Sunday, January 22, 2017

TRANG TỬ NAM HOA KINH -BẢN NGUYỄN HIẾN LÊ


Nguyễn Hiến Lê


 TRANG TỬ NAM HOA KINH
莊子南華經

Giới thiệu và chú dịch: Nguyễn Hiến Lê

Lời thưa trước



CHƯƠNG I: Thời đại và đời sống
Thời đại
Đời sống
CHƯƠNG II: Tác phẩm
Xuất hiện từ thời nào?
Nội thiên
Ngoại và thiên và Tạp thiên
CHƯƠNG III: Văn bộ Trang tử
Ưu điểm
Nhược điểm
Một số nhà chú giải
Cách đọc Trang tử
CHƯƠNG IV: Học thuyết của Trang
Uyên nguyên từ đâu?
Vũ trụ luận và căn bản luận
Tri thức luận
Chính trị luận
Nhân sinh quan
KẾT
PHẦN NHÌ: NỘI THIÊN
Chúng tôi dịch ra sao
CHƯƠNG I: Tiêu dao du
Nhận định
CHƯƠNG II: Tề vật luận
Nhận định
CHƯƠNG III: Dưỡng sinh chủ
Nhận định
CHƯƠNG IV: Nhân gian thế
Nhận định
CHƯƠNG V: Đức sung phù
Nhận định
CHƯƠNG VI: Đại tôn sư
Nhận định
CHƯƠNG VII: Ứng đế vương
Nhận định
PHẦN BA: NGOẠI THIÊN
CHƯƠNG VIII: Biền mẫu
CHƯƠNG IX: Mã đề
CHƯƠNG X: Khư khiếp
CHƯƠNG XI: Tại hựu
Nhận định về bốn chương
CHƯƠNG XII: Thiên địa
CHƯƠNG XIII: Thiên đạo
CHƯƠNG XIV: Thiện vận
Nhận định về ba chương
CHƯƠNG XV: Khắc ý
CHƯƠNG XVI: Thiện tính
Nhận định về hai chương
CHƯƠNG XVII: Thu thuỷ
Nhận định
CHƯƠNG XVIII: Chí lạc
Nhận định
CHƯƠNG XIX: Đạt sinh
CHƯƠNG XX: Sơn mộc
Nhận định về hai chương
CHƯƠNG XXI: Điền Tử Phương
Nhận định
CHƯƠNG XXII: Trí Bắc du
PHẦN TƯ: TẠP THIÊN
CHƯƠNG XXIII: Canh Tang Sở
Nhận định về hai chương
CHƯƠNG XXIV: Từ Vô Quỉ
CHƯƠNG XXV: Tắc Dương
Nhận định
CHƯƠNG XXVI: Ngoại vật
Nhận định
CHƯƠNG XXVII: Ngụ ngôn
CHƯƠNG XXVIII: Nhượng vương
Nhận định
CHƯƠNG XXIX: Đạo Chích
Nhận định
CHƯƠNG XXX: Thuyết kiếm
Nhận định
CHƯƠNG XXXI: Ngư phủ
Nhận định
CHƯƠNG XXXII: Liệt Ngự Khấu
Nhận định về hai chương
CHƯƠNG XXXIII
Nhận định
Phụ lục: Những biến cố lớn xảy ra trong đời Trang tử
 Vài lời thưa trước
Trước ngày 30-04-1975, cụ Nguyễn Hiến Lê đã có một trăm tác phẩm được xuất bản và mười tác phẩm khác chưa in: Tôi tập viết tiếng Việt, Đời nghệ sĩ, Con đường thiên lí, Một mùa hè vắng bóng chim, Những quần đảo thần tiên, Gogol, Tourguéniev, Tchékhov, Lịch sử văn minh Trung Quốc, Trang tử. Mười tác phẩm đó được cụ đã giới thiệu sơ lược trong Hồi kí (Phần VI: Từ ngày giải phóng (1975-81), chương XXXIII: Lại tiếp tục viết, mục Sửa lại bản thảo chưa in); riêng cuốn Trang tử cụ viết như sau:
“Trang tử có địa vị rất lớn trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, ngang với Mạnh tử, hơn Tuân tử, hơn cả Mặc tử nữa. Nhờ ông một phần lớn mà tư tưởng của Lão tử mới được phổ biến mạnh: chỉ giới trí thức mới quí những cách ngôn trong Đạo Đức kinh, còn giới bình dân thì ai cũng biết ít nhiều những ngụ ngôn của Trang tử. Tên ông gắn liền với tên của Lão tử và cả hai có công làm cho dân tộc Trung Hoa bớt thực tiễn, yêu thiên nhiên, tự do hơn, khoan dung hơn, khoáng đạt hơn… thơ văn cũng như hội hoạ từ Lục triều trở đi, nhất là dưới đời Tống đều mang dấu vết của Trang[1].
Ở nước ta ông Nguyễn Duy Cần đã giới thiệu học thuyết của Trang, nhưng chỉ dịch ít chương trong Nội thiên, Nội thiên và Tạp thiên[2]; lại không đặt chân nguỵ của những thiên đó, cho nên cho nên gán cho ông vài tư tưởng không thực của ông. Ông nhằm mục đích phổ thông hơn khảo cứu.
Người đầu tiên nêu ra vấn đề chân nguỵ trong bộ Trang tử (cũng có tên là Nam Hoa Kinh[3]) là Tô Đông Pha đời Tống. Sau ông, số học giả nghi ngờ sự nguỵ tác trong Trang tử càng ngày càng nhiều. Đại khái ngày nay ai cũng nhận rằng Nội thiên là của Trang tử (trừ một số bài), còn Nội thiên và Tạp thiên là của người đời sau.
Tôi kiếm được năm bản Trang tử, quan trọng nhất là Trang tử toản tiên của Tiền Mục, Tân dịch Trang tử độc bản của Hoàng Cẩm Hoành (1974) và L’œuvre complète de Tchouang-tseu của Liou Kia - hway (1969); dịch tất cả các chương trong Nội thiên, Nội thiên, Tạp thiên, không bỏ một bài nào; cuối mỗi chương đưa ra nhận định của các học giả gần đây, và một số nhận định của tôi về chân, nguỵ; nếu là nguỵ tác thì người viết thuộc về phái nào: chẳng hạn phái quá khích của Lão giáo, phái ôn hoà của Lão giáo, phái theo Trang, phái theo Khổng, phái theo Đạo gia (tu tiên) hay Pháp gia…
Tôi chỉ dùng những chương chắc chắn của Trang để phân tích tư tưởng của Trang, rán không gán cho Trang những tư tưởng của người sau. Cuối cùng tôi chỉ cách nên đọc Trang ra sao.
Tác phẩm khá dày: trên 500 trang (riêng phần giới thiệu trên 300 trang)[4]. Và có thể coi là công trình đầy đủ nhất về Trang tử từ trước tới nay, tiếc là chưa in được” (Hồi kí Nguyễn Hiến Lê, Nxb Văn học, 1993, trang 537-538).
Tuy bảo là “dịch tất cả các chương trong Nội thiên, Nội thiên, Tạp thiên, không bỏ một bài nào”, điều này cũng được nói đến trong lời giới thiệu ngắn ở đầu bộ Trang tử; nhưng vì trong Ngoại thiên và Tạp thiên có nhiều bài chép từ bộ Liệt tử và Dương tử (cụ gọi tắt là Liệt tử) mà cụ đã chú dịch và cho xuất bản trước 1975, nên các bài tương ứng trong bộ Trang tử này, cụ đã lược bỏ, không chép lại, như: Đạt sinh 3, Đạt sinh 9, Sơn mộc 9, Trí Bắc du 4, Từ Vô Quỉ 7, Ngụ ngôn 7, Nhượng vương 6. Ngược lại, có bài cụ không dịch trong Liệt tử lại được cụ dịch trong bộ Trang tử như truyện người say rượu té xe trong bài Đạt sinh 2, truyện luyện gà đá trong bài Đạt sinh 8... Như vậy, người đọc muốn đọc được các bài hoặc các đoạn bị lược bỏ trong bộ này thì phải tìm trong bộ kia và ngược lại. Cũng có bài, như bài Liệt Ngự Khấu 1, cụ đã dịch trong Liệt tử nhưng ở đây cụ “dịch lại để sửa vài chữ”.
Về việc dịch lại, tuy cụ Nguyễn Hiến Lê không nói ra, nhưng tôi thấy có nhiều câu trong bộ Trang tử này không giống với những câu tương ứng đã được cụ và cụ Giản Chi dịch trong bộ Đại cương triết học Trung Quốc (ĐCTHTQ) từ năm 1962-63[5]. Ví dụ hai câu: “Sát sinh dã bất tử. Sinh sinh giả bất sinh”, trong ĐCTHTQ dịch là: “Cái giết được cái sống thì cái đó không chết. Cái sinh ra được cái sinh ra thì cái đó chính nó không từ đâu sinh ra” (bản của Nxb Thanh Niên, 1994, Tập 1, trang 181), trong Trang tử (bài Đại Tôn sư 2) dịch là: Bậc chủ tể giết sinh mệnh thì không chết, bậc đó sinh ra sinh mệnh mà cũng lại không sinh (nghĩa là không có cái gì sinh ra cả)”. Một ví dụ khác, câu “Chiêu ư minh minh, hữu luân sinh ư vô hình”, sách trước dịch là: “Cái sáng láng sinh ra từ cái mịt mờ, cái có loại (tức vật hữu hình) sinh ra từ cái vô hình” (Sđd, Tập 1, trang 183); sách sau dịch là: “Cái sáng sủa phát sinh từ cái tối tăm; cái hữu hình phát sinh từ cái vô hình” (Trí Bắc du 5).
Nhờ soạn bộ ĐCTHTQ mà cụ Nguyễn Hiến Lê đã “nhân cái đà đó tiến sâu thêm về Trung triết… mà viết được trên mười cuốn nữa”, trong đó có bộ Trang tử này.  
Trong Trang tử, phần Nội thiên, Ngoại thiên và Tạp thiên, cụ Nguyễn Hiến Lê không chép nguyên tác chữ Hán lẫn phiên âm; và trong phần chú thích, cụ cho biết: “nếu thấy cần, sẽ chép thêm nguyên văn phiên âm (chứ không có chữ Hán vì công việc ấn loát lúc này khó khăn và tốn kém)”[6]. Do không có chữ Hán, nên trong quá trình gõ, khi gặp những chỗ ngờ in sai, hoặc có sự khác biệt với bản Nguyễn Duy Cần, tôi phải tra cứu các trang web chữ Hán để, nếu sai thì ghi thêm vào chú thích, và nếu thấy cần tôi chép thêm chữ Hán vào để chúng ta cùng tham khảo.
Ngoài ra, tôi còn chép thêm:
Phụ lục I: Những biến cố lớn xảy ra trong đời Trang tử.
Phụ lục II: Các bài trong bộ Liệt tử tương ứng với các cụ Nguyễn Hiến Lê lược bỏ, không dịch lại trong bộ Trang tử.
Trong thời gian chỉnh sửa và bổ sung chữ Hán cho bản đánh máy tác phẩm Trang Tử - Nam Hoa Kinh (Phần Thượng) của Nguyễn Duy Cần (bản đánh máy do bạn Fatman1702 cung cấp); và thực hiện ebook Trang tử và Nam Hoa kinh của Nguyễn Hiến Lê này, bác Vvn đã nhiệt tình giải đáp giúp tôi rất nhiều nghi vấn; một phần nhỏ những giải đáp đó, tôi có ghi lại trong chú thích. Ngoài ra, bác Vvn còn giúp tôi sửa lỗi ebook này nữa. Xin chân thành cảm ơn bác Vvn.
Nhờ sửa lỗi, rồi sau đó bổ sung phần chữ Hán cho bản đánh máy do bạn Fatman1702 cung cấp như đã nói ở trên, tôi mới có dịp đọc lại cuốn Trang tử của Nguyễn Hiến Lê mà tôi đã đọc từ năm 1996; và nhân đó tôi gõ phần I: Nội thiên để chúng ta có thể so sánh hai bản dịch của hai cụ Nguyễn, mà theo lời cụ Nguyễn Hiến Lê thì: “Trước chúng tôi đã có hai bản Tuyển dịch Trang tử (tức một của Nhượng Tống và một của Nguyễn Duy Cần). Sau chúng tôi chắc sẽ còn nhiều người dịch nữa, mà bản dịch nào cũng sẽ có nhiều chỗ không giống các bản khác… Tôi mong độc giả hiểu cho lẽ đó mà coi bản của chúng tôi may mắn lắm là có giá trị ngang các bản khác thôi”. Ban đầu tôi chỉ mong gõ xong phần I thôi, nhưng rồi lần hồi tôi cũng gõ được trọn bộ Trang tử của cụ Nguyễn Hiến Lê. Xin cảm ơn bạn Fatman1702; và xin hân hạnh được chia sẻ cùng các bạn ebook này.
Goldfish – Mùa hè 2009
Chú thích:
[1] Cũng trong Hồi kí, cụ cho biết thêm: “Có thể như Lâm Ngữ Đường nói, nhờ Lão Trang dân tộc Trung Hoa tuy nghèo khổ mà vẫn yêu đời, tinh thần được quân bình không thác loạn như người Âu giàu gắp 10, gắp 100 họ”. [Goldfish].
[2] Trong bộ Trang tử - Nam Hoa kinh gồm hai tập (về sau gọi tắt là bản Nguyễn Duy Cần), cụ Nguyễn Duy Cần chỉ dịch 6 thiên trong Nội thiên (bỏ thiên Nhân gian thế), còn Ngoại thiên và Tạp thiên cụ chỉ “trích yếu” mà thôi. Ngoài bộ đó, cụ còn có cuốn Trang tử tinh hoa. [Goldfish].
[3] Có người cho rằng: theo Từ điển Thành ngữ Trung Quốc thì Nam Hoa là tên một hòn núi ở Tào Châu thuộc nước Tống thời xưa. Tương truyền rằng, khi Trang Tử đến ở ẩn nơi chân núi Nam Hoa, ông đem hết tinh hoa của Đạo giáo của Lão Tử viết thành bộ sách, lấy tên núi Nam Hoa mà đặt, gọi là Nam Hoa kinh, đời sau người ta gọi là "sách Trang Tử". [Goldfish].
[4] Bản của Nxb Văn hoá - Thông tin năm, 1994: khoảng 560 trang, phần Giới thiệu tác giả và tác phẩm khoảng 130 trang. [Goldfish]
[5] Bộ này gồm 2 quyển, do nhà Cảo Thơm xuất bản: quyển Thượng in năm 1965, quyển Hạ in năm 1966. Bản của nhà Thanh Niên xuất bản in Quí 3 năm 1994, cũng gồm 2 quyển, gọi lại Tập 1 và Tập 2. [Goldfish]
[6] Trong sách chỉ có 3 chữ Hán: Hưu 休, Mộc 木, Mạc 莫 in trong Phần I, tiểu mục Đời sống (của Trang tử) [Goldfish].
hết: Lời thưa trước , xem tiếp: Phần I - Chương 1
 TRANG TỬ NAM HOA KINH
Phần I - Chương 1
THỜI ĐẠI VÀ CUỘC SỐNG


THỜI ĐẠI

Trang tử kém Mạnh tử khoảng mười tuổi, sống ở giữa thời Chiến Quốc (-403 -221). Ông sanh vào khoảng -360, trên 40 năm sau khi thời đại loạn đó bắt đầu, và 60 năm sau ông mất, nó cũng chấm dứt. Vậy ông chứng kiến được hầu hết những biến chuyển lớn của thời đó: Tần dùng Vệ Ưởng để biến pháp mà hùng cường lên, xưng bá (-343) rồi xưng vương (-325); sáu nước kia (Yên, Triệu, Hàn, Nguỵ, Tề, Sở) bèn hợp tung để chống Tần (-333), nhưng phe hợp tung mau tan (-332), Trương Nghi đề nghị thuyết liên hoành (-331) để liên hiệp lục quốc mà tôn Tần, do đó mà Tần lại càng mạnh thêm, thắng được Nguỵ, Hàn, Sở, rồi xưng đế (-288), diệt Tống, ức hiếp Triệu. Trước khi mất, chắc Trang tử đã đoán được xu thế của thời đại; thế nào rồi Tần cũng sẽ thay Chu, làm thiên tử mà thống nhất Trung Quốc.

Như trong Chiến Quốc Sách[1] trang 10, chúng tôi đã nói, sự dùng năm -403 để phân chia hai thời Xuân Thu và Chiến Quốc không dựa trên một biến cố nào quan trọng (năm đó chỉ là năm lên ngôi của Uy Liệt vương nhà Chu), mà lịch sử và xã hội Trung Hoa suốt hai thời kì Xuân Thu và Chiến Quốc biến chuyển liên tục, không hề gián đoạn, từ chế độ phong kiến tới chế độ quân chủ chuyên chế, từ tình trạng phân li tới tình trạng thống nhất.

Tuy nhiên, xét chung, chúng ta vẫn thấy hai thời đó có nhiều điểm khác nhau:

1. Xuân Thu là thời các vị bá chủ (như vua Hoàn công nước Tề) mượn uy danh của Thiên tử, tức vua Chu mà ra lệnh các chư hầu; Thiên tử thời đó tuy không có quyền, nhưng còn danh phận, các vị bá chủ chưa dám khinh; thời Chiến Quốc, trái lại, các vua nước lớn như Tần, Tề, Nguỵ, Sở… đều xưng vương, chẳng coi Thiên tử ra gì cả;

2. Thời Xuân Thu, chế độ chính trị chỉ biến chuyển lần lần thôi, vì các vua chúa còn trọng dư luận ít nhiều; qua thời Chiến Quốc, vua các cường quốc không đoái gì tới cổ pháp, cổ lễ, can đảm làm những cuộc cách mạng về pháp độ, như cuộc biến pháp của Vệ Ưởng năm -359 đời Tần Hiếu công;

3. Thời Xuân Thu giới quý tộc còn nắm được nhiều quyền lớn, cha truyền con nối, qua thời Chiến Quốc, đặc quyền đó gần đó gần như hoàn toàn bị diệt, và rất nhiều người trong giới bình dân lên làm khanh tướng, như Tô Tần, Trương Nghi…;

4. Chiến tranh trong thời Xuân Thu tuy nhiều nhưng không kịch liệt, còn giữ được cái luật “quân tử” không giết kẻ bại; thời Chiến Quốc, chiến tranh tàn khốc hơn nhiều, có trận chết hàng vạn người (sát nhân doanh dã, sát nhân doanh thành), cho nên dân tình cực kì điêu đứng;

5. Phép “tỉnh điền” không rõ bị phế bỏ lần lần từ thời nào, nhưng chắc chắn là cuộc biến pháp của Vệ Ưởng, thời Chiến Quốc, được nhiều nước khác theo, Mạnh tử hô hào tái lập nó mà không được;

6. Thời Xuân Thu, trọng tâm của kinh tế là nông nghiệp; qua thời Chiến Quốc, công và thương phát đạt mạnh, địa vị mỗi ngày một quan trọng hơn, mà các thị trấn như Hàm Dương (Tần), Lâm Tri (Tề), Hàm Đan (Triệu) rất phồn thịnh; và bọn cự thương như Lã Bất Vi có thể dùng thế lực đồng tiền xâm nhập chính trị;

7. Quan trọng nhất là sự phát triển về tư tưởng. Trong thời Xuân Thu, từ khi Khổng tử sanh (-551) tới khi Liệt tử mất (-349), suốt hai trăm năm chỉ có mươi triết gia: Khổng tử, Tử Tư, Mặc tử, Dương tử, Lão Đam, Quan Doãn, Liệt Ngự Khấu; qua thời Chiến Quốc, số triết gia có tiếng tăm lên tới trên hai chục nhà, ấy là chưa kể các chính trị gia, biện sĩ, thuật sĩ.

Theo Sử kí của Tư Mã Thiên, bọn du thuyết được Tề Tuyên vương tặng chức thượng đại phu, chỉ bàn suông chứ không dự vào việc chính trị, như Trâu Diễn, Thuần Vu Khôn, Tiếp tử, Hoàn Uyên… tới 76 người, còn số học sĩ ở Tề có tới mấy trăm ngàn người (chương 46: Điền Hoàn thế gia).

Nguyên nhân chính là thời đó đại loạn, người nào cũng có tư tưởng cũng muốn đưa ra một thuyết để cứu đời; mà các vua chúa nào muốn làm bá chủ Trung Quốc cũng tôn trọng kẻ sĩ, mời họ làm cố vấn. Do đó, ngôn luận được hoàn toàn tự do. Đúng là thời “trăm hoa đua nở”; cho tới nay, trên hai ngàn năm sau, Trung Hoa không còn được thấy lại cảnh phồn thịnh đó nữa.

Dĩ nhiên, mỗi triết gia chỉ nắm được một phần chân lí, như tác giả chương Thiên hạ, phần Tạp thiên của Nam Hoa kinh đã nhận định:

“… học phái hoặc kĩ thuật của trăm nhà đều có sở trường, thời cơ thích hợp thì đều có chỗ dùng được đấy, nhưng không bao quát được hết: họ chỉ là những nhà thiên kiến… Họ mổ xẻ cái thuần mĩ của trời đất, phân tích cái lí của vạn vật, cái nhất quán của cổ nhân… lập ra những phương thuật riêng. Buồn thay! Học phái của bách gia cứ phân tán ra trăm ngả tới cực đoan mà không trở về cái gốc… Đạo thuật trong thiên hạ sắp bị chẻ nhỏ ra rồi”. (đoạn 3).

Bất kì về vấn đề nào: vũ trụ, Đạo và tính, chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, võ bị, danh và thực… họ cũng đưa ra được hai ba lí thuyết để chống đối nhau, phủ nhận nhau, không khí thật kích thích, tạo nên một hoàng kim thời đại của triết học Trung Hoa.

Dưới đây tôi chỉ ghi tên một số triết gia đồng thời với Trang Chu, hoặc được nhắc tới trong Trang tử (cũng gọi là Nam Hoa kinh) để độc giả đỡ phải tìm kiếm mà dễ nhận định được thời đại. Những năm sinh và mất của mỗi nhà đều theo Vũ Đồng trong Trung Quốc triết học đại cương (Thương vụ ấn thư quán – 1958), và đều phỏng chừng, có thể sai vài ba chục năm.

Xét bảng trên[1], chúng ta thấy khi Lão tử và Liệt tử chết, Trang tử hãy còn nhỏ; những triết gia đồng thời với Trang và lớn hơn Trang từ 10 đến 20 tuổi là Tống Kiên, Bành Mông, Mạnh tử, Huệ Thi, Điền Biền, Thận Đáo… Công Tôn Long và Tuân tử đều nhỏ hơn Trang khoảng 30 tuổi. Sau cùng khi Trang mất thì Hàn Phi mới ra đời.

Tóm lại Trang sống vào giữa thời phát triển mạnh mẽ nhất của triết học Trung Quốc và mặc dầu không hề nhắc tới Tuân tử, ông có thể được biết tất cả các triết thuyết thời Chiến Quốc, trừ học thuyết Hàn Phi.

ĐỜI SỐNG

Trong số các triết gia lớn thời Tiên Tần, chỉ có Khổng tử và Mạnh tử là ta biết được tạm đủ và khá chắc chắn về đời sống: Khổng tử nhờ làm quan ở Lỗ và nhờ bộ Luận ngữ do môn sinh chép; Mạnh nhờ làm khách khanh cho Lương, Tề, Đằng, Tống, nhất là nhờ bộ Mạnh tử do môn sinh chép (ông duyệt lại) ngay khi ông còn sống[2].

Còn những nhà khác như Dương tử, Lão tử, Trang tử một phần vì ẩn dật, một phần vì không dạy học hoặc dạy ít học trò nên đời sống không được ghi chép lại.

Về Trang tử ta chỉ có mỗi một tài liệu gồm khoảng hai trăm chữ trong chương 63 bộ Sử kí. Không hiểu tại sao Tư Mã Thiên lại sắp chung Lão tử, Trang tử với Thân Bất Hại và Hàn Phi. Ông cho chúng ta biết:

° Trang tử tên là Chu, người đất Mông, đồng thời với Lương Huệ vương (-370 -319), Tề Tuyên vương (-319 -301), và có làm một chức lại trong một xưởng chế tạo sơn ở đất Mông.

° Trang học rộng, viết một bộ sách gồm trên 10 vạn chữ, đại để là ngụ ngôn; có những chương Ngư phủ, Đạo chích, Khư khiếp[3] chỉ trích Khổng Mặc và làm sáng tỏ học thuật của Lão tử. Văn ông hay, lời lẽ có thứ tự, khéo chỉ việc tả tình, tuy hạng túc học đương thời cũng khó tự gỡ cho mình được khi bị ông bài bác, tư tưởng của ông đặc biệt quá, nên các vương công thời đó không dùng.

Sở Uy vương nghe tiếng ông hiền, vời ông làm tướng quốc, ông từ chối, muốn được sống thoả ý, không chịu bị trói buộc.

Tư Mã Thiên không cho biết Trang tử tên tự là gì, sanh năm nào, mất năm nào, và đất Mông thuộc nước nào.

Về tên tự, có sách bảo là Tử Hưu, có sách chép là Tử Mộc (Hưu 休 và Mộc 木 viết hơi giống nhau), trong Mạnh tử lại gọi là Tử Mạc (Mạc 莫 và Mộc đọc hơi giống nhau)”.

Về năm sanh và năm tử, cũng có rất nhiều thuyết khác nhau khoảng năm chục năm.

Thuyết xa nhất là sanh năm -398, thuyết gần nhất là sanh năm -350, cách nhau: 48 năm. Đa số, như Lương Khải Siêu, Trương Thành Thu, Trang Văn Thọ, Mã Di Sơ… đoán khoảng -370.

Năm tử: xa nhất là -317, gần nhất là -270, cách nhau: 47 năm. Đa số đoán vào khoảng -290 hay -295.

Trong bảng ở trang 13, tôi theo thuyết mới nhất của Vũ Đồng: -369, -280. Vũ Đồng bảo Trang chịu ảnh hưởng của Điền Biền và Thận Đáo, chắc phải nhỏ hơn hai nhà này. Tuy nhiên đó cũng chỉ là một giả thuyết[4] có thể gần đúng, chứ không đáng tin hẳn.

Về nơi sanh, các học giả đều bảo là đất Mông, nhưng đất Mông ở đâu, thuộc nước nào thì ý kiến cũng phân vân. Người thì bảo đất Mông tức Mông Trạch, người thì bảo là Mông huyện hoặc Mông thành. Bùi Nhân trong Tập giải[5], dẫn bộ Địa lí chí bảo: “Huyện Mông thuộc nước Lương”; Tư Mã Trinh trong Sách ẩn, dẫn lời Lưu Hướng trong Biệt lục, bảo Trang tử là người đất Mông nước Tống; Cao Dụ chú giải bộ Lữ Thị Xuân Thu cùng ý kiến với Tư Mã Trinh. Chu tử đời Tống lại cho Trang tử là người nước Sở. Hoàng Cẩm Hoành trong Trang tử độc bản (Tam dân thư cục – 1974) sau khi nghiên cứu kĩ lưỡng các thuyết, kết luận rằng đất Mông đó là thành Mông thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay; khi Trang tử ra đời, đất đó vốn là của nước Tống, sau khi Trang mất, Tống bị diệt, ba nước Sở, Nguỵ, Tề chia nhau đất đai của Tống và đất Mông từ đó thuộc về Nguỵ (tức Lương), vì vậy mà bảo Mông thuộc về Nguỵ hoặc Tống cũng được.

Tóm lại về đời của Trang tử chỉ có mấy điểm này là chắc chắn: Ông sinh ở đất Mông thời đó thuộc Tống (Tống giáp biên giới phía bắc của Sở), sống vào thế kỉ thứ 4 trước T.L., đồng thời với Lương Huệ vương và Tề Tuyên vương (tức đồng thời với Mạnh tử), hồi trẻ làm một chức quan nhỏ, coi một xưởng chế tạo sơn, sau ở ẩn, viết một bộ sách, người đời sau gọi là Trang tử, tư tưởng chịu ảnh hưởng của Lão tử.

Muốn biết thêm về tình cảnh cùng cá tính của ông, ta phải tìm trong bộ Trang tử.

Chúng tôi đếm được trên dưới ba chục bài chép cố sự về Trang. Trừ một số bài hoặc chương chúng ta biết chắc là sai vì vô lí, chẳng hạn bài XXI.5[6] cho Trang tử lại yết kiến Lỗ Ai công, mà Lỗ Ai công mất trước khi Trang tử sanh khoảng trăm năm, hoặc chương XXX bàn về thuật đánh kiếm, đem những tư tưởng không có chỗ nào hợp với Trang đặt vào miệng của Trang…; trừ những bài đó không sao tin được, chỉ có thể coi là ngụ ngôn, còn những bài khác, tuy không hoàn toàn đáng tin hẳn, nhưng có thể tạm dùng để hiểu về Trang.

Những bài này chia làm hai loại:

- những bài dẫn lời Trang bàn về đạo lí, như bài XXII.6 Trang giảng về Đạo cho Đông Quách tử, bài XIV.2 Trang giảng về đức nhân cho viên Thái tể Đãng…; những bài trong loại này nếu tư tưởng có thật của Trang thì tôi cũng không dẫn trong chương về tiểu sử này mà sẽ dành lại cho chương về học thuyết của Trang.

- những bài có tính cách cố sự, như bài XVII.5, Trang từ chối lời vua Sở mời ra làm quan; bài XVIII.2, Trang gõ nhịp vào cái vò mà hát khi vợ chết; bài XXIV.6, Trang tỏ ý tiếc nhớ Huệ Thi vì Huệ Thi mất rồi, không còn ai để đàm luận nữa…; những bài trong loại này khá nhiều, tôi sẽ trích dẫn một số cho ta đoán được đời sống và tính tình của Trang.

Chúng ta không biết được chút gì về tuổi thơ của Trang cả: Gia đình ra sao? Thuộc giới nào trong xã hội? Hồi nhỏ học ai? Lớn lên lập gia đình vào thời nào? Sau khi goá vợ có tục huyền không? Có bao nhiêu con? Dạy con ra sao?...

Theo Tư Mã Thiên, ông làm một chức lại nhỏ ở quê nhà. Sau ông ở ẩn, không chịu ra làm quan, chắc chắn có dạy học vì có một số bài chép những lời ông nói với môn sinh, chẳng hạn bài XX.1, ông đáp môn sinh về hữu dụng và vô dụng sau khi chủ nhà ông ghé thăm, sai gia nhân giết ngỗng để đãi ông, hoặc bài XXXII.13, kể chuyện khi ông hấp hối, ngăn môn sinh không cho hậu táng.

Môn sinh chắc không đông, ông dạy họ những gì, họ đối với ông ra sao, ta cũng không biết. Có lẽ là một số người đã lớn thích học thuyết của ông, trọng tư cách ông, ở gần ông để nghe ông tuỳ hứng bàn về Đạo, về cách xử thế. Còn Thi, Thư, Lễ, Nhạc thì nhất định là ông không giảng tới.

Ông ít đi đâu, cũng như Lão tử, Liệt tử, và trái hẳn với Mạnh tử, Mặc tử.

Ông giao du cũng ít, cơ hồ chỉ thân với mỗi một người là Huệ Thi, một triết gia lớn hơn ông độ mươi tuổi, học rộng (theo chương XXXIII, có đến năm cỗ xe đầy sách), thuộc phái Mặc, làm tướng quốc cho Lương Huệ vương.

Có hai bài chép rằng Trang tử nghèo.

Bài XXVI.2: “Trang tử nghèo phải hỏi mượn lúa của Giám Hà Hầu [tức Nguỵ Văn Hầu]. Giám Hà Hầu bảo:

- Được. Đợi tôi thu được tiền thuế của một ấp rồi tôi sẽ cho mượn ba trăm đồng. Được không?

Trang Chu giận đỏ mặt lên, đáp:

- Hôm qua tôi đi lại đây, giữa đường nghe có tiếng gọi. Tôi ngoảnh lại thấy một con cá giếc nằm trong một vết bánh xe. Tôi hỏi nó: “Con giếc kia lại đó làm gì vậy?”. Nó đáp: “Tôi là thần sóng ở biển Đông, ông cho tôi một đấu, một thăng (phần mười đấu) nước để cứu sống tôi được không?”. Tôi bảo: “Được. Để tôi đi du thuyết vua Ngô và vua Việt đã rồi khi về sẽ dẫn nước Tây giang lại cứu anh, được chứ?”. Con giếc nổi giận, biến sắc, đáp: “Tôi vì ra khỏi nước, không có chỗ an thân, chỉ mong được một đấu, một thăng nước để sống. Ông nói như vậy thì tốt hơn, (khi trở về) ông nên lại hàng cá khô mà tìm tôi”.

Nếu là truyện thực thì Trang tử quả là nhanh trí và cương trực, không sợ làm bẽ mặt một vị chúa.

Lần khác (bài XX.6), Trang tử “bận áo vải thô mà vá, đi giầy thủng, cột lại bằng dây gai lại yết kiến vua Nguỵ” – có thể cũng lại là Nguỵ Văn Hầu trong bài trên.

Vua Nguỵ bảo:

- Sao mà tiên sinh khốn khổ như vậy?

Trang tử đáp:

- Nghèo chứ không khốn khổ. Kẻ sĩ không thi hành đạo đức thì mới khốn khổ. Áo vá, giầy thủng thì là nghèo chứ không phải khốn khổ. Như vậy là vì không gặp thời”.

Giọng Trang có vẻ bực tức, gay gắt. Rồi cũng như trong bài trên, ông đem loài vật ra kể truyện để mắng vua Nguỵ: con vượn khi ở trên các ngọn cây cao thì leo nhảy, tự đắc lắm như làm chúa một cõi, nhưng khi phải len lỏi trong đám cây thấp có gai thì run sợ, ngó trước ngó sau, gân cốt co lại, chỉ vì hoàn cảnh bất lợi nên không thi thố được tài năng

Sau cùng Trang kết:

“Ngày nay kẻ sĩ ở vào cái thời hôn quân loạn thần thì làm sao mà khỏi khốn khổ cho được. Chứng cớ là Tỉ Can bị moi tim đấy”.

Truyện này cũng chưa chắc đã có thực, nhưng cũng giống truyện trên: Trang tử lại tỏ tài ứng đối, tính tình khí khái mà cao ngạo nữa. Hễ trêu ông thì chỉ mang nhục thôi.

Ngay đối với bạn thân là Huệ Thi, ông cũng không nể mà còn đập một cách cay độc. Huệ Thi đang làm tể tướng nước Lương (tức nước Nguỵ sau khi dời đô qua Đại Lương), khi hay tin Trang tử qua Lương, sợ Trang tranh ngôi tể tướng của mình, sai người đi tìm khắp nước suốt ba ngày ba đêm. Khi tới nơi Trang thấu tâm lí đó của bạn, bảo:

- “Ông có biết một con chim ở phương Nam người ta gọi là con uyên sồ (một loài chim phượng) không? Khi nó cất cánh từ Nam hải mà lên Bắc hải, không phải là cây ngô đồng thì nó không đậu, không phải là hột luyện thì nó không ăn, không phải là nước suối ngọt thì nó không uống. Một con chim cú đương rỉa xác một con chuột thấy nó bay ngang [sợ nó tranh ăn], ngửng lên nhìn nó, kêu lên một tiếng lớn doạ nó. Nay ông vì (cái ngôi tể tướng) nước Lương mà cũng muốn kêu lên để doạ tôi sao?” (XVII.6)

Nếu là bịa thì truyện đó cũng hợp với tính tình ngạo mạn, khinh phú quí của Trang. Trang không chịu nhận một chức vụ lớn nhỏ nào ở triều đình. Sử kí của Tư Mã Thiên chép rằng:

“Vua Sở Uy vương nghe tiếng Trang Chu là người hiền, sai sứ giả mang hậu lễ lại rước, hứa sẽ phong làm tể tướng. Trang Chu cười bảo sứ giả của Sở:

- Ngàn vàng là cái lợi lớn đấy, khanh tướng là một vị tôn quí đấy. (Nhưng này) ông có thấy con bò làm vật hi sinh trong lễ tế Giao không? Người ta nuôi nó mấy năm, cho nó bận áo gấm thêu đủ màu để dắt nó vào thái miếu. Lúc đó, giá nó muốn làm một con heo con cô độc, phỏng có được chăng? Thôi, ông đi ngay đi, đừng làm ô uế ta nữa. Ta thà ngao du trong cái rãnh bẩn cho thích chí chớ không chịu trói buộc tấm thân vì việc nước. Suốt đời ta không làm quan đâu, để thoả lòng ta!”.

Trong bộ Trang tử, truyện đó được chép lại hai lần. Một lần trong bài XXXII.12:

“Một ông vua muốn mời Trang tử ra làm quan. Trang tử đáp sứ giả:

- Ông có thấy con bò để tế đấy không? Người ta trùm cho nó tấm gấm thêu, cho nó ăn cỏ và đậu lớn, để ngày kia dắt nó lại thái miếu. Lúc đó nó có muốn làm một con bê cô độc, phỏng có được chăng?”.

Bài đó gần y hệt đoạn văn trong Sử kí, chắc cùng một nguồn gốc. Còn một bài nữa, nghệ thuật cao hơn và thường được nhiều sách trích dẫn hơn, tức bài XVII.5:

“Trang tử câu trên sông Bộc. Vua Sở phái hai vị đại phu lại báo trước “sẽ xin đem việc nước lại làm phiền ông”.

Trang tử vẫn cầm cần câu, không ngoảnh lại, mà đáp:

- Tôi nghe nước Sở có một con rùa thần, chết đã ba ngàn năm, nhà vua gói nó vào chiếc khăn, cất trong cái hộp ở trên miếu đường. Con rùa ấy chịu chết mà lưu lại bộ xương cho người ta thờ hay thích sống mà lết cái đuôi trong bùn?

Hai vị đại phu đáp:

- Thà sống mà lết cái đuôi trong bùn còn hơn.

Trang tử bảo:

- Vậy hai ông về đi! Tôi cũng thích lết cái đuôi trong bùn đây”.

Ba tài liệu đó cho thấy những cố sự về Trang chép trong các sách, dù có thể tin được thì cũng chỉ đúng một phần thôi, về đại ý thôi, còn về chi tiết thì mỗi tác giả có thể thêm bớt, sửa đổi. Như ở đây, ta chỉ nên nhớ một điều là Trang không chịu làm quan mà thích sống tự do, thái độ đó rất hợp với tư tưởng của Trang trong bài I.1 và II.4.

Bài I.1, Trang bảo:

“Ông Liệt tử cưỡi gió mà bay, thật nhẹ nhàng, khoan khoái, mười lăm ngày rồi về. Có phúc lớn như ông thật hiếm ở đời, tuy khỏi phải đi, nhưng ông vẫn còn tùy thuộc một cái gì - do hữu sở đãi - (nghĩa là còn phải đợi cho gió nổi lên).
Đến như hạng người làm chủ được cái chính đạo của trời đất, chế ngự được lục khí để ngao du trong vũ trụ vô biên, thì còn tùy thuộc cái gì nữa đâu”.

Một người không muốn tuỳ thuộc một cái gì, thì đâu chịu giam mình trong vòng danh lợi. Đến như con trĩ ở trong chằm kia, thà chịu khó nhọc kiếm ăn (cứ mười bước lại phải mổ một thức ăn, trăm bước lại phải uống) chứ không chịu bị nhốt để người ta nuôi, (bài III.4), huống hồ là ông. Ông trọng tự do hơn hết thảy những gì ở đời, muốn được hoàn toàn tự do. Đó là nét nổi bật nhất trong cá tính của ông.

Ông nghĩ sống trong một thời đại loạn, nếu lỡ có tài thì cũng nên giấu tài đi, mới mong được hưởng hết tuổi thọ của trời, như cái cây lớn cành lá sum suê vì gỗ xấu mà khỏi bị đốn trong bài XX.1. (Điểm này, tôi sẽ xét thêm trong một chương sau).

Vì có tinh thần trọng tự do, tự tại, khinh phú quí đó, nên Trang cực kì cay độc mà dí dỏm với hạng vô tài mà khoe khoang khi được vua thưởng. Bài XXXII.6 chép:

“Một người nước Tống tên là Tào Thương được vua Tống sai đi sứ qua Tần, khi đi chỉ có năm cỗ xe, vua Tần bằng lòng ông ta lắm, cho một trăm cỗ. Về tới Tống, ông ta gặp Trang tử, bảo:

- Ở trong một đường hẻm trong một xóm nghèo khổ, quẫn bách tới nỗi phải bện dép để sống, đói tới nỗi cổ ngẳng, mặt xanh xao, đó là sở đoản của Thương tôi. Nhất đán gặp vua một nước vạn cỗ xe rồi được tặng một trăm cỗ xe, đó là sở trường của Thương tôi.

Trang tử đáp:

- Vua Tần bị bệnh, vời một y sĩ tới trị. Y sĩ mổ một cái nhọt lớn, vua Tần thưởng cho một cỗ xe; còn kẻ nào liếm trĩ ông thì ông thưởng cho năm cỗ xe. Việc càng đê tiện thì càng được thưởng nhiều. Phải ông trị bệnh trĩ cho vua Tần không, sao mà được thưởng nhiều xe như vậy? Thôi ông cút đi”.

Truyện đó đáng cho vợ con những kẻ giàu sang trong thời loạn suy gẫm.

Y như nọc rắn phun từ miệng Trang ra vậy. Ai bảo kẻ kia dám trêu ông, mỉa ông nghèo đói. Bình thường đối với hạng ham danh lợi đó, ông chỉ ôn tồn răn bảo, và luôn luôn dùng những ví dụ, những hình ảnh lạ để đập mạnh vào óc kẻ đối thoại, như trong bài XXXII.11:

“Một người lại bái kiến vua Tống, được ân tứ mười cỗ xe, đánh mười cỗ xe đó lại khoe Trang tử. Trang tử bảo:

- Trên bờ Hoàng Hà có một gia đình nghèo, sống nhờ nghề đan cỏ ngải. Một hôm một người con lặn xuống vực, vớt được một viên ngọc châu đáng giá ngàn vàng. Người cha bảo con: “Lấy một phiến đá đập bể nó đi! Một viên ngọc đáng giá ngàn vàng tất phải ở dưới cằm một con rồng đen trong một vực sâu chín đợt. Con lấy được nó chắc là trong khi con rồng đó ngủ; nó tỉnh dậy thì còn gì là đời con nữa!”. Nước Tống ngày nay còn sâu hơn cái vực chín đợt, mà vua Tống còn hung dữ hơn con rồng đen nữa. Chú được mười cỗ xe đó chắc là trong lúc ông ta ngủ; ông ấy mà tỉnh dậy thì tất chú bị nát thây mất”.

Một điểm đáng để ý nữa trong cá tính của Trang là vui sống. Trong Nội thiên có tới năm sáu lần ông cho được “hưởng hết tuổi trời” là một hạnh phúc lớn.

Bài XXVI.8 ông bảo:

“Nếu tự mình tự thích ý được thì đi đâu mà không thích ý? Nếu tự mình không thích ý được thì dù đi đâu cũng không thích ý được… Chỉ bậc chí đức là vui vẻ sống với người đồng thời mà không theo thành kiến của họ…”.

Bài đó do người đời sau viết, nhưng chúng ta có thể tin được là diễn đúng quan niệm của ông về nhân sinh.

Về quan niệm của ông đối với sinh tử, trong một chương sau, tôi sẽ xét kĩ, đây tôi chỉ xin dẫn ít cố sự cho thấy tin thần rất khoáng đạt của ông thôi.

Bài XVIII.2 rất nổi danh, được gọi là bài Trang tử cổ bồn, và tích Trang tử cổ bồn rất thường diễn trên sân khấu thời xưa. Bài đó như sau:

“Vợ Trang tử chết, Huệ tử lại điếu, thấy Trang tử ngồi xoạc chân ra, gõ nhịp vào một cái vò[7] mà hát, bèn bảo:

- Ăn ở với người ta, người ta nuôi con cho, nay người ta chết, chẳng khóc là bậy rồi, lại còn hát gõ nhịp vào cái vò, chẳng là quá tệ ư?

Trang tử đáp:

- Không phải vậy. Khi nhà tôi mới mất, làm sao tôi không thương xót? Nhưng rồi nghĩ lại thấy lúc đầu nhà tôi vốn không có sinh mệnh; chẳng những không có sinh mệnh mà còn không có cả hình thể nữa; chẳng những không có hình thể mà đến cái khí cũng không có nữa. Hỗn tạp ở trong cái khoảng thấp thoáng, mập mờ mà biến ra thành khí, khí biến ra thành hình, hình biến ra thành sinh mệnh, bây giờ sinh lại biến ra thành tử, có khác gì bốn mùa tuần hoàn đâu. Nay nhà tôi nghỉ yên trong cái “Nhà lớn” (tức trời đất) mà tôi còn ồn ào khóc lóc ở bên cạnh thì tôi không hiểu lẽ sống chết rồi. Vì vậy mà tôi không khóc”.

Tư tưởng trong bài này hợp với tư tưởng của Trang trong Nội thiên, nhưng tác giả chắc tưởng tượng thêm, cho Trang tử ngồi xoạc chân, gõ nhịp mà hát, để câu chuyện thêm hấp dẫn. Trang vốn coi sinh tử như nhau (tề sinh tử), chỉ là những biến hoá tự nhiên như trên cái vòng tròn, không phân biệt đâu là thuỷ, là chung vì “chung” của giai đoạn này cũng “thuỷ” của giai đoạn sau, vì vậy vợ chết Trang tử không thấy làm buồn mà khóc, nhưng tất cũng không lấy đó làm vui cho vợ, tới nỗi gõ nhịp mà ca hát[8].

Thú vị hơn nữa là bài XXXII.13 tả lúc Trang tử hấp hối: môn sinh bàn với nhau sẽ hậu táng. Ông nghe được bảo:

“- Đừng. Ta đã có trời đất làm quan quách, mặt trời mặt trăng làm ngọc bích, các tinh tú làm ngọc châu, vạn vật sẽ đưa ma ta, như vậy đồ táng ta chẳng đủ rồi sao? Còn phải thêm gì nữa?

Môn sinh đáp:

- Chúng con sợ quạ và diều hâu sẽ rỉa xác thầy.

Trang tử bảo:

- Tại trên mặt đất thì bị quạ và diều hâu rỉa, ở dưới đất thì bị kiến và sâu đục (đằng nào cũng vậy). Tại sao các con lại thiên vị, cướp của các loài trên mà cho các loài dưới?”

Tắt thở tới nơi mà ông lão tám chục tuổi đó còn dí dỏm được như vậy!

Những bài văn tả lúc chết của các triết gia lớn đều bất hủ, vì chứa những tư tưởng cao đẹp, mà lại cho ta hiểu rõ thêm chí hướng, tư cách tuyệt vời của họ.

Trong bộ Hương sắc trong vườn văn[9] chương XIII, tôi đã dịch đoạn chép lúc Socrate thản nhiên đưa chén thuốc độc lên uống một hơi, thấy đám môn sinh ròng ròng nước mắt, ông rầy: ‘Khóc lóc gì kì vậy? Thầy đã đuổi đàn bà ra khỏi là để tránh cái phiền đó vì thầy muốn được chết yên ổn. Thôi, bình tĩnh mà an mệnh cả đi”.

Trong cuốn Nhà giáo họ Khổng[10] tôi cũng đã thuật lại lúc Khổng tử biết mình sắp chết, than thở xã hội vẫn chưa hết loạn, rồi đây không còn ai thay mình được nữa.

Tôi xin dịch thêm dưới đây hai bài 5 và 6 chương Thái bá (Luận ngữ) lúc hấp hối của Tăng tử:

“Tăng tử đau nặng (sắp mất) cho gọi các đệ tử tới bảo: Dở tay ta ra xem, dở chân ta ra xem (có toàn vẹn không) nào. Kinh Thi có câu: “Phải nơm nớp, chăm chăm như xuống vực sâu, như đi trên giá mỏng”. Từ đây về sau ta mới biết chắc rằng ta giữ được (thân ta) khỏi các điều hư hỏng, tàn tật đó các trò”.

Rồi khi Mạnh Kính tử (một đại phu nước Lỗ) lại thăm, ông nói: “Con chim sắp chết thì kêu lên tiếng bi thảm, con người sắp chết thì thốt ra lời đạo đức. Bậc quân tử (người trị dân, trỏ Mạnh Kính tử) nên giữ được ba điều này: dong mạo đừng bạo ngược, ngạo mạn, nét mặt phải thành tín, ngay thật; lời nói đừng nên thô bỉ, bội nghịch…”.

Tăng tử không buồn vì sắp chết, nhưng chỉ là một nhà đạo đức mừng rằng suốt đời không mắc tội gì, đã giữ được trọn vẹn thân thể, không làm nhục cha mẹ; và còn chút hơi thở thì khi gặp dịp, ông còn khuyên người ta thành tín, khiêm tốn, nhã nhặn.

Khổng tử chí lớn hơn nhiều, muốn làm một nhà cải tạo xã hội, gắng sức suốt đời, nhưng xã hội vẫn loạn lạc, dân chúng vẫn điêu linh, nên ông buồn, không phải buồn cho ông mà buồn cho thiên hạ rồi đây sau khi ông mất, sẽ còn khốn khổ hơn nữa. Nhiệt tâm của ông lúc đó vẫn chưa tắt[11].

Socrate bình thản hơn; ông cũng muốn giúp nước nhưng kẻ cầm quyền không hiểu ông, bắt ông chết thì ông chết, mà ông không oán ai cả.

Trang tử khoáng đạt hơn cả, vui vẻ để cho quạ, diều rỉa xác. Ông còn mắng đùa môn sinh nữa. Và con người đó nghệ sĩ làm sao khi tưởng tượng đám tang của mình có trời đất làm quan quách, trăng sao làm châu ngọc, có vạn vật tiễn đưa. Thật là hoà đồng với vũ trụ. Trong văn học sử nhân loại, chắc không có đoạn văn thứ hai nào như bài XXXII.3 đó.

Trang tử vốn chủ trương không nên tranh biện, vì tranh biện thì kẻ thắng chưa nhất định là phải, kẻ thua không nhất định là trái; hơn nữa tranh biện không thuyết phục được ai cả, mà cũng không thể dùng ai làm trọng tài để phê phán ai phải ai trái được (bài II.12 – Tôi sẽ trở lại điểm này trong một chương sau). Vậy mà trong bộ Trang tử, chúng ta thấy có tới khoảng một chục chỗ Trang tranh biện với Huệ Thi. Chẳng hạn bài XXIV.5 Trang tử hỏi Huệ Thi:

“- Người bắn cung vô tình bắn trúng đích thì có thể gọi là thiện xạ rồi kết luận rằng mọi người đều là Hậu Nghệ (một người bắn rất giỏi thời thượng cổ) cả không?

Huệ tử đáp:

- Được.

Trang tử lại hỏi:

- Nếu trong thiên hạ không có chân lí chung cho mọi người mà ai cũng tự cho mình là nắm được chân lí, thì có thể bảo rằng mọi người đều là minh triết như vua Nghiêu được không?

Huệ tử đáp:

- Được.

Trang tử bảo:

- Vậy thì Nho, Mặc, Dương Chu, Công Tôn Long là bốn, với ông nữa là năm, nhà nào nắm được chân lí?

(…)

Huệ tử đáp:

- Nay các phái Nho, Mặc, Dương Chu và Công Tôn Long tranh biện với tôi, dùng lời lẽ công kích nhau, lớn tiếng áp đảo nhau, mà không ai bác bẻ được tôi, còn gì sướng cho bằng”.

Bài đó cho thấy Huệ Thi chỉ là một nhà nguỵ biện như Công Tôn Long (Chương XXXIII, bài 9 có chép mấy điều nguỵ biện của ông ta). Hai lần ông ta đáp bướng: “Được” – “Được”, lần cuối mới thú thực rằng tranh biện chẳng phải để tìm chân lí gì cả, mà chỉ cốt tìm cái vui là không ai bác bẻ được mình.

Rõ rằng hơn nữa là lần Trang và Huệ đấu khẩu với nhau về cái vui của cá (XVII.7):

“Trang tử cùng với Huệ tử đi dạo trên cầu sông Hào, Trang tử bảo:

- Đàn cá “du” (một loại cá trắng) kia thung dung bơi lội, đó là cái vui của cá.

Huệ tử bẻ:

- Ông không phải là cá, làm sao biết được cái vui của cá?

Trang tử đáp:

- Ông không phải là tôi, làm sao biết được rằng tôi không biết cái vui của cá?

- Tôi không phải là ông, dĩ nhiên tôi không biết được ông, nhưng ông không phải là cá thì hiển nhiên là ông không biết cái vui của cá.

Trang tử bảo:

- Xin trở lại câu hỏi đầu tiên. Ông hỏi tôi làm sao biết được cái vui của cá. Như vậy tức là ông nhận rằng tôi đã biết cái vui đó rồi (nên mới hỏi làm sao tôi biết được?). Làm sao biết tôi được ư? Thì đây: tôi đứng trên cầu sông Hào này mà biết được.

Có người giải thích bài này bảo Trang tử vì đồng hoá với vạn vật nên biết được cái vui của cá, còn Huệ tử thì không.

Tôi nghĩ ai nhìn cá thung thăng bơi lội dưới dòng hoặc nghe chim ríu rít hót trên cành thì cũng thấy vui và cho rằng chúng cũng vui. Tâm lí đó rất thông thường, chẳng cần chủ trương “vật hoá” như Trang mới có ý nghĩ đó. Có thể chính Huệ tử cũng thấy cá vui, mà chỉ bắt bẻ bạn để nghe cãi lí thôi. Và Trang đã cãi lí y như các nhà trong phái nguỵ biện. Nếu chỉ có một bài này, thì tôi có thể ngờ rằng do người đời sau bịa ra; nhưng còn bài XXIV.5 đã dẫn trên, và nhiều bài khác nữa, hai nhà tranh biện về lẽ vô dụng, hữu dụng (bài I.5, XXVI.7) hoặc thế nào là hữu tình, vô tình (V.6). Nhất là bài XXIV.6, xác nhận rằng Trang rất thích tranh biện với Huệ Thi, nên khi Huệ Thi mất rồi, Trang tiếc như tiếc một người tri kỉ.

Lần đó Trang đi qua ngang mộ Huệ tử, quay lại nói với người phía sau:

“Một người đất Dĩnh (nước Sở) đầu mũi dính một cục đất sét trắng lớn bằng cánh con ruồi, nhờ người thợ mộc tên là Thạch dùng lưỡi rìu đẽo đi. Thợ mộc Thạch múa rìu vù vù như tiếng gió, đẽo văng cục đất sét mà không đụng tới mũi, và người kia cũng không hề thất sắc – (Sức tưởng của Trang thật dồi dào, kì dị) – Vua Tống Nguyên Quân hay truyện đó, cho vời thợ mộc Thạch lại bảo: “Thử làm lại với quả nhân xem nào”. Thạch từ chối: “Thần đã làm được việc đó, nhưng đối thủ của thần chết đã lâu rồi”. – (Ý muốn nói Tống Nguyên Quân không thể bình tĩnh, can đảm như người đất Dĩnh kia được).

Rồi Trang tử kết: “Từ khi Huệ tử mất, đối thủ của tôi cũng chết rồi, tôi không còn ai để đàm luận nữa”.

Nhắc lại chuyện đó, nhiều tác giả như Hoàng Cẩm Hoành chỉ khen Trang tử là một người chí tình, đa cảm, thương tiếc bạn, mà không nhận ra rằng Trang cũng ham tranh biện lắm, sở dĩ thương tiếc bạn là vì mất một đối thủ để tranh biện.

Khía cạnh tính tình đó trái ngược với tư tưởng của Trang, nhưng dù là triết gia thì người ta vẫn có những nét mâu thuẫn như chúng ta – có lẽ triết gia còn có nhiều mâu thuẫn hơn chúng ta nữa – nên chúng ta không nên lấy làm lạ. Khổng tử suốt đời lo cải tạo xã hội, mà trong thâm tâm lại chỉ mong mùa xuân, dắt bọn trẻ đi tắm ở sông Nghi, rồi lên hứng mát ở đền Vũ Vu; tính tình rất nghiêm trang, đạo mạo mà có lúc lại nói đùa với môn sinh; dạy ba ngàn học trò mà có mỗi một cậu con trai thì lại không biết cậu đã học những gì. (J.J.[12] Rousseau tệ hơn nữa, viết một cuốn về giáo dục, cuốn Emile, mà con thì đã không dạy, cũng không nuôi).

Tóm lại, Trang tử có một cá tính rất phong phú, đặc biệt: khoáng đạt, xuất thế, - sống bình dị, yêu tự do, nhàn tản, tiêu dao, ông cao ngạo, không coi vua chúa ra gì cả, kẻ nào làm trái ý ông, nhất là hay khoe khoang thì ông không giữ lời, mắng cho tàn nhẫn, nhưng ông cũng có giọng trào phúng, đùa cợt; tranh biện với ai thì ông rất lanh trí, hoạt bát, sức tưởng tượng của ông thiên biến vạn hoá, tạo ra những ngụ ngôn kì dị, khiến đối phương lúng túng, không sao thắng được ông, về phương diện đó ông thực là một thiên tài. Ông trái hẳn với Mạnh tử: Mạnh là một chính trị gia hơn là một triết gia, Trang là một nghệ sĩ hơn là một triết gia; Mạnh là một đại trượng phu giữ đúng nguyên tắc, Trang là một ẩn sĩ, không coi cái gì là quan trọng trừ sự tự do, sống theo sở thích của mình.

Đó là chân dung của Trang theo những cố sự trong Trang tử. Những cố sự đó chỉ đáng tin một phần thôi, vì do nhiều người đời sau ghi lại – những người này không phải hết thảy là môn sinh của Trang – mãi tới đời Hán mới được thu thập thành sách lưu truyền đến nay như chương sau chúng ta sẽ thấy.

Chú thích:
[1] Trong sách, bảng này in ở trang 13. [Goldfish]
[2] Coi Mạnh tử của Nguyễn Hiến Lê – Cảo Thơm 1975.
[3] Tư Mã Thiên đã xét lầm Trang. Trong phần II và IV, chúng ta sẽ thấy những chương này không phải của Trang viết mặc dầu ở bộ Trang tử.
[4] Giả thuyết: sách in là giả thiết. [Goldfish].
[5] Theo bác Vvn: Bùi Nhân 裴駰 còn đọc là Phí Nhân, ông sống vào thời Nam Tống, và Tập giải tức Sử kí tập giải. [Goldfish].

[6] Số La Mã chỉ số chương, số Ả Rập chỉ số bài. XXI.5 là chương XXI, bài 5. Các bản chữ Hán đều chia chương, tôi lại chia thành nhiều bài nếu có thể được, cho độc giả dễ kiếm.
[7] Một thứ nhạc khí thô sơ bằng đất của Tần.
[8] Bài VI.4 trong Nội thiên có thể cũng không phải của Trang vì cũng cho hai nhân vật ca hát khi bạn chết.
[9] Nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê, 1962, Sài Gòn.
[10] Nhà xuất bản Cảo Thơm, 1972, Sài Gòn.
[11] Đoạn đó chỉ chép trong Sử kí của Tư Mã Thiên, không có trong Luận ngữ, chỉ nên coi là một truyền thuyết thôi.
[12] Coi Nhà giáo họ Khổng – Cảo Thơm - 1973

[1] Lá Bối xuất bản, 1969, Sài Gòn.
hết: Phần I - Chương 1 , xem tiếp: Chương II
 Chương II
TÁC PHẨM


XUẤT HIỆN TỪ THỜI NÀO?

Theo Hoàng Cẩm Hoành thì Hán thư Nghệ văn chí (của Ban Cố 32 – 92) ghi rằng bộ Trang tử gồm 52 thiên chia làm: Nội thiên 7, Ngoại thiên 28, Tạp thiên 14, và Giải thuyết 3. Bản đó phải chăng là bản cổ nhất, mà nay đã thất truyền?

Một thuyết khác (trong Kinh điển thuyết văn tự lục) bảo Lưu An, tức Hoài Nam vương (? – 122 tr. TL), cháu Hán Cao tổ, cũng sưu tập được một bản nhờ các môn khách chú giải, không biết bao nhiêu thiên, hiện nay cũng thất truyền.

Tư Mã Thiên (-145 -?) sanh sau Lưu An chưa đầy một thế kỉ, là người đầu tiên sống gần Lưu An nhất và viết về Trang tử cơ hồ không biết tới bản của Lưu An đó và chỉ bảo Trang viết một bộ sách gồm trên mười vạn chữ, không cho biết gồm bao nhiêu thiên, mà những thiên quan trọng nhất: Tiêu dao du, Tề vật luận lại không nhắc tới, chỉ kể vài thiên tầm thường: Ngư phủ, Đạo chích, Khư khiếp, Canh Tang Sở…

Mãi tới đời Tấn, thế kỉ thứ 3, mới xuất hiện một bản do Hướng Tú chú giải, gồm 26 thiên, Hướng Tú chú giải chưa xong mới đến chương Thu thuỷ thì mất; một người bạn là Quách Tượng sửa lại rồi chú giải tiếp, theo tôn chỉ của phái huyền học thanh đàm các đời Nguỵ, Tấn, thành một bản khác gồm 27 thiên; tức bản lưu truyền ngày nay.

Như vậy, từ đời Hán đến đời Tấn, bộ Trang tử đã mấy lần thất lạc, sưu tập lại rồi thất lạc nữa, mỗi lần như vậy chắc sai đi ít nhiều. Và bản hiện nay mọi người dùng xuất hiện lần đầu tiên cách Trang tử sáu thế kỉ. Như vậy ai dám bảo rằng nó giữ đúng được tư tưởng của Trang?

Bản đó chia ra làm ba phần như sau:

NỘI THIÊN gồm 7 chương[1]

I --  -Tiêu dao du
II --Tề vật luận
III -Dưỡng sinh chủ
IV -Nhân gian thế
V  ---Đức sung phù
VI  --Đại tôn sư
VII - Ứng đế vương.

NGOẠI THIÊN gồm 15 chương

VIII ---- Biền mẫu
IX -------Mã đề
X --------Khư khiếp
XI -------Tại hựu
XII ------Thiên địa
XIII ---- Thiên đạo
XIV -----Thiên vận
XV ------Khắc ý
XVI -----Thiện tính
XVII ----Thu thuỷ
XVIII ---Chí lạc
XIX -----Đạt sinh
XX ------Sơn mộc
XXI -----Điền Tử Phương
XXII ----Trí bắc du

TẠP THIÊM gồm 11 chương

XXIII ----Canh Tang Sở
XXIV ----Từ Vô Quỉ
XXV -----Tắc Dương
XXVI ----Ngoại vật
XXVII ---Ngụ ngôn
XXVIII --Nhượng vương
XXIX ----Đạo Chích
XXX -----Thuyết kiếm
XXXI ----Ngư phủ
XXXII ---Liệt Ngự Khấu
XXXIII --Thiên hạ

Cũng theo Hoàng Cẩm Hoành, người đầu tiên nêu ra vấn đề chân nguỵ trong Trang tử là Tô Đông Pha đời Tống. Đại khái Tô bảo Trang có ý bênh vực Khổng tử mà lời văn thì lại không phải vậy. Bề ngoài thì công kích, mà bề trong là ngầm giúp đỡ (…). Như chương Thiên hạ phê bình các đạo thuật từ Mặc tử đến Bành Mông, Thận Đáo, Lão, Trang, mà không hề nhắc đến Khổng tử, như vậy là cực tôn sùng Khổng tử.[2]

Nhưng lại có những chương Đạo chích, Ngư phủ thì rõ ràng công kích Khổng tử. Còn những chương Nhượng vương, Thuyết kiếm thì lời thô thiển, bỉ lậu, không hợp nghĩa lí. Vậy Tô đã nghi ngờ bốn chương đó (Đạo chích, Ngư phủ, Nhượng vương, Thuyết kiếm) do người đời sau nguỵ tác.

Sau Tô, số học giả nghi ngờ sự nguỵ tác trong Trang tử càng ngày càng nhiều.

Chẳng hạn như La Miễn Đạo và Tống Liêm đều đồng ý với Tô; riêng La còn ngờ hai chương Khắc ý, Thiện tính nữa, vì lời cũng nông cạn, không phải của Trang.

Trịnh Viện (đời Minh) hoài nghi thêm hai chương Mã đề, Khư khiếp, và cho rằng chỉ có bảy chương trong Nội thiên là của Trang tử, còn hai mươi sáu chương kia đều do môn đồ của Trang viết rồi thêm vào.

Sau đó, Vương Phu Chi, Diêu Nại, Vương Tiên Khiêm đều bảo Ngoại thiên không phải của Trang tử.

Gần đây, vấn đề chân nguỵ ngày càng phân tích kĩ hơn nữa, như La Căn Trạch trong Chư tử Khảo sách (Nhân dân xuất bản xã – 1958). Hoàng Cẩm Hoành trong Trang tử độc bản đã làm một bản liệt kê ý kiến của mỗi nhà về sự chân nguỵ của mỗi thiên. Đại khái thì ai cũng nhận rằng Nội thiên của Trang tử (trừ một số bài) còn Ngoại thiên và Tạp thiên thì đại đa số của người đời sau.

Nhưng tôi nhận thấy điều này: cơ hồ tất cả các học giả đều xét tổng quát từng chương để xem chương nào trong Ngoại thiên và Tạp thiên là của Trang hay của môn phái Trang, môn phái Lão; chưa ai đặt thành vấn đề rằng mỗi chương có thể do nhiều người viết, hỗn tạp chứ không nhất trí. Theo tôi những người đời Hán hay Lục Triều (Nguỵ, Tấn) khi thu nhập các bài để cho vào mỗi chương, đã không chú trọng tới điểm nhất trí đó, có lẽ không hề đặt ra vấn đề chân nguỵ nữa. Xung hư chân kinh (tức Liệt tử) như vậy, mà Nam Hoa kinh (tức Trang tử) cũng vậy. Đó là một lỗi chung của nhiều công trình sưu tập thời đó.

Trong bộ Liệt tử (Lá Bối - 1973) tôi bảo không sao phân biệt được bài nào của Liệt Ngự Khấu viết, bài nào của người sau viết (có thể toàn thể đều do người đời sau viết), cho nên tôi chỉ sắp đặt lại theo nội dung, chia thành các chương: Vũ trụ, Sinh tử, Đạo, Huyền thoại và Truyền thuyết, Cố sự và ngụ ngôn… cho dễ kiếm.

Trong bộ Trang tử này, vấn đề chân nguỵ quan trọng nhất, mà sự nhận định về chân nguỵ chỉ là những giả thuyết có thể đúng nhiều hay ít, có đúng cũng chỉ đúng về đại cương: của Trang hay của người đời sau; chứ không căn căn cứ vào đâu để quả quyết bài này của phái Trang, phái Lão, phái Khổng được. Vì vậy sắp đặt lại các bài theo phái là một việc mạo hiểm. Còn sắp đặt theo từng vấn đề (như trong Liệt tử tôi đã làm) là một việc vô ích, vì mỗi vấn đề có nhiều chủ trương khác nhau (tuỳ người viết ở trong môn phái nào), có khi trái ngược nhau nữa (chẳng hạn vấn đề Đạo, có bài hiểu Đạo theo Lão, Trang, có bài lại phân biệt ra Thiên đạo, nhân đạo; vấn đề vô vi, có bài chủ trương vô vi như Lão, Trang nghĩa là cứ thuận theo tự nhiên mà hành động, có bài bảo vua thì vô vi mà bề tôi thì hữu vi; nhất là thái độ đối với các ông thánh của đạo Nho, như Nghiêu, Thuấn… có bài mạt sát kịch liệt, có bài đề cao, có bài ôn hoà).

Do đó mà tôi vẫn giữ lối trình bày của cổ nhân, giữ nhan đề và thứ tự các chương, chia mỗi chương ra nhiều bài để độc giả dễ kiếm, mỗi bài mang một số Á Rập, và không có nhan đề; sau cùng, tôi một phần dựa vào ý kiến của người trước, một phần tôi đưa ra ý kiến của riêng tôi để phỏng định chương nào hoặc bài nào là chân hay nguỵ, nếu là nguỵ thì có thể là của phái nào.

NỘI THIÊN
Trước hết chúng ta hãy xét sự phân biệt Nội thiên, Ngoại thiên, Tạp thiên có hợp lí không đã.
Có điều này chắc chắn, ai cũng công nhận là Trang tử khác hẳn Lão tử (tức Đạo Đức kinh), Luận ngữ, Mạnh tử…, thành hình lần lần trong một thời gian rất dài, từ sinh thời của Trang tử tới cuối thời Chiến Quốc hay đầu đời Hán, trong khoảng hai trăm năm hay hơn nữa.

Xét chung thì Nội thiên do Trang tử viết, còn hai thiên Ngoại và Tạp thiên do người sau thêm vào. Sự phân biệt Nội thiên ra một bên, Ngoại và Tạp thiên ra một bên là điều rất hữu lí và rất dễ nhận. Vì Nội thiên có nhiều đặc điểm, khác hẳn Ngoại và Tạp thiên:

1. Nội thiên có tính chất nhất quán:

Chương I đưa ra một quan niệm về hạnh phúc: thảnh thơi tự tại; và cho ta biết làm sao thì có thể hoàn toàn tự do mà thảnh thơi tự tại được.

Chương II bàn về lẽ mọi vật trong vũ trụ đều tuyệt đối bình đẳng, không vật nào quí, không vật nào tiện, hơn nữa không có cả thị phi, chung thuỷ, thiện ác nữa, mình và vật nữa.

Chương III chỉ cho ta phép dưỡng sinh để có thể hưởng được tuổi trời (chung kì thiên niên) mà sống cuộc đời vui thú.

Chương IV chỉ cho ta phép xử thế trong thời loạn.

Chương V đưa ra một tiêu chuẩn về bậc chí đức: Theo thiên tính, trút bỏ hết thế tính.

Chương VI luận về Đạo và sự đắc Đạo.

Chương VII thuộc về chính trị luận, đại ý là các đế vương trị thiên hạ phải vô vi, nghĩa là hư tâm, thuận theo lẽ tự nhiên mà không dùng cơ trí.

Như vậy trong phần Nội thiên chúng ta được thấy quan niệm của Trang về vũ trụ, tri thức, nhân sinh, chính trị, đủ thành một hệ thống triết lí. Nhiều học giả thời trước đã nhận thấy tính nhất quán đó.

Chử Bá Tú[3] bảo:

“Nội thiên bắt đầu chương Tiêu dao du và kết thúc bằng chương Ứng đế vương, cho thấy điều quan trọng trong đạo học là cầu ở chính mình thì gặp cảnh nào cũng vui, rồi sau quan sát vạn vật ở ngoài sẽ thấy mọi vật đều ngang nhau (tề); thấy vật ngang nhau rồi thì mình quên mình được; tự quên mình đó là chủ yếu của phép dưỡng sinh. Dưỡng sinh để cho mình sung sướng, ứng vật để cho vật phát triển tự nhiên (thiện vật), hai việc đó đều cần có đức sung mãn, đức sung mãn thì vạn vật phù hợp mà tôn lên làm thầy (?) (…) mà ở trong, mình thành thánh, thần, ở ngoài (tức trị dân) mình thực hiện được lí tưởng của đế vương”.

Gần đây, Tưởng Phục Thông[4] cũng bảo chương Tiêu dao du là cái mào cho toàn thể Nội thiên, mà chương Tề vật luận quét sạch cái quan niệm thị phi, mình và vật, mở đường cho lập luận (tức lí thuyết chính trị); các chương sau hoặc bàn về phép dưỡng sinh, hay cách xử thế, cách đạt được cái đức sung mãn, đều phải lấy Đạo làm thầy; Đạo đó ứng dụng vào việc trị nước thì thành đế, vương.

Cũng có thể hiểu một cách khác được, chẳng hạn: Thảnh thơi tự tại (Tiêu dao du) là mục đích của loài người cũng như của vạn vật. Muốn đạt được cảnh giới đó chúng ta phải bỏ quan niệm thị phi, mình và vật đi (Tề vật luận), phải biết phép dưỡng sinh (Dưỡng sinh chủ), cách xử thế (Nhân gian thế); cao hơn nữa, phải tu dưỡng, cho đức được sung mãn (Đức sung phù), mà lấy Đạo làm thầy (Đại tôn sư); và muốn cho mọi người trong thiên hạ được thảnh thơi tự tại thì người cầm quyền phải theo Đạo vô vi mà trị dân.

Hiểu theo cách nào, chúng ta cũng thấy có một sự nhất quán trong bảy chương của Nội thiên, tính cách đó Ngoại và Tạp thiên thiếu hẳn.

2. Tư tưởng trong Nội thiên rất ít mâu thuẫn nhau; trái lại trong Ngoại và Tạp thiên, tư tưởng rất hỗn tạp, rõ ràng là của nhiều người trong nhiều phái viết; điểm này sẽ được xét kĩ trong tiết sau.

3. Bút pháp trong Nội thiên cao hơn Ngoại và Tạp thiên, đặc biệt là bút pháp trong hai chương đầu: Tiêu dao du và Tề vật luận.

4. Trong Nội thiên nhan đề tóm tắt được đại ý trong chương, còn trong Ngoại và Tạp thiên, người ta dùng vài chữ trong câu đầu để đặt tên chương, thành thử nhan đề không liên quan gì tới ý chính trong chương cả; nhiều chương cũng không có cả ý chính nữa.

Đó là bốn đặc điểm khiến Nội thiên phải được tách rời khỏi hai thiên kia.

Tuy nhiên, Nội thiên có thực do Trang tử viết không? Một số người còn nghi ngờ và đưa ra mấy lí do không vững lắm. Họ bảo:

1. Tư Mã Thiên trong Sử kí chỉ nói rằng Trang tử viết những chương Ngư phủ, Đạo chích, Khư khiếp để mạt sát Khổng tử chứ không hề bảo Trang tử viết Nội thiên. Điều đó có thể do Tư Mã Thiên không khảo sát kĩ lưỡng, không đủ chứng rằng Nội thiên không phải của Trang tử.

2. Cổ nhân thường lấy mấy chữ đầu trong chương để đặt tên cho chương, như trường hợp Luận ngữ, Mạnh tử… rồi đời sau mới lấy ý chính trong chương mà đặt tên, vậy Nội thiên phải xuất hiện sau Ngoại và Tạp thiên, tức vào khoảng đời Hán, và không thể do Trang tử viết. Lẽ đó sai. Thời Chiến Quốc, đã có nhiều nhà dùng ý chính để đặt tên chương, như Tôn tử, Công Tôn Long, Khuất Nguyên…, Mạnh tử chỉ là một ngoại lệ.

3. Lối chia tác phẩm thành Nội và Ngoại thiên bắt đầu từ đời Hán. Nhưng Quản tử cũng chia ra Ngoại ngôn, Nội ngôn; Hàn Phi tử cũng có Nội trừ thuyết, Ngoại trừ thuyết; vậy lối chia ra Nội, Ngoại đã có từ đời Chiến Quốc rồi. Vả lại, dù lối chia đó xuất hiện từ thời Hán thì cũng chỉ chứng minh được sự phân chia ra Nội, Ngoại bắt đầu từ đời Hán chứ không chứng minh được rằng Nội thiên do một người đời Hán viết, không phải của Trang tử.

Nhưng xét kĩ Nội thiên, chúng ta cũng phải nhận có vài chỗ khả nghi trong hai chương Nhân gian thế và Đại tôn sư, vì những lí do dưới đây:

1. Nhân gian thế.

- Có sách bảo rằng bút pháp của chương này không giống bút pháp sáu chương kia vì chép toàn cố sự. Tôi thấy lời đó không đúng: Nhân gian thế cũng có hai bài 6 và 9 dùng thể nghị luận; mà chương Đức sung phù gồm 6 bài thì 5 bài đầu là cố sự còn bài cuối là nghị luận. Vả lại, trong cố sự có thể có nghị luận, trong nghị luận có thể đưa cố sự vào. Như bài 5 và 6 Nhân gian thế, nếu gom làm một thì có thể bảo là cố sự; nếu tách ra làm hai như tôi đã làm thì bài 5 là cố sự, bài 6 là nghị luận. Bài 8 và 9 cũng vậy, nếu gom làm một thì là cố sự; tách làm hai thì 8 là cố sự, 9 là nghị luận. Mà theo ý nghĩa thì phải tách làm hai, không thể gom làm một được.

- Bài 1 chép rằng xưa vua Nghiêu đánh các nước Tùng Chi và Tư Ngao, mà bài 9 Tề vật luận lại bảo vua Nghiêu muốn đánh các nước Tông, Khoái và Tư Ngao. Không lẽ một người viết chỉ cách có mấy mươi trang đã chép khác nhau như vậy. Vậy nếu Tề vật luận do Trang tử viết thì Nhân thế gian phải do người khác viết. Lẽ này có thể chấp nhận được nhưng không quan trọng lắm: có thể do người sau chép sai, cũng có thể một lần vua Nghiêu muốn đánh ba nước Tông, Khoái và Tư Ngao, lần khác muốn đánh hai nước Tùng Chi và Tư Ngao.

- Bài 4 và 5 trùng ý nhau: Cả hai đều nhắc ta rằng hễ vô tài thì hưởng hết tuổi trời. Bài 5 kém bài 4 do người sau bắt chước Trang tử, viết rồi cho thêm vào. Rất có thể như vậy nhưng vẫn chưa đủ làm chứng cứ được.

- Lí do này vững hơn: Trong bài 1, tác giả cho Khổng tử sáng suốt về Đạo, đặt vào miệng Khổng tử những tư tưởng của Trang, chẳng hạn: “Từ cái hư không của tâm thần mà phát ra ánh sáng; cái phúc ở cả trong sự hư tĩnh của tâm thần”. - Bài 1. Thế mà trong bài 8, lại cho Khổng tử là người không biết cái lẽ tiến lui. Như vậy là tư tưởng mâu thuẫn.

Nhất là bài 8 này rất giống bài 5 trong chương Vi tử sách Luận ngữ:

“Một người cuồng nước Sở đi ngang qua Khổng tử, hát:

Con phượng kia, con phượng kia,
Sao mà đức suy như vậy!
Việc đã lỡ rồi, không can gián người được nữa,
Nhưng việc sẽ tới, (nếu ngươi tỉnh ngộ) thì còn kịp đấy:
Thôi đi, thôi đi, đời nay làm chính trị là một việc nguy hiễm.

Khổng tử bèn xuống xe muốn nói chuyện với người cuồng đó, nhưng ông ta đã nhanh chân đi xa rồi, Khổng tử không nói được gì cả”.

Bài 8 không có câu kết, còn hai bài hát cũng bắt đầu bằng hai câu như trong Luận ngữ, mà ý nghĩa cũng vậy, tuy rườm hơn:

Con phượng kia, con phượng kia,
Sao mà đức suy như vậy?
Không thể biết trước được tương lai,
Không thể trở lui được về dĩ vãng.
Khi thiên hạ thịnh trị
Thì thánh nhân thực hiện sứ mệnh mình.
Khi thiên hạ loạn lạc
Thì thánh nhân bảo toàn thân mình.
Như thời này thì chỉ nên cầu đừng bị hình phạt.
Hạnh phúc nhẹ hơn cái lông
Mà không biết nhận lấy nó.
Tai hoạ nặng hơn trái đất
Mà không ai biết tránh nó.
Thôi đi, thôi đi! Đừng mong lấy đức cảm hoá người nữa.
Nguy thay, nguy thay! Đừng tự làm khổ mình
Gai góc, gai góc! Đừng cản ngăn bước đường của ta.
Đi vòng, đi vòng, đừng để gai đâm vào chân.[5]

Trang tử đâu lại bắt chước người khác như vậy.

- Hơn nữa, ngay trong một bài – bài 2 – bút pháp cũng không thông. Giữa bài cho Khổng tử khuyên Diệp Tử Cao: “Con thờ cha mẹ thì phải thích ứng với hoàn cảnh, như vậy là chí hiếu; bề tôi thờ vua phải chấp nhận mọi nguy hiểm, như vậy là tận trung”. Chủ trương đó đúng là chủ trương hữu vi của Khổng giáo. Nhưng cuối bài, Khổng tử lại có giọng vô vi của Trang tử: “Nên vượt ra ngoài sự vật mà tiêu dao tự tại, thuận theo cái lẽ tất nhiên để dưỡng tâm, đó là đạt được Đạo”.

2. Đại tôn sư cũng có vài chỗ mâu thuẫn với các chương khác.

- Chẳng hạn bài 1 hơi trọng lễ nghi, hình pháp và trí tuệ: “[Bậc chân nhân] coi hình pháp là thân thể, lễ nghi là cặp cánh, trí tuệ là thủ đoạn để ứng phó (…). Coi hình pháp là thân thể mình, nên khoan hồng khi trừng trị; coi lễ nghi là cặp cánh của mình, nên làm việc theo thế tục mà thành công; dùng trí tuệ để ứng phó, nên chỉ hành động khi bất đắc dĩ”.

Ý đó có màu sắc Khổng giáo, trái ngược với ý trong Đức sung phù 5: “Thánh nhân tiêu dao ở chốn hư không, coi trí tuệ là mầm thừa (gây tư lự), lễ tín là thứ keo [câu thúc người ta], đức huệ như thứ để tiếp dẫn, công nghệ [cũng đáng khinh] như thương mại. Thánh nhân không mưu tính cái gì, đâu cần tới trí tuệ? Không đẽo gọt cái gì, đâu cần tới keo[6]? Không mất cái gì, đâu cần phải tiếp dẫn? Không chế tạo cái gì, đâu cần đến thương mại?”.

Bài 2, Nhữ Vũ bảo mình đắc đạo là nhờ học được của con của [bút] mực; con của mực là cháu của sự đọc sách.

Ý đó cũng đáng ngờ là không phải chủ trương của Trang. Trang trọng trực giác, hư tâm để đạt Đạo, đâu có dùng đến bút mực nhất là sách vở, cái “cặn bả của cổ nhân” đó?

- Bài 4 cho chết là vui, nên khi bạn là Tử Tang Hộ chết. Mạnh Tử Phản và Tử Cầm Trương hoà đàn ca hát:

Ôi anh Tang Hộ,
Ôi anh Tang hộ,
Anh đã trở về bản thể của anh,
Mà tụi tui vẫn còn làm người.

Bài này cũng như bài XVIII.2 tôi đã dẫn ở chương I, không chắc là của Trang vì Trang coi sinh tử như nhau, có lẽ nào lại cho họ ca hát mừng cho bạn được và than thở mình còn phải sống như vậy?

Bài 8, Tử Tang than vì số bệnh mà phải nghèo và cực khổ. Tư tưởng đó tầm thường quá, nhất định không phải của Trang.

Tóm lại, Nội thiên tư tưởng nhất quán, thành một hệ thống, chắc do Trang tử viết, nhưng hai chương Nhân gian thế và Đại tôn sư có một số bài ý nghĩa mâu thuẫn với học thuyết của Trang, có thể do người đời sau viết thêm vào[7] và khi tìm hiểu Trang tử, chúng ta nên gạt những chỗ mâu thuẫn đó ra.

NGOẠI THIÊN VÀ TẠP THIÊN

Vương Phu Chi trong Trang tử giải so sánh Nội thiên với Ngoại thiên, bảo:

- Nội thiên ý liên tục và có hệ thống, Ngoại thiên ý rời rạc,

- Nội thiên ý man mác mà qui về một mối, Ngoại thiên không hàm súc mà ý phồn tạp,

- Nội thiên không cố chấp như Ngoại thiên,

- Nội thiên tuy “nén” Khổng tử xuống, nhưng không có giọng khinh bạc,

- Nội thiên tuy có điểm giống Lão giáo nhưng dựng được một thuyết riêng. Ngoại thiên nông cạn, bắt chước Lão giáo mà không phát huy được gì, kém nhất là những chương Biền mẫu, Mã đề, Khư khiếp, Thiên đạo, Thiện tính, Chí lạc.

So sánh Ngoại thiên với Tạp thiên, Vương bảo Tạp thiên tuy không thuần, nhưng phát huy được ý nghĩa của Nội thiên, và hơn Ngoại thiên ở điểm đó; nhưng có mấy chương Nhượng vương, Đạo chích, Thuyết kiếm, Ngư phủ lời và ý đều bỉ lậu, tầm thường quá đỗi.

Tuyên Dĩnh bảo Tạp thiên sở dĩ gọi là tạp vì mỗi bài đều tuỳ hứng mà viết, tuy nhiên đối với đạo, không nhất thiết là tạp loạn.

Vương bảo “không thuần”, Tuyên bảo là “tuỳ hứng”, ý nghĩa đại khái như nhau.

Tôi thấy từ Nội thiên bước qua Ngoại thiên, không khí khác hẳn, như đương ở một nơi có ngăn nắp qua một nơi hỗn độn, càng về sau, cảm giác hỗn độn đó càng tăng.

- Điều ta để ý tới trước hết là nhan đề mỗi chương không còn liên quan gì với ý nghĩa của chương, như chương VIII, lấy hai chữ “biền mẫu” mà đặt tên cho chương. Biền mẫu có nghĩa là ngón chân dính nhau, còn ý cả chương là phải thuận theo cái tính của mỗi vật, đừng làm cái gì hại tới bản tính tự nhiên (bất dĩ nhân hại thiên). Tất cả các chương khác đều như vậy.

- Điểm thứ nhì là tư tưởng không thuần. Trong Nội thiên, trừ mấy bài đáng ngờ của người sau thêm vào hai chương Nhân gian thế và Đại tôn sư, còn thì tư tưởng nhất quán, có hệ thống. Trong Ngoại và Tạp thiên trái lại, ta thấy có ít nhất là năm xu hướng:

° một xu hướng giữ đúng tư tưởng của Trang, tôi gọi là học phái Trang;

° một xu hướng theo Lão rõ rệt, tôi gọi là học phái Lão; trong phái này có nhà ôn hoà (La Căn Trạch gọi là hữu phái); có nhà cực đoan, muốn đạp đổ mọi tổ chức xã hội, bỏ đạo đức, nhân nghĩa, lễ nghi, “tuyệt thánh khí trí” mà trở về thời nguyên thuỷ (La Căn Trạch gọi là tả phái); lại có các nhà chủ trương ở ẩn, tu tiên, họ thuộc về phái Đạo gia ở đầu đời Hán, thờ Thái Thượng Lão Quân và Lão tử, Trương Đạo Lăng[8], nhưng không tìm hiểu triết học của Lão, chỉ lo dùng bùa, phép, luyện đan để trường sinh. 

° lại có một số tác giả chịu ảnh hưởng cả Lão, Trang lẫn của Khổng, muốn dung hoà, phân biệt đạo Trời thì vô vi, đạo người thì hữu vi, hoặc chủ trương vua nên vô vi mà bề tôi thì hữu vi,

° một số khác đứng hẳn về Khổng phái, bảo phải phân biệt quí tiện, vì trời đất kia còn có tôn ti (trời cao, đất thấp) huống hồ là người, thật là trái hẳn với chủ trương của Trang. Tác giả bài đó (XIII.4) mà đứng chung với tác giả bài Tề vật luận, trong một bộ mang tên Trang tử thì thật là mỉa mai,

° lạ lùng hơn nữa là có một số chịu ảnh hưởng của Pháp gia, trọng công nghệ, dùng hình danh thưởng phạt để trị dân.

Ba chương XII (Thiên địa), XIII (Thiên đạo) và XIV (Thiên vận) có thể tiêu biểu cho sự hỗn tạp về tư tưởng trong Ngoại thiên và Tạp thiên.

- Điểm thứ ba là sự hỗn tạp đó chẳng những hiện trong mỗi thiên (Ngoại và Tạp) mà nhiều khi trong cả từng chương nữa. Ba chương VIII, IX, X tương đối thuần nhất; tới chương XI (Tại hựu) đã bắt đầu thấy hỗn tạp rồi: quan niện đối với thánh nhân trong bài 6 chương đó trái ngược với quan niệm chung trong chương, rõ ràng là của người sau viết rồi thêm càng vào. Nội dung chương XXI còn phức tạp hơn (coi nhận định ở cuối chương đó, phần III).

Tạp thiên lại hỗn tạp hơn Ngoại thiên nhiều: trong số 11 chương (từ XXIII đến XXXIII) có tới bốn chương: XXIV, XXV, XXVI, XXVII, gồm toàn những tạp văn ngắn không liên lạc gì xa gần với với nhau cả. Nhất là hai chương XXIV (Từ Vô Quỉ) và XXXII (Liệt Ngự Khấu) rõ ràng là do người đời sau lượm lặt ở nhiều nơi rồi tiếc rẻ, gom lại chung cho khỏi mất. (Coi nhận định về hai chương đó ở phần IV).

Có thể vì tính cách hỗn tạp đó, nên người ta mới gọi thiên đó là Tạp chăng?

Thiên đó còn hỗn tạp ở điểm có bài rất hay mà có những bài rất dở. Nhiều bài trong những chương Ngoại vật (XXVI), Ngụ ngôn (XXVII), nhất là trọn chương cuối (Thiên hạ) bút pháp cao, trái lại những chương Nhượng vương (XXVIII), Đạo chích (XXIX), Thuyết kiếm (XXX), Ngư phủ (XXXI), như Tô Đông Pha và Vương Phu Chi đã nhận thấy, bút pháp quá thô lậu, không xứng được đứng chung trong một bộ với những chương Tiêu dao du, Tề vật luận.

Ngoại thiên cũng có mấy chương hỗn tạp, mà bút pháp cũng không đều: những chương Thu Thuỷ XVII, Sơn mộc XX, Đạt sinh XIX, nghệ thuật cao hơn Tại hựu XI, Thiên địa XII, Khư khiếp X, v.v…; nhưng sự cách biệt đó không quá nổi bật như trong Tạp thiên.

- Sau cùng Ngoại thiên và Tạp thiên còn khác với Nội thiên ở vài điểm nhỏ này nữa:

° Như Vương Phu Chi đã nhận thấy, Nội thiên có một giọng nhã nhặn, ôn hoà đối với Nghiêu, Thuấn, Khổng tử. Ngoại và Tạp thiên có giọng quá khích, khen thì khen quá, như chương XXXIII (Thiên hạ) hoặc bài XII.9 (gọi Khổng tử là phu tử) mà mạt sát thì mạt sát kịch liệt như chương XXIX (Đạo chích).

° Trong Nội thiên, có chỗ cho Lão lên tiếng như bài V.3, nhưng đó chỉ là truyện tưởng tượng, tuyệt nhiên không dẫn một lời nào trong Đạo Đức kinh cả, vì kinh này thời Trang tử có lẽ chưa xuất hiện, hoặc mới xuất hiện mà Trang không được đọc; trái lại trong Ngoại thiên, chúng ta thấy chương Khư khiếp dẫn Đạo Đức kinh bốn lần, Tại hựu dẫn hai lần, Thiên địa hai lần, Thiên đạo một lần, Chí lạc ba lần, Đạt sinh một lần, Sơn mộc hai lần, Điền Tử Phương một lần, Trí bắc du ba lần; và trong Tạp thiên, Canh Tang Sở dẫn hai lần, Tắc dương một lần, Ngụ ngôn một lần, Thiên hạ một lần[9] (Coi Lão tử độc bản của Dư Bồi Lâm – Tam dân thư cục – 1973). Điều đó đủ tỏ rằng Ngoại và Tạp thiên xuất hiện sau thời Trang tử.

° Ngoại và Tạp thiên có nhiều bài chép trong các sách khác như Sử kí của Tư Mã Thiên, nhất là Liệt tử, còn trong Nội thiên chỉ có mỗi một bài phỏng theo Luận ngữ như trên tôi đã dẫn. Như vậy ta thấy Ngoại và Tạp do nhiều người viết vào nhiều thời đại và người sau thu thập lại mà không cân nhắc kĩ lưỡng.

Về vấn đề chân nguỵ, đa số các học giả đều cho rằng xét chung, Ngoại và Tạp thiên có rất nhiều chương chắc chắn không phải của Trang tử, còn những chương khác nếu Trang có viết một phần nào thì cũng khó nhận ra được đích xác.

Trong phần III và IV, khi nhận định về các chương, tôi sẽ xét về chân nguỵ của mỗi chương và tôi cho rằng không có chương nào hoàn toàn của Trang cả, nhưng có một số chương của môn đồ Trang.

Dưới đây tôi làm một bảng[10] tóm tắt những nhận định đó để độc giả thấy được một cách tổng quát.


Chú thích:

[1] Chúng tôi gọi là chương (sách Hán gọi là thiên); và để cho giản tiện, mỗi chương tôi gọi bằng một số La Mã, ví dụ chương VI (tức chương Đại tôn sư), chương XV, XXIII…
[2] Trang tử có thật sự bênh vực Khổng tử không, trong một chương sau tôi sẽ bàn tới.
[3] Do Hoàng Cẩm Hoành dẫn trong Trang tử độc bản trang 13-14 – Tam dân thư cục – 1974.
[4] Do Hoàng Cẩm Hoành dẫn trong Trang tử độc bản trang 13-14 – Tam dân thư cục – 1975.

[5] So với bài tương ứng trong bản dịch: giữa câu 9 dư chữ “nên”; cuối câu 14 dư chữ “nữa”; cuối câu 15 thiếu chữ “nữa”. Có khá nhiều đoạn trích không đúng hẳn với đoạn tương ứng trong phần dịch. Các chú thích sau, nếu sự khác biệt không nhiều và không làm sai lệnh ý nghĩa, thì tôi sẽ không chú thích [Goldfish].
[6] Keo: sách in sai thành kéo. Về sau, với các chữ mà tôi tin chắc là đã bị in sai, tôi sẽ sửa lại mà không chú thích. [Goldfish].
[7] Gần đây một số học giả như Cố Hiệt Cương, Phó Tư Niên, Dong Triệu Tổ còn cho rằng cả thiên Tề vật luận cũng không phải của Trang mà của Thận Đáo nữa!
[8] Có lẽ là: thờ Thái Thượng Lão Quân Lão tử, Trương Đạo Lăng. [Goldfish].
[9] Nghĩa là Nội thiên dẫn Đạo Đức kinh 0 lần, Ngoại thiên 19 lần, Tạp thiên 5 lần. [Goldfish].
[10] Tôi chia ra làm hai bảng. [Goldfish].
hết: Chương II , xem tiếp: Chương III

No comments: