Wednesday, May 18, 2011

VI . BỔN TUỒNG II



QUYỂN VI
BỔN TUỒNG
Tập 2



601.Lụy sầu Trời Phật xét soi
Kìa ai vạch lá móc moi nhà mình
Linh đinh sáu bảy thoàn tình
Mười hai bến nước sửa mình đặng không
605. Mắt ngó trông phép Ông Tây trả
Cám thương vì hai ngả hiệp tâm
Thương thầm một đạo mười lăm
Phật Trời thường dụng chánh tâm nghi hoàng

HỰU VIẾT:
Xưa dại dột họ Hàn
610.Nay nằm đàng họ Nguyễn
Vái nước nhà miên viển
Cầu bốn biển vầy nên
Trước an phận bề trên
Sau đặng nên bề dưới
615. Cây khô héo nhờ trời Phật tưới
Vậy mới rằng bề dưới tưởng bề trên
(Người ôi !)
Nỡ lòng nào sớm vội tối quên ?
Sao kiếm đặng việc nên sang cả

VÃN VIẾT: Sang cả,
Trách ai làm rời cả hai phương
620. Cam hờn người ở bất lương
Chúa còn ngồi đó dạ trương anh hùng
Trách ai mở tượng treo cùng
Chơn dung thờ đó bất dùng tâm can
Trách hờn mấy đảng tã gian
625. Ngày nào khôi phục mổ gan mới đành

HỰU VIẾT:
Chim léo luống trên nhành
Ăn trái lành mà chết
Nhọc nói ra câu kết
Việc sống chết không hay
630. Học ít chử cầm tay
Bằng không ngay mất vốn
Việc học hành chẳng tốn
Của cúng chúa một vốn mười lời
Ít có kẻ xét đời
635. Nhưng ham lời trước mắt
Khéo khéo đua chen trào Tây tặc
Đừng đừng sanh giặc đấu tranh
Trào gia nghị xưng danh
Nguyễn Thới Khanh Thiên Đức
670.Sắc lịnh Thánh hoàng phong chức
Thọ ơn Thiên Đức Thừa Luông
(Như nay tôi)
Cám Vỏ hoàng lụy nhỏ uông uông
Hờn lý luật đường truông vong phế, nọ,

LOẠN VIẾT:
Phụng lịnh Hoàng gia tra xét thế
675. Thừa hành Phiên đế kế Khổng Minh
Dĩ lực âm binh chinh pháp diệu
(Tôi nguyện cùng Trời Phật phen nay là)
Hộ tùng vạn triệu điệu binh thần
Tận ý ân cần Thần trợ lực
(Thầy ôi ! như tôi nay là)
680. Cơ đồ trí trực lực tồn năng

VÃN VIẾT:
Nỗi khó khăn không ăn có chịu
(Thầy ôi !)
Người ở đời lo liệu nhục vinh
Vận còn nghèo chinh lở chiến chinh
Thầy lâm tai họa tớ vinh chi rày
685. Nổi tử sanh việc tớ như Thầy
Tu trì giữ đạo chờ ngày khương ninh (Thầy ôi !)
Bất xuất chinh hao binh tổn tướng
Phép Phật Trời sung sướng lo chi
Niệm từ bi giặc chi cũng sợ
690. Vái cầu Thầy tư trợ chúng sanh

HỰU VIẾT: (Như tôi) Cá mắc lưới lội quanh
Người khôn lanh nhảy ngược
(Thời) Giỏi chi bấy kình nghê sủ vược
Dạ ham ăn mê trược đọa thân
695. Trãi thịt khắp thôn lân
Thị thiềng đều phân thực
Phú quới chưa từng chịu cực
Thường hành ẩm thực no say
Gặp việc khó khoanh tay
700. Mới biết nay việc khó
Xưa chưa từng việc đó
Nay mới tường việc khó là đây
Phế gia thất chạy ngay
Đoạn phân tay giai ngẫu, nọ !

LOẠN VIẾT:
705. Hưu khứ hưu hành hưu bôn tẩu (Chạy bớ các người chạy)
Mạt căn mạt kiếp cẩu ngưu tiêu
Ngộ trận hỏa thiêu tiêu táng địa
Niệm lia niệm lịa địa bất tri
Tận tử ngu si phi thất phách
710. U mê bất trách phách tận thân
Biệt liễu hương lâu phân phân bại
Ta hồ ngộ hại dại bất tài

VÃN VIẾT:
Đố ai biết mổ nằm dài ?
Người trong Trung quốc hay ngoài càn khôn
715. Cam hờn trợ ngữ trá ngôn
Mấy khi tầm đặng người khôn tri đời
Đố ai biết khắp trong trời
Thượng thiên có một dưới đời không hai
Ít ai trí mỏng tai
720. Nghe lời chiều tối rạng mai nên người

HỰU VIẾT:
Bớt bớt nói vui cười
Chưa phải người thông thả
Trời gió vật bèo trôi ba ngã
Sóng chập chồng rời rả từ tai
725.Chỗ mất còn họa phước về ai
Sao người chẳng trông mai nhớ tối

VÃN VIẾT: Nhớ tối
Dạ thối thầm ôm gối tay không
Sang giàu bọt nước mùa đông
Phù dung sớm nở tối không trông còn
730. Mai huê rớt nhị hao mòn
Cửa thiền cúc trước xem còn xêu xang
Chốn vương quan giàu sang rực rở
Kẻ nịnh thần mắt cở cúi qua
Phước lành nhờ đức Tiên gia
735. Đến nay thấy áo mặc qua khỏi đầu

HỰU VIẾT:
Kiến nhơn loạn ưu sầu
Người chẳng phải bí bầu
Dộp nụ đầu còn hầu trái khác
Chẵng phải loài cỏ rác
740.Mà hồn xác bỏ rơi (Xinh a !)
Xinh xinh bấy thảnh thơi
Rồi mệt hơi rút cổ
Tiền bất hạnh Nhan-hồi nước Lổ
Hậu Nam-kỳ nước trổ Thần-Đồng (Ấy làm sao)
745. Mà chẳng suy lòng
Để bịt bòng trong dạ (Thời)
Nam-kỳ địa hàm oan chịu đọa
Bắc kinh vương gây họa từ đây
Phật trời chỉ sửa người Tây
750. Qua trấn quốc tới nay chưa bản
Chớ chớ gây thù lập đảng
Đừng đừng trương bản đăng khọa
Việc nước nầy vọng lịnh Hoàng gia
Độ sanh tử trào ca tồn thất

755. VÃN VIẾT: Tồn thất. (Phụ hoàng ôi !)
Dạ bao đành gia thất sửa sang
Nỗi gian nan héo gan teo ruột (Thầy ôi !)
Dây xích nầy thầy buộc khóa đôi
Rủi thôi thôi làm tôi khó mở
760. Cúi lạy Thầy giúp thuở rối tơ (Thầy ôi ! phải chi tôi)
Dạ lẳn lơ buột sơ sợi luột
Xuất thơ bài chưa thuộc Thầy ôi (Thầy ôi ! là Thầy tôi)
Đạo chúa tôi dễ thôi lòng tớ
Dấu tích Thầy dạ chớ quên đâu (Thầy ôi ! Như tôi nay là)
765. Mảng lo âu sông sâu nước yếu
Đạo tớ Thầy toàn hiếu vẹn trung (Thầy ôi ! như bổn phận tôi nay là)
Dạ cúc cung thủ trung thất hiếu
Bốn lạy Thầy nước yếu xin thương (Thầy ôi !)
Nỗi oan ương tào khương lước mạnh
770. Mối đạo lành hiếu hạnh ít ai

BÀI VIẾT:
Nhựt nguyệt song khai hề mai phục
Hề mai phục
Kỳ Hương ý dục tị tục trần
Kỳ Hương ý dục tị tục trần
775. Cầu được linh đơn hề thần sái. Hề thần sái
Trừng chim bát quái ai lưỡng nghi
Trừng chim bát quái ai lưỡng nghi
Cầu Phật thức tri hề bi lụy
Bất bình cầu trị thị linh thông
780. Bất bình cầu trị thị linh thông

VÃN VIẾT:
Thương rằng Thầy Nghĩa cho Ông
Cậu An ra dấu tớ trông nghĩa Thầy
(Đứt ruột đứt gan tôi đi mà thôi)
Chốn Kim Cang Thầy an giấc điêp
(Còn thân tôi rày)
785. Bỉ Thới nầy cơ nghiệp lao xao
Muốn lên cao nước ao cạn rạch
Thịnh thời nầy nhẹ tách đường mây
Dặm hòe thơ thớ muôn cây
Kìa hương Hưng-Thới Mỹ Tây điện đền
790. Dân an vua trị cho bền
Nơi nơi lạc nghiệp điện đền sung vinh

HỰU VIẾT:
Trời Phật giúp pháp linh
Quan trị ninh cọng lạc (Như tôi nay)
Sầu tâm nội quân thần bất đạt
795. Dạ thỡ than xiêu lạc hớn hồ.(Thầy ôi!)
Nghị cơ đồ Tần cũng cơ đồ.(Thầy ôi !)
Nghị vong quốc Tần bang Hồ thất.(Thầy ôi !)
Đường sanh tử Phật đành giấu cất.(Thầy ôi !)
Nẻo nhục vinh gia thất bất tường.(Thầy ôi !)
800. Mắc mỏ thay nước ngược vị thường (Trời phật ôi ! đến ngày nay mà)
Trời Phật khiến bất tường thiên lý
Nỡ nào để tớ tu ngu ý
Đau lòng sầu thiên lý vị nhiên vị nhiên.(Thầy ôi)
Hư nên bất điểm cùng khuyên
805. Kẻo mà lòng tớ sầu riêng mỏi mệt

VÃN VIẾT: Mỏi mệt (Thầy ôi !)
Gấm nhiểu nầy Thầy dệt Long Lân
Phụng hoàng trình tố ân thân
Kìa nơi Hớn hải nọ ân lâm Tần
810. Kiến bò quanh miệng chậu xây vần
Thân tôi như nhộng đương lần mối tơ
Dạ ngẫn ngơ cuồn tơ thắt gúc
Cửa ngô thiền chen chút người ta
Chợ Ma ba bước ra ngó thấy
815. Chữ mực đề giấy trắng Bắc kinh
Chữ trung trinh nam linh nữ thính
Sự dị thường bất tín bất minh
Khuyên đệ huynh sử kinh đặt để
Nghĩa lý ngoài khó dễ bất thông
820. Cam hờn chế lễ Văn Công
Thọ mai chế lại lỗi trong lục hình

HỰU VIẾT:
Cam hờn việc lộng tình.(Ấy làm vậy)
Mình hại mình khúc túc
Thế cậy đa văn đao bút
825. Giết nhau cả lúc khúc tùng
Cứ kinh sử tạm dùng (Ấy vậy)
Mà hại anh hùng khúc túc (cho chớ)
Thêm sách xem nhiều lúc
Ngày hung kiết túc đa
830. Chúc việc quỉ việc ma (Ấy làm vậy)
Mà hại hại người ta tùng lý
Thế việc đa nhơn mưu trí
Noi theo kinh lý làm đầu
Hậu hiền chế bất cầu
835. Thị ưu sầu kinh sử

VÃN VIẾT: (Thầy ôi ! như tôi nay là)
Bất tham sanh hề vô húy tử
Đứng anh hùng phải giử niềm ngay
(Thầy ôi ! như tôi nay là)
840. Muốn xây vạy lập ngay đam lại
Bỏ dại khờ trở lại người khôn
Cảnh quyền môn thế Tôn lập đạo
Dạo non Thần Thánh tạo tinh minh
Phế sử kinh tâm linh thơ biện
845. Trước xem đèn Tây truyện soi gương
Vùng vằng nửa ghét nữa thương
Nỗi sầu nhứt nhựt vô vương đảo quyền
Cám thương trên nghĩa dưới Hiền
Cây tươi lá héo đeo phiền từ cơn

LOẠN VIẾT:
850. Viển bộ làm sơn chơn bộ bộ
Ta hồ nhi ngộ lộ phùng tiên
Thiên tứ kỳ duyên khuyên điểm lực
Anh hùng tam bực diệu thuật nan
Châu-đốc, An-giang mang nạn cả
855. Luân hồi báo quả giả bất tri

VÃN VIẾT:
Nỗi sầu bi Phật ghi thảm thiết
Con một nhà bao nở giết nhau
Dạ đành phú quốc ngày sau
Bây giờ bịnh hoạn ốm đau thương người
860. Khóc than nước mắt miệng cười
Nồi da xào thịt thương người trơ trơ
Than thầm quí tại hồi sơ
Phật ngồi xem thế trơ trơ một mình
Cháo chè nhơn bất hữu tình
865. Khéo vô duyên bấy phận mình làm tôi

HỰU VIẾT: (như tôi nay)
Tần hửu Phật Bướm Vôi
Hớn đa ngôi Tiên Thánh
Trời lập lại hội đồng lưởng tánh
Va nhơn tri đạo Thánh Hiền
870.Bất mục thị phản tiền
Vô tâm hiền vong hậu
Bất lễ nghĩa dám xưng rằng Cậu
Vô tri thiên tiền hậu cơ hà
Xuất lý độ thị tà
875. Bất tri hà lý chánh
Hồ dị tai bá tánh
Khó lấp cánh lên mây
Khó giấu thây dưới đất
Hậu nhựt nhơn nhơn phế thất
880. Tiền tài dạ bất tùng thiên
Ỷ lực thế bất kiêng
Nhựt nhựt nhiên hung bạo

XƯỚNG VIẾT:
Lọng lạc Càn khôn môn đại đạo
Ô hô hung bạo đạo tà tinh
885. Quỉ cụ thần kinh linh giáo thế
Nhơn nhơn vong phế tuế viển thiên
Thánh đạo tà tiên khuyên nhứt lệ
Tiền sư tam đệ đệ giáo truyền

HỰU VIẾT:
Xưa nhiều kẻ làm hiền
890. Nay dám phiền đa bạo
Thậm thậm khổ sư tiền giáo đạo
Nạn ngôn hậu bạo bất văn
Bất ưu kỳ nhựt nguyệt hiệp căn
Hằng bất kiếm song đăng Thìn-Tỵ (Thời)
895.Điểm ứng hửu lưỡng hình loạn trị
Quả điềm nầy Thìn-Tỵ loạn thâm
Diêm chúa khởi binh âm
Hoàng thiên dâm Thìn Tỵ xong !

VẢN VIẾT: Thìn Tỵ
Thế xây vần loạn trị một ngôi
900.Than đời chắc lưởi thương ôi !
Việc lành người nở phụ sao tôi đành
Tỵ Thìn, Thìn Tỵ tranh hành
Hai ngôi như một người lành tốt tươi
Bạo tàn hổ thẹn cho ngươi
905. Tu hành thêm phước tốt tươi mới mầu
Loạn ly dư chín mười sầu
Trước người chẳng dạ vọng cầu quốc vương
Xét đời thương cũng lỡ thương
Ghét thôi lỡ ghét oan ương tấm lòng
910. Chừng nào trở lại đất đồng
Trồng khoai tỉa bắp đở lòng nhân dân
Bao giờ về chốn cựu lân
Ngỏ cho thấy mặt từ thân tỏ tường
Trung thu mua đậu bán đường
915. E người vào quán bất tường sử kinh

HỰU VIẾT:
Xưa quán thị bất linh
Tâm sử kinh trì thế
Kim diệc hửu nhơn mưu kế
Minh tường Thánh Đế thừa ân
920. Chúc chúc thọ nhơn dân
Nhơn dân giai bất thọ (Thương hại ấy)
Thương hại thay trăm họ
Đường thượng thọ đều chê
Xóm xào nấu rất quê
925. Đều bê bê theo đó
Chẳng xét trong việc khó
Thêm mắt ngó tâm lầu
Sung sướng ấy bất sầu
Lạc tâm lầu xem đủ
930. Đền rũ nhau cả lũ
Dùng nha phiến tửu tình
Bằng hửu thuận chí bình
Ở khác tình bất cố (Thầy ôi ! như tôi nay đây)
Thấy trái đạo lòng phiền ái ố
935. Hỉ nộ tình nan tố hiền lương (Thầy ôi ! như tôi là)
Ai lạc tâm giả dại nhà Thương (Thầy ôi !tôi e là)
Cang cường chí vương mang lưới thỏ

VẢN VIẾT: Lưới thỏ (Thầy ôi ! như tớ nguyện phen này là)
Bước khỏi vòng ngọn cỏ mới ngoan
940.Cuốn ải quan giàu sang trối kẻ
Người trung thần không lẽ trời chôn
Dại cả môn thua khôn một gả
Kẻ suy thời nhồi nhả tả tơi
Ở đời như chỉ se lơi
945. Mới săn sớm sợi củ rơi tơi mành
Chớ chê lũng liễu tầm lành
Rách mà khéo vá hơn lành vụng may
Gậy Kim Cang sư trưởng cầm tay
Bao giờ trở lại nơi đây trao lời
950. Nạn dân ách nước tận đời
Rồng bay đám lá tối trời buông câu

HỰU VIẾT: (Như tôi nay) Tâm phiền nảo bấy lâu
Lầu son đâu chưa thấy
Hồ việt trước phân nhau chầy bấy
955. Tam thu dư chẳng thấy tin hồi
Thân tôi làm sao sóng dập gió dồi
Thất hạ đọa chưa rồi quả báo. (Như đời nay)
Người chê Phật rằng lời nói láo
E nỗi nay quần áo không lành. (Chứng mà người tưởng lại)
960. Nhắc nhở việc tu hành
Thân đã đành chí tử, ma !
(Như tôi nay)Nhớ tưỡng cựu tình ơn trí ngữ
Ai hoài thiên sử vỉ tử-quy, hà!

THÁN VIẾT:
Ta hồ nhựt nguyệt vỉ biệt ly
965.Hạn bán tam niên bi lụy ngọc
Trình tường lưỡng tộc ngọc tinh tri
Tỷ ngọ bất di điềm qui hiện
Phương viên ngũ diện ứng hiện tiền
Đáo tuế tân thiên huyền cơ hậu
970. Hà sầu chưởng đậu đắc hậu ân
Vảng cựu lai tân thiên phân đoạn
Ta hồ sử loạn đoạn phân ly

HỰU VIẾT:
Thấy sự thế ai bi
Nhơn bất tri quá thảm
975. (Chư nhơn ôi !) Khổ thêm tới xem không chốn giảm
Bịnh mười phần thương thảm bảy phần
Chẳng ai lo thân nải lập thân
Chẳng ai tưởng nghĩa nhân rẳng trượng
Thấy chẳng kẻ thương ôi cung thượng
980. Thiệt ít người độ lượng nghĩa nhơn
(Ý làm sao mà người) Chẳng lo bề phụng hiến kỳ thân
Ngõ lập hậu vi ân trở lại

VÃN VIẾT: (Thầy ôi ! như tôi là) Nhớ bắc nam dưỡng ơn tứ đại
Việc tu hành nào nại thũy chung
985. Thương thầy dạ nhớ lời trung
(Thầy ôi !) Tôi nào biết mặt tiên cung về rồi
No nao đức Phật phản hồi
(Phụ-hoàng ôi !) Bưng khuâng nhớ chúa dạng ngồi thuở xưa
Nổi gió mưa nhớ xưa thắt thẻo
990. Vái Phật Trời độ nẽo đường truông
Lụy sầu nước mắt nhỏ tuôn
Biết là có đặng tròn vuông như lời
(Chư nhơn ôi !)Cách nhau có một chử thời
Sang giàu trân trọng nghèo lời gay go (Huynh đệ ôi !)
995. Giàu nghèo chưa chắc đừng lo
Chí tâm niệm Phật Trời cho duyên lành
Chí dốc tu thời phải học hành
Cớ sao người bỏ việc lành chẳng lo
(Huynh đệ ôi !) Nổi đói no khó lo rách rưới
1000. Nắng lâu ngày mưa tưới mấy chung
Thương vì tuổi hạc huyên thung
Làm trai thủ hiếu thất trung lổi nghì
Chữ hiếu trung chẳng phải vị vì
Thiệt tình, tình thiệt bái quỳ cúc cung

HỰU VIẾT: (Như việc làm người ỡ đời nay)
1005. Phải xét đến việc nịnh trung!
Giặc tứ tung mặc giặc, ma (Như tôi mà ở đời nay)
Gió phưởng phất non nam ủ mặt
Còn mưa lâm râm thắt ngặt nắng nồng
(Ai đi)Đạo vợ chồng lòng chẳng thuận lòng
1010. (Ai đi) Niềm phụ tử đèo bồng nghịch nhỉ

VÃN VIẾT: Nghịch nhỉ (Như tôi nay là)
Cám thương đời ma quỷ đa đoan
Gió dào kẻ khóc người than
Tiểu khê kỷ dậu đại giang tới rồi
1015. Vỉ xà thủ mả Tây hồi
Dê đi dưới đất khỉ ngồi trên non
Thứ nầy giấy mực chờ son
Còn hai thứ nửa trên non dưới đồng
(Huynh đệ ôi !)Khá rèn đinh sắt tấm lòng
1020. Chờ cơn có chúa lên vồng ấm no

HỰU VIẾT: (Huynh đệ ôi!)
Sung sướng chi quốc loạn chẳng lo ?
(Huynh đệ ôi !) Mà hằng gọi ấm no lành quần áo
(Trong sách có chữ rằng) Thiện ác đáo đầu chung hửu báo
(Ý làm sao mà người chẳng xem trong kinh sử, Thánh nhơn xưa ngài có để chử)
1025. Chỉ tranh lai tảo dử lai trì
Họa phước nhơn do cánh vấn thùy (Mà người)
Hằng dụng bạc chì tì đúc Phật
Trời Phật trước sở sanh nhơn vật (Ý làm sao)
Hà nhơn sanh Phật di kỳ !
1030. Cám thương kẻ biên thùy
Bất tri kỳ sự chánh, ma (Như tôi mà lòng sầu nay là)
Từ lịnh phụ xe loan trở bánh
Khiến loạn ly bá tánh đảo quyền
Trâu thả lan nhiều kẻ trách Phiền
1035. Ngưu phùng hổ đáo miền lao lý, xong

VÃN VIẾT: Lao lý
Chí mẹo dần phật ký Hiền ra
Thân nầy người thị quỉ ma
Ví như bèo tấp mé nga bập bều
Thân nầy người thị rác rều
1040. Chẳng ai cám tưởng cái lều tranh hư
Dạ sầu phiền nảo ưu tư
Khi nầy bất túc hửu dư nhờ trời
Nói ra người chẳng nghe lời
Người thêm khiến lại chịu đời cắn răng
1045. Nỗi khó khăn cắn răng mà chịu
Dạ lo đời toan liệu thiên cơ
Gẩm mình tấc bấc tơ bơ
(Trời Phật ôi ! có hay đến nỗi nầy chăng ?)
Đạo lành nằm giữ ngẫn ngơ lòng người
1050. Khéo líu lo vượn hú thú cười
Thon don đạo Phật nhiều người không tu
Thân nầy người thị rằng ngu
Lòng ai nấy biết khó tu đở chàng
Mây giăng khói tỏa mịt đàng
1055. Thương người tôi nói tỏ ràng chẳng nghe
Lưởi câu liêm ruồng váng nhện tre
Thương người chỉ ngỏ chẳng nghe tự tình

HỰU VIẾT: (Tôi nói thiệt mà)
Ai ai khá giử mình
1060.Việc thình lình sấm dậy (Huynh đệ ôi !)
Việc tội nghiệp khó toan che đậy. (Còn như)
Việc phước tài ai nấy giành đâu ?
Họa phước nầy trời khiến cạn sâu.(Huynh đệ ôi !)
Nam mô Phật tới đâu hay đó

1065. VÃN VIẾT: Hay đó
Nước Ó-Rằn người có qua đây
Thương người nhiều thịt bỏ thây
Lòng không niệm Phật hỏi đây mấy lời
Ở đâu chẳng vái Phật Trời
1070. Bây giờ nói thiệt việc đời khổ đa
Trách mẹ cha ai la hồi đó ?
Đến bây giờ thấy khó kêu cha
Bậu đừng nhí nhảnh lảnh la
E sau để lổ đôi ba năm trường

HỰU VIẾT: (Cơn vắng vẻ nay)
1075. Mà người chẳng hỏi thăm đường
E hậu nhựt khó tường nẻo bước
(Cơn bịt bòng này) Thấy hiền ngỏ a dua lấn lướt
Chẳng lo sau xét trước mà nhờ.(Người thấy tôi)
Hình dạng dại khờ (Người e)
1080. Hậu nhựt khó nhờ
Cho nên người chẳng tưởng (đó ma !)
Cao vọi vọi kìa ơn sư trưởng (Còn)
Rộng thinh thinh cám tưởng càn khôn
Hội tề tiên đồng đẳng nhứt môn (Thầy ôi !)
1085. Đạo vi tử vi tôn tận ý

VÃN VIẾT: Tận ý
Cám thương trường khảo trí thức tâm
Học hành tính đã bảy năm
Trường an vô tự giáo tâm thi tài
Đố ai lập đặng sách ngoài ?
1090. Văn thơ trí tuệ phép tài đậu câu
Xem rồi mắt thấy đâu đâu
Thiên cơ liểu đắc cạn sâu mới rằng
Cuộc nào mặt đất trải bằng
Nước còn xao xiếng người rằng tôi ngây.(Huynh đệ ôi ! như tôi)
1095.Hình dạng đây mắt ngó bên Tây
Liếc xem Tào Tháo bị vây lâu ngày (Huynh đệ ôi !)
Rồi đây ngó thấy Ông Thầy
Ra nơi chiến địa xữ rày muôn binh

HỰU VIẾT: (Như tôi nay)
Chơn bước ván hầm hinh
1100.Miệng niệm kinh trừ quỉ
Nam mô Phật thường hành tịnh thủy
Úm ma hà khử quỉ tiêu tà
Cầu sanh lai phước thọ nhà nhà
Đồng minh tánh thượng hòa hạ lục
1105. Chớ mê muội noi theo ngu ngục
Nương tràng phang tị tục bớ người
Bửu Cái đây hớn hở vui cười
Qui cỏi thọ số mười đề hiệu
Tội chư quốc dấy loàn vạn triệu
1110. Thị sát nhơn nan liệu tội thâm
Phạm luật hình nhơn bất tu tâm.(Tôi nói thiệt)
Sát nhơn thị ngàn năm tu không hết tội
Đường oan trái trả ba bảy bội.(Người)
Mê tục trần bất thức tội nan. (Cho nên)
1115. Chẳng thấy người lòng thở dạ than. (Há rằng dể a !)
Nói ngang lòng toan nói dọc
Chớ chớ âm thầm tra mưu độc
Đừng đừng toan ngang dọc học rằng ngoan.(Như tôi nay là)
Tâm tích hiền tầm chốn hiển vang
1120.Đường danh lợi dọc ngang trối kẻ (Cha chả !)
Sức bấy giỏi cho bằng Tào phạt Hớn
(Còn như người chưng mặt lớn nay)
Lớn cho bằng nhà Ngô cầu hôn sát Hớn
(Á, lớn làm chi kìa).Huynh đệ đoạn phân lìa
1125. Chỉ thị ngu si chưởng khoái
Thủ túc đoạn tình bất ái.(Mã người)
Người chẳng e sự quấy chê rằng
Dạ quyết đoạn xích thằng giấu mối, xong

VÃN VIẾT: Giấu mối
Tấm lòng người bối rối như tơ
1130.Của tiền bất phải vất vơ
Chẳng dùng nhơn nghĩa như tơ lộn cuồn
Lao xao dưới biển trên nguồn
Cù lao sụp hết ghe xuồng vắng sông
Saigon trở lại lập công
1135.Đất đồng còn đặc hóa sông bây giờ.(Huynh đệ ôi !)
Mản tứ nên Trời Phật thượng cờ
Thanh Long Mỷ diệu tới bờ bước lên

HỰU VIẾT
Chẳng xét việc hư nên
Khó ngồi trên thiên hạ
1140. Từ thuở Láng Linh khởi họa
(Mới) Khiến nên tấc dạ hao mòn

VÃN VIẾT
Dân xưa như thể gỗ tròn
Dân nay bát giác dạ còn lục lăng
Khó xít-xăng trông ăn phần thịt
1145. Nhảy tưng bừng đấm đít xây lưng
Sự đời thấy dửng dừng dưng
Chẳng thương trước mặt sau lưng kể gì !
Hổ long quì bất tùy bay bổng
Cửa Thiên đường trống lỏng khó vô
1150. Tử từ lổ miệng nam mô
Phật Trời ngồi đó phơi khô mấy ngày
Khổ hội nầy vái Thầy cứu độ
Trái cái lòng trước ngộ sau ly

HỰU VIẾT: (Như tôi nay)
Mới biết rằng tiền vị hậu khi
1155. Thời vận khiến bất tôn ti thương hạ
Bải hoải ngậm ngùi trong dạ
Ngả vu nga mục đọa Hạ Bì
Nhơn lưởng tâm nay nghịch mai tùy
Người lưởng cốt nay bì mai nhục
1160.Chớ bán lụa đầu hồi bất phục
Chế đồng vàng tứ lục còn cao
Nhận thủy xoàng hai mắt như sao
Ngồi hai nạng thấp cao xem thấy hà

OÁN VIẾT:
Dạ sầu vì giấy bán mấy đồng
1165. Thắt thẻo năm canh lạnh tấm lòng.(Thầy ôi !)
Thọ nạn non đống lòng thọ nạn
Trong đồng khởi loạn nhạn kêu sương.(Thầy ôi !)
Thảm thảm thương thương đương dương đạo.(Vậy chớ)
Hàm oan oán bạo cạo đầu sài
1170. Tôi tớ ăn mày đều cạo trọc
Nhị triêu ngang dọc độc tâm nan

HỰU VIẾT:
Bất dụ tất tà gian
Lòng thở than đời cạn
Đoái nhìn thấy nhơn dân đại nạn
1175. Phong trần đà khởi loạn tứ phương.(Nhơn dân ôi !)
Dân lở bề thọ hại tử ương
Đường oan trái mạt Thương mới biết (Chư nhơn ôi !)
Nước bối rối giả câm làm điếc
Dầu tài năng chẳng biết dể hơn(Huynh đệ ôi !)
1180. Chưa phải thời ra mặt cao sơn (Mà)
Người làm cúng tiếu vô ơn thọ tử
Trên Trời Phật chưa tờ chỉ sử
Dưới chúng dân tích cử xuất binh
Mặc thế tình vinh nhục loạn ninh
1185. Nào nào biết Trần binh hà đạo ?
Tôi tưởng chúa lo đền cơm gạo (Chư huynh ôi !)
Tớ tưởng Thầy giử đạo trọn ân (Chư nhơn ôi !)
Chư nhơn đừng ngổ nghịch vu thân(Chư nhơn ôi !)
Vậy mới gọi lập thân hành đạo

VÃN VIẾT: hành đạo
1190. Cám thương người nghịch bạo mạng vong
Tới đời vở ổ chòm ong
Khi không mình lại mang rong lao tù
Kẻ hiển vinh lên vỏng xuống dù
Nhện giăng trước mặt mịt mù thấy đâu
1195. Phước bao sâu họa cũng bao sâu
Làm người sao chẳng lo âu nước nghèo
Chúa lở cơ lên đèo quá hải
Nước nghiêng nghèo người phải lo âu
Thương thầm cá ẩn bực sâu
1200. Chim bay ngàn dậm thấy đâu chùa chiền
Chốn vỏ môn tam cấp chiêu hiền
Long Cu cởi đặng gởi phiền non sông
Lẻ nào biệt tích biệt tông
Mà người chẳng vái bà ông cứu đời
1205. Dạ thở thân vái Phật cầu Trời
Dân như cá cạn khó đời dân ôi !
Nực cười ai chẵng thương tôi
Thân nầy khác thể bí bôi xấu màu

HỰU VIẾT:
Cách địa tịch ưu sầu
1210. Xem bất cầu hiền sỉ
Thấy ít kẻ bồi thiềng đắp lũy
Nhìn không ai lập kỷ Trần Cang
Cám thương đời nay hiệp mai tan
Đò tạo hóa thở than đà chích bánh

VÃN VIẾT: Chích bánh
1215. Xem ít người vi cánh Đường bang (Thầy ôi)
Kẻ giàu sang khó than đạo lý
Xem ít người hiệp ý đồng tâm
Bảy ngày sau hiệp mười lăm
Đạo làm tôi tớ siển thâm nhờ Thầy
1220. Nổi tớ nay như kẻ ăn mày
Nay tan mai hiệp nhờ Thầy khiến xui. (Thầy ôi !)
Dạ Thầy vui đệ tử cũng vui
Thầy buồn tệ tử cũng xuôi lòng buồn
Nổi xuân ai nam bắc thơ tuồng
1225.Thầy vui dầu tớ lòng buồn cũng vui. (Thầy ôi !)
Kẻ săn chồn dặm tới bước lui. (Huynh đệ ôi !)
Chó vầy sủa bóng nai xuôi vào rừng. (Chư huynh ôi !)
Chắt lưỡi ôi ! đôi mắt ngó chừng
Kìa kìa mé biển chưn rừng lao xao

HỰU VIẾT:
1230.Kiển buồn vui bích lịch nghêu ngao
Nay thoại chí thấp cao vui vẽ
Lần lần kể từ năm chẳng lẽ
Ai ngay gian có Thẻ ngăn đường.(Như tôi nay)
Vái Nam bang vỉnh viển miên trường
1235. Cầu Hớn thất Minh đường kiến thọ
Trai thơ thớ ứng tường Tý Ngọ
Gái đường đường hai họ hòa duyên (ấy làm vậy)
Mặc tình ta hòa ý Tây phiên. (còn như bỗn phận người)
Khá giử chí căn duyên phiền túc. (Huynh đệ ôi !)
1240.Máy tan hiệp hư nên có lúc
Đến ngày nay Trời Phật khiến
Lòng ta hạ bút đề thơ.(Chị em ôi !)
Khá rèn lòng đừng dạ lẵng lơ
Nhỉ văn đọc tri cơ trào chánh. (Chị em ôi ! như tôi)
1245. Từ ngó chiếu kiến tường Phật Thánh
Phật hiện tâm minh tánh nan cầu.(Chị em ôi !)
Vui nổi chi mà trong dạ không sầu?(Huynh đệ ôi !)
Trời Phật nở cầu người chẳng tưởng

LOẠN VIẾT:
Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn.(Chị em ôi !)
1250. Thân khá thủ thân ân oán ác
(Tôi dám khuyên cùng anh em, chị em khá niệm Phật)
Nam mô Bồ Tát ác chi tiêu
Khổ khổ tiêu tiêu phiêu phiêu tận
Bất lưu oán hận tận tình hung.(Huynh đệ ôi !)
1255. Thủ hiếu thủ trung hung bất nhập
Côn đồ cổn chiến bất cập vong

VẢN VIẾT:
Dạ nguyền khẩn bái thầy Ông
Bao giờ cá đặng hóa long an hòa
Rán lòng tin tưỡng Ông Bà
1260. Lều tranh có đạo hơn tòa ngói tô
Miệng niệm nam mô nuốt vô có Phật
Nhổ ra rồi chư tật còn y
Muốn quy y nài chi gai gốc
Muốn học hành dục tốc bất thông
1265. Kẻ có công gai chông lần bước
Mai sau dầu gặp phước làm nên
Của tiền chất để đôi bên
Một lòng thờ Chúa dưới trên có phần
Trách ai dạ chẳng ân cần
1270. Vùa hương bát nước ân cần báu châu

HỰU VIẾT:
(Như tôi nay) Cá mắc cạn ẩn hang sâu
Người ở đâu mà ngó thấy
Từ thuở phụ tồn thiểu giấy
Trời khiến nên ngó thấy đường dài
1275. Thậm trách bấy hớn hài
Sau ở ngoài gay gắt

VẢN VIẾT:
Nẻo sanh tử mau dường nháy mắt
Câu bại thành gẩm ắt nào xa
Phật bước ra tà ma áp bắt.(Huynh đệ ôi)
1280. Gẫm sự đời gay gắt nhiều phen
Kẻ ghét ghen đua chen khôn dại
Việc tu hành nói lại đôi co
Dạ sầu lụng đói phát no
Thương trần dạ chẳng âu lo thân hình
1285. Vui chi ca miểu hát đình ?
Trời ra tiếng sấm giựt mình quên tên
Phật Trời phưởng phất một bên.(Chị em ôi !)
Vái van khẫn nguyện gặp nên mà nhờ

HỰU VIẾT:
(Như tôi nay)Tai hằng nghe chư quốc sanh cờ
1290. Tài phép lạ một giờ thâu hết
Tử vô số hồn oan theo kết
Nay anh hùng sau hết tài năng. (Huynh đệ ôi !)
Hai đoạn nầy day trở khó khăn.(Thầy ôi)
Biết bao thuở tài năng trợ thế

1295. VÃN VIẾT: Trợ thế, (Thầy ôi !)
Cám thương vì phế đế cùng tu (Trung tình ôi)
Bốn mùa xuân hạ thu đông
Nguyện cầu biển Thánh rừng nhu đỏ đèn(Thầy ôi !)
Nổi gian nan tớ chịu khó hèn
1300. Phật trời chứng chiếu ngọn đèn tinh minh
(Trung tinh ôi !)Việc sử kinh tâm linh ký tự
Hạ bút thấn ghi sự cổ kim
Dậm hòe dầu thỏ đường chim
Ai tường sự cổ sự kim đổi dời
1305. Ngặt tình kêu Phật kêu Trời
Thương thương xót xót nạn đời mới kêu
Ở đời nhiều kẻ trớ trêu
Phật Trời chẳng dễ người kêu liền hoài
Biết sao có phép có tài ?
1310. Ra nơi quan ải hỏi vài tội tham

HỰU VIẾT:
(Ý làm sao)Kẻ không tội bắt giam ?
Còn người gian tham khỏi hại ?
Người khiến nhiều lẻ Nam kỳ tồn bại(Ý người muốn)
Tuyệt kỳ hang sát hại quân thần(Tôi nói thiệt)
1315. Đường tử sanh tôi nguyện có Thánh Thần
Nẻo vinh nhục cơ bần tại lịnh
Kế Gia-cát để dành Gia định
Mưu Tử Trình hiệp lịnh tân quân(Như tôi nay là)
Đải hậu nhựt huờn xuân
1320. Nhơn bất tuân bất dục

LOẠN VIẾT:
Yếu lộ mưu thâm ân binh phục
Cổ thiền sỉ nhục phục trào tân
Kim cổ xử phân bân mản đọa
Hai ngôi thọ họa hạ Tây trào

VẢN VIẾT:
1325.Lều tranh chẳng kẻ ra vào
Tai nghe phường phố ào ào như giông
Thứ nầy hành đắc hóa long
Ngộ kỳ ngư thũy vi phong hội nầy
Gió day bát hướng lâu ngày
1330.Bưng khuân tưởng Phật nhớ Thầy đòi cơn
Vận nghèo ai chẳng phi ơn
Của Trời Phật để Thất sơn thiếu gì
Gian nan ít kẻ bù chì
Mu ni áo bả nương tùy nhà Thương
1335.Rày mừng quốc thới dân khương
Trên quan sửa trị dưới lương dân tùng
Trải gan vàng ngọc anh hùng
Trên Vua nhơn đức dưới dùng lâm tôi
Ngai vang vửng đạt báu ngôi
1340. Trên Vua khai rạng dưới tôi trung thần.

CHUNG
Nam mô A Di Đà Phật
Chép rồi ngày : 19 - 3 – Đinh Hợi


No comments: