Chương 15
Một cuộc hoà bình đến không đúng thời hạn
MỘT CÁI HỘP ĐÀN BẠN ĐƯA TRỐNG RỖNG
Cuộc chiến tranh kết thúc đột ngột làm cho ai nấy đều bị bất ngờ. Khi công tác chuẩn bị cuối cùng để đánh chiếm Fort Bayard, một hoạt động bí mật của chúng ta hoàn toàn không dựa vào Pháp, đang tiến triển tốt và thiếu tá Sainteny đã từ Pháp trở về được gần một tuần thì chúngg ta nhận được những tin tức choáng váng về quả bom Hiroshima. Ba ngày sau, ngày 9-8, Nga tuyên chiến với Nhật và quả nguyên tử thứ hai được thả xuống Nagasaki. Tất cả mọi công tác chuẩn bị cho hoạt động Carbonado phải dừng lại, bộ đội đứng yên tại chỗ và tàu bè dàn ra gần Fort Bayard vẫn giữ nguyên vị trí ở ngoài khơi - mọi người chờ đợi sự phát triển của tình hình sắp tới. Ngày 10-8 (lịch Trung Quốc), chúng tôi nhận được tin không chính thức báo Nhật đã chấp nhận các điều kiện đầu hàng Potsdam.
Vào đầu tháng 8, không ở đâu đã có dấu hiệu là chiến tranh ở châu Á sắp kết thúc
. Chúng tôi vẫn nghĩ rằng còn phải đánh nhiều trận nữa mới tới được ngày Chiến thắng, vì thế mà chúng tôi cảm thấy lúng túng trong một loạt sự việc diễn ra sau đó. Sau khi dư luận của các vụ nổ nguyên tử đã tiêu tan, không một ai ở châu Á lại có thể nghĩ được rằng đây lại là bước đầu của một cuộc đấu tranh mới. Tưởng và Chiến trường Trung Hoa của ông đã được mang một tầm cỡ mới. Thống chế, với tư cách là Tổng tư lệnh Tối cao, muốn được giao hoàn toàn trách nhiệm tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật trên Chiến trường Trung Hoa - một vấn đề có liên quan trước hết đến người Anh, Nga và cả người Pháp nữa.
Người Anh đã hối tiếc ngay lập tức việc họ đã đồng ý về vấn đề điều chỉnh lại ranh giới các chiến trường. Liên Xô đã không để phí mất thời gian bằng cách điều động quân đội sang bảo vệ các quyền lợi của họ ở Mãn Châu Lý.
Còn người Pháp, không được hỏi ý kiến Potsdam, đã hoàn toàn mất tinh thần bởi sự bất lực của bản thân họ. Ngay trước khi cuộc chiến tranh chấm dứt, Jean Daridan, đại biện lâm thời sứ quán Pháp, đã gặp Wedemeyer để yêu cầu cho người Pháp tham gia vào việc chiếm đóng lại Đông Dương và việc chuyên chở bằng đường không cho quân đội Alessandri. Đó là một vấn đề quân sự. Wedemeyer đã thảo luận với tướng Alessandri nhưng đã báo cho ông ta biết là máy bay và xăng dầu không còn đủ để chi viện. Ông nói điều tốt nhất ông có thể làm được chỉ là cho phép một phi cơ của Pháp hoạt động giữa sân bay Mông Tự - Côn Minh và Hà Nội để chở những nhân vật quan trọng của Pháp và ông đồng ý là sẽ hỏi ý kiến Thống chế (Tưởng) về các vấn đề khác. Đó là một cử chỉ vô dụng vì Tưởng đã có quyết định cho phép quân đội Pháp được đi xuyên qua đất liền từ Mông Tự đến biên giới của tỉnh Lào Cai, vượt một cự ly 75 dặm và rồi từ đó đi về Hà Nội thêm 1.000 dặm nữa. Wedemeyer không ở trong tư thế có thể bác bỏ mệnh lệnh của Tưởng. Đối với người Pháp, điều này cũng tương đương như đã bị làm tê liệt ở Trung Quốc, trong khi Trung Hoa một mình chiếm đóng Đông Dương. Thấy bị thất thế với giới quân sự, Darian liền tìm đến Fllis O. Briggs, cố vấn Đại sứ quán của chúng ta. Darian nói với Briggs rằng ông đã thảo luận về vấn đề địa vị của Pháp với bác sĩ KC. Wu, quyền Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc và nhận mạnh tới việc tình hình có thể sẽ có một “hiệu quả hết sức xấu” và gây thiệt hại nghiêm trọng cho mối quan hệ Pháp - Hoa nếu như quân đội Pháp không được phép tiến vào Đông Dương. Đồng thời ông cũng báo trước là sẽ có “rối loạn nghiêm trọng” nếu như chỉ có quân đội Trung Quốc tiến vào đó một mình. Để tăng thêm sức nặng cho lập luận của Pháp, Darian đã nhắc cho Brigss nhớ là còn có chừng 1 vạn tù binh chiến tranh người Pháp ở Đông Dương và quân đội của Alessandri có thể sẽ là những người giúp việc chăm lo đến các nhu cầu của số này. Trả lời của Briggs là chiếu theo các điều kiện đầu hàng thì người Nhật phải chịu trách nhiệm chuyên chở một cách an toàn các tù binh chiến tranh tới các địa điểm do Bộ chỉ huy Đồng minh quy định. Darian đã rút lui, mất tinh thần và thất vọng. Trong lúc đó, đã có hai sư đoàn Trung Quốc ở gần Nam Ninh được dự kiến chuyển vận vào Đông Dương để thực hiện việc giải giáp, hồi hương và tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật. Đại sứ Hurley, lường trước một cuộc xung đột tiềm tàng trong tình hình đó, đã khuyến cáo với Bộ Ngoại giao (Mỹ) như sau: “…
Pháp mong muốn gấp rút khôi phục chủ quyền trọn vẹn của mình ở Đông Dương vào một thời điểm sớm nhất có thể được và nhìn một cách không có thiện cảm bất kỳ đội quân Trung Quốc nào tiến vào Đông Dương. …Người Pháp muốn gỡ thể diện bằng việc chính họ phải được tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật (ở Đông Dương)”. Đó là một điều không thể được vì đã có chỉ thị và vấn đề này đang được thi hành, và như Hurley nhận xét, ông cũng như Wedemeyer chẳng ai có quyền gì để thay đổi các điều khoản về đầu hàng đã được qui định. Nếu không có Bộ ngoại giao hướng dẫn thì Hurley đã gợi ý cho Thống chế nên có những cuộc thương lượng trực tiếp giữa hai Chính phủ Trung Quốc và Pháp để cho phép đại diện của Pháp tham gia vào việc tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật ở Đông Dương.
Vấn đề ai là người tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật ở Đông Dương cũng đã khơi dậy một sự quan tâm to lớn ở các nơi khác. Bộ trưởng Byrnes đã chỉ thị cho Đại sứ Caffery ở Paris báo cho Bidault biết rằng người Nhật sẽ chỉ đầu hàng với Tưởng ở phía Bắc và với Mountbatten ở phía Nam. Điều đó đã bao hàm một ý là việc “phân chia” ở vĩ tuyến 16 bắc là một vấn đề “đơn thuần tác chiến”… và không có một ý nghĩa chính trị nào khác.
Ông lại nói thêm rằng chúng ta đã gợi ý cho Chính phủ Anh và Trung Hoa để họ mời đại diện của Pháp tham dự vào buổi lễ tiếp nhận đầu hàng và người Pháp phải giải quyết vấn đề này trực tiếp với các Chính phủ nói trên. Sự sụp đổ đột ngột của Nhật đã làm bung ra công khai những bất đồng sâu sắc về các vấn đề đất đai thuộc địa mà suốt trong thời kỳ chiến tranh người ta đã phải kìm chế không nói đến. Anh đã thông báo cho Chính phủ Trung Hoa là Vương quốc Anh đang chuyển quân chiếm và khôi phục lại nền cai trị ở Hongkong, đồng thời cũng đã phái một lực lượng đến Sài Gòn để giữ việc kiểm soát các hành dinh quân Nhật ở đây.
Còn người Pháp, không được hỏi ý kiến Potsdam, đã hoàn toàn mất tinh thần bởi sự bất lực của bản thân họ. Ngay trước khi cuộc chiến tranh chấm dứt, Jean Daridan, đại biện lâm thời sứ quán Pháp, đã gặp Wedemeyer để yêu cầu cho người Pháp tham gia vào việc chiếm đóng lại Đông Dương và việc chuyên chở bằng đường không cho quân đội Alessandri. Đó là một vấn đề quân sự. Wedemeyer đã thảo luận với tướng Alessandri nhưng đã báo cho ông ta biết là máy bay và xăng dầu không còn đủ để chi viện. Ông nói điều tốt nhất ông có thể làm được chỉ là cho phép một phi cơ của Pháp hoạt động giữa sân bay Mông Tự - Côn Minh và Hà Nội để chở những nhân vật quan trọng của Pháp và ông đồng ý là sẽ hỏi ý kiến Thống chế (Tưởng) về các vấn đề khác. Đó là một cử chỉ vô dụng vì Tưởng đã có quyết định cho phép quân đội Pháp được đi xuyên qua đất liền từ Mông Tự đến biên giới của tỉnh Lào Cai, vượt một cự ly 75 dặm và rồi từ đó đi về Hà Nội thêm 1.000 dặm nữa. Wedemeyer không ở trong tư thế có thể bác bỏ mệnh lệnh của Tưởng. Đối với người Pháp, điều này cũng tương đương như đã bị làm tê liệt ở Trung Quốc, trong khi Trung Hoa một mình chiếm đóng Đông Dương. Thấy bị thất thế với giới quân sự, Darian liền tìm đến Fllis O. Briggs, cố vấn Đại sứ quán của chúng ta. Darian nói với Briggs rằng ông đã thảo luận về vấn đề địa vị của Pháp với bác sĩ KC. Wu, quyền Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc và nhận mạnh tới việc tình hình có thể sẽ có một “hiệu quả hết sức xấu” và gây thiệt hại nghiêm trọng cho mối quan hệ Pháp - Hoa nếu như quân đội Pháp không được phép tiến vào Đông Dương. Đồng thời ông cũng báo trước là sẽ có “rối loạn nghiêm trọng” nếu như chỉ có quân đội Trung Quốc tiến vào đó một mình. Để tăng thêm sức nặng cho lập luận của Pháp, Darian đã nhắc cho Brigss nhớ là còn có chừng 1 vạn tù binh chiến tranh người Pháp ở Đông Dương và quân đội của Alessandri có thể sẽ là những người giúp việc chăm lo đến các nhu cầu của số này. Trả lời của Briggs là chiếu theo các điều kiện đầu hàng thì người Nhật phải chịu trách nhiệm chuyên chở một cách an toàn các tù binh chiến tranh tới các địa điểm do Bộ chỉ huy Đồng minh quy định. Darian đã rút lui, mất tinh thần và thất vọng. Trong lúc đó, đã có hai sư đoàn Trung Quốc ở gần Nam Ninh được dự kiến chuyển vận vào Đông Dương để thực hiện việc giải giáp, hồi hương và tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật. Đại sứ Hurley, lường trước một cuộc xung đột tiềm tàng trong tình hình đó, đã khuyến cáo với Bộ Ngoại giao (Mỹ) như sau: “…
Pháp mong muốn gấp rút khôi phục chủ quyền trọn vẹn của mình ở Đông Dương vào một thời điểm sớm nhất có thể được và nhìn một cách không có thiện cảm bất kỳ đội quân Trung Quốc nào tiến vào Đông Dương. …Người Pháp muốn gỡ thể diện bằng việc chính họ phải được tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật (ở Đông Dương)”. Đó là một điều không thể được vì đã có chỉ thị và vấn đề này đang được thi hành, và như Hurley nhận xét, ông cũng như Wedemeyer chẳng ai có quyền gì để thay đổi các điều khoản về đầu hàng đã được qui định. Nếu không có Bộ ngoại giao hướng dẫn thì Hurley đã gợi ý cho Thống chế nên có những cuộc thương lượng trực tiếp giữa hai Chính phủ Trung Quốc và Pháp để cho phép đại diện của Pháp tham gia vào việc tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật ở Đông Dương.
Vấn đề ai là người tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật ở Đông Dương cũng đã khơi dậy một sự quan tâm to lớn ở các nơi khác. Bộ trưởng Byrnes đã chỉ thị cho Đại sứ Caffery ở Paris báo cho Bidault biết rằng người Nhật sẽ chỉ đầu hàng với Tưởng ở phía Bắc và với Mountbatten ở phía Nam. Điều đó đã bao hàm một ý là việc “phân chia” ở vĩ tuyến 16 bắc là một vấn đề “đơn thuần tác chiến”… và không có một ý nghĩa chính trị nào khác.
Ông lại nói thêm rằng chúng ta đã gợi ý cho Chính phủ Anh và Trung Hoa để họ mời đại diện của Pháp tham dự vào buổi lễ tiếp nhận đầu hàng và người Pháp phải giải quyết vấn đề này trực tiếp với các Chính phủ nói trên. Sự sụp đổ đột ngột của Nhật đã làm bung ra công khai những bất đồng sâu sắc về các vấn đề đất đai thuộc địa mà suốt trong thời kỳ chiến tranh người ta đã phải kìm chế không nói đến. Anh đã thông báo cho Chính phủ Trung Hoa là Vương quốc Anh đang chuyển quân chiếm và khôi phục lại nền cai trị ở Hongkong, đồng thời cũng đã phái một lực lượng đến Sài Gòn để giữ việc kiểm soát các hành dinh quân Nhật ở đây.
Cũng với một thái độ coi thường mà họ vẫn hay dùng để đối xử với người Trung Quốc, người Anh đã thông báo một cách giản đơn cho họ biết rằng các sự kiện xảy ra đã rất ăn khớp với sự điều đình về các đường ranh giới chỉ huy ở Đông Dương và cũng không còn việc gì phải bàn về vấn đề này nữa. Vì vậy, người Anh cho rằng Chính phủ Trung Hoa sẽ đồng ý về mục tiêu chung của Anh và Trung Quốc ở Đông Dương là sẽ phục hồi lại nền cai trị của Pháp và tạo điều kiện thuận lợi cho quân đội Pháp và các quan chức hành chính vì mục đích trên càng sớm càng tốt.
Người Trung Quốc rất căm phẫn và đã chống lại sự độc đoán của Anh.
Tưởng đã thẳng thừng báo cho Anh biết họ chống lại thể thức tiếp thu đầu hàng đã được chấp nhận và ghi trong bản mệnh lệnh chung số 1, và người Trung Quốc không tán thành đề nghị của Anh. Bác sĩ Wu đã gặp Hurley vào ngày 18-8 và trao cho ông một bản sao lời phúc đáp của Trung Quốc ra lệnh cấm người Anh cho quân đội đổ bộ vào bật cứ nơi nào trên Chiến trường Trung Hoa mà không được phép tướng Mac Arthur và Tưởng, nhưng lại bảo đảm là Chính phủ Trung Hoa sẽ tôn trọng tất cả các quyền lợi hợp pháp của Anh và sẽ bảo vệ cho các quyền lợi đó. Cùng ngày, Tưởng điện cho Tổng thống Truman nhắc lại đề nghị của Anh và lập trường của bản thân ông. Tưởng đã kết luận bằng lời tuyên bố rằng nếu Anh cứ tiến hành các bước đi đã được dự định thì sẽ là một điều “bất hạnh” lớn cho Đồng minh và gợi ý với Tổng thống thúc ép người Anh phải “kiềm chế đừng để có bất cứ hành động không thể bảo đảm được nào”. Yêu cầu của Darian với người Tnlng Quốc cho chuyển quân đội Pháp từ Trung Quốc vào Đông Dương đã làm nổ ra một cuộc khủng hoảng khác, nhưng Tưởng cũng đã có thể giải quyết được theo kiểu cách riêng của mình. Tưởng đã đồng ý với Darian sẽ để cho người Pháp quay trở lại phía nam biên giới. Ông ta cho biết lúc đó người Pháp không có phương tiện vận tải dư thừa nên người Pháp muốn thì họ phải đi bộ, tay cầm tay như trước đây, cùng với lực lượng chiếm đóng của Trung Quốc và dưới sự “điều khiển” của người chỉ huy họ. Sau đó, cứ như là một việc được nhớ tới một cách muộn mằn, Darian lại đươc báo cho biết thêm là ngay sau khi ấn định được thời gian và địa điểm để tổ chức việc tiếp nhận đầu hàng và sau khi đã chỉ định xong viên tư lệnh người Trung Hoa được uỷ nhiệm làm việc đó thì tướng Alessandri sẽ được mời đi cùng với viên tư lệnh ấy. Điều đó đã thực sự trở thành một cân chuyện rùm beng rỗng tuếch như những tiếng đàn banđua om sòm. Đề nghị của Anh và sự bác bỏ đề nghị đó của Trung Quốc đã đặt Tổng thống Truman vào một thế khó xử giữa hai đồng minh. Thủ tướng Atllee đã điện cho Tổng thống, yêu cầu sửa lại chỉ thị trước đây của Tổng thống cho Mac Arthur để cho phép người Nhật giao nộp Hongkong cho người Anh. Ông ta lấy cớ là thuộc địa Anh không thể được giải thích là “thuộc Trung Quốc” vì đó rõ ràng là vùng đất đai thuộc chủ quyền Anh, không có liên quan gì đến vấn đề ranh giới, quân sự của chiến trường. Nhưng người Anh cũng báo cho Tưởng biết rằng sự có mặt của một đại diện Trung Quốc trong việc tiếp nhận đầu hàng cũng vẫn sẽ được “hoan nghênh”. Dù sao đi nữa thì Hurley cũng vẫn cứ bực tức. Ông đã nhận được một bản sao lời phúc đáp của Anh cho người Trung Quốc, trong đó có nói trong khi Đại sứ quán Anh gửi bản đề nghị đầu tiên cho Trung Quốc thì họ chưa được xem bản Mệnh lệnh chung số 1 nhưng vì thiện chí họ đã báo cho Trung Quốc biết những ý định của họ. Vào cuối giờ buổi sáng hôm đó(1), Đại sứ quán chúng ta được thông báo cho biết là Chính phủ London khăng khăng đòi quân Nhật ở Hongkong phải đầu hàng người Anh nhưng lại chịu nhượng bộ ở Đông Dương và sẽ tuân theo những quyết định trong Bản Mệnh lệnh chung số 1 với điều kiện là người chỉ huy cao cấp nhất của Nhật ở Sài Gòn phải đầu hàng người Anh còn người Trung Quốc sẽ tiếp thu ở Hà Nội việc đầu hàng của các chỉ huy Nhật cấp dưới phụ trách vùng phía bắc thuộc chiến trường Trung Hoa. Để xoa dịu, người Anh sẽ mời một đại diện Trung Quốc đến dự buổi lễ tổ chức tại Sài Gòn. Điều tôi được nghe sau hết về cuộc cãi lộn này trước khi tôi đi Hà Nội là Tổng thống đã làm áp lực đối với Tưởng, bắt phải chấp nhận yêu cầu của người Anh. Ngày 21-8, ông đã điện cho Tưởng biết rắng vấn đề Hongkong “trước hết là một vấn đề mang tính chất tác chiến quân sự” và đó không phải là vấn đề chủ quyền của người Anh như người Trung Hoa đã nêu lên. Sau khi chuyển tới Tưởng một ít lời hoan nghênh về sự thông cảm và hợp tác của Tưởng, Tổng thống đã kết luận rằng phương thức mới được sửa lại “đã đưa ra một cách giải quyết hợp lý”. Hai ngày sau, Tưởng đáp lại là ông “đồng ý uỷ quyền” của ông cho một chỉ huy người Anh và kết luận: “Ngài Tổng thống, tôi đã làm như vậy là xuất phát từ lòng mong muốn lớn được cộng tác với ngài về mọi mặt mà tôi có khả năng. Tưởng Giới Thạch.” Truman đã công nhận sự khuất phục của Tưởng trước thực tế của tình hình: “Xin nhận lấy sự đánh giá cao của tôi về hành động chung của ngài đối với việc Nhật đầu hàng một chỉ huy người Anh ở Hongkong. Hành động đó của ngài đã giúp gỡ được một tình huống khó khăn”. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #41 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 10:04:34 AM » CÁC TOÁN “MERCY” NHÂN ÁI Khi chiến tranh kết thúc có độ 2 vạn tù binh chiến tranh người Mỹ và Đồng minh, và khoảng 1,5 vạn thường dân bị cầm tù trong tay người Nhật. OSS đã xác định được chỗ của họ bị giam ở các vị trí tại Mân Châu Lý và Nam Triều Tiên đến Đông Dương. Các nhà chức trách Đồng minh rất lo lắng về việc quân đội bại trận Nhật có thể trả thù đối với những người họ đã bắt giữ hoặc có thể ngưng tiếp và cung cấp thuốc men để cho họ chết khi người Nhật rút lui. OSS đã nhận được chỉ thị phải chuẩn bị kế hoạch cho một chiến dịch cứu trợ và đến cuối tháng Bảy, chúng tôi đã tổ chức ra một số toán kiểu biệt kích được gọi chung là các toán “Mercy”. Nhiệm vụ của các toán này là nhảy dù xuống các trại tù binh chiến tranh trước khi cuộc xung đột kết thúc, đảm bảo an ninh cho tù binh, ngăn chặn mọi sự hành hạ và thu dọn các sân bay ở gần đó để nhanh chóng chuyên chở tù binh đi bằng đường không. Đối với OSS thì các toán này cũng sẽ tạo cơ hội thuận tiện để theo dõi các mục tiêu tình báo và hoạt động chiến tranh chính trị sau khi địch đầu hàng. Chưa ai có thể đoán trước được phản ứng của Nhật ra sao, nên hoạt động cứu trợ này đã được ấn định tiến hành theo 5 bước: trước hết là bắt liên lạc với các trại đã được lựa chọn để xác định số lượng và tình hình thể lực của tù binh, bước thứ hai là đơn vị Mountbatten cho in những truyền đơn để thả xuống báo cho Nhật biết là một toán OSS sẽ tới vì mục đích nhân đạo, sau đó các toán sẽ được thả dù xuống các nơi có trại giam, kèm theo việc thả dù các đồ tiếp tế, cuối cùng là tù binh hoặc các người bị giam sẽ nhanh chóng được sơ tán đi. Khi có tin Nhật đầu hàng thì OSS cũng đã sẵn sàng. Đội Không quân thứ 14 đã cung cấp máy bay và mọi thứ cần thiết cho 4 đợt xuất kích từ Hsian (San) vào Bắc Kinh, Weihsien, Harbin và Mukden. Ngày 15-8, 3 trong số 4 toán Mercy đã được tung đi, nhưng chuyến bay về Harbin phải huỷ bỏ vì chúng ta không giải thích nổi điều đó cho người Nga rõ. Toán hạ xuống Mukden đã được người Nhật báo cho biết là những cuộc đổ bộ sau này phải đuợc thu xếp trước với họ. Suốt trong 7 ngày sau, lại có thêm 3 toán bổ sung nữa được gửi đến Thương Hải, đảo Hải Nam và Hà Nội. Tôi cầm đầu toán bay đi Hà Nội. Khi chúng tôi chuẩn bị được nửa chừng, chúng tôi dồn dập nhận được rất nhiều điện tín của các đơn vị OSS phân tán ở các nơi, yêu cầu cho phép họ được giữ một cách đầy đủ vai trò của những người chiến thắng. Vấn đề đầu hàng của người Nhật ở bất kỳ nơi nào trên Chiến trường Trung Hoa đều là việc dễ gây rắc rối cho Bộ chỉ huy Mỹ. Trong bất kỳ trường hợp nào chúng tôi cũng không được cho phép quân đội Mỹ chấp nhận, dù chỉ là một sự đầu hàng của một đơn vị, mà không có sự đồng ý của Trung Quốc. Và thực tế chúng tôi đã làm như vậy. Đối với quân đội Mỹ mà cũng bị kích động và phản ứng với các điều khoản đầu hàng như thế thì người ta cũng có thể tưởng tượng được là các điều khoản đó đã xúc phạm đối với những người Pháp kháng chiến theo De Gaulle ở Trung Quốc như thế nào, và những cố gắng của họ nhằm phá bỏ các mệnh lệnh hiện hành cũng có thể trở thành dữ dội ra sao. MỘT PHÁI ĐOÀN TỰ PHONG Sau cuộc ném bom Nagasaki mấy ngày, Sainteny đã yêu cầu gặp tôi vì có việc khẩn cấp. Tôi không được nghe nói tới ông ta kể tới khi ông ta ở Paris trở về, nhưng tôi cũng không ngạc nhiên mà cũng chẳng hào hứng gì đối với yêu cầu của ông. Chúng tôi đã gặp nhau tại trụ sở của tôi vào ngày 12-8. Lúc đó ông ta có Flichy đi cùng và đã thể hiện có một thái độ không cứng nhắc như trước. Với một phong cách ít nhiều nhún nhường, ông đi thẳng vào vấn đề. Ông thừa nhận một cách buồn bã là chiến tranh đang đi đến chỗ kết thúc, vượt lên trên dự kiến của người Pháp, do đó, cần thiết phải sửa đổi lại các kế hoạch của Pháp để đối phó với tình hình đang thay đổi. Theo Sainteny, chính phủ Pháp đã không chuẩn bị thành lập một chính phủ quân sự mà cũng chẳng đặt ra bộ máy cai trị lâm thời của người Việt Nam, do người Pháp đỡ đầu, chủ yếu chỉ vì Pháp “đã không được phép” tập trung lực lượng quân đội của Pháp sang Viễn Đông. Tôi đã hỏi ông về những chỉ thị ông đã nhận được từ Paris về việc Pháp trở lại Đông Dương. Ông ta buột miệng trả lòi “không có gì”, nhưng sau đã giải thích thay vào đó là ông đã nhận được chỉ thị của đại tá Rose ở Ấn Độ và ông này có liên lạc trực tiếp với Paris. Chính sách của Pháp, theo ông nói, là giữ một thái độ bị động trước việc chiếm đóng lại Đông Dương vì người Pháp không có khả năng thực hiện việc trở lại với một cuộc biểu dương “lực lượng võ trang hùng mạnh”. Kế hoạch trước mắt của ông là “thăm dò các lực lượng khác nhau ở Đông Dương” trước khi toan tính cho người Pháp quay trở lại. Để làm việc đó, Chính phủ Pháp đã chỉ định một “Ủy ban” ba người: Sainteny, với tư cách là thủ trưởng DGER/Côn Minh; Tổng thanh tra các thuộc địa (không nêu tên); giám đốc công dân vụ Pierre Mesmer, lúc đó ở Calcutta, đang chờ được đưa tới Trung Quốc. Họ sẽ đến ngay Hà Nội để tiếp xúc với các lãnh tụ Việt Nam ở địa phương và điều đình với họ theo những “điều khoản có lợi cho người Đông Dương”. Theo Sainteny thì “Ủy ban” được trao quyền thương lượng và cam kết thay cho Chính phủ Pháp. Những điều đạt được và những điều khuyến cáo của Ủy ban sẽ được chuyển tới De Gaulle, các Bộ trưởng ngoại giao và thuộc địa và cho Chính phủ Pháp. Ông đã được “bảo đảm” là các điều cam kết của Ủy ban sẽ được chính phủ Pháp tôn trọng, hoặc nếu cần thì có sửa đổi chút ít. Trong lúc ấy, Sainteny nhắc lại, Chính sách của chính phủ Pháp là nhằm “làm dịu bớt” việc quay trở lại của người Pháp cho thích hợp với tình hình. Ông nói với tôi, ông muốn làm một chuyến bay mở đầu đến Hà Nội, cùng với 4 hay 5 nhân viên trong Bộ tham mưu của ông. Ông cũng muốn bắt liên lạc với nhân viên của ông, thiếu tá Blanchard, đã được phái đến vùng Hà Nội ngày 8-8, và qua người này, Sainteny sẽ bắt mối với các lãnh tụ địa phương. Ông dự định sẽ ở lại Hà Nội 48 tiếng, sau đó trở về Côn Minh báo cáo những điều ông đã thấy cho hai ủy viên khác của Ủy ban, cũng như với Tổng đại diện quân sự, tướng Alessandri. Rồi Ủy ban sẽ báo cáo tổng hợp các điều phát hiện được cùng với các lời khuyến cáo cho Chính phủ Paris; và trên cơ sở đó, cả ba người sẽ đến Hà Nội để thành lập một bộ máy cai trị lâm thời của người Pháp “với sự tán thành của người Đông Dương”. Sainteny đã nói rộng ra ít nhiều về lập trường của Pháp. Nếu như những cuộc thương lượng dự định bị thất bại hoàn toàn, Chính phủ Pháp sẽ không có hành động gì và để hoàn toàn cho Mỹ và Anh lập lại trật tự ở Đông Dương. Ông bảo, “Ủy ban” cảm thấy chắc chắn rằng, người Mỹ cũng như người Anh đều không chuẩn bị hoặc muốn duy trì những lực lượng chiếm đóng ở Đông Dương, mà sẽ chỉ để cho người Trung Quốc và người Pháp làm việc đó. Theo Sainteny, nếu người Trung Quốc được lựa chọn, thì người Pháp tin chắc rằng Thống chế sẽ cử tướng Trương Phát Khuê làm đại diện của mình để tiếp nhận việc đầu hàng của người Nhật ở Hà Nội. Ông nghĩ rằng Trương sẽ được hâm mộ hơn các tướng của Thống đốc Long Vân, nhưng người Pháp vẫn còn sợ xảy ra những vụ cướp bóc, tàn phá quy mô lớn và cũng có thể nổ ra xung đột với người Việt Nam. Như vậy, lại có khả năng người Nhật lúc đó sẽ xin hàng theo người Việt. Đó cũng sẽ vừa là một điều tai hoạ và cũng là một điều may mắn. Sainteny tin chắc rằng trong trường hợp đó, người “Annam” sẽ không có khả năng để đối phó với tình hình, sẽ xảy ra rối loạn và từ đó sẽ mong muốn mạnh mẽ cho người Pháp quay trở lại, ít nhất cũng trong một thời gian. Sainteny cũng kể lể dài dòng đến lời tuyên bố về Đông Dương của Bộ trưởng thuộc địa ngày 24-4, hứa điều mà Sainteny coi như là “các quyền tự do dân chủ”, một sự độc lập hoàn toàn về kinh tế đối với những quyền lợi và sự kiểm soát của Pháp. Ông đã nhắc đi nhắc lại là Chính sách của Pháp là một “nền cai trị tự do” nhất, vượt xa những mơ ước ngông cuồng nhất của ngay cả “những người Annam cấp tiến nhất”. Sainteny đã kết luận với một câu hỏi: “OSS có thể giúp cấp cho tôi một máy bay để đi làm nhiệm vụ ở Hà Nội được không?”. Và, ông nói tiếp “Ồ, đúng như vậy! Người Pháp sẽ mặc quân phục Mỹ hoặc thường phục”. Rõ ràng là người Pháp đã bị mắc kẹt. Họ đã không được trang bị mà cũng chẳng được chuẩn bị gì cho một cuộc tiếp quản bằng quân sự thuộc địa cũ của mình. Tất cả điều gì mà Sainteny có thể làm được trong hoàn cảnh đó, sẽ chỉ là nhanh chóng thiết lập được một kiểu có mặt nào đó của người Pháp trong khi chờ đợi sự ủng hộ và chỉ thị của Paris. Hy vọng của ông trong việc dựng lên một chính quyền Việt Nam lâm thời thân Pháp với sự giúp đỡ hữu nghị của những người Quốc dân đảng quốc gia (thân Trung Quốc) sẽ chỉ là một hành động chống đỡ mạnh mẽ; nhưng hình như ông lại không biết được rằng tinh thần chống Pháp của người Việt Nam đã được kết hợp lại trong một mặt trận chính trị vững mạnh, Mặt trận Việt Minh. Còn về yêu cầu OSS chuyên chở và người Mỹ che dấu thì tôi nói với Sainteny là tôi hiểu vấn đề của ông, và gặp trường hợp tương tự, tôi sẽ phải dùng thử những biện pháp như thế; nhưng việc nhờ người Mỹ che dấu là hoàn toàn không thể đặt thành vấn đề, vì nó sẽ đem lại nhiều hậu quả nghiêm trọng về ngoại giao. Ý kiến của Sainteny về việc người Nhật đầu hàng người Đông Dương là không có căn cứ. Người Nhật đã được lệnh chỉ đầu hàng những chỉ huy Đồng minh được chỉ định về việc này, và người Việt Nam không thuộc vào hàng các người đó. Tôi nói với Sainteny rằng tôi không tin là Chiến trường lại muốn chuyển một máy bay dùng vào các kế hoạch của các toán Mercy sang làm một việc khác, nhưng tôi cũng sẽ chuyển lời yêu cầu của ông cho Chiến trường. Trước khi ra về, Sainteny cám ơn tôi đã nghe ông ta một cách có thiện cảm và gợi ý là ông và người của ông có thể được ghép vào toán Mercy đi Hà Nội. Tôi hứa là sẽ khêu gợi vấn đề đó với Bộ chỉ huy và cũng ngay chiều hôm đó, tôi chuyển yêu cầu của Sainteny đến OSS/Trùng Khánh. Hai ngày sau, tổng hành dinh của Wedemeyer đáp lại rằng việc cho người Pháp tới Hà Nội trong chuyến bay của toán Mercy là không mang lại lợi ích gì và sự có mặt của người Pháp ở Hà Nội đang được thu xếp “trong một thời gian thích hợp”. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #42 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 10:05:32 AM » MỘT TRỞ NGẠI KHÔNG ĐÁNG KỂ DO TRỜI MƯA Thực tế chỉ trong ngày một ngày hai mà khu cư trú của chúng tôi ở Côn Minh đã thay đổi từ một trung tâm chỉ huy quân sự thành một tiền đồn cho việc chỉ đạo chính trị. Những phần tử ngoại quốc - Pháp, Hà Lan, Anh và Trung Quốc - trước đây được nguỵ trang cẩn thận, nay lộ mặt xuất hiện tại hành dinh của OSS để chuẩn bị cho các công tác sau chiến tranh, hoặc phải đặc biệt xử lý việc này hay việc khác. Nhân viên OSS chúng tôi bận rộn chẳng kém gì những ngày còn chiến tranh. Lúc đó trời mưa. Trong những ngày đầu tháng 8 mưa còn nhỏ, nhưng càng ngày càng trở nên dữ dội. Giữa tháng 8, mưa to đã gây thành một trận lụt tệ hại nhất. Côn Minh biến thành một cái hồ lớn. Nhưng trận lụt cũng không ngăn cản được sự chuẩn bị sôi nổi của toán Mercy, mà cũng chẳng làm nhụt chí được những người Triều Tiên, Miến Điện, Thái Lan và Việt Nam trong việc vật lộn một cách vất vả với bản báo cáo “bí mật”, các sơ đồ và đề nghị về các sự nghiệp khác nhau của họ. Nổi bật nhất là những người Việt Nam, họ yêu cầu được đối xử một cách đặc biệt và yêu cầu được sự ủng hộ của Đồng minh, đặc biệt là của Mỹ. Người phát ngôn của Việt Minh nghiêm chỉnh đề nghị biến Đông Dương thành một xứ bảo hộ của Mỹ và thúc ép Mỹ can thiệp với Liên Hợp Quốc để gạt cả người Pháp và người Trung Quốc ra ngoài kế hoạch chiếm đóng lại Đông Dương của Đồng minh. Đại diện của Hồ Chí Minh rất lo lắng về kế hoạch chiếm đóng của Trung Quốc. Họ sợ rằng những người láng giềng phương Bắc sẽ trở thành những kẻ đi chiếm đất đai ở Đông Dương, sống bằng sự cướp bóc, tước đoạt. Người Pháp đồng ý với những mối lo lắng nói trên, nhưng thêm vào đó lại muốn giữ độc quyền về cai trị cho bản thân mình. Tổng bộ Việt Minh ở Hà Nội đã gửi đến một công hàm để giải thích rõ lập trường của họ, trong đó có đoạn viết: “Nếu người Pháp mưu toan trở lại Đông Dương để hòng cai trị đất nước này và một lần nữa lại đóng vai những kẻ đi áp bức; thì nhân dân Đông Dương sẵn sàng chiến đấu đến cùng,, chống lại việc tái xâm lược đó của Pháp. Mặt khác, nếu họ đến với tư cách là những người bạn để gây dựng nền thương mại, công nghiệp mà không có tham vọng thống trị, thì họ sẽ được hoan nghênh như bất kỳ cường quốc nào khác. Tổng bộ mong muốn báo cho Chính phủ Mỹ biết là nhân dân Đông Dương yêu cầu trước hết là nền độc lập của Đông Dương và mong rằng nước Mỹ, người bảo vệ chế độ dân chủ, sẽ giúp đỡ họ giành lại độc lập bằng cách sau đây: 1. Ngăn cấm hoặc không giúp đỡ người Pháp quay trở lại Đông Dương bằng võ lực. 2. Kiểm soát người Trung Quốc để hạn chế đến mức thấp nhất các cuộc cướp bóc, tước đoạt. 3. Cho các chuyên viên kỹ thuật sang giúp người Đông Dương khai thác nguồn tài nguyên đất đai. 4. Phát triển các ngành kỹ nghệ mà Đông Dương có khả năng cung ứng. Nói tóm lại, người Đông Dương muốn sẽ được đặt ở một địa vị ngang hàng như Philippin trong một thời gian không hạn định”. Đây là bản thông cáo bán chính thức đầu tiên gửi cho nước Mỹ và tôi cũng cảm thấy nó có đầy đủ mức quan trọng để được chuyển về cho tướng Donovan và đã được Helliwell điện đi vào ngày 18-8. Trong khi đó, mùa trở nên tồi tệ hơn, và cũng chẳng có việc gì khác phải làm, Sainteny và tôi gặp nhau lần thứ hai (vào sáng ngày 16-8) để trao đổi về vấn đề Trùng Khánh bác bỏ chuyến đi của ông đến Hà Nội. Sainteny rất nôn nóng khó chịu và kết tội OSS là đã ăn cánh với người Trung Quốc để phá hoại kế hoạch quay trở lại của người Pháp. Ông ta cáu giận đến trở thành mất trí và vô chính trị, doạ không công nhận chính sách của Chiến trường, tiếp tục làm theo ý mình, được gì thì được. Tôi khuyên giải ông và hứa thử hỏi một lần nữa Trùng Khánh cho ông tham gia giúp đỡ việc quản lý các tù binh Pháp ở Hà Nội, nếu như ông cam đoan tự hạn chế mình không làm những hành động vô chính trị. Với một thái độ miễn cưỡng, ông chấp nhận cho ông và 4 nhân viên trong Bộ Tham mưu của ông mang quân phục Pháp được đến Hà Nội với danh nghĩa tham gia phái đoàn của tôi. Cùng ngày hôm đó, tôi nhận được một bản giải thích thêm của Chiến trường: phải nói thêm cho Sainteny và 4 nhân viên của ông một cách rõ ràng là họ phải hạn chế hoạt động trong các nhiệm vụ có tính chất nhân đạo trong cộng đồng người Pháp. Nhưng trời mưa đã làm trở ngại cho việc xuất phát của chúng tôi lúc đó. Nôn nóng muốn đến Hà Nội để thực hiện nhiệm vụ “bí mật” của mình, Sainteny đã kiếm được một máy bay Pháp, một chiếc C.47 vừa mới ở Calcutta tới. Chiếc máy bay này do một phi công dân sự tên là Fulachier lái cho hãng Air France đưa đến để nhằm khôi phục lại các chuyến bay giữa Ấn Độ và Trung Quốc, sau khi được Đại sứ quán và Chính phủ Trung Hoa bàn xong các vấn đề chi tiết. Cuối buổi chiều hôm đó, Helliwell báo cho tôi biết là Sainteny đang chuẩn bị dùng một máy bay Pháp để nhảy dù xuống Hà Nội. Alessandri cũng yêu cầu tướng Hà Ứng Khâm cho phép máy bay Pháp bay tới Hà Nội. Yêu cầu trên đã bị bác bỏ và người Trung Hoa đã cho binh lính tới canh giữ chiếc phi cơ của Pháp với mệnh lệnh là không cho người nào lên máy bay đi Hà Nội. Mệnh lệnh đã nói gộp cả lại: “Tất cả các máy bay, không kể từ đâu đến và thuộc quốc tịch nào, đều không được cất cánh để bay đi Đông Dương thuộc Pháp cho đến khi có lệnh mới”. Ngày hôm sau lại xảy ra một chuyện khác với Sainteny. Ông đã tấn công tôi dồn dập với những lời buộc tội, nào là người Mỹ phản bội người Pháp, cá nhân tướng Wedemeyer đã gây trở ngại cho người Pháp ở Chiến trường, người Mỹ ở Trung Quốc tuy không cố tình nhưng lúc nào cũng hùa theo với mưu đồ của người Trung Quốc. Ông nói ý nghĩ riêng của mình,, cho là Wedemeyer đã không trung thực với người Pháp ngay từ những lúc đầu. Khi tôi hỏi ông điều ông dự tính làm trong những ngày sắp tới, ông gượng gạo nói rằng ông chẳng làm gì cả ngoài việc ngồi chờ chỉ thị của Trùng Khánh. Sau đó, tôi tình cờ được biết là Sainteny đã cho một toán 10 người do Blanchard phụ trách, xâm nhập vào Hải Phòng để bắt liên lạc với người Nhật ở Hà Nội và xúc tiến công tác với trung tá Kamiya, một cựu sĩ quan liên lạc Tổng hành dinh quân Nhật ở Hà Nội với chính quyền Decoux. Nhưng Kamiya đã giữ toán người Pháp lại ở Hải Phòng và đã hạn chế hoạt động của họ vào việc chuyển những tin tức thời tiết cho người Pháp ở Côn Minh. Đúng như điều chúng tôi lo ngại, người Nhật đã tiếp đón máy bay Đồng minh của các phái đoàn Mercy khác một cách rất lộn xộn. Hơn nữa, một phi cơ Đồng minh khi bay qua Hà Nội ngày 19-8 đã bị hoả lực phòng không bắn, nên Bộ chỉ huy Chiến trường quyết định hoãn chuyến đi Hà Nội của chúng tôi cho đến khi nào cơ quan chỉ huy Nhật ở Hà Nội nhận được thông báo là chúng tôi tới đó. Bấy giờ trời mưa lại ngăn trở không cho máy bay cất cánh. Những khó khăn phiền toái với người Pháp ở Trung Quốc đã là đầu đề cho vô khối thư từ công văn giữa Trùng Khánh và Washington. Và tướng Donovan đã phải chỉ thị cho Heppner phối hợp chặt chẽ mọi kế hoạch của OSS có liên quan đến người Pháp trở lại Đông Dương với Bộ chỉ huy chiến trường và Đại sứ quán Mỹ. Trong lời giải đáp cuối cùng đối với chỉ thị của Donovan, Helliwell đã điện báo: “Phúc đáp diện 642, chúng tôi đã tiến hành công việc theo như đã được hướng dẫn. Sainteny đi cùng với Patti hôm thứ bảy. Điều đó có nghĩa rõ ràng là người Pháp hoàn toàn thuộc quyền chỉ huy của Mỹ và cũng chỉ có những người Pháp hoạt động với OSS. Cờ Pháp sẽ không được dùng đến”. Trước khi bức điện được gửi đi, tôi đã trao đổi với Heppner về ý nghĩa của nó và yêu cầu phải ghi rõ sự đồng ý lên bản sao tài liệu. Nói tóm lại, không có trường hợp nào chúng tôi đã giúp đỡ cho người Pháp trong việc tiếp quản Đông Dương bằng vũ lực hoặc ngay cả tới việc tỏ ra có sự đồng tình tham gia vào các kế hoạch của họ. Trong khi gặp trở ngại về thời tiết, chiều ngày 19-8, tôi có gặp nhiều nhân viên thuộc chi nhánh Côn Minh của Mặt trận Việt Minh tại nhà của Phạm Viết Tự. Họ cũng vừa mới nhận được những tin tức rất phấn khởi từ Hà Nội, và khi tôi tới, tôi thấy họ đang rộn lên vì vui mừng. Tống Minh Phương đã được một người bạn của Thái Hà ấp ngoại ô Hà Nội, báo cho biết là Hà Nội đã nổi dậy. Họ kể lại một cách sơ sài là vào ngày 17-8, chính quyền địa phương Việt Nam của chế độ Bảo Đại đã tổ chức một cuộc biểu tình để ủng hộ Chính phủ trung ương của Trần Trọng Kim. Tổng hội viên chức(2) là người đứng ra tổ chức cuộc biểu tình ở địa phương và một đám quần chúng tới 2,5 vạn người đã tập hợp ở trước cửa Nhà hát lớn thành phố. Không rõ tình hình đã xảy ra như thế nào, chỉ biết là các đội viên đội võ trang tuyên truyền đã chiếm lấy các cuộc mít tinh kêu gọi quần chúng lật đổ Chính phủ “bù nhìn”, đi theo Việt Minh và giành chính quyền về cho nhân dân. Theo những tin tức nhận được thì người Nhật đã không can thiệp và Ủy ban thành Hà Nội đã nắm lấy cơ hội thuận lợi có cuộc mít tinh lớn lao đó để thúc đẩy tình hình tiến tới một cuộc khởi nghĩa qui mô rộng toàn thành phố. Sau những giò phút bị kích động cao độ lúc đầu, nhóm Côn Minh cũng tỏ ra thấy rõ được tình hình hơn, một số nghĩ rằng hành động của Ủy ban Thành Hà Nội là quá sớm. Nếu người Nhật quyết định đàn áp cuộc nổi dậy thì sao. Chuyện gì sẽ sẩy ra nếu Đồng minh, và đặc biệt là Trung Quốc cho chuyển người Pháp vào Đông Dương với bọn bù nhìn Quốc dân đảng? Không rõ Giải phóng quân có sẵn sàng đối phó với tình hình không? Đây là điều lo lắng đã xen vào niềm vui hân hoan của họ, tuy chẳng gì có thể che giấu được lòng tự hào và những cao vọng của họ. Tự và các người cộng sự với ông hướng về phía tôi, nhưng tôi cũng chẳng làm gì được để họ yên tâm. Tôi chỉ có thể gợi ý được rằng phải thận trọng, đừng để cho tình hình tuột khỏi tay và dẫn đến những sự đổ máu không cần thiết, dù là người Việt hay người Pháp cũng vậy. Cũng ngay chiều hôm đó, tôi đã nói lại với Helhwell và Heppner về những gì tôi đã nghe được và gợi ý là phải báo cáo với tướng Wedemeyer. Helliwell đã mạnh dạn phát biểu ý kiến, cho rằng Tưởng sẽ chẳng vui vẻ gì nếu như quân đội của ông ta ở Việt Nam lại bị dồn đến chỗ phải giữ một nền trật tự lâu dài ở Đông Dương. Heppner thì lo lắng đến việc sơ tán các tù nhân Đồng minh và làm thế nào để cho quân Nhật đầu hàng mà không xảy ra chuyện rắc rối gì. Mối quan tâm chủ yếu của tôi lại là chung quanh vấn đề người Pháp. Nếu họ được phép vào Đông Dương với người Trung Hoa thì chắc chắn là sẽ xảy ra xung đột với người Việt Nam, và người Trung Hoa sẽ không tránh khỏi lôi cuốn vào chuyện này. Chúng tôi cũng không nghĩ tới việc tình hình mới này đúng ra là phải được cấp Chiến trường xem xét và quyết định. Nhưng sáng hôm sau,, khi Heppner thảo luận tình hình Hà Nội với tướng Gross thì không có gì có thể quan trọng hơn nữa và toán Mercy được lệnh phải tiến vào Hà Nội ngay khi thời tiết cho phép. Mưa vẫn tiếp tục như trút nước. Đường băng bị hỏng và bị ngập sâu, xăng dầu cũng bị tràn bởi nước lũ, độ cao thấp và tầm nhìn xa hạn chế nên không máy bay nào có thể cất cánh được.
Nhưng Sainteny vẫn còn lồng lộn lên và chưa mất hết cái thói quen thích hoạt động theo lối cửa sau. Ông không còn phải giữ gìn gì nữa và đã tiết lộ cho tôi biết (điều mà tôi đã nghe từ một nơi khác) là Blanchard đã vào Hải Phòng, đã bắt liên lạc với người Nhật và cũng đã báo cho người Nhật biết là người Pháp sẽ đến trên một chiếc phi cơ của Mỹ và không được bắn vào họ. Theo Sainteny, nói thì như vậy sẽ bảo đảm hoàn toàn an ninh cho chúng tôi khi tới Đông Dương. Nhưng chỉ riêng cái ý muốn giầy xéo lên các mệnh lệnh của Chiến trường của ông ta cũng đã quá lố bịch và không cần phải được thảo luận tới. Đấy là chưa kể đến sự việc Nhật đã không chấp nhận “proposition”(3) của Blanchard. Chúng tôi vẫn phải đợi ở Côn Minh. Cho đến ngày 21, một số chuyến bay ưu tiên bậc nhất mới được phép cất cánh. Lúc đó người Trung Quốc đã thu xếp với cơ quan liên lạc của Nhật ở Trung Quốc để cho toán của chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Bạch Mai gần Hà Nội, và chúng tôi đã được báo để xuất phát vào sáng ngày 22. Lần này thì không có gì ngăn cản được nữa. ________________________________________
Tưởng đã thẳng thừng báo cho Anh biết họ chống lại thể thức tiếp thu đầu hàng đã được chấp nhận và ghi trong bản mệnh lệnh chung số 1, và người Trung Quốc không tán thành đề nghị của Anh. Bác sĩ Wu đã gặp Hurley vào ngày 18-8 và trao cho ông một bản sao lời phúc đáp của Trung Quốc ra lệnh cấm người Anh cho quân đội đổ bộ vào bật cứ nơi nào trên Chiến trường Trung Hoa mà không được phép tướng Mac Arthur và Tưởng, nhưng lại bảo đảm là Chính phủ Trung Hoa sẽ tôn trọng tất cả các quyền lợi hợp pháp của Anh và sẽ bảo vệ cho các quyền lợi đó. Cùng ngày, Tưởng điện cho Tổng thống Truman nhắc lại đề nghị của Anh và lập trường của bản thân ông. Tưởng đã kết luận bằng lời tuyên bố rằng nếu Anh cứ tiến hành các bước đi đã được dự định thì sẽ là một điều “bất hạnh” lớn cho Đồng minh và gợi ý với Tổng thống thúc ép người Anh phải “kiềm chế đừng để có bất cứ hành động không thể bảo đảm được nào”. Yêu cầu của Darian với người Tnlng Quốc cho chuyển quân đội Pháp từ Trung Quốc vào Đông Dương đã làm nổ ra một cuộc khủng hoảng khác, nhưng Tưởng cũng đã có thể giải quyết được theo kiểu cách riêng của mình. Tưởng đã đồng ý với Darian sẽ để cho người Pháp quay trở lại phía nam biên giới. Ông ta cho biết lúc đó người Pháp không có phương tiện vận tải dư thừa nên người Pháp muốn thì họ phải đi bộ, tay cầm tay như trước đây, cùng với lực lượng chiếm đóng của Trung Quốc và dưới sự “điều khiển” của người chỉ huy họ. Sau đó, cứ như là một việc được nhớ tới một cách muộn mằn, Darian lại đươc báo cho biết thêm là ngay sau khi ấn định được thời gian và địa điểm để tổ chức việc tiếp nhận đầu hàng và sau khi đã chỉ định xong viên tư lệnh người Trung Hoa được uỷ nhiệm làm việc đó thì tướng Alessandri sẽ được mời đi cùng với viên tư lệnh ấy. Điều đó đã thực sự trở thành một cân chuyện rùm beng rỗng tuếch như những tiếng đàn banđua om sòm. Đề nghị của Anh và sự bác bỏ đề nghị đó của Trung Quốc đã đặt Tổng thống Truman vào một thế khó xử giữa hai đồng minh. Thủ tướng Atllee đã điện cho Tổng thống, yêu cầu sửa lại chỉ thị trước đây của Tổng thống cho Mac Arthur để cho phép người Nhật giao nộp Hongkong cho người Anh. Ông ta lấy cớ là thuộc địa Anh không thể được giải thích là “thuộc Trung Quốc” vì đó rõ ràng là vùng đất đai thuộc chủ quyền Anh, không có liên quan gì đến vấn đề ranh giới, quân sự của chiến trường. Nhưng người Anh cũng báo cho Tưởng biết rằng sự có mặt của một đại diện Trung Quốc trong việc tiếp nhận đầu hàng cũng vẫn sẽ được “hoan nghênh”. Dù sao đi nữa thì Hurley cũng vẫn cứ bực tức. Ông đã nhận được một bản sao lời phúc đáp của Anh cho người Trung Quốc, trong đó có nói trong khi Đại sứ quán Anh gửi bản đề nghị đầu tiên cho Trung Quốc thì họ chưa được xem bản Mệnh lệnh chung số 1 nhưng vì thiện chí họ đã báo cho Trung Quốc biết những ý định của họ. Vào cuối giờ buổi sáng hôm đó(1), Đại sứ quán chúng ta được thông báo cho biết là Chính phủ London khăng khăng đòi quân Nhật ở Hongkong phải đầu hàng người Anh nhưng lại chịu nhượng bộ ở Đông Dương và sẽ tuân theo những quyết định trong Bản Mệnh lệnh chung số 1 với điều kiện là người chỉ huy cao cấp nhất của Nhật ở Sài Gòn phải đầu hàng người Anh còn người Trung Quốc sẽ tiếp thu ở Hà Nội việc đầu hàng của các chỉ huy Nhật cấp dưới phụ trách vùng phía bắc thuộc chiến trường Trung Hoa. Để xoa dịu, người Anh sẽ mời một đại diện Trung Quốc đến dự buổi lễ tổ chức tại Sài Gòn. Điều tôi được nghe sau hết về cuộc cãi lộn này trước khi tôi đi Hà Nội là Tổng thống đã làm áp lực đối với Tưởng, bắt phải chấp nhận yêu cầu của người Anh. Ngày 21-8, ông đã điện cho Tưởng biết rắng vấn đề Hongkong “trước hết là một vấn đề mang tính chất tác chiến quân sự” và đó không phải là vấn đề chủ quyền của người Anh như người Trung Hoa đã nêu lên. Sau khi chuyển tới Tưởng một ít lời hoan nghênh về sự thông cảm và hợp tác của Tưởng, Tổng thống đã kết luận rằng phương thức mới được sửa lại “đã đưa ra một cách giải quyết hợp lý”. Hai ngày sau, Tưởng đáp lại là ông “đồng ý uỷ quyền” của ông cho một chỉ huy người Anh và kết luận: “Ngài Tổng thống, tôi đã làm như vậy là xuất phát từ lòng mong muốn lớn được cộng tác với ngài về mọi mặt mà tôi có khả năng. Tưởng Giới Thạch.” Truman đã công nhận sự khuất phục của Tưởng trước thực tế của tình hình: “Xin nhận lấy sự đánh giá cao của tôi về hành động chung của ngài đối với việc Nhật đầu hàng một chỉ huy người Anh ở Hongkong. Hành động đó của ngài đã giúp gỡ được một tình huống khó khăn”. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #41 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 10:04:34 AM » CÁC TOÁN “MERCY” NHÂN ÁI Khi chiến tranh kết thúc có độ 2 vạn tù binh chiến tranh người Mỹ và Đồng minh, và khoảng 1,5 vạn thường dân bị cầm tù trong tay người Nhật. OSS đã xác định được chỗ của họ bị giam ở các vị trí tại Mân Châu Lý và Nam Triều Tiên đến Đông Dương. Các nhà chức trách Đồng minh rất lo lắng về việc quân đội bại trận Nhật có thể trả thù đối với những người họ đã bắt giữ hoặc có thể ngưng tiếp và cung cấp thuốc men để cho họ chết khi người Nhật rút lui. OSS đã nhận được chỉ thị phải chuẩn bị kế hoạch cho một chiến dịch cứu trợ và đến cuối tháng Bảy, chúng tôi đã tổ chức ra một số toán kiểu biệt kích được gọi chung là các toán “Mercy”. Nhiệm vụ của các toán này là nhảy dù xuống các trại tù binh chiến tranh trước khi cuộc xung đột kết thúc, đảm bảo an ninh cho tù binh, ngăn chặn mọi sự hành hạ và thu dọn các sân bay ở gần đó để nhanh chóng chuyên chở tù binh đi bằng đường không. Đối với OSS thì các toán này cũng sẽ tạo cơ hội thuận tiện để theo dõi các mục tiêu tình báo và hoạt động chiến tranh chính trị sau khi địch đầu hàng. Chưa ai có thể đoán trước được phản ứng của Nhật ra sao, nên hoạt động cứu trợ này đã được ấn định tiến hành theo 5 bước: trước hết là bắt liên lạc với các trại đã được lựa chọn để xác định số lượng và tình hình thể lực của tù binh, bước thứ hai là đơn vị Mountbatten cho in những truyền đơn để thả xuống báo cho Nhật biết là một toán OSS sẽ tới vì mục đích nhân đạo, sau đó các toán sẽ được thả dù xuống các nơi có trại giam, kèm theo việc thả dù các đồ tiếp tế, cuối cùng là tù binh hoặc các người bị giam sẽ nhanh chóng được sơ tán đi. Khi có tin Nhật đầu hàng thì OSS cũng đã sẵn sàng. Đội Không quân thứ 14 đã cung cấp máy bay và mọi thứ cần thiết cho 4 đợt xuất kích từ Hsian (San) vào Bắc Kinh, Weihsien, Harbin và Mukden. Ngày 15-8, 3 trong số 4 toán Mercy đã được tung đi, nhưng chuyến bay về Harbin phải huỷ bỏ vì chúng ta không giải thích nổi điều đó cho người Nga rõ. Toán hạ xuống Mukden đã được người Nhật báo cho biết là những cuộc đổ bộ sau này phải đuợc thu xếp trước với họ. Suốt trong 7 ngày sau, lại có thêm 3 toán bổ sung nữa được gửi đến Thương Hải, đảo Hải Nam và Hà Nội. Tôi cầm đầu toán bay đi Hà Nội. Khi chúng tôi chuẩn bị được nửa chừng, chúng tôi dồn dập nhận được rất nhiều điện tín của các đơn vị OSS phân tán ở các nơi, yêu cầu cho phép họ được giữ một cách đầy đủ vai trò của những người chiến thắng. Vấn đề đầu hàng của người Nhật ở bất kỳ nơi nào trên Chiến trường Trung Hoa đều là việc dễ gây rắc rối cho Bộ chỉ huy Mỹ. Trong bất kỳ trường hợp nào chúng tôi cũng không được cho phép quân đội Mỹ chấp nhận, dù chỉ là một sự đầu hàng của một đơn vị, mà không có sự đồng ý của Trung Quốc. Và thực tế chúng tôi đã làm như vậy. Đối với quân đội Mỹ mà cũng bị kích động và phản ứng với các điều khoản đầu hàng như thế thì người ta cũng có thể tưởng tượng được là các điều khoản đó đã xúc phạm đối với những người Pháp kháng chiến theo De Gaulle ở Trung Quốc như thế nào, và những cố gắng của họ nhằm phá bỏ các mệnh lệnh hiện hành cũng có thể trở thành dữ dội ra sao. MỘT PHÁI ĐOÀN TỰ PHONG Sau cuộc ném bom Nagasaki mấy ngày, Sainteny đã yêu cầu gặp tôi vì có việc khẩn cấp. Tôi không được nghe nói tới ông ta kể tới khi ông ta ở Paris trở về, nhưng tôi cũng không ngạc nhiên mà cũng chẳng hào hứng gì đối với yêu cầu của ông. Chúng tôi đã gặp nhau tại trụ sở của tôi vào ngày 12-8. Lúc đó ông ta có Flichy đi cùng và đã thể hiện có một thái độ không cứng nhắc như trước. Với một phong cách ít nhiều nhún nhường, ông đi thẳng vào vấn đề. Ông thừa nhận một cách buồn bã là chiến tranh đang đi đến chỗ kết thúc, vượt lên trên dự kiến của người Pháp, do đó, cần thiết phải sửa đổi lại các kế hoạch của Pháp để đối phó với tình hình đang thay đổi. Theo Sainteny, chính phủ Pháp đã không chuẩn bị thành lập một chính phủ quân sự mà cũng chẳng đặt ra bộ máy cai trị lâm thời của người Việt Nam, do người Pháp đỡ đầu, chủ yếu chỉ vì Pháp “đã không được phép” tập trung lực lượng quân đội của Pháp sang Viễn Đông. Tôi đã hỏi ông về những chỉ thị ông đã nhận được từ Paris về việc Pháp trở lại Đông Dương. Ông ta buột miệng trả lòi “không có gì”, nhưng sau đã giải thích thay vào đó là ông đã nhận được chỉ thị của đại tá Rose ở Ấn Độ và ông này có liên lạc trực tiếp với Paris. Chính sách của Pháp, theo ông nói, là giữ một thái độ bị động trước việc chiếm đóng lại Đông Dương vì người Pháp không có khả năng thực hiện việc trở lại với một cuộc biểu dương “lực lượng võ trang hùng mạnh”. Kế hoạch trước mắt của ông là “thăm dò các lực lượng khác nhau ở Đông Dương” trước khi toan tính cho người Pháp quay trở lại. Để làm việc đó, Chính phủ Pháp đã chỉ định một “Ủy ban” ba người: Sainteny, với tư cách là thủ trưởng DGER/Côn Minh; Tổng thanh tra các thuộc địa (không nêu tên); giám đốc công dân vụ Pierre Mesmer, lúc đó ở Calcutta, đang chờ được đưa tới Trung Quốc. Họ sẽ đến ngay Hà Nội để tiếp xúc với các lãnh tụ Việt Nam ở địa phương và điều đình với họ theo những “điều khoản có lợi cho người Đông Dương”. Theo Sainteny thì “Ủy ban” được trao quyền thương lượng và cam kết thay cho Chính phủ Pháp. Những điều đạt được và những điều khuyến cáo của Ủy ban sẽ được chuyển tới De Gaulle, các Bộ trưởng ngoại giao và thuộc địa và cho Chính phủ Pháp. Ông đã được “bảo đảm” là các điều cam kết của Ủy ban sẽ được chính phủ Pháp tôn trọng, hoặc nếu cần thì có sửa đổi chút ít. Trong lúc ấy, Sainteny nhắc lại, Chính sách của chính phủ Pháp là nhằm “làm dịu bớt” việc quay trở lại của người Pháp cho thích hợp với tình hình. Ông nói với tôi, ông muốn làm một chuyến bay mở đầu đến Hà Nội, cùng với 4 hay 5 nhân viên trong Bộ tham mưu của ông. Ông cũng muốn bắt liên lạc với nhân viên của ông, thiếu tá Blanchard, đã được phái đến vùng Hà Nội ngày 8-8, và qua người này, Sainteny sẽ bắt mối với các lãnh tụ địa phương. Ông dự định sẽ ở lại Hà Nội 48 tiếng, sau đó trở về Côn Minh báo cáo những điều ông đã thấy cho hai ủy viên khác của Ủy ban, cũng như với Tổng đại diện quân sự, tướng Alessandri. Rồi Ủy ban sẽ báo cáo tổng hợp các điều phát hiện được cùng với các lời khuyến cáo cho Chính phủ Paris; và trên cơ sở đó, cả ba người sẽ đến Hà Nội để thành lập một bộ máy cai trị lâm thời của người Pháp “với sự tán thành của người Đông Dương”. Sainteny đã nói rộng ra ít nhiều về lập trường của Pháp. Nếu như những cuộc thương lượng dự định bị thất bại hoàn toàn, Chính phủ Pháp sẽ không có hành động gì và để hoàn toàn cho Mỹ và Anh lập lại trật tự ở Đông Dương. Ông bảo, “Ủy ban” cảm thấy chắc chắn rằng, người Mỹ cũng như người Anh đều không chuẩn bị hoặc muốn duy trì những lực lượng chiếm đóng ở Đông Dương, mà sẽ chỉ để cho người Trung Quốc và người Pháp làm việc đó. Theo Sainteny, nếu người Trung Quốc được lựa chọn, thì người Pháp tin chắc rằng Thống chế sẽ cử tướng Trương Phát Khuê làm đại diện của mình để tiếp nhận việc đầu hàng của người Nhật ở Hà Nội. Ông nghĩ rằng Trương sẽ được hâm mộ hơn các tướng của Thống đốc Long Vân, nhưng người Pháp vẫn còn sợ xảy ra những vụ cướp bóc, tàn phá quy mô lớn và cũng có thể nổ ra xung đột với người Việt Nam. Như vậy, lại có khả năng người Nhật lúc đó sẽ xin hàng theo người Việt. Đó cũng sẽ vừa là một điều tai hoạ và cũng là một điều may mắn. Sainteny tin chắc rằng trong trường hợp đó, người “Annam” sẽ không có khả năng để đối phó với tình hình, sẽ xảy ra rối loạn và từ đó sẽ mong muốn mạnh mẽ cho người Pháp quay trở lại, ít nhất cũng trong một thời gian. Sainteny cũng kể lể dài dòng đến lời tuyên bố về Đông Dương của Bộ trưởng thuộc địa ngày 24-4, hứa điều mà Sainteny coi như là “các quyền tự do dân chủ”, một sự độc lập hoàn toàn về kinh tế đối với những quyền lợi và sự kiểm soát của Pháp. Ông đã nhắc đi nhắc lại là Chính sách của Pháp là một “nền cai trị tự do” nhất, vượt xa những mơ ước ngông cuồng nhất của ngay cả “những người Annam cấp tiến nhất”. Sainteny đã kết luận với một câu hỏi: “OSS có thể giúp cấp cho tôi một máy bay để đi làm nhiệm vụ ở Hà Nội được không?”. Và, ông nói tiếp “Ồ, đúng như vậy! Người Pháp sẽ mặc quân phục Mỹ hoặc thường phục”. Rõ ràng là người Pháp đã bị mắc kẹt. Họ đã không được trang bị mà cũng chẳng được chuẩn bị gì cho một cuộc tiếp quản bằng quân sự thuộc địa cũ của mình. Tất cả điều gì mà Sainteny có thể làm được trong hoàn cảnh đó, sẽ chỉ là nhanh chóng thiết lập được một kiểu có mặt nào đó của người Pháp trong khi chờ đợi sự ủng hộ và chỉ thị của Paris. Hy vọng của ông trong việc dựng lên một chính quyền Việt Nam lâm thời thân Pháp với sự giúp đỡ hữu nghị của những người Quốc dân đảng quốc gia (thân Trung Quốc) sẽ chỉ là một hành động chống đỡ mạnh mẽ; nhưng hình như ông lại không biết được rằng tinh thần chống Pháp của người Việt Nam đã được kết hợp lại trong một mặt trận chính trị vững mạnh, Mặt trận Việt Minh. Còn về yêu cầu OSS chuyên chở và người Mỹ che dấu thì tôi nói với Sainteny là tôi hiểu vấn đề của ông, và gặp trường hợp tương tự, tôi sẽ phải dùng thử những biện pháp như thế; nhưng việc nhờ người Mỹ che dấu là hoàn toàn không thể đặt thành vấn đề, vì nó sẽ đem lại nhiều hậu quả nghiêm trọng về ngoại giao. Ý kiến của Sainteny về việc người Nhật đầu hàng người Đông Dương là không có căn cứ. Người Nhật đã được lệnh chỉ đầu hàng những chỉ huy Đồng minh được chỉ định về việc này, và người Việt Nam không thuộc vào hàng các người đó. Tôi nói với Sainteny rằng tôi không tin là Chiến trường lại muốn chuyển một máy bay dùng vào các kế hoạch của các toán Mercy sang làm một việc khác, nhưng tôi cũng sẽ chuyển lời yêu cầu của ông cho Chiến trường. Trước khi ra về, Sainteny cám ơn tôi đã nghe ông ta một cách có thiện cảm và gợi ý là ông và người của ông có thể được ghép vào toán Mercy đi Hà Nội. Tôi hứa là sẽ khêu gợi vấn đề đó với Bộ chỉ huy và cũng ngay chiều hôm đó, tôi chuyển yêu cầu của Sainteny đến OSS/Trùng Khánh. Hai ngày sau, tổng hành dinh của Wedemeyer đáp lại rằng việc cho người Pháp tới Hà Nội trong chuyến bay của toán Mercy là không mang lại lợi ích gì và sự có mặt của người Pháp ở Hà Nội đang được thu xếp “trong một thời gian thích hợp”. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #42 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2008, 10:05:32 AM » MỘT TRỞ NGẠI KHÔNG ĐÁNG KỂ DO TRỜI MƯA Thực tế chỉ trong ngày một ngày hai mà khu cư trú của chúng tôi ở Côn Minh đã thay đổi từ một trung tâm chỉ huy quân sự thành một tiền đồn cho việc chỉ đạo chính trị. Những phần tử ngoại quốc - Pháp, Hà Lan, Anh và Trung Quốc - trước đây được nguỵ trang cẩn thận, nay lộ mặt xuất hiện tại hành dinh của OSS để chuẩn bị cho các công tác sau chiến tranh, hoặc phải đặc biệt xử lý việc này hay việc khác. Nhân viên OSS chúng tôi bận rộn chẳng kém gì những ngày còn chiến tranh. Lúc đó trời mưa. Trong những ngày đầu tháng 8 mưa còn nhỏ, nhưng càng ngày càng trở nên dữ dội. Giữa tháng 8, mưa to đã gây thành một trận lụt tệ hại nhất. Côn Minh biến thành một cái hồ lớn. Nhưng trận lụt cũng không ngăn cản được sự chuẩn bị sôi nổi của toán Mercy, mà cũng chẳng làm nhụt chí được những người Triều Tiên, Miến Điện, Thái Lan và Việt Nam trong việc vật lộn một cách vất vả với bản báo cáo “bí mật”, các sơ đồ và đề nghị về các sự nghiệp khác nhau của họ. Nổi bật nhất là những người Việt Nam, họ yêu cầu được đối xử một cách đặc biệt và yêu cầu được sự ủng hộ của Đồng minh, đặc biệt là của Mỹ. Người phát ngôn của Việt Minh nghiêm chỉnh đề nghị biến Đông Dương thành một xứ bảo hộ của Mỹ và thúc ép Mỹ can thiệp với Liên Hợp Quốc để gạt cả người Pháp và người Trung Quốc ra ngoài kế hoạch chiếm đóng lại Đông Dương của Đồng minh. Đại diện của Hồ Chí Minh rất lo lắng về kế hoạch chiếm đóng của Trung Quốc. Họ sợ rằng những người láng giềng phương Bắc sẽ trở thành những kẻ đi chiếm đất đai ở Đông Dương, sống bằng sự cướp bóc, tước đoạt. Người Pháp đồng ý với những mối lo lắng nói trên, nhưng thêm vào đó lại muốn giữ độc quyền về cai trị cho bản thân mình. Tổng bộ Việt Minh ở Hà Nội đã gửi đến một công hàm để giải thích rõ lập trường của họ, trong đó có đoạn viết: “Nếu người Pháp mưu toan trở lại Đông Dương để hòng cai trị đất nước này và một lần nữa lại đóng vai những kẻ đi áp bức; thì nhân dân Đông Dương sẵn sàng chiến đấu đến cùng,, chống lại việc tái xâm lược đó của Pháp. Mặt khác, nếu họ đến với tư cách là những người bạn để gây dựng nền thương mại, công nghiệp mà không có tham vọng thống trị, thì họ sẽ được hoan nghênh như bất kỳ cường quốc nào khác. Tổng bộ mong muốn báo cho Chính phủ Mỹ biết là nhân dân Đông Dương yêu cầu trước hết là nền độc lập của Đông Dương và mong rằng nước Mỹ, người bảo vệ chế độ dân chủ, sẽ giúp đỡ họ giành lại độc lập bằng cách sau đây: 1. Ngăn cấm hoặc không giúp đỡ người Pháp quay trở lại Đông Dương bằng võ lực. 2. Kiểm soát người Trung Quốc để hạn chế đến mức thấp nhất các cuộc cướp bóc, tước đoạt. 3. Cho các chuyên viên kỹ thuật sang giúp người Đông Dương khai thác nguồn tài nguyên đất đai. 4. Phát triển các ngành kỹ nghệ mà Đông Dương có khả năng cung ứng. Nói tóm lại, người Đông Dương muốn sẽ được đặt ở một địa vị ngang hàng như Philippin trong một thời gian không hạn định”. Đây là bản thông cáo bán chính thức đầu tiên gửi cho nước Mỹ và tôi cũng cảm thấy nó có đầy đủ mức quan trọng để được chuyển về cho tướng Donovan và đã được Helliwell điện đi vào ngày 18-8. Trong khi đó, mùa trở nên tồi tệ hơn, và cũng chẳng có việc gì khác phải làm, Sainteny và tôi gặp nhau lần thứ hai (vào sáng ngày 16-8) để trao đổi về vấn đề Trùng Khánh bác bỏ chuyến đi của ông đến Hà Nội. Sainteny rất nôn nóng khó chịu và kết tội OSS là đã ăn cánh với người Trung Quốc để phá hoại kế hoạch quay trở lại của người Pháp. Ông ta cáu giận đến trở thành mất trí và vô chính trị, doạ không công nhận chính sách của Chiến trường, tiếp tục làm theo ý mình, được gì thì được. Tôi khuyên giải ông và hứa thử hỏi một lần nữa Trùng Khánh cho ông tham gia giúp đỡ việc quản lý các tù binh Pháp ở Hà Nội, nếu như ông cam đoan tự hạn chế mình không làm những hành động vô chính trị. Với một thái độ miễn cưỡng, ông chấp nhận cho ông và 4 nhân viên trong Bộ Tham mưu của ông mang quân phục Pháp được đến Hà Nội với danh nghĩa tham gia phái đoàn của tôi. Cùng ngày hôm đó, tôi nhận được một bản giải thích thêm của Chiến trường: phải nói thêm cho Sainteny và 4 nhân viên của ông một cách rõ ràng là họ phải hạn chế hoạt động trong các nhiệm vụ có tính chất nhân đạo trong cộng đồng người Pháp. Nhưng trời mưa đã làm trở ngại cho việc xuất phát của chúng tôi lúc đó. Nôn nóng muốn đến Hà Nội để thực hiện nhiệm vụ “bí mật” của mình, Sainteny đã kiếm được một máy bay Pháp, một chiếc C.47 vừa mới ở Calcutta tới. Chiếc máy bay này do một phi công dân sự tên là Fulachier lái cho hãng Air France đưa đến để nhằm khôi phục lại các chuyến bay giữa Ấn Độ và Trung Quốc, sau khi được Đại sứ quán và Chính phủ Trung Hoa bàn xong các vấn đề chi tiết. Cuối buổi chiều hôm đó, Helliwell báo cho tôi biết là Sainteny đang chuẩn bị dùng một máy bay Pháp để nhảy dù xuống Hà Nội. Alessandri cũng yêu cầu tướng Hà Ứng Khâm cho phép máy bay Pháp bay tới Hà Nội. Yêu cầu trên đã bị bác bỏ và người Trung Hoa đã cho binh lính tới canh giữ chiếc phi cơ của Pháp với mệnh lệnh là không cho người nào lên máy bay đi Hà Nội. Mệnh lệnh đã nói gộp cả lại: “Tất cả các máy bay, không kể từ đâu đến và thuộc quốc tịch nào, đều không được cất cánh để bay đi Đông Dương thuộc Pháp cho đến khi có lệnh mới”. Ngày hôm sau lại xảy ra một chuyện khác với Sainteny. Ông đã tấn công tôi dồn dập với những lời buộc tội, nào là người Mỹ phản bội người Pháp, cá nhân tướng Wedemeyer đã gây trở ngại cho người Pháp ở Chiến trường, người Mỹ ở Trung Quốc tuy không cố tình nhưng lúc nào cũng hùa theo với mưu đồ của người Trung Quốc. Ông nói ý nghĩ riêng của mình,, cho là Wedemeyer đã không trung thực với người Pháp ngay từ những lúc đầu. Khi tôi hỏi ông điều ông dự tính làm trong những ngày sắp tới, ông gượng gạo nói rằng ông chẳng làm gì cả ngoài việc ngồi chờ chỉ thị của Trùng Khánh. Sau đó, tôi tình cờ được biết là Sainteny đã cho một toán 10 người do Blanchard phụ trách, xâm nhập vào Hải Phòng để bắt liên lạc với người Nhật ở Hà Nội và xúc tiến công tác với trung tá Kamiya, một cựu sĩ quan liên lạc Tổng hành dinh quân Nhật ở Hà Nội với chính quyền Decoux. Nhưng Kamiya đã giữ toán người Pháp lại ở Hải Phòng và đã hạn chế hoạt động của họ vào việc chuyển những tin tức thời tiết cho người Pháp ở Côn Minh. Đúng như điều chúng tôi lo ngại, người Nhật đã tiếp đón máy bay Đồng minh của các phái đoàn Mercy khác một cách rất lộn xộn. Hơn nữa, một phi cơ Đồng minh khi bay qua Hà Nội ngày 19-8 đã bị hoả lực phòng không bắn, nên Bộ chỉ huy Chiến trường quyết định hoãn chuyến đi Hà Nội của chúng tôi cho đến khi nào cơ quan chỉ huy Nhật ở Hà Nội nhận được thông báo là chúng tôi tới đó. Bấy giờ trời mưa lại ngăn trở không cho máy bay cất cánh. Những khó khăn phiền toái với người Pháp ở Trung Quốc đã là đầu đề cho vô khối thư từ công văn giữa Trùng Khánh và Washington. Và tướng Donovan đã phải chỉ thị cho Heppner phối hợp chặt chẽ mọi kế hoạch của OSS có liên quan đến người Pháp trở lại Đông Dương với Bộ chỉ huy chiến trường và Đại sứ quán Mỹ. Trong lời giải đáp cuối cùng đối với chỉ thị của Donovan, Helliwell đã điện báo: “Phúc đáp diện 642, chúng tôi đã tiến hành công việc theo như đã được hướng dẫn. Sainteny đi cùng với Patti hôm thứ bảy. Điều đó có nghĩa rõ ràng là người Pháp hoàn toàn thuộc quyền chỉ huy của Mỹ và cũng chỉ có những người Pháp hoạt động với OSS. Cờ Pháp sẽ không được dùng đến”. Trước khi bức điện được gửi đi, tôi đã trao đổi với Heppner về ý nghĩa của nó và yêu cầu phải ghi rõ sự đồng ý lên bản sao tài liệu. Nói tóm lại, không có trường hợp nào chúng tôi đã giúp đỡ cho người Pháp trong việc tiếp quản Đông Dương bằng vũ lực hoặc ngay cả tới việc tỏ ra có sự đồng tình tham gia vào các kế hoạch của họ. Trong khi gặp trở ngại về thời tiết, chiều ngày 19-8, tôi có gặp nhiều nhân viên thuộc chi nhánh Côn Minh của Mặt trận Việt Minh tại nhà của Phạm Viết Tự. Họ cũng vừa mới nhận được những tin tức rất phấn khởi từ Hà Nội, và khi tôi tới, tôi thấy họ đang rộn lên vì vui mừng. Tống Minh Phương đã được một người bạn của Thái Hà ấp ngoại ô Hà Nội, báo cho biết là Hà Nội đã nổi dậy. Họ kể lại một cách sơ sài là vào ngày 17-8, chính quyền địa phương Việt Nam của chế độ Bảo Đại đã tổ chức một cuộc biểu tình để ủng hộ Chính phủ trung ương của Trần Trọng Kim. Tổng hội viên chức(2) là người đứng ra tổ chức cuộc biểu tình ở địa phương và một đám quần chúng tới 2,5 vạn người đã tập hợp ở trước cửa Nhà hát lớn thành phố. Không rõ tình hình đã xảy ra như thế nào, chỉ biết là các đội viên đội võ trang tuyên truyền đã chiếm lấy các cuộc mít tinh kêu gọi quần chúng lật đổ Chính phủ “bù nhìn”, đi theo Việt Minh và giành chính quyền về cho nhân dân. Theo những tin tức nhận được thì người Nhật đã không can thiệp và Ủy ban thành Hà Nội đã nắm lấy cơ hội thuận lợi có cuộc mít tinh lớn lao đó để thúc đẩy tình hình tiến tới một cuộc khởi nghĩa qui mô rộng toàn thành phố. Sau những giò phút bị kích động cao độ lúc đầu, nhóm Côn Minh cũng tỏ ra thấy rõ được tình hình hơn, một số nghĩ rằng hành động của Ủy ban Thành Hà Nội là quá sớm. Nếu người Nhật quyết định đàn áp cuộc nổi dậy thì sao. Chuyện gì sẽ sẩy ra nếu Đồng minh, và đặc biệt là Trung Quốc cho chuyển người Pháp vào Đông Dương với bọn bù nhìn Quốc dân đảng? Không rõ Giải phóng quân có sẵn sàng đối phó với tình hình không? Đây là điều lo lắng đã xen vào niềm vui hân hoan của họ, tuy chẳng gì có thể che giấu được lòng tự hào và những cao vọng của họ. Tự và các người cộng sự với ông hướng về phía tôi, nhưng tôi cũng chẳng làm gì được để họ yên tâm. Tôi chỉ có thể gợi ý được rằng phải thận trọng, đừng để cho tình hình tuột khỏi tay và dẫn đến những sự đổ máu không cần thiết, dù là người Việt hay người Pháp cũng vậy. Cũng ngay chiều hôm đó, tôi đã nói lại với Helhwell và Heppner về những gì tôi đã nghe được và gợi ý là phải báo cáo với tướng Wedemeyer. Helliwell đã mạnh dạn phát biểu ý kiến, cho rằng Tưởng sẽ chẳng vui vẻ gì nếu như quân đội của ông ta ở Việt Nam lại bị dồn đến chỗ phải giữ một nền trật tự lâu dài ở Đông Dương. Heppner thì lo lắng đến việc sơ tán các tù nhân Đồng minh và làm thế nào để cho quân Nhật đầu hàng mà không xảy ra chuyện rắc rối gì. Mối quan tâm chủ yếu của tôi lại là chung quanh vấn đề người Pháp. Nếu họ được phép vào Đông Dương với người Trung Hoa thì chắc chắn là sẽ xảy ra xung đột với người Việt Nam, và người Trung Hoa sẽ không tránh khỏi lôi cuốn vào chuyện này. Chúng tôi cũng không nghĩ tới việc tình hình mới này đúng ra là phải được cấp Chiến trường xem xét và quyết định. Nhưng sáng hôm sau,, khi Heppner thảo luận tình hình Hà Nội với tướng Gross thì không có gì có thể quan trọng hơn nữa và toán Mercy được lệnh phải tiến vào Hà Nội ngay khi thời tiết cho phép. Mưa vẫn tiếp tục như trút nước. Đường băng bị hỏng và bị ngập sâu, xăng dầu cũng bị tràn bởi nước lũ, độ cao thấp và tầm nhìn xa hạn chế nên không máy bay nào có thể cất cánh được.
Nhưng Sainteny vẫn còn lồng lộn lên và chưa mất hết cái thói quen thích hoạt động theo lối cửa sau. Ông không còn phải giữ gìn gì nữa và đã tiết lộ cho tôi biết (điều mà tôi đã nghe từ một nơi khác) là Blanchard đã vào Hải Phòng, đã bắt liên lạc với người Nhật và cũng đã báo cho người Nhật biết là người Pháp sẽ đến trên một chiếc phi cơ của Mỹ và không được bắn vào họ. Theo Sainteny, nói thì như vậy sẽ bảo đảm hoàn toàn an ninh cho chúng tôi khi tới Đông Dương. Nhưng chỉ riêng cái ý muốn giầy xéo lên các mệnh lệnh của Chiến trường của ông ta cũng đã quá lố bịch và không cần phải được thảo luận tới. Đấy là chưa kể đến sự việc Nhật đã không chấp nhận “proposition”(3) của Blanchard. Chúng tôi vẫn phải đợi ở Côn Minh. Cho đến ngày 21, một số chuyến bay ưu tiên bậc nhất mới được phép cất cánh. Lúc đó người Trung Quốc đã thu xếp với cơ quan liên lạc của Nhật ở Trung Quốc để cho toán của chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Bạch Mai gần Hà Nội, và chúng tôi đã được báo để xuất phát vào sáng ngày 22. Lần này thì không có gì ngăn cản được nữa. ________________________________________
(1) ngày 19-8
(2) Ủy ban trung ương các công chức
(3) Đề nghị - tiếng Pháp
Logged
(ak47)
Thành viên
*
Bài viết: 123
Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti
« Trả lời #43 vào lúc: 04 Tháng Tám, 2008, 02:26:59 PM »
PHẦN III
HÀ NỘI
Chương 16
Những người khách không mời
BAY TỚI HÀ NỘI
Phi cảng chính ở Côn Minh vẫn còn bị ngập nước, do đó máy bay phải cất cánh từ Chanyi(1), một sân bay trên nền đất cao hơn. Đoàn xe của chúng tôi chậm chạp đi theo những con đường ngập nước lầy lội...
…Khi chúng tôi tới, cả sân bay như còn đang ngủ. Người gác Trung Quốc vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi đến chòi kiểm soát, nơi duy nhất có ánh sáng. Tôi được báo cho biết là máy bay đã ở sẵn trên sân, nhưng toán lái phi cơ thì phải nhiều giờ nữa mới từ Côn Minh tới được. Khoảng 8 giờ sáng, sân bay bắt đầu hoạt động nhộn nhịp nhưng máy bay của chúng tôi vẫn nằm chết ở một góc xa. Đó là một chiếc vận tải C.47 của quân đội và chúng tôi cũng còn đủ thì giờ rỗi rãi để ngắm đường nét và số hiệu của nó - 5908. Đến khoảng 9 giờ, người lái tới. Chúng tôi đóng bộ vào với đầy đủ vũ khí, dù và chụp ảnh. Sau đó máy nổ và máy bay rời đường băng. Trong phi cơ, toán 12 người của chúng tôi và 4 người Pháp của Sainteny lặng lẽ ngồi đối diện nhau.
Chúng tôi cất cánh vào 11 giờ 35 ngày 22-8 và lao vào mây mù. Bất chợt trên mây, có ánh mặt trời tỏa sáng, như một điềm báo hiệu tốt làm phấn chấn tinh thần, hết căng thẳng. Người lái thông báo phải bay cao trên 8.000 bộ và thòi tiết còn xấu. Dự tính là 1 giờ 30 sẽ tới nơi. Người Pháp và người Mỹ chuyện trò với nhau, mời nhau thuốc lá, kẹo và thỉnh thoảng lại cất tiếng hát.
Nhóm người Pháp bên ngoài tỏ ra tự tin. Sainteny cho rằng chúng tôi sẽ không gặp khó khăn gì và sẽ được người Pháp và người Việt vui mừng nghênh đón như những người đến giải phóng. Điều lo ngại của tôi dựa trên một sự nhận định thực tế đúng mức là mặc dù Bộ chỉ huy tối cao Tokyo đã chấp nhận đầu hàng hoàn toàn,, nhưng các tư lệnh dã chiến Nhật ở khắp châu Á vẫn có thể ngoan cường từ chối, không chịu nhận thất bại.
Tôi cũng chẳng nghĩ trước được rằng sự có mặt của người Pháp mặc quân phục sẽ tăng thêm an ninh cho chúng tôi. Đã được tính toán trước là nếu người Việt Nam phản đối thì người Pháp sẽ được ghép vào trong phái đoàn của tôi.
Đúng 1 giờ 30, phi công gọi tôi ra phía trước. Đã trông thấy sân bay Bạch Mai và ngay từ 8.000 bộ, tôi cũng có thể nhìn thấy các hồ lớn và các chướng ngại trên đường băng. Máy bay hạ xuống ở độ 2.000 bộ, cửa được mở ra để nhìn cho rõ và chuẩn bị hạ cánh. Chúng tôi lượn nhiều vòng, chụp ảnh các đường bay bị chặn và ngạc nhiên tự hỏi không hiểu sao cơ quan liên lạc của Nhật ở Trung Quốc lại chỉ cho chúng tôi xuống một sân bay không sử dụng.
Cũng may mà chúng tôi có nhiều phương án thay thế để vào Hà Nội. A: xuống nơi đã định ở Bạch Mai, ở đó tôi sẽ được một phân đội nhỏ Giải phóng quân Việt Nam đón và đưa về Hà Nội, cách đó khoảng 1 dặm. Hai là phương án dự bị B: xuống Gia Lâm, sân bay chính của Hà Nội, ở phía đông thành phố, trên bờ sông Hồng và cạnh một trại tù binh chiến tranh.
Phương án B đã được phối hợp với AGAS/Côn Minh, đề phòng khả năng Nhật chống đối lại và trong trường hợp đó chúng tôi sẽ phải chiếm lấy trại tù binh, cấp vũ khí cho các tù binh và cầm cự cho đến khi bộ phận chủ yếu của toán chúng tôi tới, có thể trong vài giờ sau.
Chuyển sang phương án B, chúng tôi bay trên sông Hồng và cánh đồng lúa bị ngập, dọc theo cầu Doumer, đường thuộc địa số 1 và đã thấy Gia Lâm. Sân bay hình như đang được sử dụng, nhưng ở đó lại có một số xe tăng cỡ nhỏ và súng cao xạ đặt trên xe. Tôi yêu cầu trung úy Grelecki, tổ trưởng biệt động, cho thả dù một tổ trinh sát. Đến 2 giờ có ánh xanh phát ra ở phía cửa mở và Grelecki cùng 3 người nữa lao vào không trung. Chúng tôi lo lắng quan sát họ xuống đất một cách khá đẹp. Không có hỏa lực của Nhật bắn chống lại. Vào 2 giờ 06, người cuối cùng đã tới đất và chúng tôi trông rõ họ đi về phía một số xe gần đấy. Gần như liền sau đó, Grelecki điện báo cho biết mọi việc thông suốt, và 4 phút sau phi cơ chúng tôi đặt bánh xuống đường băng.
KẾT THÚC MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH GAI GÓC
Máy bay dừng lại và một đơn vị độ 50 hay 60 người Nhật, súng ống đầy đủ bao vây lấy phi cơ. Mọi người nắm lấy súng và chúng tôi chuẩn bị bên trong khi người lái vẫn cho phi cơ chạy và quay đầu về ngược hướng gió, sẵn sàng cất cánh. Tôi đứng ở phía cửa máy bay, Sainteny ở đằng sau. Tôi thấy Grelecki cùng với cả tổ tiến lại gần, theo sau có nhiều sĩ quan Nhật. Tôi ra lệnh cho người của chúng tôi hạ súng, nhanh chóng ra khỏi máy bay và tiến lại chỗ các sĩ quan, trong số đó có một trung úy biết nói tiếng Anh.
Cách xa đó có một chút, có một nhóm khá đông người đang vẫy cờ Anh và Mỹ. Họ là các tù binh Anh, phần lớn là binh lính Ấn Độ bị bắt ở Singapore mà tôi đã được AGAS báo cho biết, và họ cũng đã có liên lạc bằng điện đài với tôi khi tôi chuyển sang phương án B. Họ đã cùng nhau vượt ra ngoài trại để nghênh đón chúng tôi nhưng khi họ đến cách máy bay vài trăm thước thì một đơn vị Nhật dùng lưỡi lê chặn họ lại. Theo đúng truyền thống Anh, các tù binh liền dừng lại thành hàng, hoan hô ba lần và giương cao các cờ được làm từ trong trại.
Tình hình căng thẳng, chúng tôi và người Nhật mỗi bên nhìn cái cảnh tượng đó với những cảm xúc khác nhau và trong khoảnh khắc tôi thấy có vấn đề... Nhưng tình hình đã tự giải quyết được. Một đội nhỏ tù binh do một sĩ quan Nhật dẫn đầu, lặng lẽ đi về phía chúng tôi. Trung úy “Simpson Jones”(2), đại đội trưởng của nhóm tù binh Ấn Độ ở Gia Lâm đã đến đến “báo cáo” rằng các tù binh đã sẵn sàng ở bên cạnh quân Đồng minh và về tình hình trong trại... Tôi cảm ơn Simpson về “bản báo cáo” và yêu cầu ông ta cung cấp cho sĩ quan AGAS những tài liệu về nhu cầu trước mắt và việc nhanh chóng sơ tán tù binh.
Sau ít phút gay go đầu tiên, tôi quay về phía các vị khách Nhật. Họ tỏ ra đang kiên nhẫn chờ đợi được nghe những yêu cầu khác của tôi. Tôi nói rằng chúng tôi đến đây để trông coi vấn đề tù binh chiến tranh và chuẩn bị sơ bộ việc tiếp nhận đầu hàng của Nhật cho Tưởng Thống chế. Hiển nhiên là các sĩ quan Nhật ở sân bay đã không nhận được chỉ thị gì và đã tỏ ra hoàn toàn bị bất ngờ.
Nhưng họ cũng không có hành động gì chống đối và ra lệnh cho người của họ giãn ra. Tuy vậy phi công của chúng tôi vẫn tiếp tục duy trì liên lạc điện đài với Côn Minh, còn tôi cùng với Sainteny, Grelecki và hai người trong tổ biệt kích đi với các sĩ quan Nhật tới một ngôi nhà nhỏ cạnh đường băng. Số còn lại trong toán chúng tôi ở lại với trung úy R.A. Feeback gác máy bay.
Trong căn nhà, chúng tôi gặp một thiếu tá Nhật, có thể là người sĩ quan cao cấp nhất ở đây, cùng với một số tùy tùng. Hai nhân viên của chúng tôi đứng canh ngoài cửa, bên cạnh hai người gác Nhật. Gần như là một điều phi lý, nhưng chúng tôi đã được mời dùng bia lạnh, kem.
Một chút ít lịch sự đã thành tập quán sinh hoạt trong bầu không khí nóng nực của mùa thu Hà Nội... Người Nhật thì đúng mức trong cách cư xử của họ và rất tháo vát. Tôi yêu cầu nhanh chóng được gặp Tổng tư lệnh của họ nhưng được trả lời là tướng Yuitsu Tsuchihashi(3) đang ở Huế và chỉ trở về vào khuya tối hôm đó. Viên thiếu tá gợi ý là chúng tôi được sống thoải mái trong thành phố và được phép đi lại tự do. Nhưng ông ta lại ngần ngại về việc các sĩ quan Pháp ở lại đó và nêu ý kiến là tốt hơn hết họ nên quay về Trung Quốc.
Sainteny bị xúc động mạnh và tôi đã nghĩ ngay rằng chì vì Saiilteny và người của ông ta không có quy chế chính thức ở đây nên có nguy cơ bị giữ lại. Với ý nghĩ đó, tôi thông báo cho người Nhật biết là người Pháp thuộc quyền kiểm soát của tôi, nhiệm vụ của họ là điều tra tình hình các tù binh Pháp và họ ở lại trong nhóm của tôi. Thiếu tá báo cho tôi biết về tinh thần chống Pháp ở Hà Nội, và nói rằng hình ảnh các bộ quân phục Pháp trong đoàn chúng tôi sẽ chỉ gây rối loạn. Tôi phản công lại và nhắc ông ta rằng Đồng minh trao cho các nhà chức trách Nhật nhiệm vụ duy trì trật tự công cộng và an ninh của nhóm chúng tôi bao gồm cả người Pháp, thuộc trách nhiệm cá nhân của tư lệnh Nhật tại địa phương. Người sĩ quan Nhật vội gạt bỏ lập trường của mình và thu xếp chuyển chúng tôi vào thành phố. Trong khi chờ đợi phương tiện chuyên chở, tôi ngẫm nghĩ về sự may mắn của chúng tôi là mọi việc đều tốt đẹp, mặc dù cuộc đổ bộ thật bất ngờ… Phản ứng của viên thiếu tá Nhật đối với người Pháp trong nhóm nhắc chúng tôi nghĩ tớ nguy cơ của một cuộc đụng độ chẳng thích thú gì với người Việt Nam một khi người Pháp bị họ phát hiện. Và ý nghĩ tới 35.000 người Nhật thù địch có vũ trang, chưa thông suốt là họ đã thất bại trong cuộc chiến tranh, thực sự làm cho tôi không thoải mái.
Cứ như là để nhấn mạnh vào những điều tôi còn đang còn nghi ngại, mọi việc rắc rối lại xảy đến ngay trước khi chúng tôi chưa rời sân bay được bao xa. Một nhân viên dân sự Pháp, Pétris, định lẩn qua sự kiểm soát của Nhật, vượt trước về Hà Nội để báo tin người Pháp đến. Đó là một ý đồ liều lĩnh không chính đáng, sau khi tôi đã xác định một cách đúng đắn phái đoàn Pháp thuộc quyền của tôi. Pétris đã bị giữ lại và bị tống vào phía sau một xe tải.
Nhiều sĩ quan và binh lính Nhật đến cùng với nhiều xe có mui kín và chúng tôi lập thành một đoàn có 1 xe tăng nhỏ đi trước. Tôi ở xe đầu với Sainteny và sĩ quan tùy tùng Nhật. Grelecki, Feeback và các sĩ quan Pháp ngồi trong hai xe có mui kín. Còn những người lính biệt kích thì đi trên xe riêng. Nhiều xe tải chở binh lính Nhật đi sau cùng...
Đoàn xe qua cầu, đi về phía Tây, qua trước Thành(4), đến dinh Toàn quyền(5), một dinh thự đẹp, chung quanh có nhiều bãi cỏ và vườn hoa. Ở đây, tôi gặp một sĩ quan Nhật và ông ta cũng hỏi về mục đích của nhóm người Pháp ở Hà Nội. Tôi để cho Sainteny trả lời, hy vọng ông sẽ theo phương hướng mà tôi đã chỉ ra ở sân bay.
Nhưng sự thật lại khác. Sainteny bắt đầu nói về cạnh khía nhân đạo trong nhiệm vụ của ông ta và người sĩ quan Nhật tỏ ra chịu nghe trước khi Sainteny đòi người Nhật cung cấp cho ông ta những thuận lợi ở Đài phát thanh Bạch Mai để phát đi một “chương trình tin tức địa phương” cho người Pháp ở Đông Dương và thông tin với bản doanh của ông ta ở Trung Quốc và Ấn Độ. Người Nhật không phản đối nhưng thoáng thấy biến đổi sắc mặt và báo cho chúng tôi biết là nhà ở đã được chuẩn bị sẵn sàng ở khách sạn Métropole thuộc khu buôn bán của Hà Nội và chúng tôi nên đi đến thẳng nơi đó.
Một lần nữa chúng tôi lại lên xe. Chúng tôi đi quanh khu vực phía Bắc thành phố qua những nơi dân cũ thưa thớt, ở đó rõ ràng không có người Pháp, chỉ thấy những tốp nhỏ người Việt chuyện trò sôi nổi. Họ có chú ý đến đoàn xe nhưng lại tỏ ra không phấn khởi gì về sự có mặt của chúng tôi.
Dinh thự và nhà cửa dọc theo con đường đều phất phới đầy rẫy những cờ Việt Minh. Các phố tiếp theo, Puginier và Borgnis Desborder, có bộ mặt hoàn toàn khác hẳn. Công chúng tập trung dày đặc và có nhiều biểu ngữ tiếng Anh, Pháp, Việt chăng qua đường từ bao lơn này qua bao lơn khác, hoan hô Việt Nam độc lập, người Pháp phải chết, hoan nghênh Đồng minh. Chẳng thấy một bóng cờ Pháp. Chỉ độc có cờ đỏ với ngôi sao vàng năm cánh.
Chúng tôi yên lặng đi một lúc và Sainteny rõ ràng đang lo âu. Ông ta nhìn chòng chọc, mất tin tưởng. Tôi cũng ngạc nhiên khi thấy phố xá tràn đầy cờ Việt Minh phất phới cùng với những biểu ngữ thù địch và đã nghĩ rằng có thể có Hồ Chí Minh đã về thành phố (nhưng đúng là chưa về) và rất bực với cái trò chơi kiểu này của Nhật. Sainteny quay sang phía tôi và hỏi xem có biết gì về kế hoạch của ông Hồ không.
Tôi nhắc lại là tôi đã phát biểu ở Côn Minh là ông Hồ đã có một “Chính phủ” đang tồn tại và chỉ có vấn đề thời gian và hoàn cảnh do Chính phủ đó của ông cầm quyền. Lúc đó tôi đã không đoán ra được những sự tiến bộ của Việt Minh trong việc giành chính quyền. Sainteny yên lặng một cách chán nản.
Đám quần chúng trở nên huyên náo và thù địch hơn khi thấy đoàn chúng tôi ghé vào khách sạn Métropole. Họ đã biết là “người Pháp đã đến” bằng một máy bay Mỹ và được người Mỹ che chở. Lính Nhật súng cắm lê, dọc theo con đường từ hồ Hoàn Kiếm đến khách sạn, phải khó khăn lắm mới ngăn chặn được số quần chúng đang ào ào tới.
Logged
(ak47)
Thành viên
*
Bài viết: 123
Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti
« Trả lời #44 vào lúc: 04 Tháng Tám, 2008, 02:27:55 PM »
KHÁCH SẠN MÉTROPOLE:
Từ khách sạn, một nhóm đông người Âu, phần lớn là Pháp, ùa ra chào đón chúng tôi. Một số bắt đầu xô đẩy với những người Việt đã vượt qua hàng rào bảo vệ nhưng đã bị lính Nhật và Bảo an đẩy lùi về phía hành lang. Thật là hỗn loạn. Người ta mừng chảy nước mắt mà ôm hôn nhau không dứt giữa những tiếng kêu la của người Việt chống lại sự đối xử tàn tệ của Nhật. Người Pháp ở trong tình trạng bị kích động gây gổ cao độ còn Nhật thì duy trì trật tự một cách khá lạnh lùng...
Nhiều phòng trên tầng hai khách sạn đã để trống dành cho chúng tôi. Tôi được chỉ tới một phòng lớn có góc nhà nhìn thẳng ra một vườn hoa nhỏ và “Résidence Supérieure”(6) với một lá cờ Việt Minh lớn đang phấp phới bay. Được khoảng 5 phút thì Grélecki và một nữ nhân viên trong khách sạn đưa tới một người Việt Nam trông cứng cỏi nhưng dễ thương, một Lê Trung Nghĩa nào đó, đại diện cho Thành ủy Hà Nội. Nghĩa không nói tiếng Pháp và dùng người phục vụ gái làm thông ngôn. Theo Nghĩa thì ủy ban đã được ủy ban Trung ương Côn Minh báo cho biết là chúng tôi sẽ tới nên đã cử một phái đoàn đến Bạch Mai để đón và đưa chúng tôi về thành phố, nhưng khi máy bay không đỗ xuống Bạch Mai thì họ đã trở về Hà Nội. Ngay sau khi biết tin chúng tôi hạ cánh xuống Gia Lâm, Nghĩa được Thành ủy Hà Nội cử tới để nghênh đón người Mỹ tới Việt Nam, bày tỏ sự quý khách của thành phố và đảm bảo về an ninh của Chính phủ Lâm thời Việt Nam. Tôi cảm ơn và mời Nghĩa uống một chút mà nhà hàng đang mang tới.
Tôi hỏi thẳng Nghĩa về việc quần chúng tập trung bên ngoài với thái độ rõ ràng đối địch là thế nào. Nghĩa trả lời là quần chúng không chống đối với Đồng minh mà chống lại người Pháp quay trở lại. Nhưng Nghĩa cũng mau mắn đảm bảo với tôi rằng sẽ không có gì làm nguy hại cho họ nếu như họ không đưa quân đội đến hoặc cố tình can thiệp vào công việc điều hành của Chính phủ lâm thời. Tôi báo cho Nghĩa biết nhiệm vụ của tôi là trông coi số tù binh Đông minh và sơ bộ chuẩn bị việc tiếp nhận đầu hàng của người Nhật, và cũng chỉ có 5 người Pháp đi cùng tôi để làm công tác nhân đạo là coi sóc số tù binh ở trong Thành. Đáp lại câu hỏi của Nghĩa, tôi đảm bảo với Nghĩa là tôi không làm gì để chuẩn bị cho quân đội Pháp tới và đúng là sẽ chỉ có thêm một số ít người Mỹ sắp đến, là tôi đã gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và không có vấn đề nước Mỹ ủng hộ chủ nghĩa thực dân.
Có tiếng gõ cửa và người ta báo có trung úy Nhật Ogoshi muốn được gặp tôi.
Nghĩa xin rút lui và nói thêm là Thành ủy sẵn sàng để làm việc cùng tôi và người liên lạc với họ trong lúc này là cô nhân viên phiên dịch.
Trung úy Ogoshi quân phục chỉnh tề, mang gươm võ sĩ đạo, báo cho tôi biết rằng những người Pháp trong đoàn của tôi đã gây là một vấn đề nghiêm trọng và sự có mặt của họ tại khách sạn sẽ dễ dàng đẩy tới một cuộc xung đột. Bộ Tổng tham mưu Nhật cảm thấy có thể không có đủ sức đảm nhiệm trách nhiệm bảo vệ an toàn cho phái đoàn chúng tôi nếu như người Pháp cứ cố nài cho họ ở lại khách sạn. Vậy ý kiến tôi về việc này phải làm gì?
Trước hết tôi đáp lại rằng tôi không thể chấp nhận lập trường của các nhà chức trách Nhật là không thể duy trì được trật tự công cộng hoặc đảm bảo an ninh cho phái đoàn Đồng minh, trong đó có người Pháp tham dự.
Thứ là tôi hành động theo chủ trương đề ra trong mệnh lệnh chung số 1 của Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng Đồng minh, mà người đại diện là Thống chế Tưởng Giới Thạch, yêu cầu các nhà chức trách quân sự Nhật ở Đông Dương chấp nhận thỏa thuận đã đạt được ở Trung Quốc với đại diện Hoàng gia Nhật. Hình như trung úy Ogashi đã tỏ vẻ xúc động khi nghe nói đến “đại diện Hoàng gia”, ông liền đề nghị cho chuyển những người Pháp đến đóng ở Phủ Toàn quyền, vì ở đó họ có thể được bảo vệ chu đáo và ngăn chặn được sự xô xát với quần chúng. Tôi nói sẽ cho ông biết ý kiến sau. Ogoshi chào và ra đi với một vẻ ít quan trọng hơn khi tới.
Ở hành lang, cảnh tượng vô chung náo nhiệt, ồn ào. Tin quân Pháp đã đến và còn sẽ đến nhiều nữa loang ra nhanh chóng. Phải khó khăn lắm Saiteny mới gỡ mình ra được để đến gặp tôi và được báo cho biết là sẽ tốt cho mọi người nếu họ ở riêng ra một nơi. Sainteny chớp ngay là ý đó và đề nghị được sử dụng dinh Toàn quyền. Chúng tôi liền hỏi ý kiến viên sĩ quan cao cấp Nhật có mặt tại chỗ. Sau khi xin chỉ thị cấp trên, ông mỉm cười lễ phép báo cho biết cấp trên ông ta đã đồng ý, sẽ cấp một toán bảo vệ riêng và đảm bảo an ninh 48 giờ cho người Pháp ở dinh Toàn quyền. Sainteny vui vẻ ra mặt và tôi cũng rất bằng lòng...
Khi ra đi, người Nhật lại phản đối vì người Pháp muốn kéo một số dân thường đi cùng. Người Nhật nói thêm rằng, cho đến khi tôi gặp Bộ Tổng tư lệnh và quy chế của chúng tôi được chính thúc hóa thì toán Mercy của Đồng minh phải tự coi như “đặt dưới sự bảo vệ và quản lý” của Nhật.
Tôi phản đối, có Sainteny ủng hộ, nhưng người Nhật vẫn kiên quyết bác bỏ, nên tôi cũng chẳng làm gì được khác hơn là phải nhã nhặn ưng thuận. Nhưng cũng chẳng ai ngăn trở không cho chúng tôi giữ vũ khí và phương tiện thông tin để giữ liên lạc với hành dinh ở Trung Quốc, và chúng tôi được tự do tiếp khách. Mãi đến tận khuya, Sainteny cùng với 4 người bạn của ông mới rời khách sạn với toán lính gác Nhật.
Quyết định của Sainteny tới đóng tại dinh Toàn quyền cũ là một sai lầm nghiêm trọng. Việc biến mình thành một quan chức thực dân chỉ làm cho Sainteny bị tách rời khỏi dòng các sự kiện đang sôi sục diễn ra ở Hà Nội. Tính kiêu căng và sự tham lam cao độ của người Pháp đang chờ đợi ở Sainteny đến giải thoát cho họ đã thể hiện quá rõ người Pháp là một nguồn khiêu khích đối với Nhật và nhà chức trách Việt Nam.
Do đó đoàn Sainteny đã bị quản thúc một cách chặt chẽ hơn... Sainteny đã không kiềm chế được thói huênh hoang của đám dân Pháp nhưng nếu khôn ngoan ra thì Sainteny đã cứ tự hạn chế mình trong quy chế của phái đoàn chúng tôi hơn là đã vượt ra ngoài. Sainteny đã yêu cầu tôi giúp sửa lại tình hình khó xử của ông ta, nhưng đâu có phải tôi đến đây để sửa sai cho người Pháp cũng như người Việt.
Tôi trở lại trụ sở trong khi các nhân viên trong đoàn xúc xạo và đám dân Pháp đã nghe ngóng tin tức. Hiệu thính viên Eide Và Rodzvvicz lên lầu để đặt trạm thông tin. Phi công đã trở về Trung Quốc ngay sau khi chúng tôi rời sân bay và chắc đã báo cho Helliwell biết chúng tôi đến nơi an toàn. Còn Grelecki và Feebach nhanh chóng tổ chức các tổ chức bảo vệ, tổ tình báo và thông tin liên lạc... Ai cũng làm việc cật lực để chuẩn bị cho các hoạt động ngày mai. Vào khoảng nửa đêm, một sĩ quan Bộ Tổng Tham mưu Nhật đến báo cho tôi biết là tướng Tsuchihashi đã về và mong gặp tôi, nhưng để tùy tôi quyết định. Chúng tôi thu xếp để cuộc gặp vào 8 giờ sáng hôm sau.
TƯỚNG YUITSU TSUCHIHASHI
Đúng 8 giờ, một đại úy Nhật nói tiếng Anh đến gặp và cũng trở thành một cận vệ phiên dịch cho tôi. Ông cho biết tiếng Tsuchihashi đã để một xe con cùng với người lái cho tôi sử dụng và ông được chỉ định làm sĩ quan liên lạc của Bộ Tổng tham mưu về mọi việc có liên quan giữa chúng tôi và người Nhật. Chúng tôi chỉ đi một quãng ngắn để đến Tổng Hành dinh quân Nhật, ở bên bờ sông và gần bảo tàng Louis Fiinot. Viên đại úy dẫn tôi vào dinh qua hai người lính gác và có một người ra mở hai lần cửa lớn. Tôi không hồi tưởng lại kỹ được gian phòng. Sau một bàn ở cuối buồng, thấy một người nhỏ nhắn ngồi, tường đằng sau có treo ảnh Nhật hoàng Hirohito và cờ mặt trời mọc. Bên phải có một dãy độ 10 hay 12 sĩ quan cao cấp đứng nghiêm. Giữa phòng có một bàn họp lớn, có sẵn mỗi bên một ghế và một chiếc thứ ba đặt ở đằng sau gần cửa ra vào.
Khi tôi tới, viên tướng đứng dậy và hơi nghiêng đầu.
Các sĩ quan cũng làm theo, cúi đầu sâu hơn. Tôi chào lại theo kiểu quân sự và người đại úy giới thiệu tôi với viên tướng, rồi đến các sĩ quan tham mưu. Trung tướng Yuitsu Tsuchihashi tuổi hạ ngũ tuần, thấp (khoảng 5 bộ 5 hoặc 6), mặt trong vẻ nghiêm nghị, rắn rỏi. Đầu trọc hoàn toàn. Theo lời mời, tôi ngồi xuống một ghế, viên tướng cũng ngồi xuống ghế đối diện, còn người đại diện phiên dịch ở ghế thứ ba phía trong. Các sĩ quan khác vẫn đứng cạnh viên tướng, vẻ mặt kín đáo, rất khó đoán định nhưng rõ ràng là không thân thiện.
Tôi chủ động nói trước là Chính phủ Nhật đã đầu hàng Đồng minh không điều kiện ngày 10-8 và tôi được Thống chế Tưởng Giới Thạch ủy quyền cho đến xem xét tình hình và điều kiện các tù binh chiến tranh Đồng minh ở bắc Đông Dương, và quyết định cho họ hồi hương càng sớm càng tốt. Tất nhiên tôi cũng báo tôi là người trung gian đầu tiên để tổ chức việc tiếp thu đầu hàng của quân đội Nhật cho Đồng minh ở Đông Dương. Viên tướng không công nhận việc đầu hàng của Nhật mà chỉ nói là ngày 17-8 ông đã nhận được lệnh của Cụm Tập đoàn quân Nam ra lệnh ngừng chiến trong vòng 5 ngày. Ngày 18-8, ông đã ra lệnh cho Tập đoàn quân 38 ngừng bắn vào 8 giờ sáng ngày 21-8. Nhưng còn về “nhiệm vụ” của tôi, ông sẽ xin chỉ thị của Tokyo. Trong khi chờ đợi, người Mỹ được tự do đi lại trong phạm vi thành phố Hà Nội.
Tôi nêu vấn đề đến thăm các tù binh Đồng minh. Về nguyên tắc, ông đồng ý, nhưng nói phải chờ chỉ thị của Tokyo mà theo ông thì sẽ nhận được trong vòng 48 giờ.
Tôi nêu việc tiếp theo là vấn dề trật tự và an ninh công cộng. Tsuchihashi đáp lại ngay rằng “trong điều kiện hiện tại” và theo chỉ thị của Tokyo, ông đã trao dần quyền lực và nhiệm vụ cai trị cho nhà cầm quyền “Việt Nam địa phương”. Mặc dù không được sự hướng dẫn về điểm này, tôi báo cho Tsuchihashi biết là vấn đề trật tự và an ninh công cộng thuộc trách nhiệm của nhà chức trách Nhật cho đến khi Đồng minh đến trực tiếp tiếp nhận. Điều đó đã không được từ viên tướng cho đến các sĩ quan ở đó tiếp thu, lần đầu tiên họ phá vỡ sự im lặng và xì xào với nhau.
Cho rằng đã khẳng định được quy chế chính thức của tôi đã xác định được, sự gánh vác tránh nhiệm về trật tự công cộng, tôi cho là đã đến lúc kết thúc cuộc gặp gỡ. Tôi đứng dậy và nói sẽ báo cáo với Trùng Khánh về cuộc gặp sáng nay và sẽ thông báo cho viên tướng sau. Tsuchihashi cũng đứng lên và nghiêng mình. Tôi chào và lui ra cùng với người đại úy theo sau như một cái bóng.
________________________________________
(1) cách Côn Minh 75 dặm về phía đông bắc
(2) bí danh của người chỉ huy nhóm tù binh Gia Lâm
(3) Tư lệnh Tập đoàn quân Hoàng gia Nhật thứ 38
(4) Trại lính của Pháp cũ, sau Nhật sửa lại thành nơi giam tù binh và tù chính trị
(5) Nguyên văn: Palais Du Gouvernement
(6) Dinh Thống sứ
Logged
(ak47)
Thành viên
*
Bài viết: 123
Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti
« Trả lời #45 vào lúc: 04 Tháng Tám, 2008, 02:28:59 PM »
Chương 17
Ngày thứ hai của chúng tôi ở Hà Nội
CẢM TƯỞNG ĐẦU TIÊN
Sau cuộc gặp gỡ với Tsuchihashi, tôi đi quanh thành phố một vòng để nắm tình hình địa phương. Ngày hôm trước tôi đã không thấy gì nhiều là cuộc bạo động ở khách sạn Métropole nên tưởng sẽ thấy phố xá đóng cửa và dân chúng trong tình trạng căng thẳng. Ngược lại, các cửa hàng vẫn mở, chợ vẫn đông người, các công sở làm việc tấp nập... Và tất cả đều phất phới cờ Việt Minh. Thực tế là một biển cờ đỏ và biểu ngữ tràn ngập. Người Đông Dương đi bộ, đi xe đạp, nhộn nhịp với một dáng tự hào và tin tưởng nhưng vẫn trật tự theo sự điều khiển của người cảnh sát giao thông Việt Nam.
Nhưng càng vào sâu trong thành phố, tôi mới thấy người Âu vắng bóng hoàn toàn. Không kể các đội tuần tiễu Nhật và lác đác một số người Trung Quốc, thì hình như chỉ còn toàn là người Việt Nam. Ngoài những lá cờ đỏ biểu trưng của chính quyền Việt Minh chỉ còn có những thanh niên nam nữ mang vũ khí đi tuần ở phố và canh gác công sở.
Họ không mặc đồng phục nhưng có băng tay của Đội quân giải phóng Nhân dân. Song nếu quan sát kỹ, thì cũng thấy được ở chỗ này chỗ kia có những xe đầy lính có vũ khí đứng bên đường. Thoạt đầu tôi cho đó là những biện pháp nhằm để chống lại các cuộc rối loạn có thể xảy ra. Nhưng khi đến gần Cung Thiếu nhi, tôi thấy có một dinh thự lớn có lính Nhật gác với súng máy, dây kẽm gai và vật chướng ngại. Tôi ngạc nhiên, vì ở ngay Tổng hành dinh Nhật cũng không có sự cẩn mật đến như vậy. Tôi hỏi và viên đại úy cảnh vệ nói ngay: “Nhà băng Đông Dương”. Việc bảo vệ đặc biệt đó là cần thiết vì “đó là điểm duy nhất có giá trị còn lại trong thành phố”.
Về tới Métropole, tôi thấy khu vực đã bị bao vây bởi một vành đai những người Việt vũ trang và một phân đội lính Nhật đứng gác. Còn trên vườn hoa và các phố chung quanh thì chen chúc đầy những người Việt vừa hô khẩu hiệu, vừa hát và thỉnh thoảng lại xô ra định phá vỡ hàng rào bảo vệ, nhưng hành động của họ lại tỏ ra có ít nhiều thiện ý.
Viên đại úy Nhật của tôi liền chạy về phía người sĩ quan chỉ huy phân đội, còn thượng sĩ F. Altman trong toán cũng tới báo cáo cho tôi biết tình hình.
Có hai người Pháp đã đến báo tin là Sainteny và các sĩ quan đi cùng định vào Thành để thả số tù binh Pháp trong đó ra nhưng đã bị bắt giữ. Dân ở Métropole bị kích động đã rối lên.
Có người Pháp đã dọa nạt những người “bồi” Việt và yêu cầu người Mỹ tổ chức một “đội trừng phạt” gồm những người tình nguyện Pháp để cứu Sainteny và các tù binh Pháp. Chủ khách sạn báo cho Nhật và họ đã nhanh chóng lập lại trật tự. Khi cảnh sát Việt Nam tới, người Pháp trong khách sạn đã la ó, chửi bới, và quần chúng xúm đông lại.
Cảnh binh đã bắt giữ hai người Pháp và Hiến binh Nhật đã xác định là hai tên khiêu khích. Theo yêu cầu của tôi,, viên đại úy Nhật đã gọi dây nói đến dinh Toàn quyền và được trả lời là Sainteny vẫn còn ở đó và không hề bị bắt. Vụ kích động tan đi, nhưng tôi hiểu hơn tại sao người Nhật lại phải bố trí các xe đầy lính ở các phố bên cạnh. Cái thành phố trông như bình thường và hiền lành này chỉ là trên bề mặt, một việc chút xíu cũng đủ làm nó bùng nổ.
Toán OSS của chúng tôi đã trở thành một trung tâm quyền lực của Đồng minh. Ai cũng có một lý do hay một mong muốn được tiếp xúc với nó.
Người Pháp đến để kêu ca yêu cầu và mưu tính. Người Việt đến để xem như là những người bên trong của Phái đoàn Mỹ. Người các nước khác cũng đến với những lý do riêng của mình.
Trong số những người đến đầu tiên, có viên lãnh sự Thụy Sĩ, Robert Blattner. Sau khi nêu chức vụ được ủy nhiệm, ông báo cho tôi biết là ông cũng đại diện cho quyền lợi của Đức, Ý và một số các nước khác. Tôi cảm ơn ông đã đến thăm nhưng nói là không muốn dính líu đến các công tác lãnh sự và báo cho ông biết, cũng có thể sau này Bộ Ngoại giao sẽ phái đến một người đại diện chính thức.
Một người khác cũng đến sớm là ông giám đốc Ngân hàng Đông Dương. Ông lo lắng ra mặt và “hỏi xem” tôi có thay người kiểm soát và lính gác Nhật bằng người của Đồng minh hoặc Pháp được không. Ông bối rối vì trong tuần trước người Nhật đã rút ở Ngân hàng ra những món tiền lớn và họ còn đang đòi hỏi nhiều hơn nữa “để trả cho việc chi tiêu nhằm duy trì pháp luật và trật tư cũng như việc bảo trợ cho người Pháp”.
Tôi phát biểu lấy làm tiếc rằng ông đã gặp những khó khăn với những khách hàng cũ của ngân hàng, nhưng việc đó lại không trực tiếp thuộc quyền giải quyết của tôi. Ông ta bỏ về với một bộ mặt giận dỗi.
Logged
(ak47)
Thành viên
* Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #46 vào lúc: 04 Tháng Tám, 2008, 02:29:38 PM »
HÀ NỘI LÃNH ĐẠO CUỘC KHỞI NGHĨA NHƯ THẾ NÀO?
Hai đại diện của Thành ủy Hà Nội, Vũ Văn Minh và Khuất Duy Tiến, đã đến ngay để đặt “quan hệ thân thiện với Đồng minh”. Tôi rất muốn được nghe Việt Minh đã nắm chính quyền ở Hà Nội như thế nào và ông Tiến đã vui lòng kể lại. Điểm đầu tiên mà ông nói là “nhân dân đã chiếm quyền mà không có đổ máu”.
Và ông tự hào cho biết “tất cả các ngành phục vụ và dịch vụ công cộng tiếp tục làm việc không gián đoạn” dưới sự điều hành của người Việt Nam địa phương. Những điều tôi chứng kiến đã xác định lời ông nói. Nước vẫn chảy trong ống dẫn, điện bật công tắc lên là có, nước trong buồng tắm khách sạn vẫn chảy xiết, điện thoại vẫn kêu. Các cửa hàng và chợ trưng bày đầy hàng, chứng tỏ luồng tiếp tế ở các địa phương chuyển về mạnh và tôi còn trông thấy cả một số xe tải và xe buýt chạy trên đường phố, điều đó có nghĩa là vẫn có ít nhiều xăng dầu và giao thông công cộng. Tiến nói tiếp, sau vụ Nagasaki thì ở Hà Nội mọi người đã tin chắc rằng “Mặt trời đang lên đã đến lúc phải lặn”, nhưng tại Hà Nội, Việt Minh vẫn không nhận được một chỉ đạo đặc biệt nào. Trong nhiều ngày, hội viên các Đoàn thể Cứu Quốc đã thảo luận xem sẽ phải hành động như thế nào khi Nhật đầu hàng.
Vào ngày 11-8, họ nhận được tin ủy ban Trung ương Đảng triệu tập Quốc dân Đại hội, nhưng giao thông liên lạc giữa Hà Nội và Tân Trào rất chậm và không an toàn, và nhiều hội viên Việt Minh Hà Nội vẫn phải sống trong một vòng bí mật. Ngày 13 (ngày Hội nghị Đảng khai mạc ở Tân Trào), Xứ ủy Bắc Kỳ họp ở ngoại ô Hà Nội để ấn định phương hướng hoạt động. Một ủy viên nêu vấn đề viên Phó vương Bắc Kỳ (Khâm sai) Phan Kế Toại đã nhiều lần tỏ ý mong được gặp đại diện của Việt Minh. Ông này được mọi người biết là ủng hộ độc lập dân tộc nhưng dưới một triều vua Việt Nam và do Nhật đỡ đầu. Xứ ủy liền cử Nguyễn Khang(1) đi gặp viên Khâm sai để tìm hiểu xem ông có ý gì. Đúng như đã được dự kiến, viên Khâm sai đề nghị Việt Minh tham gia Chính phủ Bảo Đại(2) và ngừng các hoạt động chống Nhật. Khang đã bác bỏ lời đề nghị. Hai ngày sau, khi Nhật tuyên bố đầu hàng, những người cách mạng ở Hà Nội vẫn không nhận được mệnh lệnh ở Tân Trào. Họ lại họp(3) và quyết định hành động trên cơ sở chỉ thị ngày 12-3 của Thường vụ ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương “cho phát động tổng khởi nghĩa khi có hoàn cảnh thuận lợi”. Họ cho đó là một sự phê chuẩn đầy đủ để hành dộng và Nguyễn Khang trong đêm ấy đã phổ biến quyết định cho những người cách mạng ở Hà Nội.
Để đối phó với một cuộc chiếm đóng của Trung Quốc, hoặc cũng có thể của cả Pháp, các nhà chức trách Nhật ở Bắc Kỳ đã bày ra cách bàn giao cho viên Khâm sai bộ máy hành chính địa phương, sở Bảo an binh, sở Mật thám trung ương, sở Kiểm duyệt và một số công sở ít quan trọng khác. Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ, trong một cố gắng cuối cùng nhằm duy trì quyền lực cho Chính phủ Kim đã chết, đã bí mật họp ngày 16-8 ở Phủ Thống sứ và bằng một cử chỉ oanh liệt, tuyên bố tập họp quần chúng đi theo Bảo Đại, né tránh những người Cộng sản quốc gia, và hoãn không thời hạn rồi giải tán. Cuối cùng, những người cách mạng Hà Nội cũng đã nhận được lệnh của Tân Trào cho phép phát động tổng khởi nghĩa, nhưng bản thảo luận họ lại thấy chưa được chuẩn bị sẵn sàng. Họ thấy cần phải phát động được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân và tiến hành một cuộc biểu dương lực lượng, nhưng cũng chưa biết phải làm thế nào. Gặp vận may hiếm có, chính đối phương của họ đã tạo nên một cơ hội tuyệt vời.
Các phần tử dao động trong chính quyền Trần Trọng Kim, trong một cố gắng vô vọng nhằm để cứu vãn địa vị đang sụp đổ của mình, đã triệu tập một cuộc mít tinh quần chúng của Tổng bộ Viên chức vào ngày 17-8. Nắm ngay lấy cơ hội trời cho này, Thành ủy Hà Nội quyết định một cách táo bạo: bung phong trào Việt Minh ra công khai bằng cách phá vỡ cuộc mít tinh và chuyển nó thành một cuộc biểu dương lực lượng của Việt Minh. Trong khoảng thời gian còn lại quá ngắn ngủi, họ sôi sục chuẩn bị sắp đặt những thanh niên nam nữ đã được huấn luyện đặc biệt của Đội tuyên truyền vũ trang vào các vị trí chiến lược trong đám quần chúng để sẵn sàng đạo diễn cho tấn kịch. Quần chúng tập trung trước cửa Nhà hát lớn để nghe các diễn giả chống Cộng kêu gọi ủng hộ độc lập dân tộc dưới quyền bảo trợ của Nhật. Khi người phát ngôn chính thức đầu tiên bắt đầu lên tiếng thì các đội viên Đội tuyên truyền cũng trương các cờ đỏ sao vàng ra và hô to “ủng hộ Việt Minh”. Mọi người hô theo và một sự hỗn loạn cực độ đã phá vỡ hoàn toàn chương trình tổ chức. Đâu cũng có cờ đỏ, nhấp nhô tung bay phất phới trên đầu quần chúng, hòa theo với những bài ca “Độc lập hay là chết”, “Đả đảo thực dân Pháp”, “Đế quốc Nhật cút đi” v.v...
Ban tổ chức gắng lập lại trật tự nhưng đã quá muộn, họ không còn kiểm soát được tình hình nữa. Lúc đó, theo một tín hiệu đã định trước, nhiều đội viên đội danh dự, súng ngắn trong tay, nhảy lên bục và dồn các viên chức của Bảo Đại vào một góc, hạ cờ nhà vua xuống và trương cờ Việt Minh lên. Các cán bộ tuyên truyền chuyển sang vừa kêu gọi quần chúng, vừa hô khẩu hiệu nhưng không có kết quả; quần chúng không tha thiết nữa và sự náo động bắt đầu nổi dậy. Cuối cùng, Nguyễn Khang, bằng những lời kêu gọi đầy xúc động, đã kéo quần chúng trở lại với việc ủng hộ Việt Minh.
Lập luận của ông là Việt Nam đã giành lại được độc lập từ tay người Nhật, chứ không phải từ người Pháp, vì Pháp đã dâng Đông Dương cho Nhật từ năm 1940. Nay Nhật bị Đồng minh đánh bại và Việt Nam đã được tự do. Khang đã nói về độc lập đối với tất cả các nước ngoài - Nhật, Pháp và Trung Quốc, đã kết tội chính quyền Kim phục vụ quyền lợi cho ngoại quốc và kêu gọi quần chúng nổi dậy đánh đổ chính quyền tay sai, đấu tranh cho độc lập dân tộc cùng với Mặt trận Việt Minh và các nước Đồng minh chiến thắng. Được quần chúng vững vàng ủng hộ, Khang yêu cầu họ sắp thành hàng và diễu hành tới dinh Toàn quyền để biểu thị tình đoàn kết và sức mạnh của mình. Lúc đó là một thời điểm khá gay cấn vì không một ai biết được Nhật và lính Bảo an sẽ làm gì.
* Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #46 vào lúc: 04 Tháng Tám, 2008, 02:29:38 PM »
HÀ NỘI LÃNH ĐẠO CUỘC KHỞI NGHĨA NHƯ THẾ NÀO?
Hai đại diện của Thành ủy Hà Nội, Vũ Văn Minh và Khuất Duy Tiến, đã đến ngay để đặt “quan hệ thân thiện với Đồng minh”. Tôi rất muốn được nghe Việt Minh đã nắm chính quyền ở Hà Nội như thế nào và ông Tiến đã vui lòng kể lại. Điểm đầu tiên mà ông nói là “nhân dân đã chiếm quyền mà không có đổ máu”.
Và ông tự hào cho biết “tất cả các ngành phục vụ và dịch vụ công cộng tiếp tục làm việc không gián đoạn” dưới sự điều hành của người Việt Nam địa phương. Những điều tôi chứng kiến đã xác định lời ông nói. Nước vẫn chảy trong ống dẫn, điện bật công tắc lên là có, nước trong buồng tắm khách sạn vẫn chảy xiết, điện thoại vẫn kêu. Các cửa hàng và chợ trưng bày đầy hàng, chứng tỏ luồng tiếp tế ở các địa phương chuyển về mạnh và tôi còn trông thấy cả một số xe tải và xe buýt chạy trên đường phố, điều đó có nghĩa là vẫn có ít nhiều xăng dầu và giao thông công cộng. Tiến nói tiếp, sau vụ Nagasaki thì ở Hà Nội mọi người đã tin chắc rằng “Mặt trời đang lên đã đến lúc phải lặn”, nhưng tại Hà Nội, Việt Minh vẫn không nhận được một chỉ đạo đặc biệt nào. Trong nhiều ngày, hội viên các Đoàn thể Cứu Quốc đã thảo luận xem sẽ phải hành động như thế nào khi Nhật đầu hàng.
Vào ngày 11-8, họ nhận được tin ủy ban Trung ương Đảng triệu tập Quốc dân Đại hội, nhưng giao thông liên lạc giữa Hà Nội và Tân Trào rất chậm và không an toàn, và nhiều hội viên Việt Minh Hà Nội vẫn phải sống trong một vòng bí mật. Ngày 13 (ngày Hội nghị Đảng khai mạc ở Tân Trào), Xứ ủy Bắc Kỳ họp ở ngoại ô Hà Nội để ấn định phương hướng hoạt động. Một ủy viên nêu vấn đề viên Phó vương Bắc Kỳ (Khâm sai) Phan Kế Toại đã nhiều lần tỏ ý mong được gặp đại diện của Việt Minh. Ông này được mọi người biết là ủng hộ độc lập dân tộc nhưng dưới một triều vua Việt Nam và do Nhật đỡ đầu. Xứ ủy liền cử Nguyễn Khang(1) đi gặp viên Khâm sai để tìm hiểu xem ông có ý gì. Đúng như đã được dự kiến, viên Khâm sai đề nghị Việt Minh tham gia Chính phủ Bảo Đại(2) và ngừng các hoạt động chống Nhật. Khang đã bác bỏ lời đề nghị. Hai ngày sau, khi Nhật tuyên bố đầu hàng, những người cách mạng ở Hà Nội vẫn không nhận được mệnh lệnh ở Tân Trào. Họ lại họp(3) và quyết định hành động trên cơ sở chỉ thị ngày 12-3 của Thường vụ ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương “cho phát động tổng khởi nghĩa khi có hoàn cảnh thuận lợi”. Họ cho đó là một sự phê chuẩn đầy đủ để hành dộng và Nguyễn Khang trong đêm ấy đã phổ biến quyết định cho những người cách mạng ở Hà Nội.
Để đối phó với một cuộc chiếm đóng của Trung Quốc, hoặc cũng có thể của cả Pháp, các nhà chức trách Nhật ở Bắc Kỳ đã bày ra cách bàn giao cho viên Khâm sai bộ máy hành chính địa phương, sở Bảo an binh, sở Mật thám trung ương, sở Kiểm duyệt và một số công sở ít quan trọng khác. Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ, trong một cố gắng cuối cùng nhằm duy trì quyền lực cho Chính phủ Kim đã chết, đã bí mật họp ngày 16-8 ở Phủ Thống sứ và bằng một cử chỉ oanh liệt, tuyên bố tập họp quần chúng đi theo Bảo Đại, né tránh những người Cộng sản quốc gia, và hoãn không thời hạn rồi giải tán. Cuối cùng, những người cách mạng Hà Nội cũng đã nhận được lệnh của Tân Trào cho phép phát động tổng khởi nghĩa, nhưng bản thảo luận họ lại thấy chưa được chuẩn bị sẵn sàng. Họ thấy cần phải phát động được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân và tiến hành một cuộc biểu dương lực lượng, nhưng cũng chưa biết phải làm thế nào. Gặp vận may hiếm có, chính đối phương của họ đã tạo nên một cơ hội tuyệt vời.
Các phần tử dao động trong chính quyền Trần Trọng Kim, trong một cố gắng vô vọng nhằm để cứu vãn địa vị đang sụp đổ của mình, đã triệu tập một cuộc mít tinh quần chúng của Tổng bộ Viên chức vào ngày 17-8. Nắm ngay lấy cơ hội trời cho này, Thành ủy Hà Nội quyết định một cách táo bạo: bung phong trào Việt Minh ra công khai bằng cách phá vỡ cuộc mít tinh và chuyển nó thành một cuộc biểu dương lực lượng của Việt Minh. Trong khoảng thời gian còn lại quá ngắn ngủi, họ sôi sục chuẩn bị sắp đặt những thanh niên nam nữ đã được huấn luyện đặc biệt của Đội tuyên truyền vũ trang vào các vị trí chiến lược trong đám quần chúng để sẵn sàng đạo diễn cho tấn kịch. Quần chúng tập trung trước cửa Nhà hát lớn để nghe các diễn giả chống Cộng kêu gọi ủng hộ độc lập dân tộc dưới quyền bảo trợ của Nhật. Khi người phát ngôn chính thức đầu tiên bắt đầu lên tiếng thì các đội viên Đội tuyên truyền cũng trương các cờ đỏ sao vàng ra và hô to “ủng hộ Việt Minh”. Mọi người hô theo và một sự hỗn loạn cực độ đã phá vỡ hoàn toàn chương trình tổ chức. Đâu cũng có cờ đỏ, nhấp nhô tung bay phất phới trên đầu quần chúng, hòa theo với những bài ca “Độc lập hay là chết”, “Đả đảo thực dân Pháp”, “Đế quốc Nhật cút đi” v.v...
Ban tổ chức gắng lập lại trật tự nhưng đã quá muộn, họ không còn kiểm soát được tình hình nữa. Lúc đó, theo một tín hiệu đã định trước, nhiều đội viên đội danh dự, súng ngắn trong tay, nhảy lên bục và dồn các viên chức của Bảo Đại vào một góc, hạ cờ nhà vua xuống và trương cờ Việt Minh lên. Các cán bộ tuyên truyền chuyển sang vừa kêu gọi quần chúng, vừa hô khẩu hiệu nhưng không có kết quả; quần chúng không tha thiết nữa và sự náo động bắt đầu nổi dậy. Cuối cùng, Nguyễn Khang, bằng những lời kêu gọi đầy xúc động, đã kéo quần chúng trở lại với việc ủng hộ Việt Minh.
Lập luận của ông là Việt Nam đã giành lại được độc lập từ tay người Nhật, chứ không phải từ người Pháp, vì Pháp đã dâng Đông Dương cho Nhật từ năm 1940. Nay Nhật bị Đồng minh đánh bại và Việt Nam đã được tự do. Khang đã nói về độc lập đối với tất cả các nước ngoài - Nhật, Pháp và Trung Quốc, đã kết tội chính quyền Kim phục vụ quyền lợi cho ngoại quốc và kêu gọi quần chúng nổi dậy đánh đổ chính quyền tay sai, đấu tranh cho độc lập dân tộc cùng với Mặt trận Việt Minh và các nước Đồng minh chiến thắng. Được quần chúng vững vàng ủng hộ, Khang yêu cầu họ sắp thành hàng và diễu hành tới dinh Toàn quyền để biểu thị tình đoàn kết và sức mạnh của mình. Lúc đó là một thời điểm khá gay cấn vì không một ai biết được Nhật và lính Bảo an sẽ làm gì.
Nhưng họ đã không hành động để can thiệp. Khi cuộc diễu hành bắt đầu, binh lính Bảo an bồng súng và đi vào hàng cùng với những người biểu tình - một thắng lợi cực kỳ to lớn cho Việt Minh. Dọc đường, một số lớn những người ngoài cuộc cũng ùa đi theo cho nên một trận mưa trút nước lúc đó cũng chẳng làm dịu bớt tinh thần quần chúng. Cuộc biểu tình là một thắng lợi hết sức to lớn. Ngoài một sự xô đẩy nhỏ trên bục diễn giả, thì ở đây không có bạo lực và đổ máu.
Cuộc mít tinh quần chúng đã thể hiện như là một sự xuất hiện công khai và không có đối lập đầu tiên của Việt Minh coi như là một lực lượng chính trị, và điều đó đã phát động được sự phấn khởi của quần chúng tiến hành nhiều cuộc diễu hành và diễn thuyết đầy những lời ca tụng suốt trong ba hôm.
Ngay tối hôm đó, Thành ủy họp một phiên chiến lược và kết luận đúng là đã đến thời điểm phải tiến lên. Họ lý luận rằng chính quyền Kim đã không dám đương đầu với họ, trong khi đó thì lực lượng an ninh và cảnh sát sẽ đi theo họ cùng với vũ khí và tất cả. Họ thấy không có dấu hiệu là quân bại trận Nhật sẽ có hành động chống lại. Ngay cả đến đám thị dân vô chính trị cũng tỏ ra có cảm tình với chính nghĩa của họ. Một sự trì hoãn có thể trở nên nguy hiểm.
Người Nhật cũng có thể thay đổi ý định của họ. Đám Quốc dân đảng thù địch như Đại Việt(4) và Phục Quốc(5) đã có những đơn vị vũ trang cũng có thể tổ chức chống đối. Còn quần chúng cũng có thể trở thành thờ ơ. Do đó Thành ủy đã có quyết định lịch sử ra lệnh khởi nghĩa vào ngày 19-8.
Lại bắt đầu một cuộc chuẩn bị sôi sục. Một ủy ban Quân sự cách mạng vạch kế hoạch tiến hành trong ngày, bắt đầu là một cuộc tập hợp quần chúng to lớn, sau chuyển thành một cuộc diễu hành khổng lồ tiến về dinh Toàn quyền, dinh Thống sứ, sở Mật thám, trại Bảo an binh, chợ và các mục tiêu khác gặp trên đường đi.
Sáng tinh mơ 19-8, một ngày chủ nhật, các đội viên Đội võ trang tuyên truyền tản ra các vùng ngoại ô và làng xóm chung quanh kêu gọi dân chúng đến tham gia vào cuộc tập trung ở trước cửa Nhà hát lớn. Đến 9 giờ, nhiều dòng người đi bộ hoặc xe đạp, theo từng nhóm gia đình hoặc láng giềng, lũ lượt phấn khởi kéo vào thành phố. Một số mặc lễ phục hoặc y phục địa phương.
Họ được phát cờ Việt Minh hoặc các biểu ngữ mới được làm từ hôm trước và được tập dượt một cách vội vàng hoan hô hoặc hát mỗi khi có lệnh. Hầu hết mọi người đều gấp rút học lời và điệu bài quốc ca tương lai “Tiến quân ca”.
Họ từ mọi phía kéo về quảng trường trước cửa Nhà hát lớn, tràn vào các đường phố trong khu vực, hình thành một cảnh tượng đáng kinh sợ, một biển người đội trên đầu hàng ngàn cờ đỏ. Không có gì quá đáng trong sự diễn tả và các ảnh chụp lúc đó của những người Pháp được chung kiến. Dẫn đầu các dòng người là những đơn vị tự vệ được trang bị bằng tất cả mọi thứ vũ khí, từ khẩu súng tối tân Nhật cho đến khẩu mousqueton(6) của Pháp, súng kíp cổ lỗ và súng săn.
Đến giữa trưa, lực lượng của cuộc mít tinh lớn này được tổ chức lại thành các đội xung kích và tiến về hai hướng khác nhau. Một cánh tiến thẳng về phía dinh Thống sứ, chung quanh có hàng rào sắt cao che, có lính Nhật và lính Bảo an cùng gác. Những người biểu tình lao về phía hàng rào và kêu gọi binh lính hạ súng đầu hàng. Lính gác ngập ngừng, trong khi đó thì nhiều tự vệ đã leo vọt qua được hàng rào.
Thấy thế, binh lính chỉ còn cách vứt súng xuống đất trước mắt họ và lặng lẽ rút lui. Những người biểu tình đã lọt vào trong và mở cổng. Dinh Thống sứ đã “bị chiếm”. Người ta phát hiện ra ngay viên Khâm sai và đám tùy tùng đã trốn đi từ trước. Đội tự vệ chiếm lĩnh tòa nhà, trương cờ Việt Minh lên thay vào chỗ cờ của nhà vua và đặt canh gác.
Đó là một thắng lợi cụ thể đầu tiên của Việt Minh và nó đã có tác dụng tượng trưng vô cùng to lớn. Chỉ trong một đòn và không phải bắn một phát súng, khái niệm về chế độ thực dân bị tan vỡ và toàn bộ chính quyền bù nhìn Bảo Đại công khai bị lật đổ.
Đội tự vệ Việt Minh đã tìm được một chỗ cất giấu lớn đầy vũ khí mới và đạn dược trong kho dinh Thống sứ. Có vũ khí mới, lại được một số Bảo an đào ngũ tăng cường thêm, đội tự vệ tiến về các công sở khác và đã chiếm được một cách dễ dàng.
Cánh thứ hai ào tới trại Bảo an binh. Viên chỉ huy trại, vốn là một người cảm tình bí mật của Việt Minh, đã nhanh nhẹn mở cổng vào trao nộp chìa khóa kho vũ khí. Việt Minh chiếm được nhiều vũ khí hiện đại, nhưng chỉ sau đó vài phút, họ đã phải đương đầu ngay với nhiều xe tăng cùng với nhiều xe vận tải đầy bộ binh Nhật được điều tới. Đây là một khó khăn. Những vũ khí mới cũng không giúp gì cho những người nổi loạn vì họ không biết sử dụng và Nhật cũng hay được điều đó.
Cánh thứ hai ào tới trại Bảo an binh. Viên chỉ huy trại, vốn là một người cảm tình bí mật của Việt Minh, đã nhanh nhẹn mở cổng vào trao nộp chìa khóa kho vũ khí. Việt Minh chiếm được nhiều vũ khí hiện đại, nhưng chỉ sau đó vài phút, họ đã phải đương đầu ngay với nhiều xe tăng cùng với nhiều xe vận tải đầy bộ binh Nhật được điều tới. Đây là một khó khăn. Những vũ khí mới cũng không giúp gì cho những người nổi loạn vì họ không biết sử dụng và Nhật cũng hay được điều đó.
Dù sao thì khi nhìn thấy những vũ khí của Việt Minh, người Nhật cũng phải suy nghĩ. Trong lúc đó họ còn đang do dự thì Lê Trung Nghĩa(7) đã lên tiếng một vài lời và tác động mạnh đến họ bằng cách khéo léo chỉ ra cho họ biết là người Nhật đã bị bại trận và sắp tới họ sẽ được hồi hương. Người Việt Nam, Nghĩa nói, không còn coi họ là kẻ thù của mình nữa và nếu như họ không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, Nghĩa sẽ bảo đảm an ninh cho họ. Đến đó viên chỉ huy Nhật liền rút lui, để lại khu vực cho Việt Minh.
Đến chiều thì toàn bộ thành phố, trừ nhà Ngân hàng Đông Dương, Phủ Toàn quyền và các doanh trại Nhật, đã thuộc quyền kiểm soát của Việt Minh hay chính xác hơn, của Thành ủy Hà Nội.
Trong nhiều năm, nhiều câu chuyện huyền thoại đã lan truyền chung quanh việc “chiếm” Hà Nội.
Đây không phải là một cuộc đảo chính, không có đổ máu, không có khủng bố trả thù, không có chống cự của người Pháp, không có âm mưu bí mật hoặc điều đình thông đồng với Nhật và ngay cả đến một sự giúp đỡ to lớn của người Việt Nam ở bên ngoài Hà Nội cũng không có. Ngay sau khi ông Tiến kể lại các sự việc này với tôi, bốn ngày sau khi xảy ra sự kiện, tướng Giáp và đơn vị bộ đội thiện chiến của ông, cùng với thiếu tá Thomas và toán “Con Nai” vẫn còn đang đánh nhau với Nhật ở Thái Nguyên, cách xa Hà Nội khoảng 40 dặm. Hà Nội, thủ phủ của Bắc Kỳ, trung tâm quyền lực thực dân Pháp ở bắc Đông Dương, đã tự giải phóng lấy mình và đặt ra một khuôn mẫu cho việc giải phóng phần lớn khu vực còn lại của đất nước.
Câu chuyện tìm hiểu về Hà Nội đã phải ngừng lại vì trung úy Ogoshi tới, mang theo một công văn riêng của tướng Tsuchihashi. “Bộ chỉ huy tối cao”(Cool lấy làm lo ngại về việc quân đội Trung Quốc tiến vào bắc Đông Dương. Các tiền đồn ở biên giới của Nhật báo cáo có 3 cánh quân Trung Quốc đã vượt qua biên giới ở Lào Cai, Hà Giang và Cao Bằng, và đang tiến về phía nam. Vì chưa tiến hành việc ký kết đầu hàng và người Nhật ở đây chỉ nhận được chỉ thị của Tokyo là “ngừng bắn”, nên việc vượt qua biên giới là không có lý do chính đáng và quá sớm. Do đó cũng có thể hiểu được rằng tình hình đã bắt buộc Nhật phải tự vệ để chống lại các cuộc tiến công của Đồng minh có thể xảy ra. Nói thêm về bản công hàm của Sài Gòn, Ogoshi cho biết quan điểm của Tsuchihashi là việc vượt qua biên giới Đông Dương trước khi có sự ký kết đầu hàng cuối cùng sẽ gây ra tai họa cho tình hình chính trị tại Hà Nội, có thể gây nhiễu loạn và náo động trong dân chúng người Việt và người Pháp.
Câu chuyện tìm hiểu về Hà Nội đã phải ngừng lại vì trung úy Ogoshi tới, mang theo một công văn riêng của tướng Tsuchihashi. “Bộ chỉ huy tối cao”(Cool lấy làm lo ngại về việc quân đội Trung Quốc tiến vào bắc Đông Dương. Các tiền đồn ở biên giới của Nhật báo cáo có 3 cánh quân Trung Quốc đã vượt qua biên giới ở Lào Cai, Hà Giang và Cao Bằng, và đang tiến về phía nam. Vì chưa tiến hành việc ký kết đầu hàng và người Nhật ở đây chỉ nhận được chỉ thị của Tokyo là “ngừng bắn”, nên việc vượt qua biên giới là không có lý do chính đáng và quá sớm. Do đó cũng có thể hiểu được rằng tình hình đã bắt buộc Nhật phải tự vệ để chống lại các cuộc tiến công của Đồng minh có thể xảy ra. Nói thêm về bản công hàm của Sài Gòn, Ogoshi cho biết quan điểm của Tsuchihashi là việc vượt qua biên giới Đông Dương trước khi có sự ký kết đầu hàng cuối cùng sẽ gây ra tai họa cho tình hình chính trị tại Hà Nội, có thể gây nhiễu loạn và náo động trong dân chúng người Việt và người Pháp.
Tôi đã không chấp nhận bản công hàm và cho rằng nó có giọng kiêu căng và dọa nạt. Tôi lên tiếng báo cho biết rằng nếu các nhà đương cục Nhật ở Đông Dương muốn làm trái với lời công bố của Hoàng đế họ thì điều đó không có liên can gì đến người Mỹ cả.
Viên trung úy Nhật thấy tôi từ chối dứt khoát, có thể sẽ phải báo cáo lên cấp trên là đã không thực hiện được việc chuyển bức công hàm của Thống chế(9) cho Đồng minh. Tôi hiểu rõ và thông cảm với tình cảnh khó khăn của anh ta nên gợi ý là trong khi cuộc thương lượng ở cấp chúng ta chưa được xúc tiến thì có lẽ Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam nên đề xuất vấn đề này với cấp chính phủ ở Tokyo. Viên trung úy liền tươi tỉnh hẳn lên và xin rút lui.
Tôi báo ngay cho Côn Minh biết về bản công hàm và sự từ chối của tôi. Một giờ sau, tôi nhận được điện của Heppner: “Khá lắm!” Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #47 vào lúc: 04 Tháng Tám, 2008, 02:30:13 PM »
NHỮNG TIN ĐỒN ĐẠI VỀ MỘT CUỘC THOÁI VỊ
Đang lúc bận rộn công việc thì một phóng viên UPI gọi điện báo muốn gặp tôi để kể về câu chuyện chúng tôi đến. Tôi hỏi ông ta về tình hình Huế và Sài Gòn. “Ồ, ở Huế có lắm chuyện lắm!”, ông nói, và tôi mời ông tối đến chỗ tôi, sau bữa cơm chiều. Ông ta là một nhà báo Việt Nam có nguồn tin khắp Đông Dương và đã làm việc cho UPI từ nhiều năm. Vừa dùng cà phê và rượu mạnh, ông vừa cho biết tin về cuộc chiếm Hà Nội thành công đã lan đi rất nhanh, theo ông thì hãy còn quá sớm để có thể kết luận là Việt Nam đã được tự do và độc lập, nhưng quá rõ ràng là phong trào đã thổi bùng được sức tưởng tượng của quần chúng và không có gì ngoài một lực lượng vũ trang có thể khôi phục lại nguyên tình trạng cũ. Đã khẳng định được là khởi nghĩa đã thắng lợi ở ít nhất 7 tỉnh lỵ ở Bắc Kỳ và 5 ở Trung Kỳ như Việt Minh đã công bố. Cũng như ở Hà Nội, Việt Minh đã kiểm soát hoàn toàn các bộ máy hành chính ở địa phương. Các “Ủy ban nhân dân” của dân địa phương đã được thành lập ở các thành phố, làng xóm để điều khiển các ngành phục vụ công cộng và tòa án, duy trì trật tự v.v... “Thế còn Chính phủ Trần Trọng Kim?”.
Tôi báo ngay cho Côn Minh biết về bản công hàm và sự từ chối của tôi. Một giờ sau, tôi nhận được điện của Heppner: “Khá lắm!” Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #47 vào lúc: 04 Tháng Tám, 2008, 02:30:13 PM »
NHỮNG TIN ĐỒN ĐẠI VỀ MỘT CUỘC THOÁI VỊ
Đang lúc bận rộn công việc thì một phóng viên UPI gọi điện báo muốn gặp tôi để kể về câu chuyện chúng tôi đến. Tôi hỏi ông ta về tình hình Huế và Sài Gòn. “Ồ, ở Huế có lắm chuyện lắm!”, ông nói, và tôi mời ông tối đến chỗ tôi, sau bữa cơm chiều. Ông ta là một nhà báo Việt Nam có nguồn tin khắp Đông Dương và đã làm việc cho UPI từ nhiều năm. Vừa dùng cà phê và rượu mạnh, ông vừa cho biết tin về cuộc chiếm Hà Nội thành công đã lan đi rất nhanh, theo ông thì hãy còn quá sớm để có thể kết luận là Việt Nam đã được tự do và độc lập, nhưng quá rõ ràng là phong trào đã thổi bùng được sức tưởng tượng của quần chúng và không có gì ngoài một lực lượng vũ trang có thể khôi phục lại nguyên tình trạng cũ. Đã khẳng định được là khởi nghĩa đã thắng lợi ở ít nhất 7 tỉnh lỵ ở Bắc Kỳ và 5 ở Trung Kỳ như Việt Minh đã công bố. Cũng như ở Hà Nội, Việt Minh đã kiểm soát hoàn toàn các bộ máy hành chính ở địa phương. Các “Ủy ban nhân dân” của dân địa phương đã được thành lập ở các thành phố, làng xóm để điều khiển các ngành phục vụ công cộng và tòa án, duy trì trật tự v.v... “Thế còn Chính phủ Trần Trọng Kim?”.
“Nó đã hoàn toàn bị tan rã”. “Thế còn người Nhật? Tại sao họ lại không can thiệp?”.
Ý kiến của ông ta phù hợp với ý kiến ông Tiến, cho rằng sau các vụ nổ bom hạt nhân, Bộ chỉ huy tối cao Nhật ở Đông Nam Á đã tiến hành những biện pháp chuẩn bị cho việc đầu hàng không thể tránh khỏi. Theo ông, Nhật quyết định bàn giao chính quyền lại cho người Việt là do một động cơ phân biệt chủng tộc sai lầm. Từ đầu 1930, người Nhật đã đề xướng ra một chương trình đoàn kết chủng tộc để chống lại người da trắng ở châu Á, chủ yếu dựa vào bọn Sô-vanh hiếu chiến trong quân đội và những phần tử phân biệt chủng tộc trong Hiến binh.
Chương trình Liên Á đó chỉ thu được kết quả ít ỏi trong người Việt Nam, nhưng sau thất bại trong chiến tranh, những phần tử cực đoan trong bộ chỉ huy của Thống chế Terauchi lại lặp lại chương trình đó với ý đồ đặt các nước Đồng minh phương Tây trước một vấn đề chủng tộc để nhằm làm phức tạp các vấn đề khác trong việc chiếm đóng sau chiến tranh. Chính vì mục đích đó mà người Nhật ở Đông Dương đã chuyển giao phần lớn trách nhiệm chính quyền cho Chính phủ Bảo Đại đang chao đảo ngay sau khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng. Trần Trọng Kim, Thủ tướng của Bảo Đại, đã đưa đơn xin từ chức và lúc đó đang ở Huế chờ được chấp nhận. Viên phó vương Bắc Kỳ, Phan Kế Toại, cũng đã có ý muốn gắn bó với chính quyền lúc đó, nhưng sau cuộc họp cuối cùng của Hội đồng Tư vấn ngày 16-8 (buổi họp mật mà Tiến đã kể), viên Phó vương và hầu hết các phụ tá của ông đã cùng với các quan chức cao cấp chạy trốn vào kinh đô Huế.
Người của UPI cho rằng cái kế hoạch tai quái đó của Nhật đã bị thất bại, ít nhất cũng một phần, vì Nhật đã không 1ường trước được phải đối phó với một lực lượng thứ ba là Việt Minh. Tuy là người Châu Á, nhưng Việt Minh cũng còn là Cộng sản, chống Nhật kiên quyết, và là những người quốc gia vững vàng, và cũng chính vậy mà bọn phân biệt chủng tộc đã thất bại. Theo ông, trong tình hình đó, người Nhật đã chọn con đường để mặc sự đời, lo giữ an toàn cho bản thân mình và không làm gì để chống lại với lực lượng mới. “Thế còn Bảo Đại?, chúng tôi hỏi tiếp, “Có một sự chống đối có tổ chức chống lại Mặt trận Việt Minh không?”. Nhà báo, ra ngoài đề một chút, đã nhắc lại câu chuyện sau ngày 9-3 người Nhật đã phải tìm những nhân vật khác để quản lý đất nước phục vụ cho bộ máy chiến tranh của Nhật.
Họ không muốn bị lên án là tiếp tục duy trì chủ nghĩa thực dân Pháp, do đó đã tuyên bố cho Đông Dương độc lập và yêu cầu Bảo Đại hợp tác trong khối thịnh vượng chung Đại Đông Á và phòng thủ đất nước chống lại Đồng minh. Theo ông nghĩ, Bảo Đại cũng không mơ tưởng gì đối với người Nhật nhưng cũng phải ưng thuận và thành lập một Chính phủ mới mà Tokyo có thể chấp nhận, chỉ định Kim, một trí thức có tuổi, làm Thủ tướng. Chính phủ gồm phần lớn các giáo sư, luật gia và một số quan lại cũ. Một chính phủ ốm yếu và tất phải sụp đổ ngay từ bước đầu. Bốn tháng hoạt động không có kết quả đã đưa Kim đến chỗ phải xin từ chức đúng giữa lúc Việt Minh đã sẵn sàng phải tiến lên. “Thế Bảo Đại làm thế nào?”, chúng tôi lại hỏi.
Ông đáp, Bảo Đại đã yêu cầu Kim ở lại và cuối cùng Kim đã cho ra một thông cáo báo chí nói rõ ý định của ông ta nhằm bảo vệ độc lập của Đông Dương giành lại được từ tay người Nhật ngày 9-3 và nhấn mạnh rằng người Việt Nam không khi nào chịu để cho Pháp nô dịch một lần nữa. Hai ngày sau, Kim xúc tiến việc thống nhất các nhóm chính trị và tư tưởng khác nhau trong việc ủng hộ cố gắng của Bảo Đại nhằm cứu vãn “Vương quốc” bằng cách thành lập ra một “Ủy ban cứu quốc”. Ngày hôm sau Việt Minh chiếm Hà Nội. Chúng tôi nói chuyện cho đến tận khuya và lúc đó nhiều tin đồn đại về việc Bảo Đại sắp thoái vị và lan tràn ra khắp phía. Triển vọng thành hình làm cho người khác chán nản, theo quan điểm của họ thì một sự kiện như thế có thể sẽ chấm dứt các yêu sách đối với thuộc địa cũ của Pháp.
Cảm tưởng của người Việt thì lẫn lộn. Một số, chấp nhận xu hướng thân Nhật của chính quyền Bảo Đại, lại lập luận rằng ít nhất đó cũng là một chính quyền Việt Nam và không thân Pháp. Căn cứ vào các nguồn tin tôi có lúc đó, thì chính quyền Bảo Đại thực sự đã chấm dứt và Việt Minh đã nắm được chính quyền khắp nơi, mặc dù tôi không đánh giá hết được quy mô thắng lợi của họ. Tin tức của chúng tôi từ Sài Gòn gửi đến thì quá vụn vặt.
Còn các phần tử thân Trung Quốc, đối lập với Việt Minh lúc đó mới bắt đầu ló ra, có thể vì họ biết tin quân đội chiếm đóng Trung Quốc đã sẵn sàng vượt qua biên giới. Toán của chúng tôi cũng thu lượm được một ít báo cáo về sự khiêu khích của Pháp và hoạt động của đội quân thứ 5 của Nhật. Về vấn đề tình hình tù binh chiến tranh và việc đầu hàng của lực lượng Nhật, tôi cũng gặp khó khăn. Một ngày, một đêm rồi mà vẫn không nhận được tin gì của tướng Tsuchihashi. Phiền hơn nữa là tôi đã lường trước việc Trùng Khánh sẽ đưa ra các điều kiện và ý kiến của họ về cuộc đầu hàng, ấy thế mà các điện báo của họ vẫn hoàn toàn im lặng về vấn đề này. Thật là một điều lạ lùng đối với tôi, đại diện cho những nước lớn thắng trận mà vẫn bị bất lực chỉ ngay trong việc gặp gỡ với các tù binh chiến tranh.
________________________________________
(1) lúc đó là Chủ tịch Ủy ban quân sự Cách mạng Hà Nội (2) tức chính phủ Trần Trọng Kim (3) Cuộc họp diễn ra ngày 15-8-1945, tại làng Vạn Phúc, ngoại ô Hà Nội (4) tức Đại Việt Quốc dân đảng (5) tức Việt Nam Phục quốc Đồng minh hội (6) súng trường (7) Ủy viên Ủy ban Quân sự Cách mạng Hà Nội (Cool Cụm Tập đoàn quân Nam của Nhật (9) tức Bá tước Hisaichi Terauchi, Tư lệnh Cụm Tập đoàn quân Nam của Nhật Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #48 vào lúc: 04 Tháng Tám, 2008, 02:31:34 PM » Chương 18 Những lời kêu gọi và những người kêu gọi
SAINTENY TRONG “LỒNG VÀNG”
Tôi chú ý đến Sainteny và nhóm của ông ta sau khi có một báo cáo giả mạo về việc họ bị bắt. Chúng tôi thăm nhóm này tại dinh Toàn quyền, không những thấy họ “khỏe và vui vẻ”, mà còn thấy đẻ thêm ra: nhóm có 5 người nay, tăng lên thành 11. Số mới là từ toán của Blanchard tới, trước họ ở Hải Phòng nhưng nhờ sự giúp đỡ của Nhật nên đã nhập vào với Sainteny. Sáng hôm sau, tôi tới thăm Sainteny một mình. Ông ta phàn nàn một cách bi thảm rằng thực tế ông ta là một người tù trong dinh và tôi không làm gì để giúp ông ta cả. Đoạn ông ta nói đến chuyện đang làm ông ta giận sôi lên. Một tờ báo địa phương của Đông Dương đã viết: “Việt Minh đã chiến đấu cùng với quân Mỹ ở Bắc Kỳ, sẽ nhanh chóng kéo về để đánh đuổi nhũng kẻ áp bức ngươi Pháp là thủ phạm đã làm cho 2 triệu người chết đói năm ngoái”. Bài báo còn làm Sainteny choáng váng vì đã nêu đích danh thiếu tá Thomas trong khi Sainteny vẫn còn cay cú về vụ Montfort...
Nhưng chúng tôi đã gác chuyện đó lại để nhận định tình hình Pháp ở Hà Nội. Trước hết, vẫn còn tù binh Pháp ở trong Thành. Tôi hỏi có trường hợp quan trọng đặc biệt nào cần phóng thích mà ông ta muốn tôi gây sức ép để thả ra không? Sainteny vội nói: Có, tất cả những người Pháp đang bị giam giữ. Tôi không tin là chúng ta có thể làm cho người Nhật thả ra tất cả, nhưng cũng đồng ý đặt thành một vấn đề thảo luận với Nhật. Sainteny cho biết ông ta không thể làm được gì cả trong tình trạng bị giữ như một người tù trong dinh, sau này được nói đến như là một một thứ “lồng vàng”. Vấn đề thứ hai Sainteny nói tới là tình thế của người Pháp ở Hà Nội.
Chương trình Liên Á đó chỉ thu được kết quả ít ỏi trong người Việt Nam, nhưng sau thất bại trong chiến tranh, những phần tử cực đoan trong bộ chỉ huy của Thống chế Terauchi lại lặp lại chương trình đó với ý đồ đặt các nước Đồng minh phương Tây trước một vấn đề chủng tộc để nhằm làm phức tạp các vấn đề khác trong việc chiếm đóng sau chiến tranh. Chính vì mục đích đó mà người Nhật ở Đông Dương đã chuyển giao phần lớn trách nhiệm chính quyền cho Chính phủ Bảo Đại đang chao đảo ngay sau khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng. Trần Trọng Kim, Thủ tướng của Bảo Đại, đã đưa đơn xin từ chức và lúc đó đang ở Huế chờ được chấp nhận. Viên phó vương Bắc Kỳ, Phan Kế Toại, cũng đã có ý muốn gắn bó với chính quyền lúc đó, nhưng sau cuộc họp cuối cùng của Hội đồng Tư vấn ngày 16-8 (buổi họp mật mà Tiến đã kể), viên Phó vương và hầu hết các phụ tá của ông đã cùng với các quan chức cao cấp chạy trốn vào kinh đô Huế.
Người của UPI cho rằng cái kế hoạch tai quái đó của Nhật đã bị thất bại, ít nhất cũng một phần, vì Nhật đã không 1ường trước được phải đối phó với một lực lượng thứ ba là Việt Minh. Tuy là người Châu Á, nhưng Việt Minh cũng còn là Cộng sản, chống Nhật kiên quyết, và là những người quốc gia vững vàng, và cũng chính vậy mà bọn phân biệt chủng tộc đã thất bại. Theo ông, trong tình hình đó, người Nhật đã chọn con đường để mặc sự đời, lo giữ an toàn cho bản thân mình và không làm gì để chống lại với lực lượng mới. “Thế còn Bảo Đại?, chúng tôi hỏi tiếp, “Có một sự chống đối có tổ chức chống lại Mặt trận Việt Minh không?”. Nhà báo, ra ngoài đề một chút, đã nhắc lại câu chuyện sau ngày 9-3 người Nhật đã phải tìm những nhân vật khác để quản lý đất nước phục vụ cho bộ máy chiến tranh của Nhật.
Họ không muốn bị lên án là tiếp tục duy trì chủ nghĩa thực dân Pháp, do đó đã tuyên bố cho Đông Dương độc lập và yêu cầu Bảo Đại hợp tác trong khối thịnh vượng chung Đại Đông Á và phòng thủ đất nước chống lại Đồng minh. Theo ông nghĩ, Bảo Đại cũng không mơ tưởng gì đối với người Nhật nhưng cũng phải ưng thuận và thành lập một Chính phủ mới mà Tokyo có thể chấp nhận, chỉ định Kim, một trí thức có tuổi, làm Thủ tướng. Chính phủ gồm phần lớn các giáo sư, luật gia và một số quan lại cũ. Một chính phủ ốm yếu và tất phải sụp đổ ngay từ bước đầu. Bốn tháng hoạt động không có kết quả đã đưa Kim đến chỗ phải xin từ chức đúng giữa lúc Việt Minh đã sẵn sàng phải tiến lên. “Thế Bảo Đại làm thế nào?”, chúng tôi lại hỏi.
Ông đáp, Bảo Đại đã yêu cầu Kim ở lại và cuối cùng Kim đã cho ra một thông cáo báo chí nói rõ ý định của ông ta nhằm bảo vệ độc lập của Đông Dương giành lại được từ tay người Nhật ngày 9-3 và nhấn mạnh rằng người Việt Nam không khi nào chịu để cho Pháp nô dịch một lần nữa. Hai ngày sau, Kim xúc tiến việc thống nhất các nhóm chính trị và tư tưởng khác nhau trong việc ủng hộ cố gắng của Bảo Đại nhằm cứu vãn “Vương quốc” bằng cách thành lập ra một “Ủy ban cứu quốc”. Ngày hôm sau Việt Minh chiếm Hà Nội. Chúng tôi nói chuyện cho đến tận khuya và lúc đó nhiều tin đồn đại về việc Bảo Đại sắp thoái vị và lan tràn ra khắp phía. Triển vọng thành hình làm cho người khác chán nản, theo quan điểm của họ thì một sự kiện như thế có thể sẽ chấm dứt các yêu sách đối với thuộc địa cũ của Pháp.
Cảm tưởng của người Việt thì lẫn lộn. Một số, chấp nhận xu hướng thân Nhật của chính quyền Bảo Đại, lại lập luận rằng ít nhất đó cũng là một chính quyền Việt Nam và không thân Pháp. Căn cứ vào các nguồn tin tôi có lúc đó, thì chính quyền Bảo Đại thực sự đã chấm dứt và Việt Minh đã nắm được chính quyền khắp nơi, mặc dù tôi không đánh giá hết được quy mô thắng lợi của họ. Tin tức của chúng tôi từ Sài Gòn gửi đến thì quá vụn vặt.
Còn các phần tử thân Trung Quốc, đối lập với Việt Minh lúc đó mới bắt đầu ló ra, có thể vì họ biết tin quân đội chiếm đóng Trung Quốc đã sẵn sàng vượt qua biên giới. Toán của chúng tôi cũng thu lượm được một ít báo cáo về sự khiêu khích của Pháp và hoạt động của đội quân thứ 5 của Nhật. Về vấn đề tình hình tù binh chiến tranh và việc đầu hàng của lực lượng Nhật, tôi cũng gặp khó khăn. Một ngày, một đêm rồi mà vẫn không nhận được tin gì của tướng Tsuchihashi. Phiền hơn nữa là tôi đã lường trước việc Trùng Khánh sẽ đưa ra các điều kiện và ý kiến của họ về cuộc đầu hàng, ấy thế mà các điện báo của họ vẫn hoàn toàn im lặng về vấn đề này. Thật là một điều lạ lùng đối với tôi, đại diện cho những nước lớn thắng trận mà vẫn bị bất lực chỉ ngay trong việc gặp gỡ với các tù binh chiến tranh.
________________________________________
(1) lúc đó là Chủ tịch Ủy ban quân sự Cách mạng Hà Nội (2) tức chính phủ Trần Trọng Kim (3) Cuộc họp diễn ra ngày 15-8-1945, tại làng Vạn Phúc, ngoại ô Hà Nội (4) tức Đại Việt Quốc dân đảng (5) tức Việt Nam Phục quốc Đồng minh hội (6) súng trường (7) Ủy viên Ủy ban Quân sự Cách mạng Hà Nội (Cool Cụm Tập đoàn quân Nam của Nhật (9) tức Bá tước Hisaichi Terauchi, Tư lệnh Cụm Tập đoàn quân Nam của Nhật Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #48 vào lúc: 04 Tháng Tám, 2008, 02:31:34 PM » Chương 18 Những lời kêu gọi và những người kêu gọi
SAINTENY TRONG “LỒNG VÀNG”
Tôi chú ý đến Sainteny và nhóm của ông ta sau khi có một báo cáo giả mạo về việc họ bị bắt. Chúng tôi thăm nhóm này tại dinh Toàn quyền, không những thấy họ “khỏe và vui vẻ”, mà còn thấy đẻ thêm ra: nhóm có 5 người nay, tăng lên thành 11. Số mới là từ toán của Blanchard tới, trước họ ở Hải Phòng nhưng nhờ sự giúp đỡ của Nhật nên đã nhập vào với Sainteny. Sáng hôm sau, tôi tới thăm Sainteny một mình. Ông ta phàn nàn một cách bi thảm rằng thực tế ông ta là một người tù trong dinh và tôi không làm gì để giúp ông ta cả. Đoạn ông ta nói đến chuyện đang làm ông ta giận sôi lên. Một tờ báo địa phương của Đông Dương đã viết: “Việt Minh đã chiến đấu cùng với quân Mỹ ở Bắc Kỳ, sẽ nhanh chóng kéo về để đánh đuổi nhũng kẻ áp bức ngươi Pháp là thủ phạm đã làm cho 2 triệu người chết đói năm ngoái”. Bài báo còn làm Sainteny choáng váng vì đã nêu đích danh thiếu tá Thomas trong khi Sainteny vẫn còn cay cú về vụ Montfort...
Nhưng chúng tôi đã gác chuyện đó lại để nhận định tình hình Pháp ở Hà Nội. Trước hết, vẫn còn tù binh Pháp ở trong Thành. Tôi hỏi có trường hợp quan trọng đặc biệt nào cần phóng thích mà ông ta muốn tôi gây sức ép để thả ra không? Sainteny vội nói: Có, tất cả những người Pháp đang bị giam giữ. Tôi không tin là chúng ta có thể làm cho người Nhật thả ra tất cả, nhưng cũng đồng ý đặt thành một vấn đề thảo luận với Nhật. Sainteny cho biết ông ta không thể làm được gì cả trong tình trạng bị giữ như một người tù trong dinh, sau này được nói đến như là một một thứ “lồng vàng”. Vấn đề thứ hai Sainteny nói tới là tình thế của người Pháp ở Hà Nội.
Có thể làm được gì cho họ? Tôi khuyên rằng cách tốt nhất cho họ vào thời điểm này là nên lắng lặng để tránh bất cứ sự cố gì có thể dẫn đến việc trả thù phía người Nhật cũng như người Việt Nam. Theo đánh giá của tôi thì tình hình không ổn định trên tất cả các thành phố Bắc Kỳ sẽ đặt người Pháp vào tình trạng tự sát, nếu họ co ý muốn đối đầu với Việt Minh. Nhưng Sainteny lại tỏ ra không bình tĩnh trước việc tôi không tán thành một cuộc biểu dương lực lượng của Pháp.
Tôi cũng mô tả cho Sainteny thấy đang có một xu hướng thân Trung Quốc nổi lên mạnh mẽ trong một số giới dân chúng, và toàn thành phố tràn đầy cờ Trung Quốc và những áp phích ủng hộ Quốc dân đảng. Ông ta lại cho rằng như vậy là có lợi cho người Pháp vì nó cho thấy là Việt Minh không kiểm soát được toàn bộ dân bản xứ. Tôi phải đồng ý, nhưng vẫn cho rằng không có dấu hiệu gì tỏ ra họ ủng hộ người Pháp. Sainteny quả quyết nói chúng ta không thể cho phép người “Annam” tự do cầm cương nẩy mực trên đất nước này được. Chúng tôi lại bị kéo lại một vấn đề cũ, nhưng tôi không có ý định để cho phái đoàn của chúng tôi bị lôi cuốn vào kế hoạch của Sainteny.
Tôi cũng mô tả cho Sainteny thấy đang có một xu hướng thân Trung Quốc nổi lên mạnh mẽ trong một số giới dân chúng, và toàn thành phố tràn đầy cờ Trung Quốc và những áp phích ủng hộ Quốc dân đảng. Ông ta lại cho rằng như vậy là có lợi cho người Pháp vì nó cho thấy là Việt Minh không kiểm soát được toàn bộ dân bản xứ. Tôi phải đồng ý, nhưng vẫn cho rằng không có dấu hiệu gì tỏ ra họ ủng hộ người Pháp. Sainteny quả quyết nói chúng ta không thể cho phép người “Annam” tự do cầm cương nẩy mực trên đất nước này được. Chúng tôi lại bị kéo lại một vấn đề cũ, nhưng tôi không có ý định để cho phái đoàn của chúng tôi bị lôi cuốn vào kế hoạch của Sainteny.
Chẳng một ai tin được rằng một cuộc đấu sức liều lĩnh của tất cả người Pháp ở Bắc Kỳ lại có phép thần diệu lật đổ được Việt Minh trong lúc này. Ngược lại, việc đó sẽ chống lại họ một cách không thể cưỡng lại được. Cũng có điều thật đáng ghi nhận là dân chúng Pháp tại Hà Nội, trong khi tha thiết mong nhóm nhỏ người Mỹ chúng tôi lao vào tấn công Thành Hà Nội thì chưa có một lúc họ dám khởi sự mở một trận đánh của người Pháp vào đó, cả trước và sau khi Sainteny tới.
Trong bất cứ tình huống nào, toán của chúng tôi đến đây không phải là để tiến hành đánh hộ cho người Pháp.
Sainteny thường xuyên bất đồng với tôi về vấn đề này, nhưng tôi cũng sẵn sàng để ông giang rộng hai tay ra và nói: “Thôi được, cả hai chúng ta hãy cố gắng làm lấy phần việc của mình. Tôi hiểu lập trường của ông. Ông làm ơn gửi bức điện này đến tướng Alessandri hộ tôi có được không? . Tôi nhận lời. Và đây là bức điện:
“Tất cả quân nhân Pháp dưới quyền thiếu tá Sainteny đang bị giam giữ tại tầng một dinh Toàn quyền. Họ không được phép đi quá đường biên quy định và cũng không được phép gặp người đến thăm, trừ Patti”.
Khả năng có thể xảy ra cuộc đụng đầu nguy hiểm là việc cần phải ngăn chặn trước hết. Báo chí đã đăng tin Thomas đến đây và lại được gán cho việc dẫn đầu đạo quân của ông Hồ, điều đó báo hiệu là sẽ có một cuộc biểu tình lớn chống Pháp. Cho rằng những cuộc biểu tình này đôi khi có thể trở thành những cuộc tàn sát, nên khi trở về khách sạn, tôi điện cho Côn Minh về bài báo, nhấn mạnh tầm quan trọng phải thuyết phục toán “Con Nai” của chúng ta tách khỏi lực lượng Việt Minh và rời Hà Nội trở về Côn Minh bằng đường hàng không.
Tôi cũng báo trước là rối loạn thật sự có thể nổ ra nếu một quân nhân Pháp quất hiện trên đường phố của bất cứ thành phố nào ở Bắc Kỳ và yêu cầu bằng những lời lẽ kiên quyết nhất cho rút 3 toán biệt kích (SO) của chúng tôi đang hoạt động dọc biên giới phía Bắc, trở lại Côn Minh, trước khi cho họ đáp máy bay đi Hà Nội, nhưng không được để những đồng nghiệp người Pháp của họ đi cùng. Tôi hy vọng bằng cách này sẽ tách được tất cả người Mỹ chúng tôi ra khỏi hoạt động của Việt Minh cũng như của người Pháp.
Nhưng các toán biệt kích của chúng tôi rất ngang bướng. Mệnh lệnh cho họ đến Côn Minh không có hiệu lực gì mấy, vì họ đang hăng say và muốn tiếp tục theo đuổi con đường riêng của mình cho tới khi đạt thắng lợi.
Trong khi tôi làm ít nhiều những điều vô bổ này thì thượng sĩ Altman phải đi đón chiếc máy bay chở đợt thú hai của toán chúng tôi đến cùng với mấy tạ đồ tiếp tế khẩn cấp của AGAS gửi cho các tù binh... Đồng thời đoàn của chúng tôi, để có chỗ rộng rãi và an toàn hơn, cũng chuyển đến nơi ở mới. Grelecki đã chọn trong số nhà trước đây do người Nhật ở, lấy nhà Gauthier rộng rãi và thanh lịch với vườn hoa và khu đất đầy quyến rũ cạnh hồ Gươm.
Một việc trọng đại hơn nữa là tôi đuợc báo cho biết tướng Tsuchihashi đã đồng ý cho tôi đến thăm tù binh chiến tranh, mặc dù ông ta vẫn từ chối phóng thích các tù binh đó cho đến khi các lực lượng chiếm đóng tới. Tôi chuẩn bị ngay với người Nhật để đến xem xét Thành Hà Nội và trại tù binh Gia Lâm.
TÙ BINH CHIẾN TRANH
“Thành” là một doanh trại quân đội cũ của người Pháp ở khu vục bắc Hà Nội, gồm gần 100 nhà lầu đủ các loại… Trước đây là nhà tù quân sự có tiếng của Pháp, bây giờ đang giam giữ những người mà người Nhật coi là những tù nhân phiền nhiễu nhất của họ, trong đó có cả những “chiến sĩ kháng chiến” của De Langlade - Mordant.... Ở cổng Thành, chúng tôi(1) được một thiếu tá Nhật đón... và dẫn chúng tôi tới ban quản lý trại gặp trung tá Kamiya(2), một sĩ quan Nhật khá lịch sự...
Tôi đề nghị bắt đầu được xem bản danh sách tù binh... Kamiya nhìn tôi sửng sốt rồi giải thích là có đến hơn 4.000 tù binh và việc làm hồ sơ về tất cả số đó là một điều cực kỳ khó khăn...
Tôi nói Bộ chỉ huy Đồng minh khẳng định một cách dứt khoát rằng họ cần phải có bản danh sách trong vòng 72 giờ đồng hồ. Kamiya hứa sẽ cố gắng hết sức mình.
Chúng tôi bắt đầu đi một vòng quanh khu vực bệnh viện... Khi chúng tôi vào phòng đầu, những người gần cửa nhất dò xét những bộ quân phục của chúng tôi rồi ngồi dậy ngay trên giường của họ, im lặng và hốt hoảng: tất cả cử động trong phòng ngừng bặt...
Tôi dừng lại ở một trong những giường đầu, một thân hình nhợt nhạt cố ngồi dậy chào nhưng chỉ đặt được một chân xuống mép giường. Tôi nắm tay anh ta và nói chiến tranh đã kết thúc. Đôi mắt anh vụt sáng lên và hỏi với giọng yếu ớt: “Người Mỹ phải không?”. “Phải”, tôi trả lời. Tất cả những gì anh ta có thể nói được là “cảm ơn”…
Nơi chúng tôi đến thăm tiếp theo là một số buồng giam của tù binh, ở đó chúng tôi được thận trọng giữ một khoảng cách với những người tù. Họ đứng xếp hàng theo kiểu nhà binh phía ngoài trại khi chúng tôi đi vào bên trong. Rõ ràng nhà đương cục Nhật không muốn cho chúng tôi xem nhiều. Họ cẩn thận chọn những khu vực cho xem và giữ an ninh chặt chẽ. Cho dù ở trong điều kiện nghiêm ngặt, tôi vẫn có thể nghe vọng lại tiếng hô từ xa “Nước Pháp muôn năm!”, “De Gaulle muôn năm!”. Cuộc viếng thăm mở đầu của chúng tôi trong Thành kéo dài khoảng hai giờ rưỡi.
Tôi dừng lại ở một trong những giường đầu, một thân hình nhợt nhạt cố ngồi dậy chào nhưng chỉ đặt được một chân xuống mép giường. Tôi nắm tay anh ta và nói chiến tranh đã kết thúc. Đôi mắt anh vụt sáng lên và hỏi với giọng yếu ớt: “Người Mỹ phải không?”. “Phải”, tôi trả lời. Tất cả những gì anh ta có thể nói được là “cảm ơn”…
Nơi chúng tôi đến thăm tiếp theo là một số buồng giam của tù binh, ở đó chúng tôi được thận trọng giữ một khoảng cách với những người tù. Họ đứng xếp hàng theo kiểu nhà binh phía ngoài trại khi chúng tôi đi vào bên trong. Rõ ràng nhà đương cục Nhật không muốn cho chúng tôi xem nhiều. Họ cẩn thận chọn những khu vực cho xem và giữ an ninh chặt chẽ. Cho dù ở trong điều kiện nghiêm ngặt, tôi vẫn có thể nghe vọng lại tiếng hô từ xa “Nước Pháp muôn năm!”, “De Gaulle muôn năm!”. Cuộc viếng thăm mở đầu của chúng tôi trong Thành kéo dài khoảng hai giờ rưỡi.
Tôi biết được nhiều điều, nhưng vẫn chưa đủ.
…Chúng tôi đến trại tù binh Gia Lâm vào giữa cơn mưa bất chợt...
Trại Gia Lâm tương phản với “Thành” vì có những tháp canh, hàng rào kẽm gai cao, đường xá lầy lội, pháo phòng không và xe bọc thép, tạo nên vẻ ngoài của một đơn vị đang hoạt động.
Trên đường đến sở chỉ huy trại, tôi nhìn thấy những hàng dài tù binh Ấn Độ cầm dụng cụ đựng thức ăn tập thể, đang chờ được phát cơm. Khi chúng tôi đến nơi, tôi vẫy họ và trả lời bằng những tiếng hò reo hào hứng, dùng đồ đựng cơm khua ầm ĩ, nhưng chúng tôi đã vội ngăn họ lại...
Thiếu tá Oshima(3) đứng đón chúng tôi ở cửa, chỉnh tề trong quân phục với mũ lưỡi trai, đeo kiếm, giải thắt... Tôi đoán Oshima khoảng 35 tuổi, có vẻ nghiêm nghị và xuất hiện với một tư thế đầy tự chủ...
Tôi hoàn toàn ngạc nhiên khi thấy, theo yêu cầu của tôi, Oshima đã trao cho tôi mấy tập giấy ghi danh sách tên, chức vụ và số phân loại tù binh. Bản đó do “đại úy phụ trách tù binh chiến tranh Ấn Độ tại Gia Lâm - Simpson Johnes” chuẩn bị và ký tên, có 287 tù binh, tất cả đều là người Anh. Oshima hỏi tôi bao lâu nữa thì Đồng minh tiếp quản trại? Tôi trả lời trong vòng một tuần hoặc 10 ngày. Anh ta không vui và nói rằng có một số ít tù binh gặp khó khăn vì đã gây ra những chuyện rắc rối từ giữa tháng 8, ảnh hưởng đến an ninh và an toàn của trại, của các tù binh khác…
Chiều hôm đó, tôi dã nói chuyện riêng với Simpson Johnes và nhấn mạnh tầm quan trọng phải tránh đừng để xảy ra những chuyện rắc rối và tránh gây bạo lực.
Sau bữa cơm trưa, tù binh xếp hàng trước các trại của họ. Oshima gợi ý tôi có thể kiểm tra họ. Tôi đã làm, tranh thủ cơ hội quan sát họ trực tiếp và nói chuyện với một số người...
Trong văn phòng của Oshima, tôi nhận xét điều kiện sinh hoạt vật chất của tù binh thật tồi tệ… Tuy vậy, những tù binh Ấn Độ này có khá hơn những người trong Thành. Tổ chức và quy mô của trại tù đã mang lại được một trạng thái tinh thần tốt và những người tù có thể giúp đỡ lẫn nhau được.
Tôi không thể làm điều gì có giá trị thực tiễn tức thời để cải thiện điều kiện sinh hoạt của các tù binh, ngoài việc phản kháng với tướng Tsuchihashi, và ông ta đã hứa sẽ xem xét vấn đề đó. Tôi cũng thông báo cho Côn Minh và được nhắc nhở rằng không nên hành động gì cho đến khi nào người Trung Quốc nắm quyền kiểm soát sau khi làm xong thủ tục giải giáp ở Hà Nội. Câu trả lời đó cũng cho thấy sẽ không thể làm được điều gì nếu không có sự tán thành và hợp tác của người Nhật.
Trở lại nhà Gauthier, thủ trưởng AGAS muốn gặp riêng tôi. Chúng tôi đi bách bộ trong vườn và anh ta cho tôi xem một bản ghi bằng tiếng Pháp tên, cấp bậc và số phân loại của một người Mỹ trong Thành. Bản đó đã được một người Pháp chuyển cho AGAS. Chúng tôi ở trong tình thế lúng túng và không thể hỏi người Nhật vì họ không thể biết được người của chúng tôi....
Tôi cho tổ X2(4) biết họ phải làm gì. Ngày hôm sau, một cộng tác viên của AGAS trước đây ở bệnh xá trong Thành, ông M. Orthet, đã phát hiện được một người Mỹ tự nhận là công dân Hungari trong đội lính lê dương Pháp. Anh ta thuộc đội bay bị hạ năm 1943. Ngày 28-8, người Nhật trao anh ta cho tôi và mấy ngày sau anh ta đã được bay về nước.
Grelecki có những người khách trong khi tôi đi vắng, trong đó có Lê Xuân, một người Việt trẻ tuổi, người của Mặt trận Việt Minh. Anh ta khẩn khoản đề nghị được nói chuyện trực tiếp với tôi. Hồ Chủ tịch, anh ta nói, đang trên đường về Hà Nội và muốn gặp tôi. Grelecki bảo anh ta nên trở lại vào ngày hôm sau. Đây là lần đầu tiên, từ khi toán “Con Nai” rời Tân Trào, chúng tôi mới lại có dịp để tiếp xúc với nhau, kể cả gián tiếp. Tình hình của ông Hồ hiển nhiên là đã thực hiện được một bước nhảy vọt kỳ diệu, và tôi mong đợi Lê Xuân trở lại với một sự quan tâm đầy hứng thú.
Logged
(ak47)
Thành viên
*
Bài viết: 123
Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti
« Trả lời #49 vào lúc: 04 Tháng Tám, 2008, 02:32:12 PM »
NGƯỜI ĐẠI DIỆN XÔ VIẾT
Tối hôm đó, Stéphane Solosieff, người đại tiện Xô Viết tại Đông Dương đến thăm tôi. Ông ta gặp tôi trong những giờ đầu tiên tôi đến Hà Nội, và lần này tôi đã mời ông đến dùng rượu. Một con người vui vẻ, ở độ tuổi cuối 40, với nụ cười cởi mở và trung thực, Solosieff là một người khách không bình thường. Không giống người Pháp bị tổn thương đang đi tìm kiếm sự đền bù, hoặc người Nhật bại trận với sự kìm chế những suy nghĩ thầm kín của họ đằng sau những bộ mặt nghiêm nghị, hay người Việt Nam đang ra sức tranh thủ để được thừa nhận; Solosieff đến như một người chiến thắng, một đồng minh, một người bạn.
Ông ta tự giới thiệu là người liên lạc của Xô Viết với các cơ quan chính trị của Nhật ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn; có trách nhiệm chăm lo đến các quyền lợi của các công dân Xô Viết ở Đông Dương mà theo ông thì có tới 5 hay 6 ngàn người. Vài trăm trong số này nằm trong đội lính lê dương của Pháp, còn một số lớn khác thuộc dân thường. Chắc chắn là nhiều người đã được đưa vào tổ hợp thương mại lớn của Nhật đang hoạt động ở Đông Dương.
Ngay buổi đầu nói chuyện tôi nhận thấy Solosieff là một người thông minh, thức thời và thông thạo nhiều thứ tiếng, cả Anh và Pháp và nhất định cũng giỏi tiếng Nhật nữa.
Tôi đã gặp vài người Nga cỡ như ông ta ở châu Âu và đảm bảo rằng anh ta cũng là một cán bộ chính trị của Matxcơva. Buổi tối trôi qua, trực giác của tôi đã chứng minh là đúng và tôi lấy làm vui vì anh ta không có ý định che giấu vai trò của mình. Còn tôi, mọi người đều biết tôi là một sĩ quan OSS.
Chúng tôi đã tìm thấy quan điểm chung khi bình luận về việc Việt Minh giành chính quyền và suy đoán về những thành tựu mới của họ một khi người Pháp quay trở lại. Solosieff cho rằng người Pháp sẽ phải đi theo một đường lối rút lui dần mà không thể chủ trương quay trở lại nguyên trạng như trước. Anh ta nghĩ rằng người Việt Nam chưa hoàn toàn sẵn sàng cho một nền độc lập hoàn toàn và đang còn cần phải có một sự bảo trợ của một nước lớn để ngăn cản những tham vọng về lãnh thổ của người Trung Quốc và Thái Lan.
Tôi lưu ý rằng Tưởng đã đi trước một bước, khi ông tuyên bố không đòi hỏi quyền lợi gì ở Đông Dương, ngoài những phạm vi mà người Pháp có dính líu vào. Nhưng Solosieff không tin sẽ lại có thể như vậy. Solosieff nghĩ rằng Pháp vẫn là nước được trang bị tốt nhất trong các nước lớn phương Tây để tái thiết đất nước và đưa nhân dân Việt Nam đến một chính phủ tự quản.
Solosieff dã được nghe người Pháp nói là Hồ Chí Minh và Việt Minh được sự “bảo trợ” của người Mỹ và hỏi xem có đúng như vậy không. Tôi thẳng thắn nói với ông ta rằng chúng tôi đã chấp nhận sự cộng tác với Việt Minh trong các hoạt động bí mật chống Nhật, nhưng Mỹ không có cam kết gì trong việc can thiệp vào các vấn đề nội bộ của Đông Dương.
Tôi hỏi Solosieff về lập trường của người Xô Viết trong vấn đề Đông Dương, và nhắc đến việc ông Hồ do Liên Xô đào tạo, đã là một phái viên của Quốc tế Cộng sản trong nhiều năm và gần đây lại là một đại biểu Cộng sản do Matxcơva chỉ đạo.
Câu trả lời của Solosieff nghe giống một cách lạ lùng như tiếng vọng của ảo tưởng Roosevelt: thời đại của chủ nghĩa thực dân Pháp đã qua, người Đông Dương phải gánh lấy trách nhiệm dân tộc của mình, cho dù họ có thể chưa đủ sức nắm quyền cai trị một mình. Có thể với sự giúp đỡ sáng suốt của người Pháp và sự viện trợ kỹ thuật của người Mỹ, họ có khả năng thực hiện được nền độc lập dân tộc trong vòng ít năm.
Ông ta không nói thẳng ra, nhưng lời bình luận của ông ta đã làm tôi nhớ đến khái niệm quyền ủy trị mà Roosevelt đã nêu ra và ít nhiều cũng đã được Xtalin tán thành tại Yalta.
“Còn Liên Xô thì sao?”, tôi hỏi. Ông ta không tin rằng Liên Xô sẽ giữ địa vị của một nước trung gian can thiệp vào Đông Nam Á. Ông ta nói theo đường lối lúc bấy giờ rằng “Nước mẹ Nga”, sau cuộc đánh phá ác liệt của bọn Quốc xã, cần phải có thời gian để xây dựng lại. Đó cũng là quan điểm của ông Hồ đã từng bày tỏ với tôi. Những người Cộng sản trên toàn thế giới phải giữ vững đường lối theo xu hướng này và bảo tồn lấy lực lượng của họ, trong khi “Nước mẹ Nga” đang hồi phục. Solosieff còn nghĩ xa hơn nữa, rằng sự can thiệp của người Liên Xô vào Đông Dương sẽ gây ra xung đột với những quyền lợi truyền thống của Anh và Pháp, mà điều đó lại không đáp ứng được những quyền lợi tối cao của Liên Xô trong lúc này.
Chúng tôi nói về các sự kiện ở Sài Gòn mà tôi không biết gì mấy. Theo anh ta, người Nhật đã chuyển quyền kiểm soát Chính phủ cho một nhóm nhỏ Cộng sản dưới sự lãnh đạo của “bác sĩ” Trần Văn Giàu và Việt Minh ở Sài Gòn tiến triển rất nhanh; người Anh sẽ gặp khó khăn ở đó. Solosieff có nhã ý muốn tạo điều kiện cho tôi tiếp cận với những người am hiển tình hình hơn, nhưng tôi đã phanh lại và chỉ giới hạn vào những gì đang quan tâm. Sự thật là tôi cũng rất thích thú nhưng không muốn tự xác định mình trước sự nhạy cảm của Solosieff.
Vừa uống vodka, chúng tôi vừa nói chuyện trong không khí thoải mái của một cuộc viếng thăm mà tôi tin rằng cả hai chúng tôi đều thú vị.
Khi ra về, Solosieff nhờ tôi chuyển một bức điện cho sứ quán Liên Xô ở Trùng Khánh. Bức điện bằng tiếng Pháp, đề nghị sứ quán Liên Xô gửi sang Hà Nội một người đại diện để giải quyết vấn đề phóng thích “một số người tình nguyện Nga” trong đội Lê dương bị giam giữ như tù binh chiến tranh và “nhiều việc khác”.
Cuối cùng, Solosieff hỏi tôi có nghe nói về một người Nga tên Andrei Voskressensky không? Tôi không nghe nói. Gia đình anh ta ở Nga không nhận được tin gì của anh ta từ cú 9-3.
Khoảng 10 ngày sau, toán X2 của chúng tôi tình cờ đã gặp tên anh này trong khi sưu tầm chứng cứ về các tội phạm chiến tranh sở Hiến binh Nhật. Hồ sơ của Hiến binh tiết lộ Voskressensky sống ở Hà Nội và được Hiến binh Nhật sử dụng từ 9-3. Bố anh ta là người Nga, mẹ là người Nhật, nhưng sau đó bà đã chuyển thành công dân Pháp. Người cha đã từng có thời kỳ làm tùy viên hải quân Liên Xô ở Tokyo, còn người con làm thư ký cho tùy viên Đại sứ quán Pháp tại Tokyo. Tháng 9-1942, Decoux đã yêu cầu cho chuyển người con sang Hà Nội và làm việc cho cảnh sát Pháp cho đến cuộc đảo chính, sau đó anh ta chuyển sang làm cho Hiến binh Nhật. Tôi đoán được tại sao Solosieff lại muốn tìm Voskressensky, rõ ràng không phải vì lý do nhân đạo, và chúng tôi cũng không để lộ ra câu chuyện của anh này cho Solosieff rõ.
Tôi đặc biệt chú ý đến lời ám chỉ của Solosieff tới những “người tình nguyện Nga” trong đội Lê dương. Trước đây, một sĩ quan Pháp ở Trình Tây đã nói rằng Alessandri có một bản danh sách về những người lính Lê dương đã bị tòa án binh xử vì hoạt động theo Cộng sản năm 1944, nhưng tôi coi đó là chuyện tầm phào. Sự thừa nhận của Solosieff đã đặt lại vấn đề và tôi đã cử toán X2 tiến hành điều tra hoạt động của những người Xô Viết trong đội Lê dương. Họ đã phát hiện ra được ngay một chi bộ Cộng sản được tổ chức chặt chẽ trong đám lính Lê dương bị giam trong Thành. Không phải chỉ có người Nga, mà họ gồm cả những người Cộng sản Đức, Bỉ, Hungari, những người xã hội Úc và những người cấp tiến Pháp. Trước 9-3, chi bộ trà trộn vào phong trào Langlade – Mordant, và có hợp tác với Việt Minh. Trong thời kỳ người Pháp rút sang Trung Quốc, một số đã đào ngũ và gia nhập hàng ngũ của ông Hồ làm nhân viên tình báo và huấn luyện viên về chiến thuật và sử dụng vũ khí.
Qua việc phỏng vấn những người Việt trong đội Tuyên truyền Giải phóng quân ở Hà Nội và những đảng viên người Âu trong chi bộ, chúng tôi cũng đã điều tra được lịch sử của chi bộ.
Cuối năm 1944, để che giấu hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã cho thành lập Mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương. Với bề ngoài là chống Nhật và chống phát xít, người của Mặt trận khó có thể bị phát hiện là Cộng sản và có nhiều cơ hội để làm việc ngay trong chính quyền của Decoux. Một trong những mục tiêu chủ yếu của Mặt trận nhằm phát triển vào các phần tử ngoại quốc có xu hướng chống phát xít. Nó đã đặt được liên lạc với đội Lê dương và tổ chức ở đó một nhóm “Xã hội - Cộng sản”.
Tháng 11-1944, nhóm này đã được mời tham gia hành động chung chống phát xít Nhật và Pháp ở Bắc Kỳ. Người ta đã nhất trí để số Lê dương này cộng tác với những người thuộc phái De Gaulle và sẽ dùng ảnh hưởng của họ đối với chính quyền Decoux để ngăn chặn hoặc giảm bớt việc trưng thu thóc gạo, giúp giải thoát tù chính trị và tiếp tế vũ khí cho Việt Minh. Còn những người Trung Quốc có cảm tình với Mặt trận thì làm việc trong quân đội Quốc dân đảng để giúp Việt Minh ở ngoài lãnh thổ Đông Dương. Những người theo De Gaulle nhút nhát, đã không làm được gì, nhưng các “đồng chí” Trung Quốc, đã hoạt động có hiệu quả hơn. Nhưng sau cuộc đảo chính 9-3 thì chỉ còn những hạt nhân cứng rắn trong đội Lê dương vẫn còn trung thành với Việt Minh và gia nhập hàng ngũ của họ.
Solosieff rõ ràng đang cố gắng để kéo khỏi Thành, và có thể ra khỏi Đông Dương những nhân viên Xô Viết đã dính líu vào Mặt trận nói trên, trước khi các lực lượng của Trung Quốc và Pháp đến.
Nhưng chúng tôi cũng được biết rằng, trong cuộc chiến tranh Pháp - Việt, trong hàng ngũ quân đội của Giáp, có nhiều người trước đây là lính Lê dương cũ, đã giữ những vai trò như cố vấn và chính ủy.
Trong những ngày cuối tuần ở Hà Nội, tôi có hỏi Hồ Chủ tịch về ý nghĩa việc chuẩn bị tổ chức các “Đơn vị chiến đấu ngoại quốc” như đã định trong kế hoạch tháng 4-1945 của Hội nghị Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ. Nửa đùa, nửa thật, ông nói: “để chăm lo cho những người bạn Mỹ trong cuộc đấu tranh giành độc lập của chúng tôi”. Với một thái độ bình thản hơn ông giải thích rằng các đơn vị đó được lập ra từ những người lính Pháp, chủ yếu là lính Lê dương, “những người đã chán ngấy chủ nghĩa thực dân Pháp”.
Trong những tuần tôi ở Hà Nội, tôi lấy làm thích thú được quan sát Solosieff vài lần đánh bạn với các chính khách Nhật, những người Pháp có thế lực, các nhà lãnh đạo Việt Minh và những người Trung Quốc có tiếng. Ông ta là người Xô Viết duy nhất có mặt có thể thấy được lúc đó và ông ta đã đóng vai trò của mình một cách khá kín đáo.
________________________________________
(1) cùng với tôi có nhân viên của AGAS và viên sĩ quan liên lạc người Nhật
(2) sau này được xác định là thủ trưởng Ban liên lạc quân đội Nhật ở Hà Nội.
(3) nguyên thủ trưởng sở Hiến binh Nhật tại Hà Nội
(4) tổ phản gián
No comments:
Post a Comment