Chương 11
Một đồng minh miễn cưỡng
CUỘC XUNG ĐỘT ÂU – Á
Khi nhìn lại, một điều nổi bật lên trên tất cả là cái gì đang tiếp diễn ở châu Á: quan điểm về châu Á sau chiến tranh rất khác nhau trong các nước Đồng minh, tùy theo quyền lợi của mỗi nước. Mục tiêu của Mỹ chỉ đơn giản là đánh bại Nhật Bản và, với một sự dè dặt, phục hồi những quy chế “quo ante”(1) ở Viễn Đông. Nước Đồng minh đáng tin cậy nhất của chúng ta, nước Anh, lại quan tâm chủ yếu đến việc giữ gìn sự nguyên vẹn của đế quốc Anh. Tham vọng của Pháp là giành lại địa vị “chính đáng” của nó trong các cường quốc lớn bằng cách đòi lại các thuộc địa đã mất. Trung Quốc của Tưởng đứng trước một nhiệm vụ hai mặt là giải quyết cuộc xung đột của nó với bọn xâm lược Nhật Bản và giữ vững chế độ Quốc dân đảng của mình chống lại mối đe dọa Cộng sản của Mao.
Vào giũa cuộc xung đột Âu - Á ấy, lợi ích của thế giới thứ ba nổi lên làm mất thằng bằng “status quo”(2). Người Việt Nam, được kích thích bởi những lời tuyên bố cao quý của Hiến chương Đại Tây Dương hứa hẹn các nước Đồng minh sẽ “tôn trọng quyền của các dân tộc lựa chọn hình thức Chính phủ của mình mà họ sẽ sống dưới đó”, đã cảm thấy kỷ nguyên mới đang tới đối với họ và đã bước vào cuộc xung đột.
Tình trạng có nhiều mục tiêu ấy làm cho việc phối hợp kế hoạch của các nước Đồng minh trở nên cực kỳ khó khăn và đôi khi bị rối loạn - nhóm nước này hoài nghi các nhóm nước khác, và mỗi nhóm trong nước cũng ganh đua nhau với đảng phái đối lập của mình như với kẻ thù. Những thủ đoạn đấu tranh dường như vô tận.
Người Mỹ ở Trung Quốc, mặc dù ít về số lượng, là những người duy nhất thật sự quan tâm đến việc kết thúc cuộc chiến tranh với Nhật Bản. Các cố vấn quân sự của chúng ta ở các đội quân Trung Quốc phải dùng hết sức mạnh lãnh đạo của mình để thuyết phục các chỉ huy Trung Quốc bám giữ và chiến đấu. Chennault dựa nhiều vào những máy bay Mỹ để chặn các lực lượng bộ binh Nhật lại.
Còn những hàng tiếp tế Vay - Mượn to lớn của Mỹ thì được chuyên chở qua những vùng đồi núi và bằng những tầu chở hàng theo con đường Miến Điện để giữ cho Trung Quốc khỏi sụp đổ dưới sức mạnh của Nhật. Người Anh cũng như người Pháp không hề đóng góp gì về vật chất cho cố gắng chiến tranh ở Trung Quốc.
Trong lĩnh vực hoạt động bí mật và chiến tranh không chính quy, chỉ có OSS của Mỹ có một chương trình tích cực và có hiệu quả. Trong bối cảnh hoạt động của tôi ở Đông Dương, trong thời kỳ từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1945, chúng tôi đã tổ chức được 5 mạng lưới chính và 12 mạng lưới phụ, tất cả đều bí mật, từ đó chúng tôi thu lượm tình báo, tiến hành những cuộc đột kích vào các cứ điểm then chốt của địch, và tiến hành nhiều hoạt động phá hoại ở các đường giao thông của Nhật.
Vào lúc chót, những hoạt động đó được thực hiện với một sự giúp đỡ rất nhỏ bé của các Đồng minh Pháp, Anh và Trung Quốc.
Bất chấp những ý đồ phá hoại, những cố gắng của Mỹ được lặp đi lặp lại nhiều lần. Đặc biệt người Pháp, với lòng mong muốn cao nhất là nhanh chóng chiếm lại thuộc địa cũ của họ nên đã theo đuổi một hoạt động tình báo về chính trị và quân sự rất quyết liệt. Họ chiếm đoạt những vũ khí và đồ tiếp tế được dành cho những cuộc hành quân của Đồng minh và họ cố ngăn cản những ý định hoạt động của Mỹ bất cứ ở đâu trong xứ Đông Dương. Trong những tháng cuối cùng của chiến tranh, và tiếp tục cho đến lúc này, một số người Pháp cố hết sức ngăn cản cố gắng chiến tranh chống Nhật. Họ lớn tiếng tuyên bố rằng họ đã bị ngược đãi, bị lạm dụng và bị coi thường, và cho mình là nạn nhân của một “âm mưu” - hoàn toàn ăn khớp với đường lối chính trị có chủ tâm của họ cho rằng quyền lợi chính đáng của họ bị xâm phạm.
Bất chấp những ý đồ phá hoại, những cố gắng của Mỹ được lặp đi lặp lại nhiều lần. Đặc biệt người Pháp, với lòng mong muốn cao nhất là nhanh chóng chiếm lại thuộc địa cũ của họ nên đã theo đuổi một hoạt động tình báo về chính trị và quân sự rất quyết liệt. Họ chiếm đoạt những vũ khí và đồ tiếp tế được dành cho những cuộc hành quân của Đồng minh và họ cố ngăn cản những ý định hoạt động của Mỹ bất cứ ở đâu trong xứ Đông Dương. Trong những tháng cuối cùng của chiến tranh, và tiếp tục cho đến lúc này, một số người Pháp cố hết sức ngăn cản cố gắng chiến tranh chống Nhật. Họ lớn tiếng tuyên bố rằng họ đã bị ngược đãi, bị lạm dụng và bị coi thường, và cho mình là nạn nhân của một “âm mưu” - hoàn toàn ăn khớp với đường lối chính trị có chủ tâm của họ cho rằng quyền lợi chính đáng của họ bị xâm phạm.
MỘT SỰ DÀN XẾP CÓ ĐI CÓ LẠI
Chỉ thị ngày 10-5 yêu cầu OSS thực hiện nhiệm vụ chặt đứt đường hành lang của Nhật Bản từ Hà Nội đến Nam Ninh để chuẩn bi cho Carbonado. Nó đòi hỏi phải sử dụng các đội phá hoại và các đơn vị du kích đã quen thuộc ít nhiều với khu vực này và đã hiểu biết khá rõ về người Pháp hay người Việt Nam. Wampler đã có một số người mới từ châu Âu đến đã được huấn luyện cho những hoạt động SO và OG, nhưng chỉ có một số ít nói được tiếng Pháp. Trong khi Heppner và Whitaker gặp các tướng Sabattier và Pechkov ở Trùng Khánh, thì tôi tiếp xúc với nhóm M.5 ở Côn Minh.
Sau khi tôi ghé lại lần đầu vào cuối tháng 4, tôi mắc bận nhiều vấn đề cấp bách nên không có ý định tiếp xúc cá nhân hay trở lại thăm nơi đó. Tuy nhiên, Bernique và Ettinger đã thiết lập được những mối liên hệ không chính thức, nhưng thân mật, với nhóm này và được biết rằng trung úy Flichy(3) đã bị thay thế bởi thiếu tá Jean Sainteny trong chức vụ chỉ huy nhóm M.5(4).
Tôi ghé thăm M.5 ngày 18-5 và được Sainteny và những người trong ban tham mưu của ông ta tiếp đón. Thiếu tá là một người dễ chịu, hơn 30 tuổi, rất đúng đắn, đã tỏ ra dè dặt và không thoải mải lắm. Ông phân trần về những thiếu sót của mình vì bị những nhiệm vụ mới thúc bách nên chưa gặp được tôi sớm hơn. Từ khi ông ta đến đây, cách đây một tháng, ông ta phải cải tổ lại “Phái đoàn” và, theo ông ta nói, mong đợi được làm việc với OSS. Ông ta yêu cầu Flichy mô tả cho tôi nghe vai trò của M.5, và lần đầu tiên ông ta được biết những người tiền nhiệm của mình đã thiết lập đúng một mạng lưới những đơn vị tình báo đáng kể dọc theo biên giói Trung Quốc và một đội tuần tiễu đường biển nhỏ ở khu vực phía bắc Vịnh Bắc Bộ.
Cuộc gặp gỡ diễn ra tốt đẹp và chúng tôi đồng ý cộng tác với nhau trong tương lai trước mắt. Trong cuộc gặp gỡ của chúng tôi, Sainteny nêu lên rằng ông ta và trung tá Wichtrich thuộc AGAS đang thảo một dự án chung để tiến hành những hoạt động cứu giải ở khu vực Pakhoi(5). Trong vài ngày nữa ông ta sẽ đáp máy bay hạ xuống nơi đó và gợi ý rằng tôi có thể phái một sĩ quan của tôi nói được tiếng Pháp đến xem xét khu vực này cho những hoạt động hỗn hợp sau này. Tôi cảm ơn ông ta và đồng ý sẽ báo cho ông ta rõ. Trong thời gian đó, chúng tôi chỉ định các sĩ quan liên lạc cho những hoạt động hàng ngày.
Tôi báo cho Whitaker rằng M.5 vui lòng hoạt động chung với OSS trên có sở có đi có lại, nhưng nghi ngại rằng họ đòi hỏi nhiều hơn. Về bề ngoài, Sainteny tỏ ra thẳng thắn khi yêu cầu vũ khí, trang bị và vận chuyển của Mỹ để đánh đổi nhân lực Pháp - Annam, nhưng bên trong tôi phát hiện ra rằng ông ta hy vọng giành được một sự thừa nhận đặc biệt cho cơ quan người Pháp duy nhất đảm nhận những hoạt động bí mật ở Chiến trường Trung Quốc. Điều đó bao hàm một sự độc lập của M.5 đối với Sabattier và Pechkov, và để cho SLFEO/Calcutta chỉ huy và kiểm soát M.5. Tôi nhấn mạnh rằng đó là ấn tượng đầu tiên của tôi và chúng ta cần thăm dò ý đồ của Sainteny hơn nữa. Tuy nhiên, nếu những nghi ngại của tôi là đúng, thì chúng tôi có thể nhìn thấy trước các vấn đề. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #31 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 09:51:49 AM » MỘT CUỘC CHẠY THỬ Trong khi chờ đợi ý kiến từ Trùng Khánh về việc tiếp tục quan hệ với M.5, tôi đơn phương khởi sự 2 hoạt động do Chiến trường chỉ huy. Một hoạt động nhằm cắt đứt đường sắt và đường bộ từ Trấn Nam Quan đến Hà Nội, còn hoạt động kia là một cuộc tuần tiễu giám sát bờ biển ở các cảng Hải Phòng và Fort Bayard. Hoạt động thứ nhất phải chờ đến lúc nào lấy được người cho thiếu tá Gerald W. Davis(6) để đi bộ vào Đông Dương và làm nhiệm vụ. Còn cuộc giám sát bờ biển thì đòi hỏi phải có những thủy thủ được huấn luyện và một đội thuyền buồm nhỏ. Phải có thời gian tôi mới kiếm được những thứ đó nhưng Wedemeyer thì lại sốt ruột về những kết quả nhanh chóng, và chỉ có một chiếc tàu thích hợp trong khu vực này là của người Pháp, nhưng tôi không có quyền sử dụng. Tôi nghĩ tới dự án AGAS với M.5 và “hạm đội” của nó ở vùng Pakhoi. Tuân theo các quy tắc phần nào, tôi lập luận rằng một khi AGAS đã được phép cộng tác với người Pháp thì không có lý do gì để tôi không được làm việc với AGAS và cùng nhau sử dụng tàu thủy của Pháp. Khi thảo luận điều đó với Whichtrich, chúng tôi đồng ý với nhau rằng tôi sẽ cung cấp cho AGAS những phương tiện vô tuyến điện của OSS để thực hiện những hoạt động cứu thoát để đánh đổi những tin tức về hạm đội Nhật mà nhân viên OSS - AGAS thu nhận được bằng những phương tiện của các đơn vị hải quân Pháp. Trong khi tôi thương lượng với AGAS, tôi nhận được tin từ Trùng Khánh cho biết rằng Sabattier và Tưởng đã thỏa thuận với nhau rằng: “Tất cả các đội quân chính quy Pháp đang chiến đấu chống Nhật ở Đông Dương thuộc Pháp được đặt dưới quyền chỉ huy của Thống chế”, rằng Sabattier đã được thừa nhận là “Tổng chỉ huy” của những đội quân ấy, và rằng tướng Alessandri đã được bổ nhiệm là “chỉ huy địa phương của Pháp”. Đó là một sự thỏa thuận lạ lùng. Toàn bộ kháng chiến của Pháp ở Đông Dương chống Nhật đã bị xóa bỏ từ lâu, khiến cho Alessandri hiện nay đã trở thành viên chỉ huy tất cả các lực lượng hiện có của Pháp ở Trung Quốc mà thôi. Vậy thì, Sabattier chỉ huy cái gì? Phải chăng đó là một cách gạt êm thấm Sabattier ra khỏi dây chuyền chỉ huy và trao cho Alessandri toàn bộ quyền kiểm soát tác chiến chỉ của những đội quân Pháp chưa bị Nhật bắt làm tù bình? Chúng tôi cảm thấy một sự bối rối và băn khoăn mới trong những mối liên hệ của mình với Phái đoàn quân sự Pháp, DGER, SLFEO và M.5. Ngày 24-5, khi chưa nhận được ý kiến của Heppner về việc sử dụng các đội quân Pháp, chúng tôi nhận được một bức điện của thiếu tá Davis nói rằng một đội quân Pháp lớn đã đến Posech mà không báo trước, dưới quyền chỉ huy của thiếu tá Revol; ông này nói rằng họ được trang bị và huấn luyện bởi OSS cho những cuộc hành quân ở Đông Dương. Cuối cùng, ngày 26, Heppner nói cho chúng tôi rằng ông ta đã ký một thỏa thuận có dụng ý với SLFEO. Tôi lại đến gặp Sainteny để vạch các chi tiết và, một lần nữa, sự đón tiếp của ông ta tỏ ra nồng nhiệt và thân mật. Giọng khó tính đầu tiên mà Sainteny ném ra là khi ông ta bảo đảm với tôi rằng chúng tôi có thể cùng nhau vạch ra một kế hoạch “có lợi cho cả hai bên”. Nhận xét ấy không thích hợp với tôi, và tôi trả lời rành rọt rằng “mối lợi” duy nhất mà người Mỹ nghĩ tới là thu được tình báo của Nhật và tiến hành những hoạt động riêng biệt đằng sau các phòng tuyến của họ. Tất nhiên, Sainteny đồng ý, nhưng nhận xét của ông ta làm tôi phải “qui vive”(7). Những sự thỏa thuận của tôi với AGAS đã phù hợp với sự tán thành của bản doanh cho phép làm việc với M.5, và tôi được tự do bàn bạc với Sainteny về dự án Pakhoi. Đầu tháng, tôi lại phái Ambelang tới Maoming(Cool để tiến hành những hoạt dộng giám sát ven biển phối hợp với cuộc hành quân Ford Bayard. Ngày 27, tôi gửi Ettinger đến Pakhoi để nhập với trung úy James W. Jordan(9). Với Ettinger và Jordan ở Pakhoi và Ambelang ở Maoming, tôi quyết định thiết lập một trạm căn cứ trong vùng và gợi ý với Sainteny rằng dự án OSS - AGAS đang tiến hành và với sự giúp đỡ của ông ta, chúng tôi có thể cùng nhau mở rộng hoạt động để giành những kết quả tối đa trong một thời gian tối thiểu. Ông ta đồng ý và sẵn sàng vạch kế hoạch. Ngày 30-5, dự án Pakhoi được tiến hành. Đội tàu nhỏ của Pháp gồm hai chiếc tầu tuần tiễu, Crayssac và Frézouls, được nhiều thuyền máy yểm trợ, tất cả đều do thủy thủ Pháp điều hành, bắt đầu chuyển (bằng các đài vô tuyến của OSS) những tin tức có giá trị về hạm đội Nhật và giúp đội tầu ven biển của chúng ta thăm dò những độ sâu dọc vịnh Fort Bayard và vịnh Mandarin. Ettinger và Jordan, với sự giúp đỡ của các nhân viên Pháp do M.5 cung cấp đã tiến hành một công việc tuyệt vời, không những chỉ báo cáo về sự bố trí của quân Nhật và các hoạt động của Hạm đội Nhật (đặc biệt từ vùng Fort Bayard - Hải Phòng), mà còn thu được một số tin tức từ bên trong Đông Dương. NGƯỜI PHÁP TỔ CHỨC MỘT CUỘC BÃI CÔNG NGỒI Một ngày sau khi Dự án PAKHOI được tung ra, chúng tôi ký kết với người Pháp ở Trùng Khánh một thỏa thuận thứ hai nhằm sử dụng 100 binh sĩ Việt Nam và 10 hay 12 sĩ quan Pháp. Sabattier và Pechkov đồng ý để OSS có quyền kiểm soát hoàn toàn đối với nhóm này và những tin tức tình báo thu được sẽ chia nhau. Chúng tôi vạch kế hoạch huấn luyện đơn vị ở Trình Tây. Wampler chọn đại úy (sau đó là thiếu tá) Charles M. Holland và thiếu tá Allison K. Thomas đứng đầu hai đội với mật danh là “Con Mèo” (“Cat”) và “Con Nai” (“Deer”). Chúng tôi báo cho Davis và Poseh biết và yêu cầu họ phái Holland và Thomas đến Trình Tây để đón nhận những người Pháp, đến ngày 12-6 thì bắt đầu huấn luyện. Nhóm người Pháp mới(10) đến đúng ngày giờ đã định nhưng lại từ chối huấn luyện như đã thỏa thuận ở Trùng Khánh. Viên sĩ quan cao cấp nhất của Pháp, thiếu tá Courthlac, yêu cầu OSS trả tiền cho nhóm ông ta và cung cấp ăn uống cho họ. Điều đó không nằm trong sự thỏa thuận. Người Pháp phải lấy khẩu phần của họ từ Cục quân nhu Trung Quốc trước khi đến đây theo thủ tục thông thường và việc trả tiền cho đội quân người Pháp là trách nhiệm của Chính phủ Pháp ở Trùng Khánh. Thiếu tá Thomas không có quỹ để thỏa mãn những yêu cầu của người Pháp và báo cho thiếu tá Courthlac biết điều đó; nhân đó người Pháp bèn tổ chức một cuộc bãi công ngồi cho đến lúc có chỉ thị của M.5. Do đó, từ ngày 4 đến ngày 17 tháng 6, chương trình huấn luyện ở Trình Tây đã bị hoàn toàn đình chỉ. Một tia lóe lên sau đó vào sáng 12-6, khi Heppner nhận được một bức thư không đề ngày tháng của Sainteny, do Flichy ký tên, nói rõ ràng Sabattier đã chỉ thị cho M.5 phải chịu trách nhiệm về hoạt động du kích với sự cộng tác của các đơn vị Mỹ. “Do ưu thế của lực lượng Pháp” và sự nguy hiểm sẽ xảy ra, Sainteny yêu cầu được biết về mục đích của hoạt động này, về những mệnh lệnh cho người Mỹ, và những gì đã được thực hiện từ đây đến đó. Cho đến khi nhận được trả lời cho những câu hỏi của ông ta, Sainteny đã ra lệnh cho viên chỉ huy phân đội Pháp ngừng các hoạt động. Heppner lập tức không đồng ý với mệnh lệnh của Sainteny, coi đó là một hành động đơn phương và độc đoán và là một sự phá vỡ việc thỏa thuận Sabattier - Heppner ngày 31-5 và báo cáo điều đó cho tướng Wedemeyer. Rõ ràng đã có một sự đứt quãng trong những liên lạc giữa M.5 của phái De Gaulle và “Bộ Tham mưu” ở Trùng Khánh. Vấn đề đối với chúng tôi là phải giao dịch với ai trong những người Pháp? Giai đoạn thứ ba của tình trạng này là sự bắt đầu một cuộc nổi dậy nhỏ của những người Pháp mới đến ngày 14-6, khi toàn bộ những liên lạc của mạng lưới PAKHOI im lặng. Tôi biết khá sớm qua Jordan rằng người Pháp đã ra lệnh đình chỉ cung cấp luồng tin tức tình báo cho người Mỹ vì bị đe dọa của “tòa án quân sự”. Khi mọi hành động Pháp - Mỹ ngừng lại và người Mỹ ở trong tâm trạng bực túc, thiếu tướng Douglas L. Weart(11) triệu tập một cuộc gặp mặt ở Côn Minh ngày 15-6 để dàn xếp mọi việc và đặc biệt đòi phải rút lại bức thư của Sainteny và các hoạt động phải đặt dưới sự kiểm soát của OSS. Weart mở đầu cuộc gặp mặt bằng việc nhắc lại cho Alessandri rằng giới quân sự Pháp đặt dưới quyền kiểm soát về tác chiến và cung cấp của tướng Hà Ứng Khâm và của OSS, và việc sử dụng các đội quân Pháp phải được cấp Chiến trường cho phép. Weart nói rằng không thể hiểu được M.5 nằm ở vị trí nào trong chuyện này, và nói cho Alessandri biết rằng “Sự kiểm soát tác chiến của tướng Hà không thừa nhận Phái đoàn quân sự Pháp như một nguồn liên lạc; mọi sự tiếp xúc chỉ dược tiến hành trực tiếp với tướng Sabattier...”. Tướng Alessandri biện bạch rằng M.5 đã hành động mà không biết gì đến thỏa thuận giữa Wedemeyer và Sabattier, và bức thư của Sainteny sẽ bị rút lại. Phân đội Pháp ở Trình Tây sẽ được lệnh hoạt động dưới sự kiểm soát của OSS. Như vậy, đến ngày 17 mọi việc trở lại bình thường, hay ít ra chúng tôi cũng nghĩ như thế. M.5 CỦA SAINTENY Tại cuộc gặp mặt Weart - Alessandri, Flichy cố nhấn mạnh vai trò của M.5 trong những hoạt động bí mật, nhưng ông ta đã bị bác bỏ và Sainteny không gặp may. Một ngày sau cuộc gặp mặt, Sainteny yêu cầu tôi ghé lại ở một biệt thự Pháp: ông ta cần làm sáng tỏ những sự hiểu lầm. Ông ta cho rằng tôi hẳn đã biết tới việc SLFEO/Calcutta đã giao cho M.5 chịu trách nhiệm hoàn toàn về những hoạt động bí mật ở Chiến trường Trung Quốc; và ông ta, với tư cách người cầm đầu M.5, đã được cho phép giao dịch trực tiếp với OSS. Còn về nhân lực, thì ông ta đã được Calcutta giao cho sử dụng các đội quân của Sabattier được bổ sung bằng những chuyên viên của DGER lúc đó đang trên đường từ Pháp đến Ấn Độ. Về vấn đề chỉ huy và kiểm soát M.5 ở Côn Minh, Sainteny nhấn mạnh rằng ông ta chỉ nhận những chỉ thị và hướng dẫn của tướng Passy(12) ở Paris và đại tá Roos(13) ở Calcutta, những người này chỉ chịu trách nhiệm trước tướng De Gaulle. Tôi hỏi Phái đoàn quân sự Pháp trực thuộc vào đâu, và Sainteny nói rất rõ ràng tướng Pechkov không có quan hệ gì với DGER cả. Ông ta nằm dưới sự chỉ đạo của Bộ Ngoại giao, còn DGER thì hoạt động dưới những chỉ thị trực tiếp của cá nhân De Gaulle. Hoàn toàn không có dụng ý, Sainteny cho tôi biết rằng SLFEO/Calcutta đã có một số thỏa thuận rõ ràng với SOE của Anh về hoạt động ở Đông Dương. Những thỏa thuận ấy được tiếp tục cả sau khi ký kết thỏa thuận OSS - DGER. Đó là những thỏa thuận riêng rẽ và khác nhau: Pháp - Anh, Pháp - Mỹ. Tôi bình luận rằng đối với tôi, sự thỏa thuận ấy có vẻ cơ hội chủ nghĩa và rõ ràng nhằm giành lấy phần tối đa từ hai phía riêng rẽ. Sainteny đáp lại rằng người Anh đã đóng góp nhiều về vũ khí và vận chuyển cho sự nghiệp của Pháp ở Đông Dương, và nói thêm: “Vâng, chúng tôi là những kẻ cơ hội chủ nghĩa trong trường hợp này - mọi cái đều nhắm tới cùng một mục đích, có phải thế không?”. Tôi trả lời rằng tôi không nghĩ thế, nhưng Sainteny nói tiếp rằng người Anh đã giúp đỡ lâu trước người Mỹ và đã có nhiều đội đang hoạt động tại chỗ, đã đem lại những kết quả tốt đẹp và ông ta không muốn chấm dứt những hoạt động của họ. Sau đó, tôi đặt câu hỏi về quyền hạn của Chiến trường. Người Pháp ở Trung Quốc dù sao cũng nằm dưới sự chỉ huy của Tưởng và Đông Dương thì nằm trong Chiến trường tác chiến Trung Quốc. Nhưng Sainteny khoát tay tỏ ra không cần phải băn khoăn gì về tất cả những điều đó và nói rằng chúng tôi không thể thông qua sự thỏa thuận Tứ cường ở cấp chúng tôi, khiến cho tôi gợi ý có lẽ ông ta nên nêu vấn đề này với tham mưu trưởng và đại tá Heppner. Chúng tôi không giải quyết được gì và đặt những vấn đề quyền hạn cho những cuộc thảo luận sau này. Những hoạt động của Anh - Pháp từ SEAC khiến cho tôi rất quan tâm. Tôi không biết chắc rằng những hoạt động ấy có thể đưa vào kế hoạch chung của tôi không. Sainteny nói rằng ông ta không biết được nhiều chi tiết và bảo đảm với tôi rằng kết quả hoạt động của các đội ấy sẽ được chia cho M.5, M.5 sẽ chuyển cho Sabattier, và ông ta sẽ chuyển đi “theo những đường liên lạc tình báo”. Vì tôi biết sự ngăn cấm bí mật của người Pháp không cho người Anh giao tin tức cho người Mỹ, nên tôi lại càng hoài nghi hơn. Không để lộ việc tôi biết sự ngăn cấm bí mật ấy, tôi lưu ý với Sainteny về thỏa thuận giữa Tưởng và Sabattier nói rằng đường liên lạc duy nhất đối với người Pháp ở Chiến trường Trung Quốc để tuyền đạt tin tức tình báo là qua OSS, rồi OSS chuyển tới Sabattier. Sainteny đáp lại điều đó: “Đúng thế! Vậy thì tôi sẽ chuyển tin tức tình báo cho ông, nhưng với điều kiện không để trì hoãn bởi nhũng thủ tục quan liêu thường thấy trong trường hợp ở châu Âu”. Chấp nhận câu trả lời dễ dãi của ông ta với một sự miễn cưỡng lớn, tôi bảo đảm với ông ta rằng sẽ không có những sự trì hoãn. Và, tất nhiên, những lo lắng của chúng tôi đã được chứng thực: chúng tôi không hề nhận được một tin tức nào cả. Chúng tôi chuyển qua vấn đề cuối cùng, kế hoạch hoạt động của ông ta. Sainteny nói rằng kế hoạch đó sẽ được ông ta thảo xong ngày 18-6. Khi tôi từ giã, ông ta hỏi liệu có thể được thông báo cho biết về các kế hoạch của Chiến trường cho Đông Dương với những cuộc đổ bộ dự định được đặc biệt ghi rõ hay không. Tôi gợi ý ông ta nên thảo luận điều đó với Heppner. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #32 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 09:53:25 AM » M.5 GIÀNH ĐƯỢC QUY CHẾ CHÍNH THỨC Kế hoạch Sainteny thảo xong ngày 18 là một kế hoạch rộng lớn cho những cuộc hành quân trên bộ và trên biển. Nó bao gồm khoảng 1.000 sĩ quan và binh lính Pháp - Việt, tất cả được trang bị bởi OSS. Helliwell và tôi rất ngạc nhiên và đề nghị Heppner chấp nhận kế hoạch ấy với những điều kiện: Các đơn vị này được đặt dưới sự kiểm soát của OSS; mỗi đơn vị có một sĩ quan cao cấp Mỹ chỉ huy; chỉ sử dụng mật mã vô tuyến điện của OSS; mỗi đơn vị chỉ hoạt động dưới sự đỡ đầu của OSS chống lại các mục tiêu của Nhật. Sainteny và Flichy phản đối tất cả những điều kiện ấy Sainteny nói ông ta cảm thấy trái lương tâm khi yêu cầu các sĩ quan Pháp phục vụ dưới sự chỉ huy của những sĩ quan không phải người Pháp, dù cho đó là những sĩ quan Đồng minh. Heppner nói rằng đó không phải là một thủ tục gì khác thường; phải chăng tất cả chúng ta đều không nằm dưới sự chỉ huy của Thống chế (Tưởng) ở Chiến trường Trung Quốc? Chúng tôi đi tới một sự bất đồng. Để khỏi mất thì giờ hơn nữa, vì ngày hạn định cho Carbonado đã gần đến, tôi gợi ý chúng tôi cùng vạch một dự án trước mắt và giải quyết vấn đề chỉ huy trên cơ sở mục tiêu và khả năng hiện có về sĩ quan có năng lực cho mỗi dự án. Sainteny đồng ý một cách miễn cưỡng, nhưng ông ta yêu cầu cung cấp vũ khí và trang bị cho tất cả 1.000 binh sĩ. Heppner nắm chặt lấy điểm đó. Mỗi đơn vị sẽ được cung cấp những gì cần thiết khi nó thật sự được giao cho một phái đoàn OSS được phê chuẩn. Sainteny nêu lên vấn đề những cuộc đổ bộ của Đồng minh được dự tính và hỏi xem liệu ông ta có được thông báo về những gì sẽ được hoạch định không. Heppner nói với ông ta rằng Sabattier sẽ được thông báo khi tướng Hà Ứng Khâm thông qua để cho kế hoạch ấy có hiệu lực. Đó là một cuộc gặp mặt hoàn toàn không thỏa mãn. Người Pháp cảm thấy bị khước từ và người Mỹ chúng tôi rời ra với một cảm giác rõ ràng về tính mơ hồ của lập trường người Pháp. Helhwell và tôi, cùng với Heppner, biết rắng Sainteny không phải là một người ngay thẳng. Quá nhiều điều ông ta không nói ra và quá nhiều câu hỏi không được ông ta trả lời. Trong 4 tuần lễ sau đó, chúng tôi dành nhiều thì giờ để hội họp, hỏi han, bàn bạc và thảo luận, mà không di tới một sự thỏa thuận nào để có thể thực hiện được. Trong khi đó người Pháp đánh nhau ở vùng ven biển phía nam Trung Quốc không có mục tiêu rõ ràng. Căn cứ của chúng tôi ở Pakhoi được báo cáo rằng một đơn vị biệt kích Pháp đang được tổ chức và huấn luyện trong vùng cho những hoạt động mà chúng tôi chưa biết. M.5 quấy phá các hệ thống tình báo của lực lượng không quân thứ 14, AGAS, Bộ tư lệnh chiến đấu Trung Quốc (CCC) và OSS bằng những loạt báo cáo không được xác nhận về các bố trí và vận động của quân Nhật. Khi ban kế hoạch của Chiến trường hỏi OSS về tính xác thực của những báo cáo ấy, tất nhiên chúng tôi không thể xác minh chúng được, cũng không thể bảo đảm tính chính xác của chúng vì chúng tôi không được M.5 hỏi ý kiến. Các báo chí địa phương của Trung Quốc ở Côn Mình công bố một bản báo cáo, nói là của phái đoàn quân sự Pháp, cho biết một đơn vị Pháp ở Trung Quốc đã “xâm nhập và chiếm đóng” đảo Weichow của Trung Quốc(14). Vụ rắc rối ấy không có gì đáng nêu lên, ngoại trừ tướng Hà Ứng Khâm và đại bản doanh Chiến trường nổi cáu lên vì hành động không được phép ấy của người Pháp. Như câu chuyện về sau được làm sáng tỏ ra, trong một kế hoạch rút lui về lục địa Trung Quốc, người Nhật đã bỏ hòn đảo ấy. Khi biết tin người Nhật đã bỏ đảo Weichow, M.5 ra lệnh cho các tàu tuần tiễu của họ (Frézouls và Crayssac) chiếm lấy đảo này bằng một đơn vị nhỏ của Pháp. Sainteny kiêu hãnh gửi một bức điện cho tướng Chennault báo tin đã “phá hủy sân bay Nhật và chiếm đảo này nhân danh Đồng minh”. Mấy ngày sau, Sainteny bị Tổng chỉ huy Trung Quốc ra lệnh rút khỏi hòn đảo và phải chấm dứ cũng như chưa không được xúc tiến những hoạt động không được cho phép sau này để khỏi gây tổn hại lớn cho các kế hoạch của Chiến trường. Trong khi gỡ M.5 ra khỏi hành động hoang toàng đáng tức cười ở Weichow, Sainteny nói với trung úy Fauchier - Magnon rằng ông ta đang chuẩn bị một đội để “đánh chiếm” đảo Nightingale(15) với một đơn vị tình báo và một máy vô tuyến điện được AGAS cung cấp. Chính tướng Wedemeyer đã ra lệnh đình chỉ các kế hoạch ấy. Tôi giải thích những trò cường điệu trẻ con ấy là một cách mà Sainteny dùng để thu hút sự chú ý, vì DGER và đặc biệt là M.5 của Sainteny vẫn chưa được thừa nhận ở cấp Chiến trường Trung Quốc. Hoàn toàn thất vọng vì hành động của người Pháp, tôi khuyên Heppner chấm dứt sự ủng hộ đáng ngờ của DGER. Toàn bộ vấn đề này đã được đặt ra ở một hội nghị tại Trùng Khánh ngày 29-6, giữa tướng Paul W. Caraway(16) đại tá Joseph Dickey(17), Heppner, Whitaker, Helliwell và tôi. Tôi phác lên những thỏa thuận OSS - DGER (M.5), những thành tựu và những thất bại của nó. Tôi thừa nhận rằng người Pháp có một tiềm năng to lớn cho những hoạt động bí mật, miễn là chúng ta chấp nhận DGER như một cơ quan bình đẳng trong Chiến trường và đưa họ vào các kế hoạch của Chiến trường. Tuy nhiên, tôi cảnh cáo rằng, nếu chúng ta đi theo con đường đó, thì vai trò của tướng Sabattier với tư cách Tổng chỉ huy sẽ bị phụ thuộc vào quyền của DGER và chúng ta sẽ bỏ mất quyền kiểm soát đối với những hành động của Pháp trong Chiến trường. Dickey và Whitaker đồng ý với sự đánh giá của tôi và nêu rõ rằng tướng Alessandri đã gặp tướng Gross ở Côn Minh ngày 22 và gặp tướng Ray T. Maddocks(18) ngày 27 để đi tới một thỏa thuận đúng về những điểm đó - thừa nhận vai trò của DGER và của Sabattier trong những hoạt động bí mật. Tướng Caraway nhận xét rằng: Mặc dù đó là một vấn đề riêng của người Pháp, chúng ta vẫn có trách nhiệm tinh thần và pháp lý đối với sự ủng hộ viên chỉ huy đã được bổ nhiệm một cách hợp thức là Sabattier. Heppner, trước kia là một nhân viên tham mưu chủ chốt của đại bản doanh của huân tước Mountbatten, đã vạch rõ rằng sự thừa nhận chính thức DGER, bao hàm SLFEO thuộc SEAC cũng sẽ được phép hoạt động ở Chiến trường Trung Quốc; đó là một vấn đề quyền hạn nghiêm trọng, đòi hỏi phải được sự đồng ý của Thống chế (Tưởng). Heppner cũng nêu lên rằng người Pháp không phải chỉ là nguồn duy nhất gây hỗn loạn ở chiến trường Trung Quốc. Ông ta có nhiều báo cáo cho biết Nhóm yểm trợ Quân đội Anh (BAAG), dưới quyền chỉ huy của đại tá Ride đang hoạt động ở khu vực Hongkong - Quảng Châu, trang bị vũ khí cho du kích Trung Quốc nhằm sẵn sàng kiểm soát Hongkong trong trường hợp Đồng minh đổ bộ. Những hoạt động của cả Anh và Pháp ở chiến trường Trung Quốc không được Thống chế đồng ý và do đó sẽ có những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với hoạt động của OSS. Heppner đã báo cho tướng Wedemeyer biết về những hoạt động của BAAG và ông ta đã lưu ý trung tướng E.C. Hayes, Tổng chỉ huy quân đội Anh ở Trung Quốc về điều này. Hayes hứa sẽ điều tra vấn đề này và sẽ cung cấp một báo cáo đầy đủ. (Bảy tuần lễ sau đó, khi chiến tranh kết thúc, tướng Hayes vẫn chưa làm xong công việc này). Chúng tôi kết luận rằng cần phải có một lập trường kiên quyết. Tuy nhiên, sự có mặt của Pháp ở Trung Quốc không thể bị bỏ qua và cần được sử dụng, mặc dù có những vấn đề khó khăn về chính trị và hậu cần. Tướng Caraway báo cho Wedemeyer rằng ông ra đã khuyến cáo với tướng Marshall “ngay khi những lực lượng (của Pháp) ấy đã lại sung sức về thể chất, họ sẽ được sử dụng như những người bảo vệ sân bay, những đội tuần tiễu biên giới, những nhân viên tình báo, và những đội SCS(?)”. Như vậy, chúng ta đã cam kết thực hiện một cố gắng phối hợp để sử dụng họ vào những mục đích nào đó. Cho đến nay, họ đã được sử dụng ở tất cả các khu vực đã nói trên, trừ tình báo ra. Có lẽ, nếu chúng ta nêu ra một hay hai điểm, thì M.5 có thể dễ chấp nhận một phần sự giám sát. Tướng Caraway sẽ báo cáo với tướng Maddocks và tôi phải chuẩn bị cho Heppner một giác thư về những sự vi phạm của Pháp đối với thỏa thuận DGER - OSS. Ngoài những lý do đó, một thỏa thuận cụ thể mới với người Pháp đã được vạch ra ngày 3-7, giữa tướng Weart và tướng Alessandri. Mọi người có mặt đã biểu lộ sự thông hiểu và hài lòng với những điểm chủ yếu sau đây: - Hàng tuần phải báo cáo cho tướng Wedemeyer về mọi hoạt động của DGER ở Chiến trường Trung Quốc; - M.5 phải bảo đảm kiếm được những tin tức tình báo do DGER đóng ở Ấn Độ và chuyển giao cho tướng Wedemeyer; - DGER phải nhận những chỉ thị trực tiếp từ Paris hay từ Bộ thuộc địa, không nhất thiết qua Sabattier; - DGER được thừa nhận là cơ quan tình báo Pháp về Đông Dương, cần biết về tất cả các hoạt động bí mật có liên quan với nhân viên người Pháp được tiến hành như thế nào, ở đâu và tại sao; - Sabattier không được bác bỏ bất cứ sự phản đối nào do DGER nêu lên về những hoạt động tình báo đặc biệt; - Trong việc vạch kế hoạch và chỉ huy những hoạt động tình báo về Đông Dương, OSS phải hành động thông qua những đường liên lạc chỉ huy bình thường của Pháp, đặc biệt là đối với những hoạt động tình báo thông qua DGER và những hoạt động quân sự thông qua Sabattier. Chúng ta đã nêu lên một hay hai điểm thừa nhận chính thức DGER như một cánh tay của Chính phủ Paris và đồng ý một mức độ tự trị nào đó của nó, nhưng chúng ta không từ bỏ sự kiểm soát hay chịu để cho Sabattier có quyền cao nhất. Khi chúng tôi hỏi Sainteny ông ta nghĩ như thế nào về thỏa thuận mới này, ông ta nhận xét một cách thô lỗ: “Mới gì?”. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #33 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 09:53:39 AM » MỘT TRƯỜNG HỢP CHƠI TRÒ ẢO THUẬT Trong những tuần lễ thỏa thuận và không thỏa thuận của chúng tôi, tôi đã yêu cầu M.5 khẩn cấp lấy bản dự án mang tên COMORE. Đó là một phần của việc chuẩn bị cho Carbonado để tăng thêm những thông tin của chúng tôi về việc người Nhật đã biết đến mức nào về các kế hoạch của Mỹ - Trung Quốc, những lực lượng nào được tập trung ở khu vực Hà Nội - Hải Phòng và ở hành lang Lạng Sơn - Lào Cai, những sân bay và hải cảng nào có những hoạt động bất thường, và đang có những di chuyển quân đội như thế nào. Tôi giao nhiệm vụ cho một người Jedburgh cũ, đại úy Lucien E. Conein(20), một chuyên gia về các chiến thuật phá hoại và du kích, nói thạo tiếng Pháp, đáng tin cậy, và không hoàn toàn đồng ý với chính sách của Pháp đối với Đông Dương. Đội này có khoảng 100 binh sĩ Pháp - Việt và 5 sĩ quan và binh sĩ Mỹ. COMORE thực hiện được những cuộc đột kích song song vào các cứ điểm Nhật trong những hoạt động bắt đầu đêm 28 rạng 29 tháng 7 và tiếp tục cho đến 8-8, chỉ có một trường hợp thương vong. Mặc dù người Nhật chống cự mạnh mẽ, nhân viên COMORE đã đốt cháy và phá hoại các kho xăng và đạn dược, một ban chỉ huy tiểu đoàn và một số doanh trại. Họ bắt được hai tù binh Nhật (một là sĩ quan) về để hỏi cung và những tài liệu có thể mang theo được. Thành công của COMORE là một thước đo của sự yên tâm về triển vọng cộng tác với người Pháp, nếu không có những khó khăn mới đồng thời tăng lên trong cùng thời kỳ đó. Tôi hết sức ngạc nhiên khi Sainteny đang trên đường về Paris thì tôi nhận được của M.5 ngày 20-7 một kế hoạch hoàn toàn mới mang mật danh MAROC, một cuộc hoạt động Hải quân nhằm thu lượm tình báo từ lục địa Trung Quốc và những vùng ven biển. Nó đòi hỏi một số đơn vị phụ thuộc, bao gồm một số binh sĩ không hạn định của Pháp - đâu vào khoảng mấy trăm đến mấy nghìn. Theo người Pháp, MAROC được phục vụ bởi một trạm vô tuyến điện của OSS, mà những đơn vị phụ thuộc ấy sẽ gửi những tin tức của họ đến trạm theo mật mã OSS. “Những đường liên lạc hiện có của Pháp chỉ được dùng cho việc buôn bán công khai”. Kế hoạch có vẻ nghe xuôi tai khi mới đọc qua, ngoại trừ việc OSS cấp vũ khí và trang bị cho binh sĩ Pháp. Tuy nhiên, một sự xem xét kỹ lưỡng kế hoạch MAROC lại để lộ ra rằng vị trí chỉ huy của nó được đặt ở lãnh sự Pháp ở Pakhoi, chỉ do người Pháp đảm nhiệm. Thủy thủ của hai chiếc thuyền (Bluebird và Vieux Charles) được đặt dưới sự chỉ huy của các sĩ quan Pháp. Ngoài ra, hai đơn vị phụ (Oise và Bạch Long Vĩ) cũng nằm dưới sự kiểm soát của Pháp, có liên lạc với người Trung Quốc và AGAS. Nhân viên OSS sẽ chỉ tham gia với sự đồng ý hoàn toàn của chỉ huy Pháp. Trung úy Jordan, lúc đó ở Pakhoi, được cắt cử vào kế hoạch MAROC để nhận những đồ tiếp tế của Mỹ thả dù xuống, do người Pháp phân phối. Tôi tức điên lên. Rõ ràng OSS chỉ được trông đợi để cấp tiền và vũ khí cho những hoạt động không hề chịu một yếu tố kiểm soát nào của Mỹ. Về điểm này, tôi đã thật sự mệt mỏi với sự “cộng tác” và những âm mưu của M.5, và ngay lập tức tôi yêu cầu M.5 làm sáng tỏ vấn đề chỉ huy và kiểm soát. Các bản sao bức thư của tôi gửi Heppner và Helliwell có ghi chú: “Nếu có những thay đổi ấy, thì sự kiểm soát của OSS đối với những hoạt động ở Đông Dương thuộc Pháp sẽ còn lại con số không, và chúng tôi sẽ chủ yếu thành một cơ quan tiếp tế cho những hoạt động độc lập của DGER”. Sự kết thúc đột ngột của cuộc chiến tranh đã may mắn cứu tôi khỏi một trong những điều bực mình và tranh chấp mà kế hoạch MAROC rõ ràng đã đẻ ra. Binh sĩ Pháp tại chỗ đã bị bỏ mặc trong suốt thời kỳ bất đồng và thương lượng kéo dài ấy. Ở K’aiyuan, Posech, Trình Tây và ở những khu vực khác có người Pháp tập trung, họ được cung cấp rất tồi tệ về áo quần, giày, thuốc men và những khoản khác. Vấn đề huấn luyện và sử dụng những binh sĩ ấy vào các hoạt động của OSS còn tùy thuộc vào việc họ được trang bị bởi Chiến trường như thế nào. Cứ mỗi lần chúng ta trang bị cho một đơn vị để làm nhiệm vụ đặc biệt, thì một phần lớn nhân viên của đơn vị ấy lại bị chuyển ra khỏi sự kiểm soát của OSS và một nhóm binh sĩ mới không ai thừa nhận lại thay thế họ. Rõ ràng là sự khôn ngoan tầm thường ấy đã làm cho nhiều người hơn có áo quần mặc, nhưng chương trình huấn luyện tất nhiên phải bị tiến triển chậm lại. Một khía cạnh nghiêm trọng hơn nhiều của cái lối láu cá ấy, không đơn giản lắm, là khi chúng tôi biết được rằng những đồ tiếp tế như vũ khí và đài vô tuyến điện không phải bao giờ cũng được giữ lại ở những đơn vị ấy mà lại bị cất giấu đi cho những hoạt động sau này của Pháp để chiếm lại Đông Dương. Tôi đưa cho Heppner một đanh sách những đồ tiếp tế, tất cả đều được các sĩ quan Pháp nhận một cách hợp lệ, mà không còn thấy ở những đơn vị Pháp được chỉ định làm nhiệm vụ của OSS nữa, và Heppner đã báo cáo vấn đề lên tướng Olmsted. Một lần nữa, Alessandri gặp các tướng Maddocks, Caraway và Olmsted. Tấn công ngay lập tức, Alessandri hỏi chúng tôi đã nhận được chỉ thị từ Washington về việc cung cấp cho người Pháp những thứ hàng theo luật cho Vay - Mượn vũ khí hay không. Olmsted trả lời có, người Pháp có đủ tư cách để nhận sự viện trợ ấy, nhưng điều đó không có nghĩa là họ bắt đầu lấy được trang bị của Mỹ ngay, mà phải 6 tháng sau mới có thể cung cấp trang bị ấy và chở đến Trung Quốc được. Hơn nữa, Olmsted không thể đồng ý với tiền đề của Alessandri là mọi đồ cung cấp hiện có để trang bị cho quân đội Pháp không phải là để cho họ tách khỏi những hoạt động do Chiến trường chỉ huy: “Chúng tôi không có một sự bố trí riêng nào cho những lực lượng chiến đấu tách biệt của Pháp cả”. Alessandri tỏ vẻ ngạc nhiên vì thông tin ấy: ông ta đã được trả lời mọi điều mà ông ta phải hỏi. Olmsted kiên trì giải thích rằng chỉ có một số ít hàng ăn mặc đã có sẵn. Còn trang bị chiến đấu thì phải đợi gửi từ Mỹ sang và nói chung phải mất 6 tháng. Alessandri trông ỉu xìu. Sáu tháng là quá dài, ông ta nói. Caraway hỏi Alessandri đang chờ có bao nhiêu binh sĩ ở Chiến trường Trung Quốc; ông ta trả lời: “5.000!”. Olmsted cố làm nguôi bớt sự choáng váng của Alessandri, nhưng nói thẳng thắn rằng ông ta không có cách nào để đẩy nhanh hơn quá trình này cả. Lúc đó, tướng Alessandri đề nghị mua trang bị bất cứ ở đâu và chuyên chở bằng máy bay Pháp. Và ông ta lại được nhắc cho biết rằng các sân bay đều đang hoạt động hết năng lực rồi. Alessandri cố gắng một lần nựa: liệu ông có thể mua trang bị ở Ấn Độ và mua các xe chở hàng để chuyển qua con đường Miến Điện không? Ông ta được nói cho biết rằng xăng dầu cho xe chở hàng bị hạn chế rất ngặt nghèo và nhiều đoàn xe đang chờ đợi có đường để đi và trong trường hợp ông ta không hiểu được điều đó thì ông ta sẽ yêu cầu tới 2.500 chiếc xe tải để duy trì 5.000 binh sĩ bằng những nguồn tiếp tế lấy ở Ấn Độ. Hoàn toàn thất vọng, Alessandri nhắc lại rằng binh sĩ Pháp sẽ không thể tham gia các hoạt động nếu như trang bị cho họ đến quá muộn. Maddocks ghi nhận một cách lịch sự rằng ông ta đã hiểu được những gì viên tướng này cần phải làm. Mọi người đều thấy rõ ràng mối lo lắng của Alessandri không phải là để đánh bại Nhật, mà là để sẵn sàng giữ Đông Dương cho nước Pháp. Vấn đề tiếp tế của OSS thậm chí cũng không được nhắc đến tại cuộc gặp gỡ, nhưng điều muốn nói đã toát lên rất rõ - binh sĩ Pháp chỉ được cung cấp vũ khí và trang bị cho những hoạt động do OSS kiểm soát và do Chiến trường chỉ huy. Alessandri cố cứu vãn tình hình một cách tuyệt vọng bằng cách bày tỏ sự thất vọng của ông ta đối với việc giao cho binh sĩ Pháp giữ các sân bay và tham gia các hoạt động của OSS. Ông ta nói rằng, ông ta muốn thấy họ được giao cho một nhiệm vụ chiến đấu. Tướng Maddocks đã gợi ý một cách lịch sự là sẽ nêu vấn đề này với tướng Hà Ứng Khâm, và Hà sẽ có những đề nghị thích hợp của mình cho Thống chế. Tất cả chúng tôi đều biết rằng người Pháp đã được giao cho một nhiệm vụ chiến đấu ở vùng đông bắc Trung Quốc, nhưng họ đã từ chối, bề ngoài nói là do bộ đội của họ chưa thật khỏe mạnh để làm nhiệm vụ chiến đấu. Sự thật là người Pháp thích ở gần biên giới Đông Dương một cách tiện lợi hợn là chấp nhận nhiệm vụ chiến đấu ở những nơi khác ở Trung Quốc. Khoảng 10 ngày sau đó, trong khi Sainteny vẫn tiếp tục vắng mặt, Flichy gửi cho tôi những nhận xét và những sửa đổi riêng của ông ta đối với kế hoạch MAROC và dường như chúng tôi có thể đạt tới một bước tiến nào đó về vấn đề này. Nhưng vào lúc đó có cả một dòng tin tức lại từ Pakhoi đến bất ngờ và chặn đứng bước tiến ấy. Người Pháp giải thích không đâu vào đâu rằng khi chúng tôi bàn bạc về kế hoạch MAROC thì việc phải có người và trang bị để những công việc trùng lên nhau trong cùng một khu vực là vô nghĩa. Sự giải thích ấy hoàn toàn không thuyết phục. MAROC vẫn chưa tồn tại và OSS hoàn toàn chưa nhận được gì hết từ Pakhoi gửi đến. Và thế là sự “cộng tác” OSS - M.5, vốn đã chưa có, lại trở thành phá sản. Chúng tôi may mắn có được những nguồn tình báo khác. Ba hệ thống tình báo lớn dã tung được người vào phạm vi hoạt động gồm những người Pháp và Việt đặt dưới sự kiểm soát của các sĩ quan chính quy Pháp trung thành với Sabattier. Chúng tôi còn có 5 nhóm có những mục tiêu riêng biệt, hoàn toàn độc lập với người Pháp. Tất cả có chừng 300 đội tình báo và đơn vị du kích, với một mạng lưới liên lạc rộng lớn hoạt động không dựa vào DGER chút nào. Chúng tôi cũng nhận được một luồng tin tức tình báo đều đặn và đáng tin cậy từ bộ máy Hồ Chí Minh và từ những cá nhân ở những địa phương khác nhau không gắn với bất cứ một mạng lưới tình báo nào. Với sự kết thúc chiến tranh đột ngột chỉ trước có mấy ngày, nhiệm vụ bảo đảm tình báo về Đông Dương của tôi để cung cấp cho những hoạt động quân sự của chúng ta cũng đình chỉ đột ngột, nhưng những cuộc xung đột với Nhật vẫn chưa kết thúc hẳn vì những hoạt động của Sainteny: chiến dịch của ông ta chỉ mới bắt đầu. ________________________________________ (1) trước đó - tiếng Pháp (2) nguyên trạng - tiếng Pháp (3) chỉ huy phó nhóm M.5 (4) Jean Roger Sainteny (1907-1978), chỉ huy nhóm M.5 ở Côn Minh, con rể cựu Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut (1872-1962); đến Hà Nội cùng với toán Mercy OSS ngày 28-8-1945, được cử làm Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ (1945-1947), là người đại diện nước Pháp ký bản Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 với Hồ Chí Minh; sau làm tổng đại diện Cộng hoà Pháp tại VNDCCH (1954-1957) (5) hay Bắc Hải, một cảng thuộc Quảng Đông cách Móng Cái 60 dặm (6) trưởng toán OSS/SO, mật danh là “Chow”, đóng ở Posech, bắc Trình Tây 60 dặm (7) Cảnh giác - tiếng Pháp (Cool thuộc Quảng Đông, bắc Pakhoi 120 dặm (9) thuộc Hải quân Mỹ, chịu trách nhiệm phối hợp với AGAS để trinh sát bờ biển cho OSS (10) Nhóm gồm 8 sĩ quan, 40 lính lê dương người Âu và 60 lính người Việt (11) Phó Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa (12) Thủ trưởng DGER ở Paris (13) Chỉ huy trưởng SLFEO/Cacutta (14) nằm trong vịnh Bắc Bộ, cách Pakhoi 25 dặm (15) nằm trong vịnh Bắc Bộ, các Móng Cái 100 dặm (16) Phó Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa (17) Trợ lý Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa, phụ trách Ban tình báo G-2 (18) Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa (19) sau là sĩ quan CIA tại miền Nam Việt Nam, đạo diễn cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm 1-11-1963 Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #34 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 09:55:08 AM » Chương 12 “Quyền ủy trị” được xác định lại Chỉ thị gián tiếp của Roosevelt về Đông Dương là nhằm để giải quyết vấn đề đó vào thời kỳ sau chiến tranh chứ không phải vào giũa năm 1945, khi Mỹ đang phải đương đầu với tình hình thay đổi nhanh chóng ở Đông Nam Á, hoặc đang ở trong một tình trạng cấp bách của chiến tranh. Những chỉ thị của Washington lúc đó chỉ gây thêm phức tạp và rối rắm cho các quyết định cấp bách về chỉ huy và làm gây cấn thêm tình trạng tranh chấp giữa Pháp, Trung Quốc và Mỹ. Những điều bí mật chung quanh Hội nghị Yalta tháng 2, cuộc đảo chính tháng 3 của Nhật và cái chết của Roosevelt trong tháng 4 ngay trước khi bước vào Hội nghị San Francisco đã làm cho vai trò của Pháp ở Viễn Đông nổi lên vượt quá tầm vóc của nó. Trong những kế hoạch tiến hành chiến tranh của chung ở Trung Quốc dự kiến cho đến năm 1946, chúng tôi không đặt vấn đề có sự tham gia của Pháp. Tuy vậy đến đầu năm 1945 thì Pháp đã được coi như là thành viên của Chiến trường Đồng minh. Do đó, Đại sứ Hurley, tướng Wedemeyer và đại tá Heppner đã phải thường xuyên chất vấn Bộ Ngoại giao, Bộ Chiến tranh và OSS ở Washington xem có phải là đã có một sự thay đổi chính sách hoặc ít ra thì cũng phải có một sự giải thích để làm sáng tỏ tình hình. DE GAULLE ÉP TRUMAN Trong vòng 2 tuần lễ sau khi Roosevelt chết, Chính phủ De Gaulle đã tiến hành một đợt tuyên truyền mạnh mẽ nhằm hướng dư luận thế giới sang phía có lợi cho việc giữ nguyên tình trạng của Pháp ở Đông Dương, thậm chí đến mức gợi ý một cách không có cơ sở thực tế rằng chính sách của Mỹ đối với Đông Dương đã thay đổi dưới chính quyền Truman. Đợt tuyên truyền đó đã được triển khai đồng thời ở Trung Quốc và ở nước Mỹ vào ngày 25-4 khi tướng (đại sứ) Pechkov đọc một bài diễn văn tại cuộc họp báo cùng lúc với việc mở đầu Hội nghị San Francisco. Ông nói: “Pháp đang chiến đấu ở Thái Bình Dương, nơi có chiến hạm Richelieu, một trong những thiết giáp hạm mạnh nhất thế giới đang tuần tiễu và ở Đông Dương, nơi những du kích Pháp đang quấy rối người Nhật và ngăn chặn không cho họ tiến đánh Vân Nam và Quảng Tây... Trong cuộc xung đột này, người Đông Dương tỏ ra trung thành với sự nghiệp của Pháp. “Quyền ủy trị” thực sự đã nằm trong trái tim chúng ta…”. Ở đây, có vấn đề được đặt ra là trên thực tế tàu Richeheu phải chăng có mặt ở Thái Bình Dương vào thời điểm đó? Tôi chỉ có thể trả lời rằng, theo Hải quân Mỹ cho biết thì trong khoảng từ 15 đến 30 tháng 4 năm 1945, tàu đó đang có mặt ở Ấn Độ Dương. Nhưng luận điệu nói là “du kích người Pháp” quấy rối Nhật ở Đông Dương và ngăn chặn những cuộc tấn công vào phía nam Trung Quốc đã được xác định rõ là cường điệu hoàn toàn. Người Việt Nam đã sớm nói lên tiếng nói của họ. Sau khi Roosevelt mất, người phát ngôn của Pháp ở San Francisco đã tìm được những vũ khí tuyên truyền tốt nhất của họ trong lời tuyên bố năm 1942 của Sumner Welles và trong chương trình về các dân tộc phụ thuộc của Mỹ đưa ra tại Hội nghị Dumbarton Oaks năm 1944. Ngày 2-5, G. Bidault, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp lúc đó tham dự Hội nghị San Francisco, đã tuyên bố một cách mạnh mẽ trước thế giói rằng quyết định về tương lai của Đông Dương phụ thuộc vào nước Pháp và chỉ có Pháp mà thôi. Ông ta đã đề cập đến quyền ủy trị như đã được xác định ở Dumbarton Oaks nhưng lại tuyên bố rằng nguyên tắc ấy chỉ áp dụng cho một số vùng nhất định nào đó chứ không phải cho Đông Dương. Sau này Bonnet phàn nàn với Ngoại trưởng Stettinius rằng “mặc dù Chính phủ Pháp hiểu lời tuyên bố của Welles năm 1942 có liên quan đến việc khôi phục lại chủ quyền của Pháp đối với đế quốc Pháp trước đây là có bao gồm Đông Dương ở trong đó, nhưng báo chí Mỹ vẫn cứ tiếp tục nói rằng một qui chế đặc biệt vẫn dược dành cho khu vực thuộc địa này”. Để tránh có sự bất đồng trong hội nghị, Stettinius khẳng định với Bidault rằng “bất cứ lời tuyên bố chính thức nào của Chính phủ nói đến chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, thậm chí… nhưng trong dư luận công chúng Mỹ cũng có những ý kiến nào đó lên án những chính sách và những điều thực hành của Pháp ở Đông Dương”. Sau bước thăm dò kết quả, De Gaulle tăng sức ép đối với chính quyền mới ở Washington từ một hướng khác. Trong một bức công hàm riêng, De Gaulle yêu cầu Tổng thống Truman tiếp Bộ trưởng Ngoại giao của ông ta để ông này thảo luận về sự tham gia của các lực lượng Pháp “bên cạnh các lực lượng Mỹ trong chiến dịch quyết định chống Nhật”. Bidault thăm Nhà Trắng ngày 17-5. Sau khi bày tỏ lòng cảm kích đối với đề nghị được tham gia chiến đấu của De Gaulle, Tổng thống nói với Bidault rằng chính sách của ông ta là để cho Tổng tư lệnh Chiến trường (Mac Arthur) quyết định nếu như có thể được và có cần thiết phải để các lực lượng Pháp tham gia vào các cuộc hành quân chống Nhật hay không. Bản thân Tổng thống cho rằng việc này còn tùy thuộc khá nhiều vào điều kiện chuyên chở vận tải, một vấn đề đòi hỏi phải có một lực lượng lớn gấp 3 lần trong chiến tranh ở Đại Tây Dương. Ngày hôm sau, Grew và Bidault cũng thống nhất với nhau sau khi xem xét kỹ lưỡng các vấn đề nói trên. Nhưng Bidault lại cho biết thêm là đã có hai sư đoàn của Pháp sẵn sàng để đưa ngay sang Viễn Đông. Có thể là nhằm cho Grew yên tâm về những động cơ của Pháp, Bidault nói ngay rằng các sư đoàn đó có thể được sử dụng ở bất cứ nơi nào tại Viễn Đông và Pháp không có ý định hạn chế sự đóng góp của họ chỉ ở trong việc chống lại kẻ thù ở Đông Dương. Grew đáp lại là sẽ nêu ngay vấn đề này với các nhà chức trách quân sự của chúng ta. Trong khi bộ máy ngoại giao khuấy động thì cơ quan đấu tranh chính trị của DGER ở Calcutta và Trùng Khánh cũng cho tung ra tin đồn là do “các nhân vật cao cấp” cho biết Washington đã bỏ rơi quan niệm về quyền ủy trị và cũng không còn phản đối việc Pháp quay trở lại Đông Dương nữa. ĐIỀU GÌ ĐÃ XẢY RA Ở YALTA Chiến trường Trung Quốc là “điểm chót tận cùng” trong Thế chiến. Vì vậy tin tức về những sự kiện ở Washington, London và Paris đến đó được, chủ yếu là do con đường trao đổi thư từ cá nhân giữa những người bạn quen thuộc với nhau. Những đường thông tin liên lạc chính thức giữa những người vạch ra quyết định ở các thủ đô thế giới với các nhà lãnh đạo ngoại giao và quân sự ở Trung Quốc thường bị hạn chế trong những chỉ thị từng phần nhằm ngăn ngừa việc giải thích theo ý cá nhân hoặc các hành động có tính chất độc lập. Những chính sách cơ bản giao cho tướng Wedemeyer và Đại sứ Hurley từ khi họ mới được chỉ định sang Trung Quốc đã thay đổi liên tục ở Washington, nhưng những thay đổi đó lại chỉ được nêu lên một cách rõ ràng sau khi sự việc thực tế có liên quan đến sự thay đổi đó đã xuất hiện. Cũng may mà tình trạng đó không phải chỉ riêng những người Mỹ ở Trung Quốc mới có; trong những chừng mực nhất định, nó còn tồn tại ở người Anh, người Pháp. Và ngay cả trong các chính sách của người Trung Quốc cũng có tình trạng tương tự. Để đối phó với những yêu sách quá mức của người Pháp và đấu tranh với các tin đồn đại về việc Mỹ thay đổi chính sách, chúng tôi phải dựa vào sự giúp đỡ và hướng dẫn của Đại sứ quán Mỹ. Đại sứ Hurley cũng khá thông thạo về vấn đề quyền ủy trị của Mỹ đưa ra ở Hội nghị Dumbarton Oaks năm 1944 và cũng biết rằng vấn đề đó đang được “ba nước lớn” thảo luận tại Yalta. Tuy vậy, ông cũng không được thông báo là vấn đề đó đã được phê chuẩn hay đã bị sửa đổi. Tình huống nào cũng đều tác động đến mối giao dịch của ông ta cũng như của giới quân sự đối với người Pháp ở Trung Quốc. Vì vậy, Hurley muốn biết quyết định cuối cùng của Washington và ngày 10-5, ông đã điện về Mỹ, nhắc đến lời tuyên bố báo chí của Pechkov, như sau: “Vì một thực tế là qui chế tương lai của khu vực đó chắc chắn sẽ làm cho người ta ở đây quan tâm và thảo luận ngày càng nhiều nên thật là bổ ích cho tôi nếu như Bộ ngoại giao bí mật thông báo riêng cho tôi biết nội dung các quyết định ở Yalta (hoặc bất cứ một quyết định nào khác về chính sách) xung quanh vấn đề ấy. (Tôi biết rõ chính sách của Roosevelt đối với Đông Dương nhưng muốn xác định xem chính sách đó có gì thay đổi không)”. Tám ngày sau, Hurley nhận được một trả lời ngắn gọn: “Không có quyết định nào của Yalta (SFAMB) liên quan đến Đông Dương mà Bộ Ngoại giao được biết (URTEL 750, ngày 10-5). Các tài liệu về chính sách quân sự và chính trị hiện đang nghiên cứu sẽ được chuyển đến để làm thông báo một khi đã được phép. Grew (điện). Câu trả lời kín đáo của Grew làm tăng thêm sự lẫn lộn. Nếu không có quyết định nào đạt được ở Yalta, tại sao Bộ Ngoại giao lại không muốn tiết lộ ra. Thư tín trao đổi giữa các nhân viên tham mưu dự họp ở Yalta với Trùng Khánh nói rằng vấn đề Đông Dương đã được thảo luận chí ít là giữa Roosevelt và tướng Marshall, và có thể dưới một hình thức nào đó với cả Churchill và Xtalin. Vài ngày sau, Hurley gửi một bức điện cá nhân dài đến Tổng thống Truman, đề cập đến quyền lợi và các cuộc vận động của Anh ở châu Á. Với một ngôn ngũ rõ ràng, Hurley bày tỏ mối lo ngại về việc Mountbatten đã sử dụng viện trợ Vay - Mượn và các nguồn tài nguyên khác của Mỹ để xâm chiếm Đông Dương, nhằm làm thất bại cái mà Hurley cho là chính sách của Mỹ và để thiết lập lại chủ nghĩa đế quốc Pháp. Ông ta muốn tổng thống hiểu rằng hiện nay ở châu Á có dư luận ngày càng tăng, cho là ở đây Mỹ đang nghiêng về xu hướng đế quốc hơn là dân chủ. Theo Hurley thì đó là một điều phi lý và cần uốn nắn. Từ vị trí xa xôi cách biệt của mình, ông có ấn tượng rằng đoàn đại biểu Mỹ ở San Francisco hình như ủng hộ thuyết đặt các thuộc địa và các dân tộc phụ thuộc dưới sự kiểm soát đế quốc với hình thức các nước đế quốc riêng rẽ hoặc liên kết với nhau chứ không phải đặt dưới sự ủy trị của Liên Hợp Quốc. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #35 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 09:56:09 AM » TRUMAN NÓI: KHÔNG THAY ĐỔI Bức điện của Hurley được Nhà Trắng chuyển cho Bộ Ngoại giao ngày 29-5 để phúc đáp lại một cách thích đáng vào 8 ngày sau, đồng thời cũng nêu hai vấn đề là sự kiểm soát của Pháp ở Đông Dương và nguyện vọng chiếm lại Hongkong của Anh. “…Tổng thống yêu cầu tôi nói rằng không có thay đổi cơ bản nào trong chính sách... Và lập trường hiện nay là như sau: Tổng thống cho rằng ông thông hiểu lời phát biểu của Bộ trưởng Ngoại giao ngày 3-4-1945, trong đó được sự đồng ý của Tổng thống Roosevelt, Stettinius đã tuyên bố rằng kết quả các cuộc thảo luận ở Yalta cho thấy, cơ cấu về quyền ủy trị phải được xác định thế nào để cho phép đặt dưới nó những lãnh thổ nhất định chiếm được từ kẻ thù trong cuộc chiến tranh này (như đã được thông qua vào một ngày sau đó) và cả những lãnh thổ khác nếu họ tự nguyện chấp nhận sự ủy trị. Tình hình vừa được công bố liền được khẳng định bằng những cuộc trao đổi ý kiến hiện nay đang diễn ra ở San Francisco bàn về các quyền ủy trị. Suốt trong các cuộc thảo luận này, đoàn đại biểu Mỹ nhấn mạnh sự cần thiết phải đưa ra cho tất cả các dân tộc phụ thuộc một hình thức tiến bộ về Chính phủ tự quản để họ đi đến một kiểu liên bang nào đó phù hợp với khả năng và hoàn cảnh của các dân tộc có thể loại trừ việc thiết lập quyền ủy trị ở Đông Dương, trừ khi Chính phủ Pháp đồng ý. Mà điều đó thì hình như không thể được. Tuy nhiên đó chỉ là ý định của Tổng thống vào những thời điểm thích hợp nhằm đòi hỏi Chính phủ Pháp có những biểu hiện tích cực tỏ rõ ý định muốn thiết lập các quyền tự do công dân và nới rộng các biện pháp về Chính phủ tự quản ở Đông Dương trước khi hoàn thiện hơn nữa tuyên ngôn về chính sách trong lĩnh vực này”. Sau đó, bức điện kể lại cuộc nói chuyện của Tổng thống với Bidault và vạch ra cho Hội đồng Tham mưu trưởng các tiêu chuẩn về khả năng sử dụng các lực lượng Pháp: “a/ Trong khi tránh để không đi tới phải làm một điều gì không thiết thực, hay một cam kết dài hạn về khối lượng và tính chất của viện trợ mà Mỹ có thể cung cấp cho lực lượng kháng chiến của Pháp ở Đông Dương thì Chính phủ (Mỹ) vẫn tiếp tục giúp đỡ trong chừng mực không ảnh hưởng đến những yêu cầu của các chiến dịch đã được hoạch định. Vì phải đáp ứng nhu cầu tập trung mọi tiềm lực của chúng ta ở Thái Bình Dương cho các chiến dịch đã được vạch ra, do đó trong lúc này không dự liệu những chiến dịch qui mô lớn nhằm trực tiếp giải phóng Đông Dương. Quân đội Mỹ sẽ không được sử dụng ở Đông Dương ngoài các chiến dịch quân sự của Mỹ chống lại Nhật. b/ Lời đề nghị giúp đỡ được đánh giá về mặt quân sự như là một hành động nhằm mục đích đánh bại Nhật Bản cũng giống như trường hợp của Anh và Hà Lan. Vì vậy không có gì ngăn trở việc cung cấp viện trợ cho các lực lượg quân đội và Hải quân Pháp theo như quan niệm đã được nêu ở trên, nhưng phải tính đến việc đừng để gây ra cho Chiến trường, nơi phải cung cấp sự viện trợ đó, một sự phân tán tiềm lực quân sự, kinh tế mà đáng lẽ Hội đồng tham mưu trưởng phải tập trung cho các nơi khác”. Vào quãng giữa thánh 6, Heppner đã có dịp được đọc toàn văn bức điện nói trên và được phép phổ biến một số đoạn cần thiết cho một số ít nhân viên trong cơ quan, trong đó có tôi. Cả Heppner và tôi đều cho là chính quyền Truman đã đầu hàng trước yêu sách của De Gaulle, chấp nhận chỉ chịu để cho Đông Dương thuộc quyền ủy trị nếu có sự đồng ý của Pháp. Nhưng đối với giới quân sự, thì Đông Dương có được đặt thuộc quyền ủy trị hay không lại là một việc không quan trọng. Điều đáng quan tâm là vấn đề cung cấp cho Pháp những sự hỗ trợ và tiếp tế hậu cần, và nhằm vào mục đích gì. Chúng tôi hy vọng sẽ có những lời tuyên bố dứt khoát hơn, một lời tuyên bố có thể làm tiêu tan những mập mờ mà chúng tôi đang phải cố gắng khắc phục. Điều cơ bản mà chúng tôi cần là những tiêu chuẩn chính trị cho phép OSS có thể cộng tác với người Pháp, Anh và Việt Nam; các giới hạn địa lý của khu vực hoạt động và việc mở rộng các hoạt động phi quân sự của OSS. Heppner đã triệu tập một hội nghị để hy vọng làm sáng tỏ những điểm này. Hội nghị gồm các đại diện Đại sứ quán, các nhà làm kế hoạch của Chiến trường và các trưởng ngành của OSS. BỐN CƯỜNG CUỐC TRỞ THÀNH NĂM Theo báo cáo viên Đại sứ quán, mục tiêu chủ yếu của Roosevelt là nhằm bảo đảm và duy trì hòa bình bằng một cơ chế tổ chức quốc tế (Liên Hợp Quốc). Ông đã phác họa ra cơ chế lãnh đạo là một nền chuyên chính tay tư, gồm những cường quốc tham gia chủ yếu vào cuộc chiến tranh: Mỹ, Anh, Liên Xô và Trung Quốc. Nhưng sau các hội nghị Dumbarton Oaks và Yalta, rõ ràng là Anh cần có sự cộng tác của Pháp ở châu Âu và Roosevelt đã chấp nhận khái niệm “năm cường quốc”. Cũng có thể là cuộc viếng thăm Mỹ vào tháng 7-1944 của De Gaulle đã ảnh hưởng đến Roosevelt. De Gaulle đã hứa là Pháp sẽ để cho Đông Dương được hưởng một mức độ tự trị sau chiến tranh. Roosevelt không nài ép ông về vấn đề ủy trị. Roosevelt cũng rất biết sự thù ghét của Churchill đối với việc xáo trộn cơ cấu thuộc địa ở Đông Nam Á, mặc dù Xtalin và Tưởng đều tán thành thủ tiêu nó. (Quentin Roosevelt đã tiết lộ cho tôi biết là vào giữa tháng 3-1945, Tổng thống có thể đã có một lập trường ôn hòa hơn nhưng không phải là đã hoàn toàn từ bỏ lý tưởng về quyền ủy trị. Theo “Q” thì Roosevelt đã nói rằng, nếu nước Pháp cam kết nhận cho mình vai trò của người được ủy nhiệm thì ông sẽ không phản đối việc Pháp giữ lại các thuộc địa của mình với ý nghĩa là một sự độc lập hoàn toàn cho các thuộc địa đó sẽ được đảm bảo thực hiện). Theo báo cáo viên Đại sứ quán, lần đầu Đông Dương đã trở thành một vấn đề nói trong các công hàm của Tổng thống vào tháng 11-1944. Khi Wedemeyer báo cáo cho Tổng thống biết rằng các thế lực Anh, Hà Lan và Pháp đang hoạt động mạnh mẽ nhằm khôi phục lại địa vị chính trị và kinh tế trước chiến tranh của họ ở Đông Nam Á; Wedemeyer nói về phái đoàn quân sự của Blaizot ở Ấn Độ đang chuẩn bị xâm nhập vào Đông Dương và yêu cầu phải có chỉ thị chính trị vì theo Wedemeyer thì Đông Dương thuộc Chiến trường Trung Quốc. Ngày 16-11-1944, Tổng thống đã chỉ thị cho Hurley thông báo cho Wedemeyer biết rằng chính sách của Mỹ đối với Đông Dương không thể được xác định trước khi có sự tham khảo với các đồng minh trong hội nghị Tham mưu hỗn hợp sắp tới và Tổng thống yêu cầu Hurley cung cấp đầy đủ cho ông các tin tức về hoạt động của Anh, Pháp và Hà Lan ở Đông Nam Á. Nhưng Hurley đã chẳng có gì để báo cáo thêm với Tổng thống và Tham mưu Trưởng Liên quân cũng chẳng rõ đồng minh của chúng ta mưu toan làm gì, ở đâu. Khi cả Hurley và Wedemeyer đều ở Washington vào tháng 3-1945, Tổng thống đã nói với Wedemeyer rằng ông ta cần phải sẵn sàng để ngăn chặn các hoạt động chính trị của Anh và Pháp trong khu vực này, và chỉ được giúp đỡ họ những gì mà các chiến dịch trực tiếp chống Nhật đòi hỏi. Người ta đã kể lại chuyện Churchill đã điện cho Tổng thống rằng ông biết đang có những khó khăn nhất thời giữa Wedemeyer và Mountbatten chung quanh các hoạt động ở Đông Dương, và đề nghị có chỉ thị cho Hội đồng Tham mưu trưởng Hỗn hợp Anh - Mỹ (CCS) tổ chức một cuộc trao đổi sâu sắc và thẳng thắn về các ý đồ, kế hoạch và tình báo giữa hai tư lệnh chiến trường. Ngày 22-3, Roosevelt đã phúc đáp là ông và Churchill nên thống nhất với nhau để quyền cho Wedemeyer được phối hợp mọi chiến dịch của Anh, Mỹ và Trung Quốc. Churchill đã không trả lời cho đến ngày 14-4, khi Wedemeyer trên đường từ Washington về Trung Quốc và đã dừng lại để gặp Mountbatten ở Bộ Tổng hành dinh SEAC. Lúc đó, giữa hai vị tư lệnh đã đạt được một sự “thống nhất hiểu lầm”. Wedemeyer ra về và cứ tưởng rằng SEAC sẽ không cho tiến hành các chiến dịch ở Đông Dương trước khi chưa được ông ta thông qua với tư cách là Tổng tham mưu trưởng của Tưởng. Mountbatten lại hiểu rằng tất cả những gì mà ông phải làm theo như sự thỏa thuận đã đạt được chỉ là thông báo cho Wedemeyer biết về những chiến dịch được dự kiến ở Đông Dương. Nội dung chủ yếu trong công hàm của Churchill gửi cho Tổng thống sau đó đã phản ánh cách nhìn của Mountbatten. Ngày 14-4, Tổng thống Truman phúc đáp lại, đã chẳng có gì thống nhất với Churchill, mà lại nêu lên một cách đầy đủ hơn quan điểm của Wedemeyer về vấn đề thống nhất ý kiến. Vào giữa tháng 5, sự bất đồng giữa hai vị tư lệnh trở thành công khai. Mountbatten thông báo cho Wedemeyer biết ông dự định cho 26 chuyến bay của không quân vào Đông Dương để tiếp tế cho các toán “du kích người Pháp”. Cho rằng Chính phủ Pháp đã đặt tất cả các đơn vị nói trên dưới quyền chỉ huy và kiểm soát của Tưởng, Wedemeyer đòi Mountbatten phải bố trí để đảm bảo là tất cả đồ thiết bị tiếp tế phải được sử dụng vào việc chống Nhật. Mountbatten đã không đáp lại về vấn đề đó. Sau một đợt trao đổi tin tức chớp nhoáng mà Momlbatten cũng chẳng cho biết số lượng và địa điểm các đơn vị dự kiến được tiếp tế của Pháp, Mountbatten đã bất chợt ra lệnh cho phi cơ bay mà không chờ phải có sự đồng ý của Wedemeyer và Tưởng. Ngày 25-5, Wedemeyer đã kịch liệt phản đối Mountbatten và báo cáo với Hội đồng Tham mưu trưởng của chúng ta. Quan hệ chỉ huy giữa hai tư lệnh trở nên căng thẳng. Trở lại hội nghị, Heppner yêu cầu chúng tôi đánh giá tình hình dưới ánh sáng của chỉ thị hiện hành, nhưng phải hết sức thận trọng đừng để vi phạm chính sách đã được công khai tuyên bố của Mỹ. Helliwell mở đầu cuộc thảo luận bằng cách xem xét lại những mối quan hệ của chúng ta với Anh, Pháp và Việt Nam. Chúng tôi thống nhất ý kiến là OSS không cần quan tâm nhiều đến những hành động phối hợp Mỹ - Anh, ngoại trừ trường hợp có liên quan trực tiếp đến Đông Dương, và khi đó có thể phải chờ có quyết định của cấp trên. Đối với người Pháp và người Việt thì vấn đề lại hoàn toàn khác. Trong một công hàm dài của Bộ Ngoại giao, Grew đã tuyên bố rõ ràng là ở đây không có gì thay đổi về cơ bản trong chính sách.
Do đó chúng ta cần phải duy trì một cách hợp lý một nguyên trạng như trước đây. OSS chỉ việc không cần biết tới những cố gắng của Pháp để chiếm lại Đông Dương, và sẽ không làm gì để hỗ trợ hoặc ngăn chặn các cố gắng đó nhưng nếu có thể được thì sẽ dùng các đội quân Pháp vào các cuộc hành quân bí mật. Những điều đó bao giờ cũng phải là một bộ phận hoặc phải được gắn chặt với các kế hoạch phối hợp của Chiến trường.
Còn đối với người Việt, thì có nhiều sự hạn chế không cho chúng ta đóng góp vào việc thực hiện nguyện vọng chính trị của họ. Một người trong hội nghị đã đặt câu hỏi xem phải làm thế nào khi đã rõ ra là tổ chức của người Việt Nam thực chất là chính trị, chống Pháp và chiến đấu giành độc lập dân tộc. Có ý kiến nêu lên là việc sử dụng các cá nhân người Việt cho các hoạt động bí mật do Chiến trường phối hợp không được coi như là một sự ủng hộ về chính trị hay quân sự đối với họ. Điều này đã gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi.
Cuối cùng, một trong những người thảo kế hoạch của Chiến trường đã kết luận là trong chừng mực mà người Việt có đóng góp vào nỗ lực của Đồng minh chống lại Nhật thì chúng ta cũng không cung cấp cho họ một số khí giới nhiều hơn số họ cần để tự vệ cho cá nhân mình. Như vậy, không ai có thể phê phán chúng ta là đã hoạt động một cách thiên vị. Điểm phải bàn tiếp theo là vấn đề SEAC thâm nhập vào Đông Dương. Đã được khẳng định là Đông Dương tức là Việt Nam, Lào và Kampuchia là một bộ phận của Chiến trường Trung Quốc và thuộc quyền chỉ huy kiểm soát của Tưởng. Một người nào đó đã nêu lên tính chất hợp pháp của các khu vực hoạt động vì ở đây thực ra chỉ có một thỏa thuận “lịch sử” giữa Mountbatten và Tưởng. Những thỏa thuận không chính thức như vậy rất không đáng tin cậy.
Heppner ủng hộ ý kiến này và đưa ra những công văn của OSS gửi SEAC nói về các hoạt động của lực lượng 123 ở Lào và nam Đông Dương để làm chứng cứ. Tất nhiên, đó là sự thiếu phối hợp trong các kế hoạch hoạt động bí mật giữa SEAC và Chiến trường Trung Quốc. Lúc đó, một người thảo kế hoạch của Chiến trường báo cáo là Hội đồng Tham mưu trưởng hỗn hợp có ý kiến như một phương án chia Đông Dương làm hai phần, một phần sẽ do SEAC có toàn quyền kiểm soát, bao gồm vùng phía nam của vĩ tuyến 15 hoặc 16 bắc. Theo ông, đây mới chỉ là đang giai đoạn chuẩn bị, và còn phải chờ có sự chấp nhận của OSS và sự đồng ý của Tưởng. Nhưng ông gợi ý OSS cần phải lưu ý đến vấn đề này để làm kế hoạch hoạt động tương lai ở Đông Dương. Heppner đã đồng ý. Đó cũng là lần đầu tiên tôi được nghe nói đến ý định cắt Việt Nam làm đôi và chúng tôi đã coi vấn đề đó là một vấn đề quy định pháp lý giữa các Chiến trường. Hội nghị đã rất bổ ích cho những ai trong chúng tôi đang chuẩn bị hoạt động.
Trong khi không có những chỉ thị hướng dẫn chi tiết của Washington, chúng tôi cũng đã có thể dựa vào một số điểm nói về cách giải quyết cấn đề ở cấp cao để vận dụng ở cấp chúng tôi. Lúc đó, chúng tôi chưa nhận thức được đề án của Washington cắt Đông Dương làm hai phần đã có một ý nghĩa xa đến thế, nhưng đó cũng là một nhân tố quyết định tình hình của năm đang đi tới. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #36 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 09:58:01 AM » Chương 13 Toán “Con Nai” đến Kim Lũng Sau những tháng kiên trì điều đình với người Pháp mà không mang lại kết quả gì, Hồ Chí Minh vẫn bền bỉ cung cấp cho OSS nhiều tin tức và sự giúp đỡ rất có giá trị đối với các kế hoạch hoạt động bí mật của chúng tôi.
Cuộc gặp gỡ diễn ra tốt đẹp và chúng tôi đồng ý cộng tác với nhau trong tương lai trước mắt. Trong cuộc gặp gỡ của chúng tôi, Sainteny nêu lên rằng ông ta và trung tá Wichtrich thuộc AGAS đang thảo một dự án chung để tiến hành những hoạt động cứu giải ở khu vực Pakhoi(5). Trong vài ngày nữa ông ta sẽ đáp máy bay hạ xuống nơi đó và gợi ý rằng tôi có thể phái một sĩ quan của tôi nói được tiếng Pháp đến xem xét khu vực này cho những hoạt động hỗn hợp sau này. Tôi cảm ơn ông ta và đồng ý sẽ báo cho ông ta rõ. Trong thời gian đó, chúng tôi chỉ định các sĩ quan liên lạc cho những hoạt động hàng ngày.
Tôi báo cho Whitaker rằng M.5 vui lòng hoạt động chung với OSS trên có sở có đi có lại, nhưng nghi ngại rằng họ đòi hỏi nhiều hơn. Về bề ngoài, Sainteny tỏ ra thẳng thắn khi yêu cầu vũ khí, trang bị và vận chuyển của Mỹ để đánh đổi nhân lực Pháp - Annam, nhưng bên trong tôi phát hiện ra rằng ông ta hy vọng giành được một sự thừa nhận đặc biệt cho cơ quan người Pháp duy nhất đảm nhận những hoạt động bí mật ở Chiến trường Trung Quốc. Điều đó bao hàm một sự độc lập của M.5 đối với Sabattier và Pechkov, và để cho SLFEO/Calcutta chỉ huy và kiểm soát M.5. Tôi nhấn mạnh rằng đó là ấn tượng đầu tiên của tôi và chúng ta cần thăm dò ý đồ của Sainteny hơn nữa. Tuy nhiên, nếu những nghi ngại của tôi là đúng, thì chúng tôi có thể nhìn thấy trước các vấn đề. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #31 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 09:51:49 AM » MỘT CUỘC CHẠY THỬ Trong khi chờ đợi ý kiến từ Trùng Khánh về việc tiếp tục quan hệ với M.5, tôi đơn phương khởi sự 2 hoạt động do Chiến trường chỉ huy. Một hoạt động nhằm cắt đứt đường sắt và đường bộ từ Trấn Nam Quan đến Hà Nội, còn hoạt động kia là một cuộc tuần tiễu giám sát bờ biển ở các cảng Hải Phòng và Fort Bayard. Hoạt động thứ nhất phải chờ đến lúc nào lấy được người cho thiếu tá Gerald W. Davis(6) để đi bộ vào Đông Dương và làm nhiệm vụ. Còn cuộc giám sát bờ biển thì đòi hỏi phải có những thủy thủ được huấn luyện và một đội thuyền buồm nhỏ. Phải có thời gian tôi mới kiếm được những thứ đó nhưng Wedemeyer thì lại sốt ruột về những kết quả nhanh chóng, và chỉ có một chiếc tàu thích hợp trong khu vực này là của người Pháp, nhưng tôi không có quyền sử dụng. Tôi nghĩ tới dự án AGAS với M.5 và “hạm đội” của nó ở vùng Pakhoi. Tuân theo các quy tắc phần nào, tôi lập luận rằng một khi AGAS đã được phép cộng tác với người Pháp thì không có lý do gì để tôi không được làm việc với AGAS và cùng nhau sử dụng tàu thủy của Pháp. Khi thảo luận điều đó với Whichtrich, chúng tôi đồng ý với nhau rằng tôi sẽ cung cấp cho AGAS những phương tiện vô tuyến điện của OSS để thực hiện những hoạt động cứu thoát để đánh đổi những tin tức về hạm đội Nhật mà nhân viên OSS - AGAS thu nhận được bằng những phương tiện của các đơn vị hải quân Pháp. Trong khi tôi thương lượng với AGAS, tôi nhận được tin từ Trùng Khánh cho biết rằng Sabattier và Tưởng đã thỏa thuận với nhau rằng: “Tất cả các đội quân chính quy Pháp đang chiến đấu chống Nhật ở Đông Dương thuộc Pháp được đặt dưới quyền chỉ huy của Thống chế”, rằng Sabattier đã được thừa nhận là “Tổng chỉ huy” của những đội quân ấy, và rằng tướng Alessandri đã được bổ nhiệm là “chỉ huy địa phương của Pháp”. Đó là một sự thỏa thuận lạ lùng. Toàn bộ kháng chiến của Pháp ở Đông Dương chống Nhật đã bị xóa bỏ từ lâu, khiến cho Alessandri hiện nay đã trở thành viên chỉ huy tất cả các lực lượng hiện có của Pháp ở Trung Quốc mà thôi. Vậy thì, Sabattier chỉ huy cái gì? Phải chăng đó là một cách gạt êm thấm Sabattier ra khỏi dây chuyền chỉ huy và trao cho Alessandri toàn bộ quyền kiểm soát tác chiến chỉ của những đội quân Pháp chưa bị Nhật bắt làm tù bình? Chúng tôi cảm thấy một sự bối rối và băn khoăn mới trong những mối liên hệ của mình với Phái đoàn quân sự Pháp, DGER, SLFEO và M.5. Ngày 24-5, khi chưa nhận được ý kiến của Heppner về việc sử dụng các đội quân Pháp, chúng tôi nhận được một bức điện của thiếu tá Davis nói rằng một đội quân Pháp lớn đã đến Posech mà không báo trước, dưới quyền chỉ huy của thiếu tá Revol; ông này nói rằng họ được trang bị và huấn luyện bởi OSS cho những cuộc hành quân ở Đông Dương. Cuối cùng, ngày 26, Heppner nói cho chúng tôi rằng ông ta đã ký một thỏa thuận có dụng ý với SLFEO. Tôi lại đến gặp Sainteny để vạch các chi tiết và, một lần nữa, sự đón tiếp của ông ta tỏ ra nồng nhiệt và thân mật. Giọng khó tính đầu tiên mà Sainteny ném ra là khi ông ta bảo đảm với tôi rằng chúng tôi có thể cùng nhau vạch ra một kế hoạch “có lợi cho cả hai bên”. Nhận xét ấy không thích hợp với tôi, và tôi trả lời rành rọt rằng “mối lợi” duy nhất mà người Mỹ nghĩ tới là thu được tình báo của Nhật và tiến hành những hoạt động riêng biệt đằng sau các phòng tuyến của họ. Tất nhiên, Sainteny đồng ý, nhưng nhận xét của ông ta làm tôi phải “qui vive”(7). Những sự thỏa thuận của tôi với AGAS đã phù hợp với sự tán thành của bản doanh cho phép làm việc với M.5, và tôi được tự do bàn bạc với Sainteny về dự án Pakhoi. Đầu tháng, tôi lại phái Ambelang tới Maoming(Cool để tiến hành những hoạt dộng giám sát ven biển phối hợp với cuộc hành quân Ford Bayard. Ngày 27, tôi gửi Ettinger đến Pakhoi để nhập với trung úy James W. Jordan(9). Với Ettinger và Jordan ở Pakhoi và Ambelang ở Maoming, tôi quyết định thiết lập một trạm căn cứ trong vùng và gợi ý với Sainteny rằng dự án OSS - AGAS đang tiến hành và với sự giúp đỡ của ông ta, chúng tôi có thể cùng nhau mở rộng hoạt động để giành những kết quả tối đa trong một thời gian tối thiểu. Ông ta đồng ý và sẵn sàng vạch kế hoạch. Ngày 30-5, dự án Pakhoi được tiến hành. Đội tàu nhỏ của Pháp gồm hai chiếc tầu tuần tiễu, Crayssac và Frézouls, được nhiều thuyền máy yểm trợ, tất cả đều do thủy thủ Pháp điều hành, bắt đầu chuyển (bằng các đài vô tuyến của OSS) những tin tức có giá trị về hạm đội Nhật và giúp đội tầu ven biển của chúng ta thăm dò những độ sâu dọc vịnh Fort Bayard và vịnh Mandarin. Ettinger và Jordan, với sự giúp đỡ của các nhân viên Pháp do M.5 cung cấp đã tiến hành một công việc tuyệt vời, không những chỉ báo cáo về sự bố trí của quân Nhật và các hoạt động của Hạm đội Nhật (đặc biệt từ vùng Fort Bayard - Hải Phòng), mà còn thu được một số tin tức từ bên trong Đông Dương. NGƯỜI PHÁP TỔ CHỨC MỘT CUỘC BÃI CÔNG NGỒI Một ngày sau khi Dự án PAKHOI được tung ra, chúng tôi ký kết với người Pháp ở Trùng Khánh một thỏa thuận thứ hai nhằm sử dụng 100 binh sĩ Việt Nam và 10 hay 12 sĩ quan Pháp. Sabattier và Pechkov đồng ý để OSS có quyền kiểm soát hoàn toàn đối với nhóm này và những tin tức tình báo thu được sẽ chia nhau. Chúng tôi vạch kế hoạch huấn luyện đơn vị ở Trình Tây. Wampler chọn đại úy (sau đó là thiếu tá) Charles M. Holland và thiếu tá Allison K. Thomas đứng đầu hai đội với mật danh là “Con Mèo” (“Cat”) và “Con Nai” (“Deer”). Chúng tôi báo cho Davis và Poseh biết và yêu cầu họ phái Holland và Thomas đến Trình Tây để đón nhận những người Pháp, đến ngày 12-6 thì bắt đầu huấn luyện. Nhóm người Pháp mới(10) đến đúng ngày giờ đã định nhưng lại từ chối huấn luyện như đã thỏa thuận ở Trùng Khánh. Viên sĩ quan cao cấp nhất của Pháp, thiếu tá Courthlac, yêu cầu OSS trả tiền cho nhóm ông ta và cung cấp ăn uống cho họ. Điều đó không nằm trong sự thỏa thuận. Người Pháp phải lấy khẩu phần của họ từ Cục quân nhu Trung Quốc trước khi đến đây theo thủ tục thông thường và việc trả tiền cho đội quân người Pháp là trách nhiệm của Chính phủ Pháp ở Trùng Khánh. Thiếu tá Thomas không có quỹ để thỏa mãn những yêu cầu của người Pháp và báo cho thiếu tá Courthlac biết điều đó; nhân đó người Pháp bèn tổ chức một cuộc bãi công ngồi cho đến lúc có chỉ thị của M.5. Do đó, từ ngày 4 đến ngày 17 tháng 6, chương trình huấn luyện ở Trình Tây đã bị hoàn toàn đình chỉ. Một tia lóe lên sau đó vào sáng 12-6, khi Heppner nhận được một bức thư không đề ngày tháng của Sainteny, do Flichy ký tên, nói rõ ràng Sabattier đã chỉ thị cho M.5 phải chịu trách nhiệm về hoạt động du kích với sự cộng tác của các đơn vị Mỹ. “Do ưu thế của lực lượng Pháp” và sự nguy hiểm sẽ xảy ra, Sainteny yêu cầu được biết về mục đích của hoạt động này, về những mệnh lệnh cho người Mỹ, và những gì đã được thực hiện từ đây đến đó. Cho đến khi nhận được trả lời cho những câu hỏi của ông ta, Sainteny đã ra lệnh cho viên chỉ huy phân đội Pháp ngừng các hoạt động. Heppner lập tức không đồng ý với mệnh lệnh của Sainteny, coi đó là một hành động đơn phương và độc đoán và là một sự phá vỡ việc thỏa thuận Sabattier - Heppner ngày 31-5 và báo cáo điều đó cho tướng Wedemeyer. Rõ ràng đã có một sự đứt quãng trong những liên lạc giữa M.5 của phái De Gaulle và “Bộ Tham mưu” ở Trùng Khánh. Vấn đề đối với chúng tôi là phải giao dịch với ai trong những người Pháp? Giai đoạn thứ ba của tình trạng này là sự bắt đầu một cuộc nổi dậy nhỏ của những người Pháp mới đến ngày 14-6, khi toàn bộ những liên lạc của mạng lưới PAKHOI im lặng. Tôi biết khá sớm qua Jordan rằng người Pháp đã ra lệnh đình chỉ cung cấp luồng tin tức tình báo cho người Mỹ vì bị đe dọa của “tòa án quân sự”. Khi mọi hành động Pháp - Mỹ ngừng lại và người Mỹ ở trong tâm trạng bực túc, thiếu tướng Douglas L. Weart(11) triệu tập một cuộc gặp mặt ở Côn Minh ngày 15-6 để dàn xếp mọi việc và đặc biệt đòi phải rút lại bức thư của Sainteny và các hoạt động phải đặt dưới sự kiểm soát của OSS. Weart mở đầu cuộc gặp mặt bằng việc nhắc lại cho Alessandri rằng giới quân sự Pháp đặt dưới quyền kiểm soát về tác chiến và cung cấp của tướng Hà Ứng Khâm và của OSS, và việc sử dụng các đội quân Pháp phải được cấp Chiến trường cho phép. Weart nói rằng không thể hiểu được M.5 nằm ở vị trí nào trong chuyện này, và nói cho Alessandri biết rằng “Sự kiểm soát tác chiến của tướng Hà không thừa nhận Phái đoàn quân sự Pháp như một nguồn liên lạc; mọi sự tiếp xúc chỉ dược tiến hành trực tiếp với tướng Sabattier...”. Tướng Alessandri biện bạch rằng M.5 đã hành động mà không biết gì đến thỏa thuận giữa Wedemeyer và Sabattier, và bức thư của Sainteny sẽ bị rút lại. Phân đội Pháp ở Trình Tây sẽ được lệnh hoạt động dưới sự kiểm soát của OSS. Như vậy, đến ngày 17 mọi việc trở lại bình thường, hay ít ra chúng tôi cũng nghĩ như thế. M.5 CỦA SAINTENY Tại cuộc gặp mặt Weart - Alessandri, Flichy cố nhấn mạnh vai trò của M.5 trong những hoạt động bí mật, nhưng ông ta đã bị bác bỏ và Sainteny không gặp may. Một ngày sau cuộc gặp mặt, Sainteny yêu cầu tôi ghé lại ở một biệt thự Pháp: ông ta cần làm sáng tỏ những sự hiểu lầm. Ông ta cho rằng tôi hẳn đã biết tới việc SLFEO/Calcutta đã giao cho M.5 chịu trách nhiệm hoàn toàn về những hoạt động bí mật ở Chiến trường Trung Quốc; và ông ta, với tư cách người cầm đầu M.5, đã được cho phép giao dịch trực tiếp với OSS. Còn về nhân lực, thì ông ta đã được Calcutta giao cho sử dụng các đội quân của Sabattier được bổ sung bằng những chuyên viên của DGER lúc đó đang trên đường từ Pháp đến Ấn Độ. Về vấn đề chỉ huy và kiểm soát M.5 ở Côn Minh, Sainteny nhấn mạnh rằng ông ta chỉ nhận những chỉ thị và hướng dẫn của tướng Passy(12) ở Paris và đại tá Roos(13) ở Calcutta, những người này chỉ chịu trách nhiệm trước tướng De Gaulle. Tôi hỏi Phái đoàn quân sự Pháp trực thuộc vào đâu, và Sainteny nói rất rõ ràng tướng Pechkov không có quan hệ gì với DGER cả. Ông ta nằm dưới sự chỉ đạo của Bộ Ngoại giao, còn DGER thì hoạt động dưới những chỉ thị trực tiếp của cá nhân De Gaulle. Hoàn toàn không có dụng ý, Sainteny cho tôi biết rằng SLFEO/Calcutta đã có một số thỏa thuận rõ ràng với SOE của Anh về hoạt động ở Đông Dương. Những thỏa thuận ấy được tiếp tục cả sau khi ký kết thỏa thuận OSS - DGER. Đó là những thỏa thuận riêng rẽ và khác nhau: Pháp - Anh, Pháp - Mỹ. Tôi bình luận rằng đối với tôi, sự thỏa thuận ấy có vẻ cơ hội chủ nghĩa và rõ ràng nhằm giành lấy phần tối đa từ hai phía riêng rẽ. Sainteny đáp lại rằng người Anh đã đóng góp nhiều về vũ khí và vận chuyển cho sự nghiệp của Pháp ở Đông Dương, và nói thêm: “Vâng, chúng tôi là những kẻ cơ hội chủ nghĩa trong trường hợp này - mọi cái đều nhắm tới cùng một mục đích, có phải thế không?”. Tôi trả lời rằng tôi không nghĩ thế, nhưng Sainteny nói tiếp rằng người Anh đã giúp đỡ lâu trước người Mỹ và đã có nhiều đội đang hoạt động tại chỗ, đã đem lại những kết quả tốt đẹp và ông ta không muốn chấm dứt những hoạt động của họ. Sau đó, tôi đặt câu hỏi về quyền hạn của Chiến trường. Người Pháp ở Trung Quốc dù sao cũng nằm dưới sự chỉ huy của Tưởng và Đông Dương thì nằm trong Chiến trường tác chiến Trung Quốc. Nhưng Sainteny khoát tay tỏ ra không cần phải băn khoăn gì về tất cả những điều đó và nói rằng chúng tôi không thể thông qua sự thỏa thuận Tứ cường ở cấp chúng tôi, khiến cho tôi gợi ý có lẽ ông ta nên nêu vấn đề này với tham mưu trưởng và đại tá Heppner. Chúng tôi không giải quyết được gì và đặt những vấn đề quyền hạn cho những cuộc thảo luận sau này. Những hoạt động của Anh - Pháp từ SEAC khiến cho tôi rất quan tâm. Tôi không biết chắc rằng những hoạt động ấy có thể đưa vào kế hoạch chung của tôi không. Sainteny nói rằng ông ta không biết được nhiều chi tiết và bảo đảm với tôi rằng kết quả hoạt động của các đội ấy sẽ được chia cho M.5, M.5 sẽ chuyển cho Sabattier, và ông ta sẽ chuyển đi “theo những đường liên lạc tình báo”. Vì tôi biết sự ngăn cấm bí mật của người Pháp không cho người Anh giao tin tức cho người Mỹ, nên tôi lại càng hoài nghi hơn. Không để lộ việc tôi biết sự ngăn cấm bí mật ấy, tôi lưu ý với Sainteny về thỏa thuận giữa Tưởng và Sabattier nói rằng đường liên lạc duy nhất đối với người Pháp ở Chiến trường Trung Quốc để tuyền đạt tin tức tình báo là qua OSS, rồi OSS chuyển tới Sabattier. Sainteny đáp lại điều đó: “Đúng thế! Vậy thì tôi sẽ chuyển tin tức tình báo cho ông, nhưng với điều kiện không để trì hoãn bởi nhũng thủ tục quan liêu thường thấy trong trường hợp ở châu Âu”. Chấp nhận câu trả lời dễ dãi của ông ta với một sự miễn cưỡng lớn, tôi bảo đảm với ông ta rằng sẽ không có những sự trì hoãn. Và, tất nhiên, những lo lắng của chúng tôi đã được chứng thực: chúng tôi không hề nhận được một tin tức nào cả. Chúng tôi chuyển qua vấn đề cuối cùng, kế hoạch hoạt động của ông ta. Sainteny nói rằng kế hoạch đó sẽ được ông ta thảo xong ngày 18-6. Khi tôi từ giã, ông ta hỏi liệu có thể được thông báo cho biết về các kế hoạch của Chiến trường cho Đông Dương với những cuộc đổ bộ dự định được đặc biệt ghi rõ hay không. Tôi gợi ý ông ta nên thảo luận điều đó với Heppner. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #32 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 09:53:25 AM » M.5 GIÀNH ĐƯỢC QUY CHẾ CHÍNH THỨC Kế hoạch Sainteny thảo xong ngày 18 là một kế hoạch rộng lớn cho những cuộc hành quân trên bộ và trên biển. Nó bao gồm khoảng 1.000 sĩ quan và binh lính Pháp - Việt, tất cả được trang bị bởi OSS. Helliwell và tôi rất ngạc nhiên và đề nghị Heppner chấp nhận kế hoạch ấy với những điều kiện: Các đơn vị này được đặt dưới sự kiểm soát của OSS; mỗi đơn vị có một sĩ quan cao cấp Mỹ chỉ huy; chỉ sử dụng mật mã vô tuyến điện của OSS; mỗi đơn vị chỉ hoạt động dưới sự đỡ đầu của OSS chống lại các mục tiêu của Nhật. Sainteny và Flichy phản đối tất cả những điều kiện ấy Sainteny nói ông ta cảm thấy trái lương tâm khi yêu cầu các sĩ quan Pháp phục vụ dưới sự chỉ huy của những sĩ quan không phải người Pháp, dù cho đó là những sĩ quan Đồng minh. Heppner nói rằng đó không phải là một thủ tục gì khác thường; phải chăng tất cả chúng ta đều không nằm dưới sự chỉ huy của Thống chế (Tưởng) ở Chiến trường Trung Quốc? Chúng tôi đi tới một sự bất đồng. Để khỏi mất thì giờ hơn nữa, vì ngày hạn định cho Carbonado đã gần đến, tôi gợi ý chúng tôi cùng vạch một dự án trước mắt và giải quyết vấn đề chỉ huy trên cơ sở mục tiêu và khả năng hiện có về sĩ quan có năng lực cho mỗi dự án. Sainteny đồng ý một cách miễn cưỡng, nhưng ông ta yêu cầu cung cấp vũ khí và trang bị cho tất cả 1.000 binh sĩ. Heppner nắm chặt lấy điểm đó. Mỗi đơn vị sẽ được cung cấp những gì cần thiết khi nó thật sự được giao cho một phái đoàn OSS được phê chuẩn. Sainteny nêu lên vấn đề những cuộc đổ bộ của Đồng minh được dự tính và hỏi xem liệu ông ta có được thông báo về những gì sẽ được hoạch định không. Heppner nói với ông ta rằng Sabattier sẽ được thông báo khi tướng Hà Ứng Khâm thông qua để cho kế hoạch ấy có hiệu lực. Đó là một cuộc gặp mặt hoàn toàn không thỏa mãn. Người Pháp cảm thấy bị khước từ và người Mỹ chúng tôi rời ra với một cảm giác rõ ràng về tính mơ hồ của lập trường người Pháp. Helhwell và tôi, cùng với Heppner, biết rắng Sainteny không phải là một người ngay thẳng. Quá nhiều điều ông ta không nói ra và quá nhiều câu hỏi không được ông ta trả lời. Trong 4 tuần lễ sau đó, chúng tôi dành nhiều thì giờ để hội họp, hỏi han, bàn bạc và thảo luận, mà không di tới một sự thỏa thuận nào để có thể thực hiện được. Trong khi đó người Pháp đánh nhau ở vùng ven biển phía nam Trung Quốc không có mục tiêu rõ ràng. Căn cứ của chúng tôi ở Pakhoi được báo cáo rằng một đơn vị biệt kích Pháp đang được tổ chức và huấn luyện trong vùng cho những hoạt động mà chúng tôi chưa biết. M.5 quấy phá các hệ thống tình báo của lực lượng không quân thứ 14, AGAS, Bộ tư lệnh chiến đấu Trung Quốc (CCC) và OSS bằng những loạt báo cáo không được xác nhận về các bố trí và vận động của quân Nhật. Khi ban kế hoạch của Chiến trường hỏi OSS về tính xác thực của những báo cáo ấy, tất nhiên chúng tôi không thể xác minh chúng được, cũng không thể bảo đảm tính chính xác của chúng vì chúng tôi không được M.5 hỏi ý kiến. Các báo chí địa phương của Trung Quốc ở Côn Mình công bố một bản báo cáo, nói là của phái đoàn quân sự Pháp, cho biết một đơn vị Pháp ở Trung Quốc đã “xâm nhập và chiếm đóng” đảo Weichow của Trung Quốc(14). Vụ rắc rối ấy không có gì đáng nêu lên, ngoại trừ tướng Hà Ứng Khâm và đại bản doanh Chiến trường nổi cáu lên vì hành động không được phép ấy của người Pháp. Như câu chuyện về sau được làm sáng tỏ ra, trong một kế hoạch rút lui về lục địa Trung Quốc, người Nhật đã bỏ hòn đảo ấy. Khi biết tin người Nhật đã bỏ đảo Weichow, M.5 ra lệnh cho các tàu tuần tiễu của họ (Frézouls và Crayssac) chiếm lấy đảo này bằng một đơn vị nhỏ của Pháp. Sainteny kiêu hãnh gửi một bức điện cho tướng Chennault báo tin đã “phá hủy sân bay Nhật và chiếm đảo này nhân danh Đồng minh”. Mấy ngày sau, Sainteny bị Tổng chỉ huy Trung Quốc ra lệnh rút khỏi hòn đảo và phải chấm dứ cũng như chưa không được xúc tiến những hoạt động không được cho phép sau này để khỏi gây tổn hại lớn cho các kế hoạch của Chiến trường. Trong khi gỡ M.5 ra khỏi hành động hoang toàng đáng tức cười ở Weichow, Sainteny nói với trung úy Fauchier - Magnon rằng ông ta đang chuẩn bị một đội để “đánh chiếm” đảo Nightingale(15) với một đơn vị tình báo và một máy vô tuyến điện được AGAS cung cấp. Chính tướng Wedemeyer đã ra lệnh đình chỉ các kế hoạch ấy. Tôi giải thích những trò cường điệu trẻ con ấy là một cách mà Sainteny dùng để thu hút sự chú ý, vì DGER và đặc biệt là M.5 của Sainteny vẫn chưa được thừa nhận ở cấp Chiến trường Trung Quốc. Hoàn toàn thất vọng vì hành động của người Pháp, tôi khuyên Heppner chấm dứt sự ủng hộ đáng ngờ của DGER. Toàn bộ vấn đề này đã được đặt ra ở một hội nghị tại Trùng Khánh ngày 29-6, giữa tướng Paul W. Caraway(16) đại tá Joseph Dickey(17), Heppner, Whitaker, Helliwell và tôi. Tôi phác lên những thỏa thuận OSS - DGER (M.5), những thành tựu và những thất bại của nó. Tôi thừa nhận rằng người Pháp có một tiềm năng to lớn cho những hoạt động bí mật, miễn là chúng ta chấp nhận DGER như một cơ quan bình đẳng trong Chiến trường và đưa họ vào các kế hoạch của Chiến trường. Tuy nhiên, tôi cảnh cáo rằng, nếu chúng ta đi theo con đường đó, thì vai trò của tướng Sabattier với tư cách Tổng chỉ huy sẽ bị phụ thuộc vào quyền của DGER và chúng ta sẽ bỏ mất quyền kiểm soát đối với những hành động của Pháp trong Chiến trường. Dickey và Whitaker đồng ý với sự đánh giá của tôi và nêu rõ rằng tướng Alessandri đã gặp tướng Gross ở Côn Minh ngày 22 và gặp tướng Ray T. Maddocks(18) ngày 27 để đi tới một thỏa thuận đúng về những điểm đó - thừa nhận vai trò của DGER và của Sabattier trong những hoạt động bí mật. Tướng Caraway nhận xét rằng: Mặc dù đó là một vấn đề riêng của người Pháp, chúng ta vẫn có trách nhiệm tinh thần và pháp lý đối với sự ủng hộ viên chỉ huy đã được bổ nhiệm một cách hợp thức là Sabattier. Heppner, trước kia là một nhân viên tham mưu chủ chốt của đại bản doanh của huân tước Mountbatten, đã vạch rõ rằng sự thừa nhận chính thức DGER, bao hàm SLFEO thuộc SEAC cũng sẽ được phép hoạt động ở Chiến trường Trung Quốc; đó là một vấn đề quyền hạn nghiêm trọng, đòi hỏi phải được sự đồng ý của Thống chế (Tưởng). Heppner cũng nêu lên rằng người Pháp không phải chỉ là nguồn duy nhất gây hỗn loạn ở chiến trường Trung Quốc. Ông ta có nhiều báo cáo cho biết Nhóm yểm trợ Quân đội Anh (BAAG), dưới quyền chỉ huy của đại tá Ride đang hoạt động ở khu vực Hongkong - Quảng Châu, trang bị vũ khí cho du kích Trung Quốc nhằm sẵn sàng kiểm soát Hongkong trong trường hợp Đồng minh đổ bộ. Những hoạt động của cả Anh và Pháp ở chiến trường Trung Quốc không được Thống chế đồng ý và do đó sẽ có những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với hoạt động của OSS. Heppner đã báo cho tướng Wedemeyer biết về những hoạt động của BAAG và ông ta đã lưu ý trung tướng E.C. Hayes, Tổng chỉ huy quân đội Anh ở Trung Quốc về điều này. Hayes hứa sẽ điều tra vấn đề này và sẽ cung cấp một báo cáo đầy đủ. (Bảy tuần lễ sau đó, khi chiến tranh kết thúc, tướng Hayes vẫn chưa làm xong công việc này). Chúng tôi kết luận rằng cần phải có một lập trường kiên quyết. Tuy nhiên, sự có mặt của Pháp ở Trung Quốc không thể bị bỏ qua và cần được sử dụng, mặc dù có những vấn đề khó khăn về chính trị và hậu cần. Tướng Caraway báo cho Wedemeyer rằng ông ra đã khuyến cáo với tướng Marshall “ngay khi những lực lượng (của Pháp) ấy đã lại sung sức về thể chất, họ sẽ được sử dụng như những người bảo vệ sân bay, những đội tuần tiễu biên giới, những nhân viên tình báo, và những đội SCS(?)”. Như vậy, chúng ta đã cam kết thực hiện một cố gắng phối hợp để sử dụng họ vào những mục đích nào đó. Cho đến nay, họ đã được sử dụng ở tất cả các khu vực đã nói trên, trừ tình báo ra. Có lẽ, nếu chúng ta nêu ra một hay hai điểm, thì M.5 có thể dễ chấp nhận một phần sự giám sát. Tướng Caraway sẽ báo cáo với tướng Maddocks và tôi phải chuẩn bị cho Heppner một giác thư về những sự vi phạm của Pháp đối với thỏa thuận DGER - OSS. Ngoài những lý do đó, một thỏa thuận cụ thể mới với người Pháp đã được vạch ra ngày 3-7, giữa tướng Weart và tướng Alessandri. Mọi người có mặt đã biểu lộ sự thông hiểu và hài lòng với những điểm chủ yếu sau đây: - Hàng tuần phải báo cáo cho tướng Wedemeyer về mọi hoạt động của DGER ở Chiến trường Trung Quốc; - M.5 phải bảo đảm kiếm được những tin tức tình báo do DGER đóng ở Ấn Độ và chuyển giao cho tướng Wedemeyer; - DGER phải nhận những chỉ thị trực tiếp từ Paris hay từ Bộ thuộc địa, không nhất thiết qua Sabattier; - DGER được thừa nhận là cơ quan tình báo Pháp về Đông Dương, cần biết về tất cả các hoạt động bí mật có liên quan với nhân viên người Pháp được tiến hành như thế nào, ở đâu và tại sao; - Sabattier không được bác bỏ bất cứ sự phản đối nào do DGER nêu lên về những hoạt động tình báo đặc biệt; - Trong việc vạch kế hoạch và chỉ huy những hoạt động tình báo về Đông Dương, OSS phải hành động thông qua những đường liên lạc chỉ huy bình thường của Pháp, đặc biệt là đối với những hoạt động tình báo thông qua DGER và những hoạt động quân sự thông qua Sabattier. Chúng ta đã nêu lên một hay hai điểm thừa nhận chính thức DGER như một cánh tay của Chính phủ Paris và đồng ý một mức độ tự trị nào đó của nó, nhưng chúng ta không từ bỏ sự kiểm soát hay chịu để cho Sabattier có quyền cao nhất. Khi chúng tôi hỏi Sainteny ông ta nghĩ như thế nào về thỏa thuận mới này, ông ta nhận xét một cách thô lỗ: “Mới gì?”. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #33 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 09:53:39 AM » MỘT TRƯỜNG HỢP CHƠI TRÒ ẢO THUẬT Trong những tuần lễ thỏa thuận và không thỏa thuận của chúng tôi, tôi đã yêu cầu M.5 khẩn cấp lấy bản dự án mang tên COMORE. Đó là một phần của việc chuẩn bị cho Carbonado để tăng thêm những thông tin của chúng tôi về việc người Nhật đã biết đến mức nào về các kế hoạch của Mỹ - Trung Quốc, những lực lượng nào được tập trung ở khu vực Hà Nội - Hải Phòng và ở hành lang Lạng Sơn - Lào Cai, những sân bay và hải cảng nào có những hoạt động bất thường, và đang có những di chuyển quân đội như thế nào. Tôi giao nhiệm vụ cho một người Jedburgh cũ, đại úy Lucien E. Conein(20), một chuyên gia về các chiến thuật phá hoại và du kích, nói thạo tiếng Pháp, đáng tin cậy, và không hoàn toàn đồng ý với chính sách của Pháp đối với Đông Dương. Đội này có khoảng 100 binh sĩ Pháp - Việt và 5 sĩ quan và binh sĩ Mỹ. COMORE thực hiện được những cuộc đột kích song song vào các cứ điểm Nhật trong những hoạt động bắt đầu đêm 28 rạng 29 tháng 7 và tiếp tục cho đến 8-8, chỉ có một trường hợp thương vong. Mặc dù người Nhật chống cự mạnh mẽ, nhân viên COMORE đã đốt cháy và phá hoại các kho xăng và đạn dược, một ban chỉ huy tiểu đoàn và một số doanh trại. Họ bắt được hai tù binh Nhật (một là sĩ quan) về để hỏi cung và những tài liệu có thể mang theo được. Thành công của COMORE là một thước đo của sự yên tâm về triển vọng cộng tác với người Pháp, nếu không có những khó khăn mới đồng thời tăng lên trong cùng thời kỳ đó. Tôi hết sức ngạc nhiên khi Sainteny đang trên đường về Paris thì tôi nhận được của M.5 ngày 20-7 một kế hoạch hoàn toàn mới mang mật danh MAROC, một cuộc hoạt động Hải quân nhằm thu lượm tình báo từ lục địa Trung Quốc và những vùng ven biển. Nó đòi hỏi một số đơn vị phụ thuộc, bao gồm một số binh sĩ không hạn định của Pháp - đâu vào khoảng mấy trăm đến mấy nghìn. Theo người Pháp, MAROC được phục vụ bởi một trạm vô tuyến điện của OSS, mà những đơn vị phụ thuộc ấy sẽ gửi những tin tức của họ đến trạm theo mật mã OSS. “Những đường liên lạc hiện có của Pháp chỉ được dùng cho việc buôn bán công khai”. Kế hoạch có vẻ nghe xuôi tai khi mới đọc qua, ngoại trừ việc OSS cấp vũ khí và trang bị cho binh sĩ Pháp. Tuy nhiên, một sự xem xét kỹ lưỡng kế hoạch MAROC lại để lộ ra rằng vị trí chỉ huy của nó được đặt ở lãnh sự Pháp ở Pakhoi, chỉ do người Pháp đảm nhiệm. Thủy thủ của hai chiếc thuyền (Bluebird và Vieux Charles) được đặt dưới sự chỉ huy của các sĩ quan Pháp. Ngoài ra, hai đơn vị phụ (Oise và Bạch Long Vĩ) cũng nằm dưới sự kiểm soát của Pháp, có liên lạc với người Trung Quốc và AGAS. Nhân viên OSS sẽ chỉ tham gia với sự đồng ý hoàn toàn của chỉ huy Pháp. Trung úy Jordan, lúc đó ở Pakhoi, được cắt cử vào kế hoạch MAROC để nhận những đồ tiếp tế của Mỹ thả dù xuống, do người Pháp phân phối. Tôi tức điên lên. Rõ ràng OSS chỉ được trông đợi để cấp tiền và vũ khí cho những hoạt động không hề chịu một yếu tố kiểm soát nào của Mỹ. Về điểm này, tôi đã thật sự mệt mỏi với sự “cộng tác” và những âm mưu của M.5, và ngay lập tức tôi yêu cầu M.5 làm sáng tỏ vấn đề chỉ huy và kiểm soát. Các bản sao bức thư của tôi gửi Heppner và Helliwell có ghi chú: “Nếu có những thay đổi ấy, thì sự kiểm soát của OSS đối với những hoạt động ở Đông Dương thuộc Pháp sẽ còn lại con số không, và chúng tôi sẽ chủ yếu thành một cơ quan tiếp tế cho những hoạt động độc lập của DGER”. Sự kết thúc đột ngột của cuộc chiến tranh đã may mắn cứu tôi khỏi một trong những điều bực mình và tranh chấp mà kế hoạch MAROC rõ ràng đã đẻ ra. Binh sĩ Pháp tại chỗ đã bị bỏ mặc trong suốt thời kỳ bất đồng và thương lượng kéo dài ấy. Ở K’aiyuan, Posech, Trình Tây và ở những khu vực khác có người Pháp tập trung, họ được cung cấp rất tồi tệ về áo quần, giày, thuốc men và những khoản khác. Vấn đề huấn luyện và sử dụng những binh sĩ ấy vào các hoạt động của OSS còn tùy thuộc vào việc họ được trang bị bởi Chiến trường như thế nào. Cứ mỗi lần chúng ta trang bị cho một đơn vị để làm nhiệm vụ đặc biệt, thì một phần lớn nhân viên của đơn vị ấy lại bị chuyển ra khỏi sự kiểm soát của OSS và một nhóm binh sĩ mới không ai thừa nhận lại thay thế họ. Rõ ràng là sự khôn ngoan tầm thường ấy đã làm cho nhiều người hơn có áo quần mặc, nhưng chương trình huấn luyện tất nhiên phải bị tiến triển chậm lại. Một khía cạnh nghiêm trọng hơn nhiều của cái lối láu cá ấy, không đơn giản lắm, là khi chúng tôi biết được rằng những đồ tiếp tế như vũ khí và đài vô tuyến điện không phải bao giờ cũng được giữ lại ở những đơn vị ấy mà lại bị cất giấu đi cho những hoạt động sau này của Pháp để chiếm lại Đông Dương. Tôi đưa cho Heppner một đanh sách những đồ tiếp tế, tất cả đều được các sĩ quan Pháp nhận một cách hợp lệ, mà không còn thấy ở những đơn vị Pháp được chỉ định làm nhiệm vụ của OSS nữa, và Heppner đã báo cáo vấn đề lên tướng Olmsted. Một lần nữa, Alessandri gặp các tướng Maddocks, Caraway và Olmsted. Tấn công ngay lập tức, Alessandri hỏi chúng tôi đã nhận được chỉ thị từ Washington về việc cung cấp cho người Pháp những thứ hàng theo luật cho Vay - Mượn vũ khí hay không. Olmsted trả lời có, người Pháp có đủ tư cách để nhận sự viện trợ ấy, nhưng điều đó không có nghĩa là họ bắt đầu lấy được trang bị của Mỹ ngay, mà phải 6 tháng sau mới có thể cung cấp trang bị ấy và chở đến Trung Quốc được. Hơn nữa, Olmsted không thể đồng ý với tiền đề của Alessandri là mọi đồ cung cấp hiện có để trang bị cho quân đội Pháp không phải là để cho họ tách khỏi những hoạt động do Chiến trường chỉ huy: “Chúng tôi không có một sự bố trí riêng nào cho những lực lượng chiến đấu tách biệt của Pháp cả”. Alessandri tỏ vẻ ngạc nhiên vì thông tin ấy: ông ta đã được trả lời mọi điều mà ông ta phải hỏi. Olmsted kiên trì giải thích rằng chỉ có một số ít hàng ăn mặc đã có sẵn. Còn trang bị chiến đấu thì phải đợi gửi từ Mỹ sang và nói chung phải mất 6 tháng. Alessandri trông ỉu xìu. Sáu tháng là quá dài, ông ta nói. Caraway hỏi Alessandri đang chờ có bao nhiêu binh sĩ ở Chiến trường Trung Quốc; ông ta trả lời: “5.000!”. Olmsted cố làm nguôi bớt sự choáng váng của Alessandri, nhưng nói thẳng thắn rằng ông ta không có cách nào để đẩy nhanh hơn quá trình này cả. Lúc đó, tướng Alessandri đề nghị mua trang bị bất cứ ở đâu và chuyên chở bằng máy bay Pháp. Và ông ta lại được nhắc cho biết rằng các sân bay đều đang hoạt động hết năng lực rồi. Alessandri cố gắng một lần nựa: liệu ông có thể mua trang bị ở Ấn Độ và mua các xe chở hàng để chuyển qua con đường Miến Điện không? Ông ta được nói cho biết rằng xăng dầu cho xe chở hàng bị hạn chế rất ngặt nghèo và nhiều đoàn xe đang chờ đợi có đường để đi và trong trường hợp ông ta không hiểu được điều đó thì ông ta sẽ yêu cầu tới 2.500 chiếc xe tải để duy trì 5.000 binh sĩ bằng những nguồn tiếp tế lấy ở Ấn Độ. Hoàn toàn thất vọng, Alessandri nhắc lại rằng binh sĩ Pháp sẽ không thể tham gia các hoạt động nếu như trang bị cho họ đến quá muộn. Maddocks ghi nhận một cách lịch sự rằng ông ta đã hiểu được những gì viên tướng này cần phải làm. Mọi người đều thấy rõ ràng mối lo lắng của Alessandri không phải là để đánh bại Nhật, mà là để sẵn sàng giữ Đông Dương cho nước Pháp. Vấn đề tiếp tế của OSS thậm chí cũng không được nhắc đến tại cuộc gặp gỡ, nhưng điều muốn nói đã toát lên rất rõ - binh sĩ Pháp chỉ được cung cấp vũ khí và trang bị cho những hoạt động do OSS kiểm soát và do Chiến trường chỉ huy. Alessandri cố cứu vãn tình hình một cách tuyệt vọng bằng cách bày tỏ sự thất vọng của ông ta đối với việc giao cho binh sĩ Pháp giữ các sân bay và tham gia các hoạt động của OSS. Ông ta nói rằng, ông ta muốn thấy họ được giao cho một nhiệm vụ chiến đấu. Tướng Maddocks đã gợi ý một cách lịch sự là sẽ nêu vấn đề này với tướng Hà Ứng Khâm, và Hà sẽ có những đề nghị thích hợp của mình cho Thống chế. Tất cả chúng tôi đều biết rằng người Pháp đã được giao cho một nhiệm vụ chiến đấu ở vùng đông bắc Trung Quốc, nhưng họ đã từ chối, bề ngoài nói là do bộ đội của họ chưa thật khỏe mạnh để làm nhiệm vụ chiến đấu. Sự thật là người Pháp thích ở gần biên giới Đông Dương một cách tiện lợi hợn là chấp nhận nhiệm vụ chiến đấu ở những nơi khác ở Trung Quốc. Khoảng 10 ngày sau đó, trong khi Sainteny vẫn tiếp tục vắng mặt, Flichy gửi cho tôi những nhận xét và những sửa đổi riêng của ông ta đối với kế hoạch MAROC và dường như chúng tôi có thể đạt tới một bước tiến nào đó về vấn đề này. Nhưng vào lúc đó có cả một dòng tin tức lại từ Pakhoi đến bất ngờ và chặn đứng bước tiến ấy. Người Pháp giải thích không đâu vào đâu rằng khi chúng tôi bàn bạc về kế hoạch MAROC thì việc phải có người và trang bị để những công việc trùng lên nhau trong cùng một khu vực là vô nghĩa. Sự giải thích ấy hoàn toàn không thuyết phục. MAROC vẫn chưa tồn tại và OSS hoàn toàn chưa nhận được gì hết từ Pakhoi gửi đến. Và thế là sự “cộng tác” OSS - M.5, vốn đã chưa có, lại trở thành phá sản. Chúng tôi may mắn có được những nguồn tình báo khác. Ba hệ thống tình báo lớn dã tung được người vào phạm vi hoạt động gồm những người Pháp và Việt đặt dưới sự kiểm soát của các sĩ quan chính quy Pháp trung thành với Sabattier. Chúng tôi còn có 5 nhóm có những mục tiêu riêng biệt, hoàn toàn độc lập với người Pháp. Tất cả có chừng 300 đội tình báo và đơn vị du kích, với một mạng lưới liên lạc rộng lớn hoạt động không dựa vào DGER chút nào. Chúng tôi cũng nhận được một luồng tin tức tình báo đều đặn và đáng tin cậy từ bộ máy Hồ Chí Minh và từ những cá nhân ở những địa phương khác nhau không gắn với bất cứ một mạng lưới tình báo nào. Với sự kết thúc chiến tranh đột ngột chỉ trước có mấy ngày, nhiệm vụ bảo đảm tình báo về Đông Dương của tôi để cung cấp cho những hoạt động quân sự của chúng ta cũng đình chỉ đột ngột, nhưng những cuộc xung đột với Nhật vẫn chưa kết thúc hẳn vì những hoạt động của Sainteny: chiến dịch của ông ta chỉ mới bắt đầu. ________________________________________ (1) trước đó - tiếng Pháp (2) nguyên trạng - tiếng Pháp (3) chỉ huy phó nhóm M.5 (4) Jean Roger Sainteny (1907-1978), chỉ huy nhóm M.5 ở Côn Minh, con rể cựu Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut (1872-1962); đến Hà Nội cùng với toán Mercy OSS ngày 28-8-1945, được cử làm Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ (1945-1947), là người đại diện nước Pháp ký bản Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 với Hồ Chí Minh; sau làm tổng đại diện Cộng hoà Pháp tại VNDCCH (1954-1957) (5) hay Bắc Hải, một cảng thuộc Quảng Đông cách Móng Cái 60 dặm (6) trưởng toán OSS/SO, mật danh là “Chow”, đóng ở Posech, bắc Trình Tây 60 dặm (7) Cảnh giác - tiếng Pháp (Cool thuộc Quảng Đông, bắc Pakhoi 120 dặm (9) thuộc Hải quân Mỹ, chịu trách nhiệm phối hợp với AGAS để trinh sát bờ biển cho OSS (10) Nhóm gồm 8 sĩ quan, 40 lính lê dương người Âu và 60 lính người Việt (11) Phó Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa (12) Thủ trưởng DGER ở Paris (13) Chỉ huy trưởng SLFEO/Cacutta (14) nằm trong vịnh Bắc Bộ, cách Pakhoi 25 dặm (15) nằm trong vịnh Bắc Bộ, các Móng Cái 100 dặm (16) Phó Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa (17) Trợ lý Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa, phụ trách Ban tình báo G-2 (18) Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa (19) sau là sĩ quan CIA tại miền Nam Việt Nam, đạo diễn cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm 1-11-1963 Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #34 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 09:55:08 AM » Chương 12 “Quyền ủy trị” được xác định lại Chỉ thị gián tiếp của Roosevelt về Đông Dương là nhằm để giải quyết vấn đề đó vào thời kỳ sau chiến tranh chứ không phải vào giũa năm 1945, khi Mỹ đang phải đương đầu với tình hình thay đổi nhanh chóng ở Đông Nam Á, hoặc đang ở trong một tình trạng cấp bách của chiến tranh. Những chỉ thị của Washington lúc đó chỉ gây thêm phức tạp và rối rắm cho các quyết định cấp bách về chỉ huy và làm gây cấn thêm tình trạng tranh chấp giữa Pháp, Trung Quốc và Mỹ. Những điều bí mật chung quanh Hội nghị Yalta tháng 2, cuộc đảo chính tháng 3 của Nhật và cái chết của Roosevelt trong tháng 4 ngay trước khi bước vào Hội nghị San Francisco đã làm cho vai trò của Pháp ở Viễn Đông nổi lên vượt quá tầm vóc của nó. Trong những kế hoạch tiến hành chiến tranh của chung ở Trung Quốc dự kiến cho đến năm 1946, chúng tôi không đặt vấn đề có sự tham gia của Pháp. Tuy vậy đến đầu năm 1945 thì Pháp đã được coi như là thành viên của Chiến trường Đồng minh. Do đó, Đại sứ Hurley, tướng Wedemeyer và đại tá Heppner đã phải thường xuyên chất vấn Bộ Ngoại giao, Bộ Chiến tranh và OSS ở Washington xem có phải là đã có một sự thay đổi chính sách hoặc ít ra thì cũng phải có một sự giải thích để làm sáng tỏ tình hình. DE GAULLE ÉP TRUMAN Trong vòng 2 tuần lễ sau khi Roosevelt chết, Chính phủ De Gaulle đã tiến hành một đợt tuyên truyền mạnh mẽ nhằm hướng dư luận thế giới sang phía có lợi cho việc giữ nguyên tình trạng của Pháp ở Đông Dương, thậm chí đến mức gợi ý một cách không có cơ sở thực tế rằng chính sách của Mỹ đối với Đông Dương đã thay đổi dưới chính quyền Truman. Đợt tuyên truyền đó đã được triển khai đồng thời ở Trung Quốc và ở nước Mỹ vào ngày 25-4 khi tướng (đại sứ) Pechkov đọc một bài diễn văn tại cuộc họp báo cùng lúc với việc mở đầu Hội nghị San Francisco. Ông nói: “Pháp đang chiến đấu ở Thái Bình Dương, nơi có chiến hạm Richelieu, một trong những thiết giáp hạm mạnh nhất thế giới đang tuần tiễu và ở Đông Dương, nơi những du kích Pháp đang quấy rối người Nhật và ngăn chặn không cho họ tiến đánh Vân Nam và Quảng Tây... Trong cuộc xung đột này, người Đông Dương tỏ ra trung thành với sự nghiệp của Pháp. “Quyền ủy trị” thực sự đã nằm trong trái tim chúng ta…”. Ở đây, có vấn đề được đặt ra là trên thực tế tàu Richeheu phải chăng có mặt ở Thái Bình Dương vào thời điểm đó? Tôi chỉ có thể trả lời rằng, theo Hải quân Mỹ cho biết thì trong khoảng từ 15 đến 30 tháng 4 năm 1945, tàu đó đang có mặt ở Ấn Độ Dương. Nhưng luận điệu nói là “du kích người Pháp” quấy rối Nhật ở Đông Dương và ngăn chặn những cuộc tấn công vào phía nam Trung Quốc đã được xác định rõ là cường điệu hoàn toàn. Người Việt Nam đã sớm nói lên tiếng nói của họ. Sau khi Roosevelt mất, người phát ngôn của Pháp ở San Francisco đã tìm được những vũ khí tuyên truyền tốt nhất của họ trong lời tuyên bố năm 1942 của Sumner Welles và trong chương trình về các dân tộc phụ thuộc của Mỹ đưa ra tại Hội nghị Dumbarton Oaks năm 1944. Ngày 2-5, G. Bidault, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp lúc đó tham dự Hội nghị San Francisco, đã tuyên bố một cách mạnh mẽ trước thế giói rằng quyết định về tương lai của Đông Dương phụ thuộc vào nước Pháp và chỉ có Pháp mà thôi. Ông ta đã đề cập đến quyền ủy trị như đã được xác định ở Dumbarton Oaks nhưng lại tuyên bố rằng nguyên tắc ấy chỉ áp dụng cho một số vùng nhất định nào đó chứ không phải cho Đông Dương. Sau này Bonnet phàn nàn với Ngoại trưởng Stettinius rằng “mặc dù Chính phủ Pháp hiểu lời tuyên bố của Welles năm 1942 có liên quan đến việc khôi phục lại chủ quyền của Pháp đối với đế quốc Pháp trước đây là có bao gồm Đông Dương ở trong đó, nhưng báo chí Mỹ vẫn cứ tiếp tục nói rằng một qui chế đặc biệt vẫn dược dành cho khu vực thuộc địa này”. Để tránh có sự bất đồng trong hội nghị, Stettinius khẳng định với Bidault rằng “bất cứ lời tuyên bố chính thức nào của Chính phủ nói đến chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, thậm chí… nhưng trong dư luận công chúng Mỹ cũng có những ý kiến nào đó lên án những chính sách và những điều thực hành của Pháp ở Đông Dương”. Sau bước thăm dò kết quả, De Gaulle tăng sức ép đối với chính quyền mới ở Washington từ một hướng khác. Trong một bức công hàm riêng, De Gaulle yêu cầu Tổng thống Truman tiếp Bộ trưởng Ngoại giao của ông ta để ông này thảo luận về sự tham gia của các lực lượng Pháp “bên cạnh các lực lượng Mỹ trong chiến dịch quyết định chống Nhật”. Bidault thăm Nhà Trắng ngày 17-5. Sau khi bày tỏ lòng cảm kích đối với đề nghị được tham gia chiến đấu của De Gaulle, Tổng thống nói với Bidault rằng chính sách của ông ta là để cho Tổng tư lệnh Chiến trường (Mac Arthur) quyết định nếu như có thể được và có cần thiết phải để các lực lượng Pháp tham gia vào các cuộc hành quân chống Nhật hay không. Bản thân Tổng thống cho rằng việc này còn tùy thuộc khá nhiều vào điều kiện chuyên chở vận tải, một vấn đề đòi hỏi phải có một lực lượng lớn gấp 3 lần trong chiến tranh ở Đại Tây Dương. Ngày hôm sau, Grew và Bidault cũng thống nhất với nhau sau khi xem xét kỹ lưỡng các vấn đề nói trên. Nhưng Bidault lại cho biết thêm là đã có hai sư đoàn của Pháp sẵn sàng để đưa ngay sang Viễn Đông. Có thể là nhằm cho Grew yên tâm về những động cơ của Pháp, Bidault nói ngay rằng các sư đoàn đó có thể được sử dụng ở bất cứ nơi nào tại Viễn Đông và Pháp không có ý định hạn chế sự đóng góp của họ chỉ ở trong việc chống lại kẻ thù ở Đông Dương. Grew đáp lại là sẽ nêu ngay vấn đề này với các nhà chức trách quân sự của chúng ta. Trong khi bộ máy ngoại giao khuấy động thì cơ quan đấu tranh chính trị của DGER ở Calcutta và Trùng Khánh cũng cho tung ra tin đồn là do “các nhân vật cao cấp” cho biết Washington đã bỏ rơi quan niệm về quyền ủy trị và cũng không còn phản đối việc Pháp quay trở lại Đông Dương nữa. ĐIỀU GÌ ĐÃ XẢY RA Ở YALTA Chiến trường Trung Quốc là “điểm chót tận cùng” trong Thế chiến. Vì vậy tin tức về những sự kiện ở Washington, London và Paris đến đó được, chủ yếu là do con đường trao đổi thư từ cá nhân giữa những người bạn quen thuộc với nhau. Những đường thông tin liên lạc chính thức giữa những người vạch ra quyết định ở các thủ đô thế giới với các nhà lãnh đạo ngoại giao và quân sự ở Trung Quốc thường bị hạn chế trong những chỉ thị từng phần nhằm ngăn ngừa việc giải thích theo ý cá nhân hoặc các hành động có tính chất độc lập. Những chính sách cơ bản giao cho tướng Wedemeyer và Đại sứ Hurley từ khi họ mới được chỉ định sang Trung Quốc đã thay đổi liên tục ở Washington, nhưng những thay đổi đó lại chỉ được nêu lên một cách rõ ràng sau khi sự việc thực tế có liên quan đến sự thay đổi đó đã xuất hiện. Cũng may mà tình trạng đó không phải chỉ riêng những người Mỹ ở Trung Quốc mới có; trong những chừng mực nhất định, nó còn tồn tại ở người Anh, người Pháp. Và ngay cả trong các chính sách của người Trung Quốc cũng có tình trạng tương tự. Để đối phó với những yêu sách quá mức của người Pháp và đấu tranh với các tin đồn đại về việc Mỹ thay đổi chính sách, chúng tôi phải dựa vào sự giúp đỡ và hướng dẫn của Đại sứ quán Mỹ. Đại sứ Hurley cũng khá thông thạo về vấn đề quyền ủy trị của Mỹ đưa ra ở Hội nghị Dumbarton Oaks năm 1944 và cũng biết rằng vấn đề đó đang được “ba nước lớn” thảo luận tại Yalta. Tuy vậy, ông cũng không được thông báo là vấn đề đó đã được phê chuẩn hay đã bị sửa đổi. Tình huống nào cũng đều tác động đến mối giao dịch của ông ta cũng như của giới quân sự đối với người Pháp ở Trung Quốc. Vì vậy, Hurley muốn biết quyết định cuối cùng của Washington và ngày 10-5, ông đã điện về Mỹ, nhắc đến lời tuyên bố báo chí của Pechkov, như sau: “Vì một thực tế là qui chế tương lai của khu vực đó chắc chắn sẽ làm cho người ta ở đây quan tâm và thảo luận ngày càng nhiều nên thật là bổ ích cho tôi nếu như Bộ ngoại giao bí mật thông báo riêng cho tôi biết nội dung các quyết định ở Yalta (hoặc bất cứ một quyết định nào khác về chính sách) xung quanh vấn đề ấy. (Tôi biết rõ chính sách của Roosevelt đối với Đông Dương nhưng muốn xác định xem chính sách đó có gì thay đổi không)”. Tám ngày sau, Hurley nhận được một trả lời ngắn gọn: “Không có quyết định nào của Yalta (SFAMB) liên quan đến Đông Dương mà Bộ Ngoại giao được biết (URTEL 750, ngày 10-5). Các tài liệu về chính sách quân sự và chính trị hiện đang nghiên cứu sẽ được chuyển đến để làm thông báo một khi đã được phép. Grew (điện). Câu trả lời kín đáo của Grew làm tăng thêm sự lẫn lộn. Nếu không có quyết định nào đạt được ở Yalta, tại sao Bộ Ngoại giao lại không muốn tiết lộ ra. Thư tín trao đổi giữa các nhân viên tham mưu dự họp ở Yalta với Trùng Khánh nói rằng vấn đề Đông Dương đã được thảo luận chí ít là giữa Roosevelt và tướng Marshall, và có thể dưới một hình thức nào đó với cả Churchill và Xtalin. Vài ngày sau, Hurley gửi một bức điện cá nhân dài đến Tổng thống Truman, đề cập đến quyền lợi và các cuộc vận động của Anh ở châu Á. Với một ngôn ngũ rõ ràng, Hurley bày tỏ mối lo ngại về việc Mountbatten đã sử dụng viện trợ Vay - Mượn và các nguồn tài nguyên khác của Mỹ để xâm chiếm Đông Dương, nhằm làm thất bại cái mà Hurley cho là chính sách của Mỹ và để thiết lập lại chủ nghĩa đế quốc Pháp. Ông ta muốn tổng thống hiểu rằng hiện nay ở châu Á có dư luận ngày càng tăng, cho là ở đây Mỹ đang nghiêng về xu hướng đế quốc hơn là dân chủ. Theo Hurley thì đó là một điều phi lý và cần uốn nắn. Từ vị trí xa xôi cách biệt của mình, ông có ấn tượng rằng đoàn đại biểu Mỹ ở San Francisco hình như ủng hộ thuyết đặt các thuộc địa và các dân tộc phụ thuộc dưới sự kiểm soát đế quốc với hình thức các nước đế quốc riêng rẽ hoặc liên kết với nhau chứ không phải đặt dưới sự ủy trị của Liên Hợp Quốc. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #35 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 09:56:09 AM » TRUMAN NÓI: KHÔNG THAY ĐỔI Bức điện của Hurley được Nhà Trắng chuyển cho Bộ Ngoại giao ngày 29-5 để phúc đáp lại một cách thích đáng vào 8 ngày sau, đồng thời cũng nêu hai vấn đề là sự kiểm soát của Pháp ở Đông Dương và nguyện vọng chiếm lại Hongkong của Anh. “…Tổng thống yêu cầu tôi nói rằng không có thay đổi cơ bản nào trong chính sách... Và lập trường hiện nay là như sau: Tổng thống cho rằng ông thông hiểu lời phát biểu của Bộ trưởng Ngoại giao ngày 3-4-1945, trong đó được sự đồng ý của Tổng thống Roosevelt, Stettinius đã tuyên bố rằng kết quả các cuộc thảo luận ở Yalta cho thấy, cơ cấu về quyền ủy trị phải được xác định thế nào để cho phép đặt dưới nó những lãnh thổ nhất định chiếm được từ kẻ thù trong cuộc chiến tranh này (như đã được thông qua vào một ngày sau đó) và cả những lãnh thổ khác nếu họ tự nguyện chấp nhận sự ủy trị. Tình hình vừa được công bố liền được khẳng định bằng những cuộc trao đổi ý kiến hiện nay đang diễn ra ở San Francisco bàn về các quyền ủy trị. Suốt trong các cuộc thảo luận này, đoàn đại biểu Mỹ nhấn mạnh sự cần thiết phải đưa ra cho tất cả các dân tộc phụ thuộc một hình thức tiến bộ về Chính phủ tự quản để họ đi đến một kiểu liên bang nào đó phù hợp với khả năng và hoàn cảnh của các dân tộc có thể loại trừ việc thiết lập quyền ủy trị ở Đông Dương, trừ khi Chính phủ Pháp đồng ý. Mà điều đó thì hình như không thể được. Tuy nhiên đó chỉ là ý định của Tổng thống vào những thời điểm thích hợp nhằm đòi hỏi Chính phủ Pháp có những biểu hiện tích cực tỏ rõ ý định muốn thiết lập các quyền tự do công dân và nới rộng các biện pháp về Chính phủ tự quản ở Đông Dương trước khi hoàn thiện hơn nữa tuyên ngôn về chính sách trong lĩnh vực này”. Sau đó, bức điện kể lại cuộc nói chuyện của Tổng thống với Bidault và vạch ra cho Hội đồng Tham mưu trưởng các tiêu chuẩn về khả năng sử dụng các lực lượng Pháp: “a/ Trong khi tránh để không đi tới phải làm một điều gì không thiết thực, hay một cam kết dài hạn về khối lượng và tính chất của viện trợ mà Mỹ có thể cung cấp cho lực lượng kháng chiến của Pháp ở Đông Dương thì Chính phủ (Mỹ) vẫn tiếp tục giúp đỡ trong chừng mực không ảnh hưởng đến những yêu cầu của các chiến dịch đã được hoạch định. Vì phải đáp ứng nhu cầu tập trung mọi tiềm lực của chúng ta ở Thái Bình Dương cho các chiến dịch đã được vạch ra, do đó trong lúc này không dự liệu những chiến dịch qui mô lớn nhằm trực tiếp giải phóng Đông Dương. Quân đội Mỹ sẽ không được sử dụng ở Đông Dương ngoài các chiến dịch quân sự của Mỹ chống lại Nhật. b/ Lời đề nghị giúp đỡ được đánh giá về mặt quân sự như là một hành động nhằm mục đích đánh bại Nhật Bản cũng giống như trường hợp của Anh và Hà Lan. Vì vậy không có gì ngăn trở việc cung cấp viện trợ cho các lực lượg quân đội và Hải quân Pháp theo như quan niệm đã được nêu ở trên, nhưng phải tính đến việc đừng để gây ra cho Chiến trường, nơi phải cung cấp sự viện trợ đó, một sự phân tán tiềm lực quân sự, kinh tế mà đáng lẽ Hội đồng tham mưu trưởng phải tập trung cho các nơi khác”. Vào quãng giữa thánh 6, Heppner đã có dịp được đọc toàn văn bức điện nói trên và được phép phổ biến một số đoạn cần thiết cho một số ít nhân viên trong cơ quan, trong đó có tôi. Cả Heppner và tôi đều cho là chính quyền Truman đã đầu hàng trước yêu sách của De Gaulle, chấp nhận chỉ chịu để cho Đông Dương thuộc quyền ủy trị nếu có sự đồng ý của Pháp. Nhưng đối với giới quân sự, thì Đông Dương có được đặt thuộc quyền ủy trị hay không lại là một việc không quan trọng. Điều đáng quan tâm là vấn đề cung cấp cho Pháp những sự hỗ trợ và tiếp tế hậu cần, và nhằm vào mục đích gì. Chúng tôi hy vọng sẽ có những lời tuyên bố dứt khoát hơn, một lời tuyên bố có thể làm tiêu tan những mập mờ mà chúng tôi đang phải cố gắng khắc phục. Điều cơ bản mà chúng tôi cần là những tiêu chuẩn chính trị cho phép OSS có thể cộng tác với người Pháp, Anh và Việt Nam; các giới hạn địa lý của khu vực hoạt động và việc mở rộng các hoạt động phi quân sự của OSS. Heppner đã triệu tập một hội nghị để hy vọng làm sáng tỏ những điểm này. Hội nghị gồm các đại diện Đại sứ quán, các nhà làm kế hoạch của Chiến trường và các trưởng ngành của OSS. BỐN CƯỜNG CUỐC TRỞ THÀNH NĂM Theo báo cáo viên Đại sứ quán, mục tiêu chủ yếu của Roosevelt là nhằm bảo đảm và duy trì hòa bình bằng một cơ chế tổ chức quốc tế (Liên Hợp Quốc). Ông đã phác họa ra cơ chế lãnh đạo là một nền chuyên chính tay tư, gồm những cường quốc tham gia chủ yếu vào cuộc chiến tranh: Mỹ, Anh, Liên Xô và Trung Quốc. Nhưng sau các hội nghị Dumbarton Oaks và Yalta, rõ ràng là Anh cần có sự cộng tác của Pháp ở châu Âu và Roosevelt đã chấp nhận khái niệm “năm cường quốc”. Cũng có thể là cuộc viếng thăm Mỹ vào tháng 7-1944 của De Gaulle đã ảnh hưởng đến Roosevelt. De Gaulle đã hứa là Pháp sẽ để cho Đông Dương được hưởng một mức độ tự trị sau chiến tranh. Roosevelt không nài ép ông về vấn đề ủy trị. Roosevelt cũng rất biết sự thù ghét của Churchill đối với việc xáo trộn cơ cấu thuộc địa ở Đông Nam Á, mặc dù Xtalin và Tưởng đều tán thành thủ tiêu nó. (Quentin Roosevelt đã tiết lộ cho tôi biết là vào giữa tháng 3-1945, Tổng thống có thể đã có một lập trường ôn hòa hơn nhưng không phải là đã hoàn toàn từ bỏ lý tưởng về quyền ủy trị. Theo “Q” thì Roosevelt đã nói rằng, nếu nước Pháp cam kết nhận cho mình vai trò của người được ủy nhiệm thì ông sẽ không phản đối việc Pháp giữ lại các thuộc địa của mình với ý nghĩa là một sự độc lập hoàn toàn cho các thuộc địa đó sẽ được đảm bảo thực hiện). Theo báo cáo viên Đại sứ quán, lần đầu Đông Dương đã trở thành một vấn đề nói trong các công hàm của Tổng thống vào tháng 11-1944. Khi Wedemeyer báo cáo cho Tổng thống biết rằng các thế lực Anh, Hà Lan và Pháp đang hoạt động mạnh mẽ nhằm khôi phục lại địa vị chính trị và kinh tế trước chiến tranh của họ ở Đông Nam Á; Wedemeyer nói về phái đoàn quân sự của Blaizot ở Ấn Độ đang chuẩn bị xâm nhập vào Đông Dương và yêu cầu phải có chỉ thị chính trị vì theo Wedemeyer thì Đông Dương thuộc Chiến trường Trung Quốc. Ngày 16-11-1944, Tổng thống đã chỉ thị cho Hurley thông báo cho Wedemeyer biết rằng chính sách của Mỹ đối với Đông Dương không thể được xác định trước khi có sự tham khảo với các đồng minh trong hội nghị Tham mưu hỗn hợp sắp tới và Tổng thống yêu cầu Hurley cung cấp đầy đủ cho ông các tin tức về hoạt động của Anh, Pháp và Hà Lan ở Đông Nam Á. Nhưng Hurley đã chẳng có gì để báo cáo thêm với Tổng thống và Tham mưu Trưởng Liên quân cũng chẳng rõ đồng minh của chúng ta mưu toan làm gì, ở đâu. Khi cả Hurley và Wedemeyer đều ở Washington vào tháng 3-1945, Tổng thống đã nói với Wedemeyer rằng ông ta cần phải sẵn sàng để ngăn chặn các hoạt động chính trị của Anh và Pháp trong khu vực này, và chỉ được giúp đỡ họ những gì mà các chiến dịch trực tiếp chống Nhật đòi hỏi. Người ta đã kể lại chuyện Churchill đã điện cho Tổng thống rằng ông biết đang có những khó khăn nhất thời giữa Wedemeyer và Mountbatten chung quanh các hoạt động ở Đông Dương, và đề nghị có chỉ thị cho Hội đồng Tham mưu trưởng Hỗn hợp Anh - Mỹ (CCS) tổ chức một cuộc trao đổi sâu sắc và thẳng thắn về các ý đồ, kế hoạch và tình báo giữa hai tư lệnh chiến trường. Ngày 22-3, Roosevelt đã phúc đáp là ông và Churchill nên thống nhất với nhau để quyền cho Wedemeyer được phối hợp mọi chiến dịch của Anh, Mỹ và Trung Quốc. Churchill đã không trả lời cho đến ngày 14-4, khi Wedemeyer trên đường từ Washington về Trung Quốc và đã dừng lại để gặp Mountbatten ở Bộ Tổng hành dinh SEAC. Lúc đó, giữa hai vị tư lệnh đã đạt được một sự “thống nhất hiểu lầm”. Wedemeyer ra về và cứ tưởng rằng SEAC sẽ không cho tiến hành các chiến dịch ở Đông Dương trước khi chưa được ông ta thông qua với tư cách là Tổng tham mưu trưởng của Tưởng. Mountbatten lại hiểu rằng tất cả những gì mà ông phải làm theo như sự thỏa thuận đã đạt được chỉ là thông báo cho Wedemeyer biết về những chiến dịch được dự kiến ở Đông Dương. Nội dung chủ yếu trong công hàm của Churchill gửi cho Tổng thống sau đó đã phản ánh cách nhìn của Mountbatten. Ngày 14-4, Tổng thống Truman phúc đáp lại, đã chẳng có gì thống nhất với Churchill, mà lại nêu lên một cách đầy đủ hơn quan điểm của Wedemeyer về vấn đề thống nhất ý kiến. Vào giữa tháng 5, sự bất đồng giữa hai vị tư lệnh trở thành công khai. Mountbatten thông báo cho Wedemeyer biết ông dự định cho 26 chuyến bay của không quân vào Đông Dương để tiếp tế cho các toán “du kích người Pháp”. Cho rằng Chính phủ Pháp đã đặt tất cả các đơn vị nói trên dưới quyền chỉ huy và kiểm soát của Tưởng, Wedemeyer đòi Mountbatten phải bố trí để đảm bảo là tất cả đồ thiết bị tiếp tế phải được sử dụng vào việc chống Nhật. Mountbatten đã không đáp lại về vấn đề đó. Sau một đợt trao đổi tin tức chớp nhoáng mà Momlbatten cũng chẳng cho biết số lượng và địa điểm các đơn vị dự kiến được tiếp tế của Pháp, Mountbatten đã bất chợt ra lệnh cho phi cơ bay mà không chờ phải có sự đồng ý của Wedemeyer và Tưởng. Ngày 25-5, Wedemeyer đã kịch liệt phản đối Mountbatten và báo cáo với Hội đồng Tham mưu trưởng của chúng ta. Quan hệ chỉ huy giữa hai tư lệnh trở nên căng thẳng. Trở lại hội nghị, Heppner yêu cầu chúng tôi đánh giá tình hình dưới ánh sáng của chỉ thị hiện hành, nhưng phải hết sức thận trọng đừng để vi phạm chính sách đã được công khai tuyên bố của Mỹ. Helliwell mở đầu cuộc thảo luận bằng cách xem xét lại những mối quan hệ của chúng ta với Anh, Pháp và Việt Nam. Chúng tôi thống nhất ý kiến là OSS không cần quan tâm nhiều đến những hành động phối hợp Mỹ - Anh, ngoại trừ trường hợp có liên quan trực tiếp đến Đông Dương, và khi đó có thể phải chờ có quyết định của cấp trên. Đối với người Pháp và người Việt thì vấn đề lại hoàn toàn khác. Trong một công hàm dài của Bộ Ngoại giao, Grew đã tuyên bố rõ ràng là ở đây không có gì thay đổi về cơ bản trong chính sách.
Do đó chúng ta cần phải duy trì một cách hợp lý một nguyên trạng như trước đây. OSS chỉ việc không cần biết tới những cố gắng của Pháp để chiếm lại Đông Dương, và sẽ không làm gì để hỗ trợ hoặc ngăn chặn các cố gắng đó nhưng nếu có thể được thì sẽ dùng các đội quân Pháp vào các cuộc hành quân bí mật. Những điều đó bao giờ cũng phải là một bộ phận hoặc phải được gắn chặt với các kế hoạch phối hợp của Chiến trường.
Còn đối với người Việt, thì có nhiều sự hạn chế không cho chúng ta đóng góp vào việc thực hiện nguyện vọng chính trị của họ. Một người trong hội nghị đã đặt câu hỏi xem phải làm thế nào khi đã rõ ra là tổ chức của người Việt Nam thực chất là chính trị, chống Pháp và chiến đấu giành độc lập dân tộc. Có ý kiến nêu lên là việc sử dụng các cá nhân người Việt cho các hoạt động bí mật do Chiến trường phối hợp không được coi như là một sự ủng hộ về chính trị hay quân sự đối với họ. Điều này đã gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi.
Cuối cùng, một trong những người thảo kế hoạch của Chiến trường đã kết luận là trong chừng mực mà người Việt có đóng góp vào nỗ lực của Đồng minh chống lại Nhật thì chúng ta cũng không cung cấp cho họ một số khí giới nhiều hơn số họ cần để tự vệ cho cá nhân mình. Như vậy, không ai có thể phê phán chúng ta là đã hoạt động một cách thiên vị. Điểm phải bàn tiếp theo là vấn đề SEAC thâm nhập vào Đông Dương. Đã được khẳng định là Đông Dương tức là Việt Nam, Lào và Kampuchia là một bộ phận của Chiến trường Trung Quốc và thuộc quyền chỉ huy kiểm soát của Tưởng. Một người nào đó đã nêu lên tính chất hợp pháp của các khu vực hoạt động vì ở đây thực ra chỉ có một thỏa thuận “lịch sử” giữa Mountbatten và Tưởng. Những thỏa thuận không chính thức như vậy rất không đáng tin cậy.
Heppner ủng hộ ý kiến này và đưa ra những công văn của OSS gửi SEAC nói về các hoạt động của lực lượng 123 ở Lào và nam Đông Dương để làm chứng cứ. Tất nhiên, đó là sự thiếu phối hợp trong các kế hoạch hoạt động bí mật giữa SEAC và Chiến trường Trung Quốc. Lúc đó, một người thảo kế hoạch của Chiến trường báo cáo là Hội đồng Tham mưu trưởng hỗn hợp có ý kiến như một phương án chia Đông Dương làm hai phần, một phần sẽ do SEAC có toàn quyền kiểm soát, bao gồm vùng phía nam của vĩ tuyến 15 hoặc 16 bắc. Theo ông, đây mới chỉ là đang giai đoạn chuẩn bị, và còn phải chờ có sự chấp nhận của OSS và sự đồng ý của Tưởng. Nhưng ông gợi ý OSS cần phải lưu ý đến vấn đề này để làm kế hoạch hoạt động tương lai ở Đông Dương. Heppner đã đồng ý. Đó cũng là lần đầu tiên tôi được nghe nói đến ý định cắt Việt Nam làm đôi và chúng tôi đã coi vấn đề đó là một vấn đề quy định pháp lý giữa các Chiến trường. Hội nghị đã rất bổ ích cho những ai trong chúng tôi đang chuẩn bị hoạt động.
Trong khi không có những chỉ thị hướng dẫn chi tiết của Washington, chúng tôi cũng đã có thể dựa vào một số điểm nói về cách giải quyết cấn đề ở cấp cao để vận dụng ở cấp chúng tôi. Lúc đó, chúng tôi chưa nhận thức được đề án của Washington cắt Đông Dương làm hai phần đã có một ý nghĩa xa đến thế, nhưng đó cũng là một nhân tố quyết định tình hình của năm đang đi tới. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #36 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 09:58:01 AM » Chương 13 Toán “Con Nai” đến Kim Lũng Sau những tháng kiên trì điều đình với người Pháp mà không mang lại kết quả gì, Hồ Chí Minh vẫn bền bỉ cung cấp cho OSS nhiều tin tức và sự giúp đỡ rất có giá trị đối với các kế hoạch hoạt động bí mật của chúng tôi.
Tôi vẫn giữ được liên lạc với ông qua các nhân viên ở Côn minh, Posech và Trình Tây.
Ông Hồ đã trở về bản doanh của mình ở Đông Dương, đi qua Pắc Bó, trạm trú chân đầu tiên, rồi đến Tân Trào, nơi ông đặt căn cứ chính trị và quân sự để lãnh đạo các hoạt động của Việt Minh cho đến khi ông chuyển về Hà Nội vào 4 tháng sau.
Vào giữa tháng 6, tôi phát triển thêm một số quan hệ với những người được lựa chọn trong cộng đồng Việt kiều ở Côn Minh. Tôi đã để nhiều thì giờ nghe tin tức và điều thích thú đối với tôi nhất là nghe kể về những thành tích của Việt Minh ở Đông Dương và về “tài khôn khéo” của Hồ Chí Minh, lãnh tụ của họ. Câu chuyện về việc tôi gặp gỡ với ông Hồ đã gây nhiều lời bàn tán chung quanh sự hợp tác của chúng tôi và vai trò của OSS đối với phong trào Việt Minh ở Côn Minh. Những dư luận này, một thứ tự đề cao “tâng bốc” mình bắt nguồn ngay từ các tổ chúc Việt Minh ở Côn Minh. Nhưng điều đó cũng chứng tỏ rằng việc đặt được những quan hệ công tác tốt đối với các hội viên của Việt Minh quả thực là điều bổ ích.
Chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp, nhưng thỉnh thoảng họ lại sa vào một vài “thổ ngữ địa phương”, làm cho tôi chẳng hiểu gì. Họ nói cả đến những nhân vật, chắc là quan trọng, nhưng rất xa lạ đối với tôi. Họ kể về những địa danh ở Đông Dương mà tôi chưa hề nghe thấy bao giờ, nhưng sau tôi cũng phải cố gắng xác định lại trên bản đồ. Tuy vậy tôi cũng đã biết được khá nhiều về phong trào độc lập của người Việt Nam và đã báo cáo một cách trung thực với Trùng Khánh và Washington về các sự kiện và những phán đoán của tôi.
Những báo cáo về thực chất và ý nghĩa của Việt Minh của tôi nói trên cũng không gây được ảnh hưởng gì đối với Bộ chỉ huy Chiến trường và Đại sứ quán. Whitaker đã chất vấn cả về nguồn tin cũng như những kết luận của tôi. Ông đã được nhân viên Đại sứ quán khuyên bảo là tôi đã phí phạm thời gian để cho một số ít cộng sản cuồng tín đánh lừa. Nhưng Whitaker, Helliwell và Heppner cũng không thể không biết đến giá trị những tin tình báo do Việt Minh cung cấp hoặc hiệu lực của nhiều nhân viên Việt Nam mà tôi đã sử dụng trong các chiến dịch phá hoại các mục tiêu Nhật Bản. Tất nhiên là người Trung Quốc ở Bộ tham mưu Chiến trường và các sĩ quan phái đoàn quân sự Pháp có quan hệ với Đại sứ quán Mỹ đã không thích sự cộng tác của người Việt Nam, nhưng chúng tôi ở OSS thì lại vui lòng tiếp tục sự hợp tác không chính thức của chúng tôi.
CHỈ CÓ MỘT SỰ LỰA CHỌN - VIỆT MINH
Đứng trước âm mưu của Pháp và Trung Quốc nhằm làm trở ngại cho các cố gắng của OSS và cũng biết rõ xu hướng của người Mỹ thích những gì thiết thực cụ thể, tôi đã chỉ thị cho một nhân viên tham mưu chuẩn bị cho tôi một hồ sơ đầy đủ về những thành tựu của Việt Minh đã đạt được tử cuộc đảo chính mồng 9-3. Hai ngày sau tôi đưa ra cho Heppner một lô tình hình khá quan trọng: 6 tỉnh ở phía Bắc Kỳ thuộc quyền kiểm soát về quân sự và hành chính của Việt Minh, một đội quân Giải phóng đã được thành lập gồm các đơn vị tự vệ và du kích, một tổ chức tuyên truyền có hiệu lực với một số phương tiện báo chí và điện đài hạn chế, một chương trình chính trị xã hội - quân sự và cái cực kỳ quan trọng này, đó là sự ủng hộ của quần chúng nhân dân Việt Nam, một yếu tố mà khốn khổ cho chúng ta là đã không biết đến trong những năm 1960, 1970.
Heppner thấy không có lợi trong việc thúc bách giải quyết vấn đề này với Đại sứ quán, ông liền thảo luận riêng với tướng Wedemeyer và Goss, đồng thời cho gửi bản tài liệu của tôi về Washington cho cá nhân tướng Donovan. Sau đó, suốt trong thời gian tôi làm nhiệm vụ ở Chiến trường Trung Hoa, các hoạt động và quan hệ của tôi với người Việt Nam đã không còn thành vấn đề nữa.
Trong tuần lễ đầu tháng 6, Hồ Chí Minh đã cho tôi biết tin ông đã chuẩn bị sẵn sàng hơn 1.000 quân du kích “được huấn luyện tốt” để phục vụ cho bất kỳ kế hoạch nào của tôi chống lại Nhật. Số du kích này đã được tập trung ở một địa điểm trong khu vực chợ Chu, Định Hóa, và tôi đã báo tin cho ông Hồ biết là tôi cám ơn ông về đề nghị nói trên và sẽ chú ý xem xét vấn đề này một cách nghiêm chỉnh. Đề nghị của ông Hồ đã đến đúng vào một lúc thuận lợi, khi mà đội quân Pháp dưới quyền của Courthelac (được thành lập để chuẩn bị cho trận đánh nhằm cắt đứt đường giao thông liên lạc Trấn Nam Quan - Hà Nội) đã từ chối không chịu tham gia huấn luyện và không nhận nhiệm vụ đã được đề ra. Helliwell, Wampler và tôi đã bắt buộc phải đi đến kết luận là người Pháp tham gia vào các hoạt động của OSS một cách rất chậm chạp và mang theo đầy những chủ trương phá rối. Wampler và tôi tán thành thay thế người Pháp bởi người Việt trong hoạt động phá hoại này nhưng Helliwell vẫn còn ngần ngại.
Kế hoạch đầu tiên cho nhiệm vụ này đã định để cho toán “Con Mèo” do Holland chỉ huy và toán “Con Nai” do Thomas chỉ huy, mỗi toán được tiếp nhận và huấn luyện 50 binh sĩ Pháp ở Trình Tây.
Helliwell lo ngại về những ảnh hưởng chính trị nếu chúng tôi sử dụng du kích Việt Nam để thay thế cho Pháp và ông cũng không muốn phải thu lại những vũ khí và trang bị đã sẵn sàng cung cấp cho đội quân Pháp để chuyển cho người Việt Nam.
Tôi đưa ra lý do là nếu chúng ta sử dụng đơn vị của ông Hồ ở chợ Chu thì sẽ loại bỏ được việc phải cho đi bộ hoặc chuyên chở người Pháp một quãng đường 25 dặm đến biên giới, cộng thêm 150 dặm nữa để đi tới Hà Nội. Với những đường mòn trong rừng hiện nay thì cự ly đó sẽ là gần 250 dặm, nghĩa là 10 đến 15 ngày đi đường. Ngoài ra còn phải kể đến những điều thuận lợi quan trọng khác trong việc sử dụng căn cứ và người của Việt Minh cho hoạt động này, như chúng ta sẽ được sự ủng hộ của dân chúng địa phương và có địa hình che chở cực kỳ thuận lợi.
Những lợi ích thực tiễn này đã có sức nặng và cuối cùng Helliwell đã đồng ý. Đội quân Pháp của Courthelac đã không bao giò được sử dụng nữa.
Trong lúc này, nhóm GBT cũng có một nhân vật chủ chốt của họ Frankie Tan, ở tại bản doanh của ông Hồ, làm nhiệm vụ thu thập tình báo về Nhật và đồng thời cùng với AGAS triển khai mạng lưới giúp giải thoát người của chúng ta. Frankie Tan cũng đang tìm kiếm những người Mỹ bị bắt đã chạy thoát trong khu tam giác Tuyên Quang - Thái Nguyên - Bắc Cạn, nơi trung tâm các hoạt động chống Nhật của ông Hồ. AGAS đã lập được một mạng luới vô tuyến trên suốt đất nước, từ Hà Nội đến Sài Gòn, thống nhất theo kế hoạch của OSS.
Chúng tôi đề nghị với Wichtrich của AGAS cùng nhau hợp tác với Hồ Chí Minh và tiến hành những hoạt động độc lập đối với người Pháp. Wichtrich đồng ý và chỉ định một trung úy trẻ tuổi tên là Phelan gánh vác nhiệm vụ của AGAS và làm liên lạc giữa OSS và Việt Minh cho đến khi toán “Con Mèo” và toán “Con Nai” của chúng tôi đến căn cứ của ông Hồ.
Sau khi Sainteny đã ra lệnh đình chỉ hoàn toàn cộng tác của người Pháp với OSS và sau khi điện đài ở Pakhoi im tiếng, tôi mới yêu cầu Trương Quốc Anh, một trong số các đầu mối tiếp xúc với Việt Minh của tôi, báo cho ông Hồ biết rằng tôi rất quan tâm đến đề nghị của ông và đồng ý là sẽ có một toán người Mỹ, do một sĩ quan cao cấp đứng đầu, sẽ được thả dù xuống vùng Tuyên Quang.
Trong khi nói chuyện, ông báo cho tôi biết là thiếu tá Sainteny đã kết giao với Nguyễn Tường Tam. Tôi thấy khó mà nghĩ được rằng Sainteny lại đi giao thiệp với một phần tử quốc gia cực hữu, và chí ít cũng là lãnh tụ của một phong trào cách mạng do Trung Quốc đỡ đầu. Nhưng 3 tuần sau, sự việc nói trên đã được một nhân viên Pháp Việt trong toán “Con Nai” xác định là đúng. Ngày 30-6, tôi nhận được trả lời của ông Hồ đồng ý tiếp nhận toán của chúng tôi và yêu cầu được biết khi nào thì người Mỹ có thể đến. Trong thòi gian đó Phelan đã được thả xuống khu vực Tuyên Quang và đã gặp được Frankie Tan.
Trong khi nói chuyện, ông báo cho tôi biết là thiếu tá Sainteny đã kết giao với Nguyễn Tường Tam. Tôi thấy khó mà nghĩ được rằng Sainteny lại đi giao thiệp với một phần tử quốc gia cực hữu, và chí ít cũng là lãnh tụ của một phong trào cách mạng do Trung Quốc đỡ đầu. Nhưng 3 tuần sau, sự việc nói trên đã được một nhân viên Pháp Việt trong toán “Con Nai” xác định là đúng. Ngày 30-6, tôi nhận được trả lời của ông Hồ đồng ý tiếp nhận toán của chúng tôi và yêu cầu được biết khi nào thì người Mỹ có thể đến. Trong thòi gian đó Phelan đã được thả xuống khu vực Tuyên Quang và đã gặp được Frankie Tan.
Chúng tôi báo cho thiếu tá Davis ở Posech biết về sự thay đổi trong kế hoạch và gợi ý Davis cho máy bay đưa các cán bộ của toán “Con Nai” và “Con Mèo” đến vùng Tuyên Quang, ở đó AGAS và GBT đã cho chuẩn bị sẵn những địa điểm thả dù. Tôi yêu cầu Davis nhắc nhở Thomas và Rolland phải sửa lại kế hoạch đầu tiên định thu nạp binh lính Pháp vào trong nhiệm vụ của họ và cũng báo cho Davis biết là chúng tôi đã có tin tức xác thực của Việt Minh nói rằng một đội quân du kích cỡ lớn đã sẵn sàng ở địa điểm thả dù, mặc dù họ có xu hướng chính trị mác xít, nhiệm vụ trước mắt của họ là chiến đấu chống Nhật và đó cũng là điều quan tâm chủ yếu đối với hoạt động của chúng ta. Nhưng cũng phải sau ít nhiều nhầm lẫn và cả một mớ điện tín qua lại giữa Posech và Côn Minh, Thomas mới rút ra được kết luận là một hoạt động phối hợp Pháp - Mỹ có thể không được người Việt Nam hoan nghênh.
Logged
(ak47)
Thành viên
*
Bài viết: 123
Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti
« Trả lời #37 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 09:58:39 AM »
CĂN CỨ TRONG RỪNG CỦA ÔNG HỒ
Thomas đã quyết định tự mình đi trinh sát tình hình trước khi cam kết cho người Pháp hay người Việt tham gia toán của mình. Ông tổ chức một tổ phái đi trước gồm có bản thân Thomas, trung úy Montfort thuộc quân đội Pháp, hai binh nhì người Mỹ và hai người Việt Nam được giới thiệu nguyên là đội(1) trong quân đội Pháp. Cuối buổi chiều ngày 16-7, nhóm này được thả dù xuống vùng lân cận làng Kim Lũng, cách Tuyên Quang khoảng 20 dặm về phía đông. Cuộc thả dù được tiến hành một cách trôi chảy, trừ việc Thomas, Montfort và một lính Mỹ đã bị rơi một cách không hay vào những ngọn cây và phải nhờ người ta gỡ xuống đất. Theo Thomas thì lúc đó ông ta được nghênh tiếp bởi khoảng 200 người trang bị bằng “súng trường Pháp, mấy khẩu Bren, carbin, tiểu liên và mấy khẩu Sten”. Thomas đã tả lại và coi điều đó như là “một ủy ban đón tiếp gây xúc động rất sâu sắc”.
Báo cáo đầu tiên của Thomas đã được thêm thắt vào: “Khi đó tôi được đưa đến gặp ông Hòe, một trong những người lãnh đạo lớn của Việt Minh. Ông Hòe nói tiếng Anh rất tuyệt nhưng người ốm yếu vì mới cuốc bộ từ Trình Tây về.
Ông tiếp đón chúng tôi hết sức thân thiết. Rồi chúng tôi được chỉ đến khu vực dành riêng cho chúng tôi, một cái chòi tre đặc biệt gồm một cái sàn bằng nứa làm cách mặt đất vài feet, mái lợp bằng lá gồi. Bữa ăn chiều hôm đó có bia (mới thu nhặt được), măng tre, thịt bò thui. Họ vừa mới giết một con bò để dành chiêu đãi chúng tôi”.
Từ sớm tinh mơ ngày hôm sau, một sĩ quan M.5 đã đến tìm tôi báo tin thiếu tá Thomas và trung úy Montfort đã bị du kích Việt Minh bắt giữ. Tôi nói cho ông ta yên trí là không phải như vậy và tôi đã được Thomas báo cáo là việc thả dù đã được thực hiện đúng như kế hoạch đã định. Người sĩ quan có thể vẫn chưa yên tâm và đã tiết lộ với tôi là Montfort và hai người Việt Nam tên là Logos và Phác đều là nhân viên của M.5 phái đi làm “nhiệm vụ đặc biệt”.
Ông rất lo lắng cho an ninh của họ và phát biểu mong được OSS bảo đảm cho họ được trở lại một cách an toàn thuộc quyền chỉ huy của người Pháp trong một thời gian tốt nhất có thể được.
Trong những ngày đó, tôi đã được biết là M.5 chú ý tìm cách tiếp xúc với Hồ Chí Minh và đã yêu cầu Gordon thuộc nhóm GBT thu xếp cho một cuộc gặp gỡ. M.5 đã chỉ thị cho thiếu tá Rivol, nhân viên M.5 ở Trình Tây theo dõi cuộc thu xếp của nhóm GBT, và đã cử Montfort đi cùng Thomas đến bản doanh của ông Hồ. Thực không may cho M.5, vốn có xu hướng thích chạy theo các hoạt động bằng cửa sau, khi Montfort đến Kim Lũng được ngụy trang như một sĩ quan Mỹ thì cái trò giả dối này đã bị thất bại, vì Montfort gần như ngay tức khắc, đã bị nhận mặt bởi một du kích Việt Minh trước đây không lâu đã phục vụ dưới quyền ông trong đội quân thuộc địa Pháp.
Thomas đã viết trong bản báo cáo đầu tiên: “Đã có một cuộc họp dài với ông Hồ…, về vấn đề người Pháp”.
Ông Hồ đã nói với Thomas bằng một giọng quả quyết rằng “sẽ không thể để cho trung úy Montfort, một sĩ quan Pháp ở lại, cũng như bất cứ người Pháp nào đến nữa cũng sẽ không được hoan nghênh”. Còn đối với binh lính Việt nam (đi cùng người Pháp), ông Hồ đồng ý cho họ ở lại nhưng ông không tin là người Pháp sẽ buông tha họ. Điều đó lại trở thành vấn đề.
Trong khi chờ để được đưa về Posech, viên “đội” Pháp mấy ngày sau đó lại bị một du kích Việt Minh phát hiện ra là một đảng viên Việt Narn Quốc dân đảng, một đảng quốc gia thân Trung Quốc.
Trong khi bị hỏi, Phác đã thú nhận là người trung gian đứng thu xếp cuộc gặp gỡ ở Côn Minh (đã nêu ở phần trên) giữa thủ lĩnh của M.5 và Nguyễn Tường Tam. Để biện bạch trong tình trạng khó khăn nguy hiểm lúc đó, Phác đã nói với những người Việt Nam tra hỏi hắn rằng hắn đã đi theo Montfort với hy vọng là Việt Minh sẽ để hắn ở lại và đánh Nhật. Tất nhiên những người Việt Minh đã có những nhận xét khác về vấn đề này, và viên “đội” hay “thiếu úy” Phác đã bị giam giữ chặt chẽ cho đến khi được dời khỏi nói đây.
Ngày 31-7, Montfort và hai người Việt Nam đã được dời đi cùng với 20 người Pháp lánh nạn tìm thấy ở một làng gần khu vực AGAS hoạt động. Số người Pháp này đã được du kích Việt Minh giải thoát ngày mùng 4-7 tại một trại tập trung thường dân của Nhật ở Tam Đảo. Montfort đã dẫn những người đi bộ theo đường mòn cho tới biên giới, còn đàn bà và trẻ con thì được chở bằng máy bay sang Trung Quốc.
Ngay trong ngày Thomas tới, ông Hồ thường xuyên tìm bắt “cơ hội thuận lợi” đã nắm lấy dịp có mặt người Mỹ để bắt liên lạc với người Pháp ở Trung Quốc. Ông đã yêu cầu Thomas báo cho nhà chức trách Mỹ biết rằng “Mặt trận Việt Minh vui lòng muốn nói chuyện với một sĩ quan cao cấp Pháp nào đó, như tướng Sabattier chẳng hạn (sic), để biết những gì mà người Pháp muốn đề xuất ra”.
Mấy ngày sau, AGAS ở Côn Minh báo cho tôi biết đã nhận được một điện tín của ông Hồ nhằm gửi cho các nhà chức trách Pháp và nói rằng ông Hồ sẽ hoan nghênh một cuộc nói chuyện với một quan chức cao cấp Pháp, đặc biệt là về vấn đề tuyên bố của De Gaulle liên quan đến Đông Dương mà ông Hồ cho rằng còn có một số điểm không rõ ràng. Tôi gọi ý cho AGAS chuyển bức diện cho M.5, nhưng sau đó tôi nhận biết ở đây người ta đã tiếp nhận nó một cách khá lạnh nhạt.
Ngày 25-7 Thomas lại báo cáo, cho rằng một lần nữa ông Hồ đã tỏ ý muốn nói chuyện với người Pháp, hoặc ở Côn Minh hoặc ở Bắc Kỳ, về một yêu cầu cải cách năm điểm gửi cho Chính phủ Pháp. Đó là:
“Chúng tôi, Mặt trận Việt Minh, yêu cầu người Pháp cho công bố và ghi vào trong chính sách tương lai của Pháp ở Đông Dương các điểm sau đây:
1. Thực hiện phổ thông đầu phiếu để bầu ra một nghị viện để quản lý đất nước, có một viên Toàn quyền người Pháp làm chủ tịch cho đến khi chúng tôi hoàn toàn đuợc độc lập. Viên Toàn quyền sẽ lập ra nội các hay đoàn cố vấn được nghị viện chấp nhận. Quyền hành chính xác của các quan chức nói trên sẽ được thảo luận sau.
2. Độc lập phải được ban bố cho đất nước, trong vòng ít nhất là 5 năm, nhưng không quá 10 năm.
3. Các nguồn lợi thiên nhiên của đất nước phải được trả lại cho nhân dân trong nước thông qua một sự đền bù thỏa đáng.
4. Mọi quyền tự do do Liên Hợp Quốc đề xuất ra được đảm bảo thi hành cho người Đông Dương.
5. Cấm chỉ việc bán thuốc phiện.
Chúng tôi hy vọng rằng các điều khoản trên sẽ được Chính phủ Pháp chấp nhận”.
Thomas đã gửi bức điện trên của ông Hồ cho Davis ở Posech để chuyển cho AGAS Côn Minh tiếp theo với bản thứ nhất. Ở đó họ đã chuyển ngay bức điện thứ hai này cho phái đoàn quân sự Pháp.
Dù cho các điện tín của ông Hồ đã không được đáp lại và không được công nhận, đến một chừng mực nào đi nữa thì vai trò chúng tôi cũng chỉ là thực hiện một dịch vụ, tránh không để cho bị lôi kéo vào việc ủng hộ thiên vị cho bên này hay bên kia.
Nhưng cũng thật là thú vị mà phản ảnh rằng các yêu cầu nhũn nhặn của Việt Minh, mặc dù là người Pháp không thể chấp nhận được, cũng đã có thể sử dụng được để làm cơ sở thích hợp cho một cuộc thương lượng. Thực vậy, cả hai bản đề nghị gặp gỡ trên những cơ sở nghiêm chỉnh nói trên cũng chỉ là những dự định đầu tiên trong nhiều lần của người Việt Nam để thương thuyết với người Pháp với tư cách là người đại diện cho tương lai đất nước họ.
Thật quá rõ ràng là sự không khoan nhượng của Pháp đã làm cho mọi dự định muốn thương lượng trở thành không có kết quả.
Từ đó về sau, việc người Pháp tham gia nhiệm vụ toán “Con Nai” được chấm dứt và toán của thiếu tá Thomas ở lại với những người du kích Việt Minh cho đến tận khi họ về tới Hà Nội ngày 9-9-1945. Trong 7 tuần lễ ở đây, Thomas và các chuyên viên người Mỹ đã để ra 4 tuần để huấn luyện cho khoảng 200 người được lựa chọn kỹ lưỡng để làm cán bộ lãnh đạo tương lai cho quân đội của các tướng Chu Văn Tấn và Võ Nguyên Giáp về việc sử dụng những vũ khí Mỹ mới nhất và chiến thuật đánh du kích. Một số chúng tôi cũng đã có nghĩ tới việc trong tương lai những vũ khí và sự huấn luyện đó có thể sẽ được sử dụng để chống lại người Pháp, nhưng không một ai lại tưởng tượng được rằng chúng sẽ có bao giờ có thể được dùng để chống lại người Mỹ.
________________________________________
(1) cấp bậc tương đương Thượng sĩ nhất
Logged
(ak47)
Thành viên
*
Bài viết: 123
Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti
« Trả lời #38 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 10:01:11 AM »
Chương 14
Những quyết định lịch sử
Vào ngày Hồ Chí Minh và thiếu tá Thomas gặp nhau trong rừng sâu Bắc Kỳ, tôi ở Côn Minh được biết tướng Alessandri đã nhận được những tin khá đau khổ là chương trình viện trợ Vay - Mượn của Mỹ đã không được dành cho ông để trang bị quân đội Pháp nhằm chiếm lại Đông Dương.
Thiếu tá Sainteny thì ở đâu bên kia quả đất tại Paris, cũng chẳng đạt được kết quả gì trong việc vận động cho Chính phủ của ông ta quan tâm đến tình trạng khó xử của Đông Dương. Sainteny đến thủ đô Pháp vào cuối ngày kỷ niệm hạ thành Bastille (14-7) và hy vọng báo động cho “Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Pháp” (De Gaulle) và các quan chức khác trong chính phủ biết phương hướng nguy hại cho các quyền lợi Pháp ở Đông Dương mà Đồng minh đang theo đuổi ở Viễn Đông. Nhưng tướng De Gaulle lúc đó “très pris”(1) nên không gặp ông được, còn giới quan chức Pháp cũng đang bị lôi cuốn vào các vấn đề quốc gia cấp bách hơn là lo toan đến các công việc thuộc địa ở Viễn Đông. Sainteny đã trở lại Trung Quốc với hai bàn tay trắng.
QUYẾT ĐỊNH Ở POTSDAM - VĨ TUYẾN 16
Cách đó không lâu, ở một ngoại ô thành phố Berlin, một lớp đủ mặt các nhà lãnh đạo chính trị, quân sự Mỹ, Anh và Liên Xô đã gặp nhau ở Hội nghị Berlin (Potsdam). Các vị đã xúc tiến nhiều cuộc thảo luận quan trọng và kết thúc hội nghị với nhiều quyết định có ý nghĩa sâu xa, lâu dài nhưng không có một quyết định nào có liên quan đến Đông Dương cả. Trong khi đó, Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ cũng đã bàn nhiều vấn đề, và trong đó có nhiều điều chỉnh lại các giới tuyến chỉ huy nhằm mục đích làm giảm bớt cho các cấp chỉ huy và các lực lượng Mỹ trách nhiệm ngặn chặn và càn quét quân Nhật trên các khu vực thuộc phạm vi quyền lợi thực dân của Anh, Hà Lan và Pháp, để cho các chỉ huy Mỹ được rảnh tay tập trung lực lượng vào cố gắng chủ yếu là các chiến dịch đánh vào chính đất Nhật.
Một trong nhiều đường giới tuyến được đưa ra thảo luận có đụng chạm đến Đông Dương. Lúc đầu, tham mưu trưởng Liên quân (Mỹ) đã chọn một đường ranh giói chạy qua 150 vĩ tuyến Bắc, nhưng sau khi trao đổi với Tham mưu trưởng Liên quân Anh và Mountbatten, con đường đã được điều chỉnh lại ở vĩ tuyến 16.
Điều đó có nghĩa là để cho Mountbatten có phạm vi hoạt động bí mật rộng rãi hơn ở miền nam Đông Dương. Toàn bộ vùng phía bắc con đường nói trên vẫn thuộc Chiến trường Trung Hoa dưới sự chỉ huy tác chiến của Tưởng và Wedemeyer.
Một tuần sau, vào ngày 24-7, đề nghị phân chia ranh giới nói trên được đệ trình cho Truman và Churchill, và được thông qua kèm theo chỉ thị là hai Chính phủ Mỹ và Anh sẽ cùng tiến hành một cuộc vận động để Tưởng đồng ý chấp nhận. Ngày 1-8, Hurley gửi công hàm của Tổng thống báo cho Thống chế biết điều quyết định ở Potsdam và mong rằng sẽ được ông tán thành. Thông điệp của Truman được chuẩn bị một cách chu đáo và nói rộng ra rằng việc phân chia ranh giới chỉ “nhằm cho các inmục đích tác chiến” và không bao hàm một nghĩa rộng nào khác. Mười ngày sau Tưởng phúc đáp lại với một sự đồng ý có điều kiện.
MỘT LỰC LƯỢNG THỨ BA Ở BẮC KỲ
Ông Hồ đã không được các cường quốc ở Potsdam, Paris và Trùng Khánh biết đến, nhưng trong khu căn cứ hẻo lánh của mình ở Bắc Kỳ, ông ráo riết xúc tiến tuyên tuyền, tổ chức, huấn luyện và chỉ đạo các lãnh tụ chính trị, quân sự hoạt động cho việc xây dựng một quốc gia mới.
Sau cuộc gặp gỡ với ông Hồ vào tháng 4, tôi nghiên cứu kỹ lưỡng phong trào Việt Minh và vào khoảng trung tuần tháng 6, tôi đã tin chắc rằng đây là một phong trào thực tế, năng động và nhất định sẽ giành được thắng lợi. Dựa trên cơ sở vững vàng, tôi xác định phong trào đã được tổ chức tốt, có mục tiêu chiến đấu rõ rệt và được ủng hộ của dân chúng.
Trong các báo cáo gửi cho Heppner, Wedemeyer và Hurley, tôi đã bác bỏ một cách mạnh mẽ những luận điệu của người Pháp cho rằng không có phong trào độc lập thực sự ở Đông Dương, cho đây chỉ là một số ít khiêu khích gây rối loạn và đều là những “tên Cộng sản vô tổ chức” được Matxcơva, Diên An và Trùng Khánh giúp đỡ, xúi giục, hoặc cho rằng “người bản xứ” vẫn trung thành và dân chúng lệ thuộc đang nóng lòng chờ người Pháp quay trở lại để bênh vực và che chỏ họ chống người Trung Hoa và Thái Lan. Trái lại, tôi đã kết luận là phong trào độc lập chỉ là một bước quá độ để đi đến lý tưởng tối cao là bản năng sinh tồn. Nếu độc lập dân tộc có khả năng bảo đảm sự sống còn cho người Việt Nam thì họ sẽ coi Việt Minh là một sự giải đáp cho họ. Đối với họ thì dù cho bước quá độ có mang tính chất dân chủ, xã hội chủ nghĩa hay cộng sản chủ nghĩa thì đều chẳng có ý nghĩa quan trọng gì.
Trong các báo cáo gửi cho Heppner, Wedemeyer và Hurley, tôi đã bác bỏ một cách mạnh mẽ những luận điệu của người Pháp cho rằng không có phong trào độc lập thực sự ở Đông Dương, cho đây chỉ là một số ít khiêu khích gây rối loạn và đều là những “tên Cộng sản vô tổ chức” được Matxcơva, Diên An và Trùng Khánh giúp đỡ, xúi giục, hoặc cho rằng “người bản xứ” vẫn trung thành và dân chúng lệ thuộc đang nóng lòng chờ người Pháp quay trở lại để bênh vực và che chỏ họ chống người Trung Hoa và Thái Lan. Trái lại, tôi đã kết luận là phong trào độc lập chỉ là một bước quá độ để đi đến lý tưởng tối cao là bản năng sinh tồn. Nếu độc lập dân tộc có khả năng bảo đảm sự sống còn cho người Việt Nam thì họ sẽ coi Việt Minh là một sự giải đáp cho họ. Đối với họ thì dù cho bước quá độ có mang tính chất dân chủ, xã hội chủ nghĩa hay cộng sản chủ nghĩa thì đều chẳng có ý nghĩa quan trọng gì.
Vấn đề và ở chỗ thoát được cảnh túng thiếu, được hưởng thành quả lao động của chính mình và được sống yên ổn không bị quấy nhiễu.
Trong bản báo cáo của tôi, tôi khẳng định chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương là một trong những điển hình xấu xa nhất về chế độ bóc lột công nhân công nhật, coi thường nhân quyền và về sự tham nhũng của người Pháp và trong hơn 3/4 thế kỷ vừa qua, người Việt đã bị bóc lột tàn tệ, bị đối xử một cách dã man, và nói chung, bị sử dụng như là những vật sở hữu của người Pháp. Họ đã chống đối, đánh lại và nổi dậy, nhưng đội quân thuộc địa và sở mật thám Pháp bao giờ cũng thắng thế.
Những người bản xứ tích cực nhất, hoặc đã bị giết chết, hoặc đã bị đưa đi đầy khổ sai. Chính tình hình kinh tế xã hội đó, chế độ thuộc địa đó tạo nên ở đây, đã nuôi dưỡng cho sự bất mãn và nổi loạn, và đã sản sinh ra nhiều phong trào quốc gia và các lãnh tụ yêu nước, mà trong số này thì Hồ Chí Minh là một trong những người có ảnh hưởng và hoạt động có hiệu lực hơn hết. Qua những người Việt Nam ở Côn Minh, tôi được biết rằng khi đã bôn ba 25 năm ở nước ngoài, đã tiếp thụ được ở đó lý thuyết và sách lược Marxism - Léninism, ông Hồ đã trở về nước vào năm 1940 và đã tự đặt cho mình nhiệm vụ tập hợp các nhóm quốc gia khác nhau vào trong tổ chức Việt Nam Độc lập Đồng minh.
Những người bản xứ tích cực nhất, hoặc đã bị giết chết, hoặc đã bị đưa đi đầy khổ sai. Chính tình hình kinh tế xã hội đó, chế độ thuộc địa đó tạo nên ở đây, đã nuôi dưỡng cho sự bất mãn và nổi loạn, và đã sản sinh ra nhiều phong trào quốc gia và các lãnh tụ yêu nước, mà trong số này thì Hồ Chí Minh là một trong những người có ảnh hưởng và hoạt động có hiệu lực hơn hết. Qua những người Việt Nam ở Côn Minh, tôi được biết rằng khi đã bôn ba 25 năm ở nước ngoài, đã tiếp thụ được ở đó lý thuyết và sách lược Marxism - Léninism, ông Hồ đã trở về nước vào năm 1940 và đã tự đặt cho mình nhiệm vụ tập hợp các nhóm quốc gia khác nhau vào trong tổ chức Việt Nam Độc lập Đồng minh.
Thấy rõ sự nghèo nàn lạc hậu về kinh tế xã hội của Việt Nam, vốn hoàn toàn chỉ là một xã hội nông nghiệp; đầu tiên ông Hồ đề nghị hãy gạt các quyền lợi địa phương và giai cấp sang một bên để phục vụ cho độc lập dân tộc và tự do đối với chủ nghĩa thực dân. Ông kêu gọi những người đi theo ông chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa để đánh đuổi Pháp - Nhật, giành lấy chính quyền cho nhân dân Việt Nam.
Trong suốt những năm chiến tranh, Việt Minh đã theo đuổi thực hiện một chương trình huấn luyện, tổ chức và đánh phá các cứ điểm của Pháp - Nhật ở Bắc Kỳ.
Sau mỗi chiến thắng, dân chúng địa phương lại tập hợp đi theo Việt Minh và số lượng những người tham gia tăng lên theo cấp số. Hoảng sợ trước phong trào cách mạng, người Pháp đã cho thi hành một chiến dịch khủng bố vào những năm 1943-1944. Đổi lại, Việt Minh đã cho tăng cường công tác giáo dục ở cả hai vùng thành thị và nông thôn, kích động công nhân cũng như nông dân chống lại những sách nhiễu của Pháp và Nhật.
Lúc đó, vào cuối năm 1944 đầu 1945, một nạn đói chưa từng có đã xảy ra ở Bắc Kỳ, làm cho một số rất lớn người chết. Giá gạo tăng vọt lên từ 150 đồng một tấn (tháng 10-1944) tới 500 đồng (tháng 12) rồi 800 đồng (tháng 2-1945).
Mặc dù sự thiếu hụt về lương thực ở Bắc Kỳ lúc đó là do mùa màng bị thất bát, nhưng nguyên nhân chính của nạn đói này là do Pháp, Nhật đã cho thi hành một chính sách thu mua lương thực quá tàn bạo. Cộng thêm với việc cướp đoạt gạo trong bữa ăn của ngườì Việt Nam bằng cách xuất cảng gạo ra thị trường nước ngoài và cho cất trữ để phục vụ lợi ích buôn bán của người Pháp; chế độ thu mua lương thực đã làm cho nông dân cùng quẫn. Chi phí sản xuất thông thường cho một tấn thóc là khoảng 80 đồng, giá thị trường khoảng 200, nhưng người nông dân khi nộp thóc thì chỉ được trả chừng 25 đồng. Mặc dù bị mất mùa năm 1944, nông dân vẫn buộc phải nộp đủ xuất gạo của mình, do đó họ phải tìm mua số còn thiếu bằng giá cao ở thị trường để nộp cho Pháp, Nhật với giá thu mua hết sức thấp hơn nhiều. Họ đã bị bỏ chết đói và không còn nguồn sống. Tất cả những điều kể trên là do Hồ Chí Minh thuật lại cho tôi nghe vào tháng 4-1945.
Khi ông Hồ nói với tôi về nạn đói, tôi đã không nắm chắc được ý nghĩa quan trọng này và những ảnh hưởng lâu dài của nó. Mãi nhiều tháng sau tôi mới thông cảm được sâu sắc hơn với mối quan tâm và sự đau khổ của ông Hồ. Ngoài việc gần 2 triệu người bị chết đói, trong đó phần lớn là trẻ em, nạn đói kém đã tàn phá một cách nghiêm trọng sức khỏe của những người Bắc Kỳ còn sống sót. Điều đó đã hun đúc lòng căm thù của họ đối với những kẻ áp bức Pháp - Nhật, và tăng cường quyết tâm chiến đấu và giành lại cuộc sống.
Quyền sống - sự sống còn - đó là lý tưởng cao cả nhất của cuộc cách mạng. Phù hợp với điều đó, Đảng Cộng sản Đông Dương đã đưa ra khẩu hiệu “chiếm kho thóc để cứu đói nhân dân”. Họ đã coi đó là một nhiệm vụ trung tâm để động viên quảng đại quần chúng trong thời kỳ tiền khởi nghĩa.
Các cuộc chiếm kho thóc đã mang lại những kết quả không lường hết được: cứu đói nhờ có giá gạo hạ, vạch mặt kẻ thù chung là Pháp và Nhật, hướng các mối bất bình của nhân dân vào một mục tiêu rõ rệt, khuyến khích nhân dân tổ chức tự vệ cũng như để nắm lấy chính quyền, đề cao sự quan trọng của tổ chức kháng chiến và sự thống nhất hành động, lôi cuốn hàng trăm ngàn người tham gia phong trào cách mạng, tức là Việt Minh.
Khi tôi gặp ông Hồ ở Chiu Chow Chieh, tôi đã không nhận thức được rằng ông đang trên đường trở về Đông Dương để trực tiếp đảm nhận việc lãnh đạo một phong trào năng động đang tiến sát đến ngày bùng nổ.
Sau đó tôi mới biết ông đã đi thẳng ngay về Tân Trào, và ở đó, ông dựng lên một quốc gia nhỏ bé gồm sáu tỉnh và một phần đất của ba tỉnh khác, cái mà ông gọi là “khu giải phóng Việt Bắc”. Ông cũng đã củng cố lại các đội vũ trang của Chu Văn Tấn và Võ Nguyên Giáp để thành lập một Quân đội giải phóng thống nhất. Sau đó, ông đã đưa ra một chương trình thời điểm cho khu giải phóng:
- Đánh đuổi Nhật
- Tịch thu tài sản của bọn xâm lược và phản bội để phân phát cho dân nghèo.
- Công bố quyền phổ thông đầu phiếu và các quyền tự do dân chủ.
- Vũ trang nhân dân và kêu gọi họ ủng hộ du kích, tham gia quân Giải phóng.
- Tổ chức khai hoang, khuyến khích sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc trong Khu Giải phóng.
-
Thực hiện cứu tế xã hội và cứu trợ các nạn nhân.
- Chia lại công điền, giảm tô và tức, hoãn việc trả nợ.
- Huỷ bỏ thuế và các hình thức làm xâu.
- Đấu tranh chống nạn mù chữ, huấn luyện chính trị và quân sự cho nhân dân.
- Bảo đảm bình đẳng giữa các dân tộc khác nhau, giữa nam và nữ.
Mặc dù đối với ông Hồ, mọi mục tiêu đều quan trọng, nhưng như tôi sau này đã được biết, ở Hà Nội, số người Việt Nam mù chữ khá cao cũng như tồn tại của các hình thức làm xâu, đều là những nguồn gây đau khổ đặc biệt đối với ông.
Các điểm trong chương trình nói trên, trong quan điểm của ông Hồ, đã thể hiện như là một cơ sở cách mạng cho toàn đất nước Việt Nam trong tương lai, và chính các điểm đó đã khích lệ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc. Vào giữa tháng 7 năm đó, ông đã có cơ hội đầu tiên bộc lộ điều mơ ước của mình cho một số ít người Mỹ. Thomas, Phelan, Defourneaux, Hoaglund, Squires và các nhân viên khác của toán “Con Nai” đều hết sức xúc động đến mức đã chấp nhận điều quyết đoán của ông Hồ rằng phong trào đó không phải là Cộng sản.
Logged
(ak47)
Thành viên
*
Bài viết: 123
Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti
« Trả lời #39 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 10:01:26 AM »
HỘI NGHỊ CỦA ĐẢNG Ở TÂN TRÀO
Vào ngày 6-8, sự kiện “Hiroshima” đã báo trước kết thúc của cuộc chiến tranh. Trước tình hình đó, ông Hồ chưa thực sẵn sằng; nhưng khi ông được Thomas cho biết sự sụp đổ của Nhật, ông đã hành động một cách kiên quyết và nhanh chóng vì ông phải bảo đảm chiếm được một chỗ đứng chân vững chắc ở nơi ông muốn như Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Ông Hồ biết rằng ông phải làm cho mọi người thấy rõ được cả tính chất hợp pháp lẫn sức mạnh để giữ được vai trò lãnh đạo và đà phát triển của phong trào. Mặc dù còn rất yếu sau một cơn sốt rét và nhiều bệnh tật khác, ông cũng cho triệu tập một cuộc hội nghị các đại biểu Đảng và các lãnh tụ chính trị Việt Minh.
Ngày 13-8, các đại biểu bắt đầu tới Tân Trào. Tất cả không phải đều đã có thiện ý đối với ông. Nhiều người thắc mắc về địa vị đứng đầu mặc nhiên của ông trong phong trào quốc gia. Một số lại hơi ngại về những tin đồn ông được Đồng minh ủng hộ. Một số khác khao khát địa vị lãnh đạo cho bản thân mình. Mặc dù sức khỏe rất kém, ông Hồ vẫn tỏ ra tự tin, tươi vui, phấn khởi, tự thân đón chào một cách nồng nhiệt từng người mới đến. Ông đi lại giữa mọi người, trao đổi tin tức, quan điểm và ôn lại các câu chuyện cũ.
Trong cái “cơ quan và hành dinh” hỗn hợp của ông Hồ trưng bày nhiều tranh ảnh trong đó có Lênin, Mao và tướng Chennault với đủ các giải băng, sao, phù hiệu cấp bậc. Nhiều người tham dự hội nghị đã hỏi xem người sĩ quan ngoại quốc này là ai vậy và ông Hồ đã vui vẻ giải thích cho họ.
Đến chiều thì một số lớn đại biểu đã đến hội nghị. Họ đại diện cho các cơ quan của Đảng từ ba vùng Bắc, Trung và Nam của Việt Nam, và cũng có một số đại biểu từ ngoài nước trở về. Mưa to và đường sá đi lại khó khăn đã làm cho một số đại biểu phải vắng mặt, một số thì chắc không nhận được giấy triệu tập.
Công việc đầu tiên phải làm là quyết định về vấn đề khởi nghĩa. Vào buổi tối ngày 13-8, một Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc được thành lập. Ủy ban nhận định là thời điểm cho một cuộc tổng nổi dậy và toàn dân đứng lên cầm vũ khí đã đến. Chính trong đêm đó, Ủy ban đã phát bản Quân lệnh số 1, ra lệnh phát động cuộc tổng khởi nghĩa. Ngày hôm sau, Tổng bộ Việt Minh ra một bản kêu gọi nhân dân nổi dậy đấu tranh giành độc lập. Cũng trong ngày hôm đó, Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc thảo ra bản Kế hoạch hành động dựa trên 4 phương châm cơ bản: kết hợp mọi hành động quân sự và chính trị, tập trung toàn bộ lực lượng dưới quyền một chỉ huy thống nhất, củng cố hàng ngũ cán bộ quân sự, dân sự và giữ vững liên lạc với lãnh đạo. Bản kế hoạch hành động đã hướng dẫn tỉ mỉ việc vận dụng vào thực tế các phương châm công tác nói trên.
QUỐC DÂN ĐẠI HỘI
Liền ngay sau cuộc hội nghị của Đảng, Quốc dân đại hội đầu tiên đã được triệu tập họp vào ngày 16-8. Dưới quyền chủ toạ của Hồ Chí Minh, Đại hội gồm hơn 60 đại biểu đại diện cho nhiều đảng phái chính trị trong Mặt trận Việt Minh, các tổ chức quần chúng, các dân tộc (thiểu số), các cộng đồng tôn giáo ở Đông Dương và hải ngoại.
Vì Đại hội họp ở Tân Trào nên các đại biểu cũng loáng thoáng thấy được một cách kín đáo một số bộ đội mặc đồng phục, được trang bị tốt và rất có kỷ luật đi qua lại trong khu vực hội họp. Người ta đã nhận ra ngay đó là những người Việt Nam và là đội viên của Giải phóng quân.
Trang bị và vũ khí Mỹ của họ còn mới, cùng một kiểu và cỡ thống nhất. Ông Hồ vẫn yên lặng một cách khiên tốn nhưng hài lòng về sự tò mò và quan tâm của các đại biểu. Với bức ảnh có kèm theo chữ ký của Chennault trong lều của ông Hồ cùng với những du kích quân trang bị tốt như thế, dư luận lan truyền là Việt Minh và đặc biệt là “Cụ Hồ” đã được Đồng Minh “bí mật ủng hộ”. Trong thâm tâm, chắc ông Hồ đã vui miệng khi thấy toán “Con Nai” đã đến thực đúng lúc, và bằng cách trải loãng nó ra thì lại thấy hình như nhiều hơn lên so với tình hình thực trạng của nó.
Đại hội đã tán thành nghị quyết về một Cuộc tổng khỏi nghĩa và thông qua Quân lệnh số 1.
Trong một phiên họp 2 ngày, Đại hội đã chấp nhận một chương trình 10 điểm, một quốc kỳ có ngôi sao vàng 5 cánh nằm giữa một nền đỏ và một bài quốc ca, bầu ra Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, hoạt động như một chính phủ lâm thời trong quá trình thưa có Tổng tuyển cử toàn quốc.
Ông Hồ, luôn luôn thực dụng, đã lái Đại hội đi tới chỗ tán thành một chính sách thực tế “giành lấy chính quyền từ tay người Nhật và Chính phủ bù nhìn trước khi quân đội Đồng minh vào Đông Dương và như thế với danh nghĩa là những người chủ của đất nước, chúng ta hoan nghênh đón quân đội đó đến để giải giáp quân Nhật”. Nghị quyết này của Đại hội đã thể hiện sự lo lắng của ông Hồ trước mưu toan tìm kiếm lợi ích của Pháp và Trung Quốc, mối đe doạ mà mọi người đều biết, đối với sự nghiệp của ông do việc khối Pháp, Anh, Hà Lan muốn thu hồi trọn vẹn các thuộc địa cũ của họ.
Ông Hồ đã nhận thức được Đồng minh không phải là đồng minh trong thực tế, mà đó chỉ là một sự liên kết với nhau nhằm mở rộng việc bảo vệ các quyền lợi thực dân ở Đông Nam Á. Căn cứ vào kinh nghiệm trước đây, ông Hồ đã thấy trước một cách rất sáng suốt là Trung Quốc sẽ không dễ dàng bỏ qua một cơ hội tốt nào để bóc lột Việt Nam.
Khi kết thúc Đại hội đáng ghi nhớ này, ông Hồ đã đưa ra một lời kêu gọi hùng hồn với toàn thể nhân dân Việt Nam, trong đó có đoạn ghi:
“Giờ quyết định số phận đất nước chúnlg ta đã điểm.
Toàn dân trong nước hãy nổi dậy, dùng sức mạnh của bản thân chúng ta đế giải phóng cho chúng ta. Các dân tộc trên thế giới đang nô nức thi đua để tiến lên giành lấy độc lập. Chúng ta không cam chịu ở lại đàng sau...
Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ của Việt Minh, nhân dân ta hãy anh dũng tiến lên phía trước”.
Ông Hồ đã ký vào bản kêu gọi với cái tên mà trước đây ông đã dùng khi bắt đầu cuộc đời đấu tranh cách mạng của ông - Nguyễn Ái Quốc. Lời kêu gọi đánh vào tinh thần yêu nước của người Việt Nam và ông muốn cho họ biết ông vốn là “Nguyễn, ngườ coi tình yêu Tổ quốc là đạo đức tối cao”.
Ngày thứ nhất của Đại hội cũng là ngày xuất phát của toán “Con Nai”. Theo chỉ thị của Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc, một đơn vị dưới quyền chỉ huy của Võ Nguyên Giáp (được toán “Con Nai” huấn luyện trước) đã rời Tân Trào tiến đánh trại lính Nhật ở Thái Nguyên để mở đường tiến về Hà Nội ở phía Nam.
Khi mọi việc chuẩn bị đã sẵn sàng, ông Hồ, vị Chủ tịch mới, đã mời tất cả đại biểu các đảng phái và quan khách đến để quan sát đơn vị Việt Nam hành quân tiến ra ngoài doanh trại, có toán “Con Nai” đi cùng.
Thiếu tá Thomas là một sĩ quan trẻ tuổi, giỏi, nhưng chất phác một cách dễ hiểu trong lĩnh vực đấu tranh giữa các cường quốc thế giới. Thomas và toán của ông cùng với những người Mỹ được rải ra trên khắp Trung Quốc và Đông Dương đã chán ngán và không hài lòng khi họ thấy bị chính sách của Bộ chỉ huy Chiến trường cấm không được đòi hỏi quân Nhật ở địa phương mình hoạt động đầu hàng, hoặc nếu có việc họ muốn xin hàng thì cũng không được tiếp nhận.
Như Thomas đã nêu: “điều đó đã làm cho tôi chán ngán đến cực độ khi tất cả chúng tôi cảm thấy chúng tôi đã phải liều cả tính mạng mình để đến đây nhưng đến nay, khi công việc đã chạy tốt rồi thì chẳng còn ai đếm xỉa đến chúng tôi nữa...” vân vân và vân vân. Một số toán tình báo này, hoạt động ở cách xa mọi sự chỉ huy của cơ quan quân sự đến hàng trăm dặm, đã làm ầm ĩ lên hơn thế nữa và đã không tuân theo mệnh lệnh của Chiến trường.
Trong trường hợp của toán “Con Nai”, họ đã làm dịu bớt sự bất mãn của mình bằng cách đi theo cùng với bộ đội Việt Minh suốt trên đường về Hà Nội, nhưng chỉ với tư cách là những quan sát viên. Có thể họ đã hoàn toàn lãng quên mất cái ấn tượng họ đã tạo ra được cho ông Hồ một cách chắc chắn là ông đã có được sự ủng hộ “bí mật” của Đồng minh. Nhưng còn các đại biểu thì sau khi Đại hội kết thúc, họ phân tán trở về địa phương, họ lại mang theo cái ấn tượng nói trên cùng với họ đi khắp đất nước.
________________________________________
(1) rất bận - tiếng Pháp
No comments:
Post a Comment