Sunday, January 22, 2017

NAM HOA KINH XVI - CANH TANG SỞ

PHẦN IV - Chương XXIII
CANH TANG SỞ
(Canh Tang Sở)

1  Trong số đệ tử của Lão Đam có một người tên là Canh Tang Sở hơi đạt được đạo của thầy[1], nên lên trên núi Uý Luỹ [nước Lỗ] tại phương Bắc, đuổi hết nô bộc nào thông minh, xa lánh hết những tì thiếp nào có lòng nhân, mà ở chung với những kẻ đần độn, dùng những kẻ ăn mặc lôi thôi. Canh Tang Sở ở được ba năm thì miền Uý Luỹ trúng mùa lớn, dân chúng bảo nhau: “Khi thầy Canh Tang mới tới, chúng ta ngạc nhiên thấy thầy kì cục quá. Ảnh hưởng của thầy, xét từng ngày thì không thấy mà xét hàng năm mới thấy là nhiều. Thầy là bậc thánh chăng? Sao chúng ta không coi thầy như người thay mặt[2] cho tổ tiên ta, trọng thầy như thần xã tắc [thổ thần và thần mùa màng] của chúng ta?  Hay tin đó, Canh Tang tử ngồi quay mặt về phương Nam mà không vui. Môn sinh lấy làm lạ. Canh Tang tử giảng: “Thái độ của thầy có gì lạ đâu. Khí xuân làm cho cây cỏ hồi sinh, khí thu làm cho trái cây chín, có phải vô cớ mà như vậy đâu, là do sự vận hành của đạo trời vậy. Thầy nghe nói bậc chí nhân ngồi im không nhúc nhích giữa bốn bức vách trong phòng còn dân chúng thì lăng xăng không biết kiếm chí nhân ở đâu. Nay dân Uý Luỹ bàn với nhau muốn thờ thầy như một hiền nhân, thì thầy thành một người mô phạm mất rồi. Cho nên nghĩ tới lời của Lão Đam mà thầy không vui”. Các đệ tử bảo: - Thưa, không phải vậy. Trong cái rãnh nhỏ, cá lớn không thể quay mình lại được, nhưng cá con hoặc lươn thì chuyển động dễ dàng. Trên một cái gò thấp, một con dã thú lớn không thể nấp được, nhưng con chồn nhỏ ở thấy sung sướng. Tôn kính hiền nhân, đề cử người có tài năng, tặng họ quan chức, lợi lộc, đó là tục từ thời Nghiêu, Thuấn, sao dân chúng Uý Luỹ nay lại không theo? Xin thầy nên nhận lời họ đi. Canh Tang tử đáp: - Lại gần đây, thầy giảng cho nghe. Một con dã thú lớn tới nỗi ngậm được một cái xe mà một mình ra khỏi rừng núi thì cũng không tránh khỏi cái hoạ bị bẫy, lưới. Một con cá dù lớn tới nỗi nuốt được một chiếc thuyền mà rời nước lên cạn thì bị kiến bu lại cắn. Cho nên loài cần thú thích ở nơi cao, loài cá và ba ba thích ở chỗ sâu. Người cũng vậy, muốn giữ vẹn hình hài sinh mệnh thì ở ẩn trong rừng sâu núi thẳm. Với lại Nghiêu, Thuấn có thực đáng tán dương không? Cách hai ông ấy lựa chọn người hiền năng không khác gì người phá tường mà trồng cỏ bồng cỏ cảo thay vào [cỏ làm sao che kín bằng tường được?], hoặc như người lựa những sợi tóc dài để chải, đếm từ hạt gạo để nấu cơm, dùng cách nhỏ nhen như vậy làm sao cứu đời được? Đề cử hiền tài thì dân chúng khuynh loát nhau, nhiệm dụng hạng tài trí thì dân chúng sinh ra trá nguỵ. Những cách đó không làm cho dân chúng thuần hậu mà chỉ khiến họ hăm hở cầu lợi, sinh ra cảnh con giết cha, bề tôi giết vua, đạo tặc hoành hành giữa ban ngày, khoét tường giữa trưa. Thầy bảo các anh này: do thời Nghiêu Thuấn mà sinh ra đại loạn, ảnh hưởng tới ngàn đời sau. Ngàn đời về sau tất có cái cảnh người ăn thịt người đấy. 
2
 Nam Vinh Xu[3] sợ sệt, ngồi lại ngay ngắn, hỏi thầy [là Canh Tang Sở]: - Tuổi con đã lớn rồi, con phải học tập cách nào để theo được lời dạy của thầy? Canh Tang tử đáp: - Anh bảo toàn thân hình cùng bản tính của anh đừng để cho tư lự đau đáu trong lòng, như vậy ba năm thì thực hiện được lời dạy của thầy. Nam Vinh Xu lại hỏi: - Hình trạng con mắt ai cũng như ai, con không thấy gì khác cả mà người mù thì không thấy được. Hình trạng cái tai ai cũng như ai, con không thấy gì khác cả, mà người điếc không nghe được. Hình trạng quả tim ai cũng như ai, con không thấy gì khác cả, mà người điên không tự chủ được. Hình thể mọi người giống nhau, sở dĩ khác nhau như vậy là do ngoại vật ngăn cách chăng? Cho nên người mù, người điếc nhìn thấy, nghe thấy mà không được? Thầy mới bảo con phải bảo toàn thân hình cùng bản tính, đừng để cho tư lự đau đáu trong lòng, con gắng lắm mới nghe lọt [nhưng chưa nhập tâm được]. Canh Tang tử bảo: - Thầy không có gì nói thêm nữa. Con ong nhỏ không hoá thành con sâu xanh lớn trên cây đậu, con gà nhỏ ở nước Việt không thể ấp được trứng con hồng hộc lớn, mà con gà lớn ở nước Lỗ ấp được. Cũng là gà, bản tính tất giống nhau, mà con ấp được, con không vì lớn nhỏ khác nhau. Tài thầy nhỏ không thể biến hoá được anh. Sao anh không đi thăm ông Lão tử ở phương Nam?  Nam Vinh Xu bèn mang theo lương thực, đi bảy ngày bảy đêm tới nơi Lão tử ở. Lão tử hỏi: - Phải Canh Tang Sở bảo anh tới đây không? Nam Vinh Xu đáp: - Dạ, phải. - Sao mà dắt theo nhiều người quá vậy?[4] Nam Vinh Xu hoảng hốt nhìn lại phía sau, Lão tử bảo: - Anh không hiểu ta muốn nói gì chăng? Nam Vinh Xu cuối đầu, xấu hổ, rồi ngửng đầu lên thở dài: - Tôi không biết đáp ông ra sao, rồi [luýnh quýnh] quên mất cả những điều tôi muốn hỏi ông. Lão tử hỏi: - Muốn nói gì vậy? - Tôi không biết thì người ta chê tôi ngu, mà biết thì chỉ thêm sầu khổ vào thân. Tôi bất nhân thì làm hại người, mà có lòng nhân thì chỉ thêm sầu khổ vào thân. Tôi bất nghĩa thì làm thương tổn cho người, mà làm điều nghĩa thì chỉ thêm sầu khổ cho mình. Làm sao tránh được những cái đó. Tôi tư lự về ba điều lưỡng nan đó lắm. Nên tôi nghe lời thầy Canh Tang Sở lại thỉnh giáo ông. Lão tử bảo: - Lúc nãy ta đã đọc được tâm ý anh trong cặp mắt anh, nay nghe lời anh nói, ta thấy mình đã đoán đúng. Mắt anh thất thần như đứa nhỏ mất cha mẹ, cầm cây sào mà mò cha mẹ ở đáy biển. Anh là người mất bản tính, rất hoang mang. Anh muốn khôi phục lại bản tính mà không biết cách nào. Thật đáng thương. Nam Vinh Xu xin phép về nhà trọ: rán tu dưỡng những điều mình cho là tốt, từ bỏ những điều mình cho là xấu. Sau mười ngày còn tự thấy ưu tư[5], trở lại thăm Lão tử. Lão tử bảo:  - Anh đã tự gột rửa được bản tâm, cái khí tinh thục đã sung mãn, nhưng trong lòng vẫn còn nhiều cái xấu. Người nào mà tai mắt bị ngoại vật làm cho bế tắc thì đừng nên vội khống chế nó, nếu không, nội tâm sẽ bị nhiễu loạn. Nội tâm mà bị bế tắc thì cũng đừng nên vội khống chế nó, nếu không thì tai mắt sẽ bị nhiễu loạn. Người nào cả tai mắt lẫn nội tâm bị bế tắc thì bản tính còn không giữ được, huống hồ là hành động theo Đạo[6]. Nam Vinh Xu bảo: - Một người trong xóm đau, người láng giềng lại thăm, nếu người đau còn kể rõ được bệnh của mình thì bệnh chưa nặng lắm. Còn tôi, mỗi lần nghe nói tới Đạo lớn thì như người uống thuốc mà bệnh tăng lên. Tôi xin ông chỉ cho cách bảo toàn bản tính thôi. Lão tử đáp:  - Cách bảo toàn bản tính là trước hết phải tự hỏi mình có rời bản tính không? Có thể không làm mất nó không? Có thể không cần bói bằng mu rùa hay cỏ thi mà biết được cát hung không? Có thể ngừng lại đúng lúc không? Có thể không đeo đuổi ngoại vật không? Có thể không cầu ở người mà cầu ở chính mình không? Có thể giữ tinh thần được tự do không? Có thể vô tâm mà thuận theo vật không? Lòng có thể như lòng của đứa hài nhi không? Hài nhi khóc suốt ngày mà không khan tiếng là vì tâm khí nó cực điều hoà, nắm chặt tay suốt ngày mà không cầm cái gì cả[7], là vì đức tính tự nhiên của có là vậy; nó ngó suốt ngày mà mắt không cử động vì không để ý tới ngoại vật; nó đi mà không biết đi đâu, ở yên mà không biết làm gì. Nó thuận theo ngoại vật, cùng lên xuống (nổi chìm) với vạn vật. Đó là cách bảo toàn bản tính. Nam Vinh Xu hỏi: - Đó có phải là đức của bậc chí nhân không? Lão tử đáp:  - Không. Được như vậy mới chỉ như cục băng tan ra thôi [trút bỏ được thành kiến như cục băng trút hết khí lạnh]. Bậc chí nhân tuỳ theo đất mà ăn uống[8] [sống theo tự nhiên], tuỳ theo thời mà vui vẻ. Không vì cái lợi giữa mình và người mà lòng phải nhiễu loạn, không lập dị, không mưu mô, không giao thiệp với ai, tự do đi và vô tâm mà về. Đó là cách bảo toàn bản tính. - Như vậy là đạt tới cảnh giới tối cao chưa? - Chưa. Tôi hỏi anh có thể như đứa hài nhi được không? Đứa hài nhi cử động mà không biết nó làm gì, đi mà không biết đi đâu. Thân thể anh phải như cây khô, tinh thần anh phải như tro tàn. Như vậy hoạ phúc mới không tới. Đã không còn hoạ phúc nữa thì đâu còn bị tai nạn nữa. 
3
 Người nào an vui thì phát ra ánh sáng của trời [ánh sáng tự nhiên]. Người nào phát ra ánh sáng của trời thì người khác coi người đó cũng như một người thường. Người nào tu thân [theo tự nhiên] thì có hằng tâm. Có hằng tâm thì được người khác qui phụ, được trời giúp đỡ. Được người khác qui phụ thì gọi là “dân của trời” (thiên dân); được trời giúp đỡ thì gọi là “con trời” (thiên tử). Người ham học thường nhắm vào cái mình không học được; người ham làm là nhắm vào cái mình không làm được; người ham biện luận thường nhắm vào cái điều không thể biện luận được. Một người biết ngưng lại ở chỗ không ai có thể biết được là đạt được cái cực điểm của tri thức. Nếu không nhận sự hạn chế tự nhiên ấy thì bản tính thiên nhiên tất hao tổn.  Hiểu tính chất của vật mà tuỳ thuận hình thể của nó, đừng ưu tư, giữ tâm cho thư thái, giữ tấm lòng kính cẩn để thông đạt ngoại vật, như vậy mà vẫn còn có thể gặp tai hoạ. Nhưng những tai hoạ đó là mệnh trời, mình không thể tránh được, không làm gì tổn hại đến đức tính của ta cả, không làm nhiễu loạn được “linh đài” (tức nội tâm) của ta. Linh đài, có cái gì giữ nó đấy, nhưng ta không biết cái đó là cái gì, nên không giữ được nó. Không thành tâm mà hành động thì hành động tất không đúng. Vật dục xâm nhập nội tâm mà không trừ bỏ được thì bản chân sẽ mất. Người nào làm điều ác một cách hiển nhiên thì bị xã hội giết. Người nào làm điều ác trong chỗ tối tăm không ai biết thì bị quỉ thần diệt. Sửa mình sao cho đối với người và đối với quỉ thần đều không có điều gì hổ thẹn, như vậy mới đạt được cái mức “thận độc” (nghĩa là cả khi ở một mình cũng giữ gìn cẩn thận, không có ý nghĩ xấu). Hành vi chỉ nhằm hợp với nội tâm thì không cầu danh; hành vi nhằm hợp với ngoại vật thì cầu được thưởng. Hành động mà không cầu danh thì có hào quang; hành động mà vì lợi thì là bọn con buôn bị người khác chê là tham mà chính mình lại tự cho là hơn người[9]. Người nào cư xử cẩu thả với ngoại vật thì không dung được chính thân mình, như vậy làm sao dung được người khác. Không dung được người khác thì không có bạn thân, không có bạn thân thì coi hết thảy mọi người là người lạ. Lòng tham còn giết người hơn tất cả các binh khí, những cây kiếm (thật bén) Mạc Da cũng phải thua. Đạo tặc không gì đáng sợ bằng khí âm khí dương (tức hỉ nộ) ngưng kết ở trong lòng, trong vũ trụ không vật nào thoát được cái nguy đó, nhưng xét kĩ không phải khí âm khí dương hại ta mà chính thị dục của ta hại ta. Đạo lưu động mà gây ra sự phân biệt: sinh thành rồi huỷ diệt (…)[10]. Có sinh có tử, có ra có vô. Vô ra mà không thấy hình thể gọi là “cửa trời” (thiên môn). Cửa trời là cái “vô” từ đó phát sinh ra vạn vật. Vì cái “hữu” không thể phát sinh từ cái “hữu” mà phát sinh từ cái “vô”. Nhưng cái vô lại “vô” lại vô nốt, đó là kho tàng (cái thần diệu bí mật) của thánh nhân. Cổ nhân có người tri thức đạt tới cực điểm. Cực điểm đó ở đâu? Ở chỗ cho rằng thời sơ khởi, vũ trụ chưa có vật: đó là điểm cực xa, cực cao mà tri thức đạt được, không thể thêm gì được nữa. Hạng người thấp hơn cho rằng thời sơ khởi đã có vật, mà sự sinh đưa tới sự chết, chết là trở về gốc: như vậy là có sự phân biệt rồi. Rồi lại có hạng thấp hơn nữa cho rằng sơ khởi là “vô”, rồi mới có “sinh”, sinh không lâu thì chết[11]. Như vậy “vô” là cái đầu, “sinh” là phần thân thể, mà “chết” là đốt cuối xương sống. Ai mà biết rằng “hữu”, “vô”, chết, sống vốn chỉ là một thể, thì tôi sẽ đánh bạn với người đó. Ba cái (“vô”, sinh, tử) tuy khác nhau nhưng cùng một họ, cũng như họ Chiêu, họ Cảnh tuy dùng tên thuỵ của tiên nhân làm họ, còn họ Giáp dùng tên ấp được phong cho tiên nhân làm họ, nhưng thực ra đều cùng một họ của Sở cả. 
4
 (…)[12] Tôi xin nói về lẽ “tuỳ thời thay đổi”. Ai cho sự sinh tồn của mình là chủ, thành kiến của mình là chuẩn tắc, thì làm cho quan niệm thị phi hoá ra phức tạp, phải phân biệt danh và thực. Người đó tự cho mình là phải, bắt người khác phải theo những phán đoán của mình và hi sinh cho những phán đoán đó. Người đó cho ai hữu dụng là thông minh, vô dụng là ngu xuẩn, thành công là danh dự, thất bại là tủi nhục. Người thời nay đều coi trọng một cái lẽ nó tuỳ thời thay đổi, như vậy không khác gì con ve sầu và con chim cưu, chúng chỉ thấy một khoảng trời hẹp như nhau. Lỡ dẫm chân lên chân người khác ở chợ thì người ta vội xin lỗi đã vô ý; nếu là anh dẫm lên chân em thì tỏ vẻ thương tiếc và an ủi em; nếu là cha mẹ dẫm lên chân con thì chả phải nói gì cả. Cho nên bảo: “Cực lễ độ thì coi người khác như mình; cực nghĩa thì không phân biệt vật này với vật khác; cực trí thì không mưu tính; cực nhân thì không phân biệt thân sơ; cực tín thì không bắt thế đồ[13]”.  
5
 Phải diệt nhiễu loạn của chí vì ngoại vật, tránh sự trói buộc cái tâm, để cho đạo đức phát hiện ra mà đừng cản trở cái đạo. Giàu có, sang trọng, hiển đạt, uy thế, thanh danh, lợi lộc, sáu cái đó là những ngoại vật làm nhiễu loạn chí của ta. Dong mạo, động tác, nhan sắc, tình, khí, dục, sáu cái đó trói buộc cái tâm của ta. Ghét, yêu, vui, buồn, giận, thích, sáu cái đó làm trở ngại cái đức. Nhận, chối, lấy, cho, trí tuệ, tài năng, sáu cái đó che lấp cái đạo. Ai không bị hai mươi bốn cái đó nhiễu loạn thì lòng được quân bình, quân bình thì yên tĩnh, yên tĩnh thì sáng suốt, sáng suốt thì hư không, hư không thì không làm gì mà không gì không làm. Đạo là cái mà Đức kính trọng[14]. Sự sống là ánh sáng rực rỡ của cái Đức. Tính là bản thể của con người, tính phát động ra thì ta hành động; hành động nào rời bản tính thì đánh mất cái Đạo. Biết là tiếp xúc với ngoại vật rồi mưu tính. Trí tuệ của con người không thể biết được một số sự vật cũng như người lát mắt không thể nhìn thấy khắp được. Do đó bất đắc dĩ mà hành động, cái đó là đạo đức; hành động là mà mình, cái đó là trật tự (nội tâm). Hai câu đó ý tương phản nhau mà thực ra thuận nhau.[15] 
6
 Hậu Nghệ có tài bắn trúng được một cái đích rất nhỏ, nhưng vụng ở chỗ thích nghe nịnh. Thánh nhân khéo theo tự nhiên mà vụng về “nhân vi” (việc người ta làm). Chỉ có người toàn đức mới khéo thuận theo tự nhiên, vừa khéo việc “nhân vi”. Chỉ có con sâu là biết hoàn toàn sống theo sâu, tuỳ thuận tự nhiên. Người toàn đức ghét thiên nhiên chăng? Ghét cái thiên nhiên “nhân vi” chăng? Mà chính tôi là trời (thiên nhiên) chăng?[16] Một con chim mà bay qua trước mặt Hậu Nghệ thì thế nào Hậu Nghệ cũng bắn trúng (nhưng chỉ bắn mỗi phát được một con thôi). Nếu coi vũ trụ là cái lông chim thì không một con chim nào thoát được. Vì vậy mà vua Thành Thang nhốt Y Doãn vào lồng bằng cách dùng Y Doãn làm đầu bếp, và Tần Mục Công nhốt Bách Lí Hề vào lồng bằng cách tặng (?) Bách Lí Hề năm bộ da cừu. Như vậy, không dùng sở thích của người ta mà lung lạc người ta được là điều không hề có[17]. Một người cụt mất một chân thì không giữ phép tắc (khi đi đứng) nữa, vì chẳng cần để ý tới lời khen chê của người khác. Một tên bị tội đồ dù lên chỗ cheo leo cũng không sợ vì đã coi thường sống chết. Người nào chê ta mà ta không đáp[18], thì ta đã không phân biệt người với mình rồi; không phân biệt người với mình, tức là người của trời (thiên nhân), hồn nhiên, có được người khác tôn kính cũng không vui, mà bị người khác làm nhục cũng không giận. Chỉ người nào hoà hợp với trời mới được như vậy. Người người vượt lên sự giận dữ thì không bao giờ giận dữ; dù người đó có giận dữ thì sự giận dữ đó cũng không phải là giận dữ vì tư dục, thành kiến; người nào vượt lên mọi hành động của loài người thì không hành động; dù có người đó có hành động, cũng vẫn là “vô vi”. Ai muốn bình tĩnh, thì phải điều hoà hơi thở; ai muốn được thân mình (cực sáng suốt) thì phải thuận theo tâm của mình; ai muốn hành động hợp đạo lí thì chỉ hành động khi nào bất đắc dĩ; đó là cái đạo của thánh nhân.   
TRÍ BẮC DU, CANH TANG SỞ
 Hai chương này có hai điểm giống nhau: - cùng bàn về Đạo, Đức, vô vi cho rằng trí tuệ không hiểu được Đạo, thánh nhân vô ích cho xã hội, và cũng thảo luận về vấn đề vô và hữu; - nhất là chịu ảnh hưởng đậm của Trang lẫn của Lão, có bài dùng đúng những lời của hai nhà đó nữa. Như trong Trí Bắc du, đại ý trong bài 6 (Đạo không ở đâu không có) cũng là ý trong bài Đại tôn sư 1. “Nó (Đạo) tạo ra quỉ thần, thượng đế, nó sinh ra trời đất”. Vì Đạo sinh ra vũ trụ, cho nên trong vũ trụ, chỗ nào cũng có nó. Một thí dụ nữa: lời của Vô Thuỷ trong Trí Bắc du 8: “Đạo không thể nghe được, cái gì nghe được thì không phải là Đạo. Đạo không thể thấy được, cái gì thấy được thì không phải là Đạo. Đạo không thể đem ta giảng được, cái gì giảng được thì không phải là Đạo. Ai biết được rằng cái gì sinh ra hình thể thì không có hình thể”. Cũng diễn đúng ý này trong Đại tôn sư 1: “Đạo có thực và tồn tại, nhưng “vô vi” mà không có hình trạng. Có thể truyền được mà không thể tiếp nhận nó được, hiểu nó được mà không thấy nó được”. Đó là ảnh hưởng của Trang. Nhưng ngay ở sau đoạn tôi mới dẫn trong Trí Bắc du 8, chúng ta cũng nhận ra ảnh hưởng của Lão nữa trong câu này: “Đạo bất đương danh” (Đạo không thể dùng tên mà gọi được). So với câu trong chương đầu Đạo Đức kinh: “Đạo khả đạo phi thường Đạo…” thì lời tuy khác mà ý là một. Nhất là Trí Bắc du 1 có tới bốn câu trích trong Đạo Đức kinh mà tôi đã ghi vào cước chú, nên không cần dẫn lại ở đây.   Chương Canh Tang Sở cũng vậy. Ảnh hưởng của Trang: Bài 3: “Cổ nhân có người tri thức đạt tới cực điểm. Cực điểm đó ở đâu? Ở chỗ cho rằng thời sơ khởi, vũ trụ chưa có vật: đó là điểm cực xa, cực cao mà tri thức đạt được, không thể thêm gì được nữa. Hạng người thấp hơn cho rằng thời sơ khởi đã có vật, mà sự sinh đưa tới sự chết, chết là trở về gốc: như vậy là có sự phân biệt rồi. Hạng thấp hơn nữa cho rằng sơ khởi là “không có”, rồi mới có “sinh”, sinh không bao lâu thì chết” đã dùng những chữ và diễn gần đúng những ý trong bài 6 Tề vật luận: “Cổ nhân có người trí thức đạt được tới cực điểm. Cực điểm đó ở đâu? Ở chỗ cho rằng thời sơ khởi vũ trụ chưa có vật: đó là điểm cực xa, cực cao mà tri thức đạt được, không thể thêm gì được nữa. Hạng người thấp hơn cho rằng thời sơ khởi đã có cái gì đó, nhưng cái đó không nhất định. Hạng thấp hơn cho rằng cái đó đã nhất định nhưng bảo không có thị phi (phải trái, xấu tốt). Rõ ràng tác giả Canh Tang Sở đã mô phỏng Trang mà kém minh bạch, sâu sắc. Cũng trong bài 3 Canh Tang Sở ấy, đoạn: “Như vậy, “không có” là cái đầu, sinh là phần thân thể, mà chết là đốt cuối của xương sống. Ai biết rằng “có”, “không”, chết, sống chỉ là một thì tôi sẽ đánh bạn với người đó”  khiến ta nhớ tới đoạn đầu bài Đại tôn sư 3: “Tử Tự, Tử Dư, Tử Lê, Tử Lai nói với nhau: “Ai coi sự hư vô là đầu, sự sống là xương sống, sự chết là đốt cuối của xương sống; ai biết được sống chết, còn mất chỉ là một thì người đó là bạn của chúng ta”. Người sau gần như chép nguyên văn của người trước. Còn ảnh hưởng của Lão, ta thấy ngay trong bài đầu, chép chuyện một môn đệ của Lão tử: Canh Tang Sở. Tư tưởng phản đối hiền và trí trong bài ấy là tư tưởng của Lão hơn là của Trang: “Đề cử nhân tài thì dân chúng khuynh loát nhau, nhiệm dụng hạng tài trí thì dân chúng sinh ra trá nguỵ”. Câu ấy diễn lại ý trong câu “không trọng người hiền thì khiến cho dân chúng không tranh nhau” (Đạo Đức kinh – chương 3) và câu “Trí tuệ gây ra sự gian trá lớn” (Đạo Đức kinh – chương 18). Một chứng cứ nữa: hai chữ “cửa trời” (thiên môn) trong bài 3 chính là chữ của Lão tử: “Thiên môn khai hạp” (cửa trời khép mở) – Đạo đức kinh – chương 10. Sau cùng, theo La Căn Trạch, suốt thời Tiên Tần chỉ có Lão tử coi đứa hài nhi là người lí tưởng[19]. “Có thể tập trung cái khí để được mềm mại như đứa trẻ sơ sinh không?” (Đạo đức kinh – chương 16), “Giữ được cái đức cho thật dày (đầy đủ) thì như đứa con đỏ (trẻ mới sinh)” (chương 55); “người nào mà cái Đức không lúc nào rời thì trở về tuổi sơ sinh” (chương 28). Mà trong Canh Tang Sở 2, tác giả cũng đề cao hài nhi: “Lòng có thể như lòng đứa hài nhi không? Nó khóc suốt ngày mà không khan tiếng là vì tâm khí nó cực điều hoà… Nó thuận theo ngoại vật, cùng lên xuống (nổi chìm) với vạn vật. Đó là cách bảo toàn bản tính”. 
°
 Vì ảnh hưởng của Trang và của Lão đan xen nhau như vậy nên có người như Hoàng Cẩm Hoành bảo tác giả của cả hai chương thuộc môn phái Trang, có người như La Căn Trạch bảo thuộc môn phái Lão. Nhưng làm sao chúng ta có thể tin chắc được là môn phái nào vì ngay trong một bài – bài Canh Tang Sở 3 – ta thấy cả lời của Trang lẫn lời của Lão? Lại thêm tác giả bài 13 cũng chương đó có giọng chán đời, không phải giọng của Lão hay của Trang. Cho nên chúng ta chỉ có thể kết luận rằng hai chương đó của một số hậu học, kẻ chịu ảnh hưởng của Trang, kẻ của Lão, có người cả của Trang lẫn Lão. Họ không phát huy được thêm tư tưởng nào của người trước, bút phát cũng không có gì đặc sắc, trừ vài bài như Trí Bắc du 1, 6. Nhất là Canh Tang Sở có nhiều chỗ tối nghĩa và tư tưởng lộn xộn. 

[1] Nguyên văn: thiên, L.K.h. dịch là: riêng đạt được đạo của thầy. Canh Tang Sở, trong Liệt tử chép là Cang Sương tử, trong Sử kí chép là Cang Tang.[2] Nguyên văn là thi. Coi chú thích bài 2 chương Tiêu dao du.[3] Có sách đọc là Trù hay Thọ.[4] Có lẽ Lão tử muốn nói: mang nhiều ưu tư (hoặc thành kiến) quá.[5] Nguyên văn: Thập nhật tự sầu.[6] Đoạn này rất khó hiểu, mỗi sách giảng một khác. Tôi châm chước L.K.h. mà không chắc là đúng.[7] Nguyên văn: nhi thủ bất nghễ. L.K.h. dịch là: không phải gắng sức. [8] Nguyên văn: tương dữ giao thực hồ địa. L.K.h. dịch là: chia với người khác những thức ăn của trái đất. [9] Nguyên văn: nhân kiến kì kì, do chi khôi nhiên. H.C.H. dịch là: người khác cho là nguy hiểm, mà mình tự cho là yên ổn.[10] Bỏ chừng mười hàng rất tối nghĩa, mỗi sách chú thích một khác.[11] Nghĩa là hạng thứ ba này cho chết là hết, không trở về gốc.[12] Bỏ chừng mười hàng rất tối nghĩa, mỗi sách chú thích một khác.[13] Sách in là: “cực tính thì không bắt thế đó”. Tìm câu tương ứng trên mạng thì thấy có đến ba bản. Theo bác Vvn thì câu hợp hơn hết là: chí tín tịch kim 至信辟金, nghĩa là “cực tín thì không bắt thế chấp”. [Goldfish].[14] Nguyên văn: đức chi khâm giả. H.C.H. dịch là: Đạo là sự phô bày của Đức. Như vậy khó hiểu quá vì Lão, Trang cho rằng có Đạo rồi mới có Đức, Đức là tác dụng của Đạo, là cái biểu hiện của Đạo. – Nhưng bảo “Đạo là cái Đức kính trọng” thì thú thực tôi cũng chẳng hiểu gì cả. [15] Có lẽ tác giả muốn nói: người theo Đạo thì vô vi, chỉ bất đắc dĩ mà hành động, dù sự bất đắc dĩ đó, do hoàn cảnh ở ngoài hay do xúc động trong lòng.[16] Lời đoạn này sáng sủa mà ý thì tối, không hiểu nổi.[17] Tác giả xét cổ nhân hoặc hiểu truyện cũ theo ý mình. Y Doãn và Bách Lí Hề đều là người hiền thời trước. Y Doãn khéo điều hoà các món gia vị, vua Thành Thang cho rằng tài điều hoà đó là tài làm tể tướng, nên trọng dụng; và Y Doãn giúp vua Thành Thang thắng vua Kiệt mà lập nên nhà Thương. Bách Lí Hề khi chưa gặp thời, phải chăn bò ở Nam Hải (Sở), Tần Mục Công biết ông là người tài, đem năm bộ da cừu chuộc rồi rước ông về làm thừa tướng.  [18] Nguyên văn: phục tập bất quĩ. L.K.h. dịch là: tập lại lần nữa mà không xấu hổ (nghĩa là vụng về, phải tập đi tập lại?), có lẽ là vì theo một bản khác.[19] La Căn Trạch lầm. Mạnh tử trong Li Lâu hạ bài 12 cũng bảo “Bậc đại nhân không đánh mất tấm lòng của mình khi mới sinh ra” (bất thất kì xích tử chi tâm). Nhưng tác giả Canh Tang Sở chịu ảnh hưởng của Lão, chứ không phải của Mạnh.

庚桑楚》. 《庄子》第23章 庚桑楚 

  老聃之役有庚桑楚者,偏得老聃之道,以北居畏垒之山。其臣之画然知者去之,其妾之挈然仁者远之。拥肿之与居,鞅掌之为使。居三年,畏垒大壤。畏垒之民相与言曰:“庚桑子之始来,吾洒然异之。今吾日计之而不足,岁计之而有余。庶几其圣人乎!子胡不相与尸而祝之,社而稷之乎?”庚桑子闻之,南面而不释然。弟子异之。庚桑子曰:“弟子何异于予?夫春气发而百草生,正得秋而万宝成。夫春与秋,岂无得而然哉?天道已行矣。吾闻至人,尸居环堵之室,而百姓猖狂,不知所如往。今以畏垒之细民,而窃窃焉欲俎豆予于贤人之间,我其杓之人邪?吾是以不释于老聃之言。”弟子曰:“不然。夫寻常之沟,巨鱼无所还其体,而鲵鳅为之制;步仞之丘陵,巨兽无所隐其躯,而孽狐为之祥。且夫尊贤授能,先善与利,自古尧、舜以然,而况畏垒之民乎!夫子亦听矣!”庚桑子曰:“小子来!夫函车之兽,介而离山,则不免于网罟之患;吞舟之鱼,荡而失水,则蚁能苦之。故鸟兽不厌高,鱼鳖不厌深。夫全其形生之人,藏其身也,不厌深眇而已矣!且夫二子者,又何足以称扬哉!是其于辩也,将妄凿垣墙而殖蓬蒿也,简发而栉,数米而炊,窃窃乎又何足以济世哉!举贤则民相轧,任知则民相盗。之数物者,不足以厚民。民之于利甚勤,子有杀父,臣有杀君;正昼为盗,日中穴阫。吾语女:大乱之本,必生于尧、舜之间,其末存乎千世之后。千世之后,其必有人与人相食者也。” 南荣趎蹴然正坐曰:“若趎之年者已长矣,将恶乎托业以及此言邪?”庚桑子曰:“全汝形,抱汝生,无使汝思虑营营。若此三年,则可以及此言矣!”南荣趎曰:“目之与形,吾不知其异也,而盲者不能自见;耳之与形,吾不知其异也,而聋者不能自闻;心之与形,吾不知其异也,而狂者不能自得。形之与形亦辟矣,而物或间之邪?欲相求而不能相得。今谓趎曰:‘全汝形,抱汝生,无使汝思虑营营。’趎勉闻道达耳矣!”庚桑子曰:“辞尽矣,奔蜂不能化藿蠋,越鸡不能伏鹄卵,鲁鸡固能矣!鸡之与鸡,其德非不同也。有能与不能者,其才固有巨小也。今吾才小,小足以化子。子胡不南见老子!”南荣囗赢粮,七日七夜至老子之所。老子曰:“子自楚之所来乎?”南荣囗曰:“唯。”老子曰:“子何与人偕来之众也?”南荣囗惧然顾其后。老子曰:“子不知吾所谓乎?”南荣囗俯而惭,仰而叹,曰:“今者吾忘吾答,因失吾问。”老子曰:“何谓也?”南荣囗曰:“不知乎人谓我朱愚,知乎反愁我躯;不仁则害人,仁则反愁我身;不义则伤彼,义则反愁我己。我安逃此而可?此三言者,趎之所患也。愿因楚而问之。”老子曰:“向吾见若眉睫之间,吾因以得汝矣。今汝又言而信之。若规规然若丧父母,揭竿而求诸海也。女亡人哉!惘惘乎,汝欲反汝情性而无由入,可怜哉!”南荣囗请入就舍,召其所好,去其所恶。十日自愁,复见老子。老子曰:“汝自洒濯,孰哉郁郁乎!然而其中津津乎犹有恶也。夫外韄者不可繁而捉,将内揵;内韄者不可缪而捉,将外揵;外内韄者,道德不能持,而况放道而行者乎!”南荣囗曰:“里人有病,里人问之,病者能言其病,然其病病者犹未病也。若趎之闻大道,譬犹饮药以加病也。趎愿闻卫生之经而已矣。”老子曰:“卫生之经,能抱一乎!能勿失乎!能无卜筮而知吉凶乎!能止乎!能已乎!能舍诸人而求诸己乎!能翛然乎!能侗然乎!能儿子乎!儿子终日嗥而嗌不嗄,和之至也;终日握而手不掜,共其德也;终日视而目不瞬,偏不在外也。行不知所之,居不知所为,与物委蛇而同其波。是卫生之经已。”南荣囗曰:“然则是至人之德已乎?”曰:“非也。是乃所谓冰解冻释者。夫至人者,相与交食乎地而交乐乎天,不以人物利害相撄,不相与为怪,不相与为谋,不相与为事,翛然而往,侗然而来。是谓卫生之经已。”曰:“然则是至乎?”曰:“未也。吾固告汝曰:‘能儿子乎!’儿子动不知所为,行不知所之,身若槁木之枝而心若死灰。若是者,祸亦不至,福亦不来。祸福无有,恶有人灾也!” 宇泰定者,发乎天光。发乎天光者,人见其人,物见其物。人有修者,乃今有恒。有恒者,人舍之,天助之。人之所舍,谓之天民;天之所助,谓之天子。 学者,学其所不能学也?行者,行其所不能行也?辩者,辩其所不能辩也?知止乎其所不能知,至矣!若有不即是者,天钧败之。备物将以形,藏不虞以生心,敬中以达彼。若是而万恶至者,皆天也,而非人也,不足以滑成,不可内于灵台。灵台者有持,而不知其所持而不可持者也。不见其诚己而发,每发而不当;业入而不舍,每更为失。为不善乎显明之中者,人得而诛之;为不善乎幽间之中者,鬼得而诛之。明乎人、明乎鬼者,然后能独行。券内者,行乎无名;券外者,志乎期费。行乎无名者,唯庸有光;志乎期费者,唯贾人也。人见其跂,犹之魁然。与物穷者,物入焉;与物且者,其身之不能容,焉能容人!不能容人者无亲,无亲者尽人。兵莫惨于志,镆铘为下;寇莫大于阴阳,无所逃于天地之间。非阴阳贼之,心则使之也。 道通其分也,其成也毁也。所恶乎分者,其分也以备。所以恶乎备者?其有以备。故出而不反,见其鬼。出而得,是谓得死。灭而有实,鬼之一也。以有形者象无形者而定矣!出无本,入无窍,有实而无乎处,有长而无乎本剽,有所出而无窍者有实。有实而无乎处者,宇也;有长而无本剽者,宙也。有乎生,有乎死;有乎出,有乎入。入出而无见其形,是谓天门。天门者,无有也。万物出乎无有。有不能以有为有,必出乎无有,而无有一无有。圣人藏乎是。 古之人,其知有所至矣。恶乎至?有以为未始有物者,至矣,尽矣,弗可以加矣!其次以为有物矣,将以生为丧也,以死为反也,是以分已。其次曰始无有,既而有生,生俄而死。以无有为首,以生为体,以死为尻。孰知有无死生之一守者,吾与之为友。是三者虽异,公族也。昭景也,著戴也;甲氏也,著封也:非一也。 有生黬也,披然曰“移是”。尝言“移是”,非所言也。虽然,不可知者也。腊者之有膍胲,可散而不可散也;观室者周于寝庙,又适其偃焉!为是举“移是”。请尝言“移是”:是以生为本,以知为师,因以乘是非。果有名实,因以己为质,使人以为己节,因以死偿节。若然者,以用为知,以不用为愚;以彻为名,以穷为辱。“移是”,今之人也,是蜩与学鸠同于同也。 蹍市人之足,则辞以放骜,兄则以妪,大亲则已矣。故曰:至礼有不人,至义不物,至知不谋,至仁无亲,至信辟金。彻志之勃,解心之谬,去德之累,达道之塞。贵富显严名利六者,勃志也;容动色理气意六者,谬心也;恶欲喜怒哀乐六者,累德也;去就取与知能六者,塞道也。此四六者不荡胸中则正,正则静,静则明,明则虚,虚则无为而无不为也。 道者,德之钦也;生者,德之光也;性者,生之质也。性之动谓之为,为之伪谓之失。知者,接也;知者,谟也。知者之所不知,犹睨也。动以不得已之谓德,动无非我之谓治,名相反而实相顺也。羿工乎中微而拙乎使人无己誉;圣人工乎天而拙乎人;夫工乎天而俍乎人者,唯全人能之。虽虫能虫,虽虫能天。全人恶天,恶人之天,而况吾天乎人乎!一雀适羿,羿必得之,或也。以天下为之笼,则雀无所逃。是故汤以胞人笼伊尹,秦穆公以五羊之皮笼百里奚。是故非以其所好笼之而可得者,无有也。介者拸画,外非誉也。胥靡登高而不惧,遗死生也。夫复谐不馈而忘人,忘人,因以为天人矣!故敬之而不喜,侮之而不怒者,唯同乎天和者为然。出怒不怒,则怒出于不怒矣;出为无为,则为出于无为矣!欲静则平气,欲神则顺心。有为也欲当,则缘于不得已。不得已之类,圣人之道

No comments: