CÓ TIN GÌ VỀ “ÔNG HỒ” KHÔNG?
Tình hình đã dẫn đến việc phải thảo luận xem sẽ làm ăn ra làm sao đây trong một tình huống chắp vá giữa cái được làm và không được làm. Qua các cuộc gặp gỡ và qua những điều mà tôi được biết ở Washington thì quả nhiên trong lúc này người ta rất ít mong chờ được gì ở người Pháp nên tôi đã phải tự hỏi: “Thế còn người Việt Nam? Đã có ai đó tiếp xúc với họ chưa?”.
Thiếu tá Wichtrich cho biết AGAS đã có khá nhiều cuộc tiếp xúc với họ và cũng đã đạt được kết quả tốt.
Ông Dulin đồng ý với Wichtric và nêu ý kiến là trái với những người Pháp không chịu công nhận giá trị của người Việt Nam và quan điểm của Chiến trường về “những sự rối rắm chính trị”, người Việt Nam có một tổ chức đang hoạt động và nếu được trực tiếp tiếp xúc với họ để làm việc thì sẽ rất có ích. Nhưng ông nói thêm “cánh ở Đại sứ quán lại không thích làm ăn với họ. Vì người ta cho họ là Cộng sản và chống Pháp”. Helliwell đáp lại: “Bậy! Nếu họ có một tí gì là tốt thì ta cũng tìm cánh dùng họ. Chúng ta đã được sự đồng ý của Washington và Trùng Khánh cho sử dụng tất cả mọi nhóm kháng chiến”.
Đại diện cơ quan R&A chủ động cho biết có nhận được những báo cáo mới về sự chống cự kịch liệt của người Việt Nam với quân Nhật trong vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Cạn và các cuộc chiến đấu của họ mang tính chất bán quân sự.
Nhiều báo cáo của người Việt Nam cung cấp cho OSS/AGFRTS và GBT có giá trị làm cơ sở cho mệnh lệnh chiến đấu. Dulin, một chuyên gia về chiến tranh chính trị, nói rằng OWI đã sử dụng nhiều người của Việt Minh do một “ông già” tên là Hồ Chí Minh lãnh đạo và trong thực tế thì ông Hồ cũng đã tiến trình inột số công tác chiến tranh tâm lý cho cơ quan tuyên truyền Trung Quốc, cùng với OWI. Lúc đó Wichtrich mới công nhận là AGAS đã thực hiện một công tác đối với ông Hồ để tổ chức cứu thoát phi công ở Đông Dương. Wichtrich gượng cười nói với Helliwell: “Fenn, người của anh đã làm om sòm về con người ấy trong nhiều tuần đấy”. Helliwell không chịu kém, đã đáp lại: “Tôi biết! Tôi đã cấp cho ông ta một số vũ khí để tự vệ”.(Cool
Tôi kể cho họ là tôi đã bắt gặp tên của “ông Hồ” trong các hồ sơ của Washington đề ngày tháng từ 1942 và cả trong các hồ sơ mới đây của Sprouse và Langdon thuộc Đại sứ quán và của Powell thuộc OWI. Thực tế chỉ trước đó một ngày, tôi cũng đã đọc bản báo cáo của Fenn nói về một cuộc điều đình với ông Hồ để tổ chức một mạng lưới tình báo khắp Đông Dương để hỗ trợ cho OSS và AGAS.
Ý định của tôi nếu như không ai phản đối, là đi sâu vào tổ chức của người Việt Nam nhằm để họ phục vụ cho “phương án Quail”, nhưng trước hết tôi lại muốn biết ý kiến có cơ sở của mọi người về phản ứng có thể của người Pháp.
Helliwell không nghĩ rằng chúng ta sẽ phải thảo luận với người Pháp và ngay cả với Đại sứ quán của ta, và cũng không hề thấy rằng sự hợp tác của Heppner đối với chúng ta là rất cần. Wichtrich bị bối rối ra mặt và đã trả lời tôi là anh ta không quan tâm gì đến người Pháp hay nhân viên ngoại giao nhưng anh ta muốn được có sự đảm bảo rằng SI sẽ không làm gì để gây trở ngại cho AGAS. Helliwell đã nói để Wichtrich yên tâm là sự cộng tác của ông Hồ phục vụ cho AGAS sẽ được SI chúng ta hỗ trợ cả về mặt tài chính và phương tiện thông tin liên lạc.
Hội nghị đã kết thúc với ý kiến thống nhất rằng tôi có thể càng sớm càng hay, thực hiện một cuộc thanh tra trên bộ tới Szemao(9) và dọc theo biên giới Đông Dương, cho khởi sự việc khôi phục lại nguồn tình báo, xác định tình trạng quân sự của Pháp và có khả năng thu xếp để tiếp xúc với các lãnh tụ Việt Minh. Về các mặt khác, trong số ít ngày đầu tiên của tôi ở Côn Minh, đã thể hiện ra một cách không được sáng sủa lắm. Tôi đã chẳng có tin tức gì về số nhân viên đã được đặc biệt chọn lọc mà tôi đã tuyển dụng tại Washington. Cuộc viếng thăm đầu tiên của tôi đến phái đoàn quân sự Pháp (M.5) (10) cũng chỉ mang lại cho tôi một sự thất vọng. Phái đoàn đang thay đổi bộ máy chỉ huy và trong một tình trạng hoàn toàn rối loạn. Trưởng phái đoàn mới thì vắng mặt, còn những người có mặt thì chẳng ai tỏ ra có trách nhiệm gì cả. Những ngày tiếp theo, tôi trở lại thăm thì tình hình cũng chẳng có gì khác hơn trước. Tại trụ sở BIS của tướng Tai Li ở Côn Minh thì sự tiếp đón hoàn toàn thân mật nhưng cũng không có gì đáng được tưởng lệ. Khá nhiều nước trà, nhiều nụ cười lịch sự và câu chuyện nói bằng tiếng Trung Hoa giữa những người phiên dịch cũng nhiều hơn. Và các vị khách của tôi chỉ nói rằng họ mới ở Tú Xuyên về và không hay biết gì về các hoạt động tình báo ở Vân Nam và Đông Dương. Helliwell và Dulin đã cấp cho tôi một bản danh sách các Việt kiều di cư do Cha Jean Tống, một thầy tu Thiên chúa giáo người Hoa dìu dắt. Nhưng sau nhiều cố gắng để tìm kiếm họ mà không có kết quả nên tôi đã bỏ qua. Suốt trong thời gian đó, Bộ Tư lệnh chiến trường vẫn tiếp tục đòi tin tức tình báo và nhấn mạnh việc OSS phải tiến hành quấy rối người Nhật dọc theo hành lang Hà Nội, Nam Ninh, Quảng Đông. Trong tình huống hỗn loạn lúc đó, nhiều toán OSS ở phía nam Trung Quốc và bắc Đông Dương đang bị mất liên lạc với Côn Minh, và đó cũng là một nguồn đẻ ra nhiều điều lo ngại nghiêm trọng. PHÁI VIÊN CỦA “TƯỚNG” HỒ Nhưng cũng đã có một sự kiện có tính chất tích cực đã xảy ra trong ngày đầu tiên tôi ở Côn Minh này. Việc tôi sục tìm các con chiên của Cha Tống chắc đã được bàn tán nhiều trong giới Việt kiều ở Côn Minh và tôi đã được một người là Vương Minh Phương tìm đến thăm. Giữa những lời xin lỗi quá thừa vì đã quấy quả tôi vào một chiều thứ bảy, Phương tự giới thiệu là hội viên Mặt trận Độc lập Đông Dương. Tên ông ta cũng không phải là mới lạ gì đối với tôi. Tôi đã bắt gặp cái tên đó trong bản báo cáo của Langdon nói về cuộc nói chuyện với các hội viên của Mặt trận vào tháng 8-1944. Phương mới ngoài 30 tuổi và nói tiếng Pháp lưu loát. Theo Phương kể thì Phương vốn là sinh viên trường Đại học Hà Nội và đã tới Trung Quốc vào mùa thu năm l943, sinh sống cạnh cơ quan OSS, trong khách sạn Quảng Lạc, 39 Tai Ho Gai. Phương có quen ông Glass ở OSS, đã từng cộng tác với Powell thuộc OWI và đã gặp thiếu tá Stevens(11) ở Trùng Khánh và ông Langdon ở Lãnh sự quán Côn Minh có biết. Rõ ràng là Phương quen biết toàn là những người đúng đắn nên tôi cũng thích thú chờ biết lí do cuộc viếng thăm. Phương giải thích là cần phải làm cho tôi biết rõ rằng nhũng người mà tôi đang tìm kiếm không phải là “những người Việt Nam tốt nhất” ở Côn Minh mà họ đều là nhân viên của hai công ty do Pháp đỡ đầu(12) liên kết Hoa Việt Cách mạng Đồng minh Hội. Họ đã được định cư ở Trung Quốc và tự coi mình là người dân Trung Quốc. Phương nói, còn những người Việt Nam tha thiết đánh “phát xít Nhật” thì đều thuộc mặt trận của Phương, được nhiều người biết với cái tên là Việt Minh mà lãnh tụ là “tướng” Hồ Chí Minh. Phương mặc âu phục, tỏ ra là một người có học thức tốt và hoàn toàn thông thạo về vấn đề chiến tranh nói chung, và tất nhiên là giỏi về vấn đề Đông Dương. Phương quen thuộc với OSS và AGAS hơn là tôi đối vối Mặt trận Việt Minh của ông và ông ta cũng biết về tôi nhiều hơn là tôi biết về ông ta. Tôi lắng nghe ông lái một cách tài tình câu chuyện sang mục đích thực sự của cuộc viếng thăm. Với một chút tự hào, Phương đã kể lại về các đồng sự của ông ở Đông Dương và Trung Quốc đã làm việc một cách rất chặt chẽ với một số người Mỹ của tướng Chennault và OSS, đã cung cấp tin tức về đội hình chiến đấu của quân Nhật và về các mục tiêu tình báo. Phương có nói đến hoạt động tình báo của OSS - AGAS mà Việt Minh có góp phần giải thoát “nhiều” phi công của Mỹ qua việc cung cấp chỗ trú ẩn và hướng dẫn họ đến nơi an toàn. Sau đó Phương trượt nhẹ sang lĩnh vực chính trị, bình luận rằng người Việt Nam rất biết ơn người Mỹ về sự thông cảm đối với quyền lợi các dân tộc, sự quan tâm của họ đối với vấn đề thuộc địa và đã ghi nhận rằng cố Tổng thống Roosevelt trong nhiều dịp đã công khai ủng hộ độc lập chính nghĩa của họ. Tôi đã ngắt lời và nhắc với ông là tôi không phải là một nhà ngoại giao, cũng chẳng phải là một nhà chính trị mà chỉ là một quân nhân. Với nụ cười thông cảm, Phương chống chế là đã quá phấn khởi vì đã có cơ hội để diễn đạt trước một quan chức Mỹ về những tình cảm tốt đẹp của nhân dân ông ta đối với nước Mỹ. Rồi sau đó Phương lại nói về các khả năng quân sự của Việt Minh. Theo Phương, Việt Minh mặc dầu là một mặt trận chính trị nhưng cũng đồng thời là một lực lượng vũ trang, tổ chức thành những đơn vị du kích và đã tích cực tiến hành một cuộc chiến tranh không chính thống chống lại Nhật. Phương nói rộng ra là bên cạnh những trận ném bom của Đội không quân thứ 14 thì không còn có một lực lượng nào khác ngoài Việt Minh đã chống cự lại với “kẻ thù chung”. Người Pháp “chưa bao giờ đánh lại bọn phát xít ở Đông Dương và đã từ lâu họ không còn ở đó nữa”. Còn Việt Minh lại có lực lượng trên đất liền, đã quyết tâm và có khả năng “chiến đấu sát cánh” với Mỹ và các nước Đồng minh của Mỹ. Trưa đến, tôi mời Phương dùng cơm ở nhà ăn OSS rồi sau đó sẽ tiếp tục câu chuyện. Phương tỏ ra vui lòng được nói chuyện thêm nhưng đề nghị đến ăn ở một khách sạn địa phương Trung Quốc cho đỡ lộ liễu. Chúng tôi liền đến một quán cơm bình thường ở gần trường Đại học Vân Nam và các toà lãnh sự Mỹ, Anh. Trong bữa ăn, tôi khuyến khích Phương nói về Việt Minh, lập trường, mục đích của Mặt trận và theo ý họ thì làm thế nào để có thể giúp cho Đồng minh đánh Nhật và họ có thể mong đợi gì ở các nước Đồng minh. Theo lời phát biểu của Phương (mà tôi đã tóm tắt lại để ghi vào băng ngay hôm đó): Việt Minh là một liên minh các đảng phái của những người quốc gia Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, được tổ chức theo đường lối của Đảng nhằm mục đích trước mắt là đánh đuổi người Nhật và ngăn ngừa Pháp quay trở lại. Cuối cùng, Việt Minh hy vọng thành lập được một “Cộng hòa Đông Dương độc lập, dân chủ”. Phương tin rằng mặt trận có thể cung cấp cho Đồng minh những tin tức có ích về người Nhật, người Pháp và bọn bù nhìn ở Đông Dương. Họ có thể cộng tác với người Mỹ trong các hoạt động phá hoại, biệt kích và các trận đánh khác chống Nhật; họ sẽ hướng dẫn và giáo dục cho người Việt tiếp tục giúp đỡ cho các nhân viên hàng không Mỹ bị hạ và đưa họ đến những nơi an toàn. Đổi lại, Việt Minh chỉ yêu cầu Mỹ công nhận Liên minh Độc lập Đông Dương là tổ chức duy nhất hợp pháp và được phép đại diện cho nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống bọn phát xít và yêu cầu Mỹ cung cấp cho họ phương tiện để chiến đấu bên cạnh các nước Đồng minh. Khi tôi hỏi lại họ cần gì thì Phương đáp: “Vũ khí, đạn dược, cố vấn, huấn luyện viên và phương tiện thông tin liên lạc với Bộ Tư lệnh Đồng minh”. Phương chờ trả lời nhưng tôi đã cảm ơn và nói rằng đề nghị của họ thật phong phú và rất hay nhưng tôi còn cần phải bàn với các cộng sự của tôi. Trong khi đó thì làm thế nào có thể gặp được “tướng” Hồ? Phương nói là trước đây mấy hôm ông có đến Côn Minh, nhưng nay đang trên đường trở về Việt Nam và có thể đang dừng lại ở Trình Tây. Phương có thể báo tin cho ông Hồ và tin chắc rằng ông sẽ vui lòng gặp tôi. Ông nói với Phương là tôi có thể đến Trình Tây nhưng phải đợi đến sáng hôm sau mới khẳng định chắc chắn được điều đó. Chúng tôi rời khách sạn khá muộn. Ngay chiều hôm đó, tôi bàn với Helliwell và Wampler về cuộc gặp gõ với Phương. Kế hoạch chung nhằm cộng tác với người Việt Nam mà chúng tôi đồng ý tiến hành mấy hôm trước nay lại có thêm một khía cạnh mới qua lời phát biểu khá đặc biệt của Phương. Sự khẩn khoản của họ đối với vấn đề công nhận chính thức là một vật chướng ngại quan trọng. Helliwell đồng ý với quan điểm được Heppner ủng hộ là không có vũ khí nào do OSS cung cấp lại được sử dụng để chống lại người Pháp. Nhưng Helliwell vẫn giữ quan điểm của mình là trong khi AGAS sử dụng Việt Minh vào các hoạt động của họ thì chúng ta cũng có thể mở rộng mạng lưới đó ra để bao gồm cả việc thu thập tình báo và đánh du kích. Đêm đó, Heppner đã từ Trùng Khánh đến và chúng tôi đã đề đạt ngay ý kiến với Heppner. Thoạt đầu Heppner đã gạt bỏ và cho rằng ý kiến đó không thể thực hiện được về phương diện chính trị; ông đã gặp rất nhiều khó khăn với tướng Hurley(13) chung quanh việc những người Cộng sản Trung Quốc. Ông nói riêng cho chúng tôi hay rằng người phụ tá của ông, đại tá Bird(14), lúc đó đang công tác ở Diên An với đại tá David D. Barrett(15) để thu xếp một sự liên minh giữa những người Quốc dân đảng của Tưởng với nhũng người Cộng sản của Mao; và Hurley đã rất phẫn nộ với OSS, cho rằng OSS đã chen vào một việc mà ông cho đó là của Bộ Ngoại giao. Heppner tin chắc rằng người Trung Hoa sẽ đưa ra mọi sự phản đối về bất cứ một sự cộng tác nào với những người Cộng sản Việt Nam. Mà cả đến Đại sứ quán của chúng ta nữa cũng vậy. Và chúng ta cũng không được quên Phái đoàn Quân sự Pháp, chắc chắn là họ sẽ không hài lòng nếu họ thấy được là chúng ta đang điều đình với Việt Minh. Nhưng khi Heppner đã biết được người Pháp và người Trung Hoa tiếp đón tôi như thế nào thì ông cũng chấp nhận lập trường của chúng tôi, không có gì thay đổi thêm. Ông căn dặn tôi không được làm gì chống đối với người Trung Quốc cũng như với người Pháp vì ông và Whitaken cũng sẽ phải làm việc với họ ở Trùng Khánh, còn tướng Donovan thì đã được Nhà Trắng chỉ thị cho phải hợp tác với cả đôi bên. Chính vì thế mà vấn đề làm việc với Việt Minh đã được để lại sau này sẽ xem xét khi tình hình phát triển thêm. Sáng hôm sau, Phương, rất đúng giờ, đến cơ quan của tôi và cho biết đã gửi thư báo cho “tướng” Hồ nhưng không chắc là thư sẽ đến kịp trước khi ông Hồ rời đi biên giới. Phương gợi ý là nếu tôi có đến Trình Tây thì tôi nên dừng lại ở một quán trà nào đó và tìm một người Trung Hoa nói thạo tiếng Anh tên là Wang Yeh Li, người này có thể giúp tôi gặp được ông Hồ nếu ông còn ở đó. ________________________________________ (1) trưởng ban mật vụ SI, OSS Côn Minh (2) Kế hoạch hoạt động của OSS ở Bắc vĩ tuyến 16 Đông Dương (3) Cơ quan nghiên cứu và phân tích, OSS (4) Trợ lý Tham mưu trưởng, Cục tác chiến, VVD (5) Chennault, “Con đường của một chiến sĩ” (6) Tổng chỉ huy lực lượng Pháp ở Bắc Kỳ và Tổng đại diện Pháp ở Đông Dương sau khi Aymé và Mordant bị bắt. (7) Thị trấn biên giới Trung Hoa, giáp với thị trấn Móng Cái (Cool Đầu tháng 3, Helliwell đã cho phép lấy ở kho OSS 6 khẩu Colt 45 và nhiều đạn giao cho AGAS để chuyển cho ông Hồ (9) còn gọi là Fu Hsing Chen, một thị trấn cổ, cách Côn Minh 200 dặm về phía nam. (10) Đây có sự nhầm lẫn. Chỉ có một phái đoàn quân sự Pháp bên cạnh chính phủ Trung Quốc ở Trùng Khánh, dưới quyền tướng Pechkov; còn M.5 ở Trùng Khánh chỉ là một đơn vị của SLFEO/Calcutta, phụ trách về các hoạt động bí mật ở Đông Dương (11) đại diện OSS ở Đại sứ quán Mỹ ở Trùng Khánh (12) Hội tương tế và Hội thể thao của người An Nam ở Vân Nam (13) Đại sứ mới thay cho Gauss từ tháng 1-1945 (14) đại diện OSS/Chiến trường Trung Hoa (15) thủ trưởng Nhóm quan sát Mỹ (DIXIE) ở hành dinh Cộng sản Trung Quốc ở Diên An Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #21 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2008, 03:51:33 PM » Chương 8 Vấn đề mới của Pháp CUỘC ĐẢO CHÍNH MỒNG 9-3 Trước khi rời Szemao, tôi may mắn được đọc một bản báo cáo thảo ra dựa trên cơ sở của cơ quan R&A thu lượm những mẩu chuyện của những người Pháp dân sự và quân sự tị nạn và của OWI rút ra từ các bản tin phát nhanh của Nhật. Bản báo cáo tổng hợp những tin tức về “coup de force”(1) ngày 9-3 và hậu quả của nó, đã giúp cho tôi được rất nhiều trong khi tôi đi thị sát chiến trường. Qua bản báo cáo, tôi được biết là chiều ngày 9-3, đại sứ Nhật Shunichi Matsumoto và Tổng lãnh sự Kono đã triệu Toàn quyền Decoux đến để ép Pháp phải có một sự cộng tác nhiều hơn và chân thành hơn với người Nhật. Kono đòi hỏi một sự gia tăng quy mô lớn của Pháp vào “quỹ chiến tranh” của Nhật, giảm bớt các biện pháp hạn chế việc thu mua thóc gạo của quân đội Nhật và bảo đảm sẽ không huỷ bỏ thoả hiệp Liên minh phòng thủ Pháp - Nhật ở Đông Dương. Decoux chần chừ nói rằng cần phải có thời gian để trao đổi với Chính phủ của ông ở Hà Nội. Cho rằng Decoux tìm cách lảng tránh, đến 6 giờ chiều ngày hôm đó, Đại sứ Nhật gửi cho viên toàn quyền một tối hậu thư. Lần này yêu cầu của người Nhật được nêu rõ ràng: người Pháp phải cùng với người Nhật phòng thủ Đông Dương trong trường hợp có cuộc xâm lăng của Anh - Mỹ; tất cả các lực lượng quân sự và cảnh sát của Pháp phải đặt dưới quyền chỉ huy và kiểm soát của quân đội Nhật; Pháp phải giao cho Nhật tất cả các hệ thống thông tin liên lạc, vận tải, hệ thống ngân hàng và các cơ quan hành chính. Các điều khoản trong tối hậu thư phải được chấp nhận vô điều kiện trong vòng 2 giờ. Đến 10 giờ 15 tối, quá hạn 2 giờ ấn định trong tối hậu thư, người Nhật nhận được công hàm của Decoux báo cho biết ông cần nhiều thời gian hơn nữa để còn “trao đổi ý kiến”, Matsumoto liền ra lệnh cho quân đội nắm quyền và đặt Decoux dưới sự “canh giữ bảo trợ” của quân đội. Đến 2 giờ sáng (giờ Tokyo) ngày 10-3, Tổng hành dinh Thiên hoàng ở Tokyo ra thông báo về việc tiếp quản ở Đông Dương và nói rõ đó là do Bộ chỉ huy quân đội Nhật ở đó chủ động tiến hành. Tiếp đó, vào 9 giờ sáng (giờ Tokyo), sau một buổi họp nội các đặc biệt ở Hoàng cung, Chính phủ Tokyo công khai thừa nhận quyết định quân sự nói trên và đề xướng ra chính sách ủng hộ nền độc lập của Việt Nam: “Ngay sau khi Đông Duơng tỏ ra có dấu hiệu đang tiến lên thành một nước độc lập thì Chính phủ Nhật nhất định giúp đỡ cho các dân tộc này đạt được “sự độc lập chủng tộc chân chính” dựa trên cơ sở những nguyên tắc đã được nêu lên trong bản tuyên ngôn chung của các nước Đại Đông Á”. Khi người Nhật trong buổi chiều ngày 9 đang làm áp lực để người Pháp gia tăng sự ủng hộ cho Nhật thì Hoàng đế Bảo Đại của An Nam trong bản thông điệp nhân dịp năm mới (Tết) ca ngợi Pháp và nêu lên rằng: “Nước Pháp đã phải chịu rất nhiều đau khổ để khôi phục lại đất nước và sự phục hưng đó là điềm báo hiệu của một thời kỳ hoà bình và thịnh vượng mà trong đó tất cả các dân tộc sống dưới sự bảo hộ của Pháp sẽ được thừa hưởng”. Ông ta còn nói: “Chúng ta tha thiết cảm ơn đô đốc Decoux, người đã lái con tàu Đông Dương qua cơn bão táp của thế giới. Nhờ đô đốc mà Đông Dương được hưởng hoà bình và an ninh”. Hai ngày sau, trong một cuộc trở mặt vô liêm sỉ, Bảo Đại đã bác bỏ Hiệp ước Bảo hộ Pháp - An Nam 1884, tuyên bố độc lập của Vương quốc An Nam và tham gia khối các nước Đại Đông Á. Hoàng đế hứa đem tất cả quyền lực của nhà vua ra để cộng tác với người Nhật, tin tưởng ở sự thành thật và thiện chí của đế quốc Nhật. Đến ngày 13-3, Hoàng thân Norodom Shihanouk ở Kampuchia cũng chuyển theo tình hình và tuyên bố đất nước ông độc lập. Ông ta công khai phát biểu: “Vương quốc Kampuchia đã lâu không còn cần đến sự bảo hộ của nước Pháp, vì vậy tuyên bố Hiệp ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp là không còn hiệu lực... đặt sự tin tưởng tuyệt đối vào Đế quốc Nhật... Kampuchia quyết tâm hợp tác với Nhật…”. Một tháng sau, vua Sisavang Vong của Luang Prabang ở Lào cũng đi theo các vị Hoàng thân láng giềng, tuyên bố nước Lào không chấp nhận sự ràng buộc của người Pháp nữa và hoan nghênh người Nhật như là bạn bè và Đồng minh. Ở Đông Dương, người Nhật đã nhanh chóng tuyên bố thiết quân luật, tước vũ khí và giam giữ các lực lượng quân đội và cảnh sát, bắt giữ các nhà cầm quyền quân sự và dân sự chủ yếu, đặt lệnh giới nghiêm, kiểm soát giao thông và tiếp quản toàn bộ cơ cấu bộ máy hành chính. Ngày 11-3, Bộ Tư lệnh tối cao Nhật công bố tên một số người đã bị bắt gồm Decoux, các tướng Aymé, Mordant và chánh sở mật thám Đông Dương nổi tiếng Louis (Paul) Amoux, người đã truy nã Hồ Chí Minh từ 1919. Các sĩ quan nghiên cứu của OSS cho rằng sự sụp đổ của Pháp là do kế hoạch tổ chức kháng chiến của Mordant tồi, do họ không hoàn toàn coi trọng nguyên tắc hoạt động bí mật, và do thiếu một sự phối hợp giữa các phần tử quân sự và dân sự của cái gọi là phong trào kháng chiến. Điều đó quá rõ ràng vì trong ngày 8-3 đã có một viên chức cảnh sát Việt Nam, mật vụ của SLFEO, đã báo cho Mordant biết là người Nhật có kế hoạch vô hiệu hoá quân đội Pháp vào một lúc nào đó giữa ngày 8 và ngày 10 tháng 3. Ở Hà Nội, Mordant và Aymé đã đánh giá thấp tin báo của người mật vụ SLFEO. Mordant cho rằng dù sao đi nữa thì cơ quan quân sự tình báo cũng chẳng có tín hiệu gì về vấn đề này, còn bên dân sự lại thường có xu hướng khuếch đại sự việc. Chỉ có tướng Gabriel Sabattier, chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Kỳ và là thủ lĩnh của phong trào kháng chiến miền Bắc, đã coi tin báo đó một cách nghiêm túc. Ông không hỏi ý kiến của Mordant hay Aymé, phát lệnh “tình trạng báo động thực sự” vào ngày 8-3 và rời khỏi Hà Nội để đến hành dinh dã chiến của ông. Sáng ngày 9, khi biết tin có cuộc “báo động” thật sự, Aymé liền quyết định bãi bỏ lệnh của Sabattier, cho là không cần thiết và chỉ làm cho người Nhật hoảng sợ không đúng lúc. Nhưng hành động của Sabattier đã làm cho Alessandri cảnh giác, ông rút ra ngoài doanh trại và cho quân vượt sông Đà và sông Hồng, di chuyển về núi phía bắc và tây Bắc Kỳ. Đến đêm ngày 9, khi người Nhật tấn công vào nơi có người Pháp ở thì Mordant và Aymé đều bị bắt làm tù binh và quân đội của họ đã không sẵn sàng để chống cự lại. Ngoài số khoảng chừng 99.000 sĩ quan và binh lính người Pháp ở Đông Dương, chỉ có gần 5.000 quân (thuộc quyền Sabattier và Alessandri) được bố trí theo kiểu để đánh chặn hậu ở phía sau là được rút về bên giới Lào và Trung Quốc(2). Suốt trong các ngày 10 và 11 tháng 3, đài phát thanh báo về tin cuộc đầu hàng “hoà bình” của các cứ điểm quan trọng của Pháp. Ngay ở các đồn xa xôi như Quảng Châu Loan (một nhượng địa của Pháp ở phía nam Trung Quốc) và Thượng Hải, với một đội quân thường trú 1.000 lính và 797 cảnh sát người Pháp, quân đội Pháp đã bị tước vũ khí mà không chống cự. Nhưng cũng có những ngoại lệ. Ở đó nổi lên những hành động dũng cảm và anh hùng. Ở đồn Lạng Sơn, độ 1.200 quân đã quyết chiến suốt trong 2 ngày. Bị áp đảo về số lượng, thiếu nước và đạn dược, vài trăm người sống sót đã phải đầu hàng Sư đoàn 37 Nhật, nhưng chỉ huy đơn vị này tức giận vì những tổn thất đã phải gánh chịu do sự ngang bướng của đồn quân Pháp gây ra nên đã ra lệnh tàn sát cho bằng hết số quân đầu hàng. Ở Đồng Đăng, quân Pháp cũng phải chịu một số phận tương tự, khi cũng bị chính viên tư lệnh nói trên sau khi đã được thêm một trung đoàn của Sư đoàn 22 tăng cường, đã tiến đánh và trừng phạt. Ở Hà Nội, quân Pháp ở trong Thành cũng chống cụ chút ít sau nhiều giờ nổ súng rời rạc. Cũng có người chết và bị thương, nhưng Nhật coi đó chỉ là một hành động để giữ thể diện. Ở Hoàng thành Huế, đội Bảo an Pháp đóng ở doanh trại trung đoàn 10 RIC(3) cũng cầm cự được đến nửa đêm ngày 10. Suốt miền trung Trung Kỳ và Nam Kỳ chỉ có một vụ chống cự nhỏ đối với Nhật. Trước cảnh ngộ đáng buồn của người Pháp, báo cáo của R&A nhận xét rằng với một sự chuẩn bị kháng chiến đã khá lâu năm và tất cả các đồn trại, kho tàng đều đầy ắp người và súng đạn như mọi người đều biết rõ, thì sự giải thích duy nhất có thể chấp nhận được về một cuộc đầu hàng nhanh chóng đó của Pháp là do thiếu sự thống nhất tổ chức và lãnh đạo. Một lý do phụ thêm vào đó nữa là có thể thiếu sự ủng hộ quần chúng, của những người Việt bị áp bức. Báo cáo của R&A thêm vào những đoạn trích trong công điện của Tổng Lãnh sự quán Langdon nói rằng người Pháp ở Côn Minhh đồng ý với luận điệu của Nhật, cho rằng người Nhật sở dĩ phải có hành động chống Pháp vì họ sự Pháp và Mỹ hợp tác với nhau trong trường hợp Mỹ đổ bộ vào Đông Dương. Langdon đã ghi: “...Nếu người Pháp cũng có một kế hoạch nào đó thì hiển nhiên họ đã không phối hợp với kế hoạch của người Mỹ và người Trung Quốc, và chờ đợi để sớm muộn cũng có lúc đưa ra thực hiện. Người Nhật đã chơi trội hơn người Pháp”. Trước khi tôi tới vùng biên giới, tin tức cuối cùng tôi nhận được là một trong những toán SI được nhảy dù xuống chỗ người Pháp đang rút lui. Quân của Sabattier và Alessandri đi theo hướng tây Hà Nội về phía Sơn La và Điện Biên Phủ. Sau khi sục tìm các tướng nói trên, một sĩ quan của chúng tôi đã bắt gặp Alessandri ngày 3-4 ở Phong Saly thuộc Lào, nhưng không thấy tung tích Sabattier. Viên sĩ quan đã báo cáo là quân Pháp trang bị nghèo nàn và bị mệt mỏi, tinh thần thấp; để giảm bớt gánh nặng, họ đã bỏ lại nhiều vũ khí nặng và nhiều tấn đạn dược mà cũng không buồn phá huỷ đi nữa. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #22 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2008, 03:52:21 PM » NHỮNG HÌNH ẢNH ĐANG THAY ĐỔI Báo cáo của R&A chứa đựng một số nhận xét về mối quan hệ giữa người Pháp với người Việt, Trung Hoa và Mỹ. Các nhận xét đó rất đáng được bình luận vì chỉ dựa trên cơ sở một số sự kiện lúc đó chưa được hoàn toàn bộc lộ rõ với một khoảng thời gian ngắn ngủi vài tuần hay vài tháng. Về người Việt Nam: - Một mặt: theo Langdon: “Phản ứng của dân chúng An Nam đối với cú của Nhật hình như đã làm cho người Pháp hoang mang, chán nản. Mặc dù một bộ phận lớn quân đội còn tỏ ra trung thành, nhưng nhiều người trong số họ đã đi theo người Nhật, còn thường dân thì vẫn giữ thái độ nói chung là thụ động và thờ ơ. - Mặt trái lại: Trong thực tế hơn 90% lính Việt Nam đã vứt bỏ vũ khí và trở về nhà khi họ biết rõ là phải sang Trung Quốc. Nhiều người đã đi theo phong trào chính trị giành độc lập ở Đông Dương và chỉ có một số rất nhỏ, chắc chắn không quá vài trăm, chạy theo Nhật. Rất nhiều nhà hoạt động chính trị trong giới quân sự đã chia xẻ số phận của họ với phong trào chống Pháp, chống Nhật. Ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn thấy có một số ít người Việt Nam mang băng tay “mặt trời mọc” và hợp tác với quân cảnh Nhật ở địa phương. Phần lớn họ là người thuộc các tổ chức bí mật thân Nhật bao gồm Cao Đài, Hoà Hảo và các phần tử tôn giáo và bảo hoàng ở Đông Dương. Những người hoạt động chính trị Việt Nam thuộc ba phong trào quốc gia chủ yếu: Việt Nam Quang phục Hội, một tổ chức bí mật thân Nhật, chủ trương bảo hoành, Việt Nam Quốc dân đảng dựa vào Chính phủ Trùng Khánh và được Trung Quốc ủng hộ và Đông Dương Độc lập Đảng, một mặt trận cộng sản theo Matxcơva. Điều người Pháp thất vọng đối với người Đông Dương không phải ở chỗ họ tỏ ra thờ ơ mà ở chỗ người Pháp cho là họ bội bạc. Trong hơn 80 nam, thực dân Pháp đã cho lan truyền câu chuyện thần thoại gán cho người Pháp vai trò của nhà khai hoá, ân nhân và là người bảo hộ vĩ đại của nhân dân Việt Nam “nghèo túng, bơ vơ và thấp hèn”. Trong câu chuyện đó, người Pháp ở Đông Dương có quyền đòi hỏi phải được người dân “bản xứ” lệ thuộc yêu quý và phục dịch và đồng thời lại có quyền xử phạt khi người “bản xứ” không làm được những việc hèn hạ của mình. Qua thời gian, câu chuyện thần bí đã biến thành sự thực trong đầu óc của người Pháp và chi phối cuộc sống hàng ngày của họ. Điều đó đã quá ăn sâu vào tính nết của người Pháp nên đã không gạt bỏ đi được ngay cả sau các sự kiện ngày 9-3. Trong những giờ “bi thảm” của cuộc đấu tranh chống Nhật, mặc dù người Pháp bối rối bởi thái độ gia trưởng và bề trên của mình đối với người “bản xứ”, nhưng những người này vẫn tỏ ra nhã nhặn và không gay gắt gì đối với người Pháp. Người Việt đã giúp đỡ cho các ông chủ cũ của họ trốn tránh trước sự truy lùng của kẻ thù, chỉ dẫn cho họ vượt rừng rậm để sang Tnmg Quốc và có khi còn cho họ ẩn nấp ngay trong nhà mình một thời gian. Rõ ràng đối với người Pháp đang chạy trốn thì đây không phải là do lòng trung thành hay vì sợ sệt mà chính là trên cơ sở nhận thức được rằng họ, người Việt Nam, đang bước vào một thời đại mới. Vai trò của họ bất chợt đã được đảo ngược. Người Việt Nam không còn là dân thuộc địa lệ thuộc mà là người công dân tự do và độc lập của chính đất nước họ. Họ đã không hành động với tinh thần trả thù trong những ngày đầu tiên đó mà chỉ với động cơ mong muốn giải thoát cho đất nước họ khỏi gánh nặng người Pháp. Trong tháng 4-1945, người Pháp đã không thể hiểu nỗi được phản ứng của người Việt Nam; họ chỉ có thể cảm thấy chán ngán. Về người Trung Hoa. - Một mặt: quan hệ Pháp - Hoa đã không phải là hoàn toàn thân thiết. Nhiều lắm thì cũng chỉ có thể coi các quan hệ đó là vừa phải và đúng đắn. Langdon đã báo cáo rằng phản ứng của người Trung Quốc đối với cú mồng 9-3 của Nhật “được coi như là một lời cảnh cáo đối với sự an ninh của Vân Nam, do đó những biện pháp được thi hành (tháng 3-1945) phản ảnh một thái độ thụ động”. - Mặt trái lại: Tưởng đã rất phiền lòng trước sự xoay chuyển tình hình ở Đông Nam Á, vì nó làm tổn hại đến địa vị quân sự của ông ở Miến Điện và Trung Quốc. Ông ta đặc biệt bực mình với người Pháp về chỗ sau khi đã đẩy cho Nhật tiến hành cú 9-3, họ đã không gây được cái gì coi như một cuộc kháng chiến đáng tin cậy để có thể buộc Nhật rút bớt đi một số lực lượng từ các mặt trận của người Trung Hoa ở Miến Điện và Trung Quốc. Không những thế, họ lại không giữ được nguyên tình trạng ở đó và làm cho quân đội Tnmg Quốc bị uy hiếp một cách vô ích bởi một cuộc tiến công của Nhật vào phía sườn đã yếu hướng tây nain. Hơn nữa, người Pháp đã làm cho vấn đề phúc tạp thêm qua việc rút quân sang đất Trung Quốc và tạo nguy cơ để Nhật rượt đuổi theo vào Vân Nam và Quảng Tây, gây ra những vấn đề khó khăn về chính trị và tiếp tế hậu cần. Quan hệ Pháp - Hoa còn bị những sự chống đối nhau trong cấp cao nhất của Quốc dân đảng Trung Quốc làm cho nghiêm trọng thêm. Nhiều người Trung Quốc quyền thế đã va chạm vào quyền lợi với các nhân viên trong bộ máy cai trị của Decoux suốt trong những năm chiến tranh, họ cũng xung khắc với sự hoạt động của các phần tử theo De Gaulle ở Trung Quốc và Đông Dương. Tỷ dụ như tướng Hà Ứng Khâm đã tỏ ra bực bội vì quân đội nước ngoài vào đất Trung Quốc và đã xem việc người Pháp rút lui là một điều đã có ảnh hưởng xấu đến mối bang giao giữa ông Hồ và Wedemeyer mà ông ta cho là có cảm tình với Pháp. Mặc dù bề ngoài tướng Hà đóng vai trò của một nhà bác ái và đã tự mình cấp tất cả “giấy phép và giấy thông hành để cứu trợ cho những người Pháp tị nạn, lòng tốt của ông chỉ làm chậm lại một quá trình và cung cấp cho cảnh sát, mật vụ có cơ hội để phân hóa và sàng lọc các phần tử xấu”. Tướng Long Vân ở Vân Nam, tỉnh mà người Pháp đi qua, cũng có nhiều va chạm từ trước với Pháp. Tướng Lư Hán, “cháu” của ông, đặc biệt ghét tướng Alessandri, người được nhiều người Trung Quốc gán cho là phải chịu trách nhiệm như là một trong những cố vấn chủ chốt của Catroux (và sau là Decoux) cho phép quân đội Nhật vào Đông Dương. Trong một thời gian dài, Tai Li đã xung đột với người Pháp ở Trung Quốc và Đông Dương về vấn đề hoạt động bí mật và buôn lậu. Các nhân viên OSS ở biên giới đã báo cáo về một điển hình người Trung Quốc chống lại người Pháp. Một đơn vị quân Pháp bị mất tất cả số lính người Việt, khoảng 3.000, bị tan rã hoặc chạy theo Việt Minh và bỏ mặc cho các sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp tự xoay sở lấy. Cuối cùng người Pháp cũng đến được điểm kiểm soát ở biên giới Trung Quốc gần Lào Cai nhưng phải chờ ở ngoài rừng cho đến tận khi được phép cho vào đất Trung Quốc. Về ngươi Mỹ: - Một mặt: Trong những tuần lễ đầu tiếp sau cú 9-3, người Pháp đã phê phán mạnh mẽ việc Mỹ đáp ứng lại những yêu cầu giúp đỡ của họ. Họ đã xin tiếp tế đạn dược. Nhưng đạn dược của chúng ta không thích hợp với vũ khí của họ. Họ đã yêu cầu vũ khí thì vũ khí của chúng ta lại chỉ dể dành riêng cho người Trung Quốc. Họ đã yêu cầu chi viện đường không và mặc dù điều đó không có trong kế hoạch của Đồng minh ở Trung Quốc. Đội không quân thứ 14 đã tiếp tế nhiều hơn mức phải làm. Họ đã yêu cầu được vận chuyển đến Trùng Khánh bằng máy bay quân sự nhưng người Trung Quốc đã không cho phép. - Mặt trái lại: Về sau cả thường dân lẫn nhân quân Pháp ít nhiều cũng đã đánh giá được quan điểm tiếp viện của Mỹ, cũng như những khó khăn thực tế của việc giúp đỡ các đồng bào của họ ở Đông Dương. Họ cũng đã thấy chúng ta đã cấp một số lớn chăn, mền, giường, thuốc và quần áo. Họ cũng công nhận không quân của chúng ta phối hợp với AGAS để sơ tán hàng trăm phụ nữ và trẻ em sang Ấn Độ, đã táo bạo cứu vớt những người thường dân Pháp bị rớt lại trong vịnh Hải Phòng. Nhưng ở các giới chính quyền vẫn còn rơi rớt lại một sự hằn học dân tộc. Thí dụ như khi tổ chức UNRRA(4) giúp đỡ cho khoảng 24.000 dân Pháp tị nạn rải rác tại các trạm tại Vân Nam, tướng Pechkov đã phản đối, cho là một điều sỉ nhục vì được cứu trợ bởi một cơ quan từ thiện chứ không phải được đối xử như một đồng minh quân sự hào hoa. Nhân viên Đại sứ quán chúng ta đã bắt buộc phải giải thích cho ông rằng UNRRA là một tổ chức quốc tế do Liên Hợp Quốc đỡ đầu, trong đó Pháp là một nước hội viên, nên nhận sự giúp đỡ qua UNRRA tức là Pháp chỉ tự giúp mình mà thôi. Tuy vậy, qua những lời kêu ca của Pháp, điều mà người Pháp ở cấp cao cảm nhận thấy bực bội nhất vẫn là việc tướng Wedemeyer kiên quyết đặt ra những hoạt động của Đông Dương và người Pháp ở Trung Quốc, công khai cũng như bí mật, dưới quyền kiểm soát của người Trung Quốc. ________________________________________ (1) cuộc đảo chính - tiếng Pháp (2) Trong đó chỉ có 2.100 người Pháp, còn lại là người Đông Dương thuộc địa (3) Trung đoàn bộ binh thuộc địa (4) Tổ chức cứu trợ Liên Hợp Quốc Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #23 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2008, 03:53:30 PM » Chương 9 Một chuyến đi đến biên giới Trung Quốc [/b] TÌNH TRẠNG LỘN XỘN Chuyến đi vòng mở đầu của tôi ở miền nam Trung Quốc bắt đầu ở Szemao, ở sân bay bận rộn của mình(1), trung uý William A. Pye, người của trạm chúng tôi ở đây, đã đón tôi với nhiều chuyện phiền muộn về chủ trương phá rối của Trung Quốc, về những lời phàn nàn của người Pháp và về một cuộc tấn công “trước mắt” của Nhật Bản. Anh ta hoàn toàn thất vọng vì không thấy tiến bộ trong việc xây dựng một mạng lưới tình báo và gán vấn đề này cho thái độ không cộng tác của người Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Tai Li và cho sự thờ ơ của những người lánh nạn Pháp, họ đang cần giữ một khoảng cách giữa họ với người Nhật ở biên giói Đông Dương, cách đó chừng 40 dặm về phía nam. Chúng tôi lái xe đến trạm OSS, ở đó một người Pháp là thiếu tá De Monpezat(2) đang đợi chúng tôi. Ông ta mô tả tình hình ở Szemao như là một sự hỗn loạn cực độ. Những đội quân “Annamite” bỏ ngũ hàng đoàn. Người Trung Quốc không hề có một sự cố gắng nào để quan tâm đến điều đó hay để di tản những người Pháp lánh nạn sang Ấn Độ; nhiều người trong số đó thiếu ăn, rách rưới, mắc bệnh kiết lị, sốt rét và bị kiệt sức và hết sức cần đến một sự chăm sóc y tế. Dân lánh nạn đã đạt tới “con số vô cùng lớn là 3.500 người hay hơn nữa”. De Monpezat muốn biết xem chúng tôi có thể làm được gì về vấn đề này. Điều duy nhất mà tôi có thể làm được là xem xét qua và báo cho Trùng Khánh biết, nhưng tôi đã gợi ý cho ông ta cùng với Pye chuẩn bị một bản báo cáo dễ hiểu nêu lên những nhu cầu và nói chi tiết về số người lánh nạn và các loại yêu cầu nổi bật. Thiếu tá có vẻ hài lòng. Viên quan tòa nhăn nheo ở Szemao, Chao Cha Fung, cũng chờ đợi dể gặp tôi. Ông ta biết tin 400 người Pháp lánh nạn khác và nhân viên quân sự sẽ đến trong 4 ngày tới và bày tỏ nỗi lo sợ của ông ta là họ có vũ khí. Ông ta yêu cầu tôi khuyên các nhà chức trách Pháp thu vũ khí của những người lánh nạn ấy trước khi họ tới và đặt họ dưới sự bảo vệ của giới quân sự Trung Quốc. Tôi đã báo tin cho ông ta rằng đó là vấn đề của Pháp và Trung Quốc, không có liên quan gì tới người Mỹ. Tuy nhiên tôi nói thêm rằng theo tôi hiểu thì giới quân sự Pháp không bị giải giáp và đã được người Trung Quốc đưa đến những khu vực tập trung để chờ đợi quyết định của Trùng Khánh. Viên quan toà rõ ràng không thích thú với tin tức ấy và đoán trước về tình trạng rắc rối giữa giới quân sự Pháp và Trung Quốc nếu vấn đề không được giải quyết. Ông ta phàn nàn rằng người Pháp kéo đến đông đảo sẽ gây những thiếu thốn về nhà ở và lương thực, tình hình đã trầm trọng hơn vì ngôn ngữ bất đồng. Lính tráng đe doạ những người buôn bán địa phương vì khó mua hàng hóa hơn và giá hàng lên cao. Đối với tất cả những vấn đề ấy, tôi gợi ý ông ta nên hỏi ý kiến Trùng Khánh. Ông ta cảm ơn tôi vì sự “thông cảm” của tôi và rút lui. Những vấn đề ở trạm OSS thật hỗn độn. Nhiều sĩ quan OSS đã đến biên giới một tháng, nhưng không ai biết chính xác mình đến đâu. Những yêu cầu cấp bách của các tiền đồn OSS khác nhau đã bị chất đống ở Szemao mà không được giải quyết. Tôi yêu cầu Pye đưa công việc vào trật tự đến mức cao nhất và điện cho Helliwell phái thêm một người nào đó đến để giúp thêm cho Pye để cho anh ta có thể về Côn Minh báo cáo về tình hình người Pháp và về công việc của trạm. Sáng hôm sau, tôi lên máy bay đến Trình Tây (Ching Hsi) cách đó 300 dặm. Dọc đường chúng tôi dừng lại ở tiền đồn của chúng tôi tại Mương Sinh, một làng thuộc vùng núi Đông Dương, cách Szemao chừng 125 dặm. Chúng tôi dừng xuống đường băng một lát để xác định nó là một sân bay và đã gặp trung uý Charles D. Ambelang. Ba tuần nay, anh ta đã di chuyển từ đỉnh đồi này sang đỉnh đồi khác theo một con đường mòn đầy bụi, đặt các trạm nghe và sẵn sàng tháo gỡ ngay khi thấy quân Nhật di động. Đó là một nhiệm vụ hết sức khó khăn. Người Pháp không ở lại và người Việt Nam ở địa phương không thể được huấn luyện nhanh chóng để làm những thao tác vô tuyến điện. Tôi yêu cầu ông ta rời bỏ khu vực này, đến móc nối với nhóm của tướng Sabattier ở Phong Saly, và sau đó cùng với họ về Szemao, ở đó tôi sẽ gặp anh ta. Chỗ dừng sau đó của tôi là Mông Tự (Meng Tzu), thuộc Trung Quốc, một tiền đồn OSS khác, ở đó công việc kém sôi nổi hơn. Đội này đã thành công trong việc thu lượm một khối lượng khá lớn những thông tin về mệnh lệnh chiến đấu của Nhật và một ít tin tức tình báo chính trị về những liên hệ Pháp - Nhật ở Hà Nội và Hải Phòng. NGÔI NHÀ AGAS Cuối cùng, một giờ trước lúc hoàng hôn, tôi hạ xuống Tepao, phía bắc Trình Tây, và đi tới ngôi nhà AGAS. Chúng tôi dự một bữa ăn do một sĩ quan Pháp mời, những người đó đang làm việc với GBT và cộng tác với AGAS. Nóng người lên vì rượu cognac tuyệt vời của Pháp, câu chuyện của chúng tôi tình cờ đụng tới chuyện nghề nghiệp, người Pháp phàn nàn về những điều rủi ro của họ và trách móc “các nhà chính trị”. Là một người khách, tôi tránh tranh cãi khi một người nào đó nhắc tới những người “Annamites” như những người “không thể tin cậy” được và nói chung đó là một “vấn đề”. Để giữ câu chuyện dừng lại ở đề tài này, tôi nói với họ là tôi đã gặp một thành viên của Liên minh Độc lập Đông Dương, người đó nói tổ chức này không phải là một tổ chức chống Pháp, mà chỉ chống phát xít. Điều đó gây ra một sự tranh cãi, tôi ngồi lùi ra và lắng nghe. Người Mỹ giữ lập trường cho rằng người Việt Nam có thể cực kỳ có ích. Họ biết rõ địa hình, họ kín đáo và họ dễ huấn luyện. Họ tuyệt nhiên không phải là những người chống Pháp, bằng chứng là nhiều người Việt Nam phục vụ trung thành trong hàng ngũ quân đội thuộc địa Pháp. Dù sao, khi còn cần thiết, họ không có sự lựa chọn nào ngoài việc tuyển mộ người Việt Nam và điều đó có thể làm được. Các sĩ quan Pháp chỉ thừa nhận đó là những tay chân riêng biệt, được M.5 của Pháp sàng lọc, có lẽ chỉ một số ít được sử dụng dưới sự giám sát của Pháp nhưng phải theo một sự hoạch định thận trọng và được bảo đảm hết sức an toàn. Họ khuyên tôi nên thận trọng hơn với Liên minh và tổ chức theo xu hướng Matxcơva của nó là Việt Minh. Tôi rất chú ý tới một điều người ta nói là “một số người Lê dương Nga trong sư đoàn Alessandri đã bị kết án vì những hoạt động nổi loạn trong phong trào độc lập của người An Nam trong nấy năm vừa qua”. Ông nói rằng Việt Minh ở Đông Dương cổ động dân chúng bản xứ đã lâu rồi và đám dân chúng rộng lớn thì theo “chủ nghĩa chủng tộc và thân Nhật”. Nếu họ giành được chỗ đứng ở Đông Dương, thì điều đó báo hiệu sự kết thúc ảnh hưởng của người da trắng ở Đông Nam Á. Họ nhắc nhở tôi rằng nếu không có gần 80 năm sống dưới sự “nhân từ” của người Pháp thì người An Nam đã phải quỳ gối xuống trước người Trung Quốc mà không hưởng dược cái lợi của nền văn hoá phương Tây và Pháp. Không cần phải làm cho các vị khách người Pháp phải nổi giận, tôi đồng ý là nước Pháp chắc chắn đã góp phần vào việc phương Tây hoá Đông Dương, nhưng vấn đề sắp tới là làm thế nào để khôi phục một cách tốt nhất sự tiếp xúc với bên trong và đưa họ tới chỗ chống lại kẻ thù chung của chúng ta là người Nhật. Một người AGAS trở lại ý kiến lúc đầu của mình là có thể sử dụng người Việt Nam và nước Pháp thừa nhận đó là một biện pháp, nhưng vẫn giữ ý kiến là điều đó có thể gặp nguy hiểm. Sau đó câu chuyện chuyển sang những đề tài khác. Khi các vị khách đi khỏi, đội AGAS hỏi tôi suy nghĩ như thế nào đối với Việt Minh. Tôi chỉ nói rằng SI và AGAS có thể xem xét một hành động chung với Việt Minh và tôi hy vọng sẽ gặp được một người của Việt Minh không để cho người Pháp biết, và cần AGAS giúp tìm cho một người Trung Quốc. Họ đồng ý. Hôm sau tôi đi sâu vào xem xét nhóm GBT. Với sự giúp đỡ của đại tá Emblanc và một số sĩ quan khác thuộc phái đoàn quân sự Côn Minh, Gordon đã lập được một vài đường vô tuyến điện ở biên giới Đông Bắc. Ông ta cũng thành công trong việc tổ chức một số “hệ thống liên lạc” giữa Hải Phòng và Hà Nội, và thỉnh thoảng đã cung cấp được thông tin OSS - Côn Minh và hạm đội Mỹ ở Trung Quốc. ÔNG WANG YEH LI Công việc tiếp đó của tôi là đi tìm Wang Yeh Li. Một người cộng tác với AGAS biết nói tiếng Trung Quốc đã giúp tôi tìm ra cho một quán trà tối tăm mà tôi đang cần tìm. Nó nằm trên một đường phố chật hẹp có những cửa hiệu đang mở của buôn bán và đầy những người có cả những đứa trẻ con ở trần mỉm cười chào thân mật “ting hao”. Bà Wang chào đón chúng tôi; chồng bà, như bà nói, đang đi ra đâu đấy một lát. Chúng tôi chờ đợi và gọi nước chè, thấy có một số người Trung Quốc đi vào. Họ không ăn cũng không uống gì mà đi thẳng vào cái phòng gần đó. Một vài người trở ra sớm và đi khỏi đây; nhưng người khác thì hoặc là những người trong nhà hoặc là đi ra bằng lối khác. Chúng tôi suy xét điều đó và kết luận rằng quán trà này còn là một cái gì hơn nữa ngoài một nơi uống trà và ăn bánh bao. Một người Trung Quốc khá trẻ bước vào, đi thẳng tới bàn chúng tôi và không ngần ngại tự giới thiệu bằng tiếng Anh. Ông ta nói tên của ông ta là Wang và ông ta đang đợi gặp tôi. Tôi giới thiệu người bạn của tôi là trung uý “Karl” (nhân viên AGAS hiếm khi để lộ tên thật của họ). Wang không có cung cách xã giao phương Đông thường thấy và bằng tiếng Anh Hongkong của mình, ông ta hỏi có tính chất thăm dò về những cảm tưởng của tôi đối với Trung Quốc và về việc Quốc dân đảng sẽ ra sao khi Mỹ có một Tổng thống mới. Ông ta không tin chắc rằng nước Nhật sẽ bị đánh bại trong mấy năm tới, có thể là chưa phải năm 1947 hay 1948, và lúc đó chắc là nước Nga sẽ tham chiến. Ông ta cho rằng tôi cùng với tướng Chennnault đang tiến hành một công việc tình báo nào đó. Ông ta như muốn đánh giá tôi, muốn biết những xu hướng chính trị của tôi và muốn biết xem mục đích của việc tôi đến thăm là gì. Chậm rãi, tôi giúp ông ta nắm được những thông tin mà tôi thấy rằng cần để ông ta nắm được. Vâng, tôi làm tình báo với OSS. Dưới quyền của Wedemeyer, chứ không phải của Chennault. Không, tôi không quan tâm đến chính trị Trung Quốc mà chỉ quan tâm đến hoạt động của Nhật ở Đông Nam Á. Tôi cần tổ chức một mạng lưới những người hoạt động bí mật ở Đông Dương, tốt hơn cả là với sự giúp đõ của người Việt Nam. Cuối cùng, Wang nhận xét rằng chỉ có người Trung Quốc và người Việt Nam mới có thể thành công trong một công việc như vậy và có thể ông ta sẽ nói đúng cái người có thể giúp cho chúng ta. Liệu tôi có muốn gặp người đó không? Có, tôi trả lời, nhưng đó là người nào? Ông ta chỉ nói đó là “một người An Nam có ảnh hưởng và khoáng đạt”. Sau mọi chuyện tôi cảm thấy dường như ông ta nói đến ông Hồ, nhưng không một ai trong chúng tôi nhắc tới cái tên đó, và theo một ý nghĩa nào đó, đó là cách kiểm tra sự bí mật. Tôi muốn tin vào Wang và Wang sẽ có thể giới thiệu cho tôi đúng con người ấy. Tôi muốn liều một chuyến và đồng ý sẽ đến gặp Wang về mục đích này chiều hôm sau. Tôi sẽ tới một mình. “Karl” không tin đến như vậy. Trở về chiếc xe của chúng tôi, anh ta bày tỏ vẻ khó chịu của mình. Tay chân của Tai Li ở khắp nơi và không ai chắc được về người Trung Quốc như ông ta. Tôi chợt nghĩ phải chăng ông ta đã biết ít nhiều về Wang? Tôi nói cho “Karl” biết ai bố trí cho tôi gặp Wang và tại sao, anh ta cảm thấy yên tâm nhưng vẫn thuyết phục tôi rằng có thể Wang là một người Cộng sản Trung Quốc, phải hết sức thận trọng, và đó là người có thể tin được. Tuy vậy anh ta nói là sẽ xem xét kỹ hơn nhóm của Wang. Chiều tối hôm ấy tôi nhận được bức điện vô tuyến của Helliwell cho tôi biết đang xảy ra một chuyện cấp bách. G-2(3) hỏi về những hoạt động OSS ở Hà Nội và Sài Gòn. Bộ chỉ huy muốn biết tin tức về những đơn vị chiến đấu Nhật mới tới và xác nhận những sân bay và những căn cứ quân sự mới theo cách nhìn từ trên không. Bộ chỉ huy cũng đòi hỏi phải tiến hành cấp tốc một chiến dịch tuyên truyền chống lại quân đội Nhật thuộc sư đoàn 37 để làm giảm tinh thần và gây đào ngũ. Bộ chỉ huy muốn biết mọi điều và tất nhiên là họ có quyền làm như vậy. Rõ ràng là chúng tôi phải nhờ đến sự giúp đỡ của bất cứ ai - người Trung Quốc, người Việt Nam hay người Pháp - để bắt đầu tiến hành hoạt động. Để cho chắc chắ, tôi tìm quán trà nằm giữa những con đường hẻm rối rắm kia, và chúng tôi lại đến đó một lần nữa vào buổi chiều ngày hôm sau lúc còn sớm. “Karl” nói cho tôi biết rằng Wang đúng là một người Cộng sản Trung Quốc đã hoạt động tích cực trong Đồng minh Hội, tổ chức của những người lưu vong ở Liễu Châu và Quế Lâm. Tối hôm trước Wang bị nghi ngờ là có hướng chống Quốc dân đảng vì sự liên hệ mật thiết của ông ta với Việt Minh, nên ông ta đã bị Đồng minh Hội khai trừ và hiện nay ông đang chờ cơ hội để lên phía bắc với nhóm của Mao ở Diên An. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #24 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2008, 03:54:16 PM » MỘT QUÁN TRÀ TRONG LÀNG Mặt trời đã lặn khi tôi và Wang đi vào một cái làng nhỏ gọi là Chiu Chow Chich. Phải mất 45 phút để đi xe qua 6 dặm từ Trình Tây, trên một con đường hẹp (và chỉ có con đường đó). Cuối ngày, tất cả đều đi ngược lại chúng tôi - người, gia súc và xe bò - khiến chúng tôi phải dừng lại không biết bao nhiêu lần vì bị trâu bò và xe chở lặc lè ngăn cản. Làng này chỉ là một cụm nhỏ 15 hay 20 ngôi nhà nhỏ bé có tường thấp và vôi gạch đổ nát bao quanh. Wang chỉ một ngôi nhà thấp nằm ở giữa. Khi chúng tôi vừa đỗ xe gần đó, hai người ra gặp chúng tôi(4). Họ không phải là người Trung Quốc. Wang đi lên trước và nói mấy câu mà tôi tin đó là tiếng Trung Quốc. Người lớn tuổi hơn trong hai người đó là một người mảnh khảnh, thâm thấp, 50 hay 60 tuổi gì đó; ông ta đến gặp tôi với nụ cười niềm nở và chìa tay ra. Ông ta nói tiếng Anh rất thành thạo. “ Xin chào! Người bạn tốt của tôi”. Tôi nắm lấy bàn tay gần như mỏng mảnh của ông Hồ và bày tỏ sự vui sướng của tôi vì gặp được một người có nhiều người bạn Mỹ ở Côn Minh. Sau đó, ông Hồ giới thiệu người Việt Nam khác, ông Lê Tùng Sơn, như là một người cộng tác gần gũi của mình trong Liên minh. Wang dẫn mọi người vào một căn phòng sáng lờ mờ, dường như có một cái bệ nhỏ. Ông Sơn vào sau cùng và cài cửa ra vào cũng như cửa sổ thật cẩn thận. Ông Hồ bước tới chiếc bàn duy nhất và mời chúng tôi ngồi. Vừa rót nước chè cho chúng tôi, ông Hồ vừa giải thích rằng ông Sơn không nói được tiếng Anh và tiếng Pháp, nhưng hiểu được tiếng Pháp đôi chút. Ông Hồ nói mình thích dùng tiếng Anh vì cần phải luyện tập. Wang đi thẳng vào vấn để. Chi nhánh Côn Minh của Việt Minh hy vọng cộng tác với Đồng minh và chúng ta đến đây để thu xếp công việc. Không do dự, ông Hồ đáp lại rằng có thể cộng tác được, rằng ông Phạm Viết Tự đã tiếp xúc với Lãnh sự quán Mỹ từ tháng 8 trước và ông Langdon đã có thái độ tốt đối với người Việt Nam (đó là một lời cường điệu về lập trường của Tổng lãnh sự, như tôi đã biết). Thật ra, ông Hồ nói tiếp, AGAS và Việt Minh đang tổ chức một hoạt động bí mật ở trong nước để giúp những phi công bị rơi, nhưng ông coi điều đó có một ý nghĩa khác. Ông Hồ nói ông cần nói trước hết tới những người bạn thân của chúng tôi. Ông rất muốn biết làm thế nào tôi biết đến Việt Minh và hơn nữa, tới ông. Tôi nói thẳng thắn nhưng chỉ nêu bật lên những điểm chính rằng, ở Washington tôi đã nghe nói ông bị Quốc dân đảng “bắt giam”, rằng ông làm việc trong Đồng minh Hội, rằng ông cộng tác với Đồng minh để cứu những phi công bị rơi, và tất nhiên nói đến cả cuộc chuyện trò của tôi với Phương. Tôi thấy ông Hồ rất quan tâm đến những điều tôi để lộ ra, và trong một thoáng, thấy ở ông một ánh mắt ngạc nhiên và hài lòng khi biết rằng cái tên Hồ Chí Minh không phải không được giới chính thức ở Washington biết tới, nhưng ông trở lại bình thường rất nhanh. Ông hỏi tôi có biết thiếu tá Glass không; tôi nói với ông, Glass đã gợi ý cho tôi đi tìm một người “An Nam thân thiết” ở Bắc Kỳ và tôi ngạc nhiên thấy rõ ông có thể là người đó. Con người mảnh khảnh, nhỏ bé và kỳ lạ ấy cười rộng miệng và dành mấy phút để ca ngợi Austin Glass, “người Mỹ Việt Nam”. Ông Hồ nhắc lại với một cảm tình rõ ràng là thật sự rằng người Việt Nam ở Hải Phong đã quý trọng Glass như thế nào, ông ta đã lấy một phụ nữ Việt Nam và đã sống ở Đông Dương hơn 30 năm. Theo ông Hồ, Glass biết tiếng Việt rất thạo, hiểu những vấn đ xã hội, kinh tế và chính trị của Việt Nam vớ một thái độ thân thiết và có thiện cảm. Ông nhắc lại trong khi người Nhật chiếm Bắc Kỳ năm 1940, Glass là một trong những người phương Tây đầu tiên bị Kempeitai(5) giám sát một cách khó chịu, không phải vì ông ta thân Pháp mà vì ông ta tán thành mạnh mẽ tinh thần độc lập và chống phát xít của người Việt Nam. Ông Hồ nhắc lại một cách sinh động những lời kể của nhiều người bạn Việt Nam của Glass ở Hải Phòng đã từng lên tiếng chào Glass khi ông ta rời khỏi Hải Phòng trong một cuộc trao đổi nhũng người dân sự Mỹ - Nhật. Vì chưa bao giờ gặp Glass cả, ông Hồ đã kể lại ở cương vị một người thứ ba. Ông Hồ hút thuốc lá liên tục, ông hút thứ thuốc lá địa phương rất mạnh và hăng. Khi ông cuốn thứ thuốc lá ấy và hỏi mình cuốn đã khá hơn chưa, tôi bèn mời ông một điếu Chesterfield. Mắt ông ánh lên thích thú khi ông đưa những ngón tay nhỏ nhắn và dài ra cầm lấy một điếu và nói thêm với một vẻ tự bào chữa rằng hút thuốc là một tật xấu khá nặng của ông. Về sau tôi thấy điều đó là sự thật. Khi sức khoẻ ông gặp gay go trong những ngày căng thẳng tháng 8 và tháng 9, ông rất thích hút thuốc Chesterfield của tôi. Ngay cả khi ông ho rung cả người lên, ông cũng hút. Dường như đó là một niềm vui thích của ông và tôi chưa bao giờ thấy thích thú nhưu khi thấy ông ưa những điếu thuốc lá của tôi. Nhưng để trở lại với câu chuyện của chúng tôi, tôi cảm thấy một vài sự dè dặt của ông Hồ đối với tôi đã được xua tan, nhưng ông là một nhà cách mạng lão thành, một bậc thầy về những âm mưu và bí mật, nên ông vẫn tiếp tục đi sâu vào câu chuyện với một vẻ thăm dò dễ mến và tế nhị. Tôi hiểu ông muốn biết những động cơ của tôi và cố khám phá thái độ của tôi đối với nhân dân Việt Nam và nói riêng để xem tôi là người đại biểu cho những quyền lợi thực dân hay đại biểu cho thái độ chống thực dân của Roosevelt. Tôi cần phải giành lấy sự tin cậy của ông và sẵn sàng tham gia cuộc đấu trí biện chứng của ông. Ông Hồ cũng mô tả khá dài về đời sống khó khăn mà người Việt Nam phải chịu trong mùa đông trước ở Bắc Việt Nam. Vụ lúa tháng 10 bị bão tàn phá, đê bị vỡ, nước lụt tràn ngập. Những thiếu thốn về thuốc men, lương thực, áo quần và vận tải hồi mùa đông lại cộng thêm với việc không có những biện pháp đặc biệt nên đã đưa đến kết quả cuối cùng là nạn đói kinh khủng nhất trong toàn bộ lịch sử dân tộc đã xảy ra. Những thiếu hụt về lương thực, cộng thêm nạn đầu cơ tích trữ tha hồ về thóc gạo, đã trở nên hết sức gay go hồi tháng Giêng khi sức khoẻ của người Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ xấu đi nhanh chóng. Nhiều người ốm đau hay quá yếu nên không thể làm việc được. Gia súc chết trên nhũng cánh đồng vì không được chăm sóc và thiếu ăn. Hệ thống đê điều phức tạp do người Pháp phát triển và duy trì đã bắt đầu rơi vào tình trạng không được sửa sang trong suốt mùa đông vì ngân sách công ích bị cắt đi. Nhân viên người Pháp ngừng làm việc và những người Việt Nam không được huấn luyện không thể thay thế họ. Những đường sá lớn ở đồng ruộng cuối cùng bị ngập lụt. Khi tôi hỏi chính quyền Pháp đã làm gì dể giảm bớt tình hình ấy, ông Hồ xua rộng hai tay và thở dài. “Những gì họ làm bao giờ cũng là theo đuổi quyền lợi riêng của họ”. Ông coi chế độ Decoux là chế dộ của những quyền lợi tham lam, bám lấy những quyền lợi bất di bất dịch và hờ hững với cảnh ngộ của dân chúng Việt Nam. Đáng lẽ phải vạch ra một kế hoạch phân phát những kho lương thực lớn ở phía nam, Chính phủ Decoux lại áp đặt những hình phạt nặng nề, kể cả cái chết, cho những người đang cố sống sót. Việt Minh đã nắm lấy vai trò lãnh đạo trong cuộc khủng hoảng ấy. Các đơn vị du kích Việt Minh đã đánh vào những kho tàng ở nông thôn Trung Kỳ và Bắc Kỳ(6), chiếm lấy lương thực, đặc biệt là thóc gạo, để phân phát cho những người đang thiếu. Nhiều người đã được cứu giúp, những nạn đói vẫn tăng lên. Chỉ trong mấy tháng, từ 1,5 đến 2 triệu người Việt Nam đã chết đói. Không một người Pháp hay người Nhật nào bị chết đói cả, chỉ có người Việt Nam mà thôi. Các thành phố của người Pháp vẫn sống sót; chỉ có những làng xóm đầy rẫy những xác chết trên các ngả đường, các kênh mương, các cánh đồng, còn những người sống thì rất yếu và hốc hác, vẫn cứ phải đi nhặt nhạnh và chôn cất người chết. Nhiều làng mất từ một phần ba tới một nửa số dân. Ông Hồ mô tả tai họa của dân mình bằng một giọng đầy xúc động và khi gần kết thúc, trông ông buồn rầu và mệt mỏi. Ông Hồ hứa sẽ gửi cho tôi một “tập ảnh bằng chứng” và một sự tường thuật chi tiết nhan đề “Sách trắng”, do một vài người của ông soạn ra. Tôi nói với ông là tôi muốn có một bản sao và tin chắc rằ nó sẽ được Bộ chỉ huy của tôi quan tâm đặc biệt. Ông Hồ bày tỏ ý kiến là mọi việc sẽ khác đi sau chiến tranh. “Chúng tôi đang chuẩn bị cho một Chính phủ dân chủ độc lập, do người Việt Nam điều hành vì người Việt Nam”. Với một vẻ trầm ngâm, ông Hồ thừa nhận rằng đó là một nhiệm vụ to lớn. Người Pháp chắc chắn sẽ chống lại một hoạt động như vậy. Người Trung Quốc có những lý do của họ để ủng hộ người Pháp, nhưng cũng có thể đứng về phía người Việt Nam. Còn người Anh thì chắc chắn không để cho cơ cấu thuộc địa ở Đông Nam Á bị sụp đổ; và sẽ là một vấn đề nghiêm trọng nếu họ giúp sức cho người Pháp. Mặc dù tôi đã tỏ ra khách quan và thận trọng một cách cố ý, không để mình dính líu vào những khía cạnh chính trị của vấn đề Đông Dương, nhưng sự chân thành, thái độ thực dụng và sự hùng biện của ông Hồ đã gây cho tôi một ấn tượng khó phai mờ được. Ông Hồ không hiện lên đối với tôi như một nhà cách mạng không thực tế hay một người cấp tiến cuồng nhiệt, theo đuổi những lời nói rập khuôn, hét to những đường lối của Đảng, hay thiên về phá hoại mà không có những kế hoạch xây dựng lại. Đây là một con người thông minh, thấu hiểu những vấn đề của đất nước mình, một con người biết điều và tinh tế. Tôi cũng cảm thấy có thể tin cậy ông như một bạn Đồng minh chống Nhật. Tôi biết mục tiêu cuối cùng của ông là giành được sự ủng hộ của Mỹ đối với sự nghiệp của nước Việt Nam tự do và thấy rằng ước muốn ấy không trái ngược với chính sách của Mỹ. Từ một quan điểm thực tiễn, ông Hồ và Việt Minh hiện ra như một câu giải đáp cho vấn đề trước mắt của tôi là tiến hành các hoạt động ở Đông Dương. Đã gần nửa đêm, Wang nhắc tôi trở về Trình Tây, nhưng ông Hồ khẩn khoản mời chúng tôi ở lại để tiếp tục câu chuyện, ông nói thêm- nếu như tôi không cảm thấy mệt hay phải trở về ngay. Chúng tôi ở lại. Tôi hỏi về những nơi đóng của Bộ chỉ huy Việt Minh và những chi tiết về bộ máy của nó. Wang cắt ngay, theo kiểu Trung Quốc, và ra lệnh cho ông Hồ phải thận trọng. Nhưng ông Hồ giơ tay lên tỏ ý không tán thành những chỉ thị của Wang và trả lời những câu hỏi của tôi. Bộ chỉ huy đóng ở một số hang tự nhiên phía ngoài gần Cao Bằng. Việt Minh không phải là một đơn vị đặc biệt có thể di chuyển đây đó, mà là một bộ phận rất rộng của người Việt Nam. Nó có mặt khắp nơi, trong công nhân công nghiệp và trong nông dân ở nông thôn. Những đơn vị công nhân và nông dân được tổ chúc thành những nhóm cơ động nhỏ dưới sự chỉ huy của một cán bộ được huấn luyện; mỗi đơn vị có thể hoạt động độc lập hay tập thể tuỳ theo nhu cầu. Chẳng hạn, nếu cần có tin tức về quân Nhật đóng ở Biên Hoà (gần Sài Gòn), thì các đơn vị ở khu vực này sẽ được yêu cầu cung cấp tin tức, tin tức này sẽ được chuyển qua Đà Nẵng (Tourane) và cuối cùng đến Cao Bằng. Phải nhận rằng đó là quá trình chậm chạp và những tin tức đến Côn Minh thì đã cũ rồi. Cũng thế, nếu có lệnh tấn công theo lối biệt kích một đơn vị Nhật ở Sơn Tây (tây bắc Hà Nội), thì tổ chức bán quân sự của Việt Minh ở vùng có thể thực hiện cuộc hành quân ấy. Ông Hồ cho rằng đó là vấn đề thời gian và khoảng cách. Người của ông được trang bị nghèo nàn, gồm đủ thứ súng ống của Pháp, Bỉ, Anh và Nhật, với ít đạn dược, không có xe cộ và chỉ có rất ít máy vô tuyến điện. Họ bị phụ thuộc vào những vũ khí lấy được, đó là điều chủ yếu nhưng lại đòi hỏi một sự huấn luyện đặc biệt và những người huấn luyện. Nếu thu xếp được với Đồng minh để có những thiết bị liên lạc và một số hạn chế những vũ khí nhỏ để trang bị cho một số đơn vị nhỏ, và sử dụng được những huấn luyện viên Mỹ thì tình hình sẽ thay đổi hẳn đi. Trong sự trình bày rất ngắn ấy, ông Hồ nói với tôi những gì ông có thể làm đuợc với những gì ông có và những gì ông đang cần có thêm. Bằng những lời lẽ thận trọng, ông nhắc đi nhắc lại đề nghị hấp dẫn của mình mà ông cảm thấy chắc chắn sẽ được chúng ta chú ý một cách nghiêm túc. Với sự khôn khéo của mình, ông không yêu cầu gì cả; ông chỉ trình bày cho tôi nghe giá trị tiềm tàng của tổ chức quân sự - chính trị của mình. Và ông muốn đợi thời cơ nên không yêu cầu một lời hứa nào cả. Tuy nhiên khi chúng tôi đi vào những chi tiết ấy, tôi thấy mình bắt buộc phải nói rằng tôi không chuẩn bị để cam kết một điều gì. “Ông già” kín đáo, giả vờ ngạc nhiên trước nỗi lo lắng của tôi, mỉm cười một cách ranh mãnh và nói rằng ông không yêu cầu gì hết, ông chỉ trả lời những câu hỏi của tôi về Việt Minh mà thôi. Ông nói là ông hoàn toàn thông cảm, không sao hết. Ông sẵn sàng đi với người Mỹ khi nào người Mỹ thấy sẵn sàng. Tất cả nhũng gì tôi phải làm là làm thế nào để cho người của ông ở Côn Minh biết đang cần những gì và ông mong muốn những thứ đó sẽ được cung cấp. Đã quá khuya khi Wang và tôi trở về, nhưng đường về vắng vẻ nên đi rất nhanh. Khi đi đường, Wang nói với tôi những lời bông đùa, nhưng tôi có cảm giác ông vẫn còn nhìn tôi với thái độ nghi ngại. Về tới chỗ trú, tôi thấy rõ sự tương phản giữa cuộc gặp gỡ ấy và cung cách tiến hành những cuộc họp như vậy trong chiến tranh ở châu Âu và châu Phi. Ở đó, những đại diện bí mật thường đưa ra những lời xác nhận to lớn về những gì họ có thể thực hiện (thường là thổi phồng), chỉ cần họ được cung cấp vũ khí và tiền (những khoản tiền lớn). Ông Hồ thậm chí không nhắc gì đến chuyện tiền cả. Và ông đã thẳng thắn cho biết là người của ông đã lấy được vũ khí. Ở Nam Tư, các sĩ quan OSS biết rằng những người hoạt động bí mật đã chôn đi nhiều vũ khí lấy được của Đức và kêu ca thiếu vũ khí. Đó là một phương châm để khi kết thúc chiến tranh, họ muốn giải quyết những sự tranh chấp nội bộ của họ vơớ những kho vũ khí càng nhiều càng tốt. Về chuyện này, những điều như vậy cũng xảy ra ở Trung Quốc, khiến cho những viên chỉ huy Mỹ rối trí lên. Còn ông Hồ thì lại cho biết những vũ khí của mình như hiện có và không yêu cầu gì về tiền nong cả. OSS thường quen trả tiền cho tình báo. Kết luận của tôi là cuộc gặp gỡ đêm nay sẽ mang lại nhiều điều tốt lành. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #25 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2008, 03:56:16 PM » QUÂN ĐỘI CỦA SABATTIER Sáng hôm sau, tôi đáp máy bay đi Poseh, cách Trình Tây về phía bắc chừng 30 phút bay. Một người tiền trạm của chúng tôi đang làm việc với những nhân viên của GBT và của Hạm đội Mỹ và làm việc tốt. Poseh là một điểm tập trung khác của những lực lượng Pháp vừa rút lui nhưng vì không cần nấn ná gì ở đây nên tôi lại bay trở về Szemao vào ngay chiều hôm ấy. Khi tôi xuống khỏi máy bay, tôi được biết một trong hai đội SO của chúng tôi được gửi tới cho các lực lượng của tướng Sabattier ở Đông Dương đã bị một đơn vị tiền duyên Nhật phục kích, do lỗi của tình báo Pháp. Dưới lửa đạn nặng nề của người Nhật ở Don Chai (gần Mong Ou Tay), đội của thiếu tá Summers giữ được vị trí của họ nhưng những máy vô tuyến điện, mật mã và những thiết bị đặc biệt đã bị phá huỷ và sau đó đã chạy về phía bắc. Helliwell và Davis yêu cầu tôi theo dõi họ. Tôi tìm thấy họ ngày 2-5, sau nhiều lần bắn pháo sáng trên các đường núi và rừng rậm. Họ đã ở biên giới Cheng Tung (hay Keng Tung) bên phía Trung Quốc và còn nguyên vẹn sau những thử thách ngặt nghèo khi lang thang xuyên rừng rậm. Tôi đã thu xếp cho họ chuyển tới Côn Minh. Tướng Sabattier, đang trên đường đến Szemao, đã phái De Monpezat tới trước báo cho tôi biết ông ta cần thảo luận với tôi về cuộc kháng chiến của người Pháp. Tôi báo cho Helliwell và được chỉ thị là “không cam kết gì cho đến lúc nào việc giải quyết mối quan hệ của Pháp với chiến trường được sáng tỏ”. Tuy nhiên, nếu các kế hoạch xem ra là tốt, Helliwell nói, thì ông ta sẽ “thúc giục để có hành động ngay 1ập tức”. Chúng tôi gặp nhau ngày 2-5 ở Szemao, và tướng Sabattier bày tỏ lòng biết ơn về việc ủng hộ mà người Pháp đã nhận đuợc của OSS và của Đội không quân thứ 14 trong “giờ phút bi thảm” của họ và tỏ ý hy vọng người Mỹ tiếp tục sự giúp đỡ “hào hiệp và có thiện cảm” ấy. Ông ta cho tôi biết để khỏi bị hiểu sai rằng ông ta là “chỉ huy tối cao của tất cả các lực lượng Pháp ở Viễn Đông” và ông ta hành động theo những chỉ thị trực tiếp của chính phủ lâm thời Pháp. Ông ta định đóng sở chỉ huy của mình ở Côn Minh, ở đó ông ta sẽ chỉ huy tất cả những hoạt động sau này của Pháp “trong sự hợp tác” với Đồng minh. Kế hoạch của ông ta là cải tổ những lực lượng của ông ta ở Trung Quốc dưới sự chỉ huy của tướng Alessandri và đại tá Seguin(7) và đặt họ dưới quyền điều khiển của tướng Wedemeyer. Về những hoạt động bí mật, ông ta còn nắm trong tay vài trăm sĩ quan và binh lính đã được huấn luyện đặc biệt; những người này muốn và sẵn sàng trở lại Đông Dương và thiết lập lại những mối liên lạc với những nhân viên Pháp đã rời khỏi đó. Tôi hỏi những nhân viên ấy có phải là một bộ phận của mạng lưới của tướng Mordant không, và viên tướng này bày tỏ ngạc nhiên vì tôi biết tổ chức bí mật của họ. Phần nào bối rối, ông ta nói rằng đúng như thế và nói thêm rằng ông ta còn có một mạng lưới riêng trong người Mán(Cool, những người này “tuyệt đối trung thành” với ông ta. Sau đó chúng tôi thảo luận về những chi tiết trong kế hoạch của ông ta mà ông ta đã phác vẽ lên trên nhiều bản đồ và đồng ý tiếp tục những cuộc thảo luận ở Côn Minh. Viên tướng này mong muốn được dựa vào người Mỹ để được ủng hộ về hậu cần và huấn luyện, và muốn việc huấn luyện ấy sẽ được tiến hành ở Szemao để khỏi lộ những cán bộ Pháp - An Nam cho người Trung Quốc biết. Thời tiết ở Szemao đã thay đổi. Mây đen phủ kín bầu trời và những trận mưa liên tiếp đổ xuống làm cho việc bay không thể thực hiện được và việc vận chuyển bằng đường bộ trở nên nguy hiểm và chậm chạp. Điều đó làm tăng thêm sự nguy khốn của những người lánh nạn. Dòng người Pháp vào Trung Quốc ở trong tình trạng thê thảm. Mệt mỏi, đói khát, ốm đau, không giày dép, họ đã thiếu kiên nhẫn với bất cứ người chức trách nào. Họ yêu cầu những khu đóng quân thậm chí cũng không thể kiếm được cho quân đội Trung Quốc. Họ cố tịch thu xe cộ và các kho thực phẩm riêng mà không qua các nhà chức trách, kết quả là đã xảy ra những cuộc va chạm gay gắt. Khi họ biết là có người Mỹ đang ở trong khu vực này, thì cơ quan của chúng ta bị bao vây với những yêu cầu của các sĩ quan trẻ tuổi để chúng tôi “ra lệnh” cho người Trung Quốc giải quyết những yêu cầu của họ. Chúng tôi giải thích rằng chúng tôi không có quyền hành gì cả, và đại sứ Pháp có thể cung cấp cho họ. Họ cho rằng đó là một sự trả lòi rất không thoả mãn. Tôi xúc động sâu sắc trước tình cảnh khốn khổ của một đội quân phương Tây bại trận, bị người Nhật sỉ nhục và đang rời rạc đi vào cửa Trung Quốc để được bảo vệ và lánh nạn. Tôi đã từng trông thấy những đám lớn người Đức và Ý, tù binh chiến tranh cũng như dân sựu, rút về phía sau những chiến tuyến của chúng ta ở châu Phi và châu Âu; nhưng đó là những người phương Tây ở thế giới phương Tây. Còn ở châu Á, tình hình lại mang những kích thước khác, không diễn tả được nhưng lại là có thật. Những sự khác nhau về chủng tộc và văn hoá hàng chục năm nay bị che đậy dưới những sự tế nhị ngoại giao và xã hội bỗng nhiên nổi rõ bề mặt. Người Pháp, tượng trưng cho văn hoá và sức mạnh quân sự châu Âu ở châu Á đã bị đập tan bởi một cường quốc phương Đông và đang chịu sự ơn huệ đầy khó chịu của một dân chúng phương Đông khác. Bề ngoài người Trung Quốc tỏ ra có thiện cảm, muốn giúp đỡ và nhân từ; ở phía trong họ lại theo đòi một thói quen đáng kinh tởm là chần chừ một cách lễ độ, rạch ròi về chính trị và tôn trọng chặt chẽ những tập quán địa phương có thật hay tưởng tượng cũng như những hiệp nghị quốc tế. Đây là tinh thần “ngược đời của người châu Á, mà chúng ta phải gánh chịu”. Về phía người Pháp, cũng có những vấn đề có liên quan với chủng tộc: những khó khăn về ngôn ngữ, những nhu cầu cá nhân và tình trạng mất mặt, tất cả đều góp phần tăng thêm nỗi thất vọng của người Pháp, thể hiện ra ở những yêu cần không hợp lý và tâm trạng kiêu ngạo quá mức của họ đối với tất cả nhũng người châu Á. Kết quả là những cuộc va chạm thường xuyên với những ngụ ý chủng tộc âm ỉ. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #26 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2008, 03:56:50 PM » MỘT CHÂN DUNG THỰC DÂN Trong 8 ngày từ khi tôi đặt chân lần đầu đến Szemao, nơi đây trở thành trại tập trung người Pháp. Tôi có một cơ hội tốt để thu lượm tin tức từ những người lánh nạn và tuyển mộ người Pháp cho những hoạt động bí mật, do đó tôi yêu cầu Helliwell cử đến một sĩ quan nói tiếng Pháp giỏi với một bộ phận giúp việc. Ông ta gửi trung uý John P. Spaulding và một số nhân viên mới tuyển, và tôi quyết định lưu lại ở đó một thời gian nữa. Suốt trong 10 ngày, tôi phỏng vấn có lẽ tới hơn một chục sĩ quan và gấp đôi số ngưuời ấy gồm có hạ sĩ quan và những nhân viên cấp thấp hơn, cả người Pháp lẫn người Việt Nam, cộng với những viên chức dân sự và những nhà kinh doanh. Nhưng cuộc nói chuyện ấy cho thấy một bức tranh không có gì hấp dẫn của thái độ hững hờ, tinh thần trả thù và quyền lợi ích kỷ. Những thái độ của những người lánh nạn về căn bản phản ánh chính sách quốc gia của Pháp cũng như những kinh nghiệm của họ về tổ chức dân sự hay quân sự dưới chính phủ Decoux từ năm 1940. Họ cảm thấy cảnh ngộ hiện nay của họ sẽ sớm kết thúc và họ trở về Đông Dương để lấy lại những gì mà họ đã để lại. Sẽ không có gì thay đổi. Tôi cảm thấy hầu hết những người lánh nạn đã sống những năm tháng của mình ở Đông Dương mà không hề rời khỏi môi trường Pháp của mình. Sự hiểu biết của họ về dân bản xứ, về những đặc trưng dân tộc và những nguyện vọng chính trị giống như sự hiểu biết của một người đi qua ngẫu nhiên. Họ coi những nhân viên Việt Nam trong quân đội của họ như “những binh lính và cu-li tầm thường” mặc dù nhiều người Pháp đã nhận được một sự ủng hộ trung thành của những đội quân và những người dân thường “bản xứ” trong những cuộc xung đột với người Nhật. Điều đó được coi là “bình thường và là bổn phận của họ”. Đối với những người đó, “cuộc kháng chiến bản xứ” không phải là một phong trào có xung lượng riêng mà là một bằng chứng thành công của chủ nghĩa tự do và của sự lãnh đạo của Pháp. Gần như nhất trí, những người Pháp mà tôi phỏng vấn đều cho rằng người Việt Nam không đủ sức gánh trách nhiệm chính trị. Họ thừa nhận những kẻ theo chủ nghĩa quốc gia đang tồn tại, nhưng “đã tỏ ra hèn kém khi đụng phải Sureté(9) hay Quân đội”. Thái độ của người Pháp tốt lắm cũng chỉ là thái độ cha chú. Còn thái độ tệ hại nhất thấy có ở một số ít người là thuần tuý khinh miệt, được cô đọng lại trong thái độ của một sĩ quan cho rằng “không có một người An Nam chân thành nào”. Đối với những Đồng minh phương Tây, tôi thấy có những thái độ rất khác nhau, nhưng số đông nhất có thái độ nghi ngờ những ý định của Đồng minh. Cá nhân tôi đã thấy những thành viên trong Phái đoàn quân sự Pháp ở Szemao tự mình truyền cho những người mới tới sự nghi ngờ ấy, trước khi họ tiếp xúc với bộ phận của tôi. Sự bảo vệ quyền lợi người Pháp chống lại lòng thèm khát đượcc gán cho người Anh và người Mỹ rõ ràng là cái cớ để biện hộ cho sự hợp tác vừa qua của họ với người Nhật. Rất ít sĩ quan Pháp tỏ ra thẳng thắn như người cuối cùng đã hỏi tôi “có phải người Mỹ định sẽ sử dụng những con đường sắt Đông Dương sau chiến tranh không?”. Sau khi lẩn tránh những câu hỏi của tôi về vận tải Đông Dương, một số ít người bào chữa cho chủ trương gây trở ngại của giói cầm quyền và tỏ ra sẵn sàng cộng tác về những vấn đề tình báo nếu sự cộng tác của họ không bị những nhà chức trách Pháp biết. Một nhà kinh doanh bày tỏ ý muốn được thấy xứ này(10) phát triển lên bằng tư bản và tính năng nổ của nước ngoài nếu những nguồn tư bản của Pháp không thể đáp ứng với nhu cầu. Nhưng ông ta là người duy nhất nói ra điều đó với tôi. Mặc dù thái độ của người Pháp đối với những Đồng minh phương Tây có vẻ lạ lùng đối với nhiều người Mỹ ở Trung Quốc, nhưng tôi không thấy thế. Trái lại, tôi hiểu đó là sự mở rộng tự nhiên của lập trường chính thức ở Paris, dưới chính quyền mới của De Gaulle. Người phát ngôn của Chính phủ Pháp đã công nhiên khiển trách những sự hoang tưởng nặng nề về chính trị của người Pháp ở Syria và Lebanon trước những hoạt động của người Anh và cũng lên án người Anh mưu toan thay thế người Pháp ở những thuộc địa ở Trung Đông của họ. Các Bộ trưởng Pháp khi trình bày với Hội đồng tư vấn đã lên án Mỹ âm mưu chiếm Nouvelle Calédonie và những căn cứ ở Đông Dương. Sự phê phán của báo chí Mỹ về chính sách thuộc địa của Pháp đã bị Bộ trưởng Ngoại giao Bidault gạt bỏ một cách khinh bỉ với sự nhấn mạnh rằng “nước Pháp không cần phải học ai về những vấn đề này”. Thái độ xấu đối với Mỹ do chính sách chống thực dân của chúng ta có thể hiểu được, nhưng công kích người Anh, bạn Đồng minh mạnh mẽ duy nhất trong việc chống đỡ cho lý tưởng “đế quốc” bị nghiêng ngả, là một thái độ thiển cận và u uất. Dù sao, tôi vẫn báo cáo cho cơ quan Chiến trường và Đại sứ về việc tôi từ Côn Minh trở về với thái độ nghi ngại và bực bội của Chính phủ Paris và của các nhà chức trách thuộc địa. Cả hai đều nhằm phục vụ mục tiêu của các giới cầm quyền Pháp là khôi phục vị trí của Pháp trước chiến tranh mà không chịu chấp nhận một sự thoả hiệp nào. Họ có thể dùng đến những phương pháp chắc chắn sẽ gây ra sự phê phán và làm suy yếu việc phối hợp nỗ lực chiến tranh của Đồng minh. Sự chống đối của Đồng minh tỏ ra không hiệu lực vì Đồng minh đã có thái độ thiếu ngay thẳng và một quyết định giải quyết các vấn đề một cách quá nhanh và trọn vẹn bằng việc sử dụng những đội quân của Pháp ngay trước khi các vấn đề được hỏi đến. Như các sự kiện về sau này chứng tỏ, việc giao phó cho các nhà chức trách Pháp thực hiện chính sách đó nôn nóng đã bị hạn chế, và mức độ ủng hộ cần phải có của những người dân trong nước họ cũng đáng ngờ. Nhưng họ lại cần phải đặt nước Pháp và phần còn lại của thế giới trước một việc đã rồi - đó là một nhiệm vụ không thể làm được. Những cuộc thảo luận của tôi trong những ngày ban đầu ấy với tướng Sabattier, tướng Alessandri, đại tá Emblanc và thiếu tá De Monpezat cũng cho thấy một vấn đề ít lộ ra công khai trong nội bộ Đồng minh mà chỉ có một số ít người Pháp hiểu được. Điều đó có liên quan đến nhiều cuộc tiếp xúc công khai và bí mật giữa Trung Quốc và Đông Dương. Hoa Kiều ở Đông Dương nói chung đối địch với người Nhật. Sự hợp tác công khai của họ với với giới quân sự Nhật hồi đó không được người Pháp coi là không trung thành - đó chỉ là một yêu cầu của chiến tranh, một sự thu xếp thực dụng. Nhưng người Pháp mà tôi đã nói chuyện với họ, cho rằng cộng đồng người Trung Quốc ở Đông Dương sẽ chào đón sự cai trị của người Pháp quay trở lại, không phải vì lý do nào khác ngoài lý do ổn định kinh tế. Tuy nhiên các nhà chức trách Pháp lại rất quan tâm đến thái độ của Quốc dân đảng Trung Quốc. Họ lo ngại về những bài phát ra trên báo chí Trung Quốc, đã thông qua sự kiểm duyệt của Trùng Khánh, đang kêu gọi nhập lại Đông Dương vào Trung Quốc, trong khi những tờ báo bán chính thức của Trung Quốc thì lại khuyến khích các nhóm cách mạng Việt Nam khác nhau. Những người cách mạng đã ủng hộ một cách khác nhau mọi chủ trương đoàn kết với Trung Quốc để hoàn thành nền độc lập của Việt Nam. Dù con số những người cách mạng ấy còn ít, nhưng họ họp thành những trung tâm tuyên truyền chống Pháp, điều duy nhất mà những người cách mạng đồng ý với nhau, và đó là nguồn rối loạn ở “thuộc địa”. Chính phủ Trung Quốc ít phân biệt những nhóm cách mạng ấy, dung nạp tất cả, nhưng cộng tác chặt chẽ nhất với chi nhánh An Nam của Quốc dân đảng. Hơn nũa, các nhà chức trách Pháp còn biết rằng Tai Li đang nắm giữ một mạng lưới tay chân khắp Đông Dương và mạng lưới này đang tránh né cả “Sureté” cũng như “Kempeitai”. Các thủ lĩnh quân sự Pháp sẵn sàng thừa nhận rằng Decoux cũng giống như những người tiền nhiệm của ông ta, đã không thể đè bẹp được những đảng bí mật khác nhau ở Đông Dương hay ngăn ngừa được sự thâm nhập bí mật của Trung Quốc, cả hai đều được chỉ đạo từ Trung Quốc. Hơn nữa, sau cuộc đảo chính, người Nhật lại ban hành quy chế chính thức cho một nhóm quốc gia ở Đông Dương. Nhưng các thủ lĩnh quân sự Pháp vẫn thấy Việt Minh là mối đe doạ lớn nhất đối với chủ quyền của Pháp. Việt Minh đang tiếp tục những hoạt động ngấm ngầm chống lại người Nhật và người Pháp trong suốt cuộc chiến tranh, nhưng bị tất cả các phần tử chống Cộng ở Việt Nam khinh rẻ. Chính quyền Decoux không có mấy cố gắng để tranh thủ sự ủng hộ của những người dân thường, do đó không có gì ngạc nhiên khi thấy người Việt Nam ít tôn trọng nó. Tuyên truyền của Pháp vẫn hoàn toàn giữ lối nói rằng nền văn minh Pháp đã ban cho Đông Dương những điều may mắn về văn hoá. Những quy định cải cách thuộc địa khác nhau do chính phủ De Gaulle đưa ra trong những cuộc thương lượng Pháp - Anh - Mỹ được công bố rất ít. Khá lạ lùng là chính người Nhật đã dùng những quyết định ấy để đối chiếu với những cải cách ít ỏi được hứa hẹn và với mối đe doạ được giả định về sự bóc lột của Anh - Mỹ sau chiến tranh, với những mối lợi phi thường mà người Việt Nam có thể tìm thấy ở chương trình của Nhật Bản về khối thịnh vượng chung Đại Đông Á. Sau đảo chính, đường lối tuyên truyền của Pháp, trước kia cũng tỏ ra vô hiệu, bây giờ chỉ tập trung vào quyết định của Pháp giải phóng Đông Dương khỏi ách áp bức Nhật Bản. Sự tan rã của bộ máy tuyên truyền Pháp và sự kiểm soát của người Nhật đã làm cho người Pháp không đến được Việt Narn, là những người bất kể thế nào cũng không tin vào họ nữa. Tuy nhiên, vào tháng 4, người Pháp lại đặt hy vọng của mình vào sự phản ứng thù địch của Việt Nam đối với sự chiếm đóng của Nhật, trái với điều mà họ từng thấy khi còn sự cai trị rộng lượng của họ. Họ tin chắc là người Nhật rốt cuộc sẽ đưa người Việt Nam trở lại những cánh tay của người Pháp. Hy vọng ấy được duy trì bằng một ảo tưởng về thiện chí bẩm sinh của các nhà vua ở An Nam, Cambốt và Lào. Đó là một sự tin tưởng sai lạc vì không tính đến những người Việt Nam bình thường và nguyện vọng độc lập hoàn toàn của họ. Trong khi tất cả những người Pháp hân hoan với sự chào đón mà người Việt Nam sẽ dành cho sự cai trị trở lại của người Pháp, vẫn có một số sĩ quan Pháp quyết định phải khôi phục sự cai trị của người Pháp, bằng cách sử dụng những đội quân Pháp ở châu Âu. Không một người Việt Nam nào được đại diện trong các hội đồng của những thủ lĩnh thuộc địa lưu vong. Những hạn chế có chủ tâm được áp đặt cho việc tham gia của những đội quân “bản xứ” vào việc giải phóng nước mình. Người Việt Nam vẫn bị đặt ra ngoài rìa những hoạt động bí mật của Langlade - Mordant - Sabattier, và các thủ lĩnh quân sự Pháp đã phản đối việc phát vũ khí cho cái họ gọi là “du kích bản xứ”. Họ vẫn thi hành chính sách tôn trọng những đội quân “bản xứ” đang chiến đấu trong quân đội Pháp với những cam kết mới đây mà lòng trung thành tiếp tục của họ không có gì đáng nghi ngờ cả. Chính sách khai trừ ấy rõ ràng không phải do yêu cầu chiến thắng nước Nhật mà được vạch ra vì quyền lợi phiến diện của Pháp. Nó phải đảm bảo cho các lực lượng Pháp những cánh tay hoàn toàn rảnh rang để đối phó với hậu quả nổi lên sau khi đuổi được người Nhật. Nó phải đảm bảo chỉ có những đội quân người Âu dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan Pháp giữ được quyền kiểm soát về tiếp tế và vũ khí để người Pháp sử đụng khi họ trở lại “thuộc địa” bằng sức mạnh vũ khí. Tôi đưa tất cả những điều đó vào bản báo cáo về người Pháp ở nam Trung Quốc, nói chung chúng được tiếp nhận tốt, nhưng có ai đó trong Đại sứ quán chúng ta cho rằng tôi đã giải thích quá nghiêm khắc về những động cơ của Pháp. Điều đó làm cho Côn Minh và Trùng Khánh tưởng rằng tôi là một người chống Pháp. Tuy nhiên sự cộng tác sau này của tôi với các nhà chức trách Pháp ở Trung Quốc đã chứng tỏ tôi không chống Pháp mà chỉ tán thành Đồng minh mà thôi. Chúng tôi, những người Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương, có một mục tiêu vượt lên tất cả - đánh bại nước Nhật ngay cả khi phải làm điều đó một mình, biết rằng trong những Đồng minh của chúng tôi có những kẻ sẵn lòng để cho người khác giành thắng lợi trong chiến tranh trong khi họ chuẩn bị để hái những trái quả chiến thắng. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #27 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2008, 03:57:42 PM » “NƯỚC PHÁP TỰ DO” THỌC SÂU VÀO Tôi gửi kế hoạch của tướng Sabattier cho Côn Minh ngày 2-5. Helliwell đã giành được một sự tán thành hạn chế của chiến trường nhằm tiến hành những hoạt động phối hợp Pháp - Mỹ và ngày 6-5 đã điện vô tuyến rằng “O.K! Hãy thử thách Sabattier trước tiên ở Szemao”. Nhưng ông ta cũng cẩn thận dặn tôi nhớ tới “những giới hạn của chúng ta về trang bị và nhân sự” và hãy “tỏ ra kiên quyết để người Pháp bảo đảm rằng trong mọi trường hợp không được để chúng ta dính líu tới bất cứ chuyện gì có tính chất chính trị”. Ông ta còn nhắc nhở nghiêm khắc rằng “không được cung cấp vũ khí và đạn dược” cho người Pháp, ngoại trừ để tự vệ một cách có hạn chế và chỉ trong trường hợp “OSS nắm đầy đủ quyền kiểm soát hành động”. Cho rằng sự cộng tác chặt chẽ của các tướng Sabattier và Alessandri là điều dĩ nhiên, tôi không ngạc nhiên khi Alessandri mời tôi đến vào chiều ngày 6-5 để hỏi về các kế hoạch của OSS cho những người Pháp hoạt động bí mật. Tôi nhiệt thành nói với ông ta rằng tôi vừa nhận được những tín hiệu từ Côn Minh về kế hoạch của Sabattier. Đứng phắt lên và với thái độ bực bội không cần che đậy, ông ta nói rằng “cuộc kháng chiến của Pháp ở Đông Dương là một việc không dính gì đến Bộ chỉ huy tối cao cả”. Tôi hiểu sai ý của ông ta, tưởng là ông ta nói đến Bộ chỉ huy tối cao của Mỹ, nên sau đó tôi có nói rõ những mệnh lệnh của tôi đều từ đại bản doanh chiến trường đến. Alessandri lập tức lấy lại thăng bằng và nói: “Naturellement!”(11). Tất nhiên ông ta muốn ám chỉ tới Sabattier và sự thu xếp chỉ huy “tạm thời” của Pháp, và đây là sự ám chỉ đầu tiên khiến cho tôi hiểu là về mặt này mọi cái chưa phải là tốt đẹp. Alessandri đột nhiên bỏ qua vấn đề những hoạt động bí mật, quay sang nói về vấn đề cấp bách hơn là vấn đề tiếp tế cho những đội quân của mình. Ông ta chuyển sang một chuyện dàn hoà khi bày tỏ mối lo ngại của mình về việc tập trung các đội quân đó lại, hiện đang đóng rải rác ở nam Trung Quốc, từ Szemao đến Fanch'eng. Ông ta tỏ ý hy vọng người Mỹ cung cấp cho những khu vực tập tnmg, những phương tiện vận chuyển và những đồ tiếp tế để phục hồi lại những đội quân của ông ta. Tôi bày tỏ sự thông cảm hoàn toàn của tôi đối với những vấn đề của ông ta nhưng buộc phải nói với vị tướng này rằng OSS không có thẩm quyền giúp đỡ và vấn đề này phải được giải quyết ở Trùng Khánh giữa Đại sứ Pháp và Tưởng Giới Thạch. Ông ta kiên nhẫn nhắc lại cho tôi rằng ông ta biết rất rõ những thủ tục thông thường, nhưng đây chỉ là những cố gắng để làm dễ dàng hơn cho một chức năng chỉ huy cấp bách của Đồng minh - những yêu cầu khẩn cấp của các đội quân của ông ta, “một thành phần các lực lượng Đồng minh ở Trung Quốc. Hy vọng làm cho ông ta yên tâm, tôi gợi ý rằng tôi sẽ lấy làm sung sướng hơn nếu thu xếp được cho ông ta hay cho đại diện ông ta gặp ông Snyder thuộc UNRRA, hiện đang ở Szemao; ông này đã được Mỹ uỷ quyền giúp đỡ người Pháp. Nhưng Alessandri lại hết sức cáu tiết vì tôi nhấn đi nhấn lại rằng ông ta phải giải quyết các vấn đề này ở những nơi khác và rõ ràng không bao giờ quên được cuộc gặp gỡ này. Về sau ông ta bị bắt buộc phải ngồi ở các cuộc hội nghị cấp chiến trường mà tôi cũng thỉnh thoảng tham gia với tư cách đại diện cho những quyền lợi của OSS ở Đông Dương, nhưng ông ta không bao giờ trực tiếp nói chuyện với tôi trong những cuộc gặp ấy. Tháng 9, ở Hà Nội, ông ta bày tỏ sự giận dữ của mình đến mức từ chối tham dự một cuộc họp mặt với tướng Lư Hán(12) mà bản thân ông ta được mời đến, nhưng tướng Gallagher(13) cũng lại mời tôi đến cuộc gặp mặt ấy với tư cách đứng đầu Phái đoàn quân sự Mỹ; với lý do, theo lời ông ta, “thiếu tá Patti không thân thiện với người Pháp”. Tướng Sabattier đã lên Côn Minh, đoán trước sẽ được một cuộc tiếp đón nồng nhiệt với tư cách là viên chỉ huy cao cấp của các lực lượng Pháp ở Trung Quốc và Tổng đại diện ở Đông Dương. Ông ta đã thất vọng khi không thấy người nào ngang hàng ra đón mình. Côn Minh chỉ là bản doanh của cấp gần nhất. Nơi chỉ huy này cách Trùng Khánh 400 dặm; ở Trùng Khánh, ông ta sẽ có thể gặp Tưởng Giới Thạch và những cố vấn gần gũi của Tưởng, Phái đoàn quân sự Pháp, tướng Wedemeyer và Bộ tham mưu của ông, và Đại sứ Mỹ. Cái gọi là phái đoàn quân sự Pháp ở Côn Minh thật ra là M.5 và đã bị SLFEO của “những bàn tay Trung Quốc cũ”(14) thanh trừng và trở thành trung tâm của phái De Gaulle ở Trung Quốc. Sabattier ở đây không có bạn bè. Những người theo De Gaulle ở Côn Minh hy vọng sẽ có một nhân vật xuất sắc đại diện cho “nước Pháp mới” - một người nào đó có bóng dáng cao lớn như Leclec, Catroux hay thậm chí Blaizot. Sabattier chỉ là một người giúp việc khốn khổ. Chính trị của ông ta là chính trị của một sĩ quan điển hình của quân đội chính quy Pháp, trung thành với nước Pháp, ủng hộ chế độ đang cầm quyền và nghiêm ngặt tuân theo luật lệ truyền thống về danh dự nhà binh. Với việc Aymé bị bắt, Sabauier trở nên người có cấp cao nhất trên sân khấu nắm giữ chức Tổng chỉ huy tất cả các lực lượng Pháp ở Đông Dương. Sau đó, với sự “biến mất” của Mordant, Sabattier đã được chỉ định thay mặt cho ông ta. Những người của SLFEO ở Côn Minh, rõ ràng chịu sự chỉ huy từ Calcutta, đã tung ra một chiến dịch làm mất uy tín của Sabattier trong con mắt của quân đội Pháp và của Phái đoàn quân sự Pháp ở Trùng Khánh, bằng cách để hở ra một phần bức điện ngày 10-4 của De Gaulle gửi Sabattier, trong đó nói: “Rõ ràng ông sẽ tiếp tục kháng chiến trên đất Đông Dương, bất chấp mọi khó khăn. Một điều cũng cần thiết như vậy là cá nhân ông phải ở lại Đông Dương cho đến giới hạn cùng tột...”(15). Cũng như những người ấy lúc đó đã cho lưu hành những lời lên án Sabattier rằng ông ta bao giờ cũng là người đầu tiên rời bỏ khu vực của người Nhật đe doạ - là người đầu tiên chạy khỏi Điện Biên Phủ 4 ngày trước khi quân của ông ta di chuyển, khỏi Phong Saly 3 ngày trước khi người Pháp tản cư khỏi khu vực và khỏi Muong Ou Tay 3 ngày trước khi rút lui. Những sự việc đi trước ấy là những biện pháp bảo đảm an toàn bình thường đối với một vị Tổng chỉ huy, nhưng những việc đó đã bị đẩy đi quá mức và do đó đã đẻ ra một hiệu quả tự hạ thấp mình xuống. Những người theo De Gaulle coi Sabattier là một “sự ngẫu nhiên trống rỗng của số phận”, nghi ngờ năng lực của ông ta trong việc mang croix de Lorraine(16) một cách lịch sự tới vũ đài chính trị ở Trùng Khánh. Mặc dù có sự chống đối do M.5 để lộ ra, Sabattier vẫn quyết định thiết lập một sở chỉ huy ở Côn Minh cho các lực lượng Pháp và đã ra lệnh cho Alessandri tiếp tục tổ chức và huấn luyện trong khi ông ta đến Trùng Khánh để thảo luận về việc sử dụng các đội quân của Pháp với Wedemeyer và Hà Ứng Khâm. Sabattier có vẻ tự tin và tỏ ra rất ủng hộ những mục tiêu của Đồng minh, nhưng phái De Gaulle chỉ nhìn thấy có Đông Dương, và những ngày của Sabattier ở Trung Quốc không được bao nhiêu. ________________________________________ (1) thuộc tổ liên lạc 19, đội không quân thứ 14 (2) chỉ huy chiến dịch Poitou để thu thập tình báo ở vùng biên giới Cao Bằng (3) Ban tình báo (4) Cuộc gặp gỡ đầu tiên diễn ra ngày 27-4-1945 (5) Hiến binh Nhật (6) Các kho dự trữ của quân Pháp và Nhật (7) chỉ huy trung đoàn 9RIC (Cool chỉ người dân tộc thiểu số ở miền núi cực bắc Việt Nam (9) Sở mật thám Pháp (10) tức Đông Dương (11) Tất nhiên! (12) khi đó là Tổng chỉ huy lực lượng chiếm đóng Đông Dương phía bắc vĩ tuyến 16 (13) trưởng đoàn cố vấn và viện trợ quân sự Mỹ cho quân đội Trung Quốc chiếm đóng Việt Nam (14) từ ngữ mà De Gaulle dùng để nói về việc bắt cầm tù Mordant tiếp sau cú 9-3 (15) G. Sabattier, “Số phận của Đông Dương” (16) huân chương Loraine Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #28 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2008, 04:03:25 PM » Chương 10 Một phiên họp của “bộ óc” ĐỘI OSS Vào lúc tôi rời Szemao ngày 12-5, Spaulding cùng với một đội 20 người đang điều khiển sau trạm thu tin dọc biên giới, tôi rất hài lòng. Trở về Côn Minh, tôi suy ngẫm làm sao để mở rộng những hoạt động của chúng tôi ở bên trong bằng những phương tiện của Sabattier và của ông Hồ có tại chỗ. Hồi đó Ban tham mưu của tôi ở Côn Minh đã tăng thêm những người mới từ Mỹ đến: trung uý (sau đó là đại uý) Roger P. Bernique, thuộc Lục quân; trung uý (sau đó là đại uý) Carleton Swift Jr., thuộc Hải quân và nhiều lính nghĩa vụ có trình độ cao được huấn luyện về tiếng Pháp và tiếng Việt. Với đội ấy và với sự giúp đỡ của những chuyên viên khác ở ban tham mưu OSS, chúng tôi bắt đầu cuộc hoạt động SI đối với Đông Dương trên qui mô đầy đủ. Ngay trước khi tôi bay trở về, một chỉ thị mới của chiến trường đã chỉ thị cho OSS “ngăn cản sự vận chuyển và phá hoại đường bộ và đường sắt từ Trấn Nam Quan đến Hà Nội”. Chỉ thị có một giọng cấp bách khác thường: “…trong trường hợp tất cả các đường sắt nằm trong hoạt động này, những đường sắt nào có thể tháo dỡ được thì… phá hủy, cả cầu và đường hầm cũng phá hủy. Ít nhất phải có những khúc đường bộ hay đường sắt dài 10 dặm sẽ không thể hoạt động được nữa. Không để cho người Nhật sử dụng đuờng giao thông… tâấ cả các hầm hố và các ụ đất (sẽ) được gài mìn… (và phải) tiến hành việc phá hủy các kho tàng tiếp tế của Nhật trong hoặc gần Hà Nội… các đội quân phá hoại phải bắt tù bình khi nào có thể đuợc”. Helliwell và tôi thảo luận bức điện ấy. Thật lạ lùng, chỉ thị quá chi tiết nhưng lại không xác định được mục tiêu rộng lớn; và chúng tôi đều ngạc nhiên về một anh chàng tài tử nào đó ở Bộ tham mưu đã vạch ra chỉ thị đó. Đây là một công việc thuộc SO/OG(1) chứ không phải thuộc SI, nhưng chúng tôi cũng hỏi Helliwell xem ông ta có chỉ thị gì cho tôi không. “Ngài đại tá hay nổi khùng” ấy, như ở một vài cơ quan thường gọi Helliwell như vậy, cáu kỉnh nói: “Đây là khu vực của anh, anh hãy tới đó”. Rõ ràng đó là lần đầu tiên tôi được báo cho biết là sựu phân công của tôi đi xa hơn việc tình báo bí mật. Với một giọng có phần gay gắt, Heliiwell báo cho tôi biết rằng nhiệm vụ của tôi bao hàm toàn bộ những hoạt động bí mật và chiến tranh chính trị. Helliwell nói rằng những chỉ thị của tướng Donovan cho Heppner đã đặc biệt nhấn mạnh rằng Whitaker và tôi sẽ chịu trách nhiệm trước ông ta(2) về những hoạt động ở Đông Dương. Vào lúc tôi vừa mới bắt tay vào hoạt động SI, tất cả những điều đó làm cho tôi ngạc nhiên phần nào nhưng Helliwell tiếp tục bảo đảm với tôi là tôi sẽ được tiếp xúc và được sự ủng hộ đầy đủ với tất cả các bộ phận tham mưu và ông ta tin rằng họ sẽ cộng tác với tôi. Ngày hôm sau, Heppner, Whitaker và Quentin Roosevelt(3) từ Trùng Khánh đến ở lại đây một thời gian ngắn. Họ cùng nhập bọn với Helliwell, Duncan Lee và tôi trong một dịp hiếm có - một bữa ăn Trung Quốc được sửa soạn đặc biệt với nhiều món ăn và chúng tôi ngồi nhắm rượu trắng Trung Quốc với rượu mạnh Ecosse của Anh suốt đêm. Những chuyến đi thăm thường xuyên lẫn nhau giữa cái nhóm nhỏ bé tin cậy nhau của chúng tôi được coi như những phương tiện duy nhất để chúng tôi quan hệ với nhau và trao đổi ngay thẳng với nhau những tin tức và quan điểm về chính sách và những hoạt động của Mỹ và tăng cường những liên hệ làm việc của chúng tôi bằng một mối quan hệ cá nhân. Heppner có một cái đầu lạnh và chúng tôi biết dựa một cách tin cậy vào sự phán đoán vững chắc của ông ta. Ông ta rất lịch thiệp và được ban tham mưu của mình ủng hộ mạnh mẽ, nhưng khi cần có thể cứng rắn được. Được tướng Donovan hoàn toàn tin cậy và được biết riêng về những cuộc thảo luận của Nhà Trắng, ông ta thường đụng phải vấn đề tế nhị nhất với các thủ lĩnh Trung Quốc, nhưng ông ta không bao giờ tỏ ra một thái độ quá bận rộn với một sự mệt mỏi khi nghe hay xem xét những vấn đề của chúng tôi, hoàn toàn ngược lại, bao giờ ông ta cũng vui vẻ và sẵn sàng. Whitaker dược Donovan giao cho thâm nhập các giới của người Pháp ở Trùng Khánh để báo cho Washington những kế hoạch của Pháp. Đối với công việc được giao ấy, ông ta có lợi thế là đã trải qua 20 năm ở châu Âu như một nhà văn và nhà báo Mỹ. Ông ta có bạn bè ở khắp châu Âu, đặc biệt trong những người Pháp, và có một phong cách tao nhã, một nhân cách xuất sắc và một sự hiểu biết sâu sắc về chính trị châu Âu. Ông ta có mặt trên sân khấu với tư cách là một nhà báo khi Hội Quốc liên suy tàn và chết, đã tới Matxcơva để tìm “sự thật” và trở về vỡ mộng, và đã viết cả một loạt bài từ Ethiopia đến Tây Ban Nha và từ cuộc thanh lọc của Hitler năm 1934 đến cuộc chính biến ở Viên với tư cách phóng viên chiến tranh.
Ông ta cảm thấy rằng mình bị ràng buộc một cách sâu sắc với cuộc chiến tranh chống nước Đức và nước Nhật, và hy vọng nước Mỹ cuối cùng sẽ khắc phục được sự yếu ớt của mình là cái đã từng phá hoại Hội Quốc liên cũ. Helliwell là một nhân vật quyết định và ông ta đau khổ như một người đang ốm ở khi những quyết định chính trị làm trì hoãn những kế hoạch và hành động của mình. Ông ta ít tỏ ra sôi nổi, nhưng thỉnh thoảng những cơn bực dọc của ông ta làm cho ông ta trở nên giận dữ, ông ta không phải là một người ưa những sự nhỏ nhặt hay những ác cảm. Khi khí sắc tươi tỉnh, ông ta hăng hái thúc đẩy mọi hoạt động, ủng hộ và khích lệ, lôi kéo mọi người theo mình và tự mình lao vào việc một cách hăng hái nhất. Quentin Roosevelt là cháu Tổng thống Theodore Roosevelt. Chắc chắn anh ta được đặt tên theo tên người chú đã bị giết trong Thế chiến thứ nhất. Hồi ấy anh ta mới 25 tuổi hay vào khoảng đó, và được bạn bè gọi là anh “Q”.
Anh ta có vẻ rất thoải mái trong môi trường Trung Quốc và nói tiếng Trung Quốc khá thành thạo. Bố anh ta, Theodore Roosevelt Jr., là một người bạn cũ và thân thiết của Tưởng và vợ. Điều rất quan trọng đối với chúng tôi là anh ta hiểu biết sâu sắc suy nghĩ của các cố vấn của Tưởng, anh ta cũng là một người bạn tốt và là một người kể chuyện tế thị. Duncan Lee là một nhà Trung Quốc học; đẻ ở Trung Quốc, bố mẹ là những nhà truyền giáo, nói thạo tiếng Trong Quốc, có phần văn vẻ nữa. Trong đời sống bình thường, ông ta là một luật sư cũng giống như những luật sư khác và cũng đã từng tốt nghiệp trường Đại học Oxford. Lee cũng đã từng làm trưởng chi nhánh Viễn Đông của OSS ở Washington, nơi chúng tôi gặp nhau lần dầu tiên, và kiến thức của ông ta rất có ích cho chúng tôi. Ông ta là người dễ ưa và dễ làm quen.
CARBONADO
Những tin tức quan trọng vào buổi chiều do Heppner cung cấp là tuyệt mật. Wedemever (vừa mới từ Washington về) đang chuẩn bị một cuộc tấn công đần tiên của Mỹ ở Trung Quốc, theo tên mật mã là Carbonado. Đó là một cuộc tấn công trên đất liền, dọc theo đường Quế Lâm - Liễu Châu - Nam Ninh để bảo vệ khu vực Quảng Châu - Hongkong, sau đó mở những cảng lớn ở phía nam Trung Quốc để tiếp nhận quân đội từ châu Âu và Phillipine đến.
Ngày mở đầu cuộc hành quân được dự định chỉ còn ba tháng rưỡi nữa, tức là vào ngày 1-9, và cuộc tấn công kết thúc vào ngày 1-11-1945. Để dạo đầu cho Carbonado, Wedemeyer cần mở một cảng nhỏ Fort Bayard (Chanchiang) nằm trên bán đảo Lôi Châu, cách Quảng Châu chừng 250 dặm về phía tây nam, như là một căn cứ tiếp tế sắp tới để duy trì cuộc tấn công Carbonado. Hepper nhấn mạnh tầm quan trọng của những hoạt động của OSS chúng tôi, vì Wedemeyer và Bộ tham mưu của ông ta buộc chúng tôi cung cấp rất nhiều tin tức tình báo và phải quấy rối người Nhật ở khu vực tấn công được dự tính. Tướng Mc Clure(4) cũng yêu cầu OSS mở đầu cuộc hành quân này bằng cách đánh du kích (SO), phá hoại (OG) và hoạt động tâm lý (MO).
Điều đó đặc biệt quan trọng để ngăn quân Nhật ở Đông Dương tăng cường những vị trí của họ nằm trên khu vực của những cuộc hành quân Carbonado. Tất nhiên, đó là những điểm đặc biệt trong bản chỉ thị mà Helhwell và tôi đã chế giễu. Whitaker nói rằng khu Hà Nội - Trấn Nam Quan sẽ là “người yêu” của tôi và tuyến Trấn Nam Quan - Nam Ninh sẽ bị hạm đội Mỹ cắt đứt. Khi báo cho tôi, Whitaker nói rằng ông ta đã gặp tướng Pechkov và Sabattier, thấy rõ họ sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi và hỏi ý kiến của tôi. Helliwell nhăn mặt, tôi nhận thấy thế, khi Heppner và Lee ngồi lùi ra với những bộ mặt nghiêm trọng còn Q thì nở một nụ cười sung sướng. Tôi suy nghĩ một lát và nói: “Chắc chắn như vậy, sao lại không?
Chỉ cần chúng tôi có đủ thời gian và được ủng hộ về hậu cần, và nếu như người Pháp không phản đối đánh nhau ở Trung Quốc”. Nhưng tôi nói với ông ta rằng, theo chỗ tôi biết về điều kiện của họ và về những kế hoạch của họ, tôi hoài nghi việc đánh nhau ở Trung Quốc được đặt lên một vị trí cao trong danh mục những ưu tiên của họ.
Hội nghị đã kết thúc với ý kiến thống nhất rằng tôi có thể càng sớm càng hay, thực hiện một cuộc thanh tra trên bộ tới Szemao(9) và dọc theo biên giới Đông Dương, cho khởi sự việc khôi phục lại nguồn tình báo, xác định tình trạng quân sự của Pháp và có khả năng thu xếp để tiếp xúc với các lãnh tụ Việt Minh. Về các mặt khác, trong số ít ngày đầu tiên của tôi ở Côn Minh, đã thể hiện ra một cách không được sáng sủa lắm. Tôi đã chẳng có tin tức gì về số nhân viên đã được đặc biệt chọn lọc mà tôi đã tuyển dụng tại Washington. Cuộc viếng thăm đầu tiên của tôi đến phái đoàn quân sự Pháp (M.5) (10) cũng chỉ mang lại cho tôi một sự thất vọng. Phái đoàn đang thay đổi bộ máy chỉ huy và trong một tình trạng hoàn toàn rối loạn. Trưởng phái đoàn mới thì vắng mặt, còn những người có mặt thì chẳng ai tỏ ra có trách nhiệm gì cả. Những ngày tiếp theo, tôi trở lại thăm thì tình hình cũng chẳng có gì khác hơn trước. Tại trụ sở BIS của tướng Tai Li ở Côn Minh thì sự tiếp đón hoàn toàn thân mật nhưng cũng không có gì đáng được tưởng lệ. Khá nhiều nước trà, nhiều nụ cười lịch sự và câu chuyện nói bằng tiếng Trung Hoa giữa những người phiên dịch cũng nhiều hơn. Và các vị khách của tôi chỉ nói rằng họ mới ở Tú Xuyên về và không hay biết gì về các hoạt động tình báo ở Vân Nam và Đông Dương. Helliwell và Dulin đã cấp cho tôi một bản danh sách các Việt kiều di cư do Cha Jean Tống, một thầy tu Thiên chúa giáo người Hoa dìu dắt. Nhưng sau nhiều cố gắng để tìm kiếm họ mà không có kết quả nên tôi đã bỏ qua. Suốt trong thời gian đó, Bộ Tư lệnh chiến trường vẫn tiếp tục đòi tin tức tình báo và nhấn mạnh việc OSS phải tiến hành quấy rối người Nhật dọc theo hành lang Hà Nội, Nam Ninh, Quảng Đông. Trong tình huống hỗn loạn lúc đó, nhiều toán OSS ở phía nam Trung Quốc và bắc Đông Dương đang bị mất liên lạc với Côn Minh, và đó cũng là một nguồn đẻ ra nhiều điều lo ngại nghiêm trọng. PHÁI VIÊN CỦA “TƯỚNG” HỒ Nhưng cũng đã có một sự kiện có tính chất tích cực đã xảy ra trong ngày đầu tiên tôi ở Côn Minh này. Việc tôi sục tìm các con chiên của Cha Tống chắc đã được bàn tán nhiều trong giới Việt kiều ở Côn Minh và tôi đã được một người là Vương Minh Phương tìm đến thăm. Giữa những lời xin lỗi quá thừa vì đã quấy quả tôi vào một chiều thứ bảy, Phương tự giới thiệu là hội viên Mặt trận Độc lập Đông Dương. Tên ông ta cũng không phải là mới lạ gì đối với tôi. Tôi đã bắt gặp cái tên đó trong bản báo cáo của Langdon nói về cuộc nói chuyện với các hội viên của Mặt trận vào tháng 8-1944. Phương mới ngoài 30 tuổi và nói tiếng Pháp lưu loát. Theo Phương kể thì Phương vốn là sinh viên trường Đại học Hà Nội và đã tới Trung Quốc vào mùa thu năm l943, sinh sống cạnh cơ quan OSS, trong khách sạn Quảng Lạc, 39 Tai Ho Gai. Phương có quen ông Glass ở OSS, đã từng cộng tác với Powell thuộc OWI và đã gặp thiếu tá Stevens(11) ở Trùng Khánh và ông Langdon ở Lãnh sự quán Côn Minh có biết. Rõ ràng là Phương quen biết toàn là những người đúng đắn nên tôi cũng thích thú chờ biết lí do cuộc viếng thăm. Phương giải thích là cần phải làm cho tôi biết rõ rằng nhũng người mà tôi đang tìm kiếm không phải là “những người Việt Nam tốt nhất” ở Côn Minh mà họ đều là nhân viên của hai công ty do Pháp đỡ đầu(12) liên kết Hoa Việt Cách mạng Đồng minh Hội. Họ đã được định cư ở Trung Quốc và tự coi mình là người dân Trung Quốc. Phương nói, còn những người Việt Nam tha thiết đánh “phát xít Nhật” thì đều thuộc mặt trận của Phương, được nhiều người biết với cái tên là Việt Minh mà lãnh tụ là “tướng” Hồ Chí Minh. Phương mặc âu phục, tỏ ra là một người có học thức tốt và hoàn toàn thông thạo về vấn đề chiến tranh nói chung, và tất nhiên là giỏi về vấn đề Đông Dương. Phương quen thuộc với OSS và AGAS hơn là tôi đối vối Mặt trận Việt Minh của ông và ông ta cũng biết về tôi nhiều hơn là tôi biết về ông ta. Tôi lắng nghe ông lái một cách tài tình câu chuyện sang mục đích thực sự của cuộc viếng thăm. Với một chút tự hào, Phương đã kể lại về các đồng sự của ông ở Đông Dương và Trung Quốc đã làm việc một cách rất chặt chẽ với một số người Mỹ của tướng Chennault và OSS, đã cung cấp tin tức về đội hình chiến đấu của quân Nhật và về các mục tiêu tình báo. Phương có nói đến hoạt động tình báo của OSS - AGAS mà Việt Minh có góp phần giải thoát “nhiều” phi công của Mỹ qua việc cung cấp chỗ trú ẩn và hướng dẫn họ đến nơi an toàn. Sau đó Phương trượt nhẹ sang lĩnh vực chính trị, bình luận rằng người Việt Nam rất biết ơn người Mỹ về sự thông cảm đối với quyền lợi các dân tộc, sự quan tâm của họ đối với vấn đề thuộc địa và đã ghi nhận rằng cố Tổng thống Roosevelt trong nhiều dịp đã công khai ủng hộ độc lập chính nghĩa của họ. Tôi đã ngắt lời và nhắc với ông là tôi không phải là một nhà ngoại giao, cũng chẳng phải là một nhà chính trị mà chỉ là một quân nhân. Với nụ cười thông cảm, Phương chống chế là đã quá phấn khởi vì đã có cơ hội để diễn đạt trước một quan chức Mỹ về những tình cảm tốt đẹp của nhân dân ông ta đối với nước Mỹ. Rồi sau đó Phương lại nói về các khả năng quân sự của Việt Minh. Theo Phương, Việt Minh mặc dầu là một mặt trận chính trị nhưng cũng đồng thời là một lực lượng vũ trang, tổ chức thành những đơn vị du kích và đã tích cực tiến hành một cuộc chiến tranh không chính thống chống lại Nhật. Phương nói rộng ra là bên cạnh những trận ném bom của Đội không quân thứ 14 thì không còn có một lực lượng nào khác ngoài Việt Minh đã chống cự lại với “kẻ thù chung”. Người Pháp “chưa bao giờ đánh lại bọn phát xít ở Đông Dương và đã từ lâu họ không còn ở đó nữa”. Còn Việt Minh lại có lực lượng trên đất liền, đã quyết tâm và có khả năng “chiến đấu sát cánh” với Mỹ và các nước Đồng minh của Mỹ. Trưa đến, tôi mời Phương dùng cơm ở nhà ăn OSS rồi sau đó sẽ tiếp tục câu chuyện. Phương tỏ ra vui lòng được nói chuyện thêm nhưng đề nghị đến ăn ở một khách sạn địa phương Trung Quốc cho đỡ lộ liễu. Chúng tôi liền đến một quán cơm bình thường ở gần trường Đại học Vân Nam và các toà lãnh sự Mỹ, Anh. Trong bữa ăn, tôi khuyến khích Phương nói về Việt Minh, lập trường, mục đích của Mặt trận và theo ý họ thì làm thế nào để có thể giúp cho Đồng minh đánh Nhật và họ có thể mong đợi gì ở các nước Đồng minh. Theo lời phát biểu của Phương (mà tôi đã tóm tắt lại để ghi vào băng ngay hôm đó): Việt Minh là một liên minh các đảng phái của những người quốc gia Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, được tổ chức theo đường lối của Đảng nhằm mục đích trước mắt là đánh đuổi người Nhật và ngăn ngừa Pháp quay trở lại. Cuối cùng, Việt Minh hy vọng thành lập được một “Cộng hòa Đông Dương độc lập, dân chủ”. Phương tin rằng mặt trận có thể cung cấp cho Đồng minh những tin tức có ích về người Nhật, người Pháp và bọn bù nhìn ở Đông Dương. Họ có thể cộng tác với người Mỹ trong các hoạt động phá hoại, biệt kích và các trận đánh khác chống Nhật; họ sẽ hướng dẫn và giáo dục cho người Việt tiếp tục giúp đỡ cho các nhân viên hàng không Mỹ bị hạ và đưa họ đến những nơi an toàn. Đổi lại, Việt Minh chỉ yêu cầu Mỹ công nhận Liên minh Độc lập Đông Dương là tổ chức duy nhất hợp pháp và được phép đại diện cho nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống bọn phát xít và yêu cầu Mỹ cung cấp cho họ phương tiện để chiến đấu bên cạnh các nước Đồng minh. Khi tôi hỏi lại họ cần gì thì Phương đáp: “Vũ khí, đạn dược, cố vấn, huấn luyện viên và phương tiện thông tin liên lạc với Bộ Tư lệnh Đồng minh”. Phương chờ trả lời nhưng tôi đã cảm ơn và nói rằng đề nghị của họ thật phong phú và rất hay nhưng tôi còn cần phải bàn với các cộng sự của tôi. Trong khi đó thì làm thế nào có thể gặp được “tướng” Hồ? Phương nói là trước đây mấy hôm ông có đến Côn Minh, nhưng nay đang trên đường trở về Việt Nam và có thể đang dừng lại ở Trình Tây. Phương có thể báo tin cho ông Hồ và tin chắc rằng ông sẽ vui lòng gặp tôi. Ông nói với Phương là tôi có thể đến Trình Tây nhưng phải đợi đến sáng hôm sau mới khẳng định chắc chắn được điều đó. Chúng tôi rời khách sạn khá muộn. Ngay chiều hôm đó, tôi bàn với Helliwell và Wampler về cuộc gặp gõ với Phương. Kế hoạch chung nhằm cộng tác với người Việt Nam mà chúng tôi đồng ý tiến hành mấy hôm trước nay lại có thêm một khía cạnh mới qua lời phát biểu khá đặc biệt của Phương. Sự khẩn khoản của họ đối với vấn đề công nhận chính thức là một vật chướng ngại quan trọng. Helliwell đồng ý với quan điểm được Heppner ủng hộ là không có vũ khí nào do OSS cung cấp lại được sử dụng để chống lại người Pháp. Nhưng Helliwell vẫn giữ quan điểm của mình là trong khi AGAS sử dụng Việt Minh vào các hoạt động của họ thì chúng ta cũng có thể mở rộng mạng lưới đó ra để bao gồm cả việc thu thập tình báo và đánh du kích. Đêm đó, Heppner đã từ Trùng Khánh đến và chúng tôi đã đề đạt ngay ý kiến với Heppner. Thoạt đầu Heppner đã gạt bỏ và cho rằng ý kiến đó không thể thực hiện được về phương diện chính trị; ông đã gặp rất nhiều khó khăn với tướng Hurley(13) chung quanh việc những người Cộng sản Trung Quốc. Ông nói riêng cho chúng tôi hay rằng người phụ tá của ông, đại tá Bird(14), lúc đó đang công tác ở Diên An với đại tá David D. Barrett(15) để thu xếp một sự liên minh giữa những người Quốc dân đảng của Tưởng với nhũng người Cộng sản của Mao; và Hurley đã rất phẫn nộ với OSS, cho rằng OSS đã chen vào một việc mà ông cho đó là của Bộ Ngoại giao. Heppner tin chắc rằng người Trung Hoa sẽ đưa ra mọi sự phản đối về bất cứ một sự cộng tác nào với những người Cộng sản Việt Nam. Mà cả đến Đại sứ quán của chúng ta nữa cũng vậy. Và chúng ta cũng không được quên Phái đoàn Quân sự Pháp, chắc chắn là họ sẽ không hài lòng nếu họ thấy được là chúng ta đang điều đình với Việt Minh. Nhưng khi Heppner đã biết được người Pháp và người Trung Hoa tiếp đón tôi như thế nào thì ông cũng chấp nhận lập trường của chúng tôi, không có gì thay đổi thêm. Ông căn dặn tôi không được làm gì chống đối với người Trung Quốc cũng như với người Pháp vì ông và Whitaken cũng sẽ phải làm việc với họ ở Trùng Khánh, còn tướng Donovan thì đã được Nhà Trắng chỉ thị cho phải hợp tác với cả đôi bên. Chính vì thế mà vấn đề làm việc với Việt Minh đã được để lại sau này sẽ xem xét khi tình hình phát triển thêm. Sáng hôm sau, Phương, rất đúng giờ, đến cơ quan của tôi và cho biết đã gửi thư báo cho “tướng” Hồ nhưng không chắc là thư sẽ đến kịp trước khi ông Hồ rời đi biên giới. Phương gợi ý là nếu tôi có đến Trình Tây thì tôi nên dừng lại ở một quán trà nào đó và tìm một người Trung Hoa nói thạo tiếng Anh tên là Wang Yeh Li, người này có thể giúp tôi gặp được ông Hồ nếu ông còn ở đó. ________________________________________ (1) trưởng ban mật vụ SI, OSS Côn Minh (2) Kế hoạch hoạt động của OSS ở Bắc vĩ tuyến 16 Đông Dương (3) Cơ quan nghiên cứu và phân tích, OSS (4) Trợ lý Tham mưu trưởng, Cục tác chiến, VVD (5) Chennault, “Con đường của một chiến sĩ” (6) Tổng chỉ huy lực lượng Pháp ở Bắc Kỳ và Tổng đại diện Pháp ở Đông Dương sau khi Aymé và Mordant bị bắt. (7) Thị trấn biên giới Trung Hoa, giáp với thị trấn Móng Cái (Cool Đầu tháng 3, Helliwell đã cho phép lấy ở kho OSS 6 khẩu Colt 45 và nhiều đạn giao cho AGAS để chuyển cho ông Hồ (9) còn gọi là Fu Hsing Chen, một thị trấn cổ, cách Côn Minh 200 dặm về phía nam. (10) Đây có sự nhầm lẫn. Chỉ có một phái đoàn quân sự Pháp bên cạnh chính phủ Trung Quốc ở Trùng Khánh, dưới quyền tướng Pechkov; còn M.5 ở Trùng Khánh chỉ là một đơn vị của SLFEO/Calcutta, phụ trách về các hoạt động bí mật ở Đông Dương (11) đại diện OSS ở Đại sứ quán Mỹ ở Trùng Khánh (12) Hội tương tế và Hội thể thao của người An Nam ở Vân Nam (13) Đại sứ mới thay cho Gauss từ tháng 1-1945 (14) đại diện OSS/Chiến trường Trung Hoa (15) thủ trưởng Nhóm quan sát Mỹ (DIXIE) ở hành dinh Cộng sản Trung Quốc ở Diên An Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #21 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2008, 03:51:33 PM » Chương 8 Vấn đề mới của Pháp CUỘC ĐẢO CHÍNH MỒNG 9-3 Trước khi rời Szemao, tôi may mắn được đọc một bản báo cáo thảo ra dựa trên cơ sở của cơ quan R&A thu lượm những mẩu chuyện của những người Pháp dân sự và quân sự tị nạn và của OWI rút ra từ các bản tin phát nhanh của Nhật. Bản báo cáo tổng hợp những tin tức về “coup de force”(1) ngày 9-3 và hậu quả của nó, đã giúp cho tôi được rất nhiều trong khi tôi đi thị sát chiến trường. Qua bản báo cáo, tôi được biết là chiều ngày 9-3, đại sứ Nhật Shunichi Matsumoto và Tổng lãnh sự Kono đã triệu Toàn quyền Decoux đến để ép Pháp phải có một sự cộng tác nhiều hơn và chân thành hơn với người Nhật. Kono đòi hỏi một sự gia tăng quy mô lớn của Pháp vào “quỹ chiến tranh” của Nhật, giảm bớt các biện pháp hạn chế việc thu mua thóc gạo của quân đội Nhật và bảo đảm sẽ không huỷ bỏ thoả hiệp Liên minh phòng thủ Pháp - Nhật ở Đông Dương. Decoux chần chừ nói rằng cần phải có thời gian để trao đổi với Chính phủ của ông ở Hà Nội. Cho rằng Decoux tìm cách lảng tránh, đến 6 giờ chiều ngày hôm đó, Đại sứ Nhật gửi cho viên toàn quyền một tối hậu thư. Lần này yêu cầu của người Nhật được nêu rõ ràng: người Pháp phải cùng với người Nhật phòng thủ Đông Dương trong trường hợp có cuộc xâm lăng của Anh - Mỹ; tất cả các lực lượng quân sự và cảnh sát của Pháp phải đặt dưới quyền chỉ huy và kiểm soát của quân đội Nhật; Pháp phải giao cho Nhật tất cả các hệ thống thông tin liên lạc, vận tải, hệ thống ngân hàng và các cơ quan hành chính. Các điều khoản trong tối hậu thư phải được chấp nhận vô điều kiện trong vòng 2 giờ. Đến 10 giờ 15 tối, quá hạn 2 giờ ấn định trong tối hậu thư, người Nhật nhận được công hàm của Decoux báo cho biết ông cần nhiều thời gian hơn nữa để còn “trao đổi ý kiến”, Matsumoto liền ra lệnh cho quân đội nắm quyền và đặt Decoux dưới sự “canh giữ bảo trợ” của quân đội. Đến 2 giờ sáng (giờ Tokyo) ngày 10-3, Tổng hành dinh Thiên hoàng ở Tokyo ra thông báo về việc tiếp quản ở Đông Dương và nói rõ đó là do Bộ chỉ huy quân đội Nhật ở đó chủ động tiến hành. Tiếp đó, vào 9 giờ sáng (giờ Tokyo), sau một buổi họp nội các đặc biệt ở Hoàng cung, Chính phủ Tokyo công khai thừa nhận quyết định quân sự nói trên và đề xướng ra chính sách ủng hộ nền độc lập của Việt Nam: “Ngay sau khi Đông Duơng tỏ ra có dấu hiệu đang tiến lên thành một nước độc lập thì Chính phủ Nhật nhất định giúp đỡ cho các dân tộc này đạt được “sự độc lập chủng tộc chân chính” dựa trên cơ sở những nguyên tắc đã được nêu lên trong bản tuyên ngôn chung của các nước Đại Đông Á”. Khi người Nhật trong buổi chiều ngày 9 đang làm áp lực để người Pháp gia tăng sự ủng hộ cho Nhật thì Hoàng đế Bảo Đại của An Nam trong bản thông điệp nhân dịp năm mới (Tết) ca ngợi Pháp và nêu lên rằng: “Nước Pháp đã phải chịu rất nhiều đau khổ để khôi phục lại đất nước và sự phục hưng đó là điềm báo hiệu của một thời kỳ hoà bình và thịnh vượng mà trong đó tất cả các dân tộc sống dưới sự bảo hộ của Pháp sẽ được thừa hưởng”. Ông ta còn nói: “Chúng ta tha thiết cảm ơn đô đốc Decoux, người đã lái con tàu Đông Dương qua cơn bão táp của thế giới. Nhờ đô đốc mà Đông Dương được hưởng hoà bình và an ninh”. Hai ngày sau, trong một cuộc trở mặt vô liêm sỉ, Bảo Đại đã bác bỏ Hiệp ước Bảo hộ Pháp - An Nam 1884, tuyên bố độc lập của Vương quốc An Nam và tham gia khối các nước Đại Đông Á. Hoàng đế hứa đem tất cả quyền lực của nhà vua ra để cộng tác với người Nhật, tin tưởng ở sự thành thật và thiện chí của đế quốc Nhật. Đến ngày 13-3, Hoàng thân Norodom Shihanouk ở Kampuchia cũng chuyển theo tình hình và tuyên bố đất nước ông độc lập. Ông ta công khai phát biểu: “Vương quốc Kampuchia đã lâu không còn cần đến sự bảo hộ của nước Pháp, vì vậy tuyên bố Hiệp ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp là không còn hiệu lực... đặt sự tin tưởng tuyệt đối vào Đế quốc Nhật... Kampuchia quyết tâm hợp tác với Nhật…”. Một tháng sau, vua Sisavang Vong của Luang Prabang ở Lào cũng đi theo các vị Hoàng thân láng giềng, tuyên bố nước Lào không chấp nhận sự ràng buộc của người Pháp nữa và hoan nghênh người Nhật như là bạn bè và Đồng minh. Ở Đông Dương, người Nhật đã nhanh chóng tuyên bố thiết quân luật, tước vũ khí và giam giữ các lực lượng quân đội và cảnh sát, bắt giữ các nhà cầm quyền quân sự và dân sự chủ yếu, đặt lệnh giới nghiêm, kiểm soát giao thông và tiếp quản toàn bộ cơ cấu bộ máy hành chính. Ngày 11-3, Bộ Tư lệnh tối cao Nhật công bố tên một số người đã bị bắt gồm Decoux, các tướng Aymé, Mordant và chánh sở mật thám Đông Dương nổi tiếng Louis (Paul) Amoux, người đã truy nã Hồ Chí Minh từ 1919. Các sĩ quan nghiên cứu của OSS cho rằng sự sụp đổ của Pháp là do kế hoạch tổ chức kháng chiến của Mordant tồi, do họ không hoàn toàn coi trọng nguyên tắc hoạt động bí mật, và do thiếu một sự phối hợp giữa các phần tử quân sự và dân sự của cái gọi là phong trào kháng chiến. Điều đó quá rõ ràng vì trong ngày 8-3 đã có một viên chức cảnh sát Việt Nam, mật vụ của SLFEO, đã báo cho Mordant biết là người Nhật có kế hoạch vô hiệu hoá quân đội Pháp vào một lúc nào đó giữa ngày 8 và ngày 10 tháng 3. Ở Hà Nội, Mordant và Aymé đã đánh giá thấp tin báo của người mật vụ SLFEO. Mordant cho rằng dù sao đi nữa thì cơ quan quân sự tình báo cũng chẳng có tín hiệu gì về vấn đề này, còn bên dân sự lại thường có xu hướng khuếch đại sự việc. Chỉ có tướng Gabriel Sabattier, chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Kỳ và là thủ lĩnh của phong trào kháng chiến miền Bắc, đã coi tin báo đó một cách nghiêm túc. Ông không hỏi ý kiến của Mordant hay Aymé, phát lệnh “tình trạng báo động thực sự” vào ngày 8-3 và rời khỏi Hà Nội để đến hành dinh dã chiến của ông. Sáng ngày 9, khi biết tin có cuộc “báo động” thật sự, Aymé liền quyết định bãi bỏ lệnh của Sabattier, cho là không cần thiết và chỉ làm cho người Nhật hoảng sợ không đúng lúc. Nhưng hành động của Sabattier đã làm cho Alessandri cảnh giác, ông rút ra ngoài doanh trại và cho quân vượt sông Đà và sông Hồng, di chuyển về núi phía bắc và tây Bắc Kỳ. Đến đêm ngày 9, khi người Nhật tấn công vào nơi có người Pháp ở thì Mordant và Aymé đều bị bắt làm tù binh và quân đội của họ đã không sẵn sàng để chống cự lại. Ngoài số khoảng chừng 99.000 sĩ quan và binh lính người Pháp ở Đông Dương, chỉ có gần 5.000 quân (thuộc quyền Sabattier và Alessandri) được bố trí theo kiểu để đánh chặn hậu ở phía sau là được rút về bên giới Lào và Trung Quốc(2). Suốt trong các ngày 10 và 11 tháng 3, đài phát thanh báo về tin cuộc đầu hàng “hoà bình” của các cứ điểm quan trọng của Pháp. Ngay ở các đồn xa xôi như Quảng Châu Loan (một nhượng địa của Pháp ở phía nam Trung Quốc) và Thượng Hải, với một đội quân thường trú 1.000 lính và 797 cảnh sát người Pháp, quân đội Pháp đã bị tước vũ khí mà không chống cự. Nhưng cũng có những ngoại lệ. Ở đó nổi lên những hành động dũng cảm và anh hùng. Ở đồn Lạng Sơn, độ 1.200 quân đã quyết chiến suốt trong 2 ngày. Bị áp đảo về số lượng, thiếu nước và đạn dược, vài trăm người sống sót đã phải đầu hàng Sư đoàn 37 Nhật, nhưng chỉ huy đơn vị này tức giận vì những tổn thất đã phải gánh chịu do sự ngang bướng của đồn quân Pháp gây ra nên đã ra lệnh tàn sát cho bằng hết số quân đầu hàng. Ở Đồng Đăng, quân Pháp cũng phải chịu một số phận tương tự, khi cũng bị chính viên tư lệnh nói trên sau khi đã được thêm một trung đoàn của Sư đoàn 22 tăng cường, đã tiến đánh và trừng phạt. Ở Hà Nội, quân Pháp ở trong Thành cũng chống cụ chút ít sau nhiều giờ nổ súng rời rạc. Cũng có người chết và bị thương, nhưng Nhật coi đó chỉ là một hành động để giữ thể diện. Ở Hoàng thành Huế, đội Bảo an Pháp đóng ở doanh trại trung đoàn 10 RIC(3) cũng cầm cự được đến nửa đêm ngày 10. Suốt miền trung Trung Kỳ và Nam Kỳ chỉ có một vụ chống cự nhỏ đối với Nhật. Trước cảnh ngộ đáng buồn của người Pháp, báo cáo của R&A nhận xét rằng với một sự chuẩn bị kháng chiến đã khá lâu năm và tất cả các đồn trại, kho tàng đều đầy ắp người và súng đạn như mọi người đều biết rõ, thì sự giải thích duy nhất có thể chấp nhận được về một cuộc đầu hàng nhanh chóng đó của Pháp là do thiếu sự thống nhất tổ chức và lãnh đạo. Một lý do phụ thêm vào đó nữa là có thể thiếu sự ủng hộ quần chúng, của những người Việt bị áp bức. Báo cáo của R&A thêm vào những đoạn trích trong công điện của Tổng Lãnh sự quán Langdon nói rằng người Pháp ở Côn Minhh đồng ý với luận điệu của Nhật, cho rằng người Nhật sở dĩ phải có hành động chống Pháp vì họ sự Pháp và Mỹ hợp tác với nhau trong trường hợp Mỹ đổ bộ vào Đông Dương. Langdon đã ghi: “...Nếu người Pháp cũng có một kế hoạch nào đó thì hiển nhiên họ đã không phối hợp với kế hoạch của người Mỹ và người Trung Quốc, và chờ đợi để sớm muộn cũng có lúc đưa ra thực hiện. Người Nhật đã chơi trội hơn người Pháp”. Trước khi tôi tới vùng biên giới, tin tức cuối cùng tôi nhận được là một trong những toán SI được nhảy dù xuống chỗ người Pháp đang rút lui. Quân của Sabattier và Alessandri đi theo hướng tây Hà Nội về phía Sơn La và Điện Biên Phủ. Sau khi sục tìm các tướng nói trên, một sĩ quan của chúng tôi đã bắt gặp Alessandri ngày 3-4 ở Phong Saly thuộc Lào, nhưng không thấy tung tích Sabattier. Viên sĩ quan đã báo cáo là quân Pháp trang bị nghèo nàn và bị mệt mỏi, tinh thần thấp; để giảm bớt gánh nặng, họ đã bỏ lại nhiều vũ khí nặng và nhiều tấn đạn dược mà cũng không buồn phá huỷ đi nữa. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #22 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2008, 03:52:21 PM » NHỮNG HÌNH ẢNH ĐANG THAY ĐỔI Báo cáo của R&A chứa đựng một số nhận xét về mối quan hệ giữa người Pháp với người Việt, Trung Hoa và Mỹ. Các nhận xét đó rất đáng được bình luận vì chỉ dựa trên cơ sở một số sự kiện lúc đó chưa được hoàn toàn bộc lộ rõ với một khoảng thời gian ngắn ngủi vài tuần hay vài tháng. Về người Việt Nam: - Một mặt: theo Langdon: “Phản ứng của dân chúng An Nam đối với cú của Nhật hình như đã làm cho người Pháp hoang mang, chán nản. Mặc dù một bộ phận lớn quân đội còn tỏ ra trung thành, nhưng nhiều người trong số họ đã đi theo người Nhật, còn thường dân thì vẫn giữ thái độ nói chung là thụ động và thờ ơ. - Mặt trái lại: Trong thực tế hơn 90% lính Việt Nam đã vứt bỏ vũ khí và trở về nhà khi họ biết rõ là phải sang Trung Quốc. Nhiều người đã đi theo phong trào chính trị giành độc lập ở Đông Dương và chỉ có một số rất nhỏ, chắc chắn không quá vài trăm, chạy theo Nhật. Rất nhiều nhà hoạt động chính trị trong giới quân sự đã chia xẻ số phận của họ với phong trào chống Pháp, chống Nhật. Ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn thấy có một số ít người Việt Nam mang băng tay “mặt trời mọc” và hợp tác với quân cảnh Nhật ở địa phương. Phần lớn họ là người thuộc các tổ chức bí mật thân Nhật bao gồm Cao Đài, Hoà Hảo và các phần tử tôn giáo và bảo hoàng ở Đông Dương. Những người hoạt động chính trị Việt Nam thuộc ba phong trào quốc gia chủ yếu: Việt Nam Quang phục Hội, một tổ chức bí mật thân Nhật, chủ trương bảo hoành, Việt Nam Quốc dân đảng dựa vào Chính phủ Trùng Khánh và được Trung Quốc ủng hộ và Đông Dương Độc lập Đảng, một mặt trận cộng sản theo Matxcơva. Điều người Pháp thất vọng đối với người Đông Dương không phải ở chỗ họ tỏ ra thờ ơ mà ở chỗ người Pháp cho là họ bội bạc. Trong hơn 80 nam, thực dân Pháp đã cho lan truyền câu chuyện thần thoại gán cho người Pháp vai trò của nhà khai hoá, ân nhân và là người bảo hộ vĩ đại của nhân dân Việt Nam “nghèo túng, bơ vơ và thấp hèn”. Trong câu chuyện đó, người Pháp ở Đông Dương có quyền đòi hỏi phải được người dân “bản xứ” lệ thuộc yêu quý và phục dịch và đồng thời lại có quyền xử phạt khi người “bản xứ” không làm được những việc hèn hạ của mình. Qua thời gian, câu chuyện thần bí đã biến thành sự thực trong đầu óc của người Pháp và chi phối cuộc sống hàng ngày của họ. Điều đó đã quá ăn sâu vào tính nết của người Pháp nên đã không gạt bỏ đi được ngay cả sau các sự kiện ngày 9-3. Trong những giờ “bi thảm” của cuộc đấu tranh chống Nhật, mặc dù người Pháp bối rối bởi thái độ gia trưởng và bề trên của mình đối với người “bản xứ”, nhưng những người này vẫn tỏ ra nhã nhặn và không gay gắt gì đối với người Pháp. Người Việt đã giúp đỡ cho các ông chủ cũ của họ trốn tránh trước sự truy lùng của kẻ thù, chỉ dẫn cho họ vượt rừng rậm để sang Tnmg Quốc và có khi còn cho họ ẩn nấp ngay trong nhà mình một thời gian. Rõ ràng đối với người Pháp đang chạy trốn thì đây không phải là do lòng trung thành hay vì sợ sệt mà chính là trên cơ sở nhận thức được rằng họ, người Việt Nam, đang bước vào một thời đại mới. Vai trò của họ bất chợt đã được đảo ngược. Người Việt Nam không còn là dân thuộc địa lệ thuộc mà là người công dân tự do và độc lập của chính đất nước họ. Họ đã không hành động với tinh thần trả thù trong những ngày đầu tiên đó mà chỉ với động cơ mong muốn giải thoát cho đất nước họ khỏi gánh nặng người Pháp. Trong tháng 4-1945, người Pháp đã không thể hiểu nỗi được phản ứng của người Việt Nam; họ chỉ có thể cảm thấy chán ngán. Về người Trung Hoa. - Một mặt: quan hệ Pháp - Hoa đã không phải là hoàn toàn thân thiết. Nhiều lắm thì cũng chỉ có thể coi các quan hệ đó là vừa phải và đúng đắn. Langdon đã báo cáo rằng phản ứng của người Trung Quốc đối với cú mồng 9-3 của Nhật “được coi như là một lời cảnh cáo đối với sự an ninh của Vân Nam, do đó những biện pháp được thi hành (tháng 3-1945) phản ảnh một thái độ thụ động”. - Mặt trái lại: Tưởng đã rất phiền lòng trước sự xoay chuyển tình hình ở Đông Nam Á, vì nó làm tổn hại đến địa vị quân sự của ông ở Miến Điện và Trung Quốc. Ông ta đặc biệt bực mình với người Pháp về chỗ sau khi đã đẩy cho Nhật tiến hành cú 9-3, họ đã không gây được cái gì coi như một cuộc kháng chiến đáng tin cậy để có thể buộc Nhật rút bớt đi một số lực lượng từ các mặt trận của người Trung Hoa ở Miến Điện và Trung Quốc. Không những thế, họ lại không giữ được nguyên tình trạng ở đó và làm cho quân đội Tnmg Quốc bị uy hiếp một cách vô ích bởi một cuộc tiến công của Nhật vào phía sườn đã yếu hướng tây nain. Hơn nữa, người Pháp đã làm cho vấn đề phúc tạp thêm qua việc rút quân sang đất Trung Quốc và tạo nguy cơ để Nhật rượt đuổi theo vào Vân Nam và Quảng Tây, gây ra những vấn đề khó khăn về chính trị và tiếp tế hậu cần. Quan hệ Pháp - Hoa còn bị những sự chống đối nhau trong cấp cao nhất của Quốc dân đảng Trung Quốc làm cho nghiêm trọng thêm. Nhiều người Trung Quốc quyền thế đã va chạm vào quyền lợi với các nhân viên trong bộ máy cai trị của Decoux suốt trong những năm chiến tranh, họ cũng xung khắc với sự hoạt động của các phần tử theo De Gaulle ở Trung Quốc và Đông Dương. Tỷ dụ như tướng Hà Ứng Khâm đã tỏ ra bực bội vì quân đội nước ngoài vào đất Trung Quốc và đã xem việc người Pháp rút lui là một điều đã có ảnh hưởng xấu đến mối bang giao giữa ông Hồ và Wedemeyer mà ông ta cho là có cảm tình với Pháp. Mặc dù bề ngoài tướng Hà đóng vai trò của một nhà bác ái và đã tự mình cấp tất cả “giấy phép và giấy thông hành để cứu trợ cho những người Pháp tị nạn, lòng tốt của ông chỉ làm chậm lại một quá trình và cung cấp cho cảnh sát, mật vụ có cơ hội để phân hóa và sàng lọc các phần tử xấu”. Tướng Long Vân ở Vân Nam, tỉnh mà người Pháp đi qua, cũng có nhiều va chạm từ trước với Pháp. Tướng Lư Hán, “cháu” của ông, đặc biệt ghét tướng Alessandri, người được nhiều người Trung Quốc gán cho là phải chịu trách nhiệm như là một trong những cố vấn chủ chốt của Catroux (và sau là Decoux) cho phép quân đội Nhật vào Đông Dương. Trong một thời gian dài, Tai Li đã xung đột với người Pháp ở Trung Quốc và Đông Dương về vấn đề hoạt động bí mật và buôn lậu. Các nhân viên OSS ở biên giới đã báo cáo về một điển hình người Trung Quốc chống lại người Pháp. Một đơn vị quân Pháp bị mất tất cả số lính người Việt, khoảng 3.000, bị tan rã hoặc chạy theo Việt Minh và bỏ mặc cho các sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp tự xoay sở lấy. Cuối cùng người Pháp cũng đến được điểm kiểm soát ở biên giới Trung Quốc gần Lào Cai nhưng phải chờ ở ngoài rừng cho đến tận khi được phép cho vào đất Trung Quốc. Về ngươi Mỹ: - Một mặt: Trong những tuần lễ đầu tiếp sau cú 9-3, người Pháp đã phê phán mạnh mẽ việc Mỹ đáp ứng lại những yêu cầu giúp đỡ của họ. Họ đã xin tiếp tế đạn dược. Nhưng đạn dược của chúng ta không thích hợp với vũ khí của họ. Họ đã yêu cầu vũ khí thì vũ khí của chúng ta lại chỉ dể dành riêng cho người Trung Quốc. Họ đã yêu cầu chi viện đường không và mặc dù điều đó không có trong kế hoạch của Đồng minh ở Trung Quốc. Đội không quân thứ 14 đã tiếp tế nhiều hơn mức phải làm. Họ đã yêu cầu được vận chuyển đến Trùng Khánh bằng máy bay quân sự nhưng người Trung Quốc đã không cho phép. - Mặt trái lại: Về sau cả thường dân lẫn nhân quân Pháp ít nhiều cũng đã đánh giá được quan điểm tiếp viện của Mỹ, cũng như những khó khăn thực tế của việc giúp đỡ các đồng bào của họ ở Đông Dương. Họ cũng đã thấy chúng ta đã cấp một số lớn chăn, mền, giường, thuốc và quần áo. Họ cũng công nhận không quân của chúng ta phối hợp với AGAS để sơ tán hàng trăm phụ nữ và trẻ em sang Ấn Độ, đã táo bạo cứu vớt những người thường dân Pháp bị rớt lại trong vịnh Hải Phòng. Nhưng ở các giới chính quyền vẫn còn rơi rớt lại một sự hằn học dân tộc. Thí dụ như khi tổ chức UNRRA(4) giúp đỡ cho khoảng 24.000 dân Pháp tị nạn rải rác tại các trạm tại Vân Nam, tướng Pechkov đã phản đối, cho là một điều sỉ nhục vì được cứu trợ bởi một cơ quan từ thiện chứ không phải được đối xử như một đồng minh quân sự hào hoa. Nhân viên Đại sứ quán chúng ta đã bắt buộc phải giải thích cho ông rằng UNRRA là một tổ chức quốc tế do Liên Hợp Quốc đỡ đầu, trong đó Pháp là một nước hội viên, nên nhận sự giúp đỡ qua UNRRA tức là Pháp chỉ tự giúp mình mà thôi. Tuy vậy, qua những lời kêu ca của Pháp, điều mà người Pháp ở cấp cao cảm nhận thấy bực bội nhất vẫn là việc tướng Wedemeyer kiên quyết đặt ra những hoạt động của Đông Dương và người Pháp ở Trung Quốc, công khai cũng như bí mật, dưới quyền kiểm soát của người Trung Quốc. ________________________________________ (1) cuộc đảo chính - tiếng Pháp (2) Trong đó chỉ có 2.100 người Pháp, còn lại là người Đông Dương thuộc địa (3) Trung đoàn bộ binh thuộc địa (4) Tổ chức cứu trợ Liên Hợp Quốc Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #23 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2008, 03:53:30 PM » Chương 9 Một chuyến đi đến biên giới Trung Quốc [/b] TÌNH TRẠNG LỘN XỘN Chuyến đi vòng mở đầu của tôi ở miền nam Trung Quốc bắt đầu ở Szemao, ở sân bay bận rộn của mình(1), trung uý William A. Pye, người của trạm chúng tôi ở đây, đã đón tôi với nhiều chuyện phiền muộn về chủ trương phá rối của Trung Quốc, về những lời phàn nàn của người Pháp và về một cuộc tấn công “trước mắt” của Nhật Bản. Anh ta hoàn toàn thất vọng vì không thấy tiến bộ trong việc xây dựng một mạng lưới tình báo và gán vấn đề này cho thái độ không cộng tác của người Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Tai Li và cho sự thờ ơ của những người lánh nạn Pháp, họ đang cần giữ một khoảng cách giữa họ với người Nhật ở biên giói Đông Dương, cách đó chừng 40 dặm về phía nam. Chúng tôi lái xe đến trạm OSS, ở đó một người Pháp là thiếu tá De Monpezat(2) đang đợi chúng tôi. Ông ta mô tả tình hình ở Szemao như là một sự hỗn loạn cực độ. Những đội quân “Annamite” bỏ ngũ hàng đoàn. Người Trung Quốc không hề có một sự cố gắng nào để quan tâm đến điều đó hay để di tản những người Pháp lánh nạn sang Ấn Độ; nhiều người trong số đó thiếu ăn, rách rưới, mắc bệnh kiết lị, sốt rét và bị kiệt sức và hết sức cần đến một sự chăm sóc y tế. Dân lánh nạn đã đạt tới “con số vô cùng lớn là 3.500 người hay hơn nữa”. De Monpezat muốn biết xem chúng tôi có thể làm được gì về vấn đề này. Điều duy nhất mà tôi có thể làm được là xem xét qua và báo cho Trùng Khánh biết, nhưng tôi đã gợi ý cho ông ta cùng với Pye chuẩn bị một bản báo cáo dễ hiểu nêu lên những nhu cầu và nói chi tiết về số người lánh nạn và các loại yêu cầu nổi bật. Thiếu tá có vẻ hài lòng. Viên quan tòa nhăn nheo ở Szemao, Chao Cha Fung, cũng chờ đợi dể gặp tôi. Ông ta biết tin 400 người Pháp lánh nạn khác và nhân viên quân sự sẽ đến trong 4 ngày tới và bày tỏ nỗi lo sợ của ông ta là họ có vũ khí. Ông ta yêu cầu tôi khuyên các nhà chức trách Pháp thu vũ khí của những người lánh nạn ấy trước khi họ tới và đặt họ dưới sự bảo vệ của giới quân sự Trung Quốc. Tôi đã báo tin cho ông ta rằng đó là vấn đề của Pháp và Trung Quốc, không có liên quan gì tới người Mỹ. Tuy nhiên tôi nói thêm rằng theo tôi hiểu thì giới quân sự Pháp không bị giải giáp và đã được người Trung Quốc đưa đến những khu vực tập trung để chờ đợi quyết định của Trùng Khánh. Viên quan toà rõ ràng không thích thú với tin tức ấy và đoán trước về tình trạng rắc rối giữa giới quân sự Pháp và Trung Quốc nếu vấn đề không được giải quyết. Ông ta phàn nàn rằng người Pháp kéo đến đông đảo sẽ gây những thiếu thốn về nhà ở và lương thực, tình hình đã trầm trọng hơn vì ngôn ngữ bất đồng. Lính tráng đe doạ những người buôn bán địa phương vì khó mua hàng hóa hơn và giá hàng lên cao. Đối với tất cả những vấn đề ấy, tôi gợi ý ông ta nên hỏi ý kiến Trùng Khánh. Ông ta cảm ơn tôi vì sự “thông cảm” của tôi và rút lui. Những vấn đề ở trạm OSS thật hỗn độn. Nhiều sĩ quan OSS đã đến biên giới một tháng, nhưng không ai biết chính xác mình đến đâu. Những yêu cầu cấp bách của các tiền đồn OSS khác nhau đã bị chất đống ở Szemao mà không được giải quyết. Tôi yêu cầu Pye đưa công việc vào trật tự đến mức cao nhất và điện cho Helliwell phái thêm một người nào đó đến để giúp thêm cho Pye để cho anh ta có thể về Côn Minh báo cáo về tình hình người Pháp và về công việc của trạm. Sáng hôm sau, tôi lên máy bay đến Trình Tây (Ching Hsi) cách đó 300 dặm. Dọc đường chúng tôi dừng lại ở tiền đồn của chúng tôi tại Mương Sinh, một làng thuộc vùng núi Đông Dương, cách Szemao chừng 125 dặm. Chúng tôi dừng xuống đường băng một lát để xác định nó là một sân bay và đã gặp trung uý Charles D. Ambelang. Ba tuần nay, anh ta đã di chuyển từ đỉnh đồi này sang đỉnh đồi khác theo một con đường mòn đầy bụi, đặt các trạm nghe và sẵn sàng tháo gỡ ngay khi thấy quân Nhật di động. Đó là một nhiệm vụ hết sức khó khăn. Người Pháp không ở lại và người Việt Nam ở địa phương không thể được huấn luyện nhanh chóng để làm những thao tác vô tuyến điện. Tôi yêu cầu ông ta rời bỏ khu vực này, đến móc nối với nhóm của tướng Sabattier ở Phong Saly, và sau đó cùng với họ về Szemao, ở đó tôi sẽ gặp anh ta. Chỗ dừng sau đó của tôi là Mông Tự (Meng Tzu), thuộc Trung Quốc, một tiền đồn OSS khác, ở đó công việc kém sôi nổi hơn. Đội này đã thành công trong việc thu lượm một khối lượng khá lớn những thông tin về mệnh lệnh chiến đấu của Nhật và một ít tin tức tình báo chính trị về những liên hệ Pháp - Nhật ở Hà Nội và Hải Phòng. NGÔI NHÀ AGAS Cuối cùng, một giờ trước lúc hoàng hôn, tôi hạ xuống Tepao, phía bắc Trình Tây, và đi tới ngôi nhà AGAS. Chúng tôi dự một bữa ăn do một sĩ quan Pháp mời, những người đó đang làm việc với GBT và cộng tác với AGAS. Nóng người lên vì rượu cognac tuyệt vời của Pháp, câu chuyện của chúng tôi tình cờ đụng tới chuyện nghề nghiệp, người Pháp phàn nàn về những điều rủi ro của họ và trách móc “các nhà chính trị”. Là một người khách, tôi tránh tranh cãi khi một người nào đó nhắc tới những người “Annamites” như những người “không thể tin cậy” được và nói chung đó là một “vấn đề”. Để giữ câu chuyện dừng lại ở đề tài này, tôi nói với họ là tôi đã gặp một thành viên của Liên minh Độc lập Đông Dương, người đó nói tổ chức này không phải là một tổ chức chống Pháp, mà chỉ chống phát xít. Điều đó gây ra một sự tranh cãi, tôi ngồi lùi ra và lắng nghe. Người Mỹ giữ lập trường cho rằng người Việt Nam có thể cực kỳ có ích. Họ biết rõ địa hình, họ kín đáo và họ dễ huấn luyện. Họ tuyệt nhiên không phải là những người chống Pháp, bằng chứng là nhiều người Việt Nam phục vụ trung thành trong hàng ngũ quân đội thuộc địa Pháp. Dù sao, khi còn cần thiết, họ không có sự lựa chọn nào ngoài việc tuyển mộ người Việt Nam và điều đó có thể làm được. Các sĩ quan Pháp chỉ thừa nhận đó là những tay chân riêng biệt, được M.5 của Pháp sàng lọc, có lẽ chỉ một số ít được sử dụng dưới sự giám sát của Pháp nhưng phải theo một sự hoạch định thận trọng và được bảo đảm hết sức an toàn. Họ khuyên tôi nên thận trọng hơn với Liên minh và tổ chức theo xu hướng Matxcơva của nó là Việt Minh. Tôi rất chú ý tới một điều người ta nói là “một số người Lê dương Nga trong sư đoàn Alessandri đã bị kết án vì những hoạt động nổi loạn trong phong trào độc lập của người An Nam trong nấy năm vừa qua”. Ông nói rằng Việt Minh ở Đông Dương cổ động dân chúng bản xứ đã lâu rồi và đám dân chúng rộng lớn thì theo “chủ nghĩa chủng tộc và thân Nhật”. Nếu họ giành được chỗ đứng ở Đông Dương, thì điều đó báo hiệu sự kết thúc ảnh hưởng của người da trắng ở Đông Nam Á. Họ nhắc nhở tôi rằng nếu không có gần 80 năm sống dưới sự “nhân từ” của người Pháp thì người An Nam đã phải quỳ gối xuống trước người Trung Quốc mà không hưởng dược cái lợi của nền văn hoá phương Tây và Pháp. Không cần phải làm cho các vị khách người Pháp phải nổi giận, tôi đồng ý là nước Pháp chắc chắn đã góp phần vào việc phương Tây hoá Đông Dương, nhưng vấn đề sắp tới là làm thế nào để khôi phục một cách tốt nhất sự tiếp xúc với bên trong và đưa họ tới chỗ chống lại kẻ thù chung của chúng ta là người Nhật. Một người AGAS trở lại ý kiến lúc đầu của mình là có thể sử dụng người Việt Nam và nước Pháp thừa nhận đó là một biện pháp, nhưng vẫn giữ ý kiến là điều đó có thể gặp nguy hiểm. Sau đó câu chuyện chuyển sang những đề tài khác. Khi các vị khách đi khỏi, đội AGAS hỏi tôi suy nghĩ như thế nào đối với Việt Minh. Tôi chỉ nói rằng SI và AGAS có thể xem xét một hành động chung với Việt Minh và tôi hy vọng sẽ gặp được một người của Việt Minh không để cho người Pháp biết, và cần AGAS giúp tìm cho một người Trung Quốc. Họ đồng ý. Hôm sau tôi đi sâu vào xem xét nhóm GBT. Với sự giúp đỡ của đại tá Emblanc và một số sĩ quan khác thuộc phái đoàn quân sự Côn Minh, Gordon đã lập được một vài đường vô tuyến điện ở biên giới Đông Bắc. Ông ta cũng thành công trong việc tổ chức một số “hệ thống liên lạc” giữa Hải Phòng và Hà Nội, và thỉnh thoảng đã cung cấp được thông tin OSS - Côn Minh và hạm đội Mỹ ở Trung Quốc. ÔNG WANG YEH LI Công việc tiếp đó của tôi là đi tìm Wang Yeh Li. Một người cộng tác với AGAS biết nói tiếng Trung Quốc đã giúp tôi tìm ra cho một quán trà tối tăm mà tôi đang cần tìm. Nó nằm trên một đường phố chật hẹp có những cửa hiệu đang mở của buôn bán và đầy những người có cả những đứa trẻ con ở trần mỉm cười chào thân mật “ting hao”. Bà Wang chào đón chúng tôi; chồng bà, như bà nói, đang đi ra đâu đấy một lát. Chúng tôi chờ đợi và gọi nước chè, thấy có một số người Trung Quốc đi vào. Họ không ăn cũng không uống gì mà đi thẳng vào cái phòng gần đó. Một vài người trở ra sớm và đi khỏi đây; nhưng người khác thì hoặc là những người trong nhà hoặc là đi ra bằng lối khác. Chúng tôi suy xét điều đó và kết luận rằng quán trà này còn là một cái gì hơn nữa ngoài một nơi uống trà và ăn bánh bao. Một người Trung Quốc khá trẻ bước vào, đi thẳng tới bàn chúng tôi và không ngần ngại tự giới thiệu bằng tiếng Anh. Ông ta nói tên của ông ta là Wang và ông ta đang đợi gặp tôi. Tôi giới thiệu người bạn của tôi là trung uý “Karl” (nhân viên AGAS hiếm khi để lộ tên thật của họ). Wang không có cung cách xã giao phương Đông thường thấy và bằng tiếng Anh Hongkong của mình, ông ta hỏi có tính chất thăm dò về những cảm tưởng của tôi đối với Trung Quốc và về việc Quốc dân đảng sẽ ra sao khi Mỹ có một Tổng thống mới. Ông ta không tin chắc rằng nước Nhật sẽ bị đánh bại trong mấy năm tới, có thể là chưa phải năm 1947 hay 1948, và lúc đó chắc là nước Nga sẽ tham chiến. Ông ta cho rằng tôi cùng với tướng Chennnault đang tiến hành một công việc tình báo nào đó. Ông ta như muốn đánh giá tôi, muốn biết những xu hướng chính trị của tôi và muốn biết xem mục đích của việc tôi đến thăm là gì. Chậm rãi, tôi giúp ông ta nắm được những thông tin mà tôi thấy rằng cần để ông ta nắm được. Vâng, tôi làm tình báo với OSS. Dưới quyền của Wedemeyer, chứ không phải của Chennault. Không, tôi không quan tâm đến chính trị Trung Quốc mà chỉ quan tâm đến hoạt động của Nhật ở Đông Nam Á. Tôi cần tổ chức một mạng lưới những người hoạt động bí mật ở Đông Dương, tốt hơn cả là với sự giúp đõ của người Việt Nam. Cuối cùng, Wang nhận xét rằng chỉ có người Trung Quốc và người Việt Nam mới có thể thành công trong một công việc như vậy và có thể ông ta sẽ nói đúng cái người có thể giúp cho chúng ta. Liệu tôi có muốn gặp người đó không? Có, tôi trả lời, nhưng đó là người nào? Ông ta chỉ nói đó là “một người An Nam có ảnh hưởng và khoáng đạt”. Sau mọi chuyện tôi cảm thấy dường như ông ta nói đến ông Hồ, nhưng không một ai trong chúng tôi nhắc tới cái tên đó, và theo một ý nghĩa nào đó, đó là cách kiểm tra sự bí mật. Tôi muốn tin vào Wang và Wang sẽ có thể giới thiệu cho tôi đúng con người ấy. Tôi muốn liều một chuyến và đồng ý sẽ đến gặp Wang về mục đích này chiều hôm sau. Tôi sẽ tới một mình. “Karl” không tin đến như vậy. Trở về chiếc xe của chúng tôi, anh ta bày tỏ vẻ khó chịu của mình. Tay chân của Tai Li ở khắp nơi và không ai chắc được về người Trung Quốc như ông ta. Tôi chợt nghĩ phải chăng ông ta đã biết ít nhiều về Wang? Tôi nói cho “Karl” biết ai bố trí cho tôi gặp Wang và tại sao, anh ta cảm thấy yên tâm nhưng vẫn thuyết phục tôi rằng có thể Wang là một người Cộng sản Trung Quốc, phải hết sức thận trọng, và đó là người có thể tin được. Tuy vậy anh ta nói là sẽ xem xét kỹ hơn nhóm của Wang. Chiều tối hôm ấy tôi nhận được bức điện vô tuyến của Helliwell cho tôi biết đang xảy ra một chuyện cấp bách. G-2(3) hỏi về những hoạt động OSS ở Hà Nội và Sài Gòn. Bộ chỉ huy muốn biết tin tức về những đơn vị chiến đấu Nhật mới tới và xác nhận những sân bay và những căn cứ quân sự mới theo cách nhìn từ trên không. Bộ chỉ huy cũng đòi hỏi phải tiến hành cấp tốc một chiến dịch tuyên truyền chống lại quân đội Nhật thuộc sư đoàn 37 để làm giảm tinh thần và gây đào ngũ. Bộ chỉ huy muốn biết mọi điều và tất nhiên là họ có quyền làm như vậy. Rõ ràng là chúng tôi phải nhờ đến sự giúp đỡ của bất cứ ai - người Trung Quốc, người Việt Nam hay người Pháp - để bắt đầu tiến hành hoạt động. Để cho chắc chắ, tôi tìm quán trà nằm giữa những con đường hẻm rối rắm kia, và chúng tôi lại đến đó một lần nữa vào buổi chiều ngày hôm sau lúc còn sớm. “Karl” nói cho tôi biết rằng Wang đúng là một người Cộng sản Trung Quốc đã hoạt động tích cực trong Đồng minh Hội, tổ chức của những người lưu vong ở Liễu Châu và Quế Lâm. Tối hôm trước Wang bị nghi ngờ là có hướng chống Quốc dân đảng vì sự liên hệ mật thiết của ông ta với Việt Minh, nên ông ta đã bị Đồng minh Hội khai trừ và hiện nay ông đang chờ cơ hội để lên phía bắc với nhóm của Mao ở Diên An. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #24 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2008, 03:54:16 PM » MỘT QUÁN TRÀ TRONG LÀNG Mặt trời đã lặn khi tôi và Wang đi vào một cái làng nhỏ gọi là Chiu Chow Chich. Phải mất 45 phút để đi xe qua 6 dặm từ Trình Tây, trên một con đường hẹp (và chỉ có con đường đó). Cuối ngày, tất cả đều đi ngược lại chúng tôi - người, gia súc và xe bò - khiến chúng tôi phải dừng lại không biết bao nhiêu lần vì bị trâu bò và xe chở lặc lè ngăn cản. Làng này chỉ là một cụm nhỏ 15 hay 20 ngôi nhà nhỏ bé có tường thấp và vôi gạch đổ nát bao quanh. Wang chỉ một ngôi nhà thấp nằm ở giữa. Khi chúng tôi vừa đỗ xe gần đó, hai người ra gặp chúng tôi(4). Họ không phải là người Trung Quốc. Wang đi lên trước và nói mấy câu mà tôi tin đó là tiếng Trung Quốc. Người lớn tuổi hơn trong hai người đó là một người mảnh khảnh, thâm thấp, 50 hay 60 tuổi gì đó; ông ta đến gặp tôi với nụ cười niềm nở và chìa tay ra. Ông ta nói tiếng Anh rất thành thạo. “ Xin chào! Người bạn tốt của tôi”. Tôi nắm lấy bàn tay gần như mỏng mảnh của ông Hồ và bày tỏ sự vui sướng của tôi vì gặp được một người có nhiều người bạn Mỹ ở Côn Minh. Sau đó, ông Hồ giới thiệu người Việt Nam khác, ông Lê Tùng Sơn, như là một người cộng tác gần gũi của mình trong Liên minh. Wang dẫn mọi người vào một căn phòng sáng lờ mờ, dường như có một cái bệ nhỏ. Ông Sơn vào sau cùng và cài cửa ra vào cũng như cửa sổ thật cẩn thận. Ông Hồ bước tới chiếc bàn duy nhất và mời chúng tôi ngồi. Vừa rót nước chè cho chúng tôi, ông Hồ vừa giải thích rằng ông Sơn không nói được tiếng Anh và tiếng Pháp, nhưng hiểu được tiếng Pháp đôi chút. Ông Hồ nói mình thích dùng tiếng Anh vì cần phải luyện tập. Wang đi thẳng vào vấn để. Chi nhánh Côn Minh của Việt Minh hy vọng cộng tác với Đồng minh và chúng ta đến đây để thu xếp công việc. Không do dự, ông Hồ đáp lại rằng có thể cộng tác được, rằng ông Phạm Viết Tự đã tiếp xúc với Lãnh sự quán Mỹ từ tháng 8 trước và ông Langdon đã có thái độ tốt đối với người Việt Nam (đó là một lời cường điệu về lập trường của Tổng lãnh sự, như tôi đã biết). Thật ra, ông Hồ nói tiếp, AGAS và Việt Minh đang tổ chức một hoạt động bí mật ở trong nước để giúp những phi công bị rơi, nhưng ông coi điều đó có một ý nghĩa khác. Ông Hồ nói ông cần nói trước hết tới những người bạn thân của chúng tôi. Ông rất muốn biết làm thế nào tôi biết đến Việt Minh và hơn nữa, tới ông. Tôi nói thẳng thắn nhưng chỉ nêu bật lên những điểm chính rằng, ở Washington tôi đã nghe nói ông bị Quốc dân đảng “bắt giam”, rằng ông làm việc trong Đồng minh Hội, rằng ông cộng tác với Đồng minh để cứu những phi công bị rơi, và tất nhiên nói đến cả cuộc chuyện trò của tôi với Phương. Tôi thấy ông Hồ rất quan tâm đến những điều tôi để lộ ra, và trong một thoáng, thấy ở ông một ánh mắt ngạc nhiên và hài lòng khi biết rằng cái tên Hồ Chí Minh không phải không được giới chính thức ở Washington biết tới, nhưng ông trở lại bình thường rất nhanh. Ông hỏi tôi có biết thiếu tá Glass không; tôi nói với ông, Glass đã gợi ý cho tôi đi tìm một người “An Nam thân thiết” ở Bắc Kỳ và tôi ngạc nhiên thấy rõ ông có thể là người đó. Con người mảnh khảnh, nhỏ bé và kỳ lạ ấy cười rộng miệng và dành mấy phút để ca ngợi Austin Glass, “người Mỹ Việt Nam”. Ông Hồ nhắc lại với một cảm tình rõ ràng là thật sự rằng người Việt Nam ở Hải Phong đã quý trọng Glass như thế nào, ông ta đã lấy một phụ nữ Việt Nam và đã sống ở Đông Dương hơn 30 năm. Theo ông Hồ, Glass biết tiếng Việt rất thạo, hiểu những vấn đ xã hội, kinh tế và chính trị của Việt Nam vớ một thái độ thân thiết và có thiện cảm. Ông nhắc lại trong khi người Nhật chiếm Bắc Kỳ năm 1940, Glass là một trong những người phương Tây đầu tiên bị Kempeitai(5) giám sát một cách khó chịu, không phải vì ông ta thân Pháp mà vì ông ta tán thành mạnh mẽ tinh thần độc lập và chống phát xít của người Việt Nam. Ông Hồ nhắc lại một cách sinh động những lời kể của nhiều người bạn Việt Nam của Glass ở Hải Phòng đã từng lên tiếng chào Glass khi ông ta rời khỏi Hải Phòng trong một cuộc trao đổi nhũng người dân sự Mỹ - Nhật. Vì chưa bao giờ gặp Glass cả, ông Hồ đã kể lại ở cương vị một người thứ ba. Ông Hồ hút thuốc lá liên tục, ông hút thứ thuốc lá địa phương rất mạnh và hăng. Khi ông cuốn thứ thuốc lá ấy và hỏi mình cuốn đã khá hơn chưa, tôi bèn mời ông một điếu Chesterfield. Mắt ông ánh lên thích thú khi ông đưa những ngón tay nhỏ nhắn và dài ra cầm lấy một điếu và nói thêm với một vẻ tự bào chữa rằng hút thuốc là một tật xấu khá nặng của ông. Về sau tôi thấy điều đó là sự thật. Khi sức khoẻ ông gặp gay go trong những ngày căng thẳng tháng 8 và tháng 9, ông rất thích hút thuốc Chesterfield của tôi. Ngay cả khi ông ho rung cả người lên, ông cũng hút. Dường như đó là một niềm vui thích của ông và tôi chưa bao giờ thấy thích thú nhưu khi thấy ông ưa những điếu thuốc lá của tôi. Nhưng để trở lại với câu chuyện của chúng tôi, tôi cảm thấy một vài sự dè dặt của ông Hồ đối với tôi đã được xua tan, nhưng ông là một nhà cách mạng lão thành, một bậc thầy về những âm mưu và bí mật, nên ông vẫn tiếp tục đi sâu vào câu chuyện với một vẻ thăm dò dễ mến và tế nhị. Tôi hiểu ông muốn biết những động cơ của tôi và cố khám phá thái độ của tôi đối với nhân dân Việt Nam và nói riêng để xem tôi là người đại biểu cho những quyền lợi thực dân hay đại biểu cho thái độ chống thực dân của Roosevelt. Tôi cần phải giành lấy sự tin cậy của ông và sẵn sàng tham gia cuộc đấu trí biện chứng của ông. Ông Hồ cũng mô tả khá dài về đời sống khó khăn mà người Việt Nam phải chịu trong mùa đông trước ở Bắc Việt Nam. Vụ lúa tháng 10 bị bão tàn phá, đê bị vỡ, nước lụt tràn ngập. Những thiếu thốn về thuốc men, lương thực, áo quần và vận tải hồi mùa đông lại cộng thêm với việc không có những biện pháp đặc biệt nên đã đưa đến kết quả cuối cùng là nạn đói kinh khủng nhất trong toàn bộ lịch sử dân tộc đã xảy ra. Những thiếu hụt về lương thực, cộng thêm nạn đầu cơ tích trữ tha hồ về thóc gạo, đã trở nên hết sức gay go hồi tháng Giêng khi sức khoẻ của người Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ xấu đi nhanh chóng. Nhiều người ốm đau hay quá yếu nên không thể làm việc được. Gia súc chết trên nhũng cánh đồng vì không được chăm sóc và thiếu ăn. Hệ thống đê điều phức tạp do người Pháp phát triển và duy trì đã bắt đầu rơi vào tình trạng không được sửa sang trong suốt mùa đông vì ngân sách công ích bị cắt đi. Nhân viên người Pháp ngừng làm việc và những người Việt Nam không được huấn luyện không thể thay thế họ. Những đường sá lớn ở đồng ruộng cuối cùng bị ngập lụt. Khi tôi hỏi chính quyền Pháp đã làm gì dể giảm bớt tình hình ấy, ông Hồ xua rộng hai tay và thở dài. “Những gì họ làm bao giờ cũng là theo đuổi quyền lợi riêng của họ”. Ông coi chế độ Decoux là chế dộ của những quyền lợi tham lam, bám lấy những quyền lợi bất di bất dịch và hờ hững với cảnh ngộ của dân chúng Việt Nam. Đáng lẽ phải vạch ra một kế hoạch phân phát những kho lương thực lớn ở phía nam, Chính phủ Decoux lại áp đặt những hình phạt nặng nề, kể cả cái chết, cho những người đang cố sống sót. Việt Minh đã nắm lấy vai trò lãnh đạo trong cuộc khủng hoảng ấy. Các đơn vị du kích Việt Minh đã đánh vào những kho tàng ở nông thôn Trung Kỳ và Bắc Kỳ(6), chiếm lấy lương thực, đặc biệt là thóc gạo, để phân phát cho những người đang thiếu. Nhiều người đã được cứu giúp, những nạn đói vẫn tăng lên. Chỉ trong mấy tháng, từ 1,5 đến 2 triệu người Việt Nam đã chết đói. Không một người Pháp hay người Nhật nào bị chết đói cả, chỉ có người Việt Nam mà thôi. Các thành phố của người Pháp vẫn sống sót; chỉ có những làng xóm đầy rẫy những xác chết trên các ngả đường, các kênh mương, các cánh đồng, còn những người sống thì rất yếu và hốc hác, vẫn cứ phải đi nhặt nhạnh và chôn cất người chết. Nhiều làng mất từ một phần ba tới một nửa số dân. Ông Hồ mô tả tai họa của dân mình bằng một giọng đầy xúc động và khi gần kết thúc, trông ông buồn rầu và mệt mỏi. Ông Hồ hứa sẽ gửi cho tôi một “tập ảnh bằng chứng” và một sự tường thuật chi tiết nhan đề “Sách trắng”, do một vài người của ông soạn ra. Tôi nói với ông là tôi muốn có một bản sao và tin chắc rằ nó sẽ được Bộ chỉ huy của tôi quan tâm đặc biệt. Ông Hồ bày tỏ ý kiến là mọi việc sẽ khác đi sau chiến tranh. “Chúng tôi đang chuẩn bị cho một Chính phủ dân chủ độc lập, do người Việt Nam điều hành vì người Việt Nam”. Với một vẻ trầm ngâm, ông Hồ thừa nhận rằng đó là một nhiệm vụ to lớn. Người Pháp chắc chắn sẽ chống lại một hoạt động như vậy. Người Trung Quốc có những lý do của họ để ủng hộ người Pháp, nhưng cũng có thể đứng về phía người Việt Nam. Còn người Anh thì chắc chắn không để cho cơ cấu thuộc địa ở Đông Nam Á bị sụp đổ; và sẽ là một vấn đề nghiêm trọng nếu họ giúp sức cho người Pháp. Mặc dù tôi đã tỏ ra khách quan và thận trọng một cách cố ý, không để mình dính líu vào những khía cạnh chính trị của vấn đề Đông Dương, nhưng sự chân thành, thái độ thực dụng và sự hùng biện của ông Hồ đã gây cho tôi một ấn tượng khó phai mờ được. Ông Hồ không hiện lên đối với tôi như một nhà cách mạng không thực tế hay một người cấp tiến cuồng nhiệt, theo đuổi những lời nói rập khuôn, hét to những đường lối của Đảng, hay thiên về phá hoại mà không có những kế hoạch xây dựng lại. Đây là một con người thông minh, thấu hiểu những vấn đề của đất nước mình, một con người biết điều và tinh tế. Tôi cũng cảm thấy có thể tin cậy ông như một bạn Đồng minh chống Nhật. Tôi biết mục tiêu cuối cùng của ông là giành được sự ủng hộ của Mỹ đối với sự nghiệp của nước Việt Nam tự do và thấy rằng ước muốn ấy không trái ngược với chính sách của Mỹ. Từ một quan điểm thực tiễn, ông Hồ và Việt Minh hiện ra như một câu giải đáp cho vấn đề trước mắt của tôi là tiến hành các hoạt động ở Đông Dương. Đã gần nửa đêm, Wang nhắc tôi trở về Trình Tây, nhưng ông Hồ khẩn khoản mời chúng tôi ở lại để tiếp tục câu chuyện, ông nói thêm- nếu như tôi không cảm thấy mệt hay phải trở về ngay. Chúng tôi ở lại. Tôi hỏi về những nơi đóng của Bộ chỉ huy Việt Minh và những chi tiết về bộ máy của nó. Wang cắt ngay, theo kiểu Trung Quốc, và ra lệnh cho ông Hồ phải thận trọng. Nhưng ông Hồ giơ tay lên tỏ ý không tán thành những chỉ thị của Wang và trả lời những câu hỏi của tôi. Bộ chỉ huy đóng ở một số hang tự nhiên phía ngoài gần Cao Bằng. Việt Minh không phải là một đơn vị đặc biệt có thể di chuyển đây đó, mà là một bộ phận rất rộng của người Việt Nam. Nó có mặt khắp nơi, trong công nhân công nghiệp và trong nông dân ở nông thôn. Những đơn vị công nhân và nông dân được tổ chúc thành những nhóm cơ động nhỏ dưới sự chỉ huy của một cán bộ được huấn luyện; mỗi đơn vị có thể hoạt động độc lập hay tập thể tuỳ theo nhu cầu. Chẳng hạn, nếu cần có tin tức về quân Nhật đóng ở Biên Hoà (gần Sài Gòn), thì các đơn vị ở khu vực này sẽ được yêu cầu cung cấp tin tức, tin tức này sẽ được chuyển qua Đà Nẵng (Tourane) và cuối cùng đến Cao Bằng. Phải nhận rằng đó là quá trình chậm chạp và những tin tức đến Côn Minh thì đã cũ rồi. Cũng thế, nếu có lệnh tấn công theo lối biệt kích một đơn vị Nhật ở Sơn Tây (tây bắc Hà Nội), thì tổ chức bán quân sự của Việt Minh ở vùng có thể thực hiện cuộc hành quân ấy. Ông Hồ cho rằng đó là vấn đề thời gian và khoảng cách. Người của ông được trang bị nghèo nàn, gồm đủ thứ súng ống của Pháp, Bỉ, Anh và Nhật, với ít đạn dược, không có xe cộ và chỉ có rất ít máy vô tuyến điện. Họ bị phụ thuộc vào những vũ khí lấy được, đó là điều chủ yếu nhưng lại đòi hỏi một sự huấn luyện đặc biệt và những người huấn luyện. Nếu thu xếp được với Đồng minh để có những thiết bị liên lạc và một số hạn chế những vũ khí nhỏ để trang bị cho một số đơn vị nhỏ, và sử dụng được những huấn luyện viên Mỹ thì tình hình sẽ thay đổi hẳn đi. Trong sự trình bày rất ngắn ấy, ông Hồ nói với tôi những gì ông có thể làm đuợc với những gì ông có và những gì ông đang cần có thêm. Bằng những lời lẽ thận trọng, ông nhắc đi nhắc lại đề nghị hấp dẫn của mình mà ông cảm thấy chắc chắn sẽ được chúng ta chú ý một cách nghiêm túc. Với sự khôn khéo của mình, ông không yêu cầu gì cả; ông chỉ trình bày cho tôi nghe giá trị tiềm tàng của tổ chức quân sự - chính trị của mình. Và ông muốn đợi thời cơ nên không yêu cầu một lời hứa nào cả. Tuy nhiên khi chúng tôi đi vào những chi tiết ấy, tôi thấy mình bắt buộc phải nói rằng tôi không chuẩn bị để cam kết một điều gì. “Ông già” kín đáo, giả vờ ngạc nhiên trước nỗi lo lắng của tôi, mỉm cười một cách ranh mãnh và nói rằng ông không yêu cầu gì hết, ông chỉ trả lời những câu hỏi của tôi về Việt Minh mà thôi. Ông nói là ông hoàn toàn thông cảm, không sao hết. Ông sẵn sàng đi với người Mỹ khi nào người Mỹ thấy sẵn sàng. Tất cả nhũng gì tôi phải làm là làm thế nào để cho người của ông ở Côn Minh biết đang cần những gì và ông mong muốn những thứ đó sẽ được cung cấp. Đã quá khuya khi Wang và tôi trở về, nhưng đường về vắng vẻ nên đi rất nhanh. Khi đi đường, Wang nói với tôi những lời bông đùa, nhưng tôi có cảm giác ông vẫn còn nhìn tôi với thái độ nghi ngại. Về tới chỗ trú, tôi thấy rõ sự tương phản giữa cuộc gặp gỡ ấy và cung cách tiến hành những cuộc họp như vậy trong chiến tranh ở châu Âu và châu Phi. Ở đó, những đại diện bí mật thường đưa ra những lời xác nhận to lớn về những gì họ có thể thực hiện (thường là thổi phồng), chỉ cần họ được cung cấp vũ khí và tiền (những khoản tiền lớn). Ông Hồ thậm chí không nhắc gì đến chuyện tiền cả. Và ông đã thẳng thắn cho biết là người của ông đã lấy được vũ khí. Ở Nam Tư, các sĩ quan OSS biết rằng những người hoạt động bí mật đã chôn đi nhiều vũ khí lấy được của Đức và kêu ca thiếu vũ khí. Đó là một phương châm để khi kết thúc chiến tranh, họ muốn giải quyết những sự tranh chấp nội bộ của họ vơớ những kho vũ khí càng nhiều càng tốt. Về chuyện này, những điều như vậy cũng xảy ra ở Trung Quốc, khiến cho những viên chỉ huy Mỹ rối trí lên. Còn ông Hồ thì lại cho biết những vũ khí của mình như hiện có và không yêu cầu gì về tiền nong cả. OSS thường quen trả tiền cho tình báo. Kết luận của tôi là cuộc gặp gỡ đêm nay sẽ mang lại nhiều điều tốt lành. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #25 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2008, 03:56:16 PM » QUÂN ĐỘI CỦA SABATTIER Sáng hôm sau, tôi đáp máy bay đi Poseh, cách Trình Tây về phía bắc chừng 30 phút bay. Một người tiền trạm của chúng tôi đang làm việc với những nhân viên của GBT và của Hạm đội Mỹ và làm việc tốt. Poseh là một điểm tập trung khác của những lực lượng Pháp vừa rút lui nhưng vì không cần nấn ná gì ở đây nên tôi lại bay trở về Szemao vào ngay chiều hôm ấy. Khi tôi xuống khỏi máy bay, tôi được biết một trong hai đội SO của chúng tôi được gửi tới cho các lực lượng của tướng Sabattier ở Đông Dương đã bị một đơn vị tiền duyên Nhật phục kích, do lỗi của tình báo Pháp. Dưới lửa đạn nặng nề của người Nhật ở Don Chai (gần Mong Ou Tay), đội của thiếu tá Summers giữ được vị trí của họ nhưng những máy vô tuyến điện, mật mã và những thiết bị đặc biệt đã bị phá huỷ và sau đó đã chạy về phía bắc. Helliwell và Davis yêu cầu tôi theo dõi họ. Tôi tìm thấy họ ngày 2-5, sau nhiều lần bắn pháo sáng trên các đường núi và rừng rậm. Họ đã ở biên giới Cheng Tung (hay Keng Tung) bên phía Trung Quốc và còn nguyên vẹn sau những thử thách ngặt nghèo khi lang thang xuyên rừng rậm. Tôi đã thu xếp cho họ chuyển tới Côn Minh. Tướng Sabattier, đang trên đường đến Szemao, đã phái De Monpezat tới trước báo cho tôi biết ông ta cần thảo luận với tôi về cuộc kháng chiến của người Pháp. Tôi báo cho Helliwell và được chỉ thị là “không cam kết gì cho đến lúc nào việc giải quyết mối quan hệ của Pháp với chiến trường được sáng tỏ”. Tuy nhiên, nếu các kế hoạch xem ra là tốt, Helliwell nói, thì ông ta sẽ “thúc giục để có hành động ngay 1ập tức”. Chúng tôi gặp nhau ngày 2-5 ở Szemao, và tướng Sabattier bày tỏ lòng biết ơn về việc ủng hộ mà người Pháp đã nhận đuợc của OSS và của Đội không quân thứ 14 trong “giờ phút bi thảm” của họ và tỏ ý hy vọng người Mỹ tiếp tục sự giúp đỡ “hào hiệp và có thiện cảm” ấy. Ông ta cho tôi biết để khỏi bị hiểu sai rằng ông ta là “chỉ huy tối cao của tất cả các lực lượng Pháp ở Viễn Đông” và ông ta hành động theo những chỉ thị trực tiếp của chính phủ lâm thời Pháp. Ông ta định đóng sở chỉ huy của mình ở Côn Minh, ở đó ông ta sẽ chỉ huy tất cả những hoạt động sau này của Pháp “trong sự hợp tác” với Đồng minh. Kế hoạch của ông ta là cải tổ những lực lượng của ông ta ở Trung Quốc dưới sự chỉ huy của tướng Alessandri và đại tá Seguin(7) và đặt họ dưới quyền điều khiển của tướng Wedemeyer. Về những hoạt động bí mật, ông ta còn nắm trong tay vài trăm sĩ quan và binh lính đã được huấn luyện đặc biệt; những người này muốn và sẵn sàng trở lại Đông Dương và thiết lập lại những mối liên lạc với những nhân viên Pháp đã rời khỏi đó. Tôi hỏi những nhân viên ấy có phải là một bộ phận của mạng lưới của tướng Mordant không, và viên tướng này bày tỏ ngạc nhiên vì tôi biết tổ chức bí mật của họ. Phần nào bối rối, ông ta nói rằng đúng như thế và nói thêm rằng ông ta còn có một mạng lưới riêng trong người Mán(Cool, những người này “tuyệt đối trung thành” với ông ta. Sau đó chúng tôi thảo luận về những chi tiết trong kế hoạch của ông ta mà ông ta đã phác vẽ lên trên nhiều bản đồ và đồng ý tiếp tục những cuộc thảo luận ở Côn Minh. Viên tướng này mong muốn được dựa vào người Mỹ để được ủng hộ về hậu cần và huấn luyện, và muốn việc huấn luyện ấy sẽ được tiến hành ở Szemao để khỏi lộ những cán bộ Pháp - An Nam cho người Trung Quốc biết. Thời tiết ở Szemao đã thay đổi. Mây đen phủ kín bầu trời và những trận mưa liên tiếp đổ xuống làm cho việc bay không thể thực hiện được và việc vận chuyển bằng đường bộ trở nên nguy hiểm và chậm chạp. Điều đó làm tăng thêm sự nguy khốn của những người lánh nạn. Dòng người Pháp vào Trung Quốc ở trong tình trạng thê thảm. Mệt mỏi, đói khát, ốm đau, không giày dép, họ đã thiếu kiên nhẫn với bất cứ người chức trách nào. Họ yêu cầu những khu đóng quân thậm chí cũng không thể kiếm được cho quân đội Trung Quốc. Họ cố tịch thu xe cộ và các kho thực phẩm riêng mà không qua các nhà chức trách, kết quả là đã xảy ra những cuộc va chạm gay gắt. Khi họ biết là có người Mỹ đang ở trong khu vực này, thì cơ quan của chúng ta bị bao vây với những yêu cầu của các sĩ quan trẻ tuổi để chúng tôi “ra lệnh” cho người Trung Quốc giải quyết những yêu cầu của họ. Chúng tôi giải thích rằng chúng tôi không có quyền hành gì cả, và đại sứ Pháp có thể cung cấp cho họ. Họ cho rằng đó là một sự trả lòi rất không thoả mãn. Tôi xúc động sâu sắc trước tình cảnh khốn khổ của một đội quân phương Tây bại trận, bị người Nhật sỉ nhục và đang rời rạc đi vào cửa Trung Quốc để được bảo vệ và lánh nạn. Tôi đã từng trông thấy những đám lớn người Đức và Ý, tù binh chiến tranh cũng như dân sựu, rút về phía sau những chiến tuyến của chúng ta ở châu Phi và châu Âu; nhưng đó là những người phương Tây ở thế giới phương Tây. Còn ở châu Á, tình hình lại mang những kích thước khác, không diễn tả được nhưng lại là có thật. Những sự khác nhau về chủng tộc và văn hoá hàng chục năm nay bị che đậy dưới những sự tế nhị ngoại giao và xã hội bỗng nhiên nổi rõ bề mặt. Người Pháp, tượng trưng cho văn hoá và sức mạnh quân sự châu Âu ở châu Á đã bị đập tan bởi một cường quốc phương Đông và đang chịu sự ơn huệ đầy khó chịu của một dân chúng phương Đông khác. Bề ngoài người Trung Quốc tỏ ra có thiện cảm, muốn giúp đỡ và nhân từ; ở phía trong họ lại theo đòi một thói quen đáng kinh tởm là chần chừ một cách lễ độ, rạch ròi về chính trị và tôn trọng chặt chẽ những tập quán địa phương có thật hay tưởng tượng cũng như những hiệp nghị quốc tế. Đây là tinh thần “ngược đời của người châu Á, mà chúng ta phải gánh chịu”. Về phía người Pháp, cũng có những vấn đề có liên quan với chủng tộc: những khó khăn về ngôn ngữ, những nhu cầu cá nhân và tình trạng mất mặt, tất cả đều góp phần tăng thêm nỗi thất vọng của người Pháp, thể hiện ra ở những yêu cần không hợp lý và tâm trạng kiêu ngạo quá mức của họ đối với tất cả nhũng người châu Á. Kết quả là những cuộc va chạm thường xuyên với những ngụ ý chủng tộc âm ỉ. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #26 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2008, 03:56:50 PM » MỘT CHÂN DUNG THỰC DÂN Trong 8 ngày từ khi tôi đặt chân lần đầu đến Szemao, nơi đây trở thành trại tập trung người Pháp. Tôi có một cơ hội tốt để thu lượm tin tức từ những người lánh nạn và tuyển mộ người Pháp cho những hoạt động bí mật, do đó tôi yêu cầu Helliwell cử đến một sĩ quan nói tiếng Pháp giỏi với một bộ phận giúp việc. Ông ta gửi trung uý John P. Spaulding và một số nhân viên mới tuyển, và tôi quyết định lưu lại ở đó một thời gian nữa. Suốt trong 10 ngày, tôi phỏng vấn có lẽ tới hơn một chục sĩ quan và gấp đôi số ngưuời ấy gồm có hạ sĩ quan và những nhân viên cấp thấp hơn, cả người Pháp lẫn người Việt Nam, cộng với những viên chức dân sự và những nhà kinh doanh. Nhưng cuộc nói chuyện ấy cho thấy một bức tranh không có gì hấp dẫn của thái độ hững hờ, tinh thần trả thù và quyền lợi ích kỷ. Những thái độ của những người lánh nạn về căn bản phản ánh chính sách quốc gia của Pháp cũng như những kinh nghiệm của họ về tổ chức dân sự hay quân sự dưới chính phủ Decoux từ năm 1940. Họ cảm thấy cảnh ngộ hiện nay của họ sẽ sớm kết thúc và họ trở về Đông Dương để lấy lại những gì mà họ đã để lại. Sẽ không có gì thay đổi. Tôi cảm thấy hầu hết những người lánh nạn đã sống những năm tháng của mình ở Đông Dương mà không hề rời khỏi môi trường Pháp của mình. Sự hiểu biết của họ về dân bản xứ, về những đặc trưng dân tộc và những nguyện vọng chính trị giống như sự hiểu biết của một người đi qua ngẫu nhiên. Họ coi những nhân viên Việt Nam trong quân đội của họ như “những binh lính và cu-li tầm thường” mặc dù nhiều người Pháp đã nhận được một sự ủng hộ trung thành của những đội quân và những người dân thường “bản xứ” trong những cuộc xung đột với người Nhật. Điều đó được coi là “bình thường và là bổn phận của họ”. Đối với những người đó, “cuộc kháng chiến bản xứ” không phải là một phong trào có xung lượng riêng mà là một bằng chứng thành công của chủ nghĩa tự do và của sự lãnh đạo của Pháp. Gần như nhất trí, những người Pháp mà tôi phỏng vấn đều cho rằng người Việt Nam không đủ sức gánh trách nhiệm chính trị. Họ thừa nhận những kẻ theo chủ nghĩa quốc gia đang tồn tại, nhưng “đã tỏ ra hèn kém khi đụng phải Sureté(9) hay Quân đội”. Thái độ của người Pháp tốt lắm cũng chỉ là thái độ cha chú. Còn thái độ tệ hại nhất thấy có ở một số ít người là thuần tuý khinh miệt, được cô đọng lại trong thái độ của một sĩ quan cho rằng “không có một người An Nam chân thành nào”. Đối với những Đồng minh phương Tây, tôi thấy có những thái độ rất khác nhau, nhưng số đông nhất có thái độ nghi ngờ những ý định của Đồng minh. Cá nhân tôi đã thấy những thành viên trong Phái đoàn quân sự Pháp ở Szemao tự mình truyền cho những người mới tới sự nghi ngờ ấy, trước khi họ tiếp xúc với bộ phận của tôi. Sự bảo vệ quyền lợi người Pháp chống lại lòng thèm khát đượcc gán cho người Anh và người Mỹ rõ ràng là cái cớ để biện hộ cho sự hợp tác vừa qua của họ với người Nhật. Rất ít sĩ quan Pháp tỏ ra thẳng thắn như người cuối cùng đã hỏi tôi “có phải người Mỹ định sẽ sử dụng những con đường sắt Đông Dương sau chiến tranh không?”. Sau khi lẩn tránh những câu hỏi của tôi về vận tải Đông Dương, một số ít người bào chữa cho chủ trương gây trở ngại của giói cầm quyền và tỏ ra sẵn sàng cộng tác về những vấn đề tình báo nếu sự cộng tác của họ không bị những nhà chức trách Pháp biết. Một nhà kinh doanh bày tỏ ý muốn được thấy xứ này(10) phát triển lên bằng tư bản và tính năng nổ của nước ngoài nếu những nguồn tư bản của Pháp không thể đáp ứng với nhu cầu. Nhưng ông ta là người duy nhất nói ra điều đó với tôi. Mặc dù thái độ của người Pháp đối với những Đồng minh phương Tây có vẻ lạ lùng đối với nhiều người Mỹ ở Trung Quốc, nhưng tôi không thấy thế. Trái lại, tôi hiểu đó là sự mở rộng tự nhiên của lập trường chính thức ở Paris, dưới chính quyền mới của De Gaulle. Người phát ngôn của Chính phủ Pháp đã công nhiên khiển trách những sự hoang tưởng nặng nề về chính trị của người Pháp ở Syria và Lebanon trước những hoạt động của người Anh và cũng lên án người Anh mưu toan thay thế người Pháp ở những thuộc địa ở Trung Đông của họ. Các Bộ trưởng Pháp khi trình bày với Hội đồng tư vấn đã lên án Mỹ âm mưu chiếm Nouvelle Calédonie và những căn cứ ở Đông Dương. Sự phê phán của báo chí Mỹ về chính sách thuộc địa của Pháp đã bị Bộ trưởng Ngoại giao Bidault gạt bỏ một cách khinh bỉ với sự nhấn mạnh rằng “nước Pháp không cần phải học ai về những vấn đề này”. Thái độ xấu đối với Mỹ do chính sách chống thực dân của chúng ta có thể hiểu được, nhưng công kích người Anh, bạn Đồng minh mạnh mẽ duy nhất trong việc chống đỡ cho lý tưởng “đế quốc” bị nghiêng ngả, là một thái độ thiển cận và u uất. Dù sao, tôi vẫn báo cáo cho cơ quan Chiến trường và Đại sứ về việc tôi từ Côn Minh trở về với thái độ nghi ngại và bực bội của Chính phủ Paris và của các nhà chức trách thuộc địa. Cả hai đều nhằm phục vụ mục tiêu của các giới cầm quyền Pháp là khôi phục vị trí của Pháp trước chiến tranh mà không chịu chấp nhận một sự thoả hiệp nào. Họ có thể dùng đến những phương pháp chắc chắn sẽ gây ra sự phê phán và làm suy yếu việc phối hợp nỗ lực chiến tranh của Đồng minh. Sự chống đối của Đồng minh tỏ ra không hiệu lực vì Đồng minh đã có thái độ thiếu ngay thẳng và một quyết định giải quyết các vấn đề một cách quá nhanh và trọn vẹn bằng việc sử dụng những đội quân của Pháp ngay trước khi các vấn đề được hỏi đến. Như các sự kiện về sau này chứng tỏ, việc giao phó cho các nhà chức trách Pháp thực hiện chính sách đó nôn nóng đã bị hạn chế, và mức độ ủng hộ cần phải có của những người dân trong nước họ cũng đáng ngờ. Nhưng họ lại cần phải đặt nước Pháp và phần còn lại của thế giới trước một việc đã rồi - đó là một nhiệm vụ không thể làm được. Những cuộc thảo luận của tôi trong những ngày ban đầu ấy với tướng Sabattier, tướng Alessandri, đại tá Emblanc và thiếu tá De Monpezat cũng cho thấy một vấn đề ít lộ ra công khai trong nội bộ Đồng minh mà chỉ có một số ít người Pháp hiểu được. Điều đó có liên quan đến nhiều cuộc tiếp xúc công khai và bí mật giữa Trung Quốc và Đông Dương. Hoa Kiều ở Đông Dương nói chung đối địch với người Nhật. Sự hợp tác công khai của họ với với giới quân sự Nhật hồi đó không được người Pháp coi là không trung thành - đó chỉ là một yêu cầu của chiến tranh, một sự thu xếp thực dụng. Nhưng người Pháp mà tôi đã nói chuyện với họ, cho rằng cộng đồng người Trung Quốc ở Đông Dương sẽ chào đón sự cai trị của người Pháp quay trở lại, không phải vì lý do nào khác ngoài lý do ổn định kinh tế. Tuy nhiên các nhà chức trách Pháp lại rất quan tâm đến thái độ của Quốc dân đảng Trung Quốc. Họ lo ngại về những bài phát ra trên báo chí Trung Quốc, đã thông qua sự kiểm duyệt của Trùng Khánh, đang kêu gọi nhập lại Đông Dương vào Trung Quốc, trong khi những tờ báo bán chính thức của Trung Quốc thì lại khuyến khích các nhóm cách mạng Việt Nam khác nhau. Những người cách mạng đã ủng hộ một cách khác nhau mọi chủ trương đoàn kết với Trung Quốc để hoàn thành nền độc lập của Việt Nam. Dù con số những người cách mạng ấy còn ít, nhưng họ họp thành những trung tâm tuyên truyền chống Pháp, điều duy nhất mà những người cách mạng đồng ý với nhau, và đó là nguồn rối loạn ở “thuộc địa”. Chính phủ Trung Quốc ít phân biệt những nhóm cách mạng ấy, dung nạp tất cả, nhưng cộng tác chặt chẽ nhất với chi nhánh An Nam của Quốc dân đảng. Hơn nũa, các nhà chức trách Pháp còn biết rằng Tai Li đang nắm giữ một mạng lưới tay chân khắp Đông Dương và mạng lưới này đang tránh né cả “Sureté” cũng như “Kempeitai”. Các thủ lĩnh quân sự Pháp sẵn sàng thừa nhận rằng Decoux cũng giống như những người tiền nhiệm của ông ta, đã không thể đè bẹp được những đảng bí mật khác nhau ở Đông Dương hay ngăn ngừa được sự thâm nhập bí mật của Trung Quốc, cả hai đều được chỉ đạo từ Trung Quốc. Hơn nữa, sau cuộc đảo chính, người Nhật lại ban hành quy chế chính thức cho một nhóm quốc gia ở Đông Dương. Nhưng các thủ lĩnh quân sự Pháp vẫn thấy Việt Minh là mối đe doạ lớn nhất đối với chủ quyền của Pháp. Việt Minh đang tiếp tục những hoạt động ngấm ngầm chống lại người Nhật và người Pháp trong suốt cuộc chiến tranh, nhưng bị tất cả các phần tử chống Cộng ở Việt Nam khinh rẻ. Chính quyền Decoux không có mấy cố gắng để tranh thủ sự ủng hộ của những người dân thường, do đó không có gì ngạc nhiên khi thấy người Việt Nam ít tôn trọng nó. Tuyên truyền của Pháp vẫn hoàn toàn giữ lối nói rằng nền văn minh Pháp đã ban cho Đông Dương những điều may mắn về văn hoá. Những quy định cải cách thuộc địa khác nhau do chính phủ De Gaulle đưa ra trong những cuộc thương lượng Pháp - Anh - Mỹ được công bố rất ít. Khá lạ lùng là chính người Nhật đã dùng những quyết định ấy để đối chiếu với những cải cách ít ỏi được hứa hẹn và với mối đe doạ được giả định về sự bóc lột của Anh - Mỹ sau chiến tranh, với những mối lợi phi thường mà người Việt Nam có thể tìm thấy ở chương trình của Nhật Bản về khối thịnh vượng chung Đại Đông Á. Sau đảo chính, đường lối tuyên truyền của Pháp, trước kia cũng tỏ ra vô hiệu, bây giờ chỉ tập trung vào quyết định của Pháp giải phóng Đông Dương khỏi ách áp bức Nhật Bản. Sự tan rã của bộ máy tuyên truyền Pháp và sự kiểm soát của người Nhật đã làm cho người Pháp không đến được Việt Narn, là những người bất kể thế nào cũng không tin vào họ nữa. Tuy nhiên, vào tháng 4, người Pháp lại đặt hy vọng của mình vào sự phản ứng thù địch của Việt Nam đối với sự chiếm đóng của Nhật, trái với điều mà họ từng thấy khi còn sự cai trị rộng lượng của họ. Họ tin chắc là người Nhật rốt cuộc sẽ đưa người Việt Nam trở lại những cánh tay của người Pháp. Hy vọng ấy được duy trì bằng một ảo tưởng về thiện chí bẩm sinh của các nhà vua ở An Nam, Cambốt và Lào. Đó là một sự tin tưởng sai lạc vì không tính đến những người Việt Nam bình thường và nguyện vọng độc lập hoàn toàn của họ. Trong khi tất cả những người Pháp hân hoan với sự chào đón mà người Việt Nam sẽ dành cho sự cai trị trở lại của người Pháp, vẫn có một số sĩ quan Pháp quyết định phải khôi phục sự cai trị của người Pháp, bằng cách sử dụng những đội quân Pháp ở châu Âu. Không một người Việt Nam nào được đại diện trong các hội đồng của những thủ lĩnh thuộc địa lưu vong. Những hạn chế có chủ tâm được áp đặt cho việc tham gia của những đội quân “bản xứ” vào việc giải phóng nước mình. Người Việt Nam vẫn bị đặt ra ngoài rìa những hoạt động bí mật của Langlade - Mordant - Sabattier, và các thủ lĩnh quân sự Pháp đã phản đối việc phát vũ khí cho cái họ gọi là “du kích bản xứ”. Họ vẫn thi hành chính sách tôn trọng những đội quân “bản xứ” đang chiến đấu trong quân đội Pháp với những cam kết mới đây mà lòng trung thành tiếp tục của họ không có gì đáng nghi ngờ cả. Chính sách khai trừ ấy rõ ràng không phải do yêu cầu chiến thắng nước Nhật mà được vạch ra vì quyền lợi phiến diện của Pháp. Nó phải đảm bảo cho các lực lượng Pháp những cánh tay hoàn toàn rảnh rang để đối phó với hậu quả nổi lên sau khi đuổi được người Nhật. Nó phải đảm bảo chỉ có những đội quân người Âu dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan Pháp giữ được quyền kiểm soát về tiếp tế và vũ khí để người Pháp sử đụng khi họ trở lại “thuộc địa” bằng sức mạnh vũ khí. Tôi đưa tất cả những điều đó vào bản báo cáo về người Pháp ở nam Trung Quốc, nói chung chúng được tiếp nhận tốt, nhưng có ai đó trong Đại sứ quán chúng ta cho rằng tôi đã giải thích quá nghiêm khắc về những động cơ của Pháp. Điều đó làm cho Côn Minh và Trùng Khánh tưởng rằng tôi là một người chống Pháp. Tuy nhiên sự cộng tác sau này của tôi với các nhà chức trách Pháp ở Trung Quốc đã chứng tỏ tôi không chống Pháp mà chỉ tán thành Đồng minh mà thôi. Chúng tôi, những người Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương, có một mục tiêu vượt lên tất cả - đánh bại nước Nhật ngay cả khi phải làm điều đó một mình, biết rằng trong những Đồng minh của chúng tôi có những kẻ sẵn lòng để cho người khác giành thắng lợi trong chiến tranh trong khi họ chuẩn bị để hái những trái quả chiến thắng. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #27 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2008, 03:57:42 PM » “NƯỚC PHÁP TỰ DO” THỌC SÂU VÀO Tôi gửi kế hoạch của tướng Sabattier cho Côn Minh ngày 2-5. Helliwell đã giành được một sự tán thành hạn chế của chiến trường nhằm tiến hành những hoạt động phối hợp Pháp - Mỹ và ngày 6-5 đã điện vô tuyến rằng “O.K! Hãy thử thách Sabattier trước tiên ở Szemao”. Nhưng ông ta cũng cẩn thận dặn tôi nhớ tới “những giới hạn của chúng ta về trang bị và nhân sự” và hãy “tỏ ra kiên quyết để người Pháp bảo đảm rằng trong mọi trường hợp không được để chúng ta dính líu tới bất cứ chuyện gì có tính chất chính trị”. Ông ta còn nhắc nhở nghiêm khắc rằng “không được cung cấp vũ khí và đạn dược” cho người Pháp, ngoại trừ để tự vệ một cách có hạn chế và chỉ trong trường hợp “OSS nắm đầy đủ quyền kiểm soát hành động”. Cho rằng sự cộng tác chặt chẽ của các tướng Sabattier và Alessandri là điều dĩ nhiên, tôi không ngạc nhiên khi Alessandri mời tôi đến vào chiều ngày 6-5 để hỏi về các kế hoạch của OSS cho những người Pháp hoạt động bí mật. Tôi nhiệt thành nói với ông ta rằng tôi vừa nhận được những tín hiệu từ Côn Minh về kế hoạch của Sabattier. Đứng phắt lên và với thái độ bực bội không cần che đậy, ông ta nói rằng “cuộc kháng chiến của Pháp ở Đông Dương là một việc không dính gì đến Bộ chỉ huy tối cao cả”. Tôi hiểu sai ý của ông ta, tưởng là ông ta nói đến Bộ chỉ huy tối cao của Mỹ, nên sau đó tôi có nói rõ những mệnh lệnh của tôi đều từ đại bản doanh chiến trường đến. Alessandri lập tức lấy lại thăng bằng và nói: “Naturellement!”(11). Tất nhiên ông ta muốn ám chỉ tới Sabattier và sự thu xếp chỉ huy “tạm thời” của Pháp, và đây là sự ám chỉ đầu tiên khiến cho tôi hiểu là về mặt này mọi cái chưa phải là tốt đẹp. Alessandri đột nhiên bỏ qua vấn đề những hoạt động bí mật, quay sang nói về vấn đề cấp bách hơn là vấn đề tiếp tế cho những đội quân của mình. Ông ta chuyển sang một chuyện dàn hoà khi bày tỏ mối lo ngại của mình về việc tập trung các đội quân đó lại, hiện đang đóng rải rác ở nam Trung Quốc, từ Szemao đến Fanch'eng. Ông ta tỏ ý hy vọng người Mỹ cung cấp cho những khu vực tập tnmg, những phương tiện vận chuyển và những đồ tiếp tế để phục hồi lại những đội quân của ông ta. Tôi bày tỏ sự thông cảm hoàn toàn của tôi đối với những vấn đề của ông ta nhưng buộc phải nói với vị tướng này rằng OSS không có thẩm quyền giúp đỡ và vấn đề này phải được giải quyết ở Trùng Khánh giữa Đại sứ Pháp và Tưởng Giới Thạch. Ông ta kiên nhẫn nhắc lại cho tôi rằng ông ta biết rất rõ những thủ tục thông thường, nhưng đây chỉ là những cố gắng để làm dễ dàng hơn cho một chức năng chỉ huy cấp bách của Đồng minh - những yêu cầu khẩn cấp của các đội quân của ông ta, “một thành phần các lực lượng Đồng minh ở Trung Quốc. Hy vọng làm cho ông ta yên tâm, tôi gợi ý rằng tôi sẽ lấy làm sung sướng hơn nếu thu xếp được cho ông ta hay cho đại diện ông ta gặp ông Snyder thuộc UNRRA, hiện đang ở Szemao; ông này đã được Mỹ uỷ quyền giúp đỡ người Pháp. Nhưng Alessandri lại hết sức cáu tiết vì tôi nhấn đi nhấn lại rằng ông ta phải giải quyết các vấn đề này ở những nơi khác và rõ ràng không bao giờ quên được cuộc gặp gỡ này. Về sau ông ta bị bắt buộc phải ngồi ở các cuộc hội nghị cấp chiến trường mà tôi cũng thỉnh thoảng tham gia với tư cách đại diện cho những quyền lợi của OSS ở Đông Dương, nhưng ông ta không bao giờ trực tiếp nói chuyện với tôi trong những cuộc gặp ấy. Tháng 9, ở Hà Nội, ông ta bày tỏ sự giận dữ của mình đến mức từ chối tham dự một cuộc họp mặt với tướng Lư Hán(12) mà bản thân ông ta được mời đến, nhưng tướng Gallagher(13) cũng lại mời tôi đến cuộc gặp mặt ấy với tư cách đứng đầu Phái đoàn quân sự Mỹ; với lý do, theo lời ông ta, “thiếu tá Patti không thân thiện với người Pháp”. Tướng Sabattier đã lên Côn Minh, đoán trước sẽ được một cuộc tiếp đón nồng nhiệt với tư cách là viên chỉ huy cao cấp của các lực lượng Pháp ở Trung Quốc và Tổng đại diện ở Đông Dương. Ông ta đã thất vọng khi không thấy người nào ngang hàng ra đón mình. Côn Minh chỉ là bản doanh của cấp gần nhất. Nơi chỉ huy này cách Trùng Khánh 400 dặm; ở Trùng Khánh, ông ta sẽ có thể gặp Tưởng Giới Thạch và những cố vấn gần gũi của Tưởng, Phái đoàn quân sự Pháp, tướng Wedemeyer và Bộ tham mưu của ông, và Đại sứ Mỹ. Cái gọi là phái đoàn quân sự Pháp ở Côn Minh thật ra là M.5 và đã bị SLFEO của “những bàn tay Trung Quốc cũ”(14) thanh trừng và trở thành trung tâm của phái De Gaulle ở Trung Quốc. Sabattier ở đây không có bạn bè. Những người theo De Gaulle ở Côn Minh hy vọng sẽ có một nhân vật xuất sắc đại diện cho “nước Pháp mới” - một người nào đó có bóng dáng cao lớn như Leclec, Catroux hay thậm chí Blaizot. Sabattier chỉ là một người giúp việc khốn khổ. Chính trị của ông ta là chính trị của một sĩ quan điển hình của quân đội chính quy Pháp, trung thành với nước Pháp, ủng hộ chế độ đang cầm quyền và nghiêm ngặt tuân theo luật lệ truyền thống về danh dự nhà binh. Với việc Aymé bị bắt, Sabauier trở nên người có cấp cao nhất trên sân khấu nắm giữ chức Tổng chỉ huy tất cả các lực lượng Pháp ở Đông Dương. Sau đó, với sự “biến mất” của Mordant, Sabattier đã được chỉ định thay mặt cho ông ta. Những người của SLFEO ở Côn Minh, rõ ràng chịu sự chỉ huy từ Calcutta, đã tung ra một chiến dịch làm mất uy tín của Sabattier trong con mắt của quân đội Pháp và của Phái đoàn quân sự Pháp ở Trùng Khánh, bằng cách để hở ra một phần bức điện ngày 10-4 của De Gaulle gửi Sabattier, trong đó nói: “Rõ ràng ông sẽ tiếp tục kháng chiến trên đất Đông Dương, bất chấp mọi khó khăn. Một điều cũng cần thiết như vậy là cá nhân ông phải ở lại Đông Dương cho đến giới hạn cùng tột...”(15). Cũng như những người ấy lúc đó đã cho lưu hành những lời lên án Sabattier rằng ông ta bao giờ cũng là người đầu tiên rời bỏ khu vực của người Nhật đe doạ - là người đầu tiên chạy khỏi Điện Biên Phủ 4 ngày trước khi quân của ông ta di chuyển, khỏi Phong Saly 3 ngày trước khi người Pháp tản cư khỏi khu vực và khỏi Muong Ou Tay 3 ngày trước khi rút lui. Những sự việc đi trước ấy là những biện pháp bảo đảm an toàn bình thường đối với một vị Tổng chỉ huy, nhưng những việc đó đã bị đẩy đi quá mức và do đó đã đẻ ra một hiệu quả tự hạ thấp mình xuống. Những người theo De Gaulle coi Sabattier là một “sự ngẫu nhiên trống rỗng của số phận”, nghi ngờ năng lực của ông ta trong việc mang croix de Lorraine(16) một cách lịch sự tới vũ đài chính trị ở Trùng Khánh. Mặc dù có sự chống đối do M.5 để lộ ra, Sabattier vẫn quyết định thiết lập một sở chỉ huy ở Côn Minh cho các lực lượng Pháp và đã ra lệnh cho Alessandri tiếp tục tổ chức và huấn luyện trong khi ông ta đến Trùng Khánh để thảo luận về việc sử dụng các đội quân của Pháp với Wedemeyer và Hà Ứng Khâm. Sabattier có vẻ tự tin và tỏ ra rất ủng hộ những mục tiêu của Đồng minh, nhưng phái De Gaulle chỉ nhìn thấy có Đông Dương, và những ngày của Sabattier ở Trung Quốc không được bao nhiêu. ________________________________________ (1) thuộc tổ liên lạc 19, đội không quân thứ 14 (2) chỉ huy chiến dịch Poitou để thu thập tình báo ở vùng biên giới Cao Bằng (3) Ban tình báo (4) Cuộc gặp gỡ đầu tiên diễn ra ngày 27-4-1945 (5) Hiến binh Nhật (6) Các kho dự trữ của quân Pháp và Nhật (7) chỉ huy trung đoàn 9RIC (Cool chỉ người dân tộc thiểu số ở miền núi cực bắc Việt Nam (9) Sở mật thám Pháp (10) tức Đông Dương (11) Tất nhiên! (12) khi đó là Tổng chỉ huy lực lượng chiếm đóng Đông Dương phía bắc vĩ tuyến 16 (13) trưởng đoàn cố vấn và viện trợ quân sự Mỹ cho quân đội Trung Quốc chiếm đóng Việt Nam (14) từ ngữ mà De Gaulle dùng để nói về việc bắt cầm tù Mordant tiếp sau cú 9-3 (15) G. Sabattier, “Số phận của Đông Dương” (16) huân chương Loraine Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #28 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2008, 04:03:25 PM » Chương 10 Một phiên họp của “bộ óc” ĐỘI OSS Vào lúc tôi rời Szemao ngày 12-5, Spaulding cùng với một đội 20 người đang điều khiển sau trạm thu tin dọc biên giới, tôi rất hài lòng. Trở về Côn Minh, tôi suy ngẫm làm sao để mở rộng những hoạt động của chúng tôi ở bên trong bằng những phương tiện của Sabattier và của ông Hồ có tại chỗ. Hồi đó Ban tham mưu của tôi ở Côn Minh đã tăng thêm những người mới từ Mỹ đến: trung uý (sau đó là đại uý) Roger P. Bernique, thuộc Lục quân; trung uý (sau đó là đại uý) Carleton Swift Jr., thuộc Hải quân và nhiều lính nghĩa vụ có trình độ cao được huấn luyện về tiếng Pháp và tiếng Việt. Với đội ấy và với sự giúp đỡ của những chuyên viên khác ở ban tham mưu OSS, chúng tôi bắt đầu cuộc hoạt động SI đối với Đông Dương trên qui mô đầy đủ. Ngay trước khi tôi bay trở về, một chỉ thị mới của chiến trường đã chỉ thị cho OSS “ngăn cản sự vận chuyển và phá hoại đường bộ và đường sắt từ Trấn Nam Quan đến Hà Nội”. Chỉ thị có một giọng cấp bách khác thường: “…trong trường hợp tất cả các đường sắt nằm trong hoạt động này, những đường sắt nào có thể tháo dỡ được thì… phá hủy, cả cầu và đường hầm cũng phá hủy. Ít nhất phải có những khúc đường bộ hay đường sắt dài 10 dặm sẽ không thể hoạt động được nữa. Không để cho người Nhật sử dụng đuờng giao thông… tâấ cả các hầm hố và các ụ đất (sẽ) được gài mìn… (và phải) tiến hành việc phá hủy các kho tàng tiếp tế của Nhật trong hoặc gần Hà Nội… các đội quân phá hoại phải bắt tù bình khi nào có thể đuợc”. Helliwell và tôi thảo luận bức điện ấy. Thật lạ lùng, chỉ thị quá chi tiết nhưng lại không xác định được mục tiêu rộng lớn; và chúng tôi đều ngạc nhiên về một anh chàng tài tử nào đó ở Bộ tham mưu đã vạch ra chỉ thị đó. Đây là một công việc thuộc SO/OG(1) chứ không phải thuộc SI, nhưng chúng tôi cũng hỏi Helliwell xem ông ta có chỉ thị gì cho tôi không. “Ngài đại tá hay nổi khùng” ấy, như ở một vài cơ quan thường gọi Helliwell như vậy, cáu kỉnh nói: “Đây là khu vực của anh, anh hãy tới đó”. Rõ ràng đó là lần đầu tiên tôi được báo cho biết là sựu phân công của tôi đi xa hơn việc tình báo bí mật. Với một giọng có phần gay gắt, Heliiwell báo cho tôi biết rằng nhiệm vụ của tôi bao hàm toàn bộ những hoạt động bí mật và chiến tranh chính trị. Helliwell nói rằng những chỉ thị của tướng Donovan cho Heppner đã đặc biệt nhấn mạnh rằng Whitaker và tôi sẽ chịu trách nhiệm trước ông ta(2) về những hoạt động ở Đông Dương. Vào lúc tôi vừa mới bắt tay vào hoạt động SI, tất cả những điều đó làm cho tôi ngạc nhiên phần nào nhưng Helliwell tiếp tục bảo đảm với tôi là tôi sẽ được tiếp xúc và được sự ủng hộ đầy đủ với tất cả các bộ phận tham mưu và ông ta tin rằng họ sẽ cộng tác với tôi. Ngày hôm sau, Heppner, Whitaker và Quentin Roosevelt(3) từ Trùng Khánh đến ở lại đây một thời gian ngắn. Họ cùng nhập bọn với Helliwell, Duncan Lee và tôi trong một dịp hiếm có - một bữa ăn Trung Quốc được sửa soạn đặc biệt với nhiều món ăn và chúng tôi ngồi nhắm rượu trắng Trung Quốc với rượu mạnh Ecosse của Anh suốt đêm. Những chuyến đi thăm thường xuyên lẫn nhau giữa cái nhóm nhỏ bé tin cậy nhau của chúng tôi được coi như những phương tiện duy nhất để chúng tôi quan hệ với nhau và trao đổi ngay thẳng với nhau những tin tức và quan điểm về chính sách và những hoạt động của Mỹ và tăng cường những liên hệ làm việc của chúng tôi bằng một mối quan hệ cá nhân. Heppner có một cái đầu lạnh và chúng tôi biết dựa một cách tin cậy vào sự phán đoán vững chắc của ông ta. Ông ta rất lịch thiệp và được ban tham mưu của mình ủng hộ mạnh mẽ, nhưng khi cần có thể cứng rắn được. Được tướng Donovan hoàn toàn tin cậy và được biết riêng về những cuộc thảo luận của Nhà Trắng, ông ta thường đụng phải vấn đề tế nhị nhất với các thủ lĩnh Trung Quốc, nhưng ông ta không bao giờ tỏ ra một thái độ quá bận rộn với một sự mệt mỏi khi nghe hay xem xét những vấn đề của chúng tôi, hoàn toàn ngược lại, bao giờ ông ta cũng vui vẻ và sẵn sàng. Whitaker dược Donovan giao cho thâm nhập các giới của người Pháp ở Trùng Khánh để báo cho Washington những kế hoạch của Pháp. Đối với công việc được giao ấy, ông ta có lợi thế là đã trải qua 20 năm ở châu Âu như một nhà văn và nhà báo Mỹ. Ông ta có bạn bè ở khắp châu Âu, đặc biệt trong những người Pháp, và có một phong cách tao nhã, một nhân cách xuất sắc và một sự hiểu biết sâu sắc về chính trị châu Âu. Ông ta có mặt trên sân khấu với tư cách là một nhà báo khi Hội Quốc liên suy tàn và chết, đã tới Matxcơva để tìm “sự thật” và trở về vỡ mộng, và đã viết cả một loạt bài từ Ethiopia đến Tây Ban Nha và từ cuộc thanh lọc của Hitler năm 1934 đến cuộc chính biến ở Viên với tư cách phóng viên chiến tranh.
Ông ta cảm thấy rằng mình bị ràng buộc một cách sâu sắc với cuộc chiến tranh chống nước Đức và nước Nhật, và hy vọng nước Mỹ cuối cùng sẽ khắc phục được sự yếu ớt của mình là cái đã từng phá hoại Hội Quốc liên cũ. Helliwell là một nhân vật quyết định và ông ta đau khổ như một người đang ốm ở khi những quyết định chính trị làm trì hoãn những kế hoạch và hành động của mình. Ông ta ít tỏ ra sôi nổi, nhưng thỉnh thoảng những cơn bực dọc của ông ta làm cho ông ta trở nên giận dữ, ông ta không phải là một người ưa những sự nhỏ nhặt hay những ác cảm. Khi khí sắc tươi tỉnh, ông ta hăng hái thúc đẩy mọi hoạt động, ủng hộ và khích lệ, lôi kéo mọi người theo mình và tự mình lao vào việc một cách hăng hái nhất. Quentin Roosevelt là cháu Tổng thống Theodore Roosevelt. Chắc chắn anh ta được đặt tên theo tên người chú đã bị giết trong Thế chiến thứ nhất. Hồi ấy anh ta mới 25 tuổi hay vào khoảng đó, và được bạn bè gọi là anh “Q”.
Anh ta có vẻ rất thoải mái trong môi trường Trung Quốc và nói tiếng Trung Quốc khá thành thạo. Bố anh ta, Theodore Roosevelt Jr., là một người bạn cũ và thân thiết của Tưởng và vợ. Điều rất quan trọng đối với chúng tôi là anh ta hiểu biết sâu sắc suy nghĩ của các cố vấn của Tưởng, anh ta cũng là một người bạn tốt và là một người kể chuyện tế thị. Duncan Lee là một nhà Trung Quốc học; đẻ ở Trung Quốc, bố mẹ là những nhà truyền giáo, nói thạo tiếng Trong Quốc, có phần văn vẻ nữa. Trong đời sống bình thường, ông ta là một luật sư cũng giống như những luật sư khác và cũng đã từng tốt nghiệp trường Đại học Oxford. Lee cũng đã từng làm trưởng chi nhánh Viễn Đông của OSS ở Washington, nơi chúng tôi gặp nhau lần dầu tiên, và kiến thức của ông ta rất có ích cho chúng tôi. Ông ta là người dễ ưa và dễ làm quen.
CARBONADO
Những tin tức quan trọng vào buổi chiều do Heppner cung cấp là tuyệt mật. Wedemever (vừa mới từ Washington về) đang chuẩn bị một cuộc tấn công đần tiên của Mỹ ở Trung Quốc, theo tên mật mã là Carbonado. Đó là một cuộc tấn công trên đất liền, dọc theo đường Quế Lâm - Liễu Châu - Nam Ninh để bảo vệ khu vực Quảng Châu - Hongkong, sau đó mở những cảng lớn ở phía nam Trung Quốc để tiếp nhận quân đội từ châu Âu và Phillipine đến.
Ngày mở đầu cuộc hành quân được dự định chỉ còn ba tháng rưỡi nữa, tức là vào ngày 1-9, và cuộc tấn công kết thúc vào ngày 1-11-1945. Để dạo đầu cho Carbonado, Wedemeyer cần mở một cảng nhỏ Fort Bayard (Chanchiang) nằm trên bán đảo Lôi Châu, cách Quảng Châu chừng 250 dặm về phía tây nam, như là một căn cứ tiếp tế sắp tới để duy trì cuộc tấn công Carbonado. Hepper nhấn mạnh tầm quan trọng của những hoạt động của OSS chúng tôi, vì Wedemeyer và Bộ tham mưu của ông ta buộc chúng tôi cung cấp rất nhiều tin tức tình báo và phải quấy rối người Nhật ở khu vực tấn công được dự tính. Tướng Mc Clure(4) cũng yêu cầu OSS mở đầu cuộc hành quân này bằng cách đánh du kích (SO), phá hoại (OG) và hoạt động tâm lý (MO).
Điều đó đặc biệt quan trọng để ngăn quân Nhật ở Đông Dương tăng cường những vị trí của họ nằm trên khu vực của những cuộc hành quân Carbonado. Tất nhiên, đó là những điểm đặc biệt trong bản chỉ thị mà Helhwell và tôi đã chế giễu. Whitaker nói rằng khu Hà Nội - Trấn Nam Quan sẽ là “người yêu” của tôi và tuyến Trấn Nam Quan - Nam Ninh sẽ bị hạm đội Mỹ cắt đứt. Khi báo cho tôi, Whitaker nói rằng ông ta đã gặp tướng Pechkov và Sabattier, thấy rõ họ sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi và hỏi ý kiến của tôi. Helliwell nhăn mặt, tôi nhận thấy thế, khi Heppner và Lee ngồi lùi ra với những bộ mặt nghiêm trọng còn Q thì nở một nụ cười sung sướng. Tôi suy nghĩ một lát và nói: “Chắc chắn như vậy, sao lại không?
Chỉ cần chúng tôi có đủ thời gian và được ủng hộ về hậu cần, và nếu như người Pháp không phản đối đánh nhau ở Trung Quốc”. Nhưng tôi nói với ông ta rằng, theo chỗ tôi biết về điều kiện của họ và về những kế hoạch của họ, tôi hoài nghi việc đánh nhau ở Trung Quốc được đặt lên một vị trí cao trong danh mục những ưu tiên của họ.
Hơn nữa, tôi cho rằng mục tiêu duy nhất của họ lúc này là tránh khỏi người Nhật càng xa càng hay. Thật ra nếu ông ta hỏi tôi, tôi sẽ gợi ý là nên gửi họ đến một trung tâm hồi phục ít ra là 6 tháng nữa. Whitaker im lặng một lát với một vẻ khổ sở, để lộ ra một sự thất vọng đối với tôi. Sau đó ông ta hỏi: “Làm thế nào ông định hoạt động Đông Dương mà không có người Pháp được?”. Tôi bắt đầu mất kiên nhẫn và trong khi mọi người đều lặng thinh, tôi nói: “Ta hãy xem John có thật nghiêm túc không? Các ông đã nhìn thấy những người lánh nạn chưa?
Những đội quân ấy, thật ra, không nhìn thấy bất cứ một thứ vũ khí hiện đại nào hay học những chiến thuật mới nào từ năm 1940. Họ vẫn còn sống trong Thế chiến thứ nhất”. Whitaker không thể giữ mãi tư thế cũ. Mọi người phá lên cười vì cái điều tôi đã phát hiện ra ấy, tôi trở thành cái bia của một sự đùa cợt nhỏ của Whitaker - ông ta giễu cợt tôi suốt buổi. Điều đó đã làm cho tôi rụt lại một lúc.
Khi những tiếng la hét và những tiếng cười ha hả lắng đi, Q nói với chúng tôi rằng Pechkov là một vấn đề nặng nề với tướng Hà Ứng Khâm, vì ông ta đòi hỏi mọi thứ cung cấp và vậnn chuyển, và yêu cầu trang bị “4.000”(?) người Pháp chiến đấu để đánh người Nhật ở Đông Dương.
Ông Jean Daridan, đại diện của Đại sứ quán Pháp ở Trung Quốc, đã khẩn nài Đại sứ quán Mỹ dùng ảnh hưởng của mình đối với Tưởng nhằm tổ chức những hoạt động bí mật của Pháp ở Đông Dương. Tướng Cheng Cheng, Bộ trưởng chiến tranh Trung Quốc, đã hai lần từ chối gặp Pechkov cũng như Sabattier để thảo luận vấn đề về sử dụng các lực lượng Pháp ở Trung Quốc. Ông ta lịch sự bảo họ đến gặp tướng Hà.
Heppner ước đoán về con số quân đội mà Sabattier có thể tập hợp được trong thực tế. Ông ta nghe nói tới những con số khác nhau, từ 1.000 đến 6.000người.
Dù nhiều đến đâu, ý kiến của ông ta là những số quân ấy có thể được sử dụng tốt nhất như những đội quân yểm trợ ở các khu vực hậu phương của Cục quân nhu (thuộc OSS). Whitaker nghĩ tới việc có thể sử dụng một số ít vào công tác tình báo, miễn là OSS giữ quyền kiểm soát các hoạt động. Helliwell gợi ý rằng nếu Sabattier tổ chức được vài trăm người tự nguyện và có năng lực thì họ có thể sử dụng vào những hoạt động du kích và phá hoại. Rõ ràng là có một vai trò dành cho một số đội quân người Pháp trong các kế hoạch của Đồng minh nếu họ bằng lòng chấp nhận sự lãnh đạo và kiểm soát của Đồng minh.
Dù nhiều đến đâu, ý kiến của ông ta là những số quân ấy có thể được sử dụng tốt nhất như những đội quân yểm trợ ở các khu vực hậu phương của Cục quân nhu (thuộc OSS). Whitaker nghĩ tới việc có thể sử dụng một số ít vào công tác tình báo, miễn là OSS giữ quyền kiểm soát các hoạt động. Helliwell gợi ý rằng nếu Sabattier tổ chức được vài trăm người tự nguyện và có năng lực thì họ có thể sử dụng vào những hoạt động du kích và phá hoại. Rõ ràng là có một vai trò dành cho một số đội quân người Pháp trong các kế hoạch của Đồng minh nếu họ bằng lòng chấp nhận sự lãnh đạo và kiểm soát của Đồng minh.
Theo sự gợi ý của Whitaker và Helliwell, tôi đã đề nghị đưa M.5 về gần Côn Minh để thu xếp việc tuyển lựa và huấn luyện một đội quân nhỏ cho những hoạt động SI, SO và OG. Heppner không đồng ý. Thay vào đó, ông ta yêu cầu tôi triển khai một kế hoạch mà ông ta và Whitaker đã vạch ra với Sabattier ở Trùng Khánh. Wedemeyer và Donovan rất nhạy cảm với quan hệ với người Pháp và, ông ta nói, tốt hơn cả là nên bàn luận vấn đề đó lúc đầu ở cấp Chiến trường và Đại sứ quán. Mc Clure sẵn sàng thảo luận với tướng Sabattier về khả năng sử dụng một số hạn chế quân Pháp phối hợp với người Trung Quốc ở đông bắc Trung Quốc. Whitaker đồng ý rằng chúng ta ở Côn Minh không nên dính vào chuyện này cho đến lúc mọi việc được sáng tỏ ở Trùng Khánh. Đặc biệt về sự tranh chấp giữa những người Pháp theo De Gaulle ở M.5 và Bộ tham mưu Pháp ở Trùng Khánh. Ông ta cũng thấy những cuộc xung đột cá nhân giữa Sabattier, Alessandri và Pechkov. Hai người sau này đều là những sĩ quan lê dương(5), đã từng cộng tác với phái De Gaulle thuộc SLFEO/Calcutta trong một chiến dịch mà Sabattier bị gọi về Pháp, theo ông ta nói.
Tôi nêu lên vấn đề người Việt Nam, mô tả lại những cuộc tiếp xúc mới đây của tôi, và nói rằng tôi tán thành sử dụng lực lượng dự trữ chưa đặt quan hệ ấy. Phản ứng đầu tiên của những vị khách Trùng Khánh của chúng tôi là tiêu cực. Whitaker và Roosevelt đều cảm thấy người Pháp và người Trung Quốc sẽ mếch lòng với sự tiếp xúc của chúng ta với những người Cộng sản Việt Nam. Heppner cũng thấy trước vấn đề ấy, nhưng cho rằng lúc này chúng ta vẫn chưa có một sự lựa chọn nào, và ông ta thấy không có gì gay go trong vấn đề ấy chừng nào chúng ta tách khỏi chính trị và hành động êm thấm, ở cấp thấp. Lee và Helliwell tán thành sử dụng người của Hồ Chí Minh, nhưng rất thận trọng. Với một vẻ hoài nghi, Lee muốn biết xem chúng tôi làm thế nào để cho Tai Li không khám phá ra được việc này. Tôi nói: “Để việc đó cho tôi”, và Whitaker hết sức ủng hộ tôi và nói với họ rằng tôi đã từng thành công ở Ý, khi làm việc bên cạnh những người Cộng sản, những người quân chủ và những kẻ phát xít Ý mà không để họ khám phá ra những hoạt động đồng thời tiến hành ấy.
Cuộc nói chuyện chuyển sang những sự kiện ở Trùng Khánh. Whitaker nói với chúng tôi rằng 6 tuần lễ trước khi xảy ra cuộc đảo chính của Nhật, đại tá Jacques Guilermag(6) đã đích thân báo tin cho Wedemeyer rằng người Nhật đang hoạt động mạnh mẽ ở Đông Dương và hậu quả là người Pháp thấy trước mình sẽ bị tước mất vũ khí và quyền lực. Ấy thế mà, khi điều đó xảy ra, người Pháp đã tỏ ra ngạc nhiên và kêu gọi sự giúp đỡ của Mỹ. Sau đảo chính, Pechkov đã đưa ra những yêu sách vô nghĩa lý của một phong trào kháng chiến không tồn tại và muốn trách cứ Mỹ về sự sụp đổ ấy, đúng như Vichy và Catroux đã làm năm 1940. Việc họ thiếu nhìn xa và thiếu kiên quyết chống lại đã để cho Nhật giành được một sự kiểm soát chiến lược không chối cãi được ở Đông Nam Á và đặt Trung Quốc vào một thế nguy hiểm. Cả Tưởng lẫn Wedemeyer đều tỏ ra hết sức thất vọng với người Pháp.
Logged
(ak47)
Thành viên
*
Bài viết: 123
Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti
« Trả lời #29 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2008, 04:04:25 PM »
DE GAULLE VÀ QUỸ ĐẠO NƯỚC NGA
Ba ngày trước cuộc đảo chính, đại sứ Pháp ở Washington, Henri Bonnet, đã vẽ lên cho Bộ Ngoại giao chúng ta một bức tranh rực rỡ về “cuộc kháng chiến của Pháp ở Đông Dương và có một số đông những người bản xứ tham gia”. Ông ta yêu cầu Mỹ giúp đỡ cho những người maquisards(7) giúp thành lập một tổ chức dân sự hỗn hợp và chấp nhận việc ủy nhiệm tướng Blaizot liên lạc với tướng Wedemeyer. Bonnet được nói cho biết là không có những người maquisards ở Đông Dương, những kế hoạch dân sự còn quá sớm và tướng Weaemeyer khi được hỏi đã trả lòi rằng lúc này ông ta không cần đến một sĩ quan Pháp ở Bộ tham mưu của mình.
Whitaker cũng được biết một sức ép nặng nề vẫn đang được thực hiện.
Tướng De Gaullle đã nói với đại sứ chúng ta ở Paris, Jefferson Caffery, rằng người Pháp ở Đông Dương đã tổ chức một “cuộc chiến đấu thực sự” nhưng không được sự giúp đỡ của cả người Mỹ lẫn người Anh. De Gaulle cho biết rằng người Mỹ được chỉ thị không giúp đỡ gì cả và người Anh cũng đi theo sự lãnh đạo của Mỹ. De Gaulle nói rằng ông ta không hiểu được chính sách của Mỹ. Chúng tôi phải làm thế nào đây, chẳng lẽ lại kéo nước Pháp vào quỹ đạo nước Nga chăng? Nước Pháp không cần trở thành Cộng sản, nhưng nếu như chính sách của chúng ta không thay đổi thì ông ta sợ sẽ xảy ra như thế, dù ngược lại với ý muốn của ông ta.
Mườì ngày sau cuộc đảo chính, khi người Pháp đang vượt qua biên giới Trung Quốc, Bonnet vẫn cố thuyết phục Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao rằng những người maquisards vẫn chống cự một cách anh dũng ở Đông Dương, rằng chỉ vì thiếu viện trợ của Mỹ nên họ không thể chiến đấu tốt được. Whitaker nói với chúng ta đã gửi hàng trăm tấn hàng cho người Pháp trong cuộc rút lui của họ, nhưng đã bị người Nhật nhặt được.
Tôi không thể nào không nói lên nhận xét của mình rằng khi nhìn thấy hoàn cảnh cơ cực của đội quân Pháp, thì người ta không thể nào tin được rằng chúng ta đã không thả dù tiếp tế cho họ chút nào.
Sau đó Heppner báo cho chúng tôi rằng đã nghe được những tin đồn từ các nguồn của Pháp nói rằng chính sách của Mỹ về Đông Dương đã thay đổi và trong cuộc nói chuyện riêng với các nhân vật chính thức cao cấp Pháp ở Hội nghị San Francisco ở Liên Hợp Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao chúng ra đã nói rằng Mỹ không bao giờ nghi ngờ về chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Heppner nói rằng ông ta đã kiểm tra các nguồn tin ấy ở Hurley và Wedemeyer và biết rằng chính sách của Mỹ không thay đổi. Quay sang tôi, ông ta nói: “Những chỉ thị của Donovan cho ông vẫn giữ nguyên.
Chúng ta không được cộng tác bằng bất cứ cách nào với kế hoạch trở về của Pháp. Nói cách khác, cho đến lúc nào ông không nghe thấy một cái gì khác từ 109 (tên mật mã của tướng Donovan), thì vẫn tiếp tục làm như đã đồng ý”. Whitaker nói thêm rằng khi nào và nếu như chính sách thay đổi, 109 sẽ thay đổi sự phân công của tôi đối với bên nước.
Xen kẽ với những cuộc thảo luận ấy về Đông Dương, đã có những cuộc nói chuyện về những vấn đề khác, bao gồm cả hoạt động của Cộng sản Trung Quốc - OSS ở Diên An, dự án đặc biệt của Helliwel (“Chim ưng”) để thâm nhập Triều Tiên và dự án SEAC-OSS ở miền Nam Đông Dương và Thái Lan. Cuộc gặp mặt kết thúc rất muộn.
BẢN BÁO CÁO ĐẦU TIÊN CỦA ÔNG HỒ
Tôi đã nhận được một báo cáo tình báo thú vị của Hồ Chí Minh, cùng với hai bài viết chính trị gửi cho phái đoàn Mỹ ở hội nghị Liên Hợp Quốc. Tôi đưa hai bài ấy cho Whitaker, ông ta quyết định chuyển tiếp cho Đại sứ quán Mỹ; một bài gửi cho giới lãnh đạo Mỹ, Trung Quốc, Anh và Liên Xô, và bài kia là một bức thư ngỏ cho Liên Hợp Quốc(Cool. Cả hai bài đều kêu gọi ủng hộ nền độc lập của Việt Nam.
Những văn kiện ấy đều ký tên “Quốc dân đảng Đông Dương (Annam)”.
Cái tên ấy có nghĩa là một chi nhánh của Quốc dân đảng (Trung Quốc); nhưng theo tôi, nguồn gốc thật sự của nó là Việt Minh. Đảng quốc dân Đông Dương là một nhóm gồm 5 đảng đã hợp nhất vào Đồng minh Hội năm 1942, nhưng sau đó đã lập thành Đông Dương Độc lập Đồng minh Hội. Vì những văn kiện ấy là từ ông Hồ gửi đến, nên tôi không nghi ngờ gì rằng ông đã dùng cái tên cũ để không lộ ra chân tướng của Việt Minh. Ngay cả trong bản viết bằng tiếng Anh, đường lối của đảng ông đã được trình bày mạnh mẽ và rõ ràng.
Bản báo cáo tình báo kèm theo những bài viết gồm một số trang đánh máy có pha thêm những mẩu chuyện về những mối liên hệ thân thiện Pháp - Nhật và sự đau khổ của người Việt Nam vì cả hai đều làm cho họ thất vọng; tất cả những điều đó chúng tôi đều trừ hao đi vì những lý do chính trị. Tuy nhiên, nó cũng cho một thông tin có ích để nhận biết một vài đơn vị của sư đoàn Nhật Bản 37, chỗ đóng quân của nó chỉ mới cách đây vài ngày và tên của một vài sĩ quan cao cấp. Mở đầu như thế không phải là xấu, Phòng tác chiến của chúng tôi đã xác nhận một phần của nó và còn tỏ ra muốn chấp nhận những điều còn lại.
Tôi lấy làm hài lòng và Whitaker cũng tỏ ra cảm kích.
Mấy ngày sau đó, tôi nhận được qua đường dây một bản báo cáo thứ hai của ông Hồ với nhiều tin tức quân sự hơn. Lần này báo cáo đã cung cấp những chi tiết về việc xây dựng công sự mới của Nhật và những cải tiến công sự hiện có do Pháp xây dựng ở vùng Cao Bằng và trên đường về Hà Nội. Việc xác định lần đầu tiên những đơn vị của Quân đoàn 38 của Nhật và đặc biệt những đơn vị của Sư đoàn 32 ở vùng biên giới Cao Bằng đã gây nên một hứng thú to lớn ở phòng tác chiến của chúng tôi cũng như ở cấp Chiến trường.
Ông Hồ đã gắn một mảnh giấy nhỏ viết bằng tiếng Anh hỏi xem hai văn kiện chính trị có đáng gửi đi San Francisco không. Tôi nói với người mang thư đến - người này đợi tôi trả lời - rằng những văn kiện ấy đã được gửi đến các nhà chức trách hữu quan ở Trùng Khánh, nhưng tôi không thể chắc chắn là chúng đến được với phái đoàn ở San Francisco. Về sau, tôi đã có thể xác định rằng đó là lần đầu tiên ông Hồ có ý định đưa sự nghiệp của mình tới sự chú ý của Liên Hợp Quốc. Tất nhiên, đó là 32 năm trước khi một Chính phủ Việt Nam độc lập được thừa nhận là hội viên của nó.
________________________________________
(1) Tổ công tác đặc biệt, lực lượng biệt kích phá hoại
(2) Heppner
(3) Thiếu tá, sĩ quan liên lạc của OSS với Tưởng
(4) Trung tướng, tham mưu trưởng chiến trường Trung Hoa, tư lệnh quân dã chiến Mỹ tại Trung Quốc
(5) Légions: lực lượng quân đội gồm những người nước ngoài mang quốc tịch Pháp.
(6) Tuỳ viên quân sự Pháp tại Đại sứ quấn ở Trùng Khánh
(7) Du kích chiến khu - tiếng Pháp
(Cool Lời kêu gọi được viết bằng 2 thứ tiếng Việt và Anh
No comments:
Post a Comment