Chương 7
Những người Mác-xít như
Lukács, Louis Althusser đều coi Marx đã xây dựng một lý luận mới về lịch
sử làm cơ sở cho chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tuy nhiên sự khác biệt
trong quan niệm thế nào là lịch sử đã phân định rõ rệt hai hướng đi của
những người thừa
kế Marx: một bên là những người chịu ảnh hưởng phương pháp biện chứng
Hegel, một bên là những người phủ nhận biện chứng Hegel.
Trong
xu hướng thứ nhất, phải kể Lenin, Lukács, K. Korsch, E. Bloch, Henri
Lefebvre, Kojève, H. Marcuse với quan điểm không có biện chứng pháp
Hegel, không thể có chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác-xít. Có thể nói đặc
điểm chung của chủ nghĩa Mác phương tây là bắt nguồn từ mối quan hệ giữa
chủ nghĩa Mác với Hegel, như Iring Fetscher đã nhái một câu nói của
Fichte: "hãy nói cho tôi biết bạn xác định quan hệ giữa Marx và Hegel ra
sao, tôi sẽ nói cho bạn biết bạn đã theo loại chủ nghĩa Mác nào".
Trong
xu hướng thứ hai, những người Stalinít như R.O. Gropp, những người
Mácxít Ý như G. Della Volpe, Lucio Coletti hay theo cấu trúc luận như
Louis Althusser lý giải trong khi phê phán Hegel, Marx đã đối lập với tư
tưởng của Hegel. Della Volpe trong
Khoa luận lý như một khoa học thực nghiệm/Logica come scienza positiva
trích dẫn lời Lenin trong Những người bạn dân là gì và họ đã chiến đấu
những người dân chủ xã hội ra sao? đả kích "những lý luận về triết học
lịch sử [của những tư tưởng tư sản Anh
và tiểu tư sản dân chủ Nga] bùng lên và nổ như những bọt xà
bông...[trong khi] Marx đã thực hiện bước tiến vĩ đại trong việc nhận
thức được những mối quan hệ xã hội thực rõ ràng ở chỗ ông đã loại bỏ
những lý lẽ của họ về xã hội và tiến bộ nói chung trong khi xây dựng một
phân tích khoa học về một xã hội và một tiến bộ - tư bản chủ nghĩa", và
chống lại lý luận của những nhà duy vật vẫn còn xây dựng phép biện
chứng trên cơ sở tam thế [đề-phản đề-hợp đề] là tàn tích của chủ nghĩa
Hegel. Della Volpe khái quát phê phán của Marx về phương pháp biện chứng
huyền hoặc nơi Hegel đã chỉ ra, một là khái niệm về cái thống nhất
nguyên ủy là tiêu chuẩn cơ bản giáo điều của biện chứng Hegel (vì nó dẫn
đến khái niệm về một cái thống nhất hình thức, trừu tượng chỉ tạo ra
phức hợp hình thức trong quá trình hủy thể của hủy thể), hai là quan
niệm giáo điều này về
cái thống nhất bất động, thần học huyền bí không là gì khác hơn một
phân rã triết lý của thế giới kinh nghiệm. Do đó cần có một biến đổi
triệt để trong phương pháp triết lý. Lucio Coletti lý giải nếu Marx có
rút ra được những bài học từ nơi Hegel, đó là một cảm quan
sâu sắc về sự thống nhất của quá trình luận lý và quá trình thực, nghĩa
là nguyên lý về thống nhất của tư duy và hữu thể, điều mà Hegel đã ngăn
trở từ khởi đầu về sự khu biệt thực sự. Trong Chủ nghĩa Mác và Hegel/Il
Marxismo e Hegel Coletti phê phán quan
niệm về "biện chứng vật chất" mà Engels và Lenin lý giải trên tư tưởng
Hegel vì khi Lenin thử đọc Hegel trên "bình diện duy vật" ngay trên vị
trí mà Hegel phủ nhận vật chất - một sai lầm đã làm cơ sở cho gần một
thế kỷ lý luận của chủ nghĩa Mác.
Louis
Althusser cũng bắt đầu từ Những người bạn dân là gì của Lenin như Della
Volpe khi khẳng định "phương pháp của Marx là đối lập trực diện với
phương pháp của Hegel" và sự phi lý của những luận điểm nào quy kết chủ
nghĩa Mác vào phép biện chứng
của Hegel. Trong những tác phẩm Vì Marx (Pour Marx 1965), Đọc Tư bản
(Lire le Capital 1965/68), Lenin và triết học (Lénine et la philosophie
1969) và bài thuyết trình Về quan hệ Marx với Hegel trong Hội luận của
Jean Hyppolite năm 1968 Althusser đưa ra năm đề cương nói về mối hợp
nhất giữa phong trào công nhân và lý luận mác-xít, phát hiện khoa học
của Marx trong xây dựng một khoa học lịch sử làm biến đổi triết học và
sự đoạn tuyệt của Marx với chủ nghĩa nhân bản lý thuyết. Những kết luận
về một cuộc cách mạng trong khoa học như Marx đã hình thành nên một khoa
học lịch sử khả hữu trên phương diện hình thức và cách mạng trong triết
học khi chỉ ra khái niệm lịch sử như một quá trình không chủ thể, không
phải ngẫu nhiên mà là những thành tựu qua một diễn tiến trí thức lâu dài.
Thật
vậy, khởi sự của luận điểm phủ nhận vai trò của Hegel trong quan hệ tư
tưởng với Marx và Lenin là công trình đọc và nghiên cứu rốt ráo về tư
tưởng của Hegel. Louis Althusser khởi thảo một luận án Về nội dung trong
tư tưởng của Hegel vào năm 1947.
Được
đào tạo trong trường Cao đẳng Sư phạm đường Ulm, Althusser đã chịu ảnh
hưởng của những người thày như J. Hyppolite và đặc biệt là Trần Đức Thảo
làm trợ giáo (caiman) trong thời gian Althusser theo học với những bài
viết như Biện chứng Hegel và nội dung thực của nó đăng trong Les Temps
Modernes (1948). Thảo quan niệm "chính vì nội dung trong tư tưởng Hegel
bao dung hầu như toàn bộ lịch sử thế giới bắt nguồn chủ yếu từ thực tại
khách quan và nói cho cùng hàm ngụ một chủ nghĩa duy vật dấu mặt mà Hegel
có thể phát triển quan niệm về chuyển biến và phương pháp biện chứng
làm những tiền đề thực sự cho tư tưởng mác-xít."(C'est précisement parce
que le contenu de la pensée hégélienne, enveloppant la presque totalité
de l'histoire mondiale, tire son origine
essentiellement de la réalité objective et implique en dernière analyse
un matérialisme caché que Hegel a pu élaborer la conception du devenir
et la méthode dialectique, qui furent les prémisses de fait de la pensée
marxiste). Trong luận án nói trên, Althusser
muốn chỉ ra rằng mặc dầu vào thời đại ông "Hegel sống lại trong chủ
nghĩa Mác, chủ nghĩa hiện sinh và phát-xít, còn cái hình xác những chân
lý của Hegel chỉ là cái thi thể trong lịch sử phơi bày sự tan rữa của nó
như 'một hiện hữu không có khái niệm', một nội dung không hình thức".
Nỗ lực cách mạng trong phong trào mác- xít có thể coi như sự tái chiếm
"những phạm trù kinh tế bằng gia bội vật chất nhân tính nghĩa là chiếm
hữu hình thức bằng nội dung". Đó là lý do phong trào mác-xít là một chủ
nghĩa duy vật, chủ trương vật chất ngự trị, "nhưng đồng thời cũng là một
chủ nghĩa nhân bản, vì vật chất này là vấn đề người, chiến đấu chống
những hình thái phi nhân". Tuy nhiên Althusser tiên liệu khi kết luận là
tương lai ở nơi những vận động bí mật của nội dung hiện tại, hãy còn
trong toàn vùng tăm tối cần được soi sáng.
Từ
năm 1950 sau khi gia nhập đảng cộng sản, Althusser đưa ra một cái nhìn
phê phán về hiện tượng trở về với Hegel khi nhận xét là những lý giải tư
sản về Hegel trong hình thái tạo biện chứng trở thành huyền hoặc nhằm
biến dạng cái hiện hữu khả dĩ có thể gọi nô dịch là tự do, bóc lột là
lương tri, gây chiến là bảo vệ con người, thậm chí nhìn nhận chiến tranh
bạo động là cơ sở chân thực của biện chứng huyền hoặc. Althusser bài
bác những luận điểm phục hồi ảnh hưởng của Hegel trong chủ nghĩa Mác và
đưa ra một lý luận xây dựng chủ nghĩa Mác hoàn toàn lại bỏ những đối
chiếu với học thuyết của Hegel. Ông lý luận:
"Con
người đi bằng đầu, rốt cuộc đi bằng chân cũng vẫn cùng là một người! Và
một triết học dẫu có đảo ngược chỉ có thể coi không gì khác hơn triết
học nghịch đảo bởi một ẩn dụ lý luận: quả thực cấu trúc của nó, những
vấn đề, ý nghĩa của những vấn đề của
nó vẫn tiếp tục bị ám ảnh bởi cùng vấn tính đề ra (même problématique)."
Để
giải quyết những nghịch lý đề ra ngay trong những bản văn của Marx như
vấn đề "hạt nhân hợp lý", "vỏ huyền bí" khi liên hệ đến triết học và
biện chứng Hegel, Althusser quan niệm phải có "một sự đoạn tuyệt lớn lao
với những nguồn gốc, một cuộc đấu tranh anh
hùng chống lại những ảo tưởng Marx thừa kế từ nước Đức nơi ông sinh
ra". Cái vấn tính Althusser nói đến là cấu trúc tiềm tàng xác định cái
thống nhất của một hệ tư tưởng mà sự tách rời một nhân tố cá thể sẽ làm
sai lạc ý nghĩa của nó. Sự đoạn tuyệt với tư tưởng "thời Marx trẻ",
Althusser gọi là một "đoạn tuyệt nhận thức", nhờ đó Althusser có thể
quan niệm khác biệt giữa lý luận của Marx và biện chứng Hegel có tính
cách nội tại, nghĩa là một đằng thuần lý còn một đằng là huyền hoặc. Như
vậy cấu trúc của biện chứng mác-xít khác với biện chứng của Hegel:
những cấu trúc cơ bản của biện chứng Hegel như hủy thể, hủy thể của hủy
thể, tính đồng nhất giữa những mặt đối lập, mâu thuẫn... nơi Marx có một
cấu trúc hoàn toàn khác. Lấy một thí dụ như khái niệm về mâu thuẫn như
luận điểm của Lenin về nước Nga là khâu yếu nhất trong chuỗi những nước
đế quốc là vì "nó tích tụ một lượng số lớn nhất những mâu thuẫn có thể
khả hữu"(elle cumulait la plus grande somme de contradictions alors
possibles). Sự khác biệt giữa mâu thuẫn trong biện chứng Hegel với Marx ở
chỗ một đằng đơn giản, còn một đằng có tính siêu quyết định
(surdéterminé):
"Mâu thuẫn không thể tách
rời với cấu trúc của toàn thể bộ phận xã hội mà nó diễn ra trong đó,
không thể tách rời với những điều kiện hình thức về sự hiện hữu của nó
cũng như ngay chính những trường hợp nó chi phối,...nó cũng bị ảnh hưởng
bởi những trường hợp và điều kiện này ngay trong lòng mâu thuẫn, xác
định và bị xác định trong cùng một vận động, và bị xác định bởi những
mức độ khác nhau và những trường hợp khác nhau trong hình thái xã hội mà
nó điều động: có thể nói nó bị siêu quyết định trong nguyên tắc của
nó."(La 'contradiction' est inséparable de la structure du corps social
tout entier, dans lequel elle s'exerce, ins“parable de ses conditions
formelles d'existence, et des instances même
qu'elle gouverne,...elle est donc elle-même, en son coeur, affectée par
elles, déterminante mais aussi déterminée dans un seul et même
mouvement, et déterminée par les divers niveaux et les divers instances
de la formation sociale qu'elle anime: nous pourrions la dire
surdéterminée dans son principe).
Trong
thí dụ đề cập nơi trên, Althusser nhận định Lenin đã đúng khi nhận ra
những điều kiện khách quan của cuộc cách mạng Nga vì trong hoàn cảnh
cách mạng, Nga là khâu yếu nhất trong chuỗi mắt xích đế quốc, đồng thời
nó cũng là nước lạc hậu và tiên tiến
nhất, nên một mâu thuẫn lớn lao không thể tránh khỏi cũng như không thể
giải quyết, giữa một cuộc cách mạng tư sản xảy ra ngày hôm trước cách
mạng vô sản, thúc đẩy những điều kiện chủ quan để thực hiện hai cuộc
cách mạng. Toàn bộ kinh nghiệm cách mạng
mác-xít chứng tỏ mâu thuẫn chung như mâu thuẫn giữa những lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất hiện thể nơi mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối
kháng tự nó không đủ để tạo cách mạng, cho nên tất yếu nó phải phối hợp
với những mâu thuẫn khác trong một thể thống
nhất cấu tạo bởi chính bản chất và kỳ thành của chúng. Mọi mâu thuẫn
trong một hình thái xã hội đều có tính siêu quyết định như thế. Mâu
thuẫn của Hegel không bao giờ thực sự có tính siêu quyết định vì những
hình ảnh của ý thức và những thế giới tiềm tàng tương
ứng với những hình ảnh này không là những xác định kỳ thành khác biệt
với ý thức mà chỉ là "những tiếng vọng của những gì nó trở thành như thể
những dự kiến của chính nó". Lấy thí dụ ngay trong chính Triết học về
Lịch sử của Hegel. Mọi xã hội lịch sử được cấu tạo bởi vô số những tất
định cụ thể, từ luật lệ chính trị đến tôn giáo qua mọi thể chế kinh tế,
phong tục, giáo dục, văn nghệ...nhưng những tất định này chủ yếu không ở
ngoài những cái khác vì tất cả cấu thành một tổng thể cơ hữu, được phản
ánh trong một nguyên lý tự nội duy nhất, là chân lý của những tất định
cụ thể này. Sự giản lược tổng thể này vào một nguyên lý tự nội duy nhất
chỉ khả hữu trên điều kiện tuyệt đối là làm tha hóa
(Entausserung-Entfremdung) toàn bộ đời sống cụ thể của một dân tộc vào
một nguyên lý tinh thần tự nội, hình thái trừu tượng nhất của ý thức của
thời đại, chính là hệ tư tưởng của nó. Đó là lý do tại sao cái "vỏ
huyền bí" tác động vào "hạt nhân" cũng như tại sao Hegel có thể biểu thị
lịch sử hoàn vũ từ cổ đại phương Đông đến hiện tại có tính "biện chứng"
điều động bởi một nguyên lý mâu thuẫn "đơn giản". Theo Althusser, Hegel
giải thích đời sống vật chất, lịch sử cụ thể của mọi dân tộc bằng một
biện chứng của ý thức, trong khi đối với Marx, đời sống vật chất của con
người giải thích lịch sử của họ. Với Hegel, chính trị-tư tưởng là bản
chất của kinh tế còn đối với Marx, kinh tế là bản chất của
chính trị-tư tưởng. Marx không còn sử dụng những từ ngữ theo kiểu Hegel
nữa mà cả từ ngữ lẫn quan hệ đều biến đổi từ bản chất lẫn ý nghĩa. Do
đó những khái niệm về xã hội công dân không xuất hiện trong tác phẩm của
Marx nữa, thực tại kinh tế trừu tượng chỉ là
hậu quả của một thực tại cụ thể sâu sắc hơn, đó là phương thức sản xuất
của một hình thái xã hội nhất định. Mức độ phát triển của những lực
lượng sản xuất, tình trạng của những quan hệ sản xuất từ nay là những
khái niệm cơ bản của chủ nghĩa Mác, cũng như khái niệm về giai cấp xã
hội biến đổi bản chất của Nhà nước, bởi đây là công cụ của giai cấp
thống trị.Cho nên những khái niệm như "đảo nghịch"(Verkehrung), "thăng
hoa"(Aufheben) không mang cùng ý nghĩa nơi Hegel và Marx. Với tính siêu
quyết định của bất kỳ mâu thuẫn và nhân tố cấu thành nào của một xã hội
hàm ý là một cách mạng
trong cấu trúc tự bản thân không biến đổi những thượng từng cấu trúc và
đặc biệt là những hệ tư tưởng cùng lúc vì chúng có đủ kiên trì để tồn
tại, cũng như xã hội mới do Cách mạng tạo ra có thể vẫn bảo đảm sự tồn
tại của những nhân tố này thông qua những thượng
từng cấu trúc và những "hoàn cảnh" mới. Một sự phục hoạt như vậy hoàn
toàn không thể quan niệm được bởi một biện chứng không có tính siêu
quyết định.
Để kết thúc cho bài viết về
Mâu thuẫn và siêu quyết định trong tập Vì Marx, Althusser nghĩ là một
quan niệm chân xác về những khái niệm và sự phát triển của chủ nghĩa Mác
cần phải thoát ra những bóng ma, mà "hơn bao giờ hết phải nhìn thấy
trong hiện tại một trong những bóng ma đầu tiên là bóng ma Hegel. Cần
phải thêm một chút ánh sáng nữa trên Marx để cho bóng ma này trở lại đêm
tối."(plus que jamais il importe de voir aujourd'hui qu'un des premiers
fantômes est l'ombre de Hegel. Il faut un peu plus de lumière sur Marx,
pour que ce fantôme retourne à la nuit).
Sau
khi đã loại ảnh hưởng của Hegel khỏi chủ nghĩa Mác, có nghĩa là ảnh
hưởng của những tư trào thời đại với những lý luận về tha hóa, nhân bản,
Althusser muốn chứng tỏ về mặt lý luận "chủ nghĩa Mác từ cùng một vận
động cũng như từ cơ sở đoạn tuyệt nhận thức
là một chủ nghĩa chống nhân bản, chống duy sử". Ông coi Spinoza là tiền
nhân duy nhất trực tiếp của Marx khi ông chỉ ra là Marx đã áp dụng lối
nghiên cứu thuần lý, toán học vào nghiên cứu xã hội, phân biệt đối tượng
của tư duy với đối tượng thực (Spinoza đã
cảnh báo chúng ta là đối tượng của nhận thức tự nó tuyệt đối phân biệt
với đối tượng thực, như ý tưởng của vòng tròn, là đối tượng của nhận
thức thì không thể lẫn lộn với vòng tròn, vốn là đối tượng thực).
Althusser dẫn ra trong Grundrisse của Marx, phê phán
"Hegel
rơi vào ảo tưởng quan niệm cái thực (das Reale) là kết quả của tư tưởng
tự thâu tập, tự đào sâu và tự vận động nơi tự thân, trong khi phương
pháp đi từ trừu tượng lên đến cụ thể mới chính là phương thức để tư duy
chiếm hữu cái cụ thể và tái sản xuất nó như một cụ thể tinh thần (Hegel
geriet daher auf die Illusion das Reale als Resultat des sich in sich
zusammenfassenden, in sich vertiefenden, und aus sich selbst sich
bewegenden Denkens zu fassen, wahrend die Methode vom Abstrakten zum
Konkreten aufzusteigen,
nur die Art fur das Denken ist, sich das Konkrete anzueignen, es als
ein geistig Konkretes zu reproduzieren. Grundrisse der Kritik der
Politischen Oekonomie). Để chống lại sự lẫn lộn này, Marx chủ trương
phân biệt giữa đối tượng thực (objet réel)
(cái tổng thể thực tồn tại trong sự độc lập của nó, trước cũng như sau,
bên ngoài đầu óc) với đối tượng của nhận thức, sản phẩm của tư duy tạo
ra nó trong chính nó như một tư duy-cụ thể (Gedankenkonkretum), như một
tư duy-tổng thể (Gedankentotalitat), nghĩa là như một đối tượng của tư
duy (objet de pensée), tuyệt đối phân biệt với đối tượng thực.
Để
đọc Marx, Althusser đề nghị một cách đọc mới, ông gọi là đọc theo triệu
chứng (lecture symptômale) để chống lại kiểu đọc văn chỉ thấy trong
những lý lẽ sự liên tục của bản văn. Khái niệm này Althusser mượn lại
của Freud (trong phân tâm học, đó là cách lý giải những giấc mộng và
những hiện tượng trong khoa tâm trị liệu của đời sống hàng ngày) vì đọc
không phải đi kiểm tra và nhìn mà là xây dựng lại những điều kiện của
chính thị giác trong trường của một vấn tính và ghi nhận những nguyên
nhân cấu trúc (causes structurales) của giới hạn cũng như sự triển khai
của nó:"Chỉ kể từ Freud, chúng ta mới bắt đầu nghi ngờ điều gì nghe cũng
như nói (và giữ im lặng) muốn nói gì; và cái muốn nói (vouloir dire)
này của nói và nghe vén mở bên dưới cái vô tội của nói và nghe là cái
chiều sâu tội lỗi của một diễn ngôn thứ hai, hoàn toàn khác, diễn ngôn
của vô thức". Vì vậy trong Đọc bộ Tư bản Althusser ghi nhận:
"Marx
không suy nghĩ về mặt lý luận, dưới một hình thức chính đáng và phát
triển, khái niệm và những hàm ngụ lý luận trong tiến trình cách mạng về
mặt lý luận."
Trong tác phẩm này của Marx có những chỗ khuyết, "những lầm lẫn lý thuyết" cho nên:
"Cần
một bản đọc 'có triệu chứng' để những lầm lẫn này dễ nhận ra và để nhận
diện" cái diễn ngôn hiển lộ của bản văn là cái diễn ngôn thầm lặng liên
kết những "triệu chứng" của vô thức chôn dấu dưới mặt diễn ngôn đầu.
Ông phân biệt hai trình độ đọc Marx,
"không
những chỉ ở điều Marx nói mà ở điều Marx làm, chúng ta có thể nắm được
sự chuyển nhượng từ một ý tưởng và thực tiễn của việc đọc ban đầu sang
một thực tiễn đọc mới, cũng như sang một lý luận về lịch sử khả dĩ cung
cấp cho chúng ta một lý luận mới về đọc". Cho nên khi Marx đọc Smith hay
Ricardo, không phải ông chỉ nhìn ra những quan điểm của họ mà Marx đưa
ra một chiều hướng phương pháp luận mới: phê phán, "phê phán kinh tế
chính trị học ở đây không có nghĩa là phê phán hay sửa đổi một vài điều
không chính xác hoặc một vài chi tiết trong khoa học này...mà là đối đầu
nó với vấn tính mới và đối tượng mới, nghĩa là tra hỏi chính đối tượng
của kinh tế chính trị học."
Điều đó có
nghĩa là mở ra một con đường mới trong việc đặt những vấn đề. Althusser
muốn nói đến bản chất sai biệt của đối tượng khi nhận định:"Sự sai biệt
này của đối tượng chủ yếu nằm trong nguyên tắc khu biệt cái thực và tư
duy" ngõ hầu "thủ tiêu tất cả những gì cho phép lẫn lộn cái thực với cái
được tư duy". Khoa học theo quan điểm của Althusser không phải là "phản
ánh" đơn giản của thực tại mà là một quá trình diễn ra trong tư duy và
mối quan hệ của nó với thực tại là một quan hệ của nhận thức. Ông xác
định triết học là "điều kiện tri thức của chính đối tượng của một khoa
học/condition d'intelligibilité de l'objet même d'une science." Triết lý
có nghĩa là nghiên cứu trong những điều kiện nào và theo những điều
kiện nào những vấn đề khoa học được đặt ra.
Bộ
Tư bản đối với phái Althusser là một lý luận khoa học về kinh tế chính
trị bởi nó bao hàm toàn bộ triết học mác xít vì như chính Marx khẳng
định:"phương pháp phân tích của (ông) không khởi sự từ con người mà từ
giai đoạn xã hội nhất định về mặt kinh tế".
Cho nên phải xây dựng khái niệm mác xít về lịch sử khởi từ "quan niệm
mác xít về toàn bộ xã hội". Duy có điều phân biệt với quan niệm toàn bộ
xã hội hiểu theo những người phái Hegel như Lukács, toàn bộ đây là "một
toàn bộ mà đơn vị thống nhất được cấu thành bởi một loại phức thể, đơn
vị của một toàn bộ được cấu trúc, bao gồm những gì có thể gọi là những
trình độ hay trường hợp khác nhau và 'tương đối tự trị' cùng tồn tại
trong nhất thể cấu trúc phức hợp này, trong khi kết hợp với nhau theo
những phương thức xác định đặc biệt, rốt cuộc được cố định qua trình độ
hay trường hợp của kinh tế."
Điều đó có
nghĩa là đối với mỗi phương thức sản xuất, có một thời điểm và một lịch
sử riêng về phát triển những lực lượng sản xuất cũng như quan hệ sản
xuất, về chính trị, triết học, khoa học v.v...Mỗi lịch sử này có nhịp
điệu đặc thù của nó, nhưng kết hợp phụ thuộc
vào toàn bộ. Một khái niệm lịch sử như vậy có tính sai biệt, nói theo
ngôn từ của Althusser là điểm chiến lược số một của triết học mác-xít,
như ông xác định trong bài thuyết trình tại Hội luận nói đến ở trên là:
"Tương
lai của khoa học chiến lược số một của thời đại mới là khoa học về lịch
sử và tương lai của triết học gắn liền với khoa học này là chủ nghĩa
duy vật biện chứng."
Trong quan điểm của
Althusser, chủ nghĩa Mác bao gồm hai bộ phận: khoa học là chủ nghĩa duy
vật lịch sử và triết học là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Theo đề cương
thứ ba, Marx đã xây dựng một khoa học mới: khoa học lịch sử về những
hình thành xã hội, đánh
dấu một đại lục mới, nếu xét trên phương diện không gian lý luận, so
với đại lục toán học của người hy lạp, và đại lục vật lý của Galilée.
Tiếp theo đề cương thứ tư, Althusser nhấn mạnh: Mọi phát hiện khoa học
lớn đều gây ra một chuyển biến lớn trong triết học như khai sinh ra
triết học cổ đại trong đại lục thứ nhất, triết học mới với Descartes
trong đại lục thứ hai. Cho nên "triết học mác-xít hay chủ nghĩa duy vật
biện chứng không thể trì trệ đối với khoa học lịch sử". Như vậy phát
hiện khoa học của Marx ở chỗ nào?
"Không
phải con người làm ra lịch sử...mà là quần chúng trong những quan hệ đấu
tranh giai cấp", nói đúng ra những quan hệ đã vượt khỏi tầm mức của
những cá thể thực nghiệm. Chính vì vậy, Engels hay Lênin không đặt để
những vấn đề theo nghĩa lịch sử cá thể
mà là lịch sử của những lý luận trên một khán trường với ba nhân vật:
triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội
Pháp.
Nhân vật ở đây như những khái niệm
nhân vật của Deleuze-Guattari không phải là con người mà là nhân vật lý
luận. Lần đầu tiên Về quan hệ của Marx với Hegel trong những bài viết
của Althusser cũng như Trả lời John Lewis, Althusser nói đến quan niệm
lịch sử như một quá trình không chủ thể. Ông biện luận như sau: Đối với
Hegel, lịch sử là một quá trình tha hóa, nhưng quá trình này không có
con người làm chủ thể mà là tha hóa của Tinh thần.
Chủ
thể nếu có chính là viễn đích luận (téléologie) của quá trình. Khi bỏ
đi quan niệm viễn đích này thì chỉ còn một phạm trù triết học Marx kế
thừa Hegel, đó là phạm trù quá trình không chủ thể.
Song
kế thừa này chỉ có tính cách hình thức vì xét đến những điều kiện trong
quá trình lịch sử thì Marx không chịu ảnh hưởng Hegel khi ông nhận thức
là chỉ có quá trình dưới dạng những quan hệ: những quan hệ nói đến ở
đây là những quan hệ sản xuất, hay những quan hệ khác như quan hệ chính
trị, quan hệ tư tưởng...
Những quan hệ
sản xuất này không thể giản lược vào quan hệ của con người, vì theo
Althusser như thế là làm tổn thương tư tưởng của Marx vì cái sâu sắc
trong tư tưởng này chứng tỏ "những quan hệ sản xuất không thể giản lược
vào mọi liên chủ thể nhân học
- vì chúng
kết hợp những tác nhân và đối tượng trong một cấu trúc đặc thù của phân
phối quan hệ, địa điểm và chức năng do những đối tượng và tác nhân sản
xuất này chiếm giữ". Ông ví kinh tế như một khán trường không tác giả.
Để
biện minh cho một quan niệm đặc sắc này khi chứng tỏ chủ nghĩa Mác có
tính chống nhân bản, Althusser dẫn những chứng cớ như trong những bài
viết cuối đời của Marx, Những ghi chú bên lề tác phẩm "Lehrbuch der
politischen Ökonomie" của Adolph Wagner,
Marx viết: Phương pháp phân tích của tôi không khởi sự từ con người
nhưng từ giai đoạn xã hội nhất định về mặt kinh tế. Cũng như trong bộ Tư
bản, Marx dùng từ Traeger để chỉ con người không là gì khác hơn trợ cụ
của những quan hệ sản xuất, hay 'nhân cách hóa' những quan hệ sản xuất
xã hội này như một đoạn trong Tư bản: những nhân vật xuất hiện trên sân
khấu kinh tế chỉ là những nhân cách hóa quan hệ kinh tế hiện hữu giữa
chúng với nhau". Theo Althusser, như vậy không phải con người mà là
những quan hệ sản xuất phân phối những vai trò cho con người thực hiện.
Chính từ quan niệm này, Althusser được coi như một đại biểu của tư trào
cấu trúc luận của thời đại có đặc tính chung là chống nhân bản, loại bỏ
những quan niệm của chủ nghĩa hiện sinh hay trường phái tân Hegel về một
biện chứng dựa trên vai trò chủ thể là người.
Lịch
sử có phải là một huyền thoại phương tây, như một nhà phê bình, Vincent
Descombes nhận xét. Một phát biểu như vậy là một phê bình lịch sử, hiểu
theo nghĩa của xu hướng hiện sinh trong chủ nghĩa Mác liên kết giữa sự
tồn tục những biến cố của nhân loại từ lúc có lịch sử đến tận cùng của
lịch sử với kinh nghiệm chủ quan của cá thể. Điều đó có nghĩa là chân lý
của đấu tranh giai cấp và lẽ tất yếu của cách mạng dựa trên kinh nghiệm
cá thể khi ý thức hiện hữu mang tính cách bóc lột hay bị bóc lột và
việc tự do lựa chọn mang ý nghĩa đấu tranh diễn ra giữa những ý thức
chống hay theo xã hội dựa trên sự nhìn nhận phổ biến. Một quan niệm như
vậy không phải chỉ riêng Althusser mà nhiều nhà lý luận cấu trúc luận
khác như Lévi-Strauss phê phán loại bỏ. Althusser muốn chỉ ra là có sự
phân cách giữa kinh nghiệm (ông gọi là ý thức hệ biểu hiện mối quan hệ
sống của con người cá thể với những điều kiện sinh tồn) và nhận thức, sự
đối lập giữa ý thức và khái niệm. Khi phân biệt chủ nghĩa duy vật lịch
sử như một khoa học với chủ nghĩa duy vật biện chứng như một triết học
xây dưng khoa học này, chủ ý của Althusser là
chỉ ra điều là triết học phải đáp ứng diễn ngôn khoa học. Ông gọi đó là
lý luận thực tiễn. Vòng luẩn quẩn trong lý luận này làm thế nào giữ
được tính cách biện chứng trong khi phủ nhận sự kế thừa biện chứng Hegel
ngay trong lý luận bộ Tư bản của Marx. Mặt khác Althusser cũng nhìn
nhận vòng luẩn quẩn của việc đọc theo triết lý bộ Tư bản chỉ khả hữu như
một áp dụng nó chính là đối tượng của việc nghiên cứu triết học mác
xít. Đọc Tư bản của Althusser và những người theo ông là một lý giải,
nhưng nói như Foucault "lý giải không bao giờ mang đến một chung cuộc,
chỉ vì không có gì để lý giải". Những tiền đề của Althusser nằm trong
cái chung là tổng thể duy vật lịch sử, nói đến trong chương kế tiếp.
hết:
Chương 7
, xem tiếp:
Chương 8
|
Đánh máy: HuyTran
Nguồn: VNthuquan - Thư viện Online Được bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 9 tháng 3 năm 2009 |
No comments:
Post a Comment