Tuesday, May 10, 2011

LỜI TỰA






NGUYỄN VĂN THỚI
(1866-1926)


KIM CỔ KỲ QUAN




Tây An tự-Châu Đốc





GIA HỘI2011

LỜI TỰA CỦA NHÀ XUẤT BẢN GIA HỘI


Tác phẩm Kim Cổ Kỳ Quan của ông Nguyễn Văn Thới là một công trình vĩ đại gồm 8 tập thơ trên 25 ngàn câu , một bản tuồng và một số bài thơ có nội khuyến tu và cảnh báo tại họa xảy đến cùng những đổi thay của vũ trụ và con người.
Trải qua một thời gian sưu tập, nay chúng tôi đã có toàn bộ Kim Cổ Kỳ Quan 9 bản.
Chúng tôi in quyển Kim Cổ Kỳ Quan nguyên bản cũ để các bạn có cái thú chiêm ngưỡng cái gốc, cái bản lại diện mục của bản cổ.
Chúng tôi in bản thứ hai với nhan đề Kim Cổ Kỳ Quan Chú Giải để độc giả tiện theo dõi.
Chúng tôi cố gắng phục vụ độc giả trong việc bảo vệ văn hóa cũ và phục vụ chính nghĩa.
Sơn Trung
Canada tháng 7-2011



KIM CỔ KỲ QUAN





MỤC LỤC



1- Kim Cổ
2- Giác Mê
3- Cáo Thị
4- Vân Tiên
5- Ngồi Buồn
6- Bốn Tuồng
7- Thừa Nhàn
8- Tiềng Giang
9- Kiếng Tiên




LỜI TỰA







Tài liệu tham khảo: Audio Texas; Ấn bản 1957, ấn bản 1964



1.Lòng vọng cầu nội ngoại tương tề ( Bản 1957, Tr.1)
Qui nhứt thống ra bề mới nổi
Trước mắt ngọc gẫm âu việc lỗi
Sau lưng nhìn nhiều nỗi Phật Tiên
5.Đêm năm canh thổn thức chẳng yên
Ngày sáu khắc sầu riêng mối đạo
Tưởng ái quốc cơ đồ sáng tạo
Nhìn lê dân cường bạo đa đoan
Chúa mỏi lòng chúa nghĩ thân an

10.Tôi mệt dạ còn mang nạn cả
Thời quân nhược quả kia báo quả
Thế thần cường giầy giã trung cang
Bất lương thành nghĩ tại không toan
Thời bất đạt đa mang tội thế

15.Ngày bính tý thương cha lập kế
Ơn cửu huyền tiền thế trung thu
Bảy ngày xuân ít kẻ công phu
Thập ngũ nhựt không tu hội thí
Trường an Phật ít người hội ý

20.Chốn bạo tàn hiệp trí gia công
Mẹ thương con như rắn với rồng
Con ghét mẹ nên không niệm Phật .
Sầu tâm nội nhơn đồng dữ vật
Xét ít người lòng Phật nhiều ma
Có vui chỉ một chốn Diêm la
Miền Tây cảnh vào ra ít mặt

25.Rắn lộn Rồng nhơn dân sanh giặc (1957, tr.2)
Đề lao trống cửa ngặt nỗi chi
Nhị niên xao xác lời ghi để
Ngục rặc chen người xiết kể bao
Bấy lâu tiêu tứ công lao khổ
30.Biển Thánh rừng Nhu báo bổ ân


Rạng đến hai chữ quân thần đạo .
Ái quốc ưu quân bỏ bạo tàn
Quốc vương thuỷ thổ đường danh vọng
Rèn chí tu tâm động Phật Trời
35.Khổ tăng gia khổ lời bất chánh
Đường lành thấy đó tránh sao đành
Sầu nỗi muôn chim không nhành đậu
Buồn cho thế sự hậu bất gia
Con Phật có lòng, ma nào dắt
40.Con ma chẳng kể quỉ bắt ma .

Nhứt nhơn địch vạn ơn cha trợ
Ngó Bắc xem Nam sợ Phật Trời
Ngọn rau tấc đất lời cẩn hạnh
Súng bắn lấp hố chẳng mạnh chi
Dõng bất quá thiên đừng khi Phật
Cường vô quá lý vật tiêu tan
Của Thiên trả Địa mang tiếng dữ
Tích đức minh minh chẳng giữ lời
Có chi hơn một kiểng non bồng
(50). Trung quân hiếu phụ vợ chồng ái ân


Nơi ánh sáng Sư tiền giáo đạo
Nhờ oai linh nội ngoại tổ tông
Tỏ căn nguyên Tam giáo sư ông
Di truyền Đạo thiệt là Thích Đạo
(55).Hữu Thánh giáo coi sao lộn lạo
Đời kim tiền đa đạo đa sư
Nói nhơn hư đạo thiệt bất hư
Lầm tà đạo nhơn hư bất dụng

Kim Thích đạo kinh xưa chẳng tụng (ấn bản 1957, tr.3)
(60). Việc âm thinh sắc tướng bất dùng
Đạo tại tâm tâm đạo xuất tùng
Tùng tâm đạo mới là Phật đạo .

Đa tà quỷ sư tiền khổ giáo
E hậu lai ác báo ác lai
(65).Người ở đời ai cũng hai tai
Nghe cho rõ đạo ai chánh giáo
Người lại nói Phật rằng nói láo
E cho người sau mất phần ăn
Khuyên người đừng nghi hoặc lăng xăng
(70). Sau người lại vô căn mà chết

Dầu thương ghét Phật Trời thương hết
Người nhứt tâm giữ nết ở ăn
Tai hoạ Trời xuống chốn lăng xăng
Nạn nước lửa nạn phần ôn dịch
(75). Nạn trái ban thương phần con nít
Nạn chìm ghe lão ấu bất tồn
Nạn hổ lang ác thú hết hồn
Nạn chết đói ó rằn mổ cắn
Nạn giặc giã chạy dường cóng cẳng
(80).Té ngã lăng chân thẳng chân dùn

Phật ngày xưa dạy bảo người tùng
Nay mắc nạn rùng rùng phế bỏ
Tu nhân đạo tậm thâm ai rõ
Tu gia trì tu nhỏ tu nhen
(85). Tu Quốc vương chơ Phật ngợi khen
Tu bồ thí làm quen với Thánh
Tu tánh hạnh cầu an bá tánh
Tu đắp đường tịnh thuỷ tai ương


Tu biết thương vốn thiệt chay trường
(90). Tu tham của tu đường địa ngục
Tu cần kiệm gia đường phú túc
Tu ghét ghen tu chúốc gông cùm

Tu hiếu nghĩa bao trùm Tiên Thánh (ấn bản 1957, tr.4)
Tu làm vậy Phật trời lưỡng tánh
(95). Tu quỉ ma tránh chẳng khỏi tai

Tu thi ân mới đặng lâu dài
Tu phước đức mới là phương tiện
Tu nhẫn nhẫn khuyên đừng thưa kiện
Tu hưu hưu vạn sự thôi thôi
(100).Tu trong tâm đừng ở ngoài môi.
Tu nhân nghĩa lễ nghi trí tín
Phật bài để Phật đâu cất kín
Nhơn bất tri bất giác bất thông
Nói cho nhiều những việc mênh mông
Trong năm mối tích tông đạo cả
Đạo là lớn chẳng vay chẳng ngã
Trong năm châu chư quốc đều noi
Trước mắt người ít kể xét soi
Tu nhân đạo thiệt là chánh giáo
(110).Tiên đạo, Thánh đạo, Phật đạo ba ngôi dựng tạo .


Tu xưng danh tu kiếm gạo tiền
Tu mạo chiếu phế tiền phản Đạo
Trên Trời Phật không tờ chỉ giáo
Dưới chúng sanh tạo ác điểm danh
(115). Dựa cốt hình lục tỉnh bia danh
Phật đâu lại bất tri ngôn ngữ
Kỷ tri kỷ bất tri nhân bỉ
Tội bỉ tri tội kỷ bất tri
Ly ngục hình nhơn ngục nan ly
(120).Tri kỳ bỉ bất tri kỳ thử .

Văn ngôn chánh phước lai hoạ khứ
Văn ngôn tà phước khứ hoạ lai
Ai nên hư phải quấy mặc ai
Tục thường nói tội ai tai nấy.
(125). Giác việc đời phải quấy có đời
Phật với ma thì lại riêng ngôi
Phú với quí nghĩ thôi một cặp (bản 1957, tr.5)
Trung với nịnh nghĩ thôi hai cặp
Chánh với tà chẳng gặp, gặp hung .


(130).Hiếu với trung, trung hiếu chung cùng
Khôn với dại, dại khôn khôn dại
Nhơn lễ nghĩa trí tín hợp lại
Dữ với hung, hung dữ ở gần
Thần với Thánh, Thánh Thần cứu độ
(135). Nói phải quấy cũng như giã ngộ
Nói ít lời tật đố mặc ai

Cất bút châu phụng tả một bài
Di truyền để hậu lai tường khán
“Phật ông diễn thế gian di chúc,
(140).Tiền kỷ tái hậu vô giai”.

Từ Kỷ Dậu niên Phật Thầy truyền chí vu kim,
Nhâm ngũ niên cọng, kế cứu thập tứ niên.
Nhâm ngũ niên hạ nguơn nhựt

Kỷ Dậu niên tái bản.Bá nhì thập niên hậu
( 1849-1969 )

(XIN BẤM VÀO TRANG SÁCH, HÌNH SẼ MỞ RỘNG, ĐỘC GIẢ SẼ ĐỌC RÕ RÀNG)

No comments: