Sunday, January 22, 2017

NAM HOA KINH XIX- NHƯỢNG VƯƠNG-ĐẠO CHÍCH

Chương XXVIII
CÁC ÔNG VUA NHƯỜNG NGÔI
(Nhượng vương)

 Vua Nghiêu muốn nhường thiên hạ cho Hứa Do, Hứa Do không nhận, bèn nhường cho Tử Châu Chi Phụ[1]. Tử Châu Chi Phụ đáp: - Tôi cũng muốn là thiên tử, nhưng hiện tôi đau một bệnh ngầm[2], còn phải lo trị nó đã, chưa rảnh mà trị thiên hạ được. Trị thiên hạ là việc rất quan trọng mà còn không muốn hại sức khoẻ vì nó, huống hồ là việc khác. Chỉ người nào không quan tâm tới việc trị thiên hạ là mới có thể giao thiên hạ cho được thôi.
°
 Vua Thuấn muốn nhường thiên hạ cho Tử Châu Chi Bá (cũng là Tử Châu Chi Phụ trong đoạn trên). Tử Châu Chi Bá đáp:  - Tôi đương đau một bệnh ngầm, còn phải lo trị nó đã, chưa rãnh mà trị thiên hạ được. Ngôi thiên tử là tối cao mà ông ấy không chịu đem sinh mệnh của mình ra đổi. Người đạt Đạo khác người thường ở điểm ấy.
°
 Vua Thuấn muốn nhường thiên hạ cho [một ẩn sĩ là] Thiện Quyển. Thiện Quyển đáp:  - Tôi sống trong vũ trụ, mùa đông bận áo da lông, mùa hè bận áo vải thô, mùa xuân đủ sức cày ruộng gieo lúa, tới mùa thu gặt hái, đủ để ăn và nghỉ ngơi. Mặt trời mọc thì dậy làm việc, mặt trời lặn thì nghỉ, tiêu dao trong khoảng trời đất mà lòng thư thái sung sướng. Thế thì tôi nhận thiên hạ làm gì? Buồn thay, ông chẳng hiểu tôi chút nào cả. Từ chối rồi, Thiện Quyển bỏ đi, vô trong rừng sâu, không ai biết nơi nào.
°
 Vua Thuấn muốn nhường ngôi cho một người bạn nông phu ở Thạch Hộ. Người bạn ấy đáp: - Phải gắng trị nước. Làm vua như bác thực là lao khổ! Lời đó có ý chê đức của vua Thuấn chưa được hoàn toàn[3]. Rồi nông phu đó cõng con, vợ đội ít đồ dùng trong nhà, dắt nhau ra biên, suốt đời không trở về nữa.
2
 Vua Thái Vương Đản Phụ ở đất Bân[4], rợ Địch tấn công đất Bân hoài. Ông bèn cống họ da thú và lụa, họ không nhận; cống chó ngựa cũng không nhận; cống châu ngọc cũng không nhận; rợ Địch chỉ muốn chiếm đất đai thôi. Thái Vương Đản Phụ [họp dân chúng lại] bảo: - Tôi không muốn nhẫn tâm để con em các người ra trận mà chết, như vậy có khác gì tôi giết họ. Các người gắng ở lại đây. Làm thần dân của tôi hay của người Địch thì cũng vậy. Tôi nghe nói không nên đem cái dùng để nuôi người [tức đất đai] mà hại người [tức bắt dân ra trận]. Rồi ông chống gậy ra đi, dân chúng dắt dìu nhau theo ông mà lập một nước ở chân núi Kì Sơn [tại Thiểm Tây ngày nay]. Có thể bảo ông là người trọng sinh mệnh. Biết trọng sinh mệnh thì dù là phú quí cũng không nên hưởng thụ nếu có hại cho thân mình, còn như nghèo hèn thì không nên vì lợi lộc mà làm tội cái hình hài. Ngày nay, những kẻ chức cao tước lớn chỉ lo mất địa vị, thấy các lợi mà quên hẳn thân mình. Như vậy chẳng là mê muội ư?[5]
3
 Trong ba đời liên tiếp, người Việt giết vua. Thái tử tên Sưu lo quá, chạy trốn vào động Đan, thế là nước Việt không có vua. Người Việt bèn đi tìm thái tử, theo dấu vết đến động Đan. Thái tử không chịu ra, họ phải đốt lá ngải hun động và đánh xe của vua chờ ở ngoài. Khi nắm được dây leo lên xe, thái tử ngửa mặt lên trời than: “Làm vua! Làm vua! Tại sao không tha cho tôi, cứ phải tôi mới được?”. Thái tử Sưu không sợ làm vua mà sợ cái hoạ làm vua. Có thể bảo ông là không vì ngôi vua mà làm hại sinh mệnh của mình, chính vì vậy mà người Việt mới muốn ông làm vua.
4
 Hai nước Hàn và Nguỵ cùng tranh nhau lấn đất. Tử Hoa tử [người nước Nguỵ], lại yết kiến Chiêu Hi Hầu nước Hàn, thấy nhà vua có vẻ lo, nên bảo: - Nay có người muốn nhường thiên hạ, và viết trước mặt nhà vua một minh ước như vầy: “Ai mà tay trái lấy tờ minh ước này thì tay phải bị chặt, tay phải lấy thì tay trái bị chặt; nhưng lấy được nó thì sẽ được cả thiên hạ”. Như vậy nhà vua có chịu lấy không? Chiêu Hi Hầu đáp:  - Quả nhân không chịu. Tử Hoa tử bảo: - Hay lắm! Vậy là nhà vua coi hai cánh tay trọng hơn thiên hạ; thân thể còn trọng hơn hai cánh tay nữa. Mà nước Hàn lại khinh [nhỏ, không quan trọng] hơn thiên hạ nhiều, và phần đất hai bên tranh nhau lại khinh hơn nước Hàn nhiều. Sao nhà vua lại vì phần đất nhỏ đó mà âu sầu lo lắng, hại cho sinh mạng mình như vậy. Chiêu Hi Hầu bảo: - Hay! Đã nhiều người khuyên quả nhân mà quả nhân chưa được nghe lời nào như lời ông. Tử Hoa tử là người biết phân biệt khinh và trọng.
5
 Vua Lỗ nghe tiếng [ẩn sĩ] Nhan Hạp là người đạt Đạo, sai sứ giả mang tơ lụa lại làm lễ phẩm đón rước. Nhan Hạp đứng bên một cửa ngõ tồi tàn, bận áo vải thô, đương cho bò ăn. Sứ giả tới, Nhan Hạp đích thân tiếp. Sứ giả hỏi: - Đây phải là nhà Nhan Hạp không? Nhan Hạp đáp:  - Phải, đây là nhà của Hạp. Sứ giả dâng lễ phẩm. Nhan Hạp bảo: - Tôi ngờ rằng sứ giả nghe lầm, coi chừng bị tợi đấy. Về hỏi lại cho kĩ đi. Sứ giả về hỏi lại chắc chắn rồi trở lại thì Nham Hạp đã dọn đi đâu rồi. Nhan Hạp quả là người ghét phú quí. Cho nên bảo: “Cái tinh tuý của Đạo là để trị bản thân mình, cái dư thừa của Đạo để trị nước, cái cặn bã của Đạo để trị thiên hạ”. Do đó mà xét thì công nghiệp của đế vương là việc thừa của thánh nhân, không thể dùng nó để toàn thân, dưỡng sinh được. Hiện nay bọn quân tử[6] trong đời hầu hết là chạy theo vật chất mà làm nguy hại thân mình, huỷ bỏ sinh mệnh mình. Chẳng đáng buồn ư? Trước khi làm việc gì, bậc thánh nhân cũng xét làm cách nào và mục đích gì. Nay có người lấy hòn ngọc của Tuỳ Hầu[7] làm viên đạn để bắn con chim sẻ bay cao một ngàn nhẫn[8] thì tất bị thiên hạ chê cười vì dùng một vật quí để đạt một kết quả không đáng một chút gì. Mà sinh mệnh chẳng quí hơn hòn ngọc Tuỳ Hầu ư?
6
 Bài này y hệt bài VIII.6 trong cuốn Liệt tử, chúng tôi đã dịch rồi – bản Lá Bối trang 154. Đại ý: Liệt tử đói mà không nhận lúa vua cho.
7
 Sở Chiêu vương mất nước, một người bán thịt cừu tên là Thuyết chạy theo vua. Khi trở về nước, Chiêu vương thưởng những người chạy theo mình; tới phiên người bán thịt cừu, người này đáp[9]:  - Đại vương mất nước thì Thuyết tôi cũng mất quán thịt cừu. Đại vương trở về nước thì tôi cũng lấy lại quán thịt cừu. Vậy là tước lộc của tôi đã được phục hồi, có gì mà phải thưởng? Chiêu vương ra lệnh ép phải nhận, người đó thưa: - Trước đại vương mất nước không phải là tội của tôi, nên tôi không dám ở lại để bị tội chết; nay đại vương trở về, không phải là công của tôi, nên tôi không dám nhận thưởng. Chiêu vương ra lệnh cho người đó vô yết kiến. Người đó bảo: - Theo luật pháp nước Sở, phải có công lớn, được trọng thưởng mới được vua cho yết kiến. Tôi tài trí không đủ để giữ nước, dũng cảm không đủ để giết địch. Quân nước Ngô vô kinh đô [Dĩnh], Thuyết tôi sợ tai nạn nên chạy trốn, không phải cố ý đi theo vua. Nay đại vương định bỏ pháp luật, qui ước mà cho tôi vô yết kiến, tôi không muốn nhờ cách đó mà được người ta nhắc tới trong thiên hạ. Chiêu vương bèn bảo quan tư mã là Tử Cơ: - Người bán thịt cừu đó địa vị thấp mà tính tình thật cao thượng. Ông thay quả nhân mà đề cử người đó lên một trong các chức tam công[10]. Người bán thịt cừu hay lệnh đó, đáp: - Tôi biết rằng chức tam công quí hơn nghề bán thịt cừu, bổng lộc được vạn chung[11], nhiều hơn cái lợi bán thịt cừu, nhưng tôi đâu dám ham tước lộc mà để vua mang tiếng lạm phong chức tước! Thuyết tôi không dám nhận, chỉ mong được trở về bán thịt cừu thôi. Và người đó từ chối.
8
 Nguyên Hiến[12] ở nước Lỗ, trong một căn nhà chật hẹp, mái lợp bằng cỏ tươi, cánh cửa tạm bợ bằng cỏ bồng, then cửa bằng cành dâu, cửa sổ hay phòng làm bằng cái vò lủng đáy, che bằng vải thô. Nhà dột mà đất thì ẩm thấp. Nguyên Hiến ngồi ngay ngắn, gảy đờn và hát. Tử Cống ngồi xe, thắng ngựa lớn, mà tàn bằng lụa, trong màu tía, ngoài màu trắng, cao quá nên xe không vô ngõ được. Nguyên Hiến đội cái nón bằng vỏ cây, dép vẹt gót, chống một cây gậy bằng cành lê, đích thân ra cửa tiếp bạn [vì không có tiểu đồng]. Tử Cống bảo: - Ôi! Sao tiên sinh khốn khổ như vậy? Nguyên Hiến đáp liền: - Hiến tôi nghe nói không có tiền của thì là nghèo, học mà không hành được thì mới là khốn. Hiến tôi nghèo chứ không khốn khổ. Tử Cống đứng sửng lại, xấu hổ. Nguyên Hiến cười bảo: - Hành động để chiều lòng người, ai cũng kết thân được; học để cầu danh, dạy học để cầu lợi, giả nhân nghĩa mà làm điều gian ác, đi đâu thì xe ngựa lộng lẫy, cái đó, Hiến tôi không nhẫn tâm làm được.
9
 Tăng tử ở nước Vệ, bận áo bằng gai mà không có lót, mặt sưng phù lên, chân tay đều chai cả, ba ngày không nhóm bếp, mười năm không may áo. Hễ sửa lại cái mũ thì dây đứt, kéo tay áo ra thì lòi khuỷ tay, xỏ chân vào giày thì gót giày bung. Lết đôi giày rách đó mà hát những bài tụng[13] đời Thương, tiếng hát vang xa như tiếng nhạc cụ bằng đồng bằng đá hợp tấu. Thiên tử[14] không vời ông ta làm bề tôi được, các vua chư hầu không kết bạn với ông ta được. Người nào tu dưỡng tâm chí [như ông ấy] thì quên hình hài của mình, người nào bảo dưỡng hình hài thì quên lợi lộc, còn người đạt Đạo thì quên tâm trí đi.
10
 Khổng Tử bảo Nhan Hồi: - Hồi, lại đây! Nhà con nghèo, địa vị con thấp hèn, sao con không ra làm quan? Nhan Hồi đáp: - Con không muốn làm quan. Con có năm chục mẫu ruộng ngoài thành khỏi lo cơm cháo, hai mẫu vườn ở trong thành khỏi lo tơ, gai [tức quần áo], con gảy đàn cầm đủ để tiêu khiển, theo học đạo của thầy đủ để vui thích. Con không muốn làm quan. Khổng Tử tỏ vẻ mừng, bảo: - Ý đó hay. Thầy nghe nói: “Người biết tri túc thì không vì lợi lộc mà luỵ thân; người nào chỉ tìm sự vui vẻ của tâm hồn thì mất mát gì cũng không lo buồn; người nào biết tu dưỡng nội tâm thì không xấu hổ vì không có chức vị”. Thầy đã tụng những lời đó từ lâu, nay mới thấy con theo được. Đó là một sự thành công của thầy.
11
 Nguỵ công tử tên là Mâu được phong đất Trung Sơn bảo Chiêm tử [một người hiền nước Nguỵ]: - Thân tôi ở [nơi hẻo lánh] bờ sông góc biển này mà lòng tôi lưu luyến cảnh [lộng lẫy ở] cung điện nước Nguỵ. Làm sao bây giờ? Chiêm tử bảo: - Công tử nên trọng sự dưỡng sinh, trọng dưỡng sinh thì khinh lợi [tức vật chất]. Công tử Mâu bảo: - Tôi biết được vậy mà không tự chủ được. - Không tự chủ được thì cứ thuận theo lòng mình, như vậy tinh thần được yên, không oán ghét cái gì cả. Vì người nào không tự chủ được mà cứ miễn cưỡng ép mình thì tinh thần bị thương tổn đến hai lần, không thể sống lâu được[15]. Mâu là công tử nước Nguỵ có vạn cổ xe [tức một nước lớn], mà ở một nơi núi hang hẻo lánh, tất thấy khó chịu hơn một kẻ sĩ áo vải (tức hạng bình dân). Ông ấy chưa đạt được Đạo nhưng có thể bảo là tâm ý cũng đã đáng khen.
12
 Khi Khổng Tử bị vây ở khoảng giữa nước Trần và nước Thái, bảy ngày ăn toàn rau, không được một hột cơm, dung nhan tiều tuỵ mà vẫn gảy đàn ca hát trong phòng. Nhan Hồi hái rau ở ngoài, nghe Tử Lộ và Tử Cống nói với nhau: - Thầy chúng mình bị đuổi ra khỏi nước Lỗ, rồi phải trốn khỏi nước Vệ; tại nước Tống, người ta đốn cây dưới đó thầy đã ngồi; thầy bị cùng khốn ở nước Thương và nước Chu, bây giờ lại bị vây ở đây. Có lệnh ai giết thầy mình cũng vô tội, ai muốn sỉ nhục thầy mình cũng không bị cấm. Vậy mà thầy không dứt tiếng đàn, và tiếng ca hát. Một người quân tử mà vô liêm sĩ tới bực đó ư? Nhan Hồi không biết đáp hai người đó ra sao, vô kể lại cho thầy nghe. Khổng Tử gạt cây đàn cầm sang một bên, thở dài, bảo: - Do với Tử (tức Tử Lộ và Tử Cống) là bọn tiểu nhân thiển cận. Gọi chúng vô đây, ta giảng cho. Tử Lộ và Tử Cống vô. Tử Lộ bảo: - Tình cảnh lúc này có thể gọi là khốn cùng rồi. Khổng Tử bảo: - Nói gì vậy? Người quân tử mà hiểu đạo thì gọi là thông đạt, không hiểu đạo thì gọi là khốn cùng. Nay ta giữ vững đạo nhân nghĩa mà gặp tai nạn thời loạn, có gì đâu mà bảo là khốn cùng? Ta tự xét lòng ta, thấy không có gì là không hiểu Đạo, gặp tai nạn ta vẫn giữ được Đức của ta. Tới mùa đông, sương tuyết đổ xuống mới biết cây tùng cây bách là xanh tốt. Tai nạn ở giữa Trần và Thái này chẳng phải là cái may cho ta ư? Nói rồi, Khổng Tử cầm cây đàn cầm lên tiếp tục gảy và ca hát. Tử Lộ phấn khởi cầm cái mộc mà múa. Tử Cống bảo:  - Từ trước tới nay tôi không biết trời cao tới đâu, đất dày tới đâu. Cổ nhân mà đạt Đạo thì khốn cùng vũ trụ cũng vui, hiển đạt cũng vui. Khốn cùng và hiển đạt đều không ảnh hưởng gì tới cái vui cả. Còn giữ được Đạo và Đức thì cùng và thông chỉ như lạnh và nóng, mưa và gió nối tiếp nhau thôi. Cho nên Hứa Do vui ở phía Bắc sông Dinh mà Cung Bá tiêu dao ở núi Cung sơn[16].
13
 Vua Thuấn muốn nhường thiên hạ cho một người bạn là Vô Trạch ở phương Bắc. Vô Trạch đáp: - Nhà vua kì dị thật! Xuất thân ở đồng ruộng mà lại tới triều đình vua Nghiêu! Như vậy chưa đủ sao mà còn muốn dùng hành vi ô nhục đó làm dơ bẩn tôi nữa. Nói rồi, Vô Trạch gieo mình xuống vực Thanh Lãnh[17] tự tử.
14
 Vua Thang trước khi đem quân đánh vua Kiệt[18], hỏi kế Biện Tuỳ. Biện Tuỳ đáp: - Đó không phải là việc của tôi. Vua Thang hỏi: - Vậy tôi phải hỏi ai bây giờ? - Tôi không biết. Vua Thang lại hỏi kế Vụ Quang. Vụ Quang cũng đáp: - Đó không phải là việc của tôi. Vua Thang hỏi: - Vậy tôi phải hỏi ai bây giờ? - Tôi không biết. - Ông Y Doãn[19] là người ra sao? - Ông ấy mạnh mẻ và chịu được điều sỉ nhục, ngoài ra tôi không biết. Vua Thang bèn cùng Y Doãn lập kế đánh Kiệt, thắng, rồi nhường ngôi cho Biện Tuỳ. Biện Tuỳ từ chối: - Nhà vua hỏi ý tôi trước khi đánh vua Kiệt, tức cho tôi là kẻ cướp; thắng vua Kiệt rồi nhường ngôi cho tôi, tức cho tôi là tham (phú quí). Tôi sinh vào thời loạn mà một người vô đạo hai lần làm dơ bẩn tôi bằng những hành vi ô nhục. Thôi đừng nói nữa, tôi không nghe nữa đâu. Nói rồi Biện Tuỳ gieo mình xuống sông Chu[20] mà chết. Vua Thang lại nhường ngôi cho Vụ Quang, bảo: - Người có trí tuệ thì mưu tính việc thiên hạ, người có vũ lực thì bình định thiên hạ, người có lòng nhân thì lên ngôi trị thiên hạ, đó là Đạo thời xưa. Sao ông không lên ngôi? Phế vua, không phải là việc nghĩa; giết vua không phải là việc nhân; dân chúng mạo hiểm gian nan mà mình hưởng vinh hoa phú quí, như vậy không phải là liêm. Tôi nghe nói: Nhà vua bất nghĩa thì mình không nên nhận bổng lộc, nước mà vô đạo thì mình không nên ở. Làm sao tôi chịu để ông tôn sùng được. Thôi, tôi không muốn thấy cái cảnh đó nữa đâu.  Nói rồi, Vụ Quang cột một phiến đá lớn vào lưng, gieo mình xuống sông Lư[21] mà chết.
15
 Xưa kia, khi nhà Chu mới phát, nước Cô Trúc có hai kẻ sĩ: Bá Di và Thúc Tề[22]. Hai người đó bảo nhau: - Nghe nói ở phương Tây có một người hình như đạt Đạo, mình thử lại đó xem sao. Khi họ tới phía Nam núi Kì[23], vua Võ vương hay tin sai là Đán lại hội kiến, đề nghị với họ như sau: “Chúng tôi sẽ tặng hai ông bổng lộc hạng nhì [chỉ kém người trong họ vua], quan chức hạng nhất. [Nếu hai ông chịu thì] chúng ta sẽ chép lời thề, vấy máu bò lên lời thề rồi chôn xuống đất”. Bá Di và Thúc Tề nhìn nhau cười: - Ha! Lạ thay, cái mà chúng tôi gọi là Đạo đâu phải vậy. Xưa kia, khi vua Thần Nông làm chủ thiên hạ rồi, mỗi mùa đều tế lễ để tỏ lòng cung kính trời đất quỉ thần mà không cầu phúc. Ông trị dân thì hết lòng trung tín mà không đòi hỏi dân điều gì. Ai vui vẻ tham dự việc nước thì ông để cho tham dự, ai vui vẻ tự ý quản trị thì ông nhường cho quản trị. Ông không nhận người ta suy bại mà dựng sự nghiệp cho mình, không thấy người ta hèn kém mà đề cao mình, không lợi dụng thời cơ mà mưu tư lợi cho mình. Nay nhà Chu thấy nhà Ân loạn mà đoạt chính quyền của Ân, dùng mưu mô, đem tước lộc ra dụ thiên hạ[24], trông cậy vào binh lực để bảo vệ uy quyền, sát sinh để thề mà mong được tín nhiệm, khoe hành vi của mình để làm vui lòng dân chúng, tấn công các nước láng giềng để làm giàu, như vậy là dẹp loạn [của nước Ân] để thay vào bằng sự bạo ngược. Chúng mình nghe nói kẻ sĩ thời xưa gặp thời trị thì không trốn trách nhiệm, nhưng gặp thời loạn thì bỏ chức vụ đi, không cẩu thả ngồi lại. Ngày nay thiên hạ ở trong cảnh hôn ám, đức nhà Chu[25] đã suy, ở với Chu để cho hành vi của Chu làm dơ bẩn thân mình sao bằng rời bỏ Chu để bảo tồn sự thanh khiết của mình. Quyết định rồi, hai ông ấy lên phía Bắc, ở ẩn trong núi Thú Dương mà chịu chết đói.[26] Hạng người như Bá Di, Thúc Tề dù đem phú quí tặng họ, họ cũng nhất định không nhận[27]. Tiết tháo họ thanh cao, khác hẳn thế tục, chỉ vui với lí tưởng của mình mà không cạnh tranh với đời. Tiết tháo của Bá Di và Thúc Tề như vậy.
 Tô Đông Pha cho rằng chương này (cũng như các chương Đạo Chích, Thuyết kiếm, Ngư phủ) lời lẽ thiển lậu. Một phần lớn là những cố sự về các ẩn sĩ thời cổ, không thèm làm vua, không ham phú quí (như bài 1, 3, 5, 7, 13…); có cố sự chép đúng như bài Thái vương Đản Phụ y hệt bài 15 Lương Huệ vương hạ (Mạnh tử); có cố sự chép sai hoặc tác giả tự sửa đổi cho hợp với chủ trương của mình như bài 13 về Bá Di, Thúc Tề. Đại ý toàn chương là khuyên chúng ta tìm cái vui trong cuộc sống thanh khiết, hợp đạo. Nhưng xét về tư tưởng thì có chỗ mâu thuẫn. Ví dụ bài 1 bảo: “Trị thiên hạ là việc rất quan trọng mà còn không muốn hại cho sức khoẻ vì nó, huống hồ là việc khác”. Thế mà bài 13 lại đề cao những người như Vô Trạch, Biện Tuỳ, Vụ Quang tự cho là bị sỉ nhục vì vua muốn nhường ngôi cho, rồi gieo mình xuống sông, vực mà chết. Bút pháp cũng có bài rất dở; dở nhất là bài 12, Tử Lộ và Tử Cống chê Khổng Tử: “Thầy chúng mình bị đuổi ra khỏi nước Lỗ, rồi phải trốn khỏi nước Vệ; tại nước Tống, người ta đốn cây dưới đó thầy đã ngồi; thầy bị cùng khốn ở nước Thương và nước Chu, bây giờ lại bị vây ở đây. Có lệnh ai giết thầy mình cũng vô tội, ai muốn sỉ nhục thầy mình cũng không bị cấm. Vậy mà thầy không dứt tiếng đàn, và tiếng ca hát. Một người quân tử mà vô liêm sĩ tới bực đó ư?”. Bài đó cũng như bào 8, 9, 10, không phải là cố sự, chỉ có thể coi là ngụ ngôn, nhưng tác giả đã cho Tử Lộ và Tử Cống (hai môn đệ giỏi của Khổng Tử) là hạng ngu độn, không hiểu gì về thầy mà lại có giọng quá vô lễ với thầy. Vì tư tưởng có chỗ mâu thuẫn, bút pháp không đều, nên chúng tôi nghĩ rằng chương này do nhiều người viết. Không có gì cho ta quyết đoán được rằng những tác giả đó thuộc môn phái Lão hay môn phái Trang. Chúng ta chỉ có thể cho họ là Đạo gia vì có khuynh hướng ẩn dật. Một điểm nên để ý: Nhiều bài trong chương này cũng thấy chép trong các sách khác, như bài 2 chép trong Mạnh tử, vài 6 trong Liệt tử và ba bài 1, 11, 15 chép của Lữ thị Xuân Thu. Có một số học giả còn thấy một số cố sự chép trong Hoài Nam tửHàn Phi ngoại truyện. Vậy chương này xuất hiện vào đời Hán.  Chú thích:[1] Một ẩn sĩ, họ Tử, tên Châu. Chi Phụ là tên tự.[2] Nguyên văn: u ưu chi bệnh. U là tối tăm, ưu là lo lắng. H.C.H. dịch là: bệnh nặng.[3] Nếu đức mà hoàn toàn, nghĩa là đạt Đạo thì có thể “vô vi” mà trị nước, không khó nhọc gì cả.[4] Đản Phụ là tổ nhà Chu, cha Vương Quí, ông nội Văn vương. Đất Bân ở tỉnh Thiểm Tây ngày nay.[5] Trừ hai câu cuối, bài này gần y hệt bài 15 chương Lương Huệ Vương hạ trong bộ Mạnh tử. Kết như tác giả bài này đã lạc đề mà còn nông cạn.[6] Chữ quân tử ở đây trỏ bọn có chức tước chứ không nhất định là người đức hạnh.[7] Đây là thứ ngọc trai quí ở sông Bộc tỉnh Sơn Đông. Tương truyền một con rắn thần muốn đáp ơn vua nước Tuỳ, nhả ra tặng vua.[8] Mỗi nhẫn là tám thước đời Chu.[9] Đáp với một vị quan coi về việc thưởng công, chứ không phải đáp với vua.[10] Ba chức lớn nhất trong triều thời đó: thái sư, thái phó, thái bảo.[11] Mỗi chung là 64 đấu lúa.[12] Một môn sinh của Khổng Tử.[13] Kinh Thi gồm ba phần: phong là ca dao của dân gian các nước; nhả là những bài ca dùng trong những yến tiệc, tế lễ ở triều đình, miếu đường; và tụng là những bài ca khen các vua các đời Hạ, Thương, Chu.[14] Tức vua nhà Chu.[15] Lời khuyên này có thể tốt cho Nguỵ Mâu nhưng không thể áp dụng cho mọi trường hợp.[16] Cung Bá là một người hiền đời Chu, khi Chu Lệ vương chết, chư hầu tôn ông làm thiên tử, ông miễn cưỡng nhận tước vương thôi, ở ngôi được 14 năm rời nhân một lần đại hạn, lập Tuyên vương lên thay mình, trở về làm chư hầu. Có sách đọc là Công. Cung sơn ở Hà Bắc ngày nay.[17] Vực Thanh Lãnh ở Hả Nam ngày nay.[18] Kiệt là vua cuối cùng đời Hạ. Thang là vua sáng lập đời Thương. [19] Biện Tuỳ và Vụ Quang đều là ẩn sĩ. Y Doãn: coi chú thích bài 6 chương Canh Tang Sở.[20] Ở Hà Nam ngày nay. Có sách chép là sông Đồng. Hai chữ đó hơi giống nhau.[21] Có sách nói ở Liêu Đông, có sách bảo ở miền Bắc Kinh.[22] Cô Trúc là một nước chư hầu ở Liêu Tây ngày nay. Bá Di và Thúc Tề là hai người con của vua Cô Trúc. Coi chú thích Đại Tôn sư 1.[23] Núi Kì ở Thiểm Tây ngày nay, nơi đó có kinh đô nhà Chu.[24] Nguyên văn: thượng mưu nhi hạ hành hoá. Cũng có thể hiểu là người trên mưu mô thì người dưới hối lộ. Tôi sở dĩ dịch như trên là muốn cho hợp với việc Đán đem tước lộc dụ Bá Di và Thúc Tề. [25] Chu là nước thiên tử. Cô Trúc là nước chư hầu.[26] Truyện Bá Di Thúc Tề này, Sử kí của Tư Mã Thiên có chép, nhưng khác. Tư Mã Thiên đáng tin hơn.[27] Nguyên văn: kì ư phú quí dã, cẩu khả đắc dĩ, tác tất bất lại. Các sách đều dịch “lại” là nhờ, ý thật khó hiểu. Theo Chương Bính Lân, câu đó là một phương ngôn và chữ lại có nghĩa là lấy.
所欲得為君也。

《庄子》第28章 让王


尧以天下让许由,许由不受。又让于子州支父,子州之父曰:“以我为天子,犹之可也。虽然,我适有幽忧之病,方且治之,未暇治天下也。”夫天下至重也,而不以害其生,又况他物乎!唯无以天下为者可以托天下也。舜让天下于子州之伯,子州之伯曰:“予适有幽忧之病,方且治之,未暇治天下也。”故天下大器也,而不以易生。此有道者之所以异乎俗者也。舜以天下让善卷,善卷曰:“余立于宇宙之中,冬日衣皮毛,夏日衣葛絺。春耕种,形足以劳动;秋收敛,身足以休食。日出而作,日入而息,逍遥于天地之间,而心意自得。吾何以天下为哉!悲夫,子之不知余也。”遂不受。于是去而入深山,莫知其处。舜以天下让其友石户之农。石户之农曰:“捲捲乎,后之为人,葆力之士也。”以舜之德为未至也。于是夫负妻戴,携子以入于海,终身不反也。
大王亶父居豳,狄人攻之。事之以皮帛而不受,事之以犬马而不受,事之以珠玉而不受。狄人之所求者土地也。大王囗父曰:“与人之兄居而杀其弟,与人之父居而杀其子,吾不忍也。子皆勉居矣!为吾臣与为狄人臣奚以异。且吾闻之:不以所用养害所养。”因杖生䇲而去之。民相连而从之。遂成国于岐山之下。夫大王囗父可谓能尊生矣。能尊生者,虽贵富不以养伤身,虽贫贱不以利累形。今世之人居高官尊爵者,皆重失之。见利轻亡其身,岂不惑哉!
越人三世弑其君,王子搜患之,逃乎丹穴,而越国无君。求王子搜不得,从之丹穴。王子搜不肯出,越人熏之以艾。乘以王舆。王子搜援绥登车,仰天而呼曰:“君乎,君乎,独不可以舍我乎!”王子搜非恶为君也,恶为君之患也。若王子搜者,可谓不以国伤生矣!此固越人之所欲得为君也。
韩魏相与争侵地,子华子见昭僖侯,昭僖侯有忧色。子华子曰:“今使天下书铭于君之前,书之言曰:‘左手攫之则右手废,右手攫之则左手废。然而攫之者必有天下。’君能攫之乎?”昭僖侯曰:“寡人不攫也。”子华子曰:“甚善!自是观之,两臂重于天下也。身亦重于两臂。韩之轻于天下亦远矣!今之所争者,其轻于韩又远。君固愁身伤生以忧戚不得也。”僖侯曰:“善哉!教寡人者众矣,未尝得闻此言也。”子华子可谓知轻重矣!
鲁君闻颜阖得道之人也,使人以币先焉。颜阖守陋闾,苴布之衣,而自饭牛。鲁君之使者至,颜阖自对之。使者曰:“此颜阖之家与?”颜阖对曰:“此阖之家也。”使者致币。颜阖对曰:“恐听谬而遗使者罪,不若审之。”使者还,反审之,复来求之,则不得已!故若颜阖者,真恶富贵也。
故曰:道之真以治身,其绪余以为国家,其土苴以治天下。由此观之,帝王之功,圣人之余事也,非所以完身养生也。今世俗之君子,多危身弃生以殉物,岂不悲哉!凡圣人之动作也,必察其所以之与其所以为。今且有人于此,以随侯之珠,弹千仞之雀,世必笑之。是何也?则其所用者重而所要者轻也。夫生者岂特随侯之重哉!
子列子穷,容貌有饥色。客有言之于郑子阳者,曰:“列御寇,盖有道之士也,居君之国而穷,君无乃为不好士乎?”郑子阳即令官遗之粟。子列子见使者,再拜而辞。使者去,子列子入,其妻望之而拊心曰:“妾闻为有道者之妻子,皆得佚乐。今有饥色,君过而遗先生食,先生不受,岂不命邪?”子列子笑,谓之曰∶“君非自知我也,以人之言而遗我粟;至其罪我也,又且以人之言,此吾所以不受也。”其卒,民果作难而杀子阳。
楚昭王失国,屠羊说走而从于昭王。昭王反国,将赏从者。及屠羊说。屠羊说曰:“大王失国,说失屠羊。大王反国,说亦反屠羊。臣之爵禄已复矣,又何赏之有。”王曰:“强之。”屠羊说曰:“大王失国,非臣之罪,故不敢伏其诛;大王反国,非臣之功,故不敢当其赏。”王曰:“见之。”屠羊说曰:“楚国之法,必有重赏大功而后得见。今臣之知不足以存国,而勇不足以死寇。吴军入郢,说畏难而避寇,非故随大王也。今大王欲废法毁约而见说,此非臣之所以闻于天下也。”王谓司马子綦曰:“屠羊说居处卑贱而陈义甚高,子綦为我延之以三旌之位。”屠羊说曰:“夫三旌之位,吾知其贵于屠羊之肆也;万锺之禄,吾知其富于屠羊之利也。然岂可以贪爵禄而使吾君有妄施之名乎?说不敢当,愿复反吾屠羊之肆。”遂不受也。
原宪居鲁,环堵之室,茨以生草,蓬户不完,桑以为枢而瓮牖,二室,褐以为塞,上漏下湿,匡坐而弦歌。子贡乘大马,中绀而表素,轩车不容巷,往见原宪。原宪华冠𫄳履,杖藜而应门。子贡曰:“嘻!先生何病?”原宪应之曰:“宪闻之,无财谓之贫,学而不能行谓之病。今宪贫也,非病也。”子贡逡巡而有愧色。原宪笑曰:“夫希世而行,比周而友,学以为人,教以为己,仁义之慝,舆马之饰,宪不忍为也。”
曾子居卫,緼(yun4)袍无表,颜色肿哙,手足胼胝,三日不举火,十年不制衣。正冠而缨绝,捉襟而肘见,纳屦而踵决。曳纵而歌《商颂》,声满天地,若出金石。天子不得臣,诸侯不得友。故养志者忘形,养形者忘利,致道者忘心矣。
孔子谓颜回曰:“回,来!家贫居卑,胡不仕乎?”颜回对曰:“不愿仕。回有郭外之田五十亩,足以给𫗞粥;郭内之田十亩,足以为丝麻;鼓琴足以自娱;所学夫子之道者足以自乐也。回不愿仕。”孔子愀然变容,曰:“善哉,回之意!丘闻之:‘知足者,不以利自累也;审自得者,失之而不惧;行修于内者,无位而不怍。’丘诵之久矣,今于回而后见之,是丘之得也。”
中山公子牟谓瞻子曰:“身在江海之上,心居乎魏阙之下,奈何?”瞻子曰:“重生。重生则利轻。”中山公子牟曰:“虽知之,未能自胜也。”瞻子曰:“不能自胜则从,神无恶乎!不能自胜而强不从者,此之谓重伤。重伤之人,无寿类矣!”魏牟,万乘之公子也,其隐岩穴也,难为于布衣之士,虽未至乎道,可谓有其意矣!
孔子穷于陈蔡之间,七日不火食,藜羹不糁,颜色甚惫,而弦歌于室。颜回择菜,子路、子贡相与言曰:“夫子再逐于鲁,削迹于卫,伐树于宋,穷于商周,围于陈蔡。杀夫子者无罪,藉夫子者无禁。弦歌鼓琴,未尝绝音,君子之无耻也若此乎?”颜回无以应,入告孔子。孔子推琴,喟然而叹曰:“由与赐,细人也。召而来,吾语之。”子路、子贡入。子路曰:“如此者,可谓穷矣!”孔子曰:“是何言也!君子通于道之谓通,穷于道之谓穷。今丘抱仁义之道以遭乱世之患,其何穷之为?故内省而不穷于道,临难而不失其德。天寒既至,霜雪既降,吾是以知松柏之茂也。陈蔡之隘,于丘其幸乎。”孔子削然反琴而弦歌,子路扢(音xi4)然执干而舞。子贡曰:“吾不知天之高也,地之下也。”古之得道者,穷亦乐,通亦乐,所乐非穷通也。道德于此,则穷通为寒暑风雨之序矣。故许由娱于颖阳,而共伯得乎丘首。
舜以天下让其友北人无择,北人无择曰:“异哉,后之为人也,居于畎亩之中,而游尧之门。不若是而已,又欲以其辱行漫我。吾羞见之。”因自投清泠之渊。
汤将伐桀,因卞随而谋,卞随曰:“非吾事也。”汤曰:“孰可?”曰∶“吾不知也。”汤又因瞀光而谋,瞀光曰:“非吾事也。”汤曰∶“孰可?”曰:“吾不知也。”汤曰:“伊尹何如?”曰:“强力忍垢,吾不知其他也。”汤遂与伊尹谋伐桀,克之。以让卞随,卞随辞曰:“后之伐桀也谋乎我,必以我为贼也;胜桀而让我,必以我为贪也。吾生乎乱世,而无道之人再来漫我以其辱行,吾不忍数闻也!”乃自投椆水而死。汤又让瞀光,曰:“知者谋之,武者遂之,仁者居之,古之道也。吾子胡不立乎?”瞀光辞曰:“废上,非义也;杀民,非仁也;人犯其难,我享其利,非廉也。吾闻之曰:‘非其义者,不受其禄;无道之世,不践其土。’况尊我乎!吾不忍久见也。”乃负石而自沈于庐水。
昔周之兴,有士二人处于孤竹,曰伯夷、叔齐。二人相谓曰:“吾闻西方有人,似有道者,试往观焉。”至于岐阳,武王闻之,使叔旦往见之。与盟曰:“加富二等,就官一列。”血牲而埋之。二人相视而笑,曰:“嘻,异哉!此非吾所谓道也。昔者神农之有天下也,时祀尽敬而不祈喜;其于人也,忠信尽治而无求焉。乐与政为政,乐与治为治。不以人之坏自成也,不以人之卑自高也,不以遭时自利也。今周见殷之乱而遽为政,上谋而下行货,阻兵而保威,割牲而盟以为信,扬行以说众,杀伐以要利。是推乱以易暴也。吾闻古之士,遭治世不避其任,遇乱世不为苟存。今天下闇,周德衰,其并乎周以涂吾身也,不如避之,以洁吾行。”二子北至于首阳之山,遂饿而死焉。若伯夷、叔齐者,其于富贵也,苟可得已,则必不赖高节戾行,独乐其志,不事于世。此二士之节也。


[1] Chương XXIX ĐẠO CHÍCH

(Đạo Chích)  Khổng Tử là bạn của Liễu Hạ Quí. Liễu Hạ Quí có một người em tên là Đạo Chích. Đạo Chích[1] cầm đầu chín ngàn bộ hạ hoành hành trong thiên hạ, xâm đoạt các nước chư hầu, đào tường khoét vách, lùa ngựa bò, bắt cóc vợ và con gái người ta, tham lợi tới quên cả thân thích, không đoái hoài tới cha mẹ anh em, không cúng giỗ tổ tiên. Họ qua nơi nào, nếu là nước lớn thì cố giữ thành, nước nhỏ thì núp sau luỹ, dân tình khốn khổ. Khổng Tử bảo Liễu Hạ Quí: - Làm cha thì phải răn đe con, làm anh thì phải dạy bảo em. Nếu cha không răn đe được con, anh không dạy bảo được em thì sao gọi là cha, là anh, để người ta quí được nữa? Tiên sinh là bậc tài sĩ trên đời, em là Đạo Chích làm hại thiên hạ mà tiên sinh không biết dạy. Khâu tôi trộm lấy làm xấu hổ cho tiên sinh, xin thay tiên sinh lại thuyết phục nó. Liễu Hạ Quí đáp:  - Ông bảo làm cha phải răn đe con, làm anh thì phải dạy em. Nhưng nếu con em không chịu nghe lời cha, anh thì dù có tài biện thuyết như ông, phỏng làm gì được không? Mà thằng Chích lòng sôi nổi như suối nóng, ý chí như bão táp; nó mạnh đủ để đương đầu được với mọi kẻ thù, bẻm mép đủ để che giấu, tô điểm những tật của nó, hễ thuận ý nó thì nó ưa thích, trái ý nó thì nó giận, mắng chửi liền. Ông đừng nên đi. Khổng Tử không nghe, cứ đi. Nhan Hồi đánh xe [ngồi bên trái], Tử Cống ngồi bên phải [cho cân], thấy Đạo Chích đương nghỉ ngơi với bộ hạ ở phía Nam núi Thái Sơn. Họ bâm gan người làm món ăn bữa chiều. Khổng Tử xuống xe, tiến lại gần người canh gác, bảo: - Tôi là Khổng Khâu nước Lỗ, nghe tiếng tướng quân là người nghĩa khí cao, muốn xin yết kiến. Nói rồi ông vái hai vái. Người đó vô thông báo, Đạo Chích nghe xong, nổi giận tới nỗi [nẩy lửa] sáng như ngôi sao, tóc dựng ngược muốn hất cái mũ lên. Hắn bảo: - Tên Khổng Khâu đó, phải là kẻ xảo trá ở nước Lỗ đấy không? Ra bảo nó như vầy cho ta: “Mày là tên bày đặt ra lời này lẽ nọ rồi nói thác ra của vua Văn vua Võ, mày đội cái mũ trang sức loè loẹt[2], đeo dây lưng bằng da bò. Mày ba hoa nói bậy, không cày mà ăn, không dệt mà mặc![3] Mày khua môi múa mỏ, bày đặt ra điều thị phi để mê hoặc bọn vua chúa, khiến kẻ sĩ trong thiên hạ không trở về bản tính được; mượn cớ trọng hiếu đễ mà thực là là chỉ cầu được phong hầu mà hưởng phú quí. Tội mày nặng lắm. Cút ngay đi, nếu không tao bầm gan mày để ăn bữa trưa!”. Nhưng Khổng Tử vẫn xin vô thông báo lần nữa, bảo: - Tôi may mắn được quen ông Liễu Hạ Quí, xin được vô bái kiến dưới trướng. Người canh gác vô thông báo lần nữa. Đạo Chích bảo: - Cho nó vô. Khổng Tử vội vàng tiến vô, không dám ngồi vào chiếu, lùi lại, vái Chích hai vái. Chích nổi giận đùng dùng, duỗi hai chân, đặt tay lên chuôi kiếm, ngó Khổng Tử trừng trừng, giận dữ như con cọp cái đương cho con bú mà bị quấy phá. Hắn bảo: - Khâu, lại đây! Mày nói mà thuận ý tao thì được sống, nếu trái thì sẽ mất mạng đấy. Khổng Tử bảo: - Khâu tôi nghe nói trong thiên hạ có ba đức quí: thân thể cao lớn, dong mạo đẹp đẻ vô cùng, bất luận già trẻ, sang hèn trông thấy đều thích, đó là đức quí thứ nhất; trí tuệ bao quát trời đất, biện biệt được mọi vật, đó là đức quí thứ nhì; dũng hãn quả cảm, qui tụ được nhiều binh lính mà thống lĩnh họ, đó là đức thứ ba, thấp hơn cả. Ai mà có một trong ba đức đó thì đáng làm vua trong thiên hạ. Nay tướng quân có đủ cả ba: cao tám thước hai[4], diện mục đều sáng, môi đỏ như son, răng trắng như vỏ sò nước Tề[5], tiếng vang như chuông. Như vậy mà người ta gọi tướng quân là “tướng cướp tên Chích”, tôi trộm lấy làm xấu hổ cho tướng quân, lẽ nào lại chịu như vậy. Nếu tướng quân chịu nghe lời tôi thì tôi sẽ vì tướng quân đi sứ Ngô, Việt ở phương Nam, Tề, Lỗ ở phương Bắc, Tống, Vệ ở phương Đông, Tấn, Sở ở phương Tây. Tôi sẽ thuyết phục người ta xây một cái thành mấy trăm dặm, lập một ấp lớn mấy trăm ngàn nhà, tôn tướng quân làm vua chư hầu, mà mở một cuộc đời mới từ nay; bãi binh, cho lính về, tập hợp anh em, nuôi nấng họ và cúng giỗ tổ tiên. Đó là hành vi của bậc thánh nhân và kẻ sĩ có tài, thiên hạ chỉ mong được có vậy. Đạo Chích vẫn chưa nguôi giận, đáp: - Khâu, lại đây! Kẻ nào bị thuyết phục vì lợi, hoặc nghe lời khuyên mà sửa tính, người đó chỉ là hạng ngu xuẩn, tầm thường. Nay tao cao lớn, dong mạo đẹp đẽ, ai trông thấy cũng thích, đó là cái đức cha mẹ tao di truyền lại chẳng đợi mày khen, tao cũng biết. Mà tao nghe nói người nào thích khen trước mặt người khác thì sau lưng sẽ nói xấu người ta. Mày hứa cho ta một thành lớn với nhiều nhân dân, là muốn dùng lợi mà dụ dỗ tao, tao coi như hạng tầm thường. [Nếu được nữa đi thì] phỏng tao giữ được bao lâu? Thành dù lớn tới mấy cũng không bằng cả thiên hạ được. Nghiêu, Thuấn làm chủ thiên hạ đấy mà con cháu không có một miếng đất cắm dùi; Thang, Vũ làm thiên tử đấy mà đời sau tuyệt diệt; như vậy chẳng do nắm được cái lợi lớn đấy ư? Vả lại tao nghe rằng đời xưa cầm thú nhiều mà người ít, cho nên dân mới phải làm ổ để ở mà tránh chúng; ban ngày lượm hạt giẻ, trái “lật”, ban đêm ngủ ở trên cây, cho nên mới gọi là “thời ở trong ổ” [Sào thị chi dân]. Đời xưa, con người không có quần áo, mùa hè chất chứa cành cây để mùa đông đốt mà sưởi, cho nên gọi là “thời biết cách sống” [tri sinh chi dân]. Thời Thần Nông người ta ngủ ngon, sáng dậy thư thái. Người ta chỉ biết có mẹ mà không biết có cha, sống chung với hưu nai, cày ruộng mà ăn, dệt vải mà mặc, không có ý hại lẫn nhau. Đó là thời Đức tuyệt cao. Nhưng rồi Hoàng Đế kém đức, giao chiến với Si Vưu ở cánh đồng Trác Lộc, máu chảy tới trăm dặm; Thang đuổi vua đi, Võ vương giết Trụ. Từ đó về sau, kẻ mạnh ức hiếp kẻ yếu, đa số đàn áp thiểu số. Từ Thang, Võ tới nay, chỉ toàn là bọn gây loạn thôi. Mà bây giờ mày muốn theo đạo vua Văn, vua Võ, nắm ngôn luận trong thiên hạ để dạy đời sau. Mày bận áo rộng tay [áo của Nho sĩ], đeo cái đai hẹp kia, dùng xảo ngôn và hành vi giả dối để mê hoặc bọn vua chúa trong thiên hạ, mà mong được phú quí. Đạo tặc bậc nhất là mày đấy. Tại sao thiên hạ không gọi mày là thằng tướng cướp Khâu mà lại gọi tao là thằng tướng cướp Chích? Mày dùng lời ngọt ngào để dụ dỗ Tử Lộ theo mày; nó bỏ cái mũ cao, cây kiếm dài đi, theo học mày, và thiên hạ đều khen Khổng Khâu biết ngăn bạo hành, cấm điều trái. Nhưng rốt cuộc, Tử Lộ muốn giết vua nước Vệ mà thất bại, bị vua Vệ bằm thây làm mắm ở cửa Đông kinh thành; vậy là giáo dục của mày lầm lẫn rồi. Mầy tự hào là bậc thiên tài, thánh nhân ư? Mày bị đuổi hai lần ở Lỗ, bị trục xuất khỏi Vệ, bị khốn đốn ở Tề, bị vây ở khoảng giữa Trần và Thái, khắp thiên hạ không còn chỗ nào để dung thân. Mày dạy Tử Lộ mà khiến thây nó bị băm ra làm mắm. Như vậy là cái Đạo của mày không ích gì cho mầy và cho người, có đáng cho ai nghe không? Trên đời không ai được tôn sùng bằng Hoàng Đế, mà đức của Hoàng Đế cũng không hoàn toàn, gây chiến ở đồng Trác Lộc, máu chảy trăm dặm. Nghiêu làm cha thì bất từ, Thuấn làm con thì bất hiếu, Vũ bán thân bất toại[6]; Thang đuổi vua Kiệt đi, Võ vương giết vua Trụ. Văn vương bị giam ở Dữu Lí[7]. Sáu[8] ông đó được thiên hạ đề cao đấy. Nhưng xét cho kĩ, họ đều bị cái lợi mê hoặc mà mất bản chân, khiến họ làm ngược lại bản tính của họ; hành vi của họ thật đáng xấu hổ. Hạng người mà thiên hạ khen là hiền thì có Bá Di, Thúc Tề. Hai ông ấy từ chối ngôi vua nước Cô Trúc để rồi chết đó trên núi Thú Dương, thịt xương không ai chôn cho. Bảo Tiêu tô điểm đức hạnh mà chê bai người đời, sau phải ôm cây mà chết[9]. Thân Đồ Địch can vua, vua không nghe, rồi ôm đá gieo mình xuống sông, làm mồi cho cá và ba ba[10]. Giới Tử Thôi rất trung quân, tự cắt đùi để nuôi Tấn Văn công trong khi bỏ nước mà đi, sau Văn công quên công Tử Thôi, Tử Thôi giận, bỏ vô rừng, ôm cây mà chịu chết thiêu. Vĩ Sinh[11] hẹn với một người con gái ở dưới cầu, nàng không đến; nước sông dâng lên, Vĩ Sinh không về, ôm cột cầu mà chịu chết đuối. Sáu người đó chết không khác gì con chó bị giết, con heo bị nhận nước, tên hành khất cầm cái bầu đi xin ăn. Họ đều ham danh mà khinh chết, không nhớ tới cái điều căn bản là di dưỡng tuổi thọ.  Hạng người mà thiên hạ khen là trung thần, không ai bằng Tỉ Can và Ngũ Tử Tư[12], mà Tử Tư thì bị ném thây xuống sông, Tỉ Can bị moi tim. Hai ông ấy được gọi là trung thần ấy, rốt cuộc bị thiên hạ cười chê, như vật thì có gì đâu mà đáng khen. Khâu, mày muốn thuyết tao, đem chuyện quỉ thần ra nói thì tao không biết; chứ nói chuyện người thì bất quá chỉ như vậy, tao biết cả rồi. Tao nói về tình người cho mày nghe này: mắt ưa sắc đẹp, tai ưa tiếng êm đềm, miệng muốn nếm vị ngon, chí khí (tức hoài bảo) muốn được thoả mãn. Người ta thượng thọ thì trăm tuổi, trung thọ thì được tám mươi, hạ thọ được sáu mươi; mà trừ những lúc đau ốm suy yếu, những lúc có tang, buồn rầu lo lắng ra, thì mỗi tháng chỉ còn bốn năm ngày mở miệng ra cười được thôi. Trời với đất vô cùng, kiếp người hữu hạn, đem cái thời gian hữu hạn gởi vào trong cái khoảng vô cùng thì không khác gì bóng câu qua cửa[13]. Kẻ nào không biết thoả mản ý chí, giữ gìn thọ mệnh thì không hiểu gì về Đạo cả. Những lời nói của mày, Khâu, tao không chấp nhận được. Dông đi, về ngay đi, đừng nói thêm nữa! Cái Đạo của mày điên rồ vô nghĩa, xảo trá, hư nguỵ, không làm cho người ta bảo toàn được chân tính, không đáng đem ra bàn. Khổng Tử vái hai vái rồi vội vàng chạy ra cửa, lên xe ba lần mới nắm được dây cương vì hoảng hốt, mắt không thấy rõ, mặt tái như tro tàn, ngồi dựa vào cái đòn ở trước xe, đầu cuối xuống, thở không ra hơi. Về tới phía ngoài cửa Đông kinh đô Lỗ thì gặp Liễu Hạ Quí. Liểu Hạ Quí hỏi: - Mấy bữa rày không thấy mặt ông đâu. Mà sao xe và ngựa có vẻ như đi xa mới về. Bộ ông đi thăm thằng Chích về phỏng? Khổng Tử ngẩng mặt lên trời thở dài: - Phải. - Thế nó có nói gì trái ý ông như tôi đoán không? - Có. Khâu tôi như người vô bệnh mà để người ta châm cứu vậy. Tôi đã chạy lại xoa đầu, vuốt râu cọp, suýt nữa bị cọp nhai.
2
 Tử Trương hỏi Mãn Cẩu Đắc[14]: - Sao không sửa đức hạnh? Đức không tốt thì không ai tin, không được ai tin thì không được giao cho chức vụ, không có chức vụ thì không có bổng lộc. Vậy xét về thanh danh và lợi lộc thì nhân nghĩa vẫn là căn. Dù cho không cầu thanh danh lợi lộc, chỉ phản tỉnh thôi, cũng thấy rằng kẻ sĩ không thể một ngày nào là không sửa đức hạnh.  Mãn Cẩu Đắc đáp: - Vô liêm sỉ thì giàu có, [nói khéo] được nhiều người tin thì hiển vinh. Muốn được thanh danh và lợi lộc thì cơ hồ chỉ cần vô liêm sỉ và được nhiều người tin. Vậy xét về thanh danh và lợi lộc thì được nhiều người tin mới là cần. Còn như không cầu thanh danh lợi lộc, mà phản tỉnh thì kẻ sĩ chỉ ôm được cái bản tính trời cho thôi. Tử Trương bảo: - Xưa, Kiệt và Trụ, sang tới mức làm thiên tử, giàu tới mức có thiên hạ; nhưng ngày nay bảo những kẻ oa trữ: “Anh hành động như như Kiệt và Trụ” thì kẻ đó đỏ mặt lên, bất bình; vậy là ngay bọn tiểu nhân cũng khinh Kiệt và Trụ. Trọng Ni và Mặc Địch là hạng bình dân nghèo khổ, nhưng ngày nay bảo một tể tướng: “Hành vi của ông như của Trọng Ni và Mặc Địch” thì tất ông ta biến sắc, xấu hổ, rằng mình không xứng với lời khen đó; vậy là hai bậc hiền ấy quả được người đời quí trọng. Cho nên có quyền thế như thiên tử vị tất được người ta quí, nghèo khổ như dân thường vị tất đã bị người ta khinh. Sự kính trọng hay khinh bỉ là do hành vi tốt hay xấu. Mãn Cẩu Đắc bảo:  - Kẻ cướp nhỏ thì bị bắt, kẻ cướp lớn thì được làm vua chư hầu. Ở cửa dinh các vua chư hầu, toàn là bọn giảng về nhân nghĩa[15]. Xưa kia, Tề Hoàn công là Tiểu Bạch giết anh và thu nạp chị dâu, mà Quản Trọng chịu làm bề tôi; Điền Thành tử giết vua, chiếm nước Tề[16] mà Khổng Tử chịu nhận lễ vật của y. Vậy là bình luận thì chê người ta mà hành động thì chịu hạ mình trước người ta; chẳng phải là ngôn ngữ và hành vi giao chiến nhau ở trong lòng ư? Chẳng phải là mâu thuẫn ư? Cho nên có sách bảo: “Cái gì xấu? Cái gì đẹp? Thành công thì làm đầu, thất bại thì làm đuôi”. Tử Trương bảo: - Nếu ông không có đức hạnh tốt thì trong chỗ thân thích gần xa không có luân thường, quí và tiện không hợp nghĩa, già trẻ không có trên dưới, như vậy thì làm sao phân biệt được ngũ luân và lục vị?[17] Mãn Cẩu Đắc đáp:  - Vua Nghiêu giết con cả, vua Thuấn đày người em cùng cha khác mẹ[18], như vậy là trong chỗ thân thích có luân thường không? Vua Thang đuổi vua Kiệt đi, Võ vương giết vua Trụ như vậy là quí hay tiện [tức trên và dưới] có hợp nghĩa không? Chu công giết anh[19], như vậy là trên dưới có thứ tự không? Nho gia thì ngôn luận giả dối, Mặc gia thì kiêm ái. Như vậy có phân biệt ngũ luân và lục vị không? Ông đề cao thanh danh, tôi đề cao lợi lộc. Sự thực cả thanh danh lẫn lợi lộc đều không thuận với lí, không làm sáng cái Đạo. Tôi xin nó thẳng với ông này: “Tiểu nhân vì lợi lộc mà hi sinh, quân tử vì thanh danh mà hi sinh; mỗi bên đều vì một lí do riêng mà làm hư hỏng tình cảm cùng bản tính của mình, và đều là bỏ cái đáng làm và hi sinh cho cái không đáng làm. Cho nên bảo: “Đừng như tiểu nhân [mà trục lợi] thì thuận theo được bản tính; đừng như quân tử [mà ham danh] thì theo được thiên lí. Dù cong dù ngay, cũng nên giúp bản tính của mình thuận ứng tự nhiên, quan sát bốn phương, cùng với bốn mùa mà thay đổi. Dù phải dù trái cũng phải giữ cái đạo lí trong thâm tâm mình. Thực hiện được lí tưởng riêng của mình, như vậy mới gần Đạo được. Đừng nên cố chấp trong hành vi, đừng học đạo nhân nghĩa, mà hỏng việc mình làm. Đừng đeo đuổi phú quí, đừng mong gắp thành công, như vậy là bỏ mất Đạo tự nhiên.[20] Tỉ Can bị moi tim, Tử Tư bị khoét mắt[21], đó là cái hoạ trung quân; Trực Cung làm chứng cha ăn cắp cừu, Vĩ Sinh chết đuối, đó là cái vạ giữ chữ tín; Bảo tử ôm cây mà chết khô, Thăng tử[22] bị vu oan mà không tự bào chữa, đó là cái hại liêm khiết; Khổng Tử không thấy mẹ, Khuông tử không thấy cha[23], đó là cái hại của nhân nghĩa. Những truyện ấy truyền lại cho đời sau, cho ta thấy kẻ sĩ mà ngôn ngữ chính trực, hành vi quả quyết thì gặp tai ương, chịu hoạ hoạn như vậy.
3
 Vô Túc hỏi Tri Hoà[24]: - Mọi người đều ham danh cầu lợi, chạy theo kẻ giàu làm thuộc hạ cho họ và tôn quí họ. Được người ta tôn sùng thì được trường thọ, thân thể an nhàn, ý chí vui vẻ. Tại sao riêng anh lại không muốn làm như người ta, trí tuệ không đủ chăng, hay là biết đấy mà không đủ sức làm, nên cứ theo chính đạo, không dám rời? Tri Hoà đáp: - Thí dụ có một kẻ trọc phú, tự so với những người cùng sinh một thời, ở cùng một làng, và tự nhận nhận mình siêu quần bạt tục. Như vậy là không có chính đạo để xét cổ kim, phân biệt thị phi, thay đổi theo thói tục, bỏ mất cái rất quan trọng là sinh mệnh, cái cực tôn quí là đạo Đạo, mà muốn làm gì thì làm. Bà với kẻ đó về viễc giữ gìn sinh mệnh để được trường thọ, thân thể an nhàn, ý chí vui vẻ, chẳng là khó quá ư? Kẻ đó không quan tâm gì tới bệnh tật có hại cho thân thể, tới nỗi vui mừng hay lo sợ có hại cho tâm linh, hành động mà không biết để làm gì. Như vậy thì dù được làm thiên tử, có cả thiên hạ, cũng không tránh được hoạ. Vô Túc bảo: - Sự giàu có có lợi cho người ta đủ điều từ cái đẹp tới uy quyền trên đời, muốn gì được nấy; bậc chí nhân và thánh nhân không sao bì kịp. Người giàu có nhờ dũng lực của kẻ khác mà gây được uy thế, dùng mưu trí của kẻ khác mà hoá ra sáng suốt, nhờ đạo đức của kẻ khác mà được tiếng là hiền lương. Tuy không có đất đai mà tôn nghiêm không khác gì vua một nước. Vả lại thanh sắc, hương vị, quyền thế, lòng người không cần phải học, thân thể không cần phải tập cho quen mà tự nhiên ai cũng thích. Ai cũng biết yêu ghét, trốn tránh, đeo đuổi mà chẳng cần có thầy dạy, đó là bản tính con người. Thiên hạ tuy chê bai thái độ đó nhưng mấy ai tránh được. Tri Hoà đáp:  - Bậc trí giả hành động là vì nhu cầu [vì cái lợi] của mọi người, mà không trái pháp độ, cho nên biết tri túc mà không tranh giành, không có lí do thì không đòi hỏi, tranh giành với bốn phương mà không biết mình tham. Hễ cho là có dư rồi [tức người biết tri túc] thì từ bỏ ngoại vật, bỏ cả thiên hạ mà không tự cho mình là liêm. Cái thực chất của lòng tham lam và lòng liêm khiết không do ảnh hưởng của ngoại vật mà do tự xét lòng mình. Có quyền thế của thiên tử mà không ỷ sự tôn quí đó để khinh người; giàu có làm chủ cả thiên hạ mà không dùng tiền của để giễu cợt người. Tính trước tai hoạ, suy nghĩ về sự phản phúc (thịnh rồi suy). Từ chối uy quyền lợi lộc vì biết nó có hại cho bản tính, chứ không phải vì muốn được thiên hạ khen. Vua Nghiêu và vua Thuấn nhường thiên hạ [cho Thiện Quyển và Hứa Do], không phải vì yêu thiên hạ [muốn cho người có tài trị thiên hạ], mà vì không muốn để cho cái hoa mĩ làm hại sinh mệnh của mình. Thiện Quyển và Hứa Do không nhận ngôi báo, không phải là làm bộ từ chối, mà vì không muốn bận việc nước mà hại cho mình. Bốn ông đó đều biết tìm cái lợi, từ bỏ cái hại cho mình, mà thiên hạ khen là hiền. Họ hiền thật đấy nhưng không phải để cầu danh. Vô Túc bảo:  - Muốn giữ cái danh thì phải chịu khổ về thân thể, từ bỏ những cái thú[25], sống đạm bạc để duy trì sự sống, như vậy có khác gì đau khổ dai dẳng mà không chết cho? Tri Hoà đáp:  - Quân bình là phúc, hữu dư là hoạ, vật nào cũng vậy, mà hoạ lớn nhất là tiền của hữu dư. Bọn phú gia tai ồn tiếng chuông, tiếng trống, tiếng sáo; miệng ngấy những vị thịt và rượu, những cái đó ảnh hưởng xấu tới ý chí, hoá ra bỏ bê công việc. Thực là loạn! Ăn tới nghẹn họng[26], ì à ì ạch như kẻ đội nặng mà leo núi. Đời gì mà khốn khổ! Tham tiền của mà bị nhục[27], tham quyền thì kiệt lực, ở không thì chìm đắm (trong sự nhàn cư), quen sung sướng đầy đủ thì hoá ra nô lệ [sự an lạc]; những cái đó đều là bệnh tật cả. Muốn giàu có mà trục lợi thì mất tự do, như bị giam trong bốn bức tường mà không thoát ra được; tham quá, bao nhiêu cũng vơ, thật là nhục! Chứa chất của cài mà không dùng đến, cứ ôm vào ngực, không chịu bỏ ra, thì lòng đầy phiền não, muốn kiếm thêm hoài, không chịu ngừng, thật là rầu rĩ lo lắng. Kẻ giàu có thì ở trong nhà phải phòng thủ nghiêm mật, cất nhiều lầu canh, nhiều hành lang, ra ngoài không dám đi một mình, sống chỉ những lo và sợ. Sáu cái đó [loạn, khổ, nhục, bệnh tật, rầu rĩ, lo sợ] đều là những hoạ lớn trong thiên hạ, bọn phú gia quên đi mà không để ý tới, đến khi tai hoạ xảy ra rồi mới dùng hết tâm tư, tiền của chỉ cầu được một ngày yên ổn mà không được cho! Vậy đã chẳng được thanh danh, cũng chẳng được lợi lộc. Đem tất cả tinh thần, sinh lực ra để tranh giành mà rốt cuộc như vậy, chẳng là mê hoặc ư?
 Chương này bút pháp rất tầm thường, không đáng cho vô một cuốn mà đời sau tôn xưng là một cuốn kinh: Nam Hoa Kinh; nhưng chúng tôi cũng dịch cho được trọn bộ và để độc giả thấy tính cách hổn tạp của phần Tạp thiên. Cả ba bài đều là những đối thoại tưởng tượng giữa những nhân vật có thật (nhưng không sống cùng một thời với nhau) hoặc tượng trưng, đều dẫn những cố sự quen thuộc về Nghiêu, Thuấn, Tử Tư, Tỉ Can, Hứa Do, Kiệt, Trụ… Tầm thường nhất là bài 1: tác giả mạt sát Khổng Tử và chê tất cả các thánh hiền của Nho gia bằng một giọng ngây thơ, để khuyên người ta tha hồ hưởng lạc “vì trời đất vô cùng, đem thời gian hữu hạn gởi vào trong cái khoảng vô cùng thì không khác gì bóng câu qua cửa”. Bài 2 cũng chê đạo Khổng, cho thánh nhân của nhà Nho là ham danh mà ham danh cũng không hơn gì ham lợi. Trong bài này dùng chữ “tể tướng” mà theo La Căn Trạch, danh từ đó chỉ xuất hiện vào cuối thời Chiến Quốc. Bài 3 tương đối khá hơn, khuyên ta tri túc, nhất là đừng ham giàu sang, nhưng lí luận cũng không có gì đặc sắc. La Căn Trạch cho chương này do Đạo gia ở cuối đời Chiến Quốc viết. Thuyết đó có thể tin được.Chú thích:[1] Liễu Hạ Quí tức Liễu Hạ Huệ, họ Triển, tên Cầm, nhà ở dưới gốc cây liễu, nên gọi là Liễu Hạ, nổi tiếng là trong sạch. Đạo Chích là tên cướp tên Chích, theo Tư Mã Thiên, sống đời Hoàng Đế. Bài này chỉ là ngụ ngôn vì Liểu Hạ Huệ, Đạo Chích và Khổng Tử sống ba thời khác nhau. [2] Nguyên văn: quán chi mộc chi quan: đội cái mũ tua tủa như nhánh cây.[3] Ý nói: đồ ăn hại.[4] Mỗi thước hồi đó khoảng một gang tay.[5] Nước Tề ở bờ biển.[6] Vua Nghiêu giết con trưởng, có sách nói là không truyền ngôi cho con – Vua Thuấn cưới vợ mà không xin phép cha mẹ - Vua Vũ lo việc trị thuỷ (trừ cảnh lụt cho dân), dầm mưa dãi nắng mà sinh bệnh.[7] Văn vương khi còn là Tây Bá bị vua Trụ giam bảy năm.[8] Có sách bảo sỡ dĩ có sáu ông là vì Văn vương được người sau thêm vào, có sách sửa lại là “bảy”.[9] Bảo Tiêu là một ẩn sĩ đời Chu, không vợ con, vô rừng ở, lượm trái cây mà ăn. Tử Cống nói khích: “Ông chê Chu mà ở trên đất của Chu, ăn trái cây của Chu. Như vậy có phải không?”. Bảo Tiêu bèn ôm cây mà chết khô.[10] Truyện Thân Đồ Địch đã chép trong chương VI và XXVI. [11] Giới Tử Thôi, cũng gọi là Giới Chi Thôi, trốn theo thái tử Trùng Nhĩ, sau thành Tấn Văn Công. Tấn Văn công thưởng các người tòng vong mà quên ông, ông cõng mẹ vào núi ở. Văn Ông hối hận mời Thôi ra, Thôi không ra; Văn Công đốt núi để ông phải ra, nhưng ông ở lì trong núi mà chụi chết thiêu. Hôm đó là ngàu mồng 3 tháng 3. Từ đó, vua ra lệnh này ấy cấm lửa, phải ăn nguội, để kỉ niện Thôi. Tết đó là Tết Hàn thực – Vĩ Sinh là người nước Lỗ thời Chiến Quốc.[12] Tỉ Can – chương Nhân gian thế bài 1. Ngũ Tử Tư tên là Viên, giúp Ngô vương Phù Sai thắng Việt vương Câu Tiển, sau vì can gián Phù Sai, Phù Sai ghét, bắt tự tử rồi ném thây xuống sông.[13] Nguyên văn: kì kí chi quá khích dã, là con ngựa kì ngựa kí (loài ngựa chạy rất nhanh) vụt qua kẻ tường (hoặc một chỗ nứt ở đất, theo L.K.h.)[14] Tử Trương là một môn sinh của Khổng Tử. Mãn Cẩu Đắc là một tên tưởng tượng có nghĩa là: thoả mãn về sự cẩu thả mà được danh lợi. Tên đó tượng trưng cho hạng người tham lam.[15] Nguyên văn: chư hầu chi môn, nhân nghĩa tồn yên. H.C.H. dịch là: “trong nhà các vua chư hầu, việc làm nào cũng hợp nhân nghĩa”. Tôi ngờ là không hợp với nghĩa của cả đoạn.[16] Coi bài 2 chương Khư khiếp.[17] Ngũ luân ở đây là ông, cha, mình, con, cháu mình. Lục vị, cũng gọi là lục kỉ, là vua tôi, cha con, vợ chồng. Nhưng cũng có thuyết bảo ngũ luân là nhân nghĩa lễ trí tín; lục vị là cha mẹ, anh em, vợ chồng.[18] Tên là Tượng, có sách nói là bị đày đi xa, có sách nói là được phong đất.[19] Vương Quí là con thứ của Thái vương nhà Chu, cha của Văn vương. Chu công là con của Văn vương giết Quản và Thái vì hai người này muốn là phản.[20] Đoạn này tối nghĩa, mỗi nhà giảng một khác.[21] Tử Tư can gián vua Ngô là Phù Sai, bị Phù Sai giết, bảo: “Ta chết rồi thì treo đầu lâu ta ở cữa Đông nước Ngô, để ta được thấy quân Việt diệt nước Ngô. Phù Sai nỗi giạn, sai khoét mắt Tử Tư. Coi thêm chú thích bài 1 chương Đạo Chích. [22] V.P.C. đọc là Thăng – Một thái tử của vua Tần bị sủng phi của cha vu oan mà không tự bào chữa, tự tử và chết. [Có lẽ cụ NHL muốn nói là: chữ 申 thay vì đọc Thân (申子 Thân tử), cụ theo V.P.C. đọc là Thăng (Thăng tử) – Goldfish].[23] Khổng Tử lo chu du các nước để cứu vớt thiên hạ mà khi mẹ chết không được thấy mẹ.  Có sách bảo có lẽ là Trần Trọng tử vì liêm khiết, mà xa mẹ xa anh, ở ẩn một nơi. Khuông tử, người nước Tề, can cha, cha không nghe, bị cha ghét, bèn di du học, cha chết không về được.[24] Đây là những tên tưởng tượng. Vô Túc (không biết thế nào là đủ) tượng trưng cho sự tham lam. Tri Hoà (biết lẽ trung hoà) tượng trưng sự thủ phận, thanh liêm. [25] Nguyên văn là cam: những cái ngon ngọt.[26] Đoạn cuối này nhiều chỗ cũng mỗi sách giảng một khác. Như chỗ này, nguyên văn: cai nịch ư bằng khí, có sách dịch là chìm đắm mà thịnh khí.[27] Nguyên văn là uỷ. Có sách giải là bệnh, có sách giải là oán. Chương XXI

《庄子》第29章 盗跖


孔子与柳下季为友,柳下季之弟名曰盗跖。盗跖从卒九千人,横行天下,侵暴诸侯。穴室枢户,驱人牛马,取人妇女。贪得忘亲,不顾父母兄弟,不祭先祖。所过之邑,大国守城,小国入保,万民苦之。孔子谓柳下季曰:“夫为人父者,必能诏其子;为人兄者,必能教其弟。若父不能诏其子,兄不能教其弟,则无贵父子兄弟之亲矣。今先生,世之才士也,弟为盗跖,为天下害,而弗能教也,丘窃为先生羞之。丘请为先生往说之。”柳下季曰:“先生言为人父者必能诏其子,为人兄者必能教其弟,若子不听父之诏,弟不受兄之教,虽今先生之辩,将奈之何哉?且跖之为人也,心如涌泉,意如飘风,强足以距敌,辩足以饰非。顺其心则喜,逆其心则怒,易辱人以言。先生必无往。”孔子不听,颜回为驭,子贡为右,往见盗跖。
盗跖乃方休卒徒大山之阳,脍人肝而包𫗦(音bu3)之。孔子下车而前,见谒者曰:“鲁人孔丘,闻将军高义,敬再拜谒者。”谒者入通。盗跖闻之大怒,目如明星,发上指冠,曰:“此夫鲁国之巧伪人孔丘非邪?为我告之:尔作言造语,妄称文、武,冠枝木之冠,带死牛之胁,多辞缪说,不耕而食,不织而衣,摇唇鼓舌,擅生是非,以迷天下之主,使天下学士不反其本,妄作孝弟,而侥幸于封侯富贵者也。子之罪大极重,疾走归!不然,我将以子肝益昼𫗦之膳。”
孔子复通曰:“丘得幸于季,愿望履幕下。”谒者复通。盗跖曰:使来前!”孔子趋而进,避席反走,再拜盗跖。盗跖大怒,两展其足,案剑瞋目,声如乳虎,曰:“丘来前!若所言顺吾意则生,逆吾心则死。”
孔子曰:“丘闻之,凡天下有三德:生而长大,美好无双,少长贵贱见而皆说之,此上德也;知维天地,能辩诸物,此中德也;勇悍果敢,聚众率兵,此下德也。凡人有此一德者,足以南面称孤矣。今将军兼此三者,身长八尺二寸,面目有光,唇如激丹,齿如齐贝,音中黄钟,而名曰盗跖,丘窃为将军耻不取焉。将军有意听臣,臣请南使吴越,北使齐鲁,东使宋卫,西使晋楚,使为将军造大城数百里,立数十万户之邑,尊将军为诸侯,与天下更始,罢兵休卒,收养昆弟,共祭先祖。此圣人才士之行,而天下之愿也。”
盗跖大怒曰:“丘来前!夫可规以利而可谏以言者,皆愚陋恒民之谓耳。今长大美好,人见而悦之者,此吾父母之遗德也,丘虽不吾誉,吾独不自知邪?且吾闻之,好面誉人者,亦好背而毁之。今丘告我以大城众民,是欲规我以利而恒民畜我也,安可久长也!城之大者,莫大乎天下矣。尧、舜有天下,子孙无置锥之地;汤、武立为天子,而后世绝灭。非以其利大故邪?且吾闻之,古者禽兽多而人少,于是民皆巢居以避之。昼拾橡栗,暮栖木上,故命之曰‘有巢氏之民’。古者民不知衣服,夏多积薪,冬则炀之,故命之曰‘知生之民’。神农之世,卧则居居,起则于于。民知其母,不知其父,与麋鹿共处,耕而食,织而衣,无有相害之心。此至德之隆也。然而黄帝不能致德,与蚩由战于涿鹿之野,流血百里。尧、舜作,立群臣,汤放其主,武王杀纣。自是之后,以强陵弱,以众暴寡。汤、武以来,皆乱人之徒也。今子修文、武之道,掌天下之辩,以教后世。缝衣浅带,矫言伪行,以迷惑天下之主,而欲求富贵焉。盗莫大于子,天下何故不谓子为盗丘,而乃谓我为盗跖?子以甘辞说子路而使从之。使子路去其危冠,解其长剑,而受教于子。天下皆曰∶‘孔丘能止暴禁非。’,其卒之也,子路欲杀卫君而事不成,身菹于卫东门之上,是子教之不至也。子自谓才士圣人邪,则再逐于鲁,削迹于卫,穷于齐,围于陈蔡,不容身于天下。子教子路菹。此患,上无以为身,下无以为人。子之道岂足贵邪?世之所高,莫若黄帝。黄帝尚不能全德,而战于涿鹿之野,流血百里。尧不慈,舜不孝,禹偏枯,汤放其主,武王伐纣,文王拘羑(音you3)里。此六子者,世之所高也。孰论之,皆以利惑其真而强反其情性,其行乃甚可羞也。世之所谓贤士:伯夷、叔齐。伯夷、叔齐辞孤竹之君,而饿死于首阳之山,骨肉不葬。鲍焦饰行非世,抱木而死。申徒狄谏而不听,负石自投于河,为鱼鳖所食。介子推至忠也,自割其股以食文公。文公后背之,子推怒而去,抱木而燔死。尾生与女子期于梁下,女子不来,水至不去,抱梁柱而死。此六子者,无异于磔犬流豕、操瓢而乞者,皆离名轻死,不念本养寿命者也。世之所谓忠臣者,莫若王子比干、伍子胥。子胥沉江,比干剖心。此二子者,世谓忠臣也,然卒为天下笑。自上观之,至于子胥、比干,皆不足贵也。丘之所以说我者,若告我以鬼事,则我不能知也;若告我以人事者,不过此矣,皆吾所闻知也。今吾告子以人之情:目欲视色,耳欲听声,口欲察味,志气欲盈。人上寿百岁,中寿八十,下寿六十,除病瘦死丧忧患,其中开口而笑者,一月之中不过四五日而已矣。天与地无穷,人死者有时。操有时之具,而托于无穷之间,忽然无异骐骥之驰过隙也。不能说其志意、养其寿命者,皆非通道者也。丘之所言,皆吾之所弃也。亟去走归,无复言之!子之道狂狂汲汲,诈巧虚伪事也,非可以全真也,奚足论哉!”
孔子再拜趋走,出门上车,执辔三失,目芒然无见,色若死灰,据轼低头,不能出气。
归到鲁东门外,适遇柳下季。柳下季曰:“今者阙然,数日不见,车马有行色,得微往见跖邪?”孔子仰天而叹曰:“然!”柳下季曰:“跖得无逆汝意若前乎?”孔子曰:“然。丘所谓无病而自灸也。疾走料虎头,编虎须,几不免虎口哉!”
子张问于满苟得曰:“盍不为行?无行则不信,不信则不任,不任则不利。故观之名,计之利,而义真是也。若弃名利,反之于心,则夫士之为行,不可一日不为乎!”满苟得曰:“无耻者富,多信者显。夫名利之大者,几在无耻而信。故观之名,计之利,而信真是也。若弃名利,反之于心,则夫士之为行,抱其天乎!”子张曰:“昔者桀、纣贵为天子,富有天下。今谓臧聚曰:‘汝行如桀、纣。’则有怍色,有不服之心者,小人所贱也。仲尼、墨翟,穷为匹夫,今谓宰相曰‘子行如仲尼、墨翟。’则变容易色,称不足者,士诚贵也。故势为天子,未必贵也;穷为匹夫,未必贱也。贵贱之分,在行之美恶。”满苟得曰:“小盗者拘,大盗者为诸侯。诸侯之门,义士存焉。昔者桓公小白杀兄入嫂,而管仲为臣;田成子常杀君窃国,而孔子受币。论则贱之,行则下之,则是言行之情悖战于胸中也,不亦拂乎!故《书》曰:‘孰恶孰美,成者为首,不成者为尾。’”子张曰:“子不为行,即将疏戚无伦,贵贱无义,长幼无序。五纪六位,将何以为别乎?”满苟得曰:“尧杀长子,舜流母弟,疏戚有伦乎?汤放桀,武王杀纣,贵贱有义乎?王季为适,周公杀兄,长幼有序乎?儒者伪辞,墨子兼爱,五纪六位,将有别乎?且子正为名,我正为利。名利之实,不顺于理,不监于道。吾日与子讼于无约,曰‘小人殉财,君子殉名,其所以变其情、易其性则异矣;乃至于弃其所为而殉其所不为则一也。’故曰:无为小人,反殉而天;无为君子,从天之理。若枉若直,相而天极。面观四方,与时消息。若是若非,执而圆机。独成而意,与道徘徊。无转而行,无成而义,将失而所为。无赴而富,无殉而成,将弃而天。比干剖心,子胥抉眼,忠之祸也;直躬证父,尾生溺死,信之患也;鲍子立干,申子不自理,廉之害也;孔子不见母,匡子不见父,义之失也。此上世之所传、下世之所语以为士者,正其言,必其行,故服其殃、离其患也。”
无足问于知和曰:“人卒未有不兴名就利者。彼富则人归之,归则下之,下则贵之。夫见下贵者,所以长生安体乐意之道也。今子独无意焉,知不足邪?意知而力不能行邪?故推正不妄邪?”知和曰:“今夫此人,以为与己同时而生,同乡而处者,以为夫绝俗过世之士焉,是专无主正,所以览古今之时、是非之分也。与俗化世,去至重,弃至尊,以为其所为也。此其所以论长生安体乐意之道,不亦远乎!惨怛之疾,恬愉之安,不监于体;怵惕之恐,欣欣之喜,不监于心。知为为而不知所以为。是以贵为天子,富有天下,而不免于患也。”无足曰:“夫富之于人,无所不利。穷美究势,至人之所不得逮,贤人之所不能及。侠人之勇力而以为威强,秉人之知谋以为明察,因人之德以为贤良,非享国而严若君父。且夫声色滋味权势之于人,心不待学而乐之,体不待象而安之。夫欲恶避就,固不待师,此人之性也。天下虽非我,孰能辞之!”知和曰:“知者之为,故动以百姓,不违其度,是以足而不争,无以为故不求。不足故求之,争四处而不自以为贪;有余故辞之,弃天下而不自以为廉。廉贪之实,非以迫外也,反监之度。势为天子,而不以贵骄人;富有天下,而不以财戏人。计其患,虑其反,以为害于性,故辞而不受也,非以要名誉也。尧、舜为帝而雍,非仁天下也,不以美害生;善卷、许由得帝而不受,非虚辞让也,不以事害己。此皆就其利、辞其害,而天下称贤焉,则可以有之,彼非以兴名誉也。”无足曰:“必持其名,苦体绝甘,约养以持生,则亦久病长厄而不死者也。”知和曰:“平为福,有余为害者,物莫不然,而财其甚者也。今富人,耳营钟鼓管籥(音yue4)之声,口惬于刍豢醪醴之味,以感其意,遗忘其业,可谓乱矣;侅(音gai1)溺于冯气,若负重行而上阪,可谓苦矣;贪财而取慰,贪权而取竭,静居则溺,体泽则冯,可谓疾矣;为欲富就利,故满若堵耳而不知避,且冯而不舍,可谓辱矣;财积而无用,服膺而不舍,满心戚醮,求益而不止,可谓忧矣;内则疑劫请之贼,外则畏寇盗之害,内周楼疏,外不敢独行,可谓畏矣。此六者,天下之至害也,皆遗忘而不知察。及其患至,求尽性竭财单以反一日之无故而不可得也。故观之名则不见,求之利则不得。缭意绝体而争此,不亦惑乎!”

No comments: