Phê phán hệ tư tưởng Mác-xít
Chương 9
Tháng Năm 1968 những biến
động ở Pháp cũng như nhiều nơi trên thế giới chứng thực một điều: đảng
Cộng sản không đáp ứng được yêu cầu cách mạng, không phải là đội ngũ
tiền phong của giai cấp công nhân như trong tuyên ngôn hay đề cương hành
động đã nêu. Cuốn sách của một nhà triết học trẻ người Pháp Jean-Marie
Benoist có nhan đề là Marx đã chết/Marx est mort báo hiệu
sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản. Sở dĩ nói chủ nghĩa cộng sản cáo
chung để chỉ ý thức hệ mác xít áp dụng và thực tiễn, như Benoist nhắc
đến những mảnh vụn hỗn độn mang những trầm tích Lenin, Mao, Trotsky,
Castro...
Sự khủng hoảng của chủ nghĩa cộng
sản không phải chỉ diễn ra trong mấy thập niên nửa sau thế kỷ hai mươi.
Nó đã manh nha từ sự thất bại trong chính sách kinh tế ở thời đại Lenin
và sự giải thể Quốc tế Cộng sản III. Ngay vào đêm hôm trước của thế
chiến thứ Hai bùng nổ, Franz Borkenau một cựu đảng viên cộng sản trong
cuốn sách phân tích Cộng sản thế giới (1939) đã chỉ ra những mầm
mống tan rã của cơ sở cách mạng cộng sản. Vào thập niên 1950, một cựu
đảng viên cộng sản Nam tư, Milovan Djilas đã phê phán kịch liệt cuộc
khủng hoảng nội tại của trung tâm quyền bính cộng sản. Trong cuộc hội
nghị tại Venice năm 1977, một nhà lý luận trung kiên của đảng cộng sản
Pháp, Louis Althusser đã nói đến “cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa Mác” qua mối liên hệ với vận mệnh của khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu:
“Điều
gì diễn ra ở những nước Đông Âu cũng thấm sâu trực tiếp vào chúng ta,
vì những gì xảy ra ở nơi đó cũng xảy đến với chúng ta. Tất cả những điều
diễn ra ở những nước này liên quan tức thời với chúng ta, có ảnh hưởng
tới những viễn tượng của chúng ta, mục tiêu đấu tranh, lý luận và thực
tiễn.”
Sự khủng hoảng của chủ nghĩa cộng
sản không phải là một hiện tượng đơn giản, vì nó đánh động đến tận cốt
lõi phong trào Cộng sản Quốc tế, như Althusser nhìn nhận:
“Chính
chúng ta (những người cộng sản) có thể không những chỉ thấy chủ nghĩa
cộng sản, chúng ta đang kinh qua sự khủng hoảng này trong một thời gian
dài.”
Quan
điểm của người cộng sản thì như thế. Còn đối với những người không cộng
sản ra sao? Tháng 8 năm 1988, một năm trước biến chuyển tại Ba lan đã
đưa phong trào Solidarnosc trở thành một lực lượng chính trị có quyền
bính, một học giả Mỹ gốc Ba lan Zbigniew K. Brzezinski đã hoàn tất cuốn
sách Sự phá sản vĩ đại/The Grand Failure với tiểu đề: Sự ra đời và kết thúc chủ nghĩa cộng sản ở thế kỷ hai mươi.
Tác phẩm này đã báo hiệu một năm trước khi những biến chuyển chính trị
quan trọng xảy ra tại các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu: thủ tiêu sự
lãnh đạo độc đảng cộng sản, những chính đảng đối lập hoạt động trong
sinh hoạt chính trị nghị trường, thậm chí cải danh hoặc giải thể đảng
cộng sản và quốc hiệu. Ngay trong giòng mở đầu, Brzezinski khẳng định:
Đây là một quyển sách bàn về sự khủng hoảng tận cùng của chủ nghĩa cộng
sản.
Tác phẩm này có một tầm quan trọng
đáng kể vì nó đã tổng kết những thất bại của chủ nghĩa cộng sản trong
quá trình thực hiện quyền lực - từ sự tan rã của một khối chính trị tập
trung duy nhất đến sự phá sản kinh tế xã hội và phân hóa toàn diện về
mặt ý thức hệ - để sau cùng đi đến khẳng định về “sự hấp hối của chủ nghĩa cộng sản”. tác giả viết quyển sách trong hối hả vì “với
tốc độ gia tăng về sự tan rã lịch sử của chủ nghĩa cộng sản, dường như
những biến cố quan trọng sắp tới sẽ xảy ra trước khi quyển sách tới tay
người đọc.”
Tác giả đã mô tả và phân tích “sự mục nát tiếp diễn và sự hấp hối trầm trọng của cả hệ thống lẫn tín điều cộng sản” để đi đến kết luận “là
trong thế kỷ tới, sự suy thoái lịch sử không thể đảo ngược của chủ
nghĩa cộng sản khiến cho thực tiễn và tín điều của chủ nghĩa cộng sản
không còn thích nghi rộng rãi đối với thân phận con người.”
Lý luận trong cuốn sách được dàn trải qua sáu phần:
-
Vấn đề then chốt trong tấn bi kịch lịch sử của chủ nghĩa cộng sản là sự
phá sản về mặt kinh tế xã hội và chính trị trong hệ thống Xô viết.
-
Những toan tính cải cách hoặc tăng cường hiệu lực của guồng máy Xô viết
không cứu vãn được sự lũng đoạn, mục nát của chế độ cộng sản.
- Sự áp đặt chủ nghĩa cộng sản trên vùng đất Đông Âu đang diễn ra quá trình từ bỏ chế độ cộng sản.
- Những cơ hội thành công trong quá trình cải cách tại Trung quốc.
- Sự suy thoái của Quốc tế Cộng sản về mặt chính trị và tư tưởng.
- Cơn hấp hối sau cùng của chủ nghĩa cộng sản và hiện tượng hậu cộng sản.
Sở
dĩ tôi đưa ra luận điểm của Brzezinski là vì trong những sách vở bàn về
chủ nghĩa cộng sản, tác phẩm Sự phá sản vĩ đại cả ông là tư liệu nghiên
cứu mới nhất, đề cập rốt ráo đến vấn đề tổng khủng hoảng của chủ nghĩa
cộng sản. Brzezinski cũng đưa ra một viễn tượng về thời đại hậu cộng
sản.
Luận điểm chính trong tác phẩm của
Brzezinski nhằm phân tích nghịch lý trong chính sách cải cách hiện đại
của Liên Xô. Theo ông, sửa đổi hệ thống Liên Xô hiện hữu cần phải phá
hủy những tầng lớp lịch sử tích lũy từ thời Lenin (cấu trúc xã hội theo
đường lối một đảng cai trị toàn diện) qua thời kỳ Stalin (xã hội phụ
thuộc vào một nhà nước cai trị toàn diện) tới thời kỳ Brezhnev (một nhà
nước đình trệ toàn diện thống trị bởi một đảng cai trị toàn diện lũng
đoạn). Chính sách thời Gorbachev vẫn lẩn quẩn trong vòng mâu thuẫn giữa
những đòi hỏi phá hủy sự tập trung quyền lực để đem lại tiến bộ kinh tế
với những yêu cầu tập trung để bảo đảm sự ổn định chính trị. Cho nên hai
mặt trong đường lối cải cách của Gorbachev là hai mặt đối lập giữa tái
cấu trúc/cởi mở. Trong diễn văn khai mạc Hội nghị đặc biệt của Đảng lần
thứ 19 vào tháng Sáu 1988, Gorbachev nhận định: Vấn đề chủ yếu là cải
cách hệ thống chính trị của chúng ta.
Như
vậy mối quan tâm sửa đổi đường lối kinh tế để tìm ra lối thoát tiến bộ
phải đi đôi với thay đổi cơ cấu chính trị. Chủ trương đó phải đương đầu
với một thực tại rõ rệt: tái cấu trúc (perestroika) nhằm cải cách từ bên
trên phải dựa vào những áp lực từ bên dưới qua chính sách cởi mở
(glasnost) song chủ trương cải cách lại cơ cấu không thể từ trên mây rớt
xuống, phải xuất phát từ hạ tầng xã hội, nghĩa là phải thông qua đường
lối dân chủ hóa (demokratizatsiia). Như Gorbachev nhắc nhở Ủy ban Trung
ương Đảng vào tháng Hai năm 1988: “Thưa
các đồng chí, điều chủ yếu là dân chủ hóa... Trong giai đoạn mới của
tái cấu trúc, đảng chỉ có thể bảo đảm sự lãnh đạo, vai trò tiền phong và
động viên quần chúng qua những phương pháp dân chủ.” Song làm thế nào thực hiện được dân chủ? Gorbachev nhìn nhận: “Sự giáo hóa chính trị của chúng ta vẫn chưa thỏa đáng. Chúng ta còn đang học hỏi.”
Tuy
nhiên hình thành một nền văn hóa chính trị mới thiết yếu phải đòi hỏi
một biến đổi chính trị trọng đại - nghĩa là phải từ bỏ hai nguồn cơ sở
chính trị Xô viết: chủ nghĩa Lenin và chủ nghĩa Stalin. Sự xung đột nội
bộ trong hàng ngũ lãnh đạo Xô viết cho thấy mối tranh chấp vẫn xuất phát
từ quan điểm của chủ nghĩa Lenin như Brzezinski nhận định:
“Chủ
nghĩa Lenin vẫn là nòng cốt theo ý nghĩa chính thống lịch sử của tầng
lớp trí thức lãnh đạo, hợp thức hóa việc đòi hỏi quyền lực. Bất kỳ sự từ
bỏ nào cũng có nghĩa tự vận về mặt chính trị tập thể.”
Từ
bỏ chủ nghĩa Lenin và chủ nghĩa Stalin có nghĩa là từ bỏ toàn bộ thời
đại cộng sản, cho nên Gorbachev không có chọn lựa nào khác hơn là phải
xác định chính sách perestroika xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Lenin và
như vậy vẫn phải chủ trương đảng độc quyền lãnh đạo và là cơ sở duy nhất
nắm giữ tất cả chân lý. Cho nên những trở ngại chính trị trong chính
sách perestroika không thể nào vượt qua được.
Nhận
định về tương lai của chủ nghĩa cộng sản Đông Âu, Brzezinski đã chỉ ra
một sự kiện cơ bản là chủ nghĩa Mác-Lenin như một học thuyết xa lạ áp
đặt lên vùng đất này bằng một quyền lực khống chế toàn diện về mặt văn
hóa đã không thích hợp với nhân dân bị thống trị tại những nước này. Cho
nên một quá trình từ bỏ đang diễn ra, giống như hiện tượng con người đề
kháng lại một bộ phận đem tháp vào cơ thể. Ngay từ tác phẩm Khối Xô viết/The Soviet Bloc
xuất bản vào năm 1960, Brzezinski đã tìm hiểu tình hình biến động của
khối cộng sản, ở đó sự xung đột khuynh loát sự thống nhất. Ông nhận
định:
“Dầu
tương lai của khối Xô viết diễn ra như thế nào đi nữa, có một điều chắc
chắn là nỗ lực xây dựng sự thống nhất bền vững trong khối cộng sản đã
đưa giới lãnh đạo Liên Xô cũng như những nước cộng sản khác vào một kinh
nghiệm khó khăn, không còn ảo tưởng.”
Và ông tiên liệu khối Xô viết sớm muộn rồi cũng rơi vào số phận những hệ thống đế quốc khác.
Trong Sự phá sản vĩ đại
(1988) ông đã chỉ ra hai thế lực xung đột trong cơ cấu xây dựng đế quốc
Xô viết là một quá trình tự giải phóng khỏi sự kiềm chế của Liên Xô về
mặt ý thức hệ, mâu thuẫn với những nỗ lực tăng cường sự hợp nhất kinh
tế- quân sự tại các nước Đông Âu đang diễn ra một cuộc đấu tranh quyết
liệt nhằm thủ tiêu độc quyền của đảng cộng sản và sự thống trị của Liên
Xô, cuộc đấu tranh ấy như một điều kiện tiên quyết tất yếu cho sự tái
sinh xã hội. Nếu như hiện tình Liên Xô cho thấy nỗ lực tái thiết kinh tế
phải đánh đổi bằng cái giá bất ổn về chính trị, thì sự phá sản kinh tế
cộng sản trở thành một “đội quân thứ năm” bí mật của lực lượng đa nguyên dân chủ tại các nước cộng sản hiện nay.
Quá
trình cải cách của chủ nghĩa cộng sản tại Trung quốc dưới mắt
Brzezinski có vẻ thành công, nhưng cũng đánh đổi bằng giá từ bỏ sự chính
thống tư tưởng và chính trị. Nó nẩy sinh ra một giai cấp mại bản dưới
sự bảo trợ của nhà nước và ông mệnh danh là một loại “chủ nghĩa cộng sản mại bản”.
Brzezinski nhận định sự khác biệt giữa Trung quốc và những nước anh em
trong khối Xô viết ở chỗ người cộng sản Trung quốc gắn liền tư tưởng của
họ với bản thân lịch sử của Trung quốc và truyền thống cũng như giá trị
tồn tại của riêng nó. Phân tích những bước đổi mới của Cộng sản Trung
quốc dưới sự lãnh đạo của Đặng tiểu Bình và Triệu Tử Dương, từ chiến
lược cải cách bốn hiện đại (nông nghiệp, công nghiệp, khoa học kỹ thuật
và quốc phòng), sự cần thiết của biến đổi chính trị cơ bản, sự uyển
chuyển ý thức hệ, “giai đoạn sơ khởi của chủ nghĩa xã hội.” Vấn đề tiên quyết của tái cấu trúc chính trị, hoàn cảnh lịch sử của Trung quốc như Triệu Tử Dương khẳng định: “Chúng
ta không ở trong hoàn cảnh mà những nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác đương
đầu...cho nên chúng ta không thể mù quáng tuân theo những điều sách vở
chỉ bảo, chúng ta cũng không thể máy móc theo gương những nước khác.” Brzezinski cũng dẫn lời một nhà lãnh đạo khác của Trung quốc phát biểu trong Đại hội đảng kỳ thứ 13 là: “Chủ
nghĩa xã hội đòi hỏi, hoặc cho phép cái gì làm lợi cho sự phát triển
những lực lượng sản xuất, và cái gì không làm lợi cho sự phát triển ấy
thì đi ngược lại với chủ nghĩa xã hội khoa học.”
Brzezinski nhận định: “Cho
nên không ngạc nhiên là những diễn tập tư tưởng này mở cửa ngõ cho
những tư tưởng mới của phương Tây thẩm thấu lớn rộng vào Trung quốc. Đặc
biệt là sự xâm nhập này đã ảnh hưởng mạnh ở những cơ sở nghiên cứu của
Bắc kinh, thúc đẩy những bộ óc tư tưởng đổ xô đi tìm hiểu những nhà lý
luận về xã hội công nghiệp như Daniel Bell, về những hậu quả xã hội của
những khoa kỹ thuật thông tin mới như Ilya Prigozine, về hình thành
tương lai như Alvin Toffler.
Mối quan tâm
của những nhà lãnh đạo Trung quốc có tính thực nghiệm nhằm làm thế nào
phát triển có hiệu quả trên cơ sở sử dụng hữu hiệu khoa học kỹ thuật
phương Tây.”
Tuy
nhiên Trung quốc cũng phải đương đầu với một thực tế là chủ nghĩa đa
nguyên về kinh tế xã hội sáng tạo phát triển cũng không thể phù hợp với
một hệ thống lãnh đạo độc đảng, bởi vì cơ sở của sự lãnh đạo này phải
loại bỏ đa nguyên chính trị.
Người cộng
sản thường đưa ra luận điểm về ba dòng thác cách mạng: phong trào cách
mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội tại các nước xã hội
chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc tại các nước đang mở mang và
phong trào công nhân tại các nước tư bản chủ nghĩa. Sau khi phân tích sự
thất bại kinh tế-xã hội tại các nước cộng sản, Brzezinski lại xét đến
tình hình chính trị tại các nước phát triển hoặc đang phát triển. Ông
nhận định ở các nước công nghiệp phát triển như Bắc Mỹ, Tây Âu, Nhật
Bản.. .”xã hội càng tiến bộ, đảng cộng sản càng không thể hoạt động chính trị”.
Quả thật chủ nghĩa cộng sản hiện đại sơ khởi chỉ lôi cuốn được những ai
vì uẩn ức về hoàn cảnh cùng khổ, chậm tiến hoặc bị đàn áp về mặt chủng
tộc đã chọn lựa con đường cách mạng kiểu côïng sản như một con đường
ngắn nhất để chiếm được quyền bính; tuy nhiên chủ nghĩa côïng sản khi có
quyền lực đã tỏ ra trì trệ, lãng phí. Có thể nói lý luận cộng sản đã
trở nên manh mún trong khi hiện nay đâu đâu người ta cũng thấy thực tiễn
cộng sản đã thất bại. Bộ mặt xã hội kinh tế Liên xô phơi bày sự thất
bại, khiến cho Liên xô không còn là kiểu mẫu xã hội, đã ảnh hưởng tai
hại trầm trọng cho phong trào cộng sản thế giới. Trong tình huống tương
tự, chủ nghĩa cộng sản thương mại lũng đoạn của Trung quốc cũng không là
kiểu mẫu cho một cuộc cách mạng xã hội. Cho đến cả niềm tin cuối cùng
của những “tín đồ”
cộng sản vào những cuộc cách mạng ở Việt nam, Cuba hay Nicaragua ngày
nay cũng bị tiêu diệt trước bộ mặt thê thảm vì phá sản kinh tế và sự tàn
bạo chính trị tại các nước nhược tiểu này. Vào thập niên 1970 ở châu
Phi và châu Mỹ La tinh, chủ nghĩa Mác được du nhập như một học thuyết
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều nhà lãnh đạo tại các nước này học tập
những kỹ thuật của Lenin trong việc giành giật và củng cố chính quyền,
học tập nghệ thuật lãnh đạo độc đảng có kỷ luật, có tổ chức. Mặt khác,
các nước này trông chờ vào viện trợ kinh tế và quân sự của Liên xô. Tuy
nhiên, thực tế đã chứng tỏ mức độ viện trợ kinh tế của Liên xô không đáp
ứng được nguyện vọng phát triển kinh tế. kinh nghiệm cộng sản tại châu
Mỹ La tinh cũng phơi bày sự thất bại về mặt thực tiễn và lý luận. Những
hoạt động cách mạng tại những nước này không phản ảnh ý thức hệ cũng như
tổ chức theo kiểu chủ nghĩa Mác-Lenin cổ điển, nhưng diễn ra những
đường lối bản địa khác nhau.
Thực tế đã
chứng minh sự thất bại của luận điểm ba dòng thác cách mạng là một khủng
hoảng ý thức hệ sâu sắc của chủ nghĩa cộng sản. Brzezinski gọi đó là sự
hấp hối của chủ nghĩa cộng sản và báo hiệu thời đại hậu cộng sản. Theo
ông, những nước theo chế độ cộng sản phải đương đầu với hai giải pháp
căn bản, một là chuyển tiếp từ một nền chuyên chính theo kiểu Mác-Lenin
sang chế độ dân chủ đa nguyên (với những khu vực kinh tế hỗn hợp nhà
nước và tư nhân), hai là vẫn trì trệ trong những chỉnh hợp định chế hiện
hữu dẫn đến một chế độ độc đoán dân tộc. Tuy nhiên Brzezinski nhận định
là diễn trình lịch sử không có dấu hiệu nào về khả năng của giải pháp
đầu vì “những chế độ theo kiểu Xô viết chỉ tạo ra một phương thức tổ chức xã hội chuyên chế loại trừ khả năng đa nguyên.”
Những khả năng - theo Brzezinski, của thời quá độ hậu cộng sản tiến về chiều hướng dân chủ là do:
-
ảnh hưởng xâm nhập của những phương tiện truyền thông quần chúng khiến
cho chế độ độc quyền cộng sản phải nhường bước cho những quan điểm chính
trị khác biệt.
- ảnh hưởng xâm nhập của
nhân quyền - tư tưởng chính trị có khả năng lôi cuốn nhất của thời hiện
đại - đã chỉ ra sự khác biệt giữa chủ nghĩa cộng sản (chối bỏ quyền tự
do lựa chọn, xâm phạm những quyền cá nhân, khiếm khuyết những cơ sở pháp
chế) với lý tưởng dân chủ (hệ thống đa đảng, kinh tế thị trường...)
Trong viễn tượng đó, những chế độ cộng sản Đông Âu hiện tại đã tuần tự gia nhập vào cộng đồng thế giới, căn cứ trên sự kiện là “trong
thế kỷ này, những chế độ dân chủ đa nguyên sẽ sát nhập vào trong hệ
thống của chúng một số những mặt xây dựng và lành mạnh theo yêu cầu của
chủ nghĩa Mác để tiến tới một xã hội hoàn thiện.” Brzezinski đi tới kết luận: “Trong
thế kỷ hai mươi này, nhân loại kinh qua chủ nghĩa cộng sản đã đưa ra
một bài học đau xót nhưng cực kỳ quan trọng là sự điều động xã hội không
tưởng tự cơ bản xung đột với tính phức tạp của thân phận con người và
sự sáng tạo xã hội chỉ nẩy nở tốt hơn khi quyền lực chính trị bị hạn
chế. Hiển nhiên là dân chủ, chứ không phải cộng sản sẽ ngự trị thế kỷ
21.”
Brzezinski
là một trong những nhà nghiên cứu khoa chính trị quan niệm về xã hội Xô
viết như một mô hình duy nhất (phân biệt với hệ thống xã hội trong khoa
học xã hội phương Tây) tuy nhiên khi xét đến cơ sở kinh tế-xã hội công
nghiệp hiện đại, ông cũng có xu hướng hội tụ như một số học giả khác
(Isaac Deutscher, J.K. Galbraith, W.W. Rostow, Raymond aron, Maurice
Duverger, Andrei D, Sakharov...). Trong tác phẩm dẫn trên, ông có một
cái nhìn nghiêm khắc hơn về tương lai của xã hội Xô viết, mà ông gọi là “chủ nghĩa đế quốc Xô viết ở giai đoạn suy thoái và băng hoại.”
Ông
đã đưa ra những lưỡng luận khá nan giải đối với chế độ cộng sản Xô viết
như: tính trong sáng đối lập với tính thống nhất trong học thuyết, lý
luận hợp nhất đối lập với hành động liên kết, đam mê chính trị đối lập
với lý trí (điều hành xã hội), thành công kinh tế đối lập với ổn định
chính trị, xu hướng chính thống đối lập với xu hướng xét lại, trào lưu
tự giải phóng đối lập với chính sách hợp nhất quân sự-kinh tế.
Brzezinski
đã vẽ ra một bức tranh biến chuyển chính trị trong thế giới cộng sản,
ông cũng đưa ra một số dự kiến phù hợp với hiện tình đang diễn ra ở các
nước cộng sản. Tác phẩm này đã gióng lên hồi chuông báo tử của chế độ
cộng sản, như tiểu đề của cuốn sách đề xuất. Tuy nhiên tính cách thuyết
phục của tác phẩm còn cần phải thảo luận về những vấn đề:
a.
Chủ nghĩa cộng sản thống trị gần một thế kỷ này trên cơ sở quá đơn giản
hợp thời, như quan niệm nguyên ủy của mọi tội lỗi xấu xa vào định chế
của tư hữu, cho nên nó giả định thủ tiêu tư hữu sẽ dẫn đến sự thực hiện
công lý thực và hoàn thiện được bản chất con người.
b. Chủ nghĩa cộng sản đưa ra một nỗ lực lệch lạc trong việc áp đặt lý tính toàn diện trên mọi vấn đề xã hội.
c. Chủ nghĩa cộng sản giống như những tôn giáo lớn đi từ giáo lý đơn giản nhất đến những khái niệm triết lý phức tạp hơn.
Ba đặc điểm nêu trên chỉ là một lý giải phiến diện về chủ nghĩa cộng sản.
Về chủ nghĩa Cộng sản Trung quốc: Brzezinski gọi chủ nghĩa cộng sản Trung quốc là một “chủ nghĩa cộng sản thương mại”,
căn cứ trên xu hướng thực dụng của giới lãnh đạo Trung quốc. Điều này
cũng không chính xác. Quan điểm của ông cũng đơn giản như quan điểm của
nhà triết học Ba lan khác, Leszek Kolakowski, coi học thuyết của Mao
Trạch Đông là một thứ “chủ nghĩa Mác nông dân.”
Về
thực tiễn cộng sản: Một xu hướng chung của nhiều học giả khoa chính trị
phương Tây là căn cứ trên chính sách của những nhà lãnh đạo để phân
tích chủ nghĩa cộng sản. Xu hướng này có khuyết điểm là chỉ phân tích
chiến lược, chiến thuật của đảng cộng sản, cho nên người mác xít lập
luận là những phân tích ấy không nắm được bản chất của chủ nghĩa cộng
sản.
Về mô hình biến đổi của chủ nghĩa cộng sản: Brzezinski đưa ra bốn giai đoạn biến đổi của chủ nghĩa cộng sản:
1.Chế độ cực quyền cộng sản: Đảng kiểm soát hệ thống chính trị, xã hội và kinh tế.
2. Chế độ độc đoán cộng sản: Áp lực của xã hội đối với quản lý kinh tế xã hội.
3. Chế độ độc đoán hậu cộng sản: Áp lực của quyền lợi dân tộc.
4.Chế độ đa nguyên hậu cộng sản: Tiến đến hệ thống kinh tế, xã hội và chính trị có tính đa nguyên.
Mô hình đa nguyên của hệ thống chính trị đó như thế nào vẫn là một vấn đề mở ngỏ, cần thảo luận.
Tác phẩm Sự phá sản vĩ đại của Brzezinski gợi ra hai vấn đề:
a. Cáo chung của chế độ cộng sản:
Như đã dẫn ở trên, Brzezinski khẳng định đế quốc Xô viết đang trong
thời kỳ suy thoái và băng hoại. Những biến chuyển của hiện tình hệ thống
chính trị Xô viết đã chứng tỏ sự thay đổi đang diễn ra về mọi mặt tổ
chức, xã hội, chính trị và văn hóa. Có phải những biến chuyển đó chứng
tỏ vận động lịch sử không thể đảo ngược? Khủng hoảng của hệ thống chính
trị cộng sản đi về đâu? Theo quan điểm lạc quan của những nhà phân tích
chính trị như Brzezinski, nó báo hiệu sự cáo chung của chế độ cộng sản,
nghĩa là sự cáo chung của một hệ thống cai trị độc đảng để dẫn đến một
thể chế dân chủ đa nguyên.
Tuy nhiên, vấn
đề không đơn giản. Thứ nhất, khi phân tích cơ cấu tổ chức của chính trị
cộng sản, người ta cần phải nắm vững quy luật chung của chủ nghĩa xã
hội, những đặc tính phổ biến khi đảng cộng sản nắm quyền bính (một hệ
thống chính trị kiểu mới tập trung quyền lực, kiểm soát mọi mặt như tổ
chức mặt trận thống nhất, xây dựng tổ chức đảng, quốc doanh và tập thể
hóa nông nghiệp, thảo kế hoạch năm năm, thanh trừng và kỷ luật đảng...).
Thứ hai, từ bỏ quyền chỉ đạo và lãnh đạo của đảng cộng sản có phải do
sức đẩy cưỡng bách của cao trào quần chúng hay chỉ là một bước lùi trong
chiến thuật như đã từng xảy ra trong quá khứ? Đây có phải là dấu hiệu
tiên quyết báo bước đầu của một “thực tiễn cách mạng”?
Những biến cố của thập niên 1980s khác biệt với thời thập niên 50s và
60s ở chỗ, sự nổi dậy của quần chúng bạo động diễn ra thành công ở
Roumania và thất bạo ở Trung quốc, trong khi tiến trình hành động tại
các nước Đông Âu xảy ra thông qua vận động nghị trường và cải tổ một
phần cơ cấu định chế. Thứ ba, những biến chuyển mau lẹ vào cuối năm 1989
đến nay vẫn còn đề ra những vấn nạn về yêu cầu bức thiết giải quyết sự
bế tắc kinh tế hay chính sách perestroika sắp đặt từ bên trên của guồng
máy cai trị, về sự khoan nhượng của chủ nghĩa cộng sản hiện đại hay sự
sụp đổ từng khâu trong hệ thống cộng sản. Dầu sao quá trình lịch sử cũng
cho thấy vào thời đại cực quyền của Stalin, Brezhnev và Mao, sự ngưng
trệ kinh tế trầm trọng cũng không đặt ra vấn đề biến đổi. Phải chăng
tình trạng mở ngỏ cho biến đổi xuất phát từ sáng kiến của cá nhân lãnh
đạo? Mặt khác sự hiện diện của hàng triệu đảng viên trong tổ chức độc
đảng và cơ cấu tổ chức xã hội cộng sản cũng là một tác động chi phối sự
biến đổi theo một phương thức khác với mô thức tư bản chủ nghĩa. Cho nên
mô thức chính trị của khối Xô viết tương lai vẫn là một vấn đề. Chính
Brzezinski trong phần trình bày bốn giai đoạn nêu trên cũng giả định chu
trình biến đổi có thể trở về giai đoạn 1 hoặc tiến tới giai đoạn 4, và
ông không thể xác quyết một dự kiến nhất định nào.
b. Cáo chung của chủ nghĩa cộng sản:
Nếu sự sụp đổ toàn diện của hệ thống chính trị khối Xô viết xảy ra thì
điều đó dẫn đến sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản, như số phận của chủ
nghĩa quốc xã sau khi Đế chế Ba chấm dứt? Chủ nghĩa cộng sản gồm hai
mặt: hệ tư tưởng chính thống của Đảng lãnh đạo và những thành tựu không
chính thống của giới trí thức khuynh tả trong những vùng đảng cộng sản
không nắm được chính quyền. Mặt khác, thời đại chính trị toàn cầu vẫn
căn cứ trên mối quan hệ giữa các nước, nên những nhà nước cộng sản vẫn
là những nhà nước dân tộc. Vào giai đoạn chiến tranh lạnh và hòa hoãn
thế giới, những vấn đề mới đề ra như sự cáo chung ý thức hệ, sự phục
hoạt ý thức hệ vẫn là những mặt khác biệt đối với chủ nghĩa cộng sản
hiện hữu.
Chủ nghĩa cộng sản về thực tiễn
khi mất quyền bính liệu còn giữ được mặt lý luận với hai bộ phận biện
chứng và duy vật lịch sử? Đó cũng là một vấn đề.
Một
số nhà nghiên cứu chủ nghĩa Mác quan niệm nó như một tôn giáo thế tục,
trang bị bằng những kinh điển, giáo điều, tổ chức và kỷ luật chặt chẽ.
Như vậy một khi mất quyền lực, toàn bộ cơ sở có thể tiêu vong, hay ảnh
hưởng thống trị lâu đời của nó trong xã hội sẽ còn tồn tai như sự thăng
trầm của những tôn giáo khác?
Những vấn
đề này đề ra trên một bình diện bao quát mà quyển sách của Brzezinski
trong giới hạn của những phân tích kinh tế-chính trị không đề cập.
Trong
những nhận định phê phán trên, tôi muốn chỉ ra một điều: sự cáo chung
của chủ nghĩa và chế độ cộng sản là một điều tất yếu của thời đại, tuy
vậy khi quan niệm “tất yếu”, có phải nó tuân theo một quy luật nhất định, mang tính “biện chứng” hay tính “lịch sử” nào đó? Thật sự chủ nghĩa cộng sản là một “thử
thách' của thế kỷ 20, như Brzezinski nhận định, bởi vì chủ nghĩa đó đã
thống trị gần một thế kỷ với một lý luận cách mạng có tính “toàn diện', “khoa học” nhân danh một “giai cấp”
mang sứ mạng lịch sử, dẫn đạo bằng một đảng thống nhất có tổ chức và kỷ
luật, trang bị chiến lược và sách lược thực tiễn, không dấu diếm bản
chất “chuyên chính” tuyệt đối, với mục tiêu xây dựng một xã hội mới, tạo ra lịch sử. Nó là một “thách đố”
với nhân loại, bởi vì lần đầu trong lịch sử con người, một hệ thống tư
tưởng sử dụng một chính đảng thống trị xã hội về mọi mặt, khẳng định
không chia xẻ quyền bính với bất kỳ thế lực nào. Nó đã gây nên một cuộc
chiến triền miên, không đơn giản như hai cuộc Thế Chiến,, hay Chiến
Tranh Lạnh, nhưng là một cuộc chiến toàn bộ lôi cuốn mọi giai tầng xã
hội, mọi thế lực quốc tế, mọi dân tộc, tôn giáo tham dự để giải quyết
những xung đột lịch sử, những mâu thuẫn đối kháng (đôi khi đơn giản hóa
thành hai mặt Cách mạng và Phản động). Trong cuộc chiến để giải quyết
vấn đề “ai thắng ai”
này, hàm ngụ một cuộc chiến tranh ý thức hệ - cuộc chiến tư tưởng ấy
không phải chỉ có tính cách chống Marx, song quy mô hơn, cuộc chiến của
con người để chống lại những “ông thày tư tưởng”
(tôi mượn từ của André Glucksmann, Les Maitres-penseurs trong nguyên
ngữ tiếng Việt cũng như tiếng Pháp, mang ý nghĩa thày/trò có tính cách
thống trị thế lực cũng như hàm ngụ sự nô dịch tư tưởng.) Hiện tượng
chống lại sự nô dịch trí thức của chủ nghĩa cộng sản là một lịch sử đấu
tranh gai góc chứa đựng những tranh luận chung quanh chủ nghĩa Mác, tạo
ra những vấn đề và giả vấn đề về khoa học kỹ thuật, về quan hệ sản xuất
và lượng sản xuất, về những tiền đề xã hội chủ nghĩa, về dân tộc và cực
quyền, lý luận và thực tiễn, về chủ nghĩa quốc tế và giải phóng dân tộc.
Cho nên yêu cầu dân chủ và nhân bản nổi
lên trong những phong trào đối kháng của quần chúng công nhân, nông dân,
sinh viên và trí thức đã được nuôi dưỡng từ những khủng hoảng và phê
phán tư tưởng từ nhiều năm. Cuộc nổi dậy của Hung và Ba lan trong thập
niên 50s chịu ảnh hưởng tư tưởng hiện sinh Tây Âu. Cuộc nổi dậy ở trung
quốc năm 1989 cũng biểu hiện vận động thanh niên chống lại già nua bảo
thủ, của một thế hệ mới hấp thụ tư tưởng hiện sinh phương Tây, một thế
hệ từ bỏ giáo điều cổ hủ, để đọc Sartre, Beckett, Faulkner,
Robbe-Grillet.
Chủ nghĩa Mác đã phát triển theo ba mặt:
- Chủ nghĩa Mác chính thống:
tôi không đơn giản quan niệm chủ nghĩa Mác chính thống thuộc về hệ tư
tưởng Mác Xô viết. Tính chính thống ở đây hàm ngụ một ý thức hệ nắm
quyền bính, nó mang những mặt biểu hiện chủ nghĩa Lenin, chủ nghĩa
Stalin, chủ nghĩa Mao và chủ nghĩa Trốtki.
- Chủ nghĩa xét lại mác xít:
thường nêu khởi thủy từ Bernstein. Thật ra, trào lưu xét lại ở khắp các
nước Đông Âu (Nam tư, Tiệp, Ba lan) không chịu ảnh hưởng bắt nguồn từ
Bernstein, nhưng từ tư tưởng phê phán chủ nghĩa xã hội có quyền bính. Tư
tưởng phê phán này xây dựng trên cơ sở của Marx hàm ngụ hai nghĩa: “Phê phán không ngại đến những kết luận về bản thân nó, cũng như không ngại xung đột với chính quyền lực” (Marx).
- Chủ nghĩa Mác Tây Âu qua ba thế hệ:
giai đoạn Lukács và Kark Korsch. Lukács từng bị lên án theo chủ nghĩa
xét lại, song ngay từ tham luận viết năm 1919, ông đã đặt vấn đề chính
thống với quan niệm: “Tính chính
thống mác xít không phải là bảo vệ truyền thống, nó là người tiên tri
thường hằng cảnh giác chỉ ra mối quan hệ giữa những nhiệm vụ của hiện
tại trước mắt và toàn bộ quá trình lịch sử.”
Giai đoạn thứ hai với trường phái Frankfurt ở Đức và Gramsci ở Ý. Giai
đoạn thứ ba với những người hiện sinh đi theo chủ nghĩa Mác như Sartre
và Merleau-Ponty hay những người mác xít cực đoan như Althusser ở Pháp,
Della Volpe và Coletti ở Ý, Habermas (giai đoạn đầu) ở Đức.
Bên
cạnh ba trào lưu bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác nói trên, những lý luận hội
tụ và xã hội hậu công nghiệp cũng góp phần vào việc phê phán chủ nghĩa
cộng sản. Những đóng góp của lý luận hội tụ trong những thập niên 60s
theo Afred Meyer có thể chia thành ba xu hướng:
1.
Phát triển trong khuôn khổ chủ nghĩa xã hội dân chủ chỉ ra một xã hội
đa nguyên, hợp tác, dân chủ xây dựng trên cơ sở một nền văn hóa công dân
của khoan dung tương trợ.
2. Cơ sở đa
nguyên xã hội của một trật tự chính trị nhấn mạnh đến ghệ thống phối
trí, truyền thông được cấu trúc - một nền chính trị trong khuôn khổ bàn
giấy.
3. Một chủ nghĩa chuyên chính toàn diện phát sinh từ hậu quả của hiện đại hóa và khủng hoảng về trật tự chính trị.
Những khác biệt giữa các lý luận hội tụ và những vấn đề nan giải của sự hội tụ xã hội phát xuất từ nhiều nguyên nhân:
- Đối lập giữa tổ chức nhà nước toàn diện và quyền lực của nhân dân cũng như tự do tư tưởng của con người.
-
Khác biệt giữa những xã hội công nghiệp: theo Raymond Aron, công nghiệp
chỉ là một phương tiện chứ không phải cứu cánh và bản chất của một xã
hội nằm trong mục tiêu thực hiện, chẳng hạn xã hội Liên xô đối nghịch
với xã hội Mỹ vì Liên xô quản lý sản xuất nhằm duy trì hay gia tăng
quyền lực trong khi xã hội Mỹ nhằm mục tiêu cung ứng sự thịnh vượng cho
dân chúng.
Những nghiên cứu chính trị, xã
hội về hai mô hình xã hội Liên xô và Mỹ vẫn chỉ ra những khác biệt sâu
sắc về phương thức quản lý xã hội, hệ thống chính trị, xung đột ý thức
hệ, quan niệm về dân chủ, về xã hội hóa, tập trung hóa, kinh tế thị
trường và kinh tế kế hoạch.
Trong số những nhà lý luận thiên hướng hội tụ, ở Đông Âu sau thời đại Stalin, như Lukács cũng nhận ra từ vận động văn học: “một
viễn tượng mới về sự sống chung hòa bình giữa các nước đem lại một
khung cảnh rộng rãi trong nền văn học tư sản hiện thực và phê phán.
Lưỡng luận thực trong thời đại chúng ta không phải là sự đối lập giữa
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, nhưng là sự đối lập của chiến
tranh và hòa bình.”
Lý luận hội tụ trên bình diện tư tưởng còn có thể gọi là lý luận phát triển trên bình diện kinh té chính trị vì những mục tiêu:
- Nghiên cứu dài hạn về sự tăng trưởng kinh tế.
- Nghiên cứu sự đối nghịch giữa những nước giàu và nghèo.
- Đối chiếu tổ chức xã hội kinh tế giữa khối Xô viết và các nước Tây Âu.
Những
khác biệt chỉ thực sự biến đi khi nhân loại tiến tới một hệ thống chính
trị và xã hội phổ biến (mô thức xã hội công nghiệp và hậu công nghiệp
không phải là hệ thống chính trị xã hội phổ biến - tuy về mặt lịch sử,
nó là một mẫu xã hội phổ biến xuất hiện trong lịch sử mở ra một kỷ
nguyên mới với những nhân tố chung như cộng nghiệp hóa, đô thị hóa, giáo
dục phổ biến, phát triển giáo dục cao cấp...) Chỉ có thế biến đổi mới
thực hiện được sự tiến tới một hệ thống phổ biến như vậy.
Biến đổi đã thực sự xảy ra vào cuối-thế-kỷ tuần tự diễn ra như sau:
Ở
Ba lan, kể từ tháng Hai đến tháng Tư năm 1989, phong trào Đoàn kết sau
nhiều cuộc đấu tranh cam go chí tử với bạo quyền do sự quyết tâm trong
nước và hậu thuẫn bên ngoài đã tồn tại và đi đến thắng lợi khi đã bắt
đầu được những tranh luận ngang bằng với chế độ cộng sản và dẫn đến
những thỏa hiệp tổ chức bầu cử tự do.
Ngày 4 tháng Sáu năm 1989, phong trào Đoàn kết toàn thắng trong cuộc bầu cử Nghị viện.
Ngày
24 tháng Tám năm 1989, Tadeusz Mazowiecki đại biểu của phong trào Đoàn
kết được bầu làm Thủ tướng và thành lập Nội các trong đó chỉ có bốn
thành viên là đảng viên cộng sản.
Tháng 12 năm 1990, Lech Walesa được bầu làm Tổng thống.
Ở
Hungari, vào ngày 19 tháng Chín năm 1989, đảng cộng sản cầm quyền và
đối lập thỏa thuận về những tu chính hiến pháp, tạo ra một hệ thống đa
đảng và kết cuộc là tổ chức được bầu cử tự do vào năm 1990.
Từ
ngày 25 tháng Ba đến ngày 8 tháng Tư năm 1990, những cuộc bầu cử và
chạy đua vào Nghị viện kết quả dẫn đến thắng lợi cho Mặt trận Dân chủ
thống nhất.
Ngày 24 tháng Năm 1990, Josef Antall của Mặt trận Dân chủ thống nhất nhậm chức Thủ tướng.
Ngày 28 tháng Chín 1990, Hungari và Liên xô thỏa ước về việc rút những đạo quân Xô viết đồn trú tại Hung.
Ở
Đông Đức, trong hai tháng tám và Chín năm 1989, làn sóng người di dân
từ Đông Đức ồ ạt kéo nhau qua ngả Hung để đến Tây Đức và nước này từ
chối giao trả những người tị nạn về Đông Đức.
Ngày 9 tháng 11 năm 1989 Đông Đức mở cửa biên giới sang phương Tây và hàng ngàn người ở Berlin đổ xô qua Tây Đức.
Ngày 18 tháng Ba năm 1990 những cuộc bầu cử diễn ra ở Đông Đức ủy nhiệm cho đảng Dân chủ Thiên chúa giáo thành lập chính phủ.
Ngày 1 tháng Bảy năm 1990 thiết lập sự thống nhất kinh tế Đức với bình quân giữa đồng Mã và tiền Đông Đức.
Ngày 3 tháng 10 năm 1990 hai nước Đức thống nhất sau bốn mươi lăm năm phân cách.
Ở
Tiệp vào tháng 11 và 12 năm 1989, phong trào Dân chủ dưới sự lãnh đạo
của Diễn đàn công dân do Václav Havel cầm đầu buộc giới lãnh đạo cứng
rắn phải rút lui trao trả quyền lực lại cho dân.
Ngày 29 tháng 12 năm 1989, Havel được bầu làm Tổng thống.
Ngày 8 và 9 tháng 6 năm 1990 nhũng cuộc bầu cử tự do tại Bulgaria kể từ 1946 đưa Diễn đàn Dân chủ lên cầm quyền.
Ỏ
Liên xô vào ngày 1 tháng 10 năm 1988, Hội đồng Tối cao Xô viết phê
chuẩn cơ cấu hiến pháp mới đưa Gorbachev thay thế Gromyko làm Chủ tịch
nhà nước kiêm nhiệm Tổng bí thư. Tháng Ba năm 1989 bầu ra Đại biểu Quốc
hội Nhân dân, một thay đổi ngoạn mục trong tiến trình cải tổ tiếp theo
chính sách perestroika.
Và tháng 2 năm 1990 Ủy ban Trung ương đồng ý xóa bỏ vị thế tối ưu pháp định của đảng Cộng sản.
Ngày
19 tháng 8 nam 1991, một Ủy ban năm người gồm Phó Chủ tịch Yanaev, Bộ
trưởng Nội vụ, Bí thư đảng CS, lãnh tụ Liên đoàn Nông dân và Chủ nhiệm
Hiệp hội Các Giám đốc Xí nghiệp quốc doanh thành lập “Hội đồng Nhà nước trong tình trạng khẩn cấp” mưu cuộc đảo chánh, bắt giữ Chủ tịch Xô viết, ra lệnh cho quân đội bảo vệ Moksva và ban hành những quyền lực khẩn cấp.
Gorbachev
bị cô lập ở biệt thự nghỉ mát tại Cape Foros gần Yalta trong vùng
Crimea. Cuộc đảo chánh bất thành vì các lực lượng KGB không điều động
được. Tổng thống Cộng hòa Nga Boris Yeltsin, Thủ tướng Ivan Silayev và
Chủ tịch Nghị viện Nga Khasbulatov tố cáo cuộc đảo chánh của những ke
hữu khuynh, phản động. Yeltsin đọc lời kêu gọi quần chúng trên một chiếc
xe tăng trước những ống kính các đài truyền hình phương Tây.
Vào
ngày 21 tháng 8 tình thế đảo ngược với sự hỗ trợ của phương Tây, Ủy ban
đảo chánh phải quy thuận và Gorbachev trở lại nắm quyền.
Cuộc
đảo chánh tháng Tám thất bại đánh dấu sự cáo chung của hệ thống cộng
sản, cùng với các nước Cộng hòa trong khối Xô viết củng cố quyền lực độc
lập tách rời quyền lực liên bang. Vào ngày 8 tháng 12 nam 1991, cùng
với những Tổng thống Leonid Kravchuk xứ Ukraine và Stanislav Shushkevich
xứ Belorussia, với hậu thuẫn của các nước Cộng hòa khác trừ Georgia,
Yeltsin tuyên bố chấm dứt Liên bang Xô viết. gorbschev ký văn thư từ
chức vào ngày 25 tháng 12. Một kỷ nguyên Cộng sản trong lịch sử Nga
chính thức cáo chung.
Tượng Lenin bị kéo
sập, người ta tưởng niệm những nạn nhân của chế độ cộng sản, thàng phố
Leningrad đổi trả lại cái tên lịch sử St. Petersburg và Yeltsin ban hành
luật cấm đảng cộng sản hoạt động trên nước Nga vào đêm hôm trước ngày 7
tháng 11 kỷ niệm cuộc cách mạng đã tốn nhiều giấy mực và gây cái chết
cho cả triệu người.
Tưởng cũng nên nhắc
là trong cuộc họp Đảng lần cuối vào ngày 2 tháng 7 năm 1990, theo truyền
thống, Tổng bí thư Gorbachev đã đọc bài diễn văn quan trọng khoảng hai
tiếng rưỡi. Phá lệ truyền thống, ông đã mạnh dạn phát biểu: “Kiểu mẫu chủ nghĩa xã hội kiểu Stalin đã bị thay thế bằng một xã hội công dân của những người tự do...”
Trước
sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, ông đặt vấn đề: chủ nghĩa
xã hội nào? và tự đi giải thích là chủ nghĩa xã hội đó cơ bản là một
dạng của hệ thống bàn giấy chuyên chính kiểu Stalin.
Điều này thực ra những nhà triết học Nam tư trường phái Praxis đã đưa ra từ nhhiều thập niên trước.
Chủ nghĩa nhà nước: Ngay từ những thập niên 50s của thế kỷ, một nhóm nhà lý luận Nam tư đã thảo luận những vấn đề của chủ nghĩa Mác 'chính thống”
và từ năm 1964 họ thành lập một tạp chí triết học lấy tên là Praxis
(Thực tiễn) (bị nhà cầm quyền đóng cửa vào năm 1975, tuy nhiên tạp chí
đã mở rộng ra bên ngoài, thành Praxis International quy tụ đông đảo
những người nghiên cứu Mác xít như Richard J. Bernstein, Mihailo
Markovic, Iring Fetscher, Jurgen Habermas, Karel Kosik, Oskar Negt,
Svetozar Stojanovic, Rudi Supek, Ljubomir Tadic, Albrecht Wellmer, Kurt
Wolff..., đặt trụ sở ở Nam tư và Mỹ), cho nên nhóm những nhà lý luận này
thường được gọi là nhóm Praxis. Chủ trương của nhóm Praxis này nhằm
đóng góp vào việc xây dựng một lý luận nhân bản mác xít, thảo luận những
điểm hội tụ và khác biệt giữa chủ nghĩa Mác và những trào lưu triết lý
khác, vượt ra ngoài cái khung Diamat chuyên chế và nô dịch sự phát triển
của tư tưởng.
Trong tác phẩm Giữa lý tưởng và thực tại/Izmedju Ideala i Stvarnosti (1969), Stojanovic đã đặt lại cơ sở của “chủ nghĩa xã hội hiện hành”
kể từ khi sản sinh ra một hệ thống giai cấp bóc lột mới: một lý luận về
chủ nghĩa nhà nước như một hình thái mới của xã hội có giai cấp. Ông
khẳng định hình thái mới về một xã hội có giai cấp, theo chủ nghĩa nhà
nước này sản sinh ra từ chủ nghĩa Stalin.
Vấn đề Nhà nước và “thủ tiêu nhà nước”
đã đặt ra từ Lenin, vì lý ưng, Nhà nước là một công cụ đàn áp của giai
cấp thống trị thì khi tiến lên chủ nghĩa cộng sản, không còn giai cấp,
tất nhiên phải xóa bỏ Nhà nước. Theo Stojanovic, sự vắng mặt của giai
cấp vô sản công nghiệp phát triển lớn mạnh là một trong những nguyên
nhân quyết định của sự suy thoái tiến đến chủ nghĩa nhà nước trong cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ông cũng chỉ ra cái huyền thoại về giai cấp
vô sản là giai cấp cầm quyền trong hệ thống Stalinít. Nhiều người Mác
xít đã sai lầm khi quan niệm chủ nghĩa Stalin là một chủ nghĩa xã hội
nhà nước, thay vì coi đó là một hình thái mới của xã hội có giai cấp,
một giai cấp bóc lột mới.
Giai cấp bóc lột mới:
Trước nhóm Praxis, Milovan Djilas ngay từ năm 1957 đã đưa ra một phân
tích hệ thống cộng sản và phát hiện một giai cấp mới hình thành trong xã
hội xã hội chủ nghĩa, ở đó quyền sở hữu thuộc về “tập thể”. Milovan Djilas viết:
“Mọi
sự xảy ra khác ở Liên xô và những nước cộng sản khác với điều những nhà
lãnh đạo tiên liệu. Họ kỳ vọng là nhà nước sẽ mau chóng bị thủ tiêu, và
củng cố dân chủ. Sự việc xảy ra ngược hẳn.”
Giai
cấp này từ đâu mà ra? Nó không là một bộ phận của đời sống kinh tế xã
hội mà chỉ sinh ra từ một tổ chức đặc thù bắt nguồn từ một đảng gồm
những người có đặc lợi, đặc quyền vì nắm giữ độc quyền cai trị. Djilas
nhận định giai cấp mới này càng phát triển thì cái đảng tiền phong ấy
càng suy yếu. Điều nghịch lý là giai cấp mới nắm độc quyền khi mệnh danh
là tiên tiến vô sản. nhân danh giai cấp công nhân để thống trị xã hội
đã là giai cấp thống trị giới công nhân. ở trong giai cấp mới này, người
ta không thừa kế điều gì ngoài việc len lỏi leo lên địa vị cao trên bậc
thang quyền lực, đòi hỏi trung thành với đảng, tức là với giai cấp mới.
Những đặc điểm của giai cấp mới này là độc quyền cai trị, củng cố bằng
những tín điều thư lại. Về mặt lý luận thì chủ nghĩa cộng sản mở ra với
mọi người, song mặt khác nó tập trung quyền trong tay thiểu số lãnh đạo.
Cái mâu thuẫn ấy còn biểu lộ qua việc trong khi hứa hẹn thủ tiêu những
khác biệt xã hội, nó lại gia tăng đặc quyền đặc quyền đặc lợi cho những
kẻ gia nhập tổ chức này.
Quá trình lịch
sử tại các nước xã hội chủ nghĩa đã chứng thực những viễn tượng trong hệ
thống cộng sản qua phân tích của Milovan Djilas. Chủ nghĩa nhà nước
trong tay giai cấp mới là hai mặt của xã hội dưới chế độ cộng sản. Tôi
gọi nó là một thứ chủ nghĩa Djilas .
Người
được coi như kiến trúc sư của họa đồ cải cách Yakovlev đã chỉ trích
đảng cộng sản là một hệ thống trì trệ xã hội do chế độ quyền lực cá nhân
sinh ra. Shostakovsky nguyên Viện trưởng trường Đảng cũng phải thú
nhận: “Về chọn lựa chủ nghĩa xã
hội: Nhân dân đã theo những khẩu hiệu của người bôn-sê-vích mà bẩy mươi
năm sau vẫn lập đi lập lại là: đất cho nông dân, nhà máy cho công nhân,
quyền lực về các Xô viết và hòa bình cho dân tộc. Chúng ta không hoàn
tất những khẩu hiệu ấy. Đất vẫn ở trong tay Nhà nước, nhà máy thuộc về
các bộ, quyền lực trong tay Đảng và nói chung không có hòa bình giữa các
dân tộc.”
Trầm tích hậu cộng sản:
Vượt quá khứ cộng sản vẫn còn là một con đường nhiều gai góc và phức
tạp vì chủ nghĩa cộng sản đã để một dấu tích đầy ngịch lý trong lịch sử
và văn minh nhân loại. Một nhà văn Hung, Péter Esterházy đã kinh qua
giai đoạn ấy nhận xét: “Ngay cả
nếu thực là đất nước đã tống khứ được chủ nghĩa cộng sản vào năm 1956
như con chó giũ sạch nước, ngày nay hầu như không rõ ràng chỗ nào chó
giũ sạch và chỗ nào nước bắt đầu.”
Hiện
tại, một số nước trên thế giới (Trung quốc, Bắc, Triều tiên, Việt nam,
Lào, Miên, Cuba) vẫn còn được kể là những nước cộng sản. Trước sự tan rã
của khối Xô viết và ý thức hệ cộng sản, những nước còn lại kể trên đi
về đâu. Một nhà nghiên cứu chính trị (Richard Sakwa) nghĩ là chúng đang
trên lộ trình tự vượt chủ nghĩa cộng sản. “Tự vượt”
xuất phát từ những quan tâm và cấp bách mang tính bản địa, vì dường như
quá trình biến đổi ở Đông Âu không có ảnh hưởng, ít ra đối với Trung
quốc. Theo Sakwa, cách mạng tự vượt ở châu Á chỉ hoàn tất không phải là
giải thể những chế độ và biến đổi quyền lực của chúng thành những hình
thái mới, nhưng do chính những hệ thống cộng sản dẫn sự thích nghi tuần
tự đến những nhiệm vụ phát triển quốc gia hướng về thị trường. Liệu điều
này có thể xảy ra?
Một nhà nghiên cứu
trẻ Trung quốc, Zhang Boshu không tin vào những dự tưởng lạc quan này.
Boshu cũng phê bình Brzezinski đã đáng giá sai khi ca ngợi “chủ nghĩa cộng sản mại bản”
của Trung quốc khi cho là chỉ số độ khủng hoảng của Trung quốc thấp
nhất trong các nước vùng Đông Á. Thật ra cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội
cũng như chính trị đạo đức đã xảy ra ngay trước khi Brzezinski cho ra
mắt tác phẩm nói đến ở trên. Cuộc vận động ngày 4 tháng Sáu năm 1989 cho
dân chủ không phải là một biến cố đơn lẻ, chỉ sáu tháng sau biến động
Thiên An Môn hàng loạt những cao trào dân chủ dấy lên ở Đông Âu và Liên
Xô. Sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội hiện đại chỉ ra chủ nghĩa cộng sản
kiểu Mác xít dầu là Mao hay Lenin-Stalin không thể coi là một mô hình
xã hội lý tưởng.
Những nước cộng sản hiện
hữu là những tàn tích của thử nghiệm một mô hình xã hội, cuộc thử
nghiệm này trả một giá xương máu cho nhân loại và để lại một hội chứng
hậu cộng sản. Ý thức hệ ấy do một đảng độc quyền ý thức hệ, một giai cấp
mới của chủ nghĩa Djilas.
Hai đặc điểm cơ bản của những nước XHCN hiện hữu này là một guồng máy khủng bố có sách lược và một hệ thống kinh tế suy bại.
Xét
riêng Việt nam, hiện tượng tham nhũng đã trở thành căn bệnh nội tạng và
giới lãnh đạo bảo thủ luôn luôn coi cải cách chính trị là một “diễn biến hòa bình”
do những lực lượng thù nghịch điều động. Từ thời điểm 1975 trở lại đây,
sự thất bại đầu tiên là không có một kế hoạch ứng phó với kinh tế miền
Nam, cũng như không có một chương trình tái thiết hậu chiến. Sự thất bại
kế tiếp là sa lầy vào cuộc chiến Campuchia. Bắt chước liên Xô, giới
lãnh đạo cũng đưa ra chính sách đổi mới vào năm 1985, nhưng tự sâu xa họ
chẳng hiểu phải làm như thế nào để đưa từ lý luận vào hành động cụ thể.
Vào tháng Chín năm này cái đổi mới chủ
yếu là cải cách tiền tệ chỉ làm cho tình trạng kinh tế vốn đã tồi tệ
càng tồi tệ hơn.Theo như tường trình của Quỹ Tiền tệ Quốc tế mô tả thì
chỉ hai năm sau khi “đổi mới'
bắt đầu vào năm 1985, tình trạng còn xấu hơn những năm trước: sản xuất
nông nghiệp sút giảm trong năm 1987, lạm phát trong hai năm 87 và 88
tăng lên 300%, khiến công nhsân viên và người lao động càng khốn cùng,
hệ thống phân phối tồi tệ đi, nạn thất nghiệp gia tăng. Hầu như trong
năm 1988, nạn khan hiếm thực phẩm gia tăng, thậm chí ở nhiều tỉnh miền
Bắc còn bị chết đói. Vào tháng Ba năm này, ngân hàng nhà nước phát hành
tiền mới, khiến giá thực phẩm tăng lên gấp đôi, giá đồng bạc sụt xuống
còn nửa. Những khuyến cáo của Quỹ tiền tệ Quóc tế (IMF) đối với bất cứ
quốc gia nào kém mở mang như định mức giá cả linh động, kiểm soát mậu
dịch ít hơn, giảm chi viện, thúc đẩy xuất cảng, kêu gọi đầu tư ngoại
quốc tư nhân và xác định thị trường, có nghĩa là tiêu hủy kinh tế quy
hoạch “xã hội chủ nghĩa”.Những
khuyến cáo này không dược nghe cho mãi dến năm 1987, bộ Chính trị mới
thi hành một vài điểm như xóa bỏ chế độ chi viện, kiểm soát ngân sách,
điều chỉnh hối đoái và hệ thống giá cả...Đại hội trung ương đảng kỳ sáu
vào tháng Ba năm 1989 nhìn nhận những sở hữu cá thể, những hình thái
kinh tế tư bản tư nhân vẫn tồn tại lâu dài thiết yếu cho kinh tế trong
cơ cấu của một nền kinh tế cơ sở hàng hóa trong con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Trên thực tế, đề cương kinh tế không quan trọng bằng
phương cách áp dụng. Những nghị quyết của Bộ Chính trị phản ảnh những
tranh giành quyền lực gay gắt và những thỏa hiệp trong hàng ngũ lãnh
đạo. Chúng chỉ đáp ứng nhu cầu chính trị chứ không đáp ứng những vấn đề
kinh tế. Chính vì lý do đó không đi sát với thực tế hàng ngày dần dà
vượt khỏi vòng kiểm soát của bộ Chính trị. Từ những thập niên 80s, quỹ
Tiền tệ uốc tế đã ảnh hưởng mạnh đến những chính sách của Việt nam, đến
độ dường như còn hơn cả những nước đã từ bỏ chế độ cộng sản, theo chính
sách vĩ mô do Quỹ Tiền tệ Quốc tế đề ra. Kết quả là trong năm 1995, hố
chia cách giữa lý thuyết và quyền lực, giữa con người lý luận và con
người hành động càng rộng lớn.
Đảng đưa ra nghị quyết xác định Việt nam sẽ phát triển “một
nền kinh tế đa khu vực với những thành phần kinh tế và cơ sở kinh doanh
đa biệt để tiến tới chỗ phát triển mau chóng...nhà nước sẽ điều hợp và
hướng dẫn kinh tế thị trường hơn cho phù hợp với những định hướng xã hội
chủ nghĩa.” Những người lãnh
đạo đến lúc phải thừa nhận những quy luật phát triển chung của kinh tế
thế giới và những quy luật phổ biến của sản xuất hàng hóa - như một bài
viết trên tạp chí lý luận của đảng CS là “để cho nhân tố tư bản chủ nghĩa đạt tới một mức độ nhất định của phát triển trong thời kỳ quá độ là một vấn đề khách quan.” Tổng bí thư Đảng vào đầu năm 1994 phải thú nhận là “xây dựng chủ nghĩa xã hội tuy thế hãy còn mới mẻ” cần phải “học tập Chủ nghĩa Mác-Lenin”
về chính sách kinh tế mới và chủ nghĩa tư bản do nhà nước quản lý để
tìm ra những hình thái mới trong thời kỳ quá độ. Thật ra thú nhận này
chỉ để che dấu những chính sách vô trách nhiệm trong việc quản lý kinh
tế của đất nước từ nhiều thập niên qua khi đảng CS nắm chính quyền.
Sự bế tắc trầm trọng giữa nhóm lãnh
đạo là chỉ nhất trí trên nhu cầu duy trì bá quyền chính trị chứ không
phải tìm cách để giải quyết những thử thách nghiêm trọng và khó khăn của
chính sách, cho nên đất nước rơi vào chỗ vô định trên nhiều mặt định
chế và xã hội. Đại hội Đảng tháng Sáu năm 1996 đã phơi bày công khai
tình trạng mâu thuẫn khủng hoảng trong nội bộ đảng Cs như tình trạng
xung đột ở Liên Xô tronbg những năm cuối trước khi sụp đổ. Sự bế tắc ấy
đã diễn ra những nghịch lý trong xã hội. Tại sao chế độ cộng sản tại
Việt nam chưa sụp đổ?
Hỏi như vậy có nghĩa là hiện trạng
của Việt nam chưa thay đổi, không có nghĩa là tất yếu sẽ không phải biến
đổi. Lý ưng, Việt nam sẽ biến đổi khi hội được những điều kiện ắt có và
đủ khi tình hình đã chín mùi.
Chế độ cộng sản đang tồn tại vì cái
hạt nhân của nó là đảng CS hiện nắm quyền bính, cho nên khi đi tìm hiểu
những điều kiện khả dĩ có thể dự đoán sự cáo chung của nó trong vận động
lịch sử là tiền đề sơ khởi. Lấy thời điểm 1975 làm cái mốc để xét thì
những vấn đề kinh tế chính trị đã tác động thành cuộc khủng hoảng trầm
trọng trong nội bộ Đảng, tuy những biến động quốc tế 1989, 1991 chưa làm
nó tan rã nhưng bước đầu cho thấy đảng CS Việt nam không còn ở cái thế
chủ động.
Từ năm 1988 lần lượt những đảng CS
nắm quyền bính tại Đông Âu và Liên xô đã mất thế đứng không phải vì
những cuộc bạo luận mà do chính những biến đổi về tổ chức và trí thức
cũng như những mâu thuẫn trong xã hội tạo ra ảnh hưởng quan trọng vào sự
phát triển những áp lực căng thẳng cho việc tái cấu trúc điều kiện tồn
tại của đảng cộng sản Việt nam.
Trong nhiều thập niên đảng CS luôn
luôn giữ vị thế về mặt lý luận là một đảng của quần chúng lao động, xác
định lập trường Mác-Lenin nhưng về măït thực tiễn do một thiểu số trong
bộ Chính trị nắm quyền điều động quyết định đường lối chính sách. Dựa
vào điều kiện chiến tranh, chủ trương trường kỳ kháng chiến, thiểu số
này mặc nhiên khoác cho mình cái độc quyền nhân cách hóa vai trò vô sản
để thống trị, đặt mình trở thành đảng tiền phong của giai cấp công nhân,
lãnh đạo giai cấp công nhân với vị thế và ý thức của giai cấp công
nhân. Do lẽ đó trong suốt cuộc chiến, lấy cớ tình thế đất nước thời
chiến, thiểu số bộ Chính trị nắm quyền sinh sát, chuyển sang thời bình
trở thành nhóm lãnh đạo lỗi thời, lạc hậu trước tình hình mới đòi hỏi
những đáp ứng và khả năng khác biệt.
Đảng cộng sản Việt nam nắm quyền cai trị ngày nay cũng đồng bệnh như nước anh em Trung quốc là làm chủ đất nước không phải vì “vai trò lịch sử”
mà là vì đang có sức mạnh bạo lực trong tay để bảo vệ củng cố quyền lực
xây dựng trên những ảo tưởng chủ nghĩa, thực tế đang mất dần sự trung
thành của đảng viên và sự tuân hành của quần chúng bị trị. Nó đang sa
lầy vì một chính sách đẻ ra giai tầng ưu tú mới về kinh tế gồm tuyệt đại
đa số là hàng ngũ đảng viên tham nhũng, một giới quý tộc mới có thẻ
dùng mọi thủ đoạn chính trị một cách vô liêm sỉ để bảo vệ đặc quyền đặc
lợi kinh tế. Tình trạng mất niềm tin, bên bờ vực này sẽ quyết định sự
tồn tại của đảng cộng sản, tuy không tiên liệu vào thời điểm nào nhưng
dựa trên quá trình lịch sử hiện đại, một xã hội băng hoại như thế khó
thể tồn tại. Một là cao trào dân chủ tất thắng, hai là nó sẽ chuyển hóa
thành một “chủ nghĩa xã hội quân phiệt”
gần như phổ biến trên chính trường vùng Trung Đông và Nam Á, bởi vì cơ
bản của nền chính trị này là chế độ cực quyền, độc tài và tham nhũng.
Sự cáo chung của chế độ cộng sản tại
Nga và Đông Âu đã tạo những hụt hẫng cho những nước còn tồn tại dưới lá
cờ Mác-Lenin. Vì thế danh xưng chủ nghĩa xã hội chỉ là một hư từ chính
trị trong việc biện minh cho sự tồn tại chính trị của đảng cộng sản ở
những nước trầm tích này.
hết:
Chương 9
, xem tiếp:
Bạt - Thay lời kết
|
Đánh máy: HuyTran
Nguồn: VNthuquan - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 9 tháng 3 năm 2009
Nguồn: VNthuquan - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 9 tháng 3 năm 2009
No comments:
Post a Comment