ phù thuốc núi thiệt ta giỏi rày

Vong ngôn phản đạo phụ Thầy
Giỏi mà không giỏi có ngày lâm nguy

Hết lợi tới hại một khi
Hết vinh tới nhục lâm nguy tiêu điều

Việc nào dục lợi cho nhiều
Thuỹ . . . thũy . . . tiêu điều lợi đa

26

Lòng dân tâm quỉ tánh ma
Mười người xuống chốn Diêm la chín người

Vui chi hớn hở vui cười
Phước đâu không thấy họa người tới đây

Phước thời gặp phước mới hay
Họa thời gặp họa thương thay nhiều người

Bạc chì mong sánh vàng mười
1050. Vui đâu chúc đó thương người vô tâm.

Thương người vào quán thi ngâm
Khác nào Bùi-kiệm Trịnh-hâm mưu thầm

Xưa sao nay vậy chẳng lầm
E tài cùng sách mưu thầm giết nhau

Thấy đời không bịnh phải đau
Thiệt vàng thì ít giả thao thì nhiều

Cám thương trần hạ chín chiều
Lâm nguy niệm Phật thấy nhiều người thôi

Dục tốc bất đạt người ôi!
Đắng cay phải chịu làm tôi phải cần

Tố vi quân tố vi thần
Quấc loạn thức tướng gia bần thức thân

Gia bần cậy họ làm ân
Quốc nguy phải cậy quan dân tâm tình

Lịnh trên há muốn một mình
Muốn cho tứ hải hiệp tình lo âu

Thái-Công xưa một cần câu
Nương theo sông vịnh biết đâu trí tài

E người lầm quán bất tài
Thuốc tiêu thuốc dán thương ngài trí tri

Sự đời dỉ thiệt cáo chi
Khuyên lòng nam nữ xét suy tốc trì

Nhẹ phấn nặng nữa thì chì
Lao xao lời nói có gì không chi

Đời này nhiều kẻ ngu si
Xưng rằng quân tử thị phi lạ đời

Nói năng khác thế khác thời
Nói ra sợ lỗi Phật Trời mặc ai

Thấy đời hồ giả hổ oai
Đầu heo gộc chuối trái tai đem kề

Nhiều người ăn nói vụng về
Ra thân làm tớ muốn bề hòa hai

Dặn trước tích thiện huờn lai
Nghỉ đi xét lại chẳng ai tích lành

27

Xác mê mé biển đầu gành
Hồn mê âm phủ chẳng đành Tây-phương

Nước nhà như ngựa buông cương
Chừng nào Phật định tứ phương phục tùng

Khiến nên hội hữu anh hùng
Sao người không dạ lo dùng Tây-phương

Chẳng đền thủy thổ quốc vương
Lo tu thành Phật tây-phương mong vìa(dìa:về)

Ngọn rau tấc đất phân lìa
Ẩn vương nương Phật khó vìa Tây-phương

Chẳng biết kẻ ghét người thương
Lòng người như thể rương không bản lề

Dở ra trống lỏng bốn bề
Riêng ngăn riêng nắp vụng về cái rương

Lở chìa lở khóa oan ương
1100. Không ngăn không nắp lở rương để đồ.

Biết đâu cao nấm ấm mồ
Giữ thân cho vẹn giữ đồ thiệt ngu

Trai năm bảy thiếp vi phu
Gái thời tiết hạnh chí tu một chồng

Gái mà ăn ở hai lòng
Lưỡng phu thậm tội sát chồng hại tai

Nam trung thờ chúa chí trai
Nữ trinh tiết hạnh gái mai thờ chồng

Gọi rằng thảo thuận một lòng
Chữ tình trung hiếu đạo đồng quấc-vương

Làm sao cho khóa lìa rương
Làm sao lìa chúa Đại-vương lìa thần

Hữu tâm bất luận phú bần
Gia nguy quốc loạn ân cần mới thương

Đạo lý tối đại quấc vương
Sách còn chử đó cám thương tu hành

Tu tâm tích đạo làm lành
Tiên đường nội ngoại lập thành bàn linh

Mới rằng minh ý quản thinh
Lộng ngôn cuồng ngữ u minh bất tường

Nên thời gánh đất đấp đường
Chẳng nên dùng cuốc tâm cường tay bươi

Thẹn thùa lưởng dạ hổ ngươi
Nhứt tâm mài sắc tốt tươi kim vàng

Thời hưng xa mấy băng ngàn
Vận suy lấp ngỏ làm đàng mây mưa

28

Cơn vinh tay xá miệng thưa
Cơn nghèo kéo cặt tay đưa tỏ tường

Đi đâu năm bảy chục đường
Mà phân tiếng đó cang cường lộng thinh

Có ai ép dạ niệm kinh
Chê bề đạo đức bất linh khi rày

Công lao tiêu tứ vài ngày
Càng cao danh vọng càng dài gian nan

Anh hùng tận ý trung cang
Ưu quân ái quốc lo toan hội nầy

Mới rằng giữ dạ theo Thầy
Già bần hiếu tử tỏ bày hậu lai

Ít người tỏ đặng chiều mai
Mà vong Trời Phật hỏi ai phụ Thầy

Lời xưa dạy việc cấy cày
Ý ăn ý ở việc rày ngày sau

Tiện tặn con cá lá rau
Làm đâu kỷ lưởng ngày sau nên người

Yếu thời dùng chước người cười
Ở cho có trí hơn người tréo cao

Lưu lạc biết việc khổ lao
Trải mùi dương thế thấp cao biết người

Phải ăn phải nói phải cười
1150. Làm ăn sạch sẽ nên người kim lai.

Lá rụng về cội chẳng sai
Cây nào lá nấy không lai lá nào

Trái e lộn ruột như đào
Trái ngọt trái đắng lộn vào lộn ra

Người ta ba thứ người ta
Khôn thời làm quỉ dại ma báo đời

Chánh minh làm Phật làm Trời
Nhứt ngôn trúng lý muôn lời chẳng sai

Tầm phào khó định chiều mai
Lòng sao làm vậy kim lai bất hồi

Linh đinh sóng dập gió dồi
Như ghe chở khẩm đứng ngồi chẳng an

Tấn nan thối diệc giả nan
Lở bề ăn ở chưa an chổ nào

Làm ngơ giả dại ra vào
Không ham tiền bạc chổ nào lự nguy

Nổi sầu một ở chín đi
Đa ma thiểu Phật sầu bi trong đời

29

Gian nan thân chịu giữa vời
Thấy người ăn ở nhiều lời chẳng an

Chừng nào cho hết tham gian
Không người lua láo mới an Phật Trời

Hoảng hốt đa dạ đa lời
Xem trong sự thế cuộc đời cheo leo

Phục đường cúng biết mấy heo
Khẩn nguyền chư vị giúp theo Phật trời

Ngủ quên thức dậy tới đời
Tứ phương xao xác như lời chẳng sai

Ai tường Tý hợi chiều mai
Âm dương tý ngọ sông khai giữa trời

Theo cha đói khát than đời
Theo Cậu cơm nước nhiều lời giết nhau

Ăn no mổ mắt mới sâu
Hại Trời hại Phật sống lâu làm gì

Lộ lở người ở lạ kỳ
Tham gian thậm ngặt bất tùy giáo răn

Mông lòng tham của tham ăn
Bất ưu hậu nhựt búa trăng chẳng vì

Gẩm tôi nói chuyện dị kỳ
Không hạp ý tứ biên thùy cười chê

Tới đây lập cảnh trồng huê
Nào hay nhiều kẻ cười chê chẳng vừa

Kiếm nơi lập tự phụng thừa
Hội đồng sắc tứ có vừa hay không

Nhứt tánh mới đặng hiệp công
Đa sư đa sỉ người không nhứt tình

Sống thác xem thấy một mình
Lo xuôi lo ngược khô hình còn chê

Thấy người tu niệm thiệt quê
1200. Tu trong không giử tu nê ra ngoài.

Tu giỏi lên chức mới tày
Trong lòng không Phật tu ngoài tụng kinh

Tu chê Trời Phật bất minh
Tụng kinh giả ngộ lộng thinh cho người

Nói vậy sao khỏi tiếng cười
Tu nhiều nặng tội hơn người không tu

Thương bề sải vãi công phu
Có câu thân thể phát phu giữ minh

Loạn sao thiểu số bất bình
Ba xuân giử trọn thời mình mới an

30

Vợ chồng là nghĩa tào khang
Biết đâu mà gởi cho an thân hình

Linh đinh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước gởi mình vào đâu

Gởi thân cho Phật thời lâu
Gởi tình cho chúa mới âu đạo lành

Bến đục nhiều kẻ bộ hành
Bến trong vắng kẻ làm lành hỏi thăm

Nhứt giáp thập nhị ca ngâm
Tứ tý chí hợi sự thâm sự tình

Thấy những tu dạng tu hình
Xét ra thánh đạo giực mình việc tu

1223. Than rằng biển thánh nở lu


Muối dưa hẩm hút công phu sách đèn

Xưa nay mang chữ khó hèn
Bao giờ tỏ đặng ngọn đèn chí tu

Bàng môn bá đạo lâm thu
Rừng nhu biển Thánh dễ tu khó dò

Thấy nhiều tiền bạc làm trò
Gia đường Tiên Tổ không phò quảy đơm

Chàng ràng úp chạ hư nơm
Chừng nào tỏ chánh không cơm no lòng

Bấy lâu tà mị vẽ vòng
Vui say hớn hở không lòng lo xa

Chê rằng dụ giảng nôm na
Huê tình đối đáp lý ca lành nghề

Chẳng lo xét phải ra hề
Cam tâm việc bấy bất tề khoe khoang

Chà và góp chợ dọc ngang
Annam hiệp ý mưu toan khôn phò

Nạn dân mắc bạc con cò
Bạc hình phản đạo khó dò lý minh

Việc vậy mà gọi rằng vinh
Thiên hạ xài xí chánh minh chỗ nào

Thị phi tranh đấu anh hào
Hiệu vua xài xí việc nào tinh minh

Ba chìm ba nổi linh đinh
Ba lo bảy liệu việc binh việc quyền

Ba ngôi khác thể đồng tiền
1250. Biết làm sao đặng xỏ liền một giây.

Gió đưa hồn xác lên mây
Người nào dạ ở tà tây không chừng

31

Tối tâm như tấm vách vừng
Trời Phật còn để ớt gừng từ đây

Cha mẹ khỏi đọa qui Tây
Cỏi trần nặng tội việc nay khán tường

Khổ lai thậm khổ đoạn trường
Chấp tay vái Phật tầm đường châu minh

Lo bề đa sử đa kinh
Lòng người chẳng xét chánh minh tội nhiều

Nghêu ngao rừng biển Ngư Tiều
Lòng ngay không tội vinh nhiều nhục đa

Làm người thờ mẹ kỉnh cha
Hữu tâm hoài vọng tiên gia từ đường

Thủ tâm trung hiếu thường thường
Thích-Ca Phật hiện gia đường độ thân

Bây giờ phải tưởng nghĩa nhân
Lâm cơ hoạn họa e thân bất tồn

Dương gian sống chẳng tu hồn
Thác về âm phủ tội tồn vấn tra

Chầu nhưng bảy tội kể ra
Nay tôi xét tội quốc gia trăm ngàn

Xử thế húng hiếp quan làng
Thậm oan dân chúng tội toàn muôn xe

Anh em lớn nhỏ đều nghe
Tội trần ước chất muôn xe dư ngoài

Ỷ thân vinh hiển tích tài
Hai đường tội phước gởi-ngoài hậu lâm

Chớ chê sách vở minh tâm
Thánh xưa để dấu soi âm cho đời

Hạ-nguơn tận thế biến vời
Hậu nhơn phế Phật vong Trời đa mang

Thánh tri hậu nhứt bất an
Người người đều ở dọc ngang thêm hoài

Làm vua bất chánh tội dài
Làm quan bất chánh ỷ tài tội đa

Phật cho suy lý nghiệm ra
Tổng làng bất chánh tội sa diêm đình

Đắc thế ỷ tận nan tình
Bất trí hậu nhựt bất bình nhơn thân

Dụng tài tác sự phi ân
Việc quấy làm phải hậu thân bất tồn

Việc phải làm quấy tiêu hồn
Lao xao sóng bổ đầu cồn phi liêm

32

Chữ rằng nhơn nghĩa thiên kim
Tiền tài phấn thổ phi liêm bất cầu

Vì ai lan huệ ưu sầu
Huê sen phùng thủy phượng lầu thanh nghiêm

Bất tri thượng cổ hạ kim
1300. Thời người gặp gió phi liêm mãn phần.

Trung quân thác đặng thành Thần
Nịnh dầu có sống cõi trần khổ thân

Thượng nhi bất chánh nan phân
Hạ tùng tắc loạn vạn dân bất hòa

Mặc ai tâm loạn ngôn xà
Thọ câu Tiên thánh nghĩa mà ký tâm

Vi nhơn độ lượng bất lâm
Hậu lai phùng ác họa thâm đồ xà

Thượng nhi minh chánh cải tà
Hạ nhi cải chánh bất hòa đặng đâu

Tội thượng dỉ hạ một câu
Trào nào chánh lý dân đâu qui tà

Đánh chó phải kiêng chủ nhà
Cám thương đạo nghĩa ông bà hậu lai

Than rằng lời để chiều mai
Bao giờ gà chạy chó lai an nhà

Tráo trong tiểu nhi chê già
Đạo nào khuất lấp ông bà sao nên

Kỉnh lão trường thọ bề trên
Tổ tiên tạo lập mới nên gia đường

Nghiên vai gánh đạo dương trường
Quạnh hiu uốn khúc nẽo đường cay co

Éo le nhiều chỗ khổ go
Thủ trung thất hiếu biết lo sao toàn

Hiếu trung gánh nặng hai đàng
Lỡ bề báo hiếu lở tràng lập thân

Cơ hàn thất hiếu lỗi ân
Nguyện cùng tiên tổ lập thân minh tường

Tử tôn kế hậu gia thường
Nhơn từ đức hạnh lập tường quốc gia

Hữu Phật việc tất hữu ma
Hữu tà hữu chánh thiết tha tạ tình

Phật tâm tâm Phật cho mình
Lòng ma dạ quỉ đọa hình Diêm la

Tưởng ơn Trời Phật mẹ cha
Làm con hiếu đạo quốc gia yêu dùng

33

Thương người trung nghĩa không cùng
Thuyên quyên sánh với anh hùng kém chi

Đào-lư Công chúa phương phi
Hồng-mau Công-chúa kém chi sắc tài

Nhựt bổn Công-chúa hớn hài
Xiêm-vương công-chúa sắc tài phương phi

Bắc-kinh công-chúa hậu ly
Đuổi về trấn quốc tiền khi bất hòa

Ngũ-long giao chiến nước nhà
Nhứt nương bất hiệp giao hòa tứ nương

Vạn niên khắc cốt ghi xương
Vạn niên tích đức vì lương tùng quyền

Khán tường trở hậu lập tiền
1350. Trở tiền lập hậu nhơn hiền an khương.

Nước nhà như ngựa buông cương
Xem trong lê thứ chẳng thương nước nhà

Chẳng tu hết trẻ thấy già
Người tu đắc chí hết già huờn trai

Cõi trần nhiều nỗi chông gai
Nhiều lời ăn nói điếc tai bít hà

Xét xem những trẻ tới già
Không ai lo đạo nước nhà vận suy

Giữ lòng đinh sắt nhớ ghi
Trung quân ái quốc bất tri sự bần

Sanh vi tướng tử đắc Thần
Nhơn sanh ư quỉ tử trần vi ma

Dương gian mặt thiệt người ta
Tại lòng cầm thú tùng ma báo đời

Cho nên ăn nói khác lời
Bất tri hậu bỉ bất thời thạnh suy

Ngay vua lòng sắt tri tri
Chúa Trời giử đạo từ bi đức Thầy

Bấy lâu như bát nước đầy
Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong

Bây giờ nói việc Gia-Công
Bị vây tại chốn Ấp-Long bấy chầy

Cám thương danh vọng tràng Thầy
Quần yêu trổ mặt hại rày tiêu tan

Nỗi nào mà kể gian nan
Thiệt người tiếm nước mưu gian lâu ngày

Gian nan luống chịu bấy chầy
Nhờ ơn Trời Phật độ rày khùng điên

34

Vận nghèo giữ đạo sầu riêng
Hội nầy Phật định hòa Phiên thuận lời

Ai ai cũng ở trong trời
Cơn nghèo lời dễ cạn lời thời thôi

Chỗ nầy điêu hảo người ôi!
Hai nơi cận Phật gẫm thôi không còn

Thương người xa xứ Saigon
Ngày sau đem lại dạ còn chúa tôi

Giữ lòng chớ trở bạc vôi
Mắt phàm biết Phật chúa tôi tỏ lời

Dụ giản giáo thiện nhiều đời
Xem trong lê thứ nhiều lời cường hung

Lửa hồng Phật tấm lòng trung
Thủy lưu Phật rửa dạ hung cho người

Sông mê trước mắt vui cười
Viễn thiên cận địa thương người vô tâm

Âu lo tích oán thù thâm
Trẻ già gặp hội binh âm rã rời

Có ai thấu đặng lòng trời
Thượng thiên có một dưới đời không hai

Trở gái rồi lại trở trai
1400. Đôi ba lần trở con ai nấy nhìn.

Tận thế chớ trách thiên đình
Tại mình mà hại cho mình đa hung

Câm hờn sự thế si lung
Cho nên Trời khiến đa hung bỏ liều

Tu ma tu quỉ thời nhiều
Tu Trời tu Phật mai chiều không ai

Đường trống cổ vảng kim lai
Người chê Trung-giái không ai giỏi gì

Trung bình chánh trực bất tùy
Nương tùng ma quỉ biên thùy lạon hung

Nói trung e hậu bất trung
Chánh mà bất chánh sự hung tồn tài

Giỏi chi khoe giác nói hoài
Ĩa cức thúi quắc phép tài giỏi chi

Cứt thúi người bỏ lời ghi
Cứt thơm người mới tất tri học rày

Lời xưa trời Phật tỏ bày
Có non có nước đố mầy thấy tao

Sông sâu đất nổi cù-lao
Đạo nào ngủ gục không sao chiếu hình

35

Năng bồi năng lở giật mình
Nhứt thinh sụp hết hải tình minh mông

Phật bà hiện phép vá sông
Khai kinh thành lộ ra công lập đời

Phá non lập vững ngôi trời
Nơi nơi hiện núi lập đời trường sanh

Cấm trong lục-tỉnh cai danh
Ai mà phạm luật bất sanh linh hồn

Thân dầu xiêu lạc bãi cồn
Nguyện trời đổi xác giữ hồn chánh minh

Đừng khi Trời Phật chẳng linh
Loạn ly mới biết chánh minh lòng nầy

An-giang sát Phật oán Thầy
Cổ-kim loạn chí lời bày chẳng nghe

Dạy thương quân tử trồng tre
Tiển nhơn bất dụng chẳng nghe hại hoài

Mấy khi hội đủ phép tài
Tràng an Phật lập lâu dài xuân thu

Hội nầy sao chẳng lo tu
Mấy khi gặp hội xuân thu Phật Trời

Nói thôi tận lý cạn lời
Xem trong thế giái chê Trời không linh

Chỗ này như thể Láng Linh
Thấy người ăn ở bất minh ngán ngầm

Làng xóm sanh dạ mưu thầm
Hại người trung trực sợ lầm đao binh

Vọng cầu quốc thới dân ninh
Mới rằng quân tử chánh minh đạo mầu

Chờ cho thất Phật mới cầu
1450. Làm sao rạng tiết chư hầu tôi trung.

Thương đời bất thiện vi hung
Tri ân thức nghĩa người trung nan tầm

Đứt giây nên gỗ mới trầm
Vì ai ở bạc đây tầm nơi xa

Mặc tình niệm Phật niệm ma
Một hai chỗ niệm năm ba chổ tà

Tu sao ở chẳng thiệt thà
Tu yêu tu quỉ hay là tu ma

E là tu xuống Diêm-la
Tu thì qui chánh Thích-Ca Phật tìm

Cớ sao thiện đạo yêm liềm
Làm sao cho đặng trọn niềm hiếu trung

36

Than rằng thương đúng cội thung
Lâm cơ nguy biến si lung phải tù

Ông xưa thất thủ Hạ-bì
Tâm ưu Hớn thất tùy Tào-gia

Lỡ thời ai lớn làm cha
Chừng nào gặp hội Tiên nga tri thì

Tràng phan bửu cái khó bì
Tòa sen Đế-Thuấn biên thùy lại chê

Niệm Phật thiệt nhiều người quê
Miệng thì niệm Phật lòng chê mới kỳ

Người sao tâm cốt lưỡng bì
Lời ăn tiếng nói dị kỳ khó nghe

Người dữ nhiều kẻ sợ e
Người lành ít kẻ sợ nghe tiếng gì

Xưa nay mấy đứa vô nghì
Dầu cho có sống làm gì nên thân

Tiền tài phá tuyệt nghĩa nhân
Dụng tình trung trực tỏ phân chánh tà

Đa ngân đa oán hại nhà
Bất như tích đức hậu hoà nhơn ân

Phật Trời nào ghét nhơn dân
Nhơn dân ghét Phật ra thân thể nầy

Việc lành dạy cũng bấy chầy
Việc dữ không dạy càng ngày càng thêm

Một mình đánh đuốc đi đêm
Soi đời trần hạ không êm chỗ nào

Thương thôi ruột thắt gan bào
Càng đa ngôn ngữ càng vào chông gai

Một người hai mắt hai tai
Bất văn thiện đạo họa lai hội nầy

Chẳng phen vua Thuấn đi cày
Bì theo Lữ-vọng có ngày buông câu

Than thầm tự ái giếng sâu
Không trầm thì nổi khó âu việc đời

Thở than hai chữ vận thời
Cầu cho bá tánh thuận đời an bang

Sầu đời khô héo lá gan
1500. Ai làm hư vậy mình mang tiếng đời.

Ngưỡng than trên có Phật Trời
Người ngay mắc nạn lở thờ về đâu

Việc người thì mặc người âu
Lấp tai giả điếc biết đâu việc người

37

Việc ai đừng có chê cười
Nên hư cũng mặc ý người liệu toan

Đừng chê kẻ khó người sang
Đời còn mạt hạ liệu toan việc mình

Chừng nào dương thế xử bình
Nhứt tâm nhứt tánh nhứt tình lo toan

Bình thời dương thế đạc an
Của tiền chẳng thiếu giàu sang trên đời

Kỉnh Nam có Phật không Trời
Chầu nhưng không Phật niệm Trời A-men

Bầy trâu con trắng con đen
Nhiều người cười nói ít khen trâu cò

Bầy trâu chẳng lộn con bò
Thiệt đà khó chịu lần dò ăn riêng

Chánh xuân Trời Phật Thánh Tiên
Nước dưng giẩy bực bình yên con Trời

Năm nay sắp tới thấy đời
Dữ lành lành dữ mặc lời chê khen

Qua Nam dạy đạo hai phen
Gẫm người Nam-Việt bạc đen tấm lòng

Phật Trời như vợ với chồng
Dám chia hai đạo trở lòng rẽ đôi

Ngư phùng độc thủy dưỡng khôi
Xà lâm trận hỏa thương ôi dân Trời

Thủy lưu thủy phá giữa vời
Ngư trầm hải để ven Trời nhạn bay

Bao giờ thơ nhạn cầm tay
Lý ngư hóa đặng rồng bay lên Trời

Đố ai biết đặng vận thời
Năm nào Phật định tới đời biết không?

Tuy là lừng lựng minh mông
Một giờ thấy phép đức Ông ra tài

An nam hung dữ hoài hoài
Phật Trời nhồi nhả thây hài chưa thôi

Phật Trời đồng đẳng nhứt ngôi
Càn khôn đại đạo chúa tôi một quần

Thanh minh tảo mộ thì đừng
Noi Kiều vô tích ớt gừng rất chê

Khát thời uống nước Tào-Khê
Đói ăn ma phạn con tê chẳng lành

Mê chi việc đọa tranh hành
Ba ngôi đồng chí làm lành lại chê

38

Cầu hồn linh hiển xác quê
Trăm năm giữ mộ rất chê vô toàn

E người phế sở vong làng
1550. Sớm thăm tối viếng vẹn toàn cũng nên.

Vong tồn giữ dạ chớ quên
Sống sao thác vậy cũng nên làm người

Nay khóc mai mốt vui cười
Quên trung quên hiếu thiệt người dối ma

Lưỡng nghi tứ tượng cao xa
Xét soi cứu độ quốc gia Hớn-trào

Đêm thanh nguyệt chiếu chỗ nào
Nhựt minh soi tỏ anh hào thiết tha

Khôn thời trong bụng khôn ra
Hiếu trung chí hiếu lòng ta ai tường

Dốc ra sức mạnh cang cường
Nào hay gánh nặng giữa đường ngẩn ngơ

Không cha con cũng bơ vơ
Không mẹ con cũng ngẩn ngơ dạ sầu

Mấy khi Trời Phật vọng cầu
Phàm phu đem dạ chẳng sầu chẳng lo

Biết sao làm giỏi thì no
Làm dở thì đói nằm co thì tường

Đừng lòng che thế phi thường
Hậu lai thậm tội nan tường thượng thiên

Dạ buồn thì dạ sầu riêng
Nỗi lo sông rạch chưa yên nỗi rừng

Trải xem vỏ thủy bất thuần
Phong vân bất nhuận lẫy lừng bịnh nhân

Như cây dưới đất không phân
Nắng thì mặc nắng nhơn dân tươi hoài

Âu lo chơn hớn chơn hài
Bịnh nhơn đại bịnh nằm dài chẳng khuyên

Nạn dân ách nước đảo điên
Khen người đem dạ chê Tiên rằng khùng

Lầu cao mấy cái không dùng
Dụng nhân dụng nghĩa chẳng dùng phi ân

Bạc vàng sao xứng đòn cân
Tiểu nhơn quân tử khó phân anh hùng

Chê điên người lại chê khùng
Trong nhà cũng vậy chẳng cùng là ai

Đường bịch sợ nổi chông gai
Đường trống ít kẻ vãng lai cho thường

39

Nhu nhược tắc thắng cang cường
Gia bần mới biết đặng đường thảo con

Bấy lâu đất khách thon don
Một Thầy một tớ nước non trọn niềm

Trăng sao trăng khuyết lưỡi liềm
Tròn chi một buổi tam kìm đức giây

Ca ngâm đương lúc còn hay
Giỏi chi một phút đứt giây giữa đường

Niệm Phật chẳng phải ăn lường
Âu lo quốc sự minh tường nạn vua

Thấy đời cay đắng chát chua
1600. Việc phải chẳng dụng quấy mua vào long.

Vè kia lý nọ đèo bòng
Vảng sanh cứu tử không lòng lo âu

Xa đường kéo nước nhờ trâu
Bắt cầu chuột lội mèo đâu ngồi rình

Khác nhau một dạ hai hình
Hai hình một dạ âm tình hơn thua

Huê tàn mặc ý tranh đua
Phước dư khánh hỉ chẳng mua vào lòng

Lưới mê nhiều lớp chập chồng
1610. Hạ-ngươn nhản nhục đèo bồng muôn dân

Nghĩa mà thuyết tự khó phân
Tự mà thuyết nghĩa vạn dân đạo đồng

Nghĩa mà thuyết lý hao đồng
Tầm khùng giác thế mích lòng anh em

Sao bằng sách thiệt chữ xem
Nôm na lộn lạo anh em chê cười

Gẫm tôi thì cũng làm người
Có chứng nói bậy nhiều cười nhiều chê

Ăn chua thấy ngọt mà ê
Tu văn tu võ tu tê không màng

Tu sao lên chốn thượng đàng
Tu noi quỉ cốc họ hàng hườn dân

Tu sao bố đức thi ân
Tu sao cứu đặng vạn dân thanh nhàn

Tu sao có nhịp có nhàng
Tụng kinh đánh mõ la làng vang rân

Tu sao giật của hương lân
Tu sao tội phước không cân chỗ nào

Sớ lên sớ xuống ào ào
Phật Trời dốt nát mắt nào thấy đâu

40

Có trống có đẩu chấm câu
Tu sao không biết tội đâu trong mình

Gọi rằng tu dạng tu hình
Phật Trời ở chốn Thiên-đình như gương

Tu lo thủy thổ quốc-vương
Ngọn rau tấc đất an lương nuôi mình

Dưỡng tâm dưởng thực dưỡng bình
Đến cơn quốc loạn bất bình chẳng lo.

Vô vương chịu chốn khổ go
Há rằng ngon ngủ ăn no sao đành

Cây khô trổ lá héo nhành
Cầu sao cho có nước lành tưới cây

Tu sao mà dụng ăn chay
Thượng thanh hạ trược gốc cây hôi rình

Chay là chánh trực tâm tình
Vật nào thuộc thổ bất bình thượng thanh

Làm sao rạng tiết thơm danh
Thượng đường chói chói quản thanh phước lành

Hạ-ngươn đáo thủ Phật hành
1650. Người lành hành trước chẳng lành hành sau.

Hành còn hành mất biết đâu
Thiên cơ Phật định xét sâu thì tường

Than than trách trách thế thường
Thương thương tiếc tiếc tâm cường bất trung

E khi mắc đảng hành hung
Uổng trang phú quới bất trung điêu tàng

Gió vay bốn hướng mịt đàng
Thương người nhân nghĩa thọ tàn lao đao

Bây giờ như thể chiêm bao
Tam thinh thấy biển Vàm-nao rộng thình

Hiền lương binh Phật độ mình
Bạo tàn mất hết thả hình trôi sông

Âm binh rao khắp thinh không
Ba đêm việc trước minh mông cứu người

Núi tan đất sụp bớ người
Vi sơn đảo hải thương ngưỡi không tin

Tới đời tam giái hội binh
Thời người khủng cụ thất khinh thất cuồng

Thấy việc kẻ khóc người buồn

Bây giờ mới biết ở truồng là đây

Bấy lâu chê Phật không hay

41


Bây giờ mới biết bỏ thây hội nầy

Chưa tường đáy biển trâu cày
Ngư phùng đại lộ khó rày người ôi!

Giáp thìn điềm ứng rồi thôi
Đinh mùi phản thủy có ngôi Thủy-hoàng

Giáp dần gởi họa xa đàng
Đinh mẹo hội thí viễn tràng Nam-bang

Ứng tình quản lượng nói khan
Qua tới Dần Mẹo thì an nước nhà

Biết sao hiệp ý trẻ già
Nói trước người lại chê là có đâu

Đố ai bắt đặng con trâu
Con rồng thì thiệt phải đâu con rồng

Ất Sửu nước dậy ngập đồng
Nội tuần một tháng đất giồng khô khan

Biết rằng xưng Phật dị đoan
Ôn hoàng đại loạn chẳng an dân Trời

Phật Trời xuất thế độ đời
Bính Dần lập lại cõi Trời hai ngôi

Đinh-Tỵ lạc chúa lạc tôi
Ai mà tầm đặng hiệp ngôi Phật Trời

Qua năm kỷ tỵ lập đời
Ba ngôi đồng đẳng Phật Trời vua quan

Đâu đâu lạc nghiệp thuận an
Lập mười tám nước hiển vang quới quyền

Từ đây còn thẳm còn phiền
Còn hao còn tốn lương tiền trải gan

Của trần nhiều tiếng chẳng an
1700. Trải đời phải chịu ép gan đau vòng.

Dại sao trăm khúc dại lòng
Khổ sao trăm khổ cái lòng minh mông

Đờn bà chí những đờn ông
Phật ra dạy đạo sao không độ tình

Ai thời ý nấy ỷ mình
Cơn nghèo chẳng dụng việc bình a dua

Tính hơn rồi lại tính thua
Đi chùa thì lỗ bán mua có lời

Lợi hại ngó thấy tức thời
Nam mô thiện đạo lọc Trời chẳng ưa

Ham rẻ lội tẻ dầm mưa
Chừng nào đói lạnh lòng ưa thì rồi

42

Liếu lo chim chẳng nhánh chồi

Éo le danh lợi phủi rồi giàu sang

Ngồi buồn luận trí Nam-bang
Dắt đường chỉ ngỏ Tây-an cao kỳ

Đế cung lập lại bất tùy
Nhà cơ hội thí Hương-kỳ hậu lai

Đây trai đó cũng là trai
Mặc tình chúng bạn vừa ai thì vừa

Đạo nào bất chánh thì chừa
Đạo nào nói thiếu nói thừa đừng mê

Giữ đạo thấy đạo mà ê
Đạo nào bằng đạo phu thê chữ tình

Đó đăng đăng đó giữ gìn
Không con nối hậu thì mình tuyệt căn.

Có phần theo giõi cung trăng
Không phần dương thế ở ăn hiền hoà

Phải tri việc chánh việc tà
Đừng theo ma quỉ bất hoà Tây-phương

Tam cang đạo trọng khá thương
Một tình ngặt dạ oan ương quỉ tà

Phi quân kẻ chẳng thiệt hà
Phi thần phi phụ tử mà việc phi

Khiến nên gia quốc loạn ly
Tà ma ám sát vận suy Phật Trời

Khó phân chữ vận, chữ thời
Trư trư trần thế hẹp lời thốt ra.

Chua lòng xót ruột cho ta
Người Phật không thấy người ma thì nhiều

Thương ôi thân Phật chín chiều
Tà ma lấn lướt cũng nhiều nỗi cay

Chẳng nghe chim đậu rồi bay
E là không phải cội cây chẳng sầu

Lời rao nào Phật có cầu
Nào ai có để mối sầu cho ai

Có lòng cầu Phật Như-lai
Phật nào có ép gái trai mà phiền

Cơ mưu dỉ lậu như tiền
1750. Hắc diện phản đạo lập hiền tàm tu.

Cá bị lửa nước bị lu
Làm sao tỏ rạng công phu sách đèn

Nước sao chua chát như phèn
Vùa hương bể đó dầu hèn vùa hương

43

Thử lòng thử sức người thương
Biết người hào kiệt biết trương anh hùng

Nước rộng mặc sức vẫy vùng
E khi nước hẹp sợ cùng đường đi

Thời Trời vận khiến nước suy
Thấy người đem dạ hồ nghi điếm đàng

Dạ sao dạ ở lăng loàn
Chỉ đường nhân nghĩa dạ còn nghi nan

E người lầm kế mưu gian
Ra lời nói trước nghi nan lạ lùng

Việc người nói chẳng hay cùng
Trách là trách phận nằm mùng đảo điên

Việc đời nói trước huyên thiên
Người còn nghi dạ khùng điên dực đồ

Tôi nay không phải Nhẩn-Hồ
Thọ tài oán trái làm đồ phi ân

Dụng là dụng nghĩa dụng nhân
Bởi đời dụng bạc phải phân của tiền

Dụng là dụng đức dụng hiền
Dụng ân dụng đạo về miền thượng thiên

Của trần nhiều tiếng đảo điên
Đời nào tiền của thành Tiên bao giờ

Dụng lòng lòng chớ dại khờ
Tử sanh hữu mạng bàn thờ chí tâm

Niệm phật là việc niệm năm
Niệm ngày niệm tháng khổ thâm cho mình

Anh em cô bác văn tình
Chừng nào ngó thấy việc bình biết tôi

Đường dài ngựa chạy quên thôi
Sông sâu cầu khỉ chúa tôi lên cầu

Đời khổ chẳng thấy ai sầu
Sợ đường hậu nhựt gảy cầu khổ go

Thân mình mình chẳng âu lo
Sưu cao thuế nặng đói no chẳng thuần

Huê thơm bán ế nữa chừng
Ngồi buồn nhớ tới đất rừng lụy tuôn

Ra sông thấy việc bán buôn
Ở rừng cay đắng đường truông không chừng

Ở đâu thấy ớt với gừng
Ngọt ngon dấu mất lở chừng chua the

Nào khi năn nỉ không nghe
Bây giờ xách nón chèo ghe đi tìm

44

Anh em ở chẳng trọn niềm
Gặp cơn vinh hiển khó tìm anh em

Chê khi đói rách tèm hem
1800. No cơm ấm áo anh em khen dồi.

Vong ngôn việc trước bỏ rồi
Việc sau tưởng lại trao dồi sợ phai

Mặc tình ai có ép ai
Phải chiều cũng phải quấy mai không sờn

Tiểu nhơn đem dạ oán hờn
Lòng người quân tử như đờn lên giây

Việc người quấy phải nói ngay
Phật Trời nẻ thẳng như giây mực tàu

Lòng tôi cũng muốn làm giàu
Ngặt tình hàng hóa bên tàu chưa qua

Bạc hình Tây cất phương xa
Vàng còn ẩn núi tôi ma hội nầy

Muốn ra làm ruộng cấy cày
Trong mình làm biếng ăn mày khó xin

Muốn ra giữ đạo đọc kinh
Miệng tụng không đặng làm thinh kêu Trời

Kêu Phật cho thấu việc đời
Tụng kinh không đặng niệm Trời Phật linh

Lỡ bề chịu lỗi hai kinh
Mắt lờ đục tiếng làm thing mà nằm

Anh em chưa rõ cơ cầm
Cớ sao đem thói mưu thầm hại tôi

Tôi người vô vớ người ôi
Cũng không tranh đấu hại tôi nỗi gì

Nực cười người ở lạ kỳ
Người lành mà ghét nỗi gì không thông

Xa thời xa núi xa sông
Nghĩa nhân thăm thẳm sao không lo dùng

Ghét chi những đứa tầm khùng
Người khôn mưu trí lo dùng quốc-vương

Nước nhà như ngựa buông cương
Mình thời mất của lại thương điếm đàng

Cha ruột ở chưa vẹn toàn
Cha ghẻ con ghẻ nhiều đàng đắng cay

An nam nhiều kẻ không ngay
Người Tây cũng vậy khó thay ở đời

Nói đây lời nói giữa vời
1838. Trước đời không biết sau đời không hay


No comments: