Giáo Sư Trần Quốc Vượng
Việt Nam nhân bản, dân tộc, dân chủ, khoa học
Trong Cõi - Chương 16
Việt
Nam hiện nay đang là một nước chậm phát triển về mọi mặt, cả về mức độ
và tốc độ, trong khi thế giới từ nửa sau thế kỷ XX đã và đang biến
chuyển rất nhanh. Bỏ qua một bên mọi giải thích khác nhau về chiến
tranh, cách mạng, thiên tai, sai lầm chủ quan cho là cả về chiến lược và
sách lược v.v... thì đấy vẫn là một nghịch cảnh hiển nhiên, tạo ra một
bức xúc, đòi hỏi phải khắc phục, giải quyết về cơ bản, trong 10 năm còn
lại của thế kỷ này...
Trên
tầm mức hiện nay của khoa học kỹ thuật, cuộc sống loài người ngày càng
quốc tế hoá, cho nên trong từng cư dân - quốc gia - khu vực xảy ra một
quá trình biện chứng (mâu thuẫn biện chứng):
- Một mặt, là sự chăm lo giữ gìn bản sắc văn hoá riêng.
-
Một mặt khác, là sự tăng cường giao lưu văn hoá. Giao lưu, tiếp xúc thì
tất nhiên dẫn đến biến đổi, có giữ và có bỏ, có thêm và có bớt, người
ta hay "nói chữ" là tích hợp, hội nhập, giao thoa, giao hoà văn hoá...
Văn
hoá là cuộc sống, mà cuộc sống luôn luôn là một tổng thể bao gồm cả ba
mặt (tuy 3 mà 1): BẢO TỒN - PHÁ HUỶ và SÁNG TẠO CÁI MỚI. Văn hoá là của
CON NGƯỜI, con người vừa làm ra vừa tiêu thụ, hưởng thụ văn hoá. Nói
"Dân là gốc Nước" theo kiểu cũ thì cũng đúng thôi, nhưng người xưa,
chẳng hạn Phan Huy Chú, cũng nói "rộng" hơn: "Người là gốc Nước". Trong
nước, có những người dân thường mà cũng có nhân tài, và thỉnh thoảng
cũng có một vài thiên tài, "xuất chúng", dù cũng vẫn là nảy sinh từ
trong nhân dân. Nói văn hoá đại chúng, nhân dân, chứ không chỉ riêng
"công-nông-binh" hay như gần đây giáo sư Trần Đức Thảo đề nghị gọi:
"công-nông-tri" là tác giả lớn nhất của văn hoá, thì cũng đúng thôi.
Nhưng nhân tài, thiên tài bao giờ cũng có đóng góp lớn, thậm chí là đóng
góp đặc biệt vào sự sáng tạo văn hoá. Và người dân bao giờ cũng cần,
cũng tôn trọng và biết ơn các nhà văn hoá, các danh nhân văn hoá... đã
làm cho họ được hưởng thụ, thưởng thức văn hoá nhiều hơn và cao hơn cái
mà họ làm ra. Không phải là không có lý, khi các cụ ta xưa gắn văn hoá,
văn minh với nhân tài và gọi là VĂN HIẾN (Hiến là chỉ các bậc hiền tài).
Cho nên đường lối văn hoá của một chính phủ hay một đảng lãnh đạo, nói
chung là của những người cầm quyền trị nước, nắm vận mạng quốc gia dân
tộc là, một mặt cố gắng làm hết sức để nâng cao đời sống dân sinh, dân
trí, dân quyền... nói chung, một mặt khác, phải hết sức vô tư phát hiện,
bồi dưỡng, tôn trọng và sử dụng đúng mức và vượt mức càng tốt - mọi
nhân tài. Riêng về điểm này, giới lãnh đạo quốc dân trước đây nói cũng
chẳng sai gì lắm (trừ lối nói "tả khuynh" kiểu thập kỷ 30 "trí phú địa
hào, đào tận gốc trốc tận rễ" hay hiểu thập kỷ 50 ví "trí thức" với "cục
phân", hoặc nói "sau lưng", trong "nội bộ", gọi "trí thức" là "tụi",
"bọn" (có văn bản hẳn hoi), bọn lắm chuyện... nhưng làm gì sai nhiều
(chẳng hạn theo "chủ nghĩa lý lịch" "bè phái"...)).
Ngày
xưa, triều đình nào mới lên sau một cuộc chiến tranh hay loạn lạc, muốn
xây dựng lại đất nước, cũng đều "xuống chiếu cầu hiền", không thể chỉ
dùng tướng đánh nhau (phá đổ là chính, như "đánh đổ" thực dân, đế quốc)
để canh tân đất nước ("xây dựng" là chính). Nghĩa là sau chiến tranh,
người chiến thắng cầm quyền bao giờ cũng có đường lối lớn: Hoà giải và
Hoà hợp Dân tộc. Điều này, sau 75, phải nhận là Đảng cầm quyền làm rất
kém và lẽ tự nhiên là để thất thoát nhân tài, thực ra là ngay trước đó
nữa, từ sau 1954, ở nửa phía Bắc, bởi một đường lối "tổ chức cán bộ" rất
hẹp hòi, phân biệt trong đảng, ngoài đảng, công nông, phi công nông...
trong mọi lãnh vực, cho đi học nước ngoài, đề bạt, cất nhắc vào các chức
vụ chủ chốt v.v... cuối cùng thì nghịch lý hiện ra rõ rệt ở thập kỷ 80,
và tương đối phổ biến: Thằng dốt "lãnh đạo" những người giỏi chuyên
môn, thằng ngu ngồi trên đầu người khôn! Để đến nỗi người dân thường và
trí thức bảo: Sau 45, mới thoát ách thực dân thì ai cũng DỐT thôi. Có lẽ
là trừ cụ Hồ và vài ông cao cấp. Nhưng sau 75, đã DỐT hay tiếp tục DỐT,
nhưng lại còn NÁT nữa, thao nhũng bạo quyền v.v... Và kết quả dĩ nhiên
là: Khủng hoảng toàn diện!!!
Xưa nay phép biện chứng của lịch sử "có chừa ai đâu", kẻ cả đảng Mácxít-Lêninít nữa: "Những chiến thắng lớn có thể trở thành những thất bại lớn" (Héraclite).
Trong một xã hội cổ truyền bị thực dân hoá và đô thị hoá kiểu thuộc địa, mà vẫn ở tình trạng trước công nghiệp hoá như Việt Nam thì, theo tôi, lực lượng năng động nhất của xã hội lại là tầng lớp trung nông khá giả ở nông thôn và tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị. Trung nông là tầng lớp biết làm ruộng và tính toán làm ăn giỏi nhất, tạo ra nhiều nông sản hàng hoá nhất (kể cả các sản phẩm thủ công) cho một thị trường trong nước. Con cái họ được học hành và trở thành tầng lớp trí thức mới của dân tộc, của đất nước. Chính họ là tầng lớp sáng tạo ra nền văn hoá mới Việt Nam trên cơ sở giao hoà văn hoá Đông Tây, dung hoá cái cổ truyền của một xã hội "nông dân - nông nghiệp - xóm làng" với cái hiện đại của một xã hội "thị dân - thị trường - đô thị". Những tư tưởng mới được truyền bá trực tiếp từ phương Tây hay gián tiếp qua Liên Xô, Trung Hoa, Nhật Bản, mà cốt yếu là những tư tưởng nhân quyền, dân chủ hay tinh thần duy lý khoa học.
Chính là được họ tiếp thu và đồng hoá trước hết rồi đem phổ quát trong dân chúng, tạo nên một nền văn hoá mới và một nền khoa học mới Việt Nam. Nhưng sai lầm trong cải cách ruộng đất, trong hợp tác hoá nông thôn, trong cải tạo công thương nghiệp ở đô thị, tuy chính sách đề ra thì không phải như thế, nhưng trong thực tế đã làm thui chột tầng lớp trung nông ở xóm làng và tầng lớp tiểu tư sản ở đô thị. Và như vậy, xét về mặt khách quan, là đã làm thui chột lực lượng sáng tạo văn hoá và khoa học ở nước ta mấy chục năm qua. Cộng vào đó, là một đường lối văn hoá hẹp hòi, quá nhấn mạnh đến việc khai thác lực lượng sáng tác từ nông công binh, viết, vẽ, diễn xướng "người thật, việc thật" gọi là để "phục vụ nông công binh" (cái này có ảnh hưởng rõ rệt của chủ nghĩa Mao) và thiếu khai phóng, chỉ nên lên việc học tập "Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em", không hiểu biết và đánh giá thấp những thành tựu văn hoá khoa học của các nhà văn hoá khoa học phương Tây, một thời nhất thiết bị dán nhãn "tư bản, đế quốc" và bị xem là "phản động, suy đồi".
Kết quả là, nền văn hoá khoa học Việt Nam mấy chục năm qua đã phát triển chậm chạp, nhiều mặt lạc hậu, và như nhận định của nhiều nhà khoa học văn hoá Việt Nam, thậm chí lạc điệu với thế giới đương thời. Đấy, căn bản là tình hình văn hoá khoa học Việt Nam trước Đại hội 6 Đảng Cộng sản Việt Nam, trước thời kỳ gọi là "Đổi mới tư duy".
Văn Hoá, dù hiểu theo nghĩa hẹp, "cổ điển" của nó là tư duy mỹ học hay là "chất lượng" văn hoá, các biểu tượng của văn chương, nghệ thuật, các tiến bộ khoa học và thành tựu văn minh... thì ở Việt Nam vừa qua phần lớn cũng chỉ tạo được những tác phẩm "xoàng xoàng bậc trung", nếu không muốn nói là nhiều tác phẩm kém giá trị, kém phẩm chất, rất hiếm tác phẩm vươn lên được những đỉnh cao như truyện Kiều ngày trước, khả dĩ "ngang tầm thời đại" với thế giới ngày nay. Hiểu theo nghĩa rộng hơn của văn hoá là lối sống và nếp sống, lối tư duy và hành động của một cộng đồng cư dân, suy nghĩ, phán đoán, tưởng tượng, hồi niệm, dự phòng về tương lai... thì nhìn chung, lối sống Việt Nam cho tới cuối thế kỷ XX vẫn rất nặng tính chất quê mùa, thôn dã, truyền khẩu, duy cảm, nặng tình nhẹ lý, từ làng đến nước vẫn thiếu một tính chất pháp quyền, sống theo lề thói hơn là sống theo pháp luật (mà cho đến nay ở nước ta đã có một bộ Luật Dân Sự và Tố Tụng Dân Sự đâu, đã có một nhà nước pháp quyền và những sự phân biệt rạch ròi các quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp đâu, mọi thứ quyền lực từ trung ương đến địa phương vẫn tập trung trong tay các cấp uỷ Đảng hay một nhóm người, thậm chí chỉ một vài người "quyền sinh quyền sát").
Từ
xã đến trung ương, lề thói "gia trưởng, cường hào, sứ quân, quan liêu"
còn rất nặng nề. Công nhân, nông dân vẫn sống nghèo khổ và tăm tối, dốt
nát và mê tín, nhất là trên rẻo cao và vùng xa đô thị, 6, 7 triệu dân
còn mù chữ, phổ cập giáo dục cấp 1 nói và hứa hẹn đã lâu mà vẫn chưa
thực hiện được (trong khi nhiều nước đã phổ cập ở cấp trung học). Trí
thức cũng sống nghèo khổ. Khác xưa, là sống nghèo mà không trong sạch
nữa! Nhiều người, kể cả các vị lãnh đạo, đã nói đến sự khủng hoảng đạo
đức trong khủng hoảng toàn diện về kinh tế xã hội.
Tham nhũng, buôn lậu tràn lan. Có vẻ không nghiêm trọng, nhưng về lâu về dài thì nguy hơn nhiều, đó là lối sống "mánh mung" đã lan tràn hầu khắp các tầng lớp xã hội. Đó là hậu quả của sự bần cùng về kinh tế, sự bưng bít về tư tưởng văn hoá, sự độc đoán về lề lối cai trị và quản trị. Cho nên nói đến xây dựng văn hoá, không nên chỉ nghĩ đến văn chương, nghệ thuật mà không nghĩ đến lối sống và nếp sống của nhân dân, dân tộc. Cần nghĩ đến phương tiện cơ bản đề truyền đạt văn hoá, là giáo dục và truyền thông. Cần nghĩ đến nội dung cơ bản của văn hoá mới, hiện đại, là khoa học. Chiến lược văn hoá, là chiến lược tổng thể về con người. Không thể chỉ đổi mới kinh tế mà xoay chuyển được tình hình Việt Nam hiện tại.
(còn tiếp)
Giáo Sư Trần Quốc Vượng
Tham nhũng, buôn lậu tràn lan. Có vẻ không nghiêm trọng, nhưng về lâu về dài thì nguy hơn nhiều, đó là lối sống "mánh mung" đã lan tràn hầu khắp các tầng lớp xã hội. Đó là hậu quả của sự bần cùng về kinh tế, sự bưng bít về tư tưởng văn hoá, sự độc đoán về lề lối cai trị và quản trị. Cho nên nói đến xây dựng văn hoá, không nên chỉ nghĩ đến văn chương, nghệ thuật mà không nghĩ đến lối sống và nếp sống của nhân dân, dân tộc. Cần nghĩ đến phương tiện cơ bản đề truyền đạt văn hoá, là giáo dục và truyền thông. Cần nghĩ đến nội dung cơ bản của văn hoá mới, hiện đại, là khoa học. Chiến lược văn hoá, là chiến lược tổng thể về con người. Không thể chỉ đổi mới kinh tế mà xoay chuyển được tình hình Việt Nam hiện tại.
(còn tiếp)
Giáo Sư Trần Quốc Vượng
Xây dựng một nền văn hoá Việt Nam nhân bản, dân tộc, dân chủ, khoa học
Trong Cõi - Chương 16
(tiếp theo)
Mọi
hoạt động của chính quyền và các tổ chức xã hội khác cần nắm mục tiêu
văn hoá vì con người. Nhân tố con người phải là trên hết, trước hết của
mọi dạng thái phát triển. Đó là lẽ vì sao thế giới nhân bản ngày nay nêu
mục tiêu phát triển trên nền tảng văn hoá (cần bỏ lối nhìn "duy vật
lịch sử" giáo điều máy móc chỉ thấy kinh tế là cơ sở hạ tầng và xem văn
hoá - khoa học - giáo dục chỉ là thượng tầng kiến trúc...).
Toàn
dân làm văn hoá, vì một nền văn hoá toàn dân, không chỉ văn hoá công
nông binh, càng không chỉ văn hoá của thiểu số trí thức, ưu tú, đặc
quyền. Không chỉ "khoán trắng" công việc văn hoá cho "Ban Văn Hoá Tư
Tưởng" hay "Bộ Văn Hoá" (mà trớ trêu thay, nhiều năm các cơ quan này lại
năm trong tay một số người rất kém văn hoá và giáo dục, người cầm đầu
cơ quan văn hoá địa phương lại phá "Đàn Nam Giao", người có trách nhiệm
lớn trong chính phủ lại định phá banh Chùa Một Cột, các di tích văn hoá
"để đời", niềm tự hào của cả dân tộc, như Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống
Đa... bị phá huỷ nặng nề và "xuống cấp" nghiêm trọng v.v...).
Con
người Việt Nam thuộc đủ mọi thành phần xã hội và dân tộc (nông thôn /
đô thị, đa số / thiểu số, trẻ / già, trai / gái...) phải là nhân vật
chính và là người hưởng thụ của mọi đường lối xây dựng văn hoá mới cao
cả. Mọi cơ quan đoàn thể chính phủ và không chính phủ đề chăm lo công
việc văn hoá, cũng không phải là việc áp đặt một mô hình con người mới
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đọc cho dân chép theo một cách thụ động những
tiêu chuẩn về nếp sống văn minh và gia đình văn hoá mới.
Văn
hoá, hiểu như là Lối sống và Nếp sống, cũng như tiếng nói là một thành
phần cấu trúc của văn hoá. Xét đến cùng, nói như chính lời Karl Marx, là
một quá trình phát triển dường như tự nhiên. Đảng và chính phủ có đường
lối văn hoá, mọi cơ quan đoàn thể, dù "làm" công việc giáo dục, thông
tin, du lịch, thể thao, dù "làm" công tác thanh niên, phụ nữ, y tế, môi
trường... đều tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cơ quan tham gia bảo tồn
và sáng tạo văn hoá, phá bỏ hủ tục, mê tín dị đoan v.v..., nhưng phải
khéo để cho lịch sử, văn hoá, tiếng nói v.v... phát triển cũng như những
quá trình tự nhiên, đừng có lúc nào cũng chực gán ghép "ý thức hệ", uốn
sửa "lập trường quan điểm" một cách máy móc, giả tạo, nhân danh... Làm
văn mà như không làm, dạy mà như không dạy, đấy mới thực là làm văn, làm
giáo dục một cách "nghệ thuật". Xã hội ta mấy chục năm qua có quá nhiều
"thầy đời", "thầy tư tưởng"... ai cũng thích "dạy bảo" nhân dân, trong
khi miệng thì nói "học hỏi quần chúng nhân dân", cuối cùng thì trong
phong trào "đổi mới tư duy" chính những "bậc thầy tư tưởng" đó lại là
những người "cần đổi mới tư duy" hơn ai hết, trước ai hết... Nói như cụ
Hồ, đừng có nghĩ thay, làm thay nhân dân, cũng như đừng nghĩ thay làm
thay văn nghệ sĩ. Một đường lối văn hoá chân chính là sự khuyến khích
bảo vệ di sản văn hoá dân tộc dân gian, đừng vọng ngoại và sao chép mô
hình văn hoá tư tưởng ngoại bang, ngoại tộc, cởi mở chứ đừng khép kín,
khoan dung chứ đừng "bắt khoan bắt nhặt", tạo cho trí thức văn nghệ sĩ
một không gian sáng tạo và phát sáng rực rỡ, thoải mái, tự do, phóng
khoáng... một "môi trường văn hoá" dân chủ, coi trọng cá tính, giữ gìn
bản sắc cá nhân và bản sắc dân tộc trong khi vẫn đối thoại cởi mở với
các cách nhìn khác, lối sống khác, các nền văn hoá khác...
Không
nên nhấn mạnh một chiều cái dân tộc mà cần biết, nên biết mở ra cái
nhân loại phổ quát. Mà như thế, hơn đâu hết, cần chống thói độc tôn, độc
quyền, trong lĩnh vực văn hoá. Xin nhắc lại một lần nữa rằng: Bản chất
của văn hoá, cũng như cuộc sống, là luôn luôn sinh động và đa dạng.
Văn
hoá luôn gắn liền với xã hội, nằm trong lòng xã hội nhưng mà là hương,
trái ngọt, trứng ngon của xã hội. Cần học ứng xử dân gian cổ truyền
"nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa" đừng "phũ phàng" ứng xử "thô
bạo" với hoa thơm trái ngọt, với tác phẩm văn chương nghệ thuật, với văn
nghệ sĩ, trí thức... Nghệ sĩ Đặng Đình Hưng vừa quá cố, thân phụ của
nghệ sĩ đầy tài năng Đặng Thái Sơn, có một lần cùng tôi uống bia hơi ở
Cổ Tôn, với tôi, đã "giáo dục" tôi một cách rất khéo: "Này ông giáo sư
uyên bác, người Pháp bao giờ cũng nói: "Chers artistes et savants" (Thưa
các nghệ sĩ và các nhà bác học yêu quí) chứ không phải là ngược lại đâu
nhé!". Tôi vui vẻ thưa lại với ông: "Đúng vậy, tuy tôi chưa phải là nhà
bác học đâu nhưng giả thử như thế đi nữa tôi cũng không "tự ái" khi
được xếp sau nghệ sĩ, vì nói tới nghệ sĩ là nói tới cái tinh tế, thanh
cao, hưởng thượng, có cái nhân vi mà cũng có cái thiên phú... cho rằng
người ta có thể "đào tạo" một nhà khoa học, nhưng khó lòng chỉ do "đào
tạo" mà có một nhà thơ lớn, một nhạc sĩ tài danh... Tuy tôi cũng biết
rằng nhiều nhà bác học lớn cũng đồng thời có tâm hồn nghệ sĩ lớn. Khoa
học và nghệ thuật không "chống" nhau đâu ông ạ! Nhà bác học lớn nhất thế
kỷ này là Albert Einstein cũng bảo rằng: "Những phát minh khoa học lớn
thường bắt nguồn từ những tiên cảm, trực giác trong đầu óc nhà khoa
học".
Nếu
Nguyễn Đình Thi viết lời nhạc quá hay, bảo Thăng Long - Đông Đô - Hà
Nội là nới "lắng hồn núi sông ngàn năm" thì chính văn nghệ sĩ trí thức
lớn là những người gìn giữ và cần gìn giữ nhất Tâm hôn và Tình tự dân
tộc. Mỗi con người có quyền giữ cá tính cũng như mỗi dân tộc có quyền
giữ bản sắc văn hoá của mình. Đó cũng chính là nhân bản, nhân đạo, nhân
quyền.
Trung
thành với tinh hoa truyền thống và có khả năng ứng biến, đổi mới, có
khả năng đối thoại với tha nhân, với các nền văn hoá khác: Đó là phép
biện chứng của một nền văn hoá khoẻ mạnh có sức sống.
Vậy
cần để cho mỗi con người, mỗi cộng đồng được quyền tự do lựa chọn. Diệt
chủng là một tội ác, mà diệt tộc tức là diệt chủng về văn hoá, còn là
một tội ác nặng nền hơn. Đừng để người Rục, người B'ru... Việt hoá mà
cũng không thể để người Việt Nam Pháp hoá, Mỹ hoá, Nga hoá hay Hoa
hoá... Hơn đâu hết, mọi lối sống, mọi nền văn hoá đều bình đẳng. Tôi đã
nói nhiều lần là chỉ có sự khác nhau về văn hoá, không có chuyện văn hoá
cao hơn (ví dụ mặc quần, để răng trắng) và văn hoá thấp hơn (ví dụ đóng
khố, mặc váy, nhuộm răng đen)...
Như
vậy, bên trong quốc gia Việt Nam cũng như đối với bên ngoài, cần đẩy
mạnh hợp tác văn hoá trên cơ sở tôn trọng các truyền thống, các giá trị
văn hoá của từng cư dân, từng tộc người, để hoà chung, để mở vào cái
nhân loại, làm giàu chung cho văn hoá con người, để con người hiểu biết
và yêu thương nhau hơn...
Vì
ta còn quá nghèo cho nên ta luôn luôn nói tới, quan tâm tới phát triển
kinh tế. Nhưng phát triển là một trào lưu toàn diện, tổng thể, trong đó
không thể thiếu được chiều kích văn hoá. Làm đường xe lửa qua Chi Lăng
mà phớt lờ "kỳ tích Chi Lăng lịch sử" thế kỷ XV, xây cầu Bạch Đằng mà
không để ý tới "chiến công Bạch Đằng" thế kỷ X, XIII, lấy đá ở Hòn Vọng
Phu để rải đường hay làm cối, ham làm tiền mà xây bừa bãi "khách sạn du
lịch" ở những di tích và danh thắng xưa v.v... đều là những hành động
phản văn hoá và xét đến cùng là phản phát triển, làm nghèo nàn đi chất
thơ mộng, chất thiêng liêng của non sông đất nước, chất hồi tưởng, hoài
niệm của con người.
Phát
triển kinh tế không có mục đích tự thân mà chỉ nên coi là phương tiện
để phát triển con người toàn diện, không chỉ cần tiến bộ vật chất kỹ
thuật, tri thức, con người còn có chiều kích đạo lý và cõi tâm linh sâu
thẳm... Xuất cảng được gạo mà quan hệ người người vẫn xấu thì chả có
nghĩa lý gì...
Tôi
đã nhiều lần nói rằng cần bỏ đi trong những văn kiện của Đảng và nhà
nước những lối nói "chiến thắng", "chinh phục", "thống trị"... tự nhiên.
Cả một nền khoa học xã hội Việt Nam, từ kinh tế học đến triết học...
phải chuyển thành các môn học sinh thái nhân văn.
Rất
cần phát triển các phương tiện truyền thông đại chúng, báo, đài, TV...
nhưng nếu không làm phong phú và đa dạng hoá nội dung truyền thông, báo
toàn một giọng, đài một giải tần, TV một kênh... thì trớ trêu thay nó
lại dẫn tới sự đơn nhất hoá, buồn tẻ, làm nghèo nàn bản sắc văn hoá, bản
sắc cá nhân, những giá trị đạo lý cộng đồng sẽ xuống cấp. Bởi thế mà
bao giờ cũng cần và xem trọng dư luận xã hội và sự phê phán. Nói qua nói
lại bao giờ cũng làm cho cuộc đời thêm sinh động và "có một niềm vui
sống". Nhiều năm qua phải nhận rằng cuộc sống Việt Nam có nhiều phần
buồn tẻ và đơn điệu. Mà đã buồn tẻ và đơn điệu thì người ta đâm chán,
chán đọc, chán nghe, chán họp, chán xem...
"Có
văn hoá là được tự do" (être cultivé c'est être libre), đó là châm ngôn
hiện nay của loài người tiến bộ. Dân gian Việt Nam bảo:
Cấm ăn, cấm nói, cấm cười.
Cấm ba điều ấy còn vui nỗi gì!
Người
cầm quyền trị nước có thể bảo: Chỉ nói bậy, ai cấm bao giờ? Quả thật
trên vỉa hè thành phố nào cũng vậy, cũng bầy ra những cảnh ăn nhậu bừa
bãi, nói năng bừa bãi, cười đùa bừa bãi... không đẹp mắt, không văn hoá
tí nào. Tự do dân chủ không phải và không thể là "mặc kệ nó".
Nhưng
nói như Lão Tử "vật cực tắc phản", đấy cũng là hậu quả của nhiều cấm kỵ
chính thống và nhiều phi phi văn bản... Tôi tin chắc rằng một khi có tự
do dân chủ thực sự, từ nhà đến trường học, cơ quan, xưởng máy, từ làng
xã, phường khóm đến vùng miền, đất nước, lập tức sẽ có kỷ luật và đạo lý
xã hội. Lâu nay ta sửa ngọn mà không sửa gốc, cũng như nhiều lần tôi đã
nói là nếu ta chỉ chê trẻ, mắng trẻ thì sẽ bị nhận chịu cảnh trẻ chửi
mắng lại già. Người già, từ lớp tuổi tôi (50-60) trở lên, phải chịu phần
trách nhiệm chính, tội lỗi chính, về tình trạng khủng hoảng toàn diện
nhiều năm qua. Thuốc chữa, phỉa có một vị chính, ngoài nhiều loại khác
làm "thang" là: "Sự dân chủ hoá cuộc sống và văn hoá".
Chấp
nhận, tôn trọng cá tính, chịu được "ngựa hay có tật", chấp nhận bình
đẳng tuy chưa hề đồng đẳng, chấp nhận khác nhau (tài năng, sức khỏe,
giới tính, tôn giáo...) nhưng thoả thuận những mẫu số chung văn hoá dù
nhỏ nhất để cùng chung sống với nhau, chứ đừng đẩy tới cực hạn những cái
khác nhau, để rồi "ly thân", "ly dị", hay là "di tản" bên trong nước và
ra nước ngoài...
Mà
đã dân chủ thực sự thì nhất thiết phải có pháp quyền làm nền tảng, nhất
thiết phải trừ bỏ độc đoán, chuyên quyền. Trước khi trách giới trẻ "phá
bỏ thần tượng" Nguyễn Huy Thiệp, hãy "tự trách mình"! Tuổi tôi nghĩ
vậy. "Thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý". Xin phép tạm dừng ở đây...
Cornell 02-91.
Giáo sư Trần Quốc Vượng
Nỗi ám ảnh của quá khứ
Trong Cõi - Chương 17
Giáo sư Trần Quốc Vượng
Nỗi ám ảnh của quá khứ
Trong Cõi - Chương 17
Nước
Việt Nam ta hiện là một quốc gia kém phát triển về mọi mặt, vừa lạc
hậu, vừa lạc điệu với một thế giới nhìn chung đã và đang phát triển rất
nhanh, đặc biệt từ nửa sau thế kỷ 20.
Tạm bỏ qua một bên mọi sự "giải thích", nào đổ tội cho phong kiến đế quốc, thực dân bành trướng, thiên tại, địch hoạ, chiến tranh, cách mạng, nào viện dẫn sai lầm chủ quan của những người cầm nắm vận mệnh quốc gia mấy chục năm qua, v.v... tình trạng ấy là không bình thường, gây nên một bức xúc tâm lý, một nỗi đau thân thể, một nhức nhối thân xác và tâm linh, buộc KẺ SĨ và NGƯỜI DÂN, vừa gian khổ kiếm sống, vừa suy nghĩ đêm ngày, tìm cách khắc phục và vượt qua tình trạng tủi nhục này...
Có ĐỘC LẬP rồi chăng, nhưng hoạ LỆ THUỘC vẫn luôn luôn mai phục, cả về mô hình chính trị và sự phát triển kinh tế...
Có THỐNG NHẤT rồi chăng, nhưng mầm CHIA RẼ mọc rễ sâu xa, nào Bắc / Nam, nào Cộng sản / không Cộng sản...
Điều chắc chắn, là NHÂN DÂN chưa có HẠNH PHÚC, TỰ DO thực sự.
Với biết bao hệ luỵ của một cuộc chiến kéo dài, buộc ràng tới 3 thế hệ người Việt Nam (và rất nhiều quốc gia liên đới), lạ một điều (mà sao lại là lạ nhỉ ?), là từ "người thua" đến "kẻ thắng", giờ đây, ai ai cũng mang một mặc cảm hoành đoạt (complexe de frustration), nói nôm na mà MẤT MÁT. Trước hết là NGƯỜI DÂN THƯỜNG.
Người ra đi hàng triệu, bỏ xác ngoài biển khơi hàng ngàn, vạn, biết bao em gái ta, chị ta, cả mẹ ta nữa... bị kẻ hải tặc khốn kiếp dày vò làm nhục!
Chưa nói đến của cải, ai còn sống thì đều cảm thấy mất quê hương! Người
ở lại, hàng chục triệu nông dân bỗng dưng cảm thấy mất đất, không có
quyền tự do hành xử trên "mảnh đất ông bà", trong khuôn viên do chính
tay mình tạo dựng; hàng triệu công nhân mất việc, thất nghiệp hay bị kém
sử dụng (sous-emploi), sống ngất ngư, lây lất qua ngày... Trí
thức, thì tản mác, bị lãng phí thảm hại, trừ một số rất ít kẻ xu thời
(đời nào chẳng có?), người nào cũng cảm thấy mất tự do tư tưởng và sáng
tạo. Một tình trạng như thế,
chỉ có lợi cho lũ gian manh. Một cuộc "đổi đời" kỳ cục như thế, mà nếu
cứ nhất định muốn gọi nó, muốn gọi đó, là "cách mạng", thì là một cuộc
cách mạng đã mất phương hướng. Phương hướng là cái tiêu ngữ trên mỗi đầu
trang giấy, từ sau Tháng Tám 1945: ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC. Cho nên phải nghĩ lại, phải bình tâm mà nghĩ lại, nói theo thời thượng từ giữa thập kỷ 80, là phải ĐỔI MỚI TƯ DUY. Tư
duy là công việc của mỗi CON NGƯỜI, vì về bản chất, con người là một
sinh vật có tư duy, có ý thức và vì có tư duy, có ý thức mà được / phải
có quyền tự do lựa chọn mô hình hành động, cho chính mình (tự do cá
nhân), cho chính cộng đồng mình (nhà mình, làng mình, nước mình...) và
phải / được chịu trách nhiệm về chính sự lựa chọn đó. Tôi
rất thân và rất quí Nguyễn Huy Thiệp, hẳn thế, nhưng chính vì thế mà
tôi không thể nào đồng ý với anh khi anh trả lời phỏng vấn báo
Libération là "Tôi đã sống như một con thú". Con thú làm sao mà
biết viết, biết in "Tướng về hưu", "Phẩm tiết"...? Lẽ tất nhiên là tôi
hiểu cái "ý tại ngôn ngoại" của anh: Cái mặt bằng kinh tế xã hội của một
Việt Nam hiện nay trên đó "anh phải sống", sự ràng buộc của "cơ chế"?
v.v... Tôi nhớ lại, ngày
12-1-1983, trong buổi họp kỷ niệm 40 năm ra đời "Đề cương Văn hoá Việt
Nam", ông Trường Chinh - tác giả chính của cái "Đề cương" đó - đã nói
với các "nhà khoa học xã hội" Việt Nam: "Nếu không có một điều kiện tối thiểu về vật chất để sinh sống thì con người có thể trở thành con thú!".
Điều đó chẳng có gì mới lạ, vì bằng kinh nghiệm nghiệm sinh, nhiều nhà
trií thức chúng tôi đã nghĩ và nói thế từ lâu; điều mới và lạ, là cho
đến tận lúc ấy, một vị lãnh đạo cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam mới
nói ra như thế! Mà con người, nhất là người trí thức Việt Nam, đâu chỉ
đói rét vì miếng cơm manh áo? Đói tự do tư tưởng cũng có thể trở thành
con thú! Vì con thú, như con trâu, con bò, dù co no cỏ thì cũng chỉ biết
theo đuôi! Theo đuôi con đầu đàn! Bao năm qua, có biết bao con người
Việt Nam chỉ biết theo đuổi kẻ cầm quyền, hoặc khốn khổ thay, là chỉ
được theo đuôi người lãnh đạo và lại được "khen" là "có ý thức tổ chức,
kỷ luật" và vì vậy được vào Đảng, được "đề bạt" làm kẻ "cầm quyền" bậc
sơ trung cấp, để, nói cho cùng, cũng chỉ thành kẻ "chấp hành", "thừa
hành", nhưng có được chút "quyền": đối trên và nịnh trên, là dưới và nạt
dưới! Tôi nhớ lại,
khoảng mười năm trước đây, một người học trò và là bạn bè của tôi, trước
khi đi Nga làm luận án Phó tiến sĩ sử học, trong buổi "tiệc bia" tiễn
biệt thầy trò, bè bản, đã ngỏ với tôi lời "khuyên" tâm sự: "Nếu như thày
mà cũng "đầu hàng cơ chế" nữa là bọn em mất nhờ đấy!". Anh ấy ở Nga 4
năm, về nước với bằng xanh phó tiến sĩ, thẻ đỏ đảng việ và, gia nhập "cơ
chế", trở thành "người lãnh đạo" của tôi hôm nay! Tôi chẳng buồn mà
cũng chẳng vui. Tôi chọn lựa cho mình một hướng đi: Gia nhập "Câu lạc bộ
những người thích đùa". Tôi thường nói đùa như người Hà Nội vẫn thường
đùa anh ấy: - Cậu là đảng viên nhưng mà tốt! Câu nói đùa, mà "nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào" và hơn nữa, với câu nói ấy, có thể bị "quy chụp" là "phản động". Tôi
có một anh bạn, phải nói là rất thân, học với nhau từ thuở "hàn vi",
lại cũng làm việc dưới một mái trường Đại Học trên ba chục năm trường,
cùng "leo thang" rất chậm, từ "tập sự trợ lý" đến full professor,
chair-department; anh là con "quan lớn", em của "nguỵ lớn" nhưng "có đức
có tài", được chọn làm "hàng mẫu không bán" kiểu như ông Bùi Tín vừa
làm ồn ào giới truyền thông một dạo - nhưng khác ông ta là cho đến nay
anh không gửi "kiến nghị" kiến nghiếc gì, nói năng với TRÊN, với DUỚI
bao giờ cũng "chừng mực", chẳng "theo đuôi" mà cũng chẳng là "dissident"
của chế độ. Anh thường bảo tôi: thì về cơ bản cũng nghĩ như cậu thôi.
Nhưng cậu thông cảm, mỗi người một tính một nết, một hoàn cảnh. Cậu
"thành phần tốt", ăn nói táo tợn thì quá lắm người ta chỉ bảo cậu là
"bất mãn cá nhân" thội. Tớ "thành phần xấu", ăn nói bằng 1/10 cậu thôi
cũng đủ bị "quy" là "phản ứng giai cấp" rồi! O.K.! Anh cứ sống kiểu anh,
tôi cứ sống kiểu tôi. Chỉ có mỗi một điều thôi, là vì vậy và vì nhiều
lý do sâu xa khác nữa - nên nước ta chỉ có những nhà trí thức
(intellectuals) chứ không có giới trí thức (intelligentsia). Vậy thua thiệt thì Dân ráng chịu! Bi kịch, nỗi bất hạnh của trí thức Việt Nam, của nước Việt Nam là ở đó... * * * Báo
Đoàn Kết của một cộng đồng người Việt Nam bên Pháp đưa tin: Vào cuối
năm ngoái (1990), có một ông uỷ viên Bộ chính trị kiêm bí thư thường
trực Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam nhân sang Paris dự Đại hội đảng
Cộng sản Pháp, có tập hợp Việt kiều lại để nói chuyện. Trong khoảng 2
tiếng, ông chỉ "nói" mà không "nghe", lại còn bảo: "Sống ở nước
ngoài, biết gì chuyện trong nước, tuổi 40-50 trở xuống - nghĩa là vào
hạng tuổi con cháu ông - biết gì mà góp ý kiến!". Xem chừng bà con Việt kiều, nhất là anh chị em "trí thức", bực mình với ông lắm. Tôi
là "trí thức" ở trong nước, ở Hà Nội nữa, nghe những lời lẽ ấy "quen
tai" rồi. Cũng ông ấy, lúc còn làm "Bí thư thành uỷ" Hà Nội, khi thấy
báo "Quân Đội Nhân Dân" 1987 công bố "Bức thư ngỏ gởi ông chủ tịch thành
phố Hà Nội" của tôi, nói về việc "Phá hoại các di tích lịch sử của Thủ
đô" đã cho triệu tôi lên trụ sở Thành uỷ và "thân mật" bảo ban 2 điều: -
Nếu anh là công nhân, anh nói (nôm na, tục tằn) kiểu đó tôi còn hiểu
được, đằng này anh là giáo sư, là trí thức, sao lại nói (nôm na, "toạc
móng heo, treo móng giò") kiểu đó ? -
Nếu anh nói thế, "tôi" thì "tôi" nghe được, nhưng những "người khác",
họ không nghe được! Từ nay anh nên "thay đổi" cái "giọng nói" của anh
đi! Tôi cũng "trả lại ông" 2 điều: -
Đảng bảo: "Trí thức là của Công Nông và cũng là Công Nông", vậy nếu
công nhân - theo ông - nói được như vậy thì trí thức cũng nói được như
vậy. Có gì - theo ông - là khác nhau giữa giọng "trí thức" và giọng
"công nhân" ? - Ông
không khác gì người khác. Nếu theo ông, ông "nghe được" vậy thì người
khác cũng phải nghe được. Vậy tôi chả việc gì phải "đổi giọng" cả! Thực
ra, tôi biết thừa cái "giọng tôi" chính ông nghe không được nên ông mới
"góp ý" cho tôi, nhưng ông lại cố tình đổ cho là người khác nghe không
được, hơn nữa ông lại cố tách "tôi" ra khỏi công nhân, "đề cao" tôi là
"trí thức", để chỉ cốt răn dạy tôi: Với vị thế của anh, anh không được
ăn nói với chúng tôi (những nhà lãnh đạo) bằng cái giọng như vậy! Bà xã
tôi lúc ấy còn sống và là giáo viên trường Trung học Trưng Vương nổi
danh ở Hà Nội - nghe tin tôi được / bị phải gọi lên thành uỷ, lấy làm lo
lắng lắm, bảo tôi ("giọng" bà ấy bao giờ cũng vậy, con gái nhà "tư sản
Hà Nội" mà): Anh lên đấy, liệu mà ăn mà nói! Anh có sao, chỉ khổ vợ con!
Chùa Một Cột có bị phá để làm Bảo tàng Lăng Bác, nếu có hại thì hại cả
nước, đâu dính gì đến riêng anh mà anh cứ "la làng" lên, một con én
chẳng làm nổi mùa xuân, "ăn cái giải gì" mà cứ nói, chỉ khổ vào thân; có
cái giấy Úc mời sang kỷ niệm 200 năm nước "nó" đấy, khéo các "bố" ấy
lại không cho đi, vợ con lại mất nhờ. Ôi, làm "thằng người Việt Nam", làm "trí thức Việt Nam" biết bao là "hệ luỵ". Tôi
đưa chuyện HỌC TRÒ, BÈ BẠN, VỢ CON dàn trải trên mặt giấy đâu phải để
"nói xấu" họ, nhất là nói về vợ tôi - nay đã mất, cầu cho linh hồn bà ấy
tiêu diêu miền cực lạc - mà trong
tâm khảm tôi, bao giờ tôi cũng cảm thấy mình xấu tính hơn bè bạn - vợ
con - học trò. Tôi chỉ muốn nói về thân phận trí thức ở cái nước Việt
Nam mang cái nhãn hiệu Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa mà thực ra là còn đang
rất kém phát triển này: ông uỷ viên Bộ chính trị ấy, kiêm bí thư Trung
ương này, kiêm bí thư thành phố này... ai chả nghĩ là ông ấy cộng sản
hơn ai hết nhưng thực ra thì ứng xử của ông ấy từ Hà Nội đến Paris lại
"gia trưởng", "nho giáo cuối mùa" hơn ai hết! Khổ
vậy đó, Cho nên giáo sư Alexander Woodside, từ góc trời tây bắc của xứ
tuyết Canada mới hạ một câu về cách mạng Việt Nam: "The spiritual and
cultural milieu from which the vietnamese revolution sprang was both
confucian and comunist" (Cái môi trường tâm linh và văn hoá mà từ đấy
cách mạng Việt Nam phóng tới là cả Khổng Nho và Cộng sản). * * * Ông
giáo sư Từ Chi một trong những bạn bè thân thiết của tôi từ một cậu tú ở
Huế đi nam tiến ngay sau ngày 23 tháng 9 và trở thành cộng sản rồi năm
54 trở về học đại học để trở thành một nhà dân tộc học. Ông đi làm
chuyên gia ở Tây Phi, thương một người con gái Hà Nội nhà nghèo vì chiến
tranh mà lưu lạc mãi sang tận bờ sông Niger. Ông quyết đưa người phụ nữ
bất hạnh đó trở về tổ quốc chỉ bằng cách kết hôn với nhau, dù ông biết
trước rằng hành động dấn thân ấy ông phải về nước trước thời hạn. Và
cho đến 25 năm sau, ông không bao giờ được ra nước ngoài, dù ông, không
có bất cứ một hành vi gì phạm pháp. Cái án được phán quyết không theo
"Luật hôn nhân và gia đình" của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban hành
năm 1960, mà là theo đạo lý hủ Nho. Về
nước năm 65 qua ngã Moscow ông dừng chân ở đó 5 ngày gặp tôi ở quán cà
phê Sính, ông rỉ tai tôi: "Chế độ Xo Viết không thể nào viable" (nguyên
văn có nghĩa: không thể "thọ" được). Đấy là lời tiên tri đúng trước 1/4
thế kỷ! Vì sao NƯỚC và ĐẢNG có những người trí thức giỏi đến thế mà bây
giờ cả NƯỚC, cả ĐẢNG đều lâm vào tình huống "khủng hoảng toàn diện"? Từ
năm 65, cứ mỗi lần nghe thấy lời khuyến dụ tôi vào Đảng, ông lại bảo
tôi: "Tuỳ ông đấy, nhưng... nếu ông có vào thì đừng để người ta đuổi ông
ra!". Ông biết kỷ luật của Đảng ông là "kỷ luật sắt" mà tôi thì ông
cũng biết quá rõ tôi là người "tự do", tính ưa phóng khoáng, là người
"bất cơ" (không chịu ràng buộc) theo chữ dùng để đánh giá mình của nhà
sử gia họ Tư Mã bên Tàu! Tôi
hỏi ý kiến ông về tính chất Cách mạng Việt Nam. Ông trả lời: Cụ Hồ bảo
nước mình là một nước nông nghiệp, dân tộc mình là một dân tộc nông dân.
Cứ đấy mà suy, thì cuộc "Cách mạng" bây giờ hẳn vẫn là một cuộc khởi
nghĩa nông dân. Khác chăng là trước, khởi nghĩa nông dân do một số nhà
nho xuất thân nông dân như Quận He, như Cao Bá Quát cầm đầu, bây giờ là
do những người cộng sản cũng xuất thân ở nông thôn và có căn tính nhà
nho, như cụ Hồ, như ông Trường Chinh... lãnh đạo. Ông đọc bài ông Nguyễn
Khắc Viện rồi chứ, Confucianisme et Marxisme (La Pensée, No 105,
Octobre 1962). Ông Viện là cộng sản và là con cụ nghè Nguyễn Khắc Niệm
đấy! Đầu thế kỷ XX,
trong xã hội yêu nước vẫn âm ỉ một chủ nghĩa yêu nước xóm làng (village
patriotism, chữ của Alexander Woodside). Yêu nước chống Pháp kiểu Nho
của cụ Phan Bội Châu thất bại ở 2 thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Và dòng trí
thức Nho gia tàn lụi. Một số con
cháu nhà Nho, một số con cháu nông dân, một số con cháu nhà công thương
mới trở thành lớp trí thức Tây học. Một số ấy chấp nhận le fait colonial
và trở thành công chức cho Tây, như ông cụ ông kỹ sư canh nông, như ông
cụ tôi (bác sĩ)... Một số khác, yêu nước hơn, mong áp dụng ở Việt Nam
những lý tưởng Mác-Lê thế kỷ XIX. Cái chủ nghĩa quốc gia của kiểu tư sản
mà ông Nguyễn Thái Học, ông Xứ Nhu, kể cả cậu ruột ông đã khởi xướng ở
Việt Nam Quốc dân đảng thì đã bị thực dân vùi dập khủng bố tan hoang từ
thập kỷ 30. Còn lại cái chủ nghĩa quốc tế của Mác Lê mà Nguyễn Ái Quốc
và những nhà cộng sản mang về áp dụng vào một xã hội nông dân châu Á
nghèo khổ, khác hẳn cơ địa xã hội tư sản Tây Âu, nơi hình thành chủ
nghĩa Marxisme. Người cộng sản Việt Nam có căn tính nông dân - Nho giáo
đã gần Dân hơn người tiểu tư sản Tây học ở thành thị. Họ đã vận động và
tổ chức được phong trào nông dân và toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật, làm
cách mạng tháng Tám thành công. Kháng chiến là sự nối dài của Cách mạng
tháng Tám. Kháng chiến đã thắng lợi. Chủ nghĩa thực dân phương Tây đã bị hoá giải. * * * Dưới
thời quân chủ - nông dân - nho giáo, ở Viễn Đông, có một ước mơ ĐẠI
ĐỒNG. "Thế giới ĐẠI ĐỒNG, thiên hạ vi CÔNG". Ở đầu thập kỷ 20, trong một
bài viết, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cái chủ nghĩa ĐẠI ĐỒNG của Khổng Nho
ấy rất gần với chủ nghĩa Cộng sản. Alexander Woodside nhận xét: Ông Mao
phê phán rất dữ dằn Khổng Nho còn ông Hồ rất nhẹ nhàng với Nho Khổng.
Xây "đời sống mới" năm 46, ông Hồ nêu khẩu hiệu của Nho Khổng: CẦN KIỆM
LIÊM CHÍNH CHÍ CÔNG VÔ TƯ. Dạy đạo đức cho cán bộ, ông Hồ lấy câu Nho
Tống: "Tiên ưu hậu lạc". Về giáo dục xã hội, ông cũng dùng câu có sẵn
của Khổng Mạnh, đại loại như "Bất hoạn bần nhi hoạn bất quân..." (Không
sợ thiếu chỉ sợ không công bằng...) hay là "Vì lợi ích mười năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm trồng người", v.v... và v.v... Đến di chúc, ông
cũng đưa vào một câu trích dẫn của Đỗ Phủ đời Đường: "Nhân sinh thất
thập cổ lai hy". Thơ chữ Hán của ông, có nhiều câu, y phỏng theo Đường
thi... Nhưng cái mô hình
xã hội chủ nghĩa kiểu Stalin hay kiểu Mao (Staline Mao hoá) dù đã ít
nhiều Hồ hoá, Việt Nam hoá cũng tỏ ra không thành công trước thực tiễn
"bướng bỉnh" của một nước Việt Nam nhỏ bé - tiểu nông. Người
Cộng sản Việt Nam đã lầm khi tưởng rằng dù với cơ cấu kỹ thuật cũ, ít
thay đổi, cứ làm đại việc công hữu hoá (quốc hữu hoá, tập thể hoá, hợp
tác hoá...) thì vẫn xoá bỏ được áp bức bóc lột, cải tạo xã hổi chủ nghĩa
thành công. Hoá ra là một công thức đơn giản hơn: CÔNG HỮU HOÁ + CHUYÊN CHÍNH (VÔ SẢN) = (QUÁ ĐỘ sang) CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Tôi
và ông Từ Chi bàn mãi về chuyện này. Sau thời công xã nguyên thuỷ, chế
độ áp bức bóc lột đầu tiên nảy sinh ở đất Việt với chế độ "thủ lĩnh địa
phương", lang đạo, phia tạo (tiếng Anh tạm dịch là local chieftains) khi
ruộng đất còn gần như y nguyên là "của công" nhưng "dân đen" là tiểu
nông tản mạn còn thủ lĩnh giữ quyền "thế tập" theo dòng máu. Dân gian
nói giản dị: Trống làng ai đánh thì thùng Của cung ai khéo vẫy vùng thành riêng! Thì
giờ đây, ruộng hợp tác, của kho hợp tác, bọn bí thư, chủ nhiệm, kiểm
soát đều ở trong một cơ sở Đảng chuyên chính, chúng sẽ "vẫy vùng" thành
riêng thôi! Ba
năm liền 76-79 tôi đi Định Công Thanh Hoá, khảo cổ (ngày), khảo kim
(đêm). Và 3 ngày liền cuối năm 79, tôi thuyết trình trước Tỉnh Uỷ Thanh
Hoá về sự phá sản của mô hình làng Định Công (người ta tuyên bố "Định
Công hoá" toàn tỉnh Thanh Hoá, vời bài báo tràng giang "Bài học Định
Công" của Bí thư Trung Ương Tố Hữu). Thính giả cứ bỏ dần trước sự "vắng
mặt" của Bí thư, Phó bí thư Tỉnh uỷ (người ta phải "nhìn Trên" để định
thế ứng xử). Còn một ông thường vụ phụ trách tuyên huấn kiên trì nghe 3
ngày, để sau này khi Định Công phá sản hoàn toàn, đã khoa trương tuyên
bố, chứng tỏ ta đây sáng suốt hơn các nhà lãnh đạo khác: - "Lúc bấy giờ (79), ai dám nghe Trần Quốc Vượng nói, ngoài tôi?" (ông ấy bây giờ là Bí thư Đảng uỷ Bộ Văn hoá - Thông tin). Năm
82 tôi đi Liên Xô thuyết trình khoa học. Bài viết của tôi bằng tiếng
Việt, Dương Tường dịch sang tiếng Anh, Từ Chi dịch sang tiếng Pháp, bà
Nona Nguyễn Tài Cẩn dịch sang tiếng Nga. Bà Nona bảo: bài của anh hay
lắm, nhưng thuyết trình ở Paris thì hợp hơn, nói với trí thức nước tôi
(Liên Xô), họ không hoan nghênh đâu! Mà quả nhiên! Về
nước, tôi briefing cho bạn bè nghe về Liên Xô và nói lén qua hơi men:
"Dứt khoát hỏng!" Và đấy là lần duy nhất tôi "được" đi Liên Xô. Đầu năm
83, giáo sư Phạm Huy Thông cho đăng bài của tôi lên trang đầu Tập san
Khảo cổ học (1). Đảng uỷ Uỷ ban Khoa học Xã hội viết bản báo cáo dài lên
ban Tuyên huấn Trung ương quy kết tôi 4 tội: - Chống chủ nghĩa Mác-Lê: vì tôi bảo: Công hữu hoá có thể đẻ ra bóc lột. - Chống công nghiệp hoá: vì tôi bảo: Nông nghiệp phải / còn là mặt trận sản xuất hàng đầu. -
Chống đấu tranh giai cấp: vì tôi bảo: Nông dân khởi nghĩa - ngay cả ăn
cướp - cũng không đánh vào người làng mà chủ yếu đi cướp nơi khác và
đánh vào Quan. - Chống chuyên chính vô sản: vì tôi bảo: Chuyên quyền đẻ ra tham nhũng. Vụ
án "văn tự" này kéo dài 3 năm, không có kết luận. 3 năm tôi được "ngồi
nhà", khỏi đi Tây và nói tiếng Tây! Cuối năm 86, khi Đại hội VI đảng
Cộng sản Việt Nam kết luận lại trong nghị quyết là Nông nghiệp là "mặt
trận hàng đầu", giáo sư Phạm mỉa mai ở trụ sở Uỷ ban Khoa học Xã hội:
Thế bây giờ Đảng uỷ đúng hay Trần Quốc Vượng đúng ? Nhưng
"nỗi ám ảnh của quá khứ" vẫn không tha người làm Sử như tôi (mà nói
theo nhà Phật thì kiếp này còn là "quả" của kiếp trước kia mà). Năm 85,
nhân năm "quốc tế người già", ông Nguyễn Hữu Thọ nhờ người nói tôi viết
bài "Truyền thống người già Việt Nam". Báo Đại Đoàn Kết của ông không
"đoàn kết" nổi bài của tôi, tôi nhờ báo Tổ Quốc của ông Nguyễn Xiển đăng
dùm. Rồi năm 86 có hội Khoẻ Phù Đổng của đoàn Thanh Niên, ông Bí thư
T.N. nhờ tôi viết bài "Phù Đổng khoẻ". Mùa hè nóng bỏng 86, trước Đại
hội VI 5 tháng, ông Bí thư Trung ương Đảng phụ trách tư tưởng H.T. đem
hai bài của tôi ra "chửi bới" giữa Hội nghị mở rộng Ban Chấp hành Hội
Nhà báo Việt Nam, đề bạt Nguyễn Khắc Viện, Trần Quốc Vượng, Trần Văn
Giàu, Trần Bạch Đằng là 4 trí thức chống đối. Ông Giàu, thầy học cũ của
tôi, đâm thư kiện. Ông H.T. biên thư trả lời (tôi
còn giữ làm "chứng từ thanh toán") bảo: Tôi không động đến anh, tôi chỉ
động đến Trần Quốc Vượng, vì anh ta viết "Các vua Trần nhường ngôi" ám
chỉ đòi chúng tôi rút lui, và viết "Thánh Gióng bay lên trời" ám thị
chúng tôi đánh giặc xong còn cứ ngồi lại giành quyền vị...! Khốn khổ, vì
sao các ông ấy cứ "mỗi lời là một vận vào khó nghe" như vậy? Hay là tại
dân gian "nói cạnh" các cụ: Có tật giật mình? * * * Xã
hội Việt Nam truyền thống cũ có nhiều nét hay, vẻ đẹp nên ở cạnh nước
lớn, bị xâm lăng, đô hộ, đè nén hàng ngàn năm vẫn trỗi dậy phục hưng dân
tộc, "trở thành chính mình". Nhưng xã hội quân chủ - nông dân - nho
giáo từ sau thế kỷ XV có nhiều "khuyết tật trong cấu trúc" - nói theo
các nhà khoa học hôm nay: Ở
trong NHÀ thì có thỏi GIA TRƯỞNG, tuy tâm niệm "con hơn cha là nhà có
phúc" mà vẫn không thích "ngựa non háu đá", "trứng khôn hơn vịt". Ở trong LÀNG thì có nạn CƯỜNG HÀO, với tinh thần ngôi thứ, chiếu trên, chiếu dưới, "miếng giữa làng hơn sàng xó bếp". Ở trong VÙNG thì có nạn SỨ QUÂN, thủ lĩnh vùng thích "nghênh ngang một cõi", gặp dịp là sẵn sàng "rạch đôi sơn hà". Ở
cả NƯỚC thì có nạn QUAN LIÊU, quan tham nhũng, tân quan tân chính sách,
luật không bằng lệ, kiện thì cứ kiện nhưng "chờ được vạ má đã sưng",
nên chỉ cứng đầu thì dại, "không ngoan" nhất là "luồn cúi" và trí thức
"lớn" thì cũng tự an ủi "gặp thời thế thế thời phải thế". Vì ngoài thì
"bế môn toả cảng", trong thì "chuyên quyền độc đoán", cho nên sĩ khí ắt
phải bạc nhược. Thế giới giờ đây thay đổi đã nhiều. Song trong nước mình thì chưa đổi được bao nhiêu. "Nỗi ám ảnh của Quá khứ" vẫn còn đè nặng. Chỉ
còn một cách để "đổi đời" cho DÂN, cho NƯỚC: Đó là xây dựng một chế độ
dân chủ, một nhà nước pháp quyền, một nền kinh tế công - nông - nghiệp
với thị trường tự do, một tư tưởng cởi mở, rộng dung, khoáng đạt, tự do,
một nền văn hoá đa dạng, giữ cho được bản sắc tốt đẹp của dân tộc nhưng
biết hoà nhập với thế giới, với nhân gian... Tóm một chữ thì không phải là chữ "ĐẤU" mà là chữ "HOÀ": HOÀ BÌNH, HOÀ HỢP, HOÀ THUẬN, HOÀ GIẢI... Chẳng những NHÂN HOÀ mà cả NHIÊN HOÀ (hoà hợp với thiên nhiên, tự nhiên) "Hoà nhi bất đồng"... mong lắm thay! Cornell 1-5-91