Sunday, January 22, 2017

NAM HOA KINH IV - ĐỨC SUNG PHÙ

Chương V
ĐỨC SUNG MÃN VÀ TỰ NHIÊN
(Đức sung phù)

1

Tại nước Lỗ có người cụt chân tên là Vương Đài. Số đệ tử theo học cũng ngang với Trọng Ni.

Thường Quí hỏi Trọng Ni:

- Vương Đài cụt mất một chân, vậy mà ở nước Lỗ bọn đệ tử đông như môn đệ của ông. Khi đứng, hắn không giảng dạy gì cả, khi ngồi hắn cũng không nghị luận gì cả, mà đệ tử khi tới học không biết gì cả, khi thôi học thì trí, đức sung mãn. Vậy là có một cách dạy mà không nói, mặc nhiên mà cảm hoá được chăng? Con người đó ra sao?

Trọng Ni đáp:

- Ông ấy là thánh nhân. Khâu tôi chưa kịp lại thăm. Tôi muốn nhận ông ấy làm thầy, huống hồ là những người còn kém tôi. Mà nào phải riêng nước Lỗ mà thôi, tôi còn muốn dắt cả thiên hạ lại học ông ấy nữa kia.

- Con người cụt chân ấy mà hơn ông thì chắc hơn các người thường nhiều lắm. Đời sống nội tâm của ông ấy ra sao?[1]

Trọng Ni đáp:

- Sống, chết là việc lớn, mà ông ấy coi thường; trời đất có sập, ông ấy cũng không bị huỷ diệt; ông ấy xét kĩ cái chân thực[2], không bị cái giả làm mê hoặc; ông ấy biết rằng vạn vật đều biến hoá, nên giữ cái căn bản chân chính[3].

- Như vậy là nghĩa làm sao?

- Xét chỗ dị biệt[4] của vạn vật thì lá gan và trái mật khác nhau cũng như nước Sở và nước Việt; xét chỗ giống nhau thì vạn vật chỉ là một. Biết được cái lẽ ấy thì không để ý đến sự nhận thức của tai mắt nữa, mà tâm linh ngao du ở chỗ hài hoà của vũ trụ. Đã thấy vạn vật là một thì không thấy có cái gì mất nữa. Cho nên Vương Đài cho mình mất một chân cũng như mất một cục đất vậy thôi.

Thường Quí hỏi:

- Ông ấy sở dĩ tự tu dưỡng được là nhờ trí năng mà biết được cái tâm của ổng, rồi do cái tâm đó mà hiểu được cái tâm bất biến của mọi thời, như vậy thì có gì mà thiên hạ qui phụ ông ấy?

- Người ta không soi bóng vào một dòng nước chảy mà vào một dòng nước đứng. Vậy thì chỉ cái gì ngưng lặng mới làm cho người khác ngưng lặng được. Những vật thụ mệnh ở đất [do đất sinh ra], chỉ có loài tùng, loài bách là giữ được chính khí, nên mùa đông cũng xanh như mùa hè. Những người thụ mệnh ở trời, duy chỉ có Nghiêu, Thuấn là giữ được chính khí, nên đứng đầu vạn vật: hai ông ấy sửa mình cho ngay được, nên sửa được những người khác cho ngay. Thấy người nào không sợ là biết người đó bảo toàn được chính khí; như một võ sĩ một mình dám đột nhập vào chỗ thiên quân vạn mã. Võ sĩ đó muốn cầu danh, lập công mà còn như vậy, huống hồ một người muốn làm chủ vũ trụ, bao gồm vạn vật, coi thân thể mình như chỗ cư ngụ tạm, coi thanh sắc là ảo tưởng, dùng trí lực mà thấy được mọi hiện tượng là thuần nhất[5], còn lòng thì không thấy có sinh, tử[6]? Người đó sẽ lựa ngày lên trời, cho nên mọi người tự nhiên qui phụ, chứ người đó đâu có quan tâm tới họ.

2

Thân Đồ Gia cụt một chân, cùng với Tư Sản nước Trịnh[7] theo học Bá Hôn Vô Nhân. Tử Sản bảo với Thân Đồ Gia:

- Nếu tôi ra trước thì anh ở lại một chút rồi sẽ ra sau; nếu anh ra trước thì tôi ở lại rồi ra sau.

Hôm sau, hai người cùng ngồi một phòng, chung một chiếu. Tử Sản bảo Thân Đồ Gia:

- Chúng mình đã hẹn với nhau ai ra trước thì người kia ở lại. Bây giờ tôi muốn ra trước, anh ở lại đây một chút được không? Anh thấy tôi là một vị đại thần cầm quyền mà anh không tránh tôi, bộ anh ngang hàng với viên đại thần cầm quyền ư?

Thân Đồ Gia đáp:

- Ở trong nhà thầy mà có đại thần cầm quyền nữa ư? Anh tự khoe như vậy thì chỉ tỏ rằng anh kém người khác thôi[8]. Tôi nghe nói: “Gương mà sáng thì không bị bụi đóng vào; nếu bị bụi đóng vào thì gương bị mờ. Ở với hiền nhân lâu thì không còn lầm lỗi nữa”. Nay anh học đạo của thầy, noi gương thầy[9], mà còn ăn nói như vậy, chẳng phải là lầm ư?

- Anh đã tàn tật như vậy mà còn đòi tranh hiền với vua Nghiêu. Xét hành vi của anh đi[10], không đủ cho anh phản tĩnh sao?

- Nhiều người không nhận lỗi của mình, tự cho bị chặt chân là oan; nhưng rất ít người nhận lỗi của mình mà tự cho rằng mình không đáng còn giữ hai chân. Biết rằng sự thể không làm sao khác được mà vui lòng thuận mệnh, chỉ bậc hiền đức mới được như vậy. Ai mà đi ngang qua đường bắn của ông Nghệ[11] thì thế nào cũng bị một mũi tên, may mà thoát được là người mạng tốt đấy. Nhiều người còn cả hai chân, mỉa mai tôi. Trước kia tôi nổi giận lên, nhưng từ khi lại học thầy thì bỏ được giận mà bình tĩnh lại; không biết có phải được cái hiền đức của thầy gột rửa cho tâm hồn tôi không? Tôi đã theo học thầy mười chín năm rồi, mà thầy không hề thấy tôi cụt chân. Anh và tôi lại đây đều để sửa nội tâm mà anh lại chê cái hình hài của tôi, như vậy chẳng phải là lầm ư?

Tử Sản nghe vậy, xấu hổ, đỏ mặt lên bảo:
- Thôi, bỏ chuyện đó đi, đừng nói nữa.

3

Nước Lỗ có một người tên là Thúc Sơn, một bàn chân bị chặt hết năm ngón. Anh ta khập khiễng[12] lại thăm Trọng Ni. Trọng Ni bảo:

- Vì không cẩn thận, nên bị vậy, bây giờ lại thì trễ rồi.

Người kia đáp:

- Tôi chỉ vì không có kinh nghiệm, không giữ được thân thể, nên mất mấy ngón chân. Hôm nay lại đây là muốn bảo tồn cái gì quí hơn chân kia. Mới tới tôi tưởng thầy như trời, không vật gì không che; như đất, không vật gì không chở, ngờ đâu thầy lại đáp như vậy!

Trọng Ni bảo:

- Khâu này nông nổi, thầy vô đi, có điều gì xin giảng cho tôi nghe.

Người cụt ngón chân bỏ đi, không đáp. Trọng Ni bèn bảo môn đệ:

- Các anh gắng lên nhé! Người cụt ngón chân kia còn gắng học để sửa lỗi cũ, thì lẽ nào, thân thể còn vẹn toàn như các anh lại không chịu cố sức học tập.

Người cụt ngón chân đó kể lại chuyện ấy cho Lão Đam nghe; rồi hỏi:

- Khổng Khâu chưa là bậc chí nhân ư? Sao mà dạy nhiều học trò [để cầu danh] như vậy?[13] Hình như ông ấy dùng những lời kì quái, nguỵ biện để được danh tiếng, không hiểu rằng một bậc chí nhân chỉ coi cái đó là gông, cùm mà thôi.

Lão Đam đáp:

- Sao ông không giảng cho ông ấy hiểu rằng sống với chết chỉ là một, cái khả[14] và cái bất khả thì cũng như nhau, như vậy may ra cởi được gông cùm cho ông ấy?

- Trời phạt ông ấy như vậy rồi, làm sao tôi cởi gông cùm cho ông ấy được.

4

Vua Ai Công nước Lỗ bảo Trọng Ni:

- Nước Lỗ có một người [tên là Đà] xấu như quỉ, người ta gọi nó là thằng quỉ Đà[15]. Người đàn ông nào ở chung với hắn, hễ xa hắn là nhớ. Thiếu nữ nào đã trông thấy hắn rồi thì về thưa với cha mẹ thà làm vợ bé hắn còn hơn là vợ cả một người nào khác. Số thiếu nữ đó có trên một chục.

Không hề nghe hắn xướng xuất[16] điều gì, chỉ thấy hắn phụ hoạ thôi. Hắn không có quyền vị gì để cứu mạng cho ai, cũng không có tiền cứu đói cho người khác, mà lại xấu xí làm cho mọi người phát sợ. Hắn chỉ phụ hoạ chứ không xướng xuất mà kiến thức của hắn không vượt khỏi phạm vi trong nước[17] [nghĩa là không rộng gì], ấy thế mà đàn ông đàn bà bu lại chung quanh hắn, chắc hắn phải có gì khác người. Trẫm triệu hắn tới xem, quả thực nó xấu xí phát sợ. Hắn ở với trẫm. Chưa đầy một tháng trẫm đã để ý đến hắn, chưa đầy một năm thì trẫm tin hắn. Lúc đó khuyết viên tướng quốc, trẫm giao chức đó cho hắn. Hắn thờ ơ, có vẻ như chịu nhận, lại có vẻ như muốn từ. Trẫm thấy ngượng. Sau cùng hắn nhận. Chẳng bao lâu hắn bỏ trẫm mà đi. Trẫm rầu rĩ như người mất một cái gì. Không còn hắn thì trẫm vui với ai trong nước này đây?[18] Hắn là con người ra sao?

Trọng Ni đáp:

- Có lần Khâu này đi sứ qua nước Sở, thấy cảnh này: một con heo cái mới chết; đàn con đang bú vú mẹ, bỗng chúng hoảng hốt bỏ mẹ mà chạy tứ tán, vì chúng thấy rằng mẹ không nhìn chúng nữa, có cái gì khác rồi. Chúng yêu mẹ không phải là yêu cái thân thể, mà yêu cái tinh thần làm cho hình thể sinh động.

Chôn cất kẻ tử trận không ai dùng những đồ trang sức vũ khí để trang sức quan tài. Kẻ cụt chân không thích giầy dép. Vì đối với họ những vật đó mất cái công dụng cố hữu rồi. Bọn cung nữ nào được cử vào hầu hạ vua ban đêm thì không được cắt móng tay, xỏ tai. Đàn ông nào có vợ rồi thì phục dịch ở bên ngoài, không được hầu hạ bên cạnh vua. Những người thân thể được toàn vẹn còn được trọng như vậy huống hồ là những người tâm hồn được toàn vẹn.

Tên Đà xấu xí như quỉ kia không nói gì mà được nhà vua tin cậy, không có công lao gì mà được nhà vua quí mến, giao việc nước cho hắn mà sợ hắn từ chối, như vậy tài của hắn phải toàn vẹn mà đức của hắn không hiện ra nên người ta không thấy.

Ai Công hỏi:

- Thế nào là tài toàn vẹn?

Trọng Ni đáp:

- Tử sinh, đắc thất, cùng đạt, giàu nghèo, hiền ngu, chê khen, đói khát, nóng lạnh, đó là những biến hoá của sự vật, sự chuyển vận của luật trời như ngày rồi đến đêm, mả không ai biết gốc ở đâu. Ai đạt được lẽ ấy, thì tâm thần không bị hỗn loạn, ngày đêm giữ được cái khí thuần hoà, ung dung, vui vẻ như khí xuân mà thích ứng với mọi sự biến hoá. Như vậy có cái tài toàn vẹn.

- Thế nào là đức không hiện ra?

- Nước thật yên lặng rồi thì mực nước bình[19], vì vậy mà nó có thể làm chuẩn tắc cho mọi việc; nó giữ được mực của nó ở trong mà không tràn ra ngoài. Có đức tức giữ được sự điều hoà hoàn toàn. Đức không hiện ra, nên không ai rời mình được. 

Sau đó, một hôm Ai Công hỏi [một môn đệ của Trọng Ni là] Mẫn Tử Khiêm:

- Khi mới lên ngôi, trẫm giữ kỉ cương mà dắt dân, lo cho đời sống của dân, tự cho như vậy là thông đạt lắm rồi. Nay nghe lời của bậc chí nhân [tức Trọng Ni], trẫm ngại rằng mình không thực có đức, đã khinh suất mà làm hại nước. Trẫm với Khổng Khâu không phải là vua tôi, chỉ là bạn bè lấy đức giao du với nhau thôi.

5

Một người gù, chân quẹo, không có môi, lại thuyết vua Linh Công nước Vệ. Nhà vua thích quá tới nỗi thấy người nào bình thường cũng chê là cổ ngẳng. Một người có một cái bướu lớn như cái hủ ở cổ lại thuyết vua Hoàn Công nước Tề, nhà vua thích quá tới nỗi thấy người nào bình thường cũng chê là cổ ngẳng.

Vậy có đức lớn thì có thể làm cho người khác quên hình thể xấu xa kì quái của mình đi. Người nào không quên cái đáng quên [tức hình thể], mà quên cái không đáng quên [tức cái đức], người đó mới thực là quên[20] [nghĩa là không nhớ cái gì đáng khinh, cái gì đáng quí].

Cho nên thánh nhân tiêu giao ở chỗ hư không, coi trí tuệ là mầm thừa[21] [gây tư lự], lễ tín là thứ keo [câu thúc người ta], đức huệ là thứ tiếp dẫn, công nghệ cũng (đáng khinh) như thương mại[22]. Thánh nhân không mưu tính cái gì, đâu cần tới trí tuệ; không đẽo gọt cái gì, đâu cần tới keo[23]? Không mất cái gì đâu cần phải tiếp dẫn[24]? Không chế tạo cái gì, đâu cần đến thương mại? Bốn đức đó [không dùng trí tuệ, không dùng lễ tín, không dùng đức huệ, không chế tạo] của thánh nhân gọi là thức ăn của trời, nghĩa là thánh nhân được trời nuôi. Đã được trời nuôi, thì còn cần gì đến người nữa? Tuy có hình thể con người mà không có tình cảm con người. Vì có hình thể con người nên sống chung với con người, vì không có tình cảm con người nên không bị quan niệm thị phi làm bận lòng. Thánh nhân nhỏ xíu vì thuộc về loài người, nhưng lại vĩ đại vì đồng thể [hoặc hoà hợp] với trời.

6

Huệ tử hỏi Trang tử:

- Con người vốn vô tình sao?

Trang tử đáp:

- Phải.

- Người mà vô tình thì sao gọi là người được?

- Đạo[25] cho nó dong mạo ấy, trời cho nó hình thể ấy, thì sao lại không gọi là người được?

Huệ tử lại hỏi:

- Nhưng đã là người thì làm sao  không có tình cho được?

Trang tử đáp:

- Cái ông gọi là tình đó, tôi không gọi nó là tình[26]. Tôi bảo vô tình là thế này: không để yêu, ghét làm thương tổn thiên tính, cứ theo luật tự nhiên, đừng làm gì thêm cho đời sống cả[27].

- Đừng làm gì thêm thì làm sao bảo tồn được thân thể?

- Đạo cho ta dong mạo ấy, trời cho ta hình thể ấy, thì đừng để cho sự yêu, ghét làm thương tổn thiên tính. Hiện nay ông hướng tinh thần vào ngoại vật làm lao khổ tinh lực ông, dựa vào cây mà biện luận, gục vào cái án mà ngủ[28]. Trời cho ông hình hài mà ông dùng nó để phiếm luận về “cứng và trắng”[29].

NHẬN ĐỊNH

Sáu bài thì năm bài đầu dùng những nhân vật tưởng tượng, kì quái: cụt một chân, cụt năm ngón chân, gù lưng, không môi… mà cảm hoá được nhiều người, để tỏ rằng thân thể không đáng kể gì cả, tinh thần mới quan trọng. Người nào có đức thật cao thì chẳng làm gì cả, cũng được người khác quí mến, quên hình dáng xấu xa ghê tởm của mình đi nữa.

Cái đức đó là đức tự nhiên, nghĩa là giữ thiên chân, theo thiên tính, không bận tâm đến sinh tử, thị phi, đắc thất, đói khát, nóng lạnh… vì tất cả những cái này chỉ là những biến hoá của sự vật, sự chuyển vận của luật trời (bài 4), coi thân thể mình như chỗ cư ngụ tạm (mất một chân cũng như mất một cục đất), coi thanh sắc là ảo tưởng; trút bỏ hết thế tình, không dùng đến trí tuệ, lễ tín, đức huệ, cũng không chế tạo, sản xuất một cái gì (bài 5) (như vậy là được trời nuôi), mà cũng không nên biện luận, dựng một học thuyết nào cả (bài 6).

Trang tử dùng hai hình ảnh để tả cái tâm của bậc chí đức đó: trong bài 2 ông coi nó như một tấm gương sáng, bụi không đóng vào được; trong bài 4, ông bảo nó như một làn nước phẳng lặng, mực nước bình rồi mới làm tiêu chuẩn cho mọi việc, như ống thuỷ chuẩn ta dùng coi xem chỗ nào cao, chỗ nào thấp.

Ai đạt được trình độ đó thì tuy có hình thể con người mà không có tình cảm con người (vì vậy mà gọi là vô tình), và tuy nhỏ xíu vì vẫn thuộc về loài người, nhưng lại vĩ đại như trời vì đồng thể với trời.

Chú thích:
[1] Nguyên văn: độc nhược nhi hà? Có sách dịch là: lòng con người đó chuyên nhất ra sao?
[2] Tức cái Đạo.
[3] Tức cái Đạo.
[4] Sách in là bị diệt, tôi tạm sửa lại là dị biệt (chữ Hán là dị 異, cả câu là “Tự kỳ dị giả thị chi, can đảm Sở Việt” – [Goldfish].  
[5] Nguyên văn: nhất trí chi sở tri. K.K.h. dịch là: hợp nhất trí tuệ của mình với đối tượng của nó.
[6] L.K.h. dịch là: người đó bất tử.
[7] Tức Công Tôn Kiều (Tử Sản là tên tự) là một đại phu có tài đức của nước Trịnh vào thời Xuân Thu.
[8] L.K.h. dịch là: anh khinh bạn học của mình.
[9] Có sách dịch là: anh lại đây học thầy, tôn sùng thầy.
[10] Ám chỉ rằng vì làm bậy mà bị tội chặt mất một chân.
[11] Tức Hậu Nghệ, một người đời Hạ (có sách bảo là đời Đường Nghiêu), bắn rất giỏi.
[12] Nguyên văn: chủng là đi bằng gót chân.
[13] Nguyên văn: bỉ hà tân tân dĩ học tử vi? Có sách dịch là: Sao ông ấy hâm hở học ông như vậy? Lại có sách dịch: Sao ông ấy đi đâu cũng tự khoe là một học giả như vậy?
[14] Khả là cái nên làm, hoặc cái có thể được.
[15] Nguyên văn: Ai Đài Đà. Có sách cho Ai Đài là tên họ, có sách bảo ai đài là rất xấu xí.
[16] L.K.h. dịch là cất tiếng ca hát.
[17] Nguyên văn: tri bất xuất hồ tứ vực; có sách giảng là danh tiếng không ra khỏi nước.
[18] Có sách dịch là: vui cái ngôi vua này với ai?
[19] Tức thăng bằng.
[20] Nguyên văn: nhân bất vong kì sở vong, nhi vong kì sở bất vong, thử vị thành vong. Có người giảng là: Người nào quên thân thể mình là không quên gì cả, chỉ người nào không quên thân thể mà quên cái đức, thì mới thực là quên. Có sách giảng là: người nào không quên thân thể mình mà quên cái đức của mình mới thực là quên mình. L.K.h. dịch là: người nào làm cho người khác quên sự hoàn toàn của mình, người đó đạt được sự toàn phúc.
[21] Hoặc cái mầm ác, vì thời Trang tử có lẽ chưa phân biệt chữ nghiệt có chữ tử với chữ nghiệt có chữ mộc ở dưới; hai chữ ấy dùng thay nhau.
[22] Vì chế tạo thì phải bán. Mà thời đó người ta khinh thương mại.
[23] Sách in nhầm là kéo. Keo: chữ Hán là giao 膠 (chất dính) – [Goldfish].
[24] Tiếp dẫn: chữ Hán là án 按, Nguyễn Duy Cần dịch là tiếp nối.
[25] Tức âm dương.
[26] Nguyên văn: Thị phi ngô sở vị tình dã. L.K.h. dịch là: quan niện thị phi đó là tình.
[27] Nguyên văn: bất ích sinh. L.K.h. dịch là: đừng lạm dụng, lợi dụng đời sống. H.C.H. dịch là: đừng làm gì để thêm vào cái bản tính tự nhiên. Tôi cho rằng ba chữ đó có nghĩa là: (cứ theo luật tự nhiên) đừng làm gì khác, ví dụ đừng đặt ra lễ nghĩa, đau ốm cứ nghỉ ngơi, để cơ thể tự nhiên chống với bệnh, hoặc đừng lập ra thuyết này thuyết khác.
[28] Nguyên văn: Cảo ngô nghĩa là cây ngô đồng khô. Hầu hết các sách tôi có đều giảng là cái kỉ, tức cái án (làm bằng gỗ ngô đồng?).
[29] Thuyết tách lìa “trắng và cứng” (li kiện bạch) này của Công Tôn Long. Như nhìn phiến đá trắng, lúc thì ta thấy nó trắng mà không thấy nó cứng; lúc thì thấy nó cứng mà không thấy nó trắng, thấy cái nọ thì không thấy cái kia, như vậy là cái nọ lìa cái kia, cái nọ không chứa cái kia. (Coi Đại cương triết học Trung quốc I, trang 410 – Cảo Thơm – 1965, Sài Gòn).
hết: Chương V , xem tiếp: Chương VI



德充符


第05章 德充符


鲁有兀者王骀,从之游者与仲尼相若。常季问于仲尼曰:“王骀,兀者也,从之游者与夫子中分鲁。立不教,坐不议。虚而往,实而归。固有不言之教,无形而心成者邪?是何人也?”仲尼曰:“夫子,圣人也,丘也直后而未往耳!丘将以为师,而况不若丘者乎!奚假鲁国,丘将引天下而与从之。”
常季曰:“彼兀者也,而王先生,其与庸亦远矣。若然者,其用心也,独若之何?”仲尼曰:“死生亦大矣,而不得与之变;虽天地覆坠,亦将不与之遗;审乎无假而不与物迁,命物之化而守其宗也。”
常季曰:“何谓也?”仲尼曰:“自其异者视之,肝胆楚越也;自其同者视之,万物皆一也。夫若然者,且不知耳目之所宜,而游心乎德之和。物视其所一而不见其所丧,视丧其足犹遗土也。”
常季曰:“彼为己,以其知得其心,以其心得其常心。物何为最之哉?”仲尼曰:“人莫鉴于流水而鉴于止水。唯止能止众止。受命于地,唯松柏独也正,在冬夏青青;受命于天,唯尧、舜独也正,在万物之首。幸能正生,以正众生。夫保始之徵,不惧之实,勇士一人,雄入于九军。将求名而能自要者而犹若是,而况官天地、府万物、直寓六骸、象耳目、一知之所知而心未尝死者乎!彼且择日而登假,人则从是也。彼且何肯以物为事乎!”
申徒嘉,兀者也,而与郑子产同师于伯昏无人。子产谓申徒嘉曰:“我先出则子止,子先出则我止。”其明日,又与合堂同席而坐。子产谓申徒嘉曰:“我先出则子止,子先出则我止。今我将出,子可以止乎?其未邪?且子见执政而不违,子齐执政乎?”申徒嘉曰:“先生之门固有执政焉如此哉?子而说子之执政而后人者也。闻之曰:‘鉴明则尘垢不止,止则不明也。久与贤人处则无过。’今子之所取大者,先生也,而犹出言若是,不亦过乎!”
子产曰:“子既若是矣,犹与尧争善。计子之德,不足以自反邪?”申徒嘉曰:“自状其过以不当亡者众;不状其过以不当存者寡。知不可奈何而安之若命,唯有德者能之。游于羿之彀中。中央者,中地也;然而不中者,命也。人以其全足笑吾不全足者众矣,我怫然而怒,而适先生之所,则废然而反。不知先生之洗我以善邪?吾之自寐邪?吾与夫子游十九年,而未尝知吾兀者也。今子与我游于形骸之内,而子索我于形骸之外,不亦过乎!”子产蹴然改容更貌曰:“子无乃称!”
鲁有兀者叔山无趾,踵见仲尼。仲尼曰:“子不谨,前既犯患若是矣。虽今来,何及矣!”无趾曰:“吾唯不知务而轻用吾身,吾是以亡足。今吾来也,犹有尊足者存,吾是以务全之也。夫天无不覆,地无不载,吾以夫子为天地,安知夫子之犹若是也!”孔子曰:“丘则陋矣!夫子胡不入乎?请讲以所闻。”无趾出。孔子曰:“弟子勉之!夫无趾,兀者也,犹务学以复补前行之恶,而况全德之人乎!”
无趾语老聃曰:“孔丘之于至人,其未邪?彼何宾宾以学子为?彼且以蕲以諔诡幻怪之名闻,不知至人之以是为己桎梏邪?”老聃曰:“胡不直使彼以死生为一条,以可不可为一贯者,解其桎梏,其可乎?”无趾曰:“天刑之,安可解!”
鲁哀公问于仲尼曰:“卫有恶人焉,曰哀骀它。丈夫与之处者,思而不能去也;妇人见之,请于父母曰:‘与为人妻,宁为夫子妾’者,数十而未止也。未尝有闻其唱者也,常和人而已矣。无君人之位以济乎人之死,无聚禄以望人之腹,又以恶骇天下,和而不唱,知不出乎四域,且而雌雄合乎前,是必有异乎人者也。寡人召而观之,果以恶骇天下。与寡人处,不至以月数,而寡人有意乎其为人也;不至乎期年,而寡人信之。国无宰,而寡人传国焉。闷然而后应,氾而若辞。寡人丑乎,卒授之国。无几何也,去寡人而行。寡人恤焉若有亡也,若无与乐是国也。是何人者也!”
仲尼曰:“丘也尝使于楚矣,适见豚子食于其死母者。少焉眴若,皆弃之而走。不见己焉尔,不得其类焉尔。所爱其母者,非爱其形也,爱使其形者也。战而死者,其人之葬也不以翣资;刖者之屡,无为爱之。皆无其本矣。为天子之诸御:不爪翦,不穿耳;取妻者止于外,不得复使。形全犹足以为尔,而况全德之人乎!今哀骀它未言而信,无功而亲,使人授己国,唯恐其不受也,是必才全而德不形者也。”
哀公曰:“何谓才全?”仲尼曰:“死生、存亡、穷达、贫富、贤与不肖、毁誉、饥渴、寒暑,是事之变、命之行也。日夜相代乎前,而知不能规乎其始者也。故不足以滑和,不可入于灵府。使之和豫,通而不失于兑。使日夜无隙,而与物为春,是接而生时于心者也。是之谓才全。”“何谓德不形?”曰:“平者,水停之盛也。其可以为法也,内保之而外不荡也。德者,成和之修也。德不形者,物不能离也。”
哀公异日以告闵子曰:“始也吾以南面而君天下,执民之纪而忧其死,吾自以为至通矣。今吾闻至人之言,恐吾无其实,轻用吾身而亡吾国。吾与孔丘非君臣也,德友而已矣!”
闉跂支离无脣说卫灵公,灵公说之,而视全人:其脰肩肩。甕㼜(音ang4)大瘿说齐桓公,桓公说之,而视全人:其脰肩肩。故德有所长而形有所忘。人不忘其所忘而忘其所不忘,此谓诚忘。
故圣人有所游,而知为孽,约为胶,德为接,工为商。圣人不谋,恶用知?不斵,恶用胶?无丧,恶用德?不货,恶用商?四者,天鬻也。天鬻者,天食也。既受食于天,又恶用人!
有人之形,无人之情。有人之形,故群于人;无人之情,故是非不得于身。眇乎小哉,所以属于人也;謷乎大哉,独成其天。
惠子谓庄子曰:“人故无情乎?”庄子曰:“然。”惠子曰:“人而无情,何以谓之人?”庄子曰:“道与之貌,天与之形,恶得不谓之人?”惠子曰:“既谓之人,恶得无情?”庄子曰:“是非吾所谓情也。吾所谓无情者,言人之不以好恶内伤其身,常因自然而不益生也。”惠子曰:“不益生,何以有其身?”庄子曰:“道与之貌,天与之形,无以好恶内伤其身。今子外乎子之神,劳乎子之精,倚树而吟,据槁梧而瞑。天选子之形,子以坚白鸣。”

No comments: